Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:58 03/01/2010
PHẬT BÁO MỘNG
Một tượng Phật đáng lẽ đặt ở một nơi trong chùa nọ, nhưng từ sau khi một trận cuồng phong mưa to gió lớn làm hư hại chùa thì tượng Phật lớn ấy bị phơi bày ra để cho mưa gió tàn phá...
Về sau, có một pháp sư muốn quyên tiền để xây dựng lại ngôi chùa.
Một đêm nọ, tượng Phật báo mộng cho ông ta, nói: “Ngôi chùa là một nhà tù không phải là một cái nhà, chi bằng cứ để ta tiếp tục phơi bày ra trong hiện trường cuộc sống, như thế ta mới quy thuộc về đất.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Có những linh mục đi đến họ đạo nào là làm mới nhà thờ ở đó, dù cho nhà thờ giáo xứ ấy còn sử dụng được cả mấy chục năm, nhưng “tầm nhìn” của các ngài xa hơn phải xây dựng lại kiên cố đến vài trăm năm, thế là các ngài vay nợ bên này thiếu nợ bên kia, lại nhờ người này xin tiền dùm, người kia ủng hộ tiền bạc để hoàn thành công trình trăm năm; thế là các ngài đem sự nghi kỵ xầm xì của ma quỷ đặt vào tâm hồn các tín hữu của mình, và đem Chúa từ trong tâm hồn của họ quăng ra bên ngoài, mặc cho mưa gió nghi kị, tham lam, hống hách, kiêu ngạo của một số người “ăn theo” cha sở.v.v...
Linh mục nào cũng luôn giảng Lời Chúa và luôn hiểu lời giảng này của thánh Phao-lô tông đồ: tâm hồn anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Đền thờ của Chúa Thánh Thần ngoài việc dùng ơn Chúa và các bí tích để xây dựng, thì thực tế và không kém phần quan trọng, đó chính là xây dựng bằng chính cuộc sống gương mẫu của các cha sở và cha phó, bởi vì:
- Giáo dân không muốn đi lễ là vì cha sở kiêu ngạo.
- Giáo dân không muốn đi rước lễ là vì cha sở không đạo đức.
- Giáo dân không muốn đến nhà thờ vì cha sở quá xa cách với họ.
- Giáo dân nguội lạnh vì cha sở không có lửa yêu Chúa yêu người thật lòng.
- Giáo dân thờ ơ với tất cả những gì thuộc về bí tích là vì cha sở không coi trọng các bí tích của Chúa Giê-su.
Xây nhà thờ mới để tượng Chúa đặt vào trong nhà thờ mới ấy là nguyện vọng của con người, nhưng mong ước của Chúa Giê-su là các cha sở phải xây dựng đền thờ của Ngài nơi tâm hồn của các tín hữu bằng chính cuộc sống gương mẫu của chính mình.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Một tượng Phật đáng lẽ đặt ở một nơi trong chùa nọ, nhưng từ sau khi một trận cuồng phong mưa to gió lớn làm hư hại chùa thì tượng Phật lớn ấy bị phơi bày ra để cho mưa gió tàn phá...
Về sau, có một pháp sư muốn quyên tiền để xây dựng lại ngôi chùa.
Một đêm nọ, tượng Phật báo mộng cho ông ta, nói: “Ngôi chùa là một nhà tù không phải là một cái nhà, chi bằng cứ để ta tiếp tục phơi bày ra trong hiện trường cuộc sống, như thế ta mới quy thuộc về đất.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Có những linh mục đi đến họ đạo nào là làm mới nhà thờ ở đó, dù cho nhà thờ giáo xứ ấy còn sử dụng được cả mấy chục năm, nhưng “tầm nhìn” của các ngài xa hơn phải xây dựng lại kiên cố đến vài trăm năm, thế là các ngài vay nợ bên này thiếu nợ bên kia, lại nhờ người này xin tiền dùm, người kia ủng hộ tiền bạc để hoàn thành công trình trăm năm; thế là các ngài đem sự nghi kỵ xầm xì của ma quỷ đặt vào tâm hồn các tín hữu của mình, và đem Chúa từ trong tâm hồn của họ quăng ra bên ngoài, mặc cho mưa gió nghi kị, tham lam, hống hách, kiêu ngạo của một số người “ăn theo” cha sở.v.v...
Linh mục nào cũng luôn giảng Lời Chúa và luôn hiểu lời giảng này của thánh Phao-lô tông đồ: tâm hồn anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Đền thờ của Chúa Thánh Thần ngoài việc dùng ơn Chúa và các bí tích để xây dựng, thì thực tế và không kém phần quan trọng, đó chính là xây dựng bằng chính cuộc sống gương mẫu của các cha sở và cha phó, bởi vì:
- Giáo dân không muốn đi lễ là vì cha sở kiêu ngạo.
- Giáo dân không muốn đi rước lễ là vì cha sở không đạo đức.
- Giáo dân không muốn đến nhà thờ vì cha sở quá xa cách với họ.
- Giáo dân nguội lạnh vì cha sở không có lửa yêu Chúa yêu người thật lòng.
- Giáo dân thờ ơ với tất cả những gì thuộc về bí tích là vì cha sở không coi trọng các bí tích của Chúa Giê-su.
Xây nhà thờ mới để tượng Chúa đặt vào trong nhà thờ mới ấy là nguyện vọng của con người, nhưng mong ước của Chúa Giê-su là các cha sở phải xây dựng đền thờ của Ngài nơi tâm hồn của các tín hữu bằng chính cuộc sống gương mẫu của chính mình.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:00 03/01/2010
N2T |
18. Hành vi thánh thiện là cách có thể làm cho tâm hồn bình an, lương tâm khiết tịnh (sạch sẽ) là cách có thể làm cho tâm hồn cậy trông vào Thiên Chúa.
(sách Gương Chúa Giê-su)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:01 03/01/2010
N2T |
334. Cuộc sống ngoài mộng ảo ra, thì cũng tràn đầy hiện thực.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bí thư ĐTC đã đến thăm người phụ nữ làm ĐGH té ngã trong đêm Giáng Sinh
Nguyễn Long Thao
12:18 03/01/2010
ROME 3/ 01/10 Thông tấn xã AFP đưa tin bí thư của ĐTC Benedict XVI đã đến bệnh viện tâm thần ở Roma thăm người phục nữ đã làm ĐGH té ngã trong trong đền thờ Thánh Phêrô khi ngài từ cuối nhà thờ tiến lên cung thánh để cử hành thánh lễ đêm Giáng Sinh
Phát ngôn viên Tòa Thánh, LM Federico Lombardi, nói ĐGM Georg Gaenswein, thư ký riêng của ĐTC, đã đến bệnh viện tâm thần thăm cô Susana Maiolo. Cô là người mắc bệnh tâm thần và hiện đang được điều trị tại một bệnh viện bên ngoài thành phố Roma.
Bản tin của nhật báo Il Giornale, phát hành ở Ý, nói Đức Giám Mục Gaenswein nói với cô Susana Maiolo rằng Đức Thánh Cha đã tha thứ cho cô và tặng cô một cỗ tràng hạt.
Cha Lombardi cũng cho biết thêm trong mấy ngày qua ĐGM Georg Gaenswein đã kín đáo xếp đặt đến thăm cô Maiolo và cho biết Đức Thánh Cha rất quan tâm đến hoàn cảnh của cô. Tòa án Vatican đang thụ lý vụ này nhưng một nguồn tin tại Vatican được cơ quan thông tấn Ansa trích dẫn, thì hầu như chắc tòa sẽ miến tố cô Maiolo vì cô mắc bệnh tâm thần.
Cô Maiolo nói với bác sĩ chữa trị cô rằng cô không có ý định gây thương tích cho ĐGH nhưng cô muốn Ngài giúp đỡ kẻ yếu thế.
Bản tin của nhật báo Il Giornale, phát hành ở Ý, nói Đức Giám Mục Gaenswein nói với cô Susana Maiolo rằng Đức Thánh Cha đã tha thứ cho cô và tặng cô một cỗ tràng hạt.
Cha Lombardi cũng cho biết thêm trong mấy ngày qua ĐGM Georg Gaenswein đã kín đáo xếp đặt đến thăm cô Maiolo và cho biết Đức Thánh Cha rất quan tâm đến hoàn cảnh của cô. Tòa án Vatican đang thụ lý vụ này nhưng một nguồn tin tại Vatican được cơ quan thông tấn Ansa trích dẫn, thì hầu như chắc tòa sẽ miến tố cô Maiolo vì cô mắc bệnh tâm thần.
Cô Maiolo nói với bác sĩ chữa trị cô rằng cô không có ý định gây thương tích cho ĐGH nhưng cô muốn Ngài giúp đỡ kẻ yếu thế.
ĐTC: ''Thiên Chúa muốn đồng hành với con người và mời gọi con người hợp tác''
Bình Hòa
15:24 03/01/2010
Kinh Truyền tin chúa nhựt 2-1-2010
Kể từ cuộc cải tổ lịch phụng vụ sau công đồng Vaticanô II, lễ Hiển Linh có thể được cử hành vào hai ngày khác nhau: lịch phổ quát mừng vào ngày 6 tháng giêng; còn những nơi mà ngày 6 tháng giêng không phải là lễ nghỉ thì được mừng vào chúa nhựt sau ngày 1 tháng giêng. Vì thế chúa nhựt hôm qua là lễ Hiển Linh tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam; còn tại Vatican, Italia lại là chúa nhựt thứ haí mùa Giáng sinh. Bài suy niệm của đức thánh cha trưa chúa nhựt hôm qua dựa trên ba bài đọc Sách Thánh nói về ý nghĩa biến cố Thiên Chúa nhập thể. Tuy nhiên tư tưởng chính cũng có thể áp dụng cho những nơi hôm qua mừng lễ Hiển linh, xét vì xoay quanh nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta trước thềm năm mới: nó không dựa trên những dự đoán hão huyền, nhưng ở trên tình yêu của Thiên Chúa muốn đồng hành với con người và mời gọi con người hợp tác. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay, thứ hai sau lễ Giáng sinh và thứ nhất trong năm mới, tôi hân hoan được lặp lại lời cầu chúc mọi sự tốt lành trong Chúa. Các vấn đề không có thiếu, ở trong Giáo hội và trên thế giới, cũng như trong đời sống hằng ngày của mỗi gia đình. Nhưng, tạ ơn Chúa, niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên các lời tiên đoán hão huyền hoặc trên các dự báo kinh tế cho dù quan trọng. Niềm hy vọng của chúng ta đặt ở nơi Thiên Chúa, chứ không phải ở trên một thứ tâm tình tín ngưỡng khái quát hoặc trên một thứ số kiếp tất định ngụy trang dưới lòng tin. Chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng mà nơi đức Giêsu Kitô đã bộc lộ cách vĩnh viễn ý định muốn cư ngụ giữa loài người, muốn chia sẻ lịch sử nhân loại, để dẫn đưa tất cả về Vương quốc tình yêu và sự sống của Người. Chính niềm hy vọng vĩ đại này nâng đỡ và đôi khi điều chỉnh những hy vọng phàm trần của chúng ta.
Chân lý mặc khải vừa nói được trình bày trong cả ba bài đọc Sách thánh của thánh lễ hôm nay với nội dung phong phú. Bài thứ nhất trích từ chương 24 sách Huấn ca, bài thứ hai từ thánh thi mở đầu thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô, và bài thứ ba là tự ngôn Tin mừng thánh Gioan. Các bản văn này khẳng định rằng Thiên Chúa không những là Đấng Tạo dựng trời đất – một điều cũng gặp thấy nơi các tôn giáo khác – nhưng còn là Cha, “Đấng đã tuyển chọn chúng ta ngay trước khi tạo thành vũ trụ. . tiền định cho chúng ta được trở nên những nghĩa tử của mình” (Ep 1,4-5), và vì thế đã đi tới chỗ không thể nào mường tượng nổi là làm người. “Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và đến cư ngự ở giữa chúng ta” (Ga 1,1). Mầu nhiệm Nhập thể của Lời Chúa đã được chuẩn bị trong Cựu ước, cách riêng ở chỗ Đức Khôn ngoan thiên linh được đồng hóa với Luật ông Mosê. Thật vậy, Đức Khôn ngoan đã quả quyết rằng: “Tạo hoá đã khiến tôi cắm lều và nói với tôi rằng: hãy cắm lều ở nhà Giacob và hãy lấy dân Israel làm cơ nghiệp” (Hc 24,8). Nơi đức Giêsu Kitô, Luật của Chúa đã trở thành chứng tá sống động, được viết trong tâm khảm của một người, nơi mà, do tác động của Thánh Linh, tất cả thiên tính sung mãn đã cư ngụ (xc Cl 2,9).
Các bạn thân mến, đó là lý do đích thực của niềm hy vọng của nhân loại: lịch sử mang một ý nghĩa bởi vì được “cư ngụ” bởi Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, kế hoạch của Chúa không thành tựu cách máy móc, bởi vì nó là một kế hoạch của tình yêu, và tình yêu phát sinh tự do và đòi hỏi tự do. Vương quốc của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến, và thực sự là đã hiện diện trong lịch sử, và nhờ việc đức Kitô đến, nó đã thắng lực lượng tiêu cực của sự dữ. Nhưng mỗi người có trách nhiệm đón nhận vương quốc của Chúa vào cuộc đời mình, từng ngày một. Vì vậy, năm 2010 sẽ nhiều hay ít tuỳ theo mỗi người chúng ta, trong cương vị của mình, biết hợp tác với hồng ân Chúa. Vì thế chúng ta hãy hướng lên Đức Trinh nữ Maria, để học nơi Người tâm tình đó. ConThiên Chúa đã mặc lấy xác phàm nơi Mẹ với sự chấp thuận của Người. Mỗi lần Chúa muốn tiến thêm một bước nữa, cùng với chúng ta, hướng đến “đất hứa”, thì trước hết Chúa gõ cửa lòng ta, ra như chờ đợi tiếng đáp “Vâng”, trong những sự lựa chọn nhỏ bé hoặc lớn lao. Xin Mẹ Maria giúp đỡ chúng ta biết luôn luôn đón nhận ý Chúa, với lòng khiêm tốn và can đảm, ngõ hầu ngay cả các thử thách và đau khổ của cuộc sống cũng góp phần vào việc thúc đẩy Vương quốc công lý hoà bình của Chúa mau đến.
Sau phép lành Toà thánh, trong lời chào bằng tiếng Pháp, Đức Thánh Cha nói rằng nhiều nơi mừng lễ Hiển linh, Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy cảnh giác để nhận ra những dấu hiệu mà Chúa tỏ ra sự hiện diện của ngài trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới.
Kể từ cuộc cải tổ lịch phụng vụ sau công đồng Vaticanô II, lễ Hiển Linh có thể được cử hành vào hai ngày khác nhau: lịch phổ quát mừng vào ngày 6 tháng giêng; còn những nơi mà ngày 6 tháng giêng không phải là lễ nghỉ thì được mừng vào chúa nhựt sau ngày 1 tháng giêng. Vì thế chúa nhựt hôm qua là lễ Hiển Linh tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam; còn tại Vatican, Italia lại là chúa nhựt thứ haí mùa Giáng sinh. Bài suy niệm của đức thánh cha trưa chúa nhựt hôm qua dựa trên ba bài đọc Sách Thánh nói về ý nghĩa biến cố Thiên Chúa nhập thể. Tuy nhiên tư tưởng chính cũng có thể áp dụng cho những nơi hôm qua mừng lễ Hiển linh, xét vì xoay quanh nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta trước thềm năm mới: nó không dựa trên những dự đoán hão huyền, nhưng ở trên tình yêu của Thiên Chúa muốn đồng hành với con người và mời gọi con người hợp tác. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay, thứ hai sau lễ Giáng sinh và thứ nhất trong năm mới, tôi hân hoan được lặp lại lời cầu chúc mọi sự tốt lành trong Chúa. Các vấn đề không có thiếu, ở trong Giáo hội và trên thế giới, cũng như trong đời sống hằng ngày của mỗi gia đình. Nhưng, tạ ơn Chúa, niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên các lời tiên đoán hão huyền hoặc trên các dự báo kinh tế cho dù quan trọng. Niềm hy vọng của chúng ta đặt ở nơi Thiên Chúa, chứ không phải ở trên một thứ tâm tình tín ngưỡng khái quát hoặc trên một thứ số kiếp tất định ngụy trang dưới lòng tin. Chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng mà nơi đức Giêsu Kitô đã bộc lộ cách vĩnh viễn ý định muốn cư ngụ giữa loài người, muốn chia sẻ lịch sử nhân loại, để dẫn đưa tất cả về Vương quốc tình yêu và sự sống của Người. Chính niềm hy vọng vĩ đại này nâng đỡ và đôi khi điều chỉnh những hy vọng phàm trần của chúng ta.
Chân lý mặc khải vừa nói được trình bày trong cả ba bài đọc Sách thánh của thánh lễ hôm nay với nội dung phong phú. Bài thứ nhất trích từ chương 24 sách Huấn ca, bài thứ hai từ thánh thi mở đầu thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô, và bài thứ ba là tự ngôn Tin mừng thánh Gioan. Các bản văn này khẳng định rằng Thiên Chúa không những là Đấng Tạo dựng trời đất – một điều cũng gặp thấy nơi các tôn giáo khác – nhưng còn là Cha, “Đấng đã tuyển chọn chúng ta ngay trước khi tạo thành vũ trụ. . tiền định cho chúng ta được trở nên những nghĩa tử của mình” (Ep 1,4-5), và vì thế đã đi tới chỗ không thể nào mường tượng nổi là làm người. “Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và đến cư ngự ở giữa chúng ta” (Ga 1,1). Mầu nhiệm Nhập thể của Lời Chúa đã được chuẩn bị trong Cựu ước, cách riêng ở chỗ Đức Khôn ngoan thiên linh được đồng hóa với Luật ông Mosê. Thật vậy, Đức Khôn ngoan đã quả quyết rằng: “Tạo hoá đã khiến tôi cắm lều và nói với tôi rằng: hãy cắm lều ở nhà Giacob và hãy lấy dân Israel làm cơ nghiệp” (Hc 24,8). Nơi đức Giêsu Kitô, Luật của Chúa đã trở thành chứng tá sống động, được viết trong tâm khảm của một người, nơi mà, do tác động của Thánh Linh, tất cả thiên tính sung mãn đã cư ngụ (xc Cl 2,9).
Các bạn thân mến, đó là lý do đích thực của niềm hy vọng của nhân loại: lịch sử mang một ý nghĩa bởi vì được “cư ngụ” bởi Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, kế hoạch của Chúa không thành tựu cách máy móc, bởi vì nó là một kế hoạch của tình yêu, và tình yêu phát sinh tự do và đòi hỏi tự do. Vương quốc của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến, và thực sự là đã hiện diện trong lịch sử, và nhờ việc đức Kitô đến, nó đã thắng lực lượng tiêu cực của sự dữ. Nhưng mỗi người có trách nhiệm đón nhận vương quốc của Chúa vào cuộc đời mình, từng ngày một. Vì vậy, năm 2010 sẽ nhiều hay ít tuỳ theo mỗi người chúng ta, trong cương vị của mình, biết hợp tác với hồng ân Chúa. Vì thế chúng ta hãy hướng lên Đức Trinh nữ Maria, để học nơi Người tâm tình đó. ConThiên Chúa đã mặc lấy xác phàm nơi Mẹ với sự chấp thuận của Người. Mỗi lần Chúa muốn tiến thêm một bước nữa, cùng với chúng ta, hướng đến “đất hứa”, thì trước hết Chúa gõ cửa lòng ta, ra như chờ đợi tiếng đáp “Vâng”, trong những sự lựa chọn nhỏ bé hoặc lớn lao. Xin Mẹ Maria giúp đỡ chúng ta biết luôn luôn đón nhận ý Chúa, với lòng khiêm tốn và can đảm, ngõ hầu ngay cả các thử thách và đau khổ của cuộc sống cũng góp phần vào việc thúc đẩy Vương quốc công lý hoà bình của Chúa mau đến.
Sau phép lành Toà thánh, trong lời chào bằng tiếng Pháp, Đức Thánh Cha nói rằng nhiều nơi mừng lễ Hiển linh, Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy cảnh giác để nhận ra những dấu hiệu mà Chúa tỏ ra sự hiện diện của ngài trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới.
Montana là tiểu bang thứ ba cho phép an lạc tử (euthanasia)
Bùi Hữu Thư
20:39 03/01/2010
Helena, Montana, (Zenit.org).- Tối cao pháp viện Montana đã phán quyết ngày thứ Năm vừa qua là không có đạo luật nào của tiểu bang ngăn cấm các bác sĩ giúp bệnh nhận tự tử, khiến cho Montana là tiểu bang thứ ba chấp thuận an lạc tử.
Hai tiểu bang khác Oregon và Washington cũng cho phép các bác sĩ ghi toa thuốc cần thiết để giúp bệnh nhân tự kết liễu đời mình.
Các nhóm chống lại biện pháp này đang chuẩn bị mang vấn đề này ra tranh tụng.
Có hai thẩm phán chống lại quyết định này, họ nói rằng tòa án đã làm đảo ngược một chính sách công cộng có từ lâu.
Hai tiểu bang khác Oregon và Washington cũng cho phép các bác sĩ ghi toa thuốc cần thiết để giúp bệnh nhân tự kết liễu đời mình.
Các nhóm chống lại biện pháp này đang chuẩn bị mang vấn đề này ra tranh tụng.
Có hai thẩm phán chống lại quyết định này, họ nói rằng tòa án đã làm đảo ngược một chính sách công cộng có từ lâu.
Top Stories
Vietnam government starts New Year with premeditated plans to silence criticism
Emily Nguyen
01:56 03/01/2010
The Vietnam government starts the New Year not with festivities as usual but with signs of a large-scale crackdown against dissidents in preparation for the National Communist Party Congress in early 2011.
Vietnam's economic growth slowed to 5.32% in 2009 from 6.18% last year, the government's General Statistics Office said Thursday Dec. 31, 2009. It’s worth noting that Vietnam routinely issues economic data before the end of the reporting period, with figures based solely on estimations. The reality might be even worse.
Amid economic difficulties, the New Year 2010 started with a series of political trials in what believed to be a premeditated plan to deter opponents from causing chaos before the Party's Conference - an event promising to draw an avalanche of sharp criticisms coming from various directions on hot issues such as widespread graft, bauxite mining, conceding borderlands to Beijing, and land disputes with farmers and religious organizations.
Since June, 2009, four democratic campaigners have been held in custody waiting trial date of Jan. 21. The most prominent defendant is Le Cong Dinh, 41, an American-educated lawyer who has defended human rights campaigners and has called for multi-party democracy. The others are Nguyen Tien Trung, who recently studied Information Technology in Paris; Tran Huynh Duy Thuc, a business owner; and Le Thang Long, a candidate for the National Assembly.
The foursome was originally charged with "conducting propaganda" against the state, in violation of Article 88 of the Penal Code which carries a sentence of up to 20 years in prison if convicted or pleaded guilty. However, just as recently as last month, Vietnamese authorities had upgraded the first charge to "carrying out activities aimed at overthrowing the people’s administration" in violation of Article 79 which can give them the death penalty.
In a separate trial lasted for only 4 hours on Dec. 28, rumoured to be the litmus test of the public reaction to the government's first round of crackdown on prodemocracy movement, another dissident Tran Anh Kim, a military former officer, 60, was convicted of subversion for pro-democracy activities and sentenced to five and a half years in prison and 3 years of probation to follow.
Kim was accused of participating in what the government called an "organized crime against the state". The judge charged him with ''cooperation with reactionary Vietnamese and hostile forces in exile by posting 85 articles criticizing the government”. Kim argued back that he had been fighting for “democratic freedom and human rights through peaceful dialogue and nonviolent means.”
From a similar premeditated plan to silence criticism from the Church came the recent warning issued on Dec 28, 2009 by Chairman Pham Ngoc Huu of the People's Committee of the Third District.
Huu accused the Redemptorist community of carrying out activities antagonistic with the Party's policies and the state's laws, at the Church of Our Lady of Perpetual Help, north side of Saigon.
Fr. Joseph Le Quang Uy, in particular, was singled out in this statement as the person of interest. He was named as the main subject for the Committee’s denunciations.
A devoted Redemptorist, who has given so much to save the lives of the unborn and the underprivileged, and the environment, Fr. Joseph Le has been known for speaking out against the government's policies on illegal mining, and human rights violations.
On the other hand, his reputation of being the spiritual leader of many charitable and religiously social groups has been closely watched and monitored by the government.
A smearing campaign against him was kicked off on June 6, 2009 as he was returning home from a pastoral trip abroad. His luggage was searched meticulously and his laptop was confiscated by the airport security and customs agents. The priest was later released but the campaign of smearing had lasted for months.
Vietnamese Catholics have been shocked by the Committee’s statement. All the priest did was to speak out against social and political injustice, but now he is facing a serious charge of "plotting to overthrow the government" which can bring him a potentially doomed fate.
Vietnam's economic growth slowed to 5.32% in 2009 from 6.18% last year, the government's General Statistics Office said Thursday Dec. 31, 2009. It’s worth noting that Vietnam routinely issues economic data before the end of the reporting period, with figures based solely on estimations. The reality might be even worse.
Amid economic difficulties, the New Year 2010 started with a series of political trials in what believed to be a premeditated plan to deter opponents from causing chaos before the Party's Conference - an event promising to draw an avalanche of sharp criticisms coming from various directions on hot issues such as widespread graft, bauxite mining, conceding borderlands to Beijing, and land disputes with farmers and religious organizations.
Since June, 2009, four democratic campaigners have been held in custody waiting trial date of Jan. 21. The most prominent defendant is Le Cong Dinh, 41, an American-educated lawyer who has defended human rights campaigners and has called for multi-party democracy. The others are Nguyen Tien Trung, who recently studied Information Technology in Paris; Tran Huynh Duy Thuc, a business owner; and Le Thang Long, a candidate for the National Assembly.
The foursome was originally charged with "conducting propaganda" against the state, in violation of Article 88 of the Penal Code which carries a sentence of up to 20 years in prison if convicted or pleaded guilty. However, just as recently as last month, Vietnamese authorities had upgraded the first charge to "carrying out activities aimed at overthrowing the people’s administration" in violation of Article 79 which can give them the death penalty.
In a separate trial lasted for only 4 hours on Dec. 28, rumoured to be the litmus test of the public reaction to the government's first round of crackdown on prodemocracy movement, another dissident Tran Anh Kim, a military former officer, 60, was convicted of subversion for pro-democracy activities and sentenced to five and a half years in prison and 3 years of probation to follow.
Kim was accused of participating in what the government called an "organized crime against the state". The judge charged him with ''cooperation with reactionary Vietnamese and hostile forces in exile by posting 85 articles criticizing the government”. Kim argued back that he had been fighting for “democratic freedom and human rights through peaceful dialogue and nonviolent means.”
From a similar premeditated plan to silence criticism from the Church came the recent warning issued on Dec 28, 2009 by Chairman Pham Ngoc Huu of the People's Committee of the Third District.
Huu accused the Redemptorist community of carrying out activities antagonistic with the Party's policies and the state's laws, at the Church of Our Lady of Perpetual Help, north side of Saigon.
Fr. Joseph Le Quang Uy, in particular, was singled out in this statement as the person of interest. He was named as the main subject for the Committee’s denunciations.
A devoted Redemptorist, who has given so much to save the lives of the unborn and the underprivileged, and the environment, Fr. Joseph Le has been known for speaking out against the government's policies on illegal mining, and human rights violations.
On the other hand, his reputation of being the spiritual leader of many charitable and religiously social groups has been closely watched and monitored by the government.
A smearing campaign against him was kicked off on June 6, 2009 as he was returning home from a pastoral trip abroad. His luggage was searched meticulously and his laptop was confiscated by the airport security and customs agents. The priest was later released but the campaign of smearing had lasted for months.
Vietnamese Catholics have been shocked by the Committee’s statement. All the priest did was to speak out against social and political injustice, but now he is facing a serious charge of "plotting to overthrow the government" which can bring him a potentially doomed fate.
China, Vietnam mark holidays with repression
Washington Post
12:58 03/01/2010
WASHINGTON POST (Jan 1, 2010) - THE WEST'S Christmas holiday season has become a season of repression for Asia's authoritarian regimes. On Christmas Day, China sentenced one of its foremost dissidents, Liu Xiaobo, to 11 years in prison for the "crime" of helping create the democracy manifesto Charter 2008. Days earlier Beijing induced Cambodia to hand over 20 Uighur refugees who should have been under the protection of the United Nations.
Now Vietnam, whose communist leadership often takes its cues from China, is having its turn. On Monday, a pro-democracy campaigner named Tran Anh Kim was handed a 5 1/2 -year sentence by a state-controlled court in the first of a series of trials of leading democracy activists. Five activists were arrested in June for peacefully advocating freedom of speech, free elections and other reforms. Like several of the others, Mr. Kim, a 60-year-old retired general, is a member of the Democratic Party of Vietnam and of Bloc 8406, a group of pro-democracy petitioners.
The four other activists, who are expected to be put on trial soon, include Le Cong Dinh, a 41-year-old Tulane University-educated lawyer. He has defended other human rights campaigners in court. Originally charged with spreading anti-government propaganda, Mr. Dinh and at least two of the other dissidents were re-charged last month with the capital crime of subversion.
They are only the most prominent of dozens of human rights activists, bloggers and monks whom the government has arrested or otherwise persecuted in recent months. In October, one of the country's best-known novelists, Nguyen Xuan Nghia, and eight other people were given sentences of two to six years for displaying pro-democracy banners on bridges.
Some Vietnam analysts believe the government's crackdown is intended to set the stage for a ruling party congress scheduled for 2011. Yet surely Vietnam, like China, has taken note of the Obama administration's relaxed attitude toward supporting dissidents and its public proclamations that human rights issues must be balanced against other interests. While the U.S. Embassy in Vietnam has criticized the crackdown, Secretary of State Hillary Rodham Clinton said nothing in public about the arrests when she met Vietnam's foreign minister in October. Instead she focused attention on the "tenfold" increase in bilateral trade she said had taken place since 2001.
That trade boom makes Vietnam sensitive to Western criticism of its human rights record. So the staging of trials of pro-democracy activists during the holiday season is almost certainly not a coincidence. The tactic just might be working: A State Department spokesman said Wednesday that no public statement had been made about Mr. Kim's case, because "no one asked." He then e-mailed us a statement saying "the United States is disappointed in the results of the trial" and noting that Mr. Kim's case was among those raised during a U.S.-Vietnam dialogue on human rights in November. No doubt Hanoi regards such talk as perfunctory; certainly, the Obama administration has done nothing that would suggest otherwise.
(Source: http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2009/12/31/AR2009123102603_pf.html)
Now Vietnam, whose communist leadership often takes its cues from China, is having its turn. On Monday, a pro-democracy campaigner named Tran Anh Kim was handed a 5 1/2 -year sentence by a state-controlled court in the first of a series of trials of leading democracy activists. Five activists were arrested in June for peacefully advocating freedom of speech, free elections and other reforms. Like several of the others, Mr. Kim, a 60-year-old retired general, is a member of the Democratic Party of Vietnam and of Bloc 8406, a group of pro-democracy petitioners.
The four other activists, who are expected to be put on trial soon, include Le Cong Dinh, a 41-year-old Tulane University-educated lawyer. He has defended other human rights campaigners in court. Originally charged with spreading anti-government propaganda, Mr. Dinh and at least two of the other dissidents were re-charged last month with the capital crime of subversion.
They are only the most prominent of dozens of human rights activists, bloggers and monks whom the government has arrested or otherwise persecuted in recent months. In October, one of the country's best-known novelists, Nguyen Xuan Nghia, and eight other people were given sentences of two to six years for displaying pro-democracy banners on bridges.
Some Vietnam analysts believe the government's crackdown is intended to set the stage for a ruling party congress scheduled for 2011. Yet surely Vietnam, like China, has taken note of the Obama administration's relaxed attitude toward supporting dissidents and its public proclamations that human rights issues must be balanced against other interests. While the U.S. Embassy in Vietnam has criticized the crackdown, Secretary of State Hillary Rodham Clinton said nothing in public about the arrests when she met Vietnam's foreign minister in October. Instead she focused attention on the "tenfold" increase in bilateral trade she said had taken place since 2001.
That trade boom makes Vietnam sensitive to Western criticism of its human rights record. So the staging of trials of pro-democracy activists during the holiday season is almost certainly not a coincidence. The tactic just might be working: A State Department spokesman said Wednesday that no public statement had been made about Mr. Kim's case, because "no one asked." He then e-mailed us a statement saying "the United States is disappointed in the results of the trial" and noting that Mr. Kim's case was among those raised during a U.S.-Vietnam dialogue on human rights in November. No doubt Hanoi regards such talk as perfunctory; certainly, the Obama administration has done nothing that would suggest otherwise.
(Source: http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2009/12/31/AR2009123102603_pf.html)
Vietnam Redemptorist Provincial Superior: Redemptorists unjustly attacked with false accusations.
J.B. An Dang
17:25 03/01/2010
In defending his brothers against the latest governmental accusation, Vietnam Redemptorist Provincial Superior spoke out to set the record straight and expressed his disappointment at the authorities’ persistent resort to violence rather than dialogue.
“Facing unjust accusations of the local government, our hope for better Church – State relations after the Vatican visit of Vietnam’s chairman is so shaken,” said Fr. Vincent Pham Trung Thanh, the Vietnam Redemptorist Provincial Superior, in an interview with Radio France Internationale (RFI) on Jan. 2.
Only two weeks after the historic visit of Vietnam Chairman Nguyen Minh Triet to Pope Benedict XVI, on Dec. 28, the local government of Ho Chi Minh City opened fire against the metropolitan Redemptorist community accusing them of using the church of Our Lady of Perpetual Help “to distort, falsely accuse and criticise the government driving believers to misunderstand the Party's policies and the nation's laws”.
In response to these severe denunciations of the Committee, the Superior of Vietnam Redemptorist province expressed his “shocking surprise at the sudden attack”. No recent activities of Redemptorists at the church of Our Lady of Perpetual Help seemed to be able to justify for the move of the government.
“As Catholic priests, we are bound to tell the truth as we find it, without fear of consequences. We did not distort or falsely accuse anyone,” Fr. Vincent Pham added frankly rejecting every accusation against the community.
“Before we raised our voice, our beloved spiritual leaders who are our fathers in faith, namely Bishop Peter Nguyen Van Nhon, President of the Episcopal Conference of Vietnam, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi, Archbishop Stephen Nguyen Nhu The of Hue and others, had already condemned publicly injustices at Dalat Collegium Pontificium, Hanoi nunciature, Loan Ly..” continued the Superior.
"Regarding the accusation of inciting the public to cause civil unrest, I say, we are children of Lord Jesus, king of Peace and love, whose teaching taught us to follow his peaceful way of life, not to become advocates for segregation. However, he is also the Lord of justice, thus our duty is not to ignore or to stay mute in the face of injustice,” he went on.
“There are people who fear the truth. We have been attacked just because we speak of the truth. Some do not want to see the truth exposed. What else we can do?” asked the Superior.
Redemptorist Fr. Joseph Le Quang Uy, in particular, was singled out in this statement as the main subject for the Committee’s denunciations. He was charged with “taking advantage of his role of leading prayers in Vigils to distort the social, political and economic situation of Vietnam, and denounce the government for human rights violations,” and thus “undermines the great national unity bloc,” and “has given a hand to hostile forces, and reactionaries to conduct propaganda against the Socialist Republic of Vietnam.”
Defending Fr. Joseph Le, the Superior stated that his brother “did nothing wrong” when speaking out against social and political injustices.
The Supervisor also pointed out that local government had gone too far beyond its authority when behaving like a kangaroo court accusing Fr. Joseph Le and other Redemptorists without due process.
“If our brothers have violated the law, let them be judged by the court. Until then, no one has the rights to convict them,” Fr. Vincent Pham insisted.
On Jan. 25, 2007, Vietnam PM Nguyen Tan Dung paid a landmark visit to Pope Benedict XVI and Vatican officials promising better Church-State relations. Three weeks later, on Feb. 19, 2007, security police suddenly surrounded and raided Hue Archdiocese to ransack the office, confiscated computers, electronic equipments, and arrested Father Nguyen Van Ly, a Roman Catholic priest who had been imprisoned for 14 years for allegedly disseminating material criticizing the government's limitations on religious and political freedom.
“History repeats itself!” another Redemptorist priest, Fr. Tung Duong, lamented expressing his fear that the Church in Vietnam is going to suffer a new wave of persecutions after the Vatican visit of Chairman Nguyen Minh Triet.
The priest was afraid that Vatican visits of Vietnam communist leaders were carefully designed simply to mask Vietnam notorious records of human and religious rights abuse.
There are growing concerns among Catholics in Vietnam that the sudden attack against Redemptorists may harbinger a large-scale crackdown to silence dissidents in preparation for the National Communist Party Congress in early 2011.
In another development, Vietnam government has consolidated the state-run “Catholics and People” magazine with new appointments. Vice-chairman Phan Khac Tu of the so-called “Committee for Solidarity of Vietnamese Catholics” was appointed the chief editor of the magazine. Tu has been known to be enthusiastically pro-Communist.
Soon after the communists took control Vietnam, the Committee was born and the magazine was first published on July 10th, 1975. This was seen as an attempt of the government to set up a state-run Church.
The magazine, which, despite its name, is controlled by the Communist party rather than the Church – has carried a series of anti-Vatican articles to lay harsh criticisms on Vatican and Pope John Paul II.
It almost died after the death of its founder, Truong Ba Can, who died on July, 10, 2009. During the last 5 months, the half-dead magazine had struggled hard to survive. The new appointment is obviously an effort of the government to revive it.
“Facing unjust accusations of the local government, our hope for better Church – State relations after the Vatican visit of Vietnam’s chairman is so shaken,” said Fr. Vincent Pham Trung Thanh, the Vietnam Redemptorist Provincial Superior, in an interview with Radio France Internationale (RFI) on Jan. 2.
Only two weeks after the historic visit of Vietnam Chairman Nguyen Minh Triet to Pope Benedict XVI, on Dec. 28, the local government of Ho Chi Minh City opened fire against the metropolitan Redemptorist community accusing them of using the church of Our Lady of Perpetual Help “to distort, falsely accuse and criticise the government driving believers to misunderstand the Party's policies and the nation's laws”.
In response to these severe denunciations of the Committee, the Superior of Vietnam Redemptorist province expressed his “shocking surprise at the sudden attack”. No recent activities of Redemptorists at the church of Our Lady of Perpetual Help seemed to be able to justify for the move of the government.
“As Catholic priests, we are bound to tell the truth as we find it, without fear of consequences. We did not distort or falsely accuse anyone,” Fr. Vincent Pham added frankly rejecting every accusation against the community.
“Before we raised our voice, our beloved spiritual leaders who are our fathers in faith, namely Bishop Peter Nguyen Van Nhon, President of the Episcopal Conference of Vietnam, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi, Archbishop Stephen Nguyen Nhu The of Hue and others, had already condemned publicly injustices at Dalat Collegium Pontificium, Hanoi nunciature, Loan Ly..” continued the Superior.
"Regarding the accusation of inciting the public to cause civil unrest, I say, we are children of Lord Jesus, king of Peace and love, whose teaching taught us to follow his peaceful way of life, not to become advocates for segregation. However, he is also the Lord of justice, thus our duty is not to ignore or to stay mute in the face of injustice,” he went on.
“There are people who fear the truth. We have been attacked just because we speak of the truth. Some do not want to see the truth exposed. What else we can do?” asked the Superior.
Redemptorist Fr. Joseph Le Quang Uy, in particular, was singled out in this statement as the main subject for the Committee’s denunciations. He was charged with “taking advantage of his role of leading prayers in Vigils to distort the social, political and economic situation of Vietnam, and denounce the government for human rights violations,” and thus “undermines the great national unity bloc,” and “has given a hand to hostile forces, and reactionaries to conduct propaganda against the Socialist Republic of Vietnam.”
Defending Fr. Joseph Le, the Superior stated that his brother “did nothing wrong” when speaking out against social and political injustices.
The Supervisor also pointed out that local government had gone too far beyond its authority when behaving like a kangaroo court accusing Fr. Joseph Le and other Redemptorists without due process.
“If our brothers have violated the law, let them be judged by the court. Until then, no one has the rights to convict them,” Fr. Vincent Pham insisted.
On Jan. 25, 2007, Vietnam PM Nguyen Tan Dung paid a landmark visit to Pope Benedict XVI and Vatican officials promising better Church-State relations. Three weeks later, on Feb. 19, 2007, security police suddenly surrounded and raided Hue Archdiocese to ransack the office, confiscated computers, electronic equipments, and arrested Father Nguyen Van Ly, a Roman Catholic priest who had been imprisoned for 14 years for allegedly disseminating material criticizing the government's limitations on religious and political freedom.
“History repeats itself!” another Redemptorist priest, Fr. Tung Duong, lamented expressing his fear that the Church in Vietnam is going to suffer a new wave of persecutions after the Vatican visit of Chairman Nguyen Minh Triet.
The priest was afraid that Vatican visits of Vietnam communist leaders were carefully designed simply to mask Vietnam notorious records of human and religious rights abuse.
There are growing concerns among Catholics in Vietnam that the sudden attack against Redemptorists may harbinger a large-scale crackdown to silence dissidents in preparation for the National Communist Party Congress in early 2011.
In another development, Vietnam government has consolidated the state-run “Catholics and People” magazine with new appointments. Vice-chairman Phan Khac Tu of the so-called “Committee for Solidarity of Vietnamese Catholics” was appointed the chief editor of the magazine. Tu has been known to be enthusiastically pro-Communist.
Soon after the communists took control Vietnam, the Committee was born and the magazine was first published on July 10th, 1975. This was seen as an attempt of the government to set up a state-run Church.
The magazine, which, despite its name, is controlled by the Communist party rather than the Church – has carried a series of anti-Vatican articles to lay harsh criticisms on Vatican and Pope John Paul II.
It almost died after the death of its founder, Truong Ba Can, who died on July, 10, 2009. During the last 5 months, the half-dead magazine had struggled hard to survive. The new appointment is obviously an effort of the government to revive it.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chân dung linh mục Việt Nam: Linh mục Matthêu Phạm Hảo Kỳ
GP Xuân Lộc
12:27 03/01/2010
Chân dung linh mục Việt Nam: Linh mục Matthêu Phạm Hảo Kỳ
Cha Matthêu PHẠM HẢO KỲ (1912–1994). Nhà tu đức chuyên nghiệp
Chiều 31-5-1982, trong giờ tôn vinh Đức Mẹ tại giáo xứ Ninh Phát, trước khi ban phép lành kết thúc, Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng, Giám mục Chính toà giáo phận Xuân Lộc đã nói: ‘‘Ngày nay, kiếm một linh mục đã khó. Thế nhưng, kiếm một linh mục đạo đức, thánh thiện trổi vượt mà lại khiêm tốn như cha cố Mátthêu Phạm Hảo Kỳ lại còn khó hơn gấp bội”.
Thật vậy, “hữu xạ tự nhiên hương”, những ai đã từng tiếp xúc và sống với cha cố Mátthêu chắc chắn đã cảm nhận được ảnh hưởng về đời sống thiêng liêng cũng như hương thơm nhân đức nơi ngài toả ra như thế nào.
Hành trình đời sống trần thế
Mùa Thu năm 1912, cậu Mátthêu Phạm Hảo Kỳ đã cất tiếng khóc chào đời đúng vào ngày 21-9 tức ngày lễ kính thánh Matthêu tông đồ thánh sử. Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp đạo hạnh, với tư chất thông minh sẵn có và lòng đạo đức trổi vượt so với các bạn cùng trang lứa, cậu đã hiến dâng đời mình cho Chúa và được diễm phúc lãnh nhận thánh chức linh mục ngày 12-8-1944 tại Phát Diệm.
Khởi đầu sứ vụ linh mục, cha Matthêu được bề trên bổ nhiệm làm cha phó xứ Bình Sa - Ninh Bình từ 1944–1945. Năm Ất Dậu 1945 là kí ức kinh hoàng đối với dân tộc Việt Nam với khoảng 2 triệu người chết đói tại miền Bắc. Chính trong thời điểm này, bằng những việc bác ái rất mực cao độ kết hợp với đời sống đạo đức gương mẫu vốn đã có nền tảng từ những năm tháng ở chủng viện, cha đã chứng tỏ cho mọi người thấy cha đúng là vị mục tử như lòng Chúa mong ước. Nhận thấy chiều sâu tâm hồn của cha xứng đáng là mẫu gương cho các linh mục tương lai noi theo, trong suốt 30 năm, từ 1945–1975, Bề trên đã tín nhiệm đặt cha làm cha linh hướng kiêm giáo sư tại các chủng viện: Tiểu chủng viện Phúc Nhạc; Tiểu chủng viện Phát Diệm Phú Nhuận, Tiểu chủng viện và Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn. Trong nhiều năm trước 1975, cha đã cộng tác với cha Bề trên Gioan Baotixita Trần Ngũ Nhạc để hướng dẫn hai tu hội: “Tu hội Chúa Giêsu” và “Tu hội Mẹ Maria” nay đổi tên là “Tu hội Nô tỳ Thiên Chúa”.
Sau biến cố 1975, vì lý do thời cuộc, cha được Bề trên bổ nhiệm làm chánh xứ Ninh Phát từ 1975–1994; đồng thời kiêm nhiệm chức Quản hạt Gia Kiệm từ 1976–1994 và Bề trên đồng sáng lập Tu hội Nô Tỳ Thiên Chúa từ 1983–1994 (cha GB. Trần Ngũ Nhạc qua đời ngày 04-09-1983).
Là một người rất sùng kính Đức Trinh Mẫu Rất Thánh Diễm phúc Maria, cha đã hướng dẫn rất nhiều tu sĩ và giáo dân hiểu biết về Mẹ. Cha tổ chức nhiều cuộc trình diễn với những lời dẫn, hình ảnh và hoạt cảnh để người tín hữu hiểu sâu xa hơn về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và Đức Trinh Nữ Maria một cách sống động, cụ thể hơn, qua đó dễ thực hành theo gương Chúa và Đức Mẹ. Đặc biệt, cha tổ chức nhiều khoá huấn luyện về đời sống tận hiến, giúp người tín hữu biết chạy đến với Đức Mẹ, cậy trông, phó thác nơi Đức Mẹ, và qua Mẹ để đến với Chúa Ba Ngôi.
Đầu năm 1994, cha lâm trọng bệnh và sức khỏe ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Với lòng yêu mến Mẹ đặc biệt, Cha luôn cầu khẩn Đức Mẹ cho cha đựơc chết vào một ngày lễ nào đó của Mẹ. Và thật cảm động thay, như một dấu chỉ ưu ái mà Đức Mẹ ân ban cho cha, đúng vào lúc 11 giờ ngày 31-5-1994, ngày lễ Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, giữa lúc lời Kinh Truyền Tin đang được cất lên trên môi miệng của những người vây quanh giường cha thì cũng chính là lúc Đức Mẹ đến viếng thăm và đón cha về nhà Cha trên Trời.
Linh đạo cha cố Matthêu
Là một nhà tu đức chuyên nghiệp và sâu sắc, cha cố Matthêu đã trình bày cách rất bình dân dễ hiểu một KITÔ GIÁO HIỂU VÀ SỐNG, cũng gọi là ĐẠO CHÍNH TRUYỀN CẢI MẾN YÊU. Gọi là Đạo Chính Truyền vì là đạo do chính Chúa Kitô truyền dạy, còn ghi lại trong Tin Mừng.
Dựa trên nền tảng hai lời Thánh Kinh: “Ai tin và chịu phép rửa tội sẽ được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16); và “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17), cha phân tích:
– Đạo hiểu nghĩa là tin mà chưa có việc làm.
– Đạo sống tức là tin và có việc làm.
Thế nên, để được cứu rỗi cần phải kết hợp đạo hiểu và sống. Sau đây là tóm tắt cách trình bầy của cha:
A. PHẦN LÝ THUYẾT
1/ ĐẠO HIỂU tức KẾ HOẠCH CỨU RỖI (phần tín lý): được tóm gọn trong kinh Tin kính các Thánh Tông Đồ gồm 3 điểm:
– Chúa Cha tạo dựng loài người và nhận làm con để có quyền thừa kế gia nghiệp của Cha là Nước Trời.
– Chúa Con nhập thể làm người rồi chết khổ nhục và sống lại sướng vinh để chuộc lại cho loài người chức làm con Thiên Chúa và quyền thừa kế Nước Trời đã mất vì tội.
– Chúa Thánh Thần cùng Hội Thánh tiếp tục việc cứu chuộc của Chúa Kitô, nhờ đó ta được thực sự làm con Thiên Chúa và có thể thừa kế Nước Trời.
2/ ĐẠO SỐNG tức SỐNG ĐẠO CHÍNH TRUYỀN (phần luân lý và tu đức): đây là kết luận do phép rửa tội cũng gồm 3 điểm:
– Ba lần thề hứa từ bỏ ma quỷ, công việc, sự phù hoa của chúng. Đó là bỏ tà dục, nết xấu, tội lỗi, gọi tắt là CẢI.
– Ba lần thề hứa làm con Thiên Chúa. Con thì phải mến Cha, gọi tắt là MẾN.
– Những người cùng làm con một Cha chung thì là anh chị em với nhau. Anh chị em thì phải yêu nhau, gọi tắt là YÊU.
Vậy Cải mình, Mến Chúa, Yêu người là những việc phép rửa tội đòi buộc nói tắt là CẢI, MẾN, YÊU. Sống 3 việc đó là sống ĐẠO CHÍNH TRUYỀN CẢI MẾN YÊU.
Tuy nhiên, để đạt tới sự yêu người hoàn bị, Kitô giáo đề cập đến ba yếu tố: Công bình, Bác ái, Hoà giải, gọi tắt là CÔNG, ÁI, HOÀ.
Như vậy, sống đạo Cải Mến Yêu cách trọn vẹn chính là sống ĐẠO CHÍNH TRUYỀN gồm 5 điểm căn bản: CẢI, MẾN, CÔNG, ÁI, HÒA với 5 lời Thánh kinh sau:
– CẢI: “Hãy cởi bỏ người cũ” (Ep 4,22).
– MẾN: “Này con đến để tuân hành ý Cha” (Dt 10,9).
– CÔNG: “Đừng làm cho ai cái mình không muốn chịu” (Tob 4,10).
– ÁI: “Mọi điều chúng con muốn người ta làm cho mình thế nào, thì hãy làm cho họ như vậy.” (Mt 7,12).
– HÒA: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
B. PHẦN THỰC HÀNH
Xác tín rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17), cha cố Matthêu đã dày công nghiên cứu, đã sống và rút ra những chỉ dẫn cụ thể để giúp ta hoàn thiện lối sống Đạo Chính Truyền Cải Mến Yêu như sau:
Để sống Đạo Chính Truyền Cải Mến Yêu cách sâu đậm và toàn diện:
– Tránh những lối sống đạo lệch lạc như: sống đạo theo hứng, sống đạo vụ lợi, sống đạo kinh lễ.
– Tận dụng tất cả những sinh hoạt tôn giáo vào việc đó như: Sống mầu nhiệm Nhập Thể, sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh; tôn sùng Phép Thánh Thể; sống thánh lễ; sống lời Chúa; chịu bí tích Sám hối; lần hạt Mân Côi – yêu mến Đức Mẹ; cầu nguyện.
Kết hợp với những chỉ dẫn trên, ngài luôn yêu cầu người thực hiện phải có những điểm sống cụ thể đi kèm. Chẳng hạn: để thực thi sự tiết độ trong ăn uống, ngài dạy: Đừng để cho mình nghiện thứ gì; Bài trừ tật xấu như thi đua tửu lượng, ép nhau ăn uống đến say sưa; không mượn chén rượu để tranh luận, dạy con, mắng nhiếc người khác; thỉnh thoảng hãm mình như ăn chay, ăn vài miếng cơm nhạt, hoãn uống mấy phút khi khát …
Ngài đã viết nhiều sách vở về thần học, tu đức, nhiều tập thơ để giúp cho giáo dân, nhất là các thiếu nhi dễ nhớ nội dung các bài giáo lý và những cách sống đạo thật thực tế và hữu hiệu.
Tóm lại, ưu tiên hàng đầu mà ngài đặt ra sau khi đã giúp người nghe hiểu được điều phải tin là buộc phải có điểm sống cụ thể để thực hành trong đời sống.
Lời kết
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Ngày nay người ta tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy. Nếu người ta tin vào thầy dạy vì thầy dạy đã sống chứng nhân”.
Cha cố Matthêu đích thực là một vị mục tử tốt lành và thánh thiện, một chứng nhân sống động của Tin Mừng. Ngài không chỉ dạy người ta sống mà đặc biệt, ngài đã sống những điều đó một cách hết sức anh hùng và gương mẫu. Đời sống thánh thiện ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người được ngài trực tiếp hướng dẫn và chăm sóc đến độ mọi người, kể cả các đấng Bề Trên, từ lâu nay vẫn gọi ngài là “Cha thánh Kỳ” với lòng kính trọng đặc biệt.
Nếu như khi được chứng kiến đời sống thánh thiện của cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, bổn mạng của các linh mục, đã khiến có người phải thốt lên: “Tôi đã thấy Chúa trong một con người”; thì con cái của cha cố Matthêu hôm nay cũng có thể nói được rằng: “Cha cố Matthêu cũng chính là hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa lòng thời đại hôm nay”.
Cha Matthêu PHẠM HẢO KỲ (1912–1994). Nhà tu đức chuyên nghiệp
Chiều 31-5-1982, trong giờ tôn vinh Đức Mẹ tại giáo xứ Ninh Phát, trước khi ban phép lành kết thúc, Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng, Giám mục Chính toà giáo phận Xuân Lộc đã nói: ‘‘Ngày nay, kiếm một linh mục đã khó. Thế nhưng, kiếm một linh mục đạo đức, thánh thiện trổi vượt mà lại khiêm tốn như cha cố Mátthêu Phạm Hảo Kỳ lại còn khó hơn gấp bội”.
Thật vậy, “hữu xạ tự nhiên hương”, những ai đã từng tiếp xúc và sống với cha cố Mátthêu chắc chắn đã cảm nhận được ảnh hưởng về đời sống thiêng liêng cũng như hương thơm nhân đức nơi ngài toả ra như thế nào.
Hành trình đời sống trần thế
Lm. Matthêu Phạm Hảo Kỳ |
Khởi đầu sứ vụ linh mục, cha Matthêu được bề trên bổ nhiệm làm cha phó xứ Bình Sa - Ninh Bình từ 1944–1945. Năm Ất Dậu 1945 là kí ức kinh hoàng đối với dân tộc Việt Nam với khoảng 2 triệu người chết đói tại miền Bắc. Chính trong thời điểm này, bằng những việc bác ái rất mực cao độ kết hợp với đời sống đạo đức gương mẫu vốn đã có nền tảng từ những năm tháng ở chủng viện, cha đã chứng tỏ cho mọi người thấy cha đúng là vị mục tử như lòng Chúa mong ước. Nhận thấy chiều sâu tâm hồn của cha xứng đáng là mẫu gương cho các linh mục tương lai noi theo, trong suốt 30 năm, từ 1945–1975, Bề trên đã tín nhiệm đặt cha làm cha linh hướng kiêm giáo sư tại các chủng viện: Tiểu chủng viện Phúc Nhạc; Tiểu chủng viện Phát Diệm Phú Nhuận, Tiểu chủng viện và Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn. Trong nhiều năm trước 1975, cha đã cộng tác với cha Bề trên Gioan Baotixita Trần Ngũ Nhạc để hướng dẫn hai tu hội: “Tu hội Chúa Giêsu” và “Tu hội Mẹ Maria” nay đổi tên là “Tu hội Nô tỳ Thiên Chúa”.
Sau biến cố 1975, vì lý do thời cuộc, cha được Bề trên bổ nhiệm làm chánh xứ Ninh Phát từ 1975–1994; đồng thời kiêm nhiệm chức Quản hạt Gia Kiệm từ 1976–1994 và Bề trên đồng sáng lập Tu hội Nô Tỳ Thiên Chúa từ 1983–1994 (cha GB. Trần Ngũ Nhạc qua đời ngày 04-09-1983).
Là một người rất sùng kính Đức Trinh Mẫu Rất Thánh Diễm phúc Maria, cha đã hướng dẫn rất nhiều tu sĩ và giáo dân hiểu biết về Mẹ. Cha tổ chức nhiều cuộc trình diễn với những lời dẫn, hình ảnh và hoạt cảnh để người tín hữu hiểu sâu xa hơn về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và Đức Trinh Nữ Maria một cách sống động, cụ thể hơn, qua đó dễ thực hành theo gương Chúa và Đức Mẹ. Đặc biệt, cha tổ chức nhiều khoá huấn luyện về đời sống tận hiến, giúp người tín hữu biết chạy đến với Đức Mẹ, cậy trông, phó thác nơi Đức Mẹ, và qua Mẹ để đến với Chúa Ba Ngôi.
Đầu năm 1994, cha lâm trọng bệnh và sức khỏe ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Với lòng yêu mến Mẹ đặc biệt, Cha luôn cầu khẩn Đức Mẹ cho cha đựơc chết vào một ngày lễ nào đó của Mẹ. Và thật cảm động thay, như một dấu chỉ ưu ái mà Đức Mẹ ân ban cho cha, đúng vào lúc 11 giờ ngày 31-5-1994, ngày lễ Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, giữa lúc lời Kinh Truyền Tin đang được cất lên trên môi miệng của những người vây quanh giường cha thì cũng chính là lúc Đức Mẹ đến viếng thăm và đón cha về nhà Cha trên Trời.
Linh đạo cha cố Matthêu
Là một nhà tu đức chuyên nghiệp và sâu sắc, cha cố Matthêu đã trình bày cách rất bình dân dễ hiểu một KITÔ GIÁO HIỂU VÀ SỐNG, cũng gọi là ĐẠO CHÍNH TRUYỀN CẢI MẾN YÊU. Gọi là Đạo Chính Truyền vì là đạo do chính Chúa Kitô truyền dạy, còn ghi lại trong Tin Mừng.
Dựa trên nền tảng hai lời Thánh Kinh: “Ai tin và chịu phép rửa tội sẽ được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16); và “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17), cha phân tích:
– Đạo hiểu nghĩa là tin mà chưa có việc làm.
– Đạo sống tức là tin và có việc làm.
Thế nên, để được cứu rỗi cần phải kết hợp đạo hiểu và sống. Sau đây là tóm tắt cách trình bầy của cha:
A. PHẦN LÝ THUYẾT
1/ ĐẠO HIỂU tức KẾ HOẠCH CỨU RỖI (phần tín lý): được tóm gọn trong kinh Tin kính các Thánh Tông Đồ gồm 3 điểm:
– Chúa Cha tạo dựng loài người và nhận làm con để có quyền thừa kế gia nghiệp của Cha là Nước Trời.
– Chúa Con nhập thể làm người rồi chết khổ nhục và sống lại sướng vinh để chuộc lại cho loài người chức làm con Thiên Chúa và quyền thừa kế Nước Trời đã mất vì tội.
– Chúa Thánh Thần cùng Hội Thánh tiếp tục việc cứu chuộc của Chúa Kitô, nhờ đó ta được thực sự làm con Thiên Chúa và có thể thừa kế Nước Trời.
2/ ĐẠO SỐNG tức SỐNG ĐẠO CHÍNH TRUYỀN (phần luân lý và tu đức): đây là kết luận do phép rửa tội cũng gồm 3 điểm:
– Ba lần thề hứa từ bỏ ma quỷ, công việc, sự phù hoa của chúng. Đó là bỏ tà dục, nết xấu, tội lỗi, gọi tắt là CẢI.
– Ba lần thề hứa làm con Thiên Chúa. Con thì phải mến Cha, gọi tắt là MẾN.
– Những người cùng làm con một Cha chung thì là anh chị em với nhau. Anh chị em thì phải yêu nhau, gọi tắt là YÊU.
Vậy Cải mình, Mến Chúa, Yêu người là những việc phép rửa tội đòi buộc nói tắt là CẢI, MẾN, YÊU. Sống 3 việc đó là sống ĐẠO CHÍNH TRUYỀN CẢI MẾN YÊU.
Tuy nhiên, để đạt tới sự yêu người hoàn bị, Kitô giáo đề cập đến ba yếu tố: Công bình, Bác ái, Hoà giải, gọi tắt là CÔNG, ÁI, HOÀ.
Như vậy, sống đạo Cải Mến Yêu cách trọn vẹn chính là sống ĐẠO CHÍNH TRUYỀN gồm 5 điểm căn bản: CẢI, MẾN, CÔNG, ÁI, HÒA với 5 lời Thánh kinh sau:
– CẢI: “Hãy cởi bỏ người cũ” (Ep 4,22).
– MẾN: “Này con đến để tuân hành ý Cha” (Dt 10,9).
– CÔNG: “Đừng làm cho ai cái mình không muốn chịu” (Tob 4,10).
– ÁI: “Mọi điều chúng con muốn người ta làm cho mình thế nào, thì hãy làm cho họ như vậy.” (Mt 7,12).
– HÒA: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
B. PHẦN THỰC HÀNH
Xác tín rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17), cha cố Matthêu đã dày công nghiên cứu, đã sống và rút ra những chỉ dẫn cụ thể để giúp ta hoàn thiện lối sống Đạo Chính Truyền Cải Mến Yêu như sau:
Để sống Đạo Chính Truyền Cải Mến Yêu cách sâu đậm và toàn diện:
– Tránh những lối sống đạo lệch lạc như: sống đạo theo hứng, sống đạo vụ lợi, sống đạo kinh lễ.
– Tận dụng tất cả những sinh hoạt tôn giáo vào việc đó như: Sống mầu nhiệm Nhập Thể, sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh; tôn sùng Phép Thánh Thể; sống thánh lễ; sống lời Chúa; chịu bí tích Sám hối; lần hạt Mân Côi – yêu mến Đức Mẹ; cầu nguyện.
Kết hợp với những chỉ dẫn trên, ngài luôn yêu cầu người thực hiện phải có những điểm sống cụ thể đi kèm. Chẳng hạn: để thực thi sự tiết độ trong ăn uống, ngài dạy: Đừng để cho mình nghiện thứ gì; Bài trừ tật xấu như thi đua tửu lượng, ép nhau ăn uống đến say sưa; không mượn chén rượu để tranh luận, dạy con, mắng nhiếc người khác; thỉnh thoảng hãm mình như ăn chay, ăn vài miếng cơm nhạt, hoãn uống mấy phút khi khát …
Ngài đã viết nhiều sách vở về thần học, tu đức, nhiều tập thơ để giúp cho giáo dân, nhất là các thiếu nhi dễ nhớ nội dung các bài giáo lý và những cách sống đạo thật thực tế và hữu hiệu.
Tóm lại, ưu tiên hàng đầu mà ngài đặt ra sau khi đã giúp người nghe hiểu được điều phải tin là buộc phải có điểm sống cụ thể để thực hành trong đời sống.
Lời kết
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Ngày nay người ta tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy. Nếu người ta tin vào thầy dạy vì thầy dạy đã sống chứng nhân”.
Cha cố Matthêu đích thực là một vị mục tử tốt lành và thánh thiện, một chứng nhân sống động của Tin Mừng. Ngài không chỉ dạy người ta sống mà đặc biệt, ngài đã sống những điều đó một cách hết sức anh hùng và gương mẫu. Đời sống thánh thiện ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người được ngài trực tiếp hướng dẫn và chăm sóc đến độ mọi người, kể cả các đấng Bề Trên, từ lâu nay vẫn gọi ngài là “Cha thánh Kỳ” với lòng kính trọng đặc biệt.
Nếu như khi được chứng kiến đời sống thánh thiện của cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, bổn mạng của các linh mục, đã khiến có người phải thốt lên: “Tôi đã thấy Chúa trong một con người”; thì con cái của cha cố Matthêu hôm nay cũng có thể nói được rằng: “Cha cố Matthêu cũng chính là hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa lòng thời đại hôm nay”.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bây Giờ Im Hay Nói ?
Lm Tùng Dương, C.S.s.R.
02:39 03/01/2010
Người hèn thấp cổ bé miệng im hay nói,
Kẻ sang đầu cao mắt sáng nói hay im ?
Mấy ngày nay, trên các trang mạng và dư luận quốc tế, người ta lại xôn xao vụ chính quyền có công văn gởi linh mục Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam, có những bài phân tích phải trái và đưa ra những nhận định nhiều chiều. Những người quan tâm đến tình hình Giáo Hội Việt Nam không thể không có những lo âu băn khoăn qua những biến cố như vậy. Được biết không chỉ một công văn của Ủy Ban Nhân Dân quận 3 mà trước đây Ủy Ban Nhân Dân Tp. Hà Nội cũng đã có văn bản quy kết những điều sai trái cho các linh mục tu sĩ tại Thái Hà. Như vậy tình hình không hề yên ả như nhiều người nghĩ, kết quả chuyến đi Roma của ông Triết hình như lập lại diễn tiến chuyến đi Roma của ông Dũng ! Đó là qui luật ?
Đọc trên trang web Dòng Chúa Cứu Thế có bài "Đọc rồi ngẫm nghĩ" tôi không khỏi chao lòng.
Tôi nhớ trong những ngày vừa qua, khi tôi về Cái Mơn dự lễ an táng cha Hạt trưởng Cái Mơn, ngài là một người bạn cùng lớp với Đức Cha Toma, Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long. Hôm ấy gương mặt Đức Cha buồn lắm, có người nói với tôi là cha Hạt trưởng là bạn đồng môn nên Đức Cha buồn nhiều, có người lại nói rằng Đức Cha mất một lúc hai Hạt trưởng nên Đức Cha buồn, quả thật mất một lúc hai Hạt trưởng thì buồn thật, làm sao không buồn được khi hai người cột trụ ra đi mà lớp kế thừa thì lại quá mỏng, không đủ người lấp chỗ trống, chẳng phải riêng gì Vĩnh Long, Giáo Phận nào cũng vậy, dòng tu nào cũng thế, sự thiếu hụt những thế hệ sau năm 75 đã để lại một khoảng trống quá lớn, hậu quả của chính sách hạn chế tôn giáo đã gây hậu quả rất nghiêm trọng cho Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Nhưng thật tình hôm đó tôi thấy Đức Cha buồn nhiều lắm, ngài im lặng khó hiểu và đôi mắt đăm chiêu nặng nề. Khi bỏ Cái Mơn về lại Vĩnh Long, chạy xe trên con đường ven sông lộng gió của trung tâm thị xã, tôi mới nghiệm ra nỗi buồn của người mục tử.
Hình ảnh công trường đang xây dựng công viên trên nền đất của Giáo Hội bị tước đoạt như một thách thức nền dân chủ, sự tự do và nguyên tắc công bằng. Trong một văn thư trước đây, Đức Cha đã nói với mọi người rằng, ngài lên tiếng để ngày sau ngài không phải trả lẽ trước mặt Chúa, trước lịch sử về sự im lặng của ngài. Gần đây nhất, trong văn thư ngày 28 tháng 11, ngài lại một lần nữa tỏ bày trách nhiệm mục tử của ngài khi lên tiếng, lần này không chỉ nói về một mảnh đất, nhưng về một sự công bằng cần phải có, ngài đòi hỏi phải trả lại sự công bằng cho Giáo Hội, cho người Công giáo, đặc biệt là người Công giáo của Giáo phận Vĩnh Long, ngài gọi biến cố vu oan và tước đoạt năm 1977 là “đại nạn” của Giáo Phận.
Các linh mục Hạt trưởng ngay sau đó đã hiệp thông với vị mục tử của mình và bày tỏ nỗi bức xúc về cách hành xử của chính quyền Vĩnh Long. Nhưng tất cả rơi vào im lặng, công trường tiếp tục thi công, từng tiếng máy xe thi công nổ, từng nhát búa đóng vào lòng đất, từng mảnh tole che lấp sự thật, bưng bít nỗi nhục nhã của bạo quyền, như những vết thương ngày đêm hành hạ trái tim người mục tử.
Ngày chính quyền Vĩnh Long làm lễ khởi công, họ giăng đầy công an trên các nẻo đường, họ diễn tập chống bạo động, chống biểu tình, hai ngả đường dẫn về trung tâm được kiểm soát nghiêm ngặt. Hôm đó Đức Cha buồn lắm, không phải ngài tiếc gì mảnh đất hơn mười ngàn mét vuông ở trung tâm giá không dưới 150 tỉ đồng đã bị cướp mất, nhưng ngài tiếc cho cách hành xử thiếu văn hóa và thô thiển, ngài tiếc cho một nền văn minh xây dựng trên bạo lực, dối trá và bất công. Hình như sau đó ngài có nói với chính quyền “Các ông làm như vậy để làm chi vậy ? Tôi không làm như vậy đâu, nếu tôi biểu tình, tôi sẽ báo trước với các ông !”.
Đức Cha Vĩnh Long xưa nay là người ít nói, ngài không tỏ ra linh hoạt và sôi động, nhưng ngài đã không thể im lặng không lên tiếng. Có lần có người nói với Đức Cha “Đức Cha nói làm chi, nói cũng mất, đâu cứu vãn được gì ?”, hôm ấy Đức Cha trả lời: “Nói cũng mất, không nói cũng mất, nhưng không thể không nói sự thật và không thể im lặng trước bất công !”.
Nổi tiếng nhu mì như Đức Cha Chủ Tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam mà cũng không thể im lặng, có lẽ trong những ngày tháng này, những nhát xẻng, nhát cuốc vào lòng đất Giáo Hoàng Học viện Pio X cũng làm đau lòng Đức Cha Chủ Tịch không kém, có lẽ hàng rào bao quanh công trường Giáo Hoàng Học viện mà Đức Cha bảo rằng chẳng biết được những gì xảy ra trong đó, lại cũng vẫn là biểu tượng của sự bưng bít cho những việc dối trá mà Giáo Hội bị gạt ra bên ngoài, không có chỗ để “đồng hành”, có biết gì đâu mà đồng hành và đối thoại !
Chẳng ai muốn lửa bùng lên, chẳng ai muốn mất tình đoàn kết, nhưng quyền lực của sự dữ không chê ai và không chừa ai, Trước đây đã lao đao trong đơn độc một Thiên An (Huế), một Giuse Nha Trang, … rồi bây giờ từ Khâm Sứ, chạy sang Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Vĩnh Long, Đalat, …”Cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng!”, im lặng cũng chẳng được bình an.
Đọc bài “Đọc rồi ngẫm nghĩ” trên thấy lạ lùng thật, cái lạ lùng ở chỗ trong những suy nghĩ rất bình thường của Giáo Hội, tính ngôn sứ vẫn luôn nổi bật lên. Đọc lại những suy tư của vị Giáo Chủ.
BÂY GIỜ IM HAY NÓI ?
Lễ Hiển Linh 2010
Kẻ sang đầu cao mắt sáng nói hay im ?
Mấy ngày nay, trên các trang mạng và dư luận quốc tế, người ta lại xôn xao vụ chính quyền có công văn gởi linh mục Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam, có những bài phân tích phải trái và đưa ra những nhận định nhiều chiều. Những người quan tâm đến tình hình Giáo Hội Việt Nam không thể không có những lo âu băn khoăn qua những biến cố như vậy. Được biết không chỉ một công văn của Ủy Ban Nhân Dân quận 3 mà trước đây Ủy Ban Nhân Dân Tp. Hà Nội cũng đã có văn bản quy kết những điều sai trái cho các linh mục tu sĩ tại Thái Hà. Như vậy tình hình không hề yên ả như nhiều người nghĩ, kết quả chuyến đi Roma của ông Triết hình như lập lại diễn tiến chuyến đi Roma của ông Dũng ! Đó là qui luật ?
Đọc trên trang web Dòng Chúa Cứu Thế có bài "Đọc rồi ngẫm nghĩ" tôi không khỏi chao lòng.
Tôi nhớ trong những ngày vừa qua, khi tôi về Cái Mơn dự lễ an táng cha Hạt trưởng Cái Mơn, ngài là một người bạn cùng lớp với Đức Cha Toma, Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long. Hôm ấy gương mặt Đức Cha buồn lắm, có người nói với tôi là cha Hạt trưởng là bạn đồng môn nên Đức Cha buồn nhiều, có người lại nói rằng Đức Cha mất một lúc hai Hạt trưởng nên Đức Cha buồn, quả thật mất một lúc hai Hạt trưởng thì buồn thật, làm sao không buồn được khi hai người cột trụ ra đi mà lớp kế thừa thì lại quá mỏng, không đủ người lấp chỗ trống, chẳng phải riêng gì Vĩnh Long, Giáo Phận nào cũng vậy, dòng tu nào cũng thế, sự thiếu hụt những thế hệ sau năm 75 đã để lại một khoảng trống quá lớn, hậu quả của chính sách hạn chế tôn giáo đã gây hậu quả rất nghiêm trọng cho Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Nhưng thật tình hôm đó tôi thấy Đức Cha buồn nhiều lắm, ngài im lặng khó hiểu và đôi mắt đăm chiêu nặng nề. Khi bỏ Cái Mơn về lại Vĩnh Long, chạy xe trên con đường ven sông lộng gió của trung tâm thị xã, tôi mới nghiệm ra nỗi buồn của người mục tử.
Hình ảnh công trường đang xây dựng công viên trên nền đất của Giáo Hội bị tước đoạt như một thách thức nền dân chủ, sự tự do và nguyên tắc công bằng. Trong một văn thư trước đây, Đức Cha đã nói với mọi người rằng, ngài lên tiếng để ngày sau ngài không phải trả lẽ trước mặt Chúa, trước lịch sử về sự im lặng của ngài. Gần đây nhất, trong văn thư ngày 28 tháng 11, ngài lại một lần nữa tỏ bày trách nhiệm mục tử của ngài khi lên tiếng, lần này không chỉ nói về một mảnh đất, nhưng về một sự công bằng cần phải có, ngài đòi hỏi phải trả lại sự công bằng cho Giáo Hội, cho người Công giáo, đặc biệt là người Công giáo của Giáo phận Vĩnh Long, ngài gọi biến cố vu oan và tước đoạt năm 1977 là “đại nạn” của Giáo Phận.
Các linh mục Hạt trưởng ngay sau đó đã hiệp thông với vị mục tử của mình và bày tỏ nỗi bức xúc về cách hành xử của chính quyền Vĩnh Long. Nhưng tất cả rơi vào im lặng, công trường tiếp tục thi công, từng tiếng máy xe thi công nổ, từng nhát búa đóng vào lòng đất, từng mảnh tole che lấp sự thật, bưng bít nỗi nhục nhã của bạo quyền, như những vết thương ngày đêm hành hạ trái tim người mục tử.
Ngày chính quyền Vĩnh Long làm lễ khởi công, họ giăng đầy công an trên các nẻo đường, họ diễn tập chống bạo động, chống biểu tình, hai ngả đường dẫn về trung tâm được kiểm soát nghiêm ngặt. Hôm đó Đức Cha buồn lắm, không phải ngài tiếc gì mảnh đất hơn mười ngàn mét vuông ở trung tâm giá không dưới 150 tỉ đồng đã bị cướp mất, nhưng ngài tiếc cho cách hành xử thiếu văn hóa và thô thiển, ngài tiếc cho một nền văn minh xây dựng trên bạo lực, dối trá và bất công. Hình như sau đó ngài có nói với chính quyền “Các ông làm như vậy để làm chi vậy ? Tôi không làm như vậy đâu, nếu tôi biểu tình, tôi sẽ báo trước với các ông !”.
Đức Cha Vĩnh Long xưa nay là người ít nói, ngài không tỏ ra linh hoạt và sôi động, nhưng ngài đã không thể im lặng không lên tiếng. Có lần có người nói với Đức Cha “Đức Cha nói làm chi, nói cũng mất, đâu cứu vãn được gì ?”, hôm ấy Đức Cha trả lời: “Nói cũng mất, không nói cũng mất, nhưng không thể không nói sự thật và không thể im lặng trước bất công !”.
Nổi tiếng nhu mì như Đức Cha Chủ Tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam mà cũng không thể im lặng, có lẽ trong những ngày tháng này, những nhát xẻng, nhát cuốc vào lòng đất Giáo Hoàng Học viện Pio X cũng làm đau lòng Đức Cha Chủ Tịch không kém, có lẽ hàng rào bao quanh công trường Giáo Hoàng Học viện mà Đức Cha bảo rằng chẳng biết được những gì xảy ra trong đó, lại cũng vẫn là biểu tượng của sự bưng bít cho những việc dối trá mà Giáo Hội bị gạt ra bên ngoài, không có chỗ để “đồng hành”, có biết gì đâu mà đồng hành và đối thoại !
Chẳng ai muốn lửa bùng lên, chẳng ai muốn mất tình đoàn kết, nhưng quyền lực của sự dữ không chê ai và không chừa ai, Trước đây đã lao đao trong đơn độc một Thiên An (Huế), một Giuse Nha Trang, … rồi bây giờ từ Khâm Sứ, chạy sang Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Vĩnh Long, Đalat, …”Cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng!”, im lặng cũng chẳng được bình an.
Đọc bài “Đọc rồi ngẫm nghĩ” trên thấy lạ lùng thật, cái lạ lùng ở chỗ trong những suy nghĩ rất bình thường của Giáo Hội, tính ngôn sứ vẫn luôn nổi bật lên. Đọc lại những suy tư của vị Giáo Chủ.
BÂY GIỜ IM HAY NÓI ?
Lễ Hiển Linh 2010
Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam lên tiếng về việc chính quyền quy chụp các linh mục của dòng
Tú Anh (RFI)
02:50 03/01/2010
Ngày 28/12/2009, chủ tịch Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh, ông Phạm Ngọc Hữu ký một công văn dài ba trang gởi Linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, và Linh mục Nguyễn Quang Duy, chánh xứ Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Nội dung kết tội các Linh mục của Dòng đã có những sai phạm, cụ thể là đã hiệp thông với các tín hữu trong vụ Thái Hà, tòa Khâm Sứ, hậu thuẫn tăng ni Bát Nhã, lên tiếng về vụ bauxite Tây nguyên và chủ quyền biển Đông. Dòng Chúa Cứu Thế phản ứng ra sao ? RFI phỏng vấn linh mục Giám tỉnh Phạm Trung Thành.
Xin nghe audio clip dưới đây.
Xin nghe audio clip dưới đây.
Trung Quốc và Việt Nam đón mừng ngày lễ bằng những cuộc đàn áp
Trần Mỹ Lệ
23:07 03/01/2010
Washington Post (Jan 1, 2010)
Mùa Giáng Sinh của Tây Phương năm nay thế mà lại trở thành mùa đàn áp cho những chế độ độc tài toàn trị tại châu Á.
Đúng vào ngày Giáng sinh, Trung Quốc (TQ) đã tuyên án 11 năm tù cho một trong những nhà đối kháng hàng đầu của họ là ông Lưu Hiểu Ba về "tội" giúp tạo dựng bản Hiến Chương 2008 về tuyên ngôn dân chủ. Vài ngày trước đó Bắc Kinh đã xúi giục Campuchia trao cho họ 20 người tị nạn thuộc sắc dân Ngô Duy Nhĩ, những người mà lẽ ra phải được dưới quyền bảo vệ của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc.
Bây giờ là tới phiên Việt Nam, nơi lãnh đạo CS thường hành động theo sự chỉ đạo của TQ đã tuyên phạt nhà đấu tranh dân chủ là ông Trần Anh Kim bằng án tù 5 năm rưỡi tại một phiên tòa do nhà nước kiểm soát, là đợt đầu trong một chuỗi vụ án xử những nhà hoạt động dân chủ. Năm nhà hoạt động (dân chủ) đã bị bắt giữ hồi tháng Sáu trong khi tranh đấu ôn hòa cho các quyền tự do ngôn luận, bầu cử và những cải cách khác. Giống như số phận của những người khác, ông Kim- một vị tướng(*) về hưu- thuộc đảng Dân Chủ VN và là thành viên của khối 8406, một nhóm nguyên đơn cổ võ dân chủ.
Bốn nhà hoạt động còn lại hiện đang chờ ngày ra tòa xét xử gồm có Lê Công Định, một luật sư 41 tuổi từng theo học ở đại học Tulane. Ông đã từng ra tòa biện hộ cho những người hoạt động nhân quyền khác. Ban đầu ông bị cáo buộc với tội danh tuyên truyền chống phá chính phủ, nhưng vào tháng vừa rồi ông và hai nhà đối kháng khác đã bị sửa lại với tội danh mới có thể bị tử hình là hoạt động lật đổ chính phủ.
Họ là những người nổi bật trong số hàng tá những nhà hoạt động cho nhân quyền, những blogger, và những tu sĩ đã bị chính quyền bắt giữ hay khủng bố trong những tháng mới đây. Vào tháng mười vừa qua, một trong những tiểu thuyết gia lừng danh của VN là Nguyễn Xuân Nghĩa và tám người khác đã bị tuyên án từ 2- 6 năm tù về tội treo biểu ngữ yểm trợ dân chủ trên những cây cầu.
Một vài nhà phân tích tình hình VN tin rằng đợt bắt bớ này của chính quyền VN là để dọn đường cho kỳ đại hội đảng dự định sẽ được tổ chức vào năm 2011. Thế nhưng VN chắc chắn cũng như TQ đã ghi nhận thái độ lỏng lẻo của Hoa Kỳ trong vấn đề ủng hộ những nhà đối kháng và trong những công bố (HK) đã nói rõ rằng những vấn đề nhân quyền phải được cân bằng với các quyền lợi khác (của HK). Trong lúc tòa đại sứ HK tại VN chỉ trích việc đàn áp này, ngoại trưởng Hillary Clinton lại chẳng nói gì về việc bắt giữ những người đó khi bà gặp gỡ ngoại trưởng VN hồi tháng mười vừa qua. Thay vào đó bà chỉ chú trọng vào việc gia tăng "gấp 10 lần" quan hệ mậu dịch song phương mà bà nói là đã bắt đầu từ năm 2001.
Sự thăng hoa về mậu dịch đã khiến cho VN trở nên nhạy cảm trước những lời chỉ trích của Tây Phương về hồ sơ nhân quyền của họ. Vì thế việc tạo ra những phiên tòa xử người hoạt động dân chủ trong dịp lễ này chắc chắn không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chiến thuật này có thể có tác dụng: một nhân viên Bộ Ngoại Giao hôm thứ Tư đã nói rằng không có lời tuyên bố công khai nào về trường hợp của ông Kim, bởi vì "không ai hỏi". Người này sau đó đã email cho chúng tôi một lời tuyên bố, nói rằng "Hoa Kỳ thất vọng về kết quả của phiên tòa" và ghi nhận rằng trường hợp của ông Kim là một trong những vụ đã được nêu ra trong buổi nói chuyện Việt - MỸ về vấn đề nhân quyền hồi tháng Mười Một. Thảo nào Hà Nội chẳng coi những cuộc nói chuyện như thế chỉ là chiếu lệ. Chắc chắn nội các Obama đã chẳng làm gì để (người ta) nghĩ khác hơn thế.
Mùa Giáng Sinh của Tây Phương năm nay thế mà lại trở thành mùa đàn áp cho những chế độ độc tài toàn trị tại châu Á.
Đúng vào ngày Giáng sinh, Trung Quốc (TQ) đã tuyên án 11 năm tù cho một trong những nhà đối kháng hàng đầu của họ là ông Lưu Hiểu Ba về "tội" giúp tạo dựng bản Hiến Chương 2008 về tuyên ngôn dân chủ. Vài ngày trước đó Bắc Kinh đã xúi giục Campuchia trao cho họ 20 người tị nạn thuộc sắc dân Ngô Duy Nhĩ, những người mà lẽ ra phải được dưới quyền bảo vệ của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc.
Bây giờ là tới phiên Việt Nam, nơi lãnh đạo CS thường hành động theo sự chỉ đạo của TQ đã tuyên phạt nhà đấu tranh dân chủ là ông Trần Anh Kim bằng án tù 5 năm rưỡi tại một phiên tòa do nhà nước kiểm soát, là đợt đầu trong một chuỗi vụ án xử những nhà hoạt động dân chủ. Năm nhà hoạt động (dân chủ) đã bị bắt giữ hồi tháng Sáu trong khi tranh đấu ôn hòa cho các quyền tự do ngôn luận, bầu cử và những cải cách khác. Giống như số phận của những người khác, ông Kim- một vị tướng(*) về hưu- thuộc đảng Dân Chủ VN và là thành viên của khối 8406, một nhóm nguyên đơn cổ võ dân chủ.
Bốn nhà hoạt động còn lại hiện đang chờ ngày ra tòa xét xử gồm có Lê Công Định, một luật sư 41 tuổi từng theo học ở đại học Tulane. Ông đã từng ra tòa biện hộ cho những người hoạt động nhân quyền khác. Ban đầu ông bị cáo buộc với tội danh tuyên truyền chống phá chính phủ, nhưng vào tháng vừa rồi ông và hai nhà đối kháng khác đã bị sửa lại với tội danh mới có thể bị tử hình là hoạt động lật đổ chính phủ.
Họ là những người nổi bật trong số hàng tá những nhà hoạt động cho nhân quyền, những blogger, và những tu sĩ đã bị chính quyền bắt giữ hay khủng bố trong những tháng mới đây. Vào tháng mười vừa qua, một trong những tiểu thuyết gia lừng danh của VN là Nguyễn Xuân Nghĩa và tám người khác đã bị tuyên án từ 2- 6 năm tù về tội treo biểu ngữ yểm trợ dân chủ trên những cây cầu.
Một vài nhà phân tích tình hình VN tin rằng đợt bắt bớ này của chính quyền VN là để dọn đường cho kỳ đại hội đảng dự định sẽ được tổ chức vào năm 2011. Thế nhưng VN chắc chắn cũng như TQ đã ghi nhận thái độ lỏng lẻo của Hoa Kỳ trong vấn đề ủng hộ những nhà đối kháng và trong những công bố (HK) đã nói rõ rằng những vấn đề nhân quyền phải được cân bằng với các quyền lợi khác (của HK). Trong lúc tòa đại sứ HK tại VN chỉ trích việc đàn áp này, ngoại trưởng Hillary Clinton lại chẳng nói gì về việc bắt giữ những người đó khi bà gặp gỡ ngoại trưởng VN hồi tháng mười vừa qua. Thay vào đó bà chỉ chú trọng vào việc gia tăng "gấp 10 lần" quan hệ mậu dịch song phương mà bà nói là đã bắt đầu từ năm 2001.
Sự thăng hoa về mậu dịch đã khiến cho VN trở nên nhạy cảm trước những lời chỉ trích của Tây Phương về hồ sơ nhân quyền của họ. Vì thế việc tạo ra những phiên tòa xử người hoạt động dân chủ trong dịp lễ này chắc chắn không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chiến thuật này có thể có tác dụng: một nhân viên Bộ Ngoại Giao hôm thứ Tư đã nói rằng không có lời tuyên bố công khai nào về trường hợp của ông Kim, bởi vì "không ai hỏi". Người này sau đó đã email cho chúng tôi một lời tuyên bố, nói rằng "Hoa Kỳ thất vọng về kết quả của phiên tòa" và ghi nhận rằng trường hợp của ông Kim là một trong những vụ đã được nêu ra trong buổi nói chuyện Việt - MỸ về vấn đề nhân quyền hồi tháng Mười Một. Thảo nào Hà Nội chẳng coi những cuộc nói chuyện như thế chỉ là chiếu lệ. Chắc chắn nội các Obama đã chẳng làm gì để (người ta) nghĩ khác hơn thế.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Đức Maria Qua Các Thời Đại (9)
Vũ Văn An
21:29 03/01/2010
Chương tám: Mẫu Mực Khiết Trinh và Mẫu Thân Phúc Đức
Làm sao việc này xẩy ra được, vì tôi không biết người nam? - Lu-ca 1:34
Sự nghịch lý nơi Đức Ma-ri-a, đấng vừa là Mẹ vừa là Trinh Nữ, không những đã thực sự minh họa mà còn dứt khoát khuôn định nên sự nghịch lý căn bản trong quan điểm của Chính Thống Giáo và Công Giáo về vấn đề tính dục, là vấn đề đã được tóm gọn qua việc coi trọng khiết trinh hơn hôn phối, và qua việc cử hành hôn phối, chứ không phải khiết trinh, như là một bí tích. Vì trong tư cách Trinh Nữ, đức Ma-ri-a được coi như mẫu mực độc nhất và tuyệt vời của khiết trinh. Cùng một lúc, với tư cách là Mẹ, Ngài là người duy nhất “có phúc hơn mọi người nữ” như bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ngài và như lời kinh Kính Mừng chào kính Ngài. Có phúc không phải vì là Trinh Nữ, nhưng vì, như bà Ê-li-sa-bét nói, Ngài là “Mẫu Thân của Chúa tôi” (1). Những căng thẳng do sự nghịch lý ấy gây ra đã gây tác động trong suốt phần lịch sử tiếp theo của Kitô Giáo, nhất là trong lịch sử của việc cố gắng xác định ra ý nghĩa của luân lý tính và cuộc sống Kitô Giáo. Đối với cả lịch sử ấy, đức Ma-ri-a cũng là một sức mạnh chính.
Chủ nghĩa khổ hạnh Kitô Giáo chắc chắn đã đi trước chính Kitô Giáo. Thế giới mà Kitô Giáo sơ khai bước vào từng kinh qua một loạt những phong trào mạnh mẽ chủ trương từ khước các yêu sách của cuộc sống thể lý và chuyên chăm tu luyện tự chế đối với thức ăn đồ uống, các tiện nghi xác thân, và nhất là bất cứ hình thức tính dục nào (2). Hạn từ askesis trong tiếng Hy Lạp cổ điển tuy có nghĩa tổng quát chỉ việc thực hành và kỷ luật, giờ này đây được áp dụng đặc biệt vào các thực hành tự chế và tự ép xác mình (3). Ngôn ngữ của kỷ luật nhà binh và luyện tập thể thao được đem áp dụng vào lãnh vực luân lý, để giải thích nhu cầu cần kiêng cữ mong đạt các mục tiêu lớn hơn, cả ở đời này lẫn ở đời sau. Như chính Marcus Aurelius đã nói khi sử dụng các ẩn dụ nhà binh: “cuộc đời là một trận chiến, một cuộc cư ngụ vắn vỏi trên một mảnh đất xa lạ; và sau cuộc tranh chấp, là lãng quên. Như thế, con người biết tìm đâu ra sức mạnh để hướng dẫn và bảo vệ bước chân anh ta? Chỉ ở một điều và chỉ một điều này thôi là Triết Lý. Muốn thành nhà triết lý, người ta cần phải giữ cho cái tinh thần thần minh trong họ tinh khiết nguyên tuyền, để nó có thể thắng vượt mọi khoái lạc và đau đớn” (4). Các trước tác mang tên tông đồ Phaolô cũng dùng tới ngôn ngữ nhà binh để mô tả kỷ luật Kitô Giáo (5). Nhưng ẩn dụ sống động nhất của Thánh Phaolô để chỉ kỷ luật khổ hạnh được lấy từ khoa thể dục thể thao, như đang được thực hành trong thế giới Hy Lạp: “Anh em không biết rằng mọi người trong cuộc đua đều chạy đua hết, nhưng chỉ có một người thắng mà thôi sao? Cho nên anh em hãy chạy đua, để nắm phần thắng. Và hễ ai muốn nắm phần chủ thắng, thì phải kiêng cữ đủ điều. Ấy là họ chỉ nhằm đoạt phần thưởng mau hư; còn chúng ta, chúng ta nhắm phần thưởng không hư nát. Bởi thế tôi chạy đua không phải như người không chắc chắn; tôi đấm, không phải như người đấm không khí. Nhưng tôi giữ gìn thân xác tôi và bắt nó phải phục tùng: kẻo chính mình, cách nào đó, lại bị loại sau khi đã rao giảng cho người khác” (6). Giữ gìn thân xác và bắt nó phải phục tùng, rõ ràng đó là nhiệm vụ của bất cứ người Kitô hữu nào, nhưng cuối cùng đã trở thành lãnh vực riêng của những nhà khổ tu chuyên nghiệp.
Tuy không nhất thiết, nhưng đôi khi cái sung động khổ hạnh kia bắt rễ từ một chủ nghĩa nhị nguyên siêu hình học, bất kể có nguồn gốc nơi Platông hay không. Đây là một quan điểm về thế giới và bản tính con người, chủ trương rằng các thèm muốn nơi con người, nhất là thèm muốn tính dục, xuất phát từ một nguồn hạ cấp trong tạo dựng và loài vật hạ cấp nào cũng có. Những thèm muốn này chống lại các lệnh truyền của trí khôn và bản tính siêu đẳng trong con người, đến nỗi phương cách duy nhất để giải thoát tâm tư và trí khôn là vượt thắng các thèm muốn ấy bằng hy sinh từ bỏ. Dù không trực tiếp nối kết với lối suy luận trên, nhưng định chế Rôma thời cổ quả có buộc các trinh nữ giữ lửa (vestal virgins) phải duy trì sự trinh tiết của họ suốt thời gian phục vụ đền thờ, thường là 5 năm nhưng đôi khi lâu hơn, và sẵn sàng chôn sống họ nếu họ vi phạm lệnh buộc này (7).
Điều xem ra hiển nhiên là việc tôn kính sự trinh khiết và việc trau dồi khổ hạnh, ít nhất một phần, đã phát sinh từ thái độ tởm gớm đối với điều bị coi là những quá trớn trong việc dung túng tính dục thời Hậu Cổ Đại. Các nhà duy luân lý sau này thích trích lại lời các nhà trào phúng La Mã như Tacitus, Juvenal, và Martial nói về những điều quá trớn này; ngay Edward Gibbon, vốn không dấu diếm là mình chống đối phong trào đan sĩ và khổ tu, từng theo chân Tacitus sống “niềm khóai lạc trung thực chống lại cái đức hạnh man rợ (của người Đức) với tác phong phóng đãng của các mệnh phụ La Mã” cũng ghi nhận rằng “kẻ thù nguy hiểm nhất của [trinh khiết] là sự mềm yếu của tâm trí” (8). Như Peter Brown đã nhận xét, trong xã hội Hậu Cổ Đại, người ta có cảm thức khá phổ quát rằng cần phải cứu cuộc sống con người khỏi khuynh hướng buông thả giác quan, và sự thánh thiện đích thực chỉ có khi người ta chịu từ bỏ điều mà Gibbon gọi là “sự mềm yếu của tâm trí” để mà tự chế (9). Và nếu điều này đúng cho các cá nhân, thì nó cũng đúng cho cả xã hội nữa. Cho nên xã hội cần có sự hiện diện của những nhà khổ tu toàn thời gian và vĩnh viễn. Họ sẽ là những thách đố và gương sáng đối với những kẻ chỉ biết sống cuộc sống tầm thường của thèm muốn và giác quan.
Thúc đẩy khổ hạnh thời Hậu Cổ Đại gây ảnh hưởng bàng bạc đến độ ngay cả Do Thái Giáo cũng phần nào chịu sức chi phối của nó. Trong định chế gọi là Nazarites [nadia], được mô tả trong sách Dân Số, Israel từng có một nhóm người tự buộc mình giữ những lời khấn thánh thiêng phải sống trong sự từ bỏ mình, “khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Thiên Chúa” (10). Nổi tiếng hơn cả có Samson, người, theo lời thiên thần Chúa báo tin cho cha ông là Manoah, đã được chỉ định làm “một nadia để dâng kính Thiên Chúa ngay từ lòng mẹ”(11). Nhưng triết gia kiêm thần học gia Do Thái là Philo thành Alexandria, người cùng thời với Chúa Giê-su và thánh Phaolô, trong khảo luận tựa là Bàn Về Đời Sống Chiêm Niệm, còn cung cấp nhiều chi tiết hơn nữa về phong trào khổ hạnh Do Thái trong nhóm được ông gọi là “Therapeutae”, gồm cả đàn ông lẫn đàn bà sống thành cộng đoàn đan sĩ tại các sa mạc Ai Cập gần Alexandria. Philo cho hay trong số những người này “nhiều phụ nữ cũng tham dự …, mà phần đông, dù đã già, là trinh nữ về phương diện đức trong sạch (không do bắt buộc như một số nữ tư tế của người Hy Lạp, là những người bị buộc phải giữ trinh khiết hơn là tự ý tuân giữ), nhưng do lòng ngưỡng mộ và yêu mến đức khôn ngoan mà họ muốn có để sống cuộc sống của mình, nhờ thế, họ lãnh đạm đối với các khoái cảm thân xác, không muốn có con cái mau chết, chỉ mong muốn các con cái trường sinh” (12). Sự giống nhau rất rõ nét giữa các cộng đoàn Therapeutae trong Do Thái Giáo Hy Lạp này và phong trào đan sĩ thời Kitô Giáo sơ khai đã khiến Eusebius, nhà sử học đầu tiên của Kitô Giáo, tin rằng thực ra Philo đang đề cập đến một nhóm Kitô hữu; trích lại đoạn văn trên, Eusebius coi chứng cớ ấy là những “điển hình rõ nét hơn, chỉ tìm thấy trong tôn giáo Phúc Âm của người Kitô hữu” (13). Theo nhận xét của Eusebius, đến thế kỷ thứ tư, phong trào khổ hạnh và đan sĩ bắt đầu vững mạnh trong Giáo Hội. Tài liệu quan trọng nhất chứng minh điều trên là cuốn Hạnh Thánh Antôn của thánh Athanasiô thành Alexandria, cũng là tiểu sử một đan sĩ trong sa mạc Ai Cập, nhưng giờ đây là một đan sĩ Kitô Giáo, người học cách “làm khỏe thân xác mình bằng đức tin, cầu nguyện, và ăn chay” ngay cả khi “ma qủy mang hình dáng một người đàn bà và bắt chước mọi hành vi của người đàn bà này để đánh lừa Antôn” (14). Điều ý nghĩa là nhờ bản dịch Hạnh Thánh Antôn sang tiếng Latinh, có lẽ được thực hiện khi thánh Athanasiô đang bị đầy biệt xứ tại Phương Tây, mà Thánh Augustinô học biết về phong trào khổ hạnh Kitô Giáo (15).
Như mọi người chờ mong, các nhà hộ giáo bênh vực cho phong trào khổ hạnh Kitô Giáo đã chú mục vào đức Trinh Nữ Ma-ri-a, coi Ngài là mẫu mực đời sống khiết trinh và hãm mình. Thánh Athanasiô đã làm như thế trong Thư Gửi Các Trinh Nữ của mình, trong đó thánh nhân mô tả đức Ma-ri-a bằng một ngôn từ có mục đích khích lệ các nữ khổ hạnh được ngài viết thư cho (16). Nổi tiếng không kém trong hàng hộ giáo này phải kể thánh Giêrôm, người từng gây ảnh hưởng lớn lao đối với nhiều người cùng thời. Thí dụ, như Peter Brown từng nói, “cuộc thư từ qua lại lâu dài” của ngài với thánh Augustinô về nhiều đề tài khác nhau, đã “là một tài liệu độc đáo thời Giáo Hội Sơ Khai. Vì nó cho thấy hai con người có trình độ giáo hóa cao đã tiến hành một cách lịch lãm một cuộc thư từ qua lại đầy nét đắng cay” (17). Tầm quan trọng lớn nhất của thánh Giêrôm trong lịch sử chắc chắn là công trình ngài dịch Thánh Kinh sang tiếng Latinh, tuy nhiên ngài còn nhiều đóng góp to lớn khác. Trong số này, hai đóng góp có ảnh hưởng tầm xa hơn cả là các cơ sở đan sĩ và học lý về đức Ma-ri-a của ngài. Lúc đầu đời, trước khi thụ phong linh mục, thánh Giêrôm sống như một ẩn tu trong sa mạc Syria tại Chalcis, chuyên chăm thực hành khổ hạnh và nghiên cứu bác học, gồm cả việc học tiếng Híp-ri, một việc giúp ích cho ngài rất nhiều khi phải bình luận và phiên dịch Sách Thánh Do Thái. Rồi sau đó làm nghề công chức tại Constantinốp rồi làm thư ký riêng cho Đức Giáo Hoàng Đamasô tại Rôma; nhưng cả lúc đó nữa, ngài cũng vẫn là người mạnh mẽ bênh vực cuộc sống khổ hạnh, thuyết phục được nhiều mệnh phụ qúy tộc La Mã, kể cả Paula và con gái bà là Eustochium cũng như Marcella và Melania, từ bỏ cuộc sống ưu đãi và địa vị của mình trong một xã hội thời thượng của Rôma để bước vào các cộng đoàn đan sĩ.
Các cộng đoàn này có mặt tại Palestine, nơi thánh Giêrôm rời cư vào năm 386 và lập một đan viện tại Bêlem. Vì thấy rằng “trong thời kỳ này, không một phụ nữ Rôma thuộc giai cấp thượng lưu nào đã khấn sống cuộc sống đan viện hay dám công khai tuyên bố mình là một nữ tu sĩ - một điều xem ra quá lạ lùng và chẳng đáng hãnh diện chút nào vào thời điểm này”, nên ngài cho rằng chính Hạnh Thánh Antôn của thánh Athanasiô đã có công gợi hứng cho Marcella cũng như các phụ nữ khác can đảm chọn lối sống khổ hạnh (18). Trong một bức thư gửi cho Eustochium khi nghe tin mẹ của bà qua đời, một bức thư “phải khổ công hai đêm để đọc cho người ta viết” (19) và dài gần như một cuốn tiểu sử bỏ túi, thánh Giêrôm đã mô tả chi tiết lối sống khổ hạnh của Paula và cộng đoàn đan sĩ dành cho các phụ nữ hiến thân do bà đứng đầu. Ngài giải thích: “Paula nghiêm nhặt tách các chị em ra khỏi nam giới đến nỗi đã không cho cả các hoạn quan đến gần họ, kẻo liều mình tạo cơ hội cho các miệng lưỡi gian xảo (luôn sẵn sàng gièm pha tôn giáo) có thể tìm cách biện hộ cho các ác ý riêng của họ” (20). Trong một bức thư khác gửi cho Gaudentius, trong đó có nhiều đoạn rất cảm động nói về việc cướp phá Rôma năm 410 (21), thánh nhân nói đến ơn gọi sống khiết trinh. Sau khi đã nhấn mạnh rằng “điều tôi nói tôi không muốn áp dụng cho mọi người”, nhưng ngài vẫn hỏi Gaudentius “ông có đồng trinh không? Vậy tại sao ông lại thích tìm khoái cảm trong giao tiếp với phụ nữ?”. Và đối với một cô gái được người cha dâng tiến sống đời khiết trinh ngay lúc còn thơ ấu, ngài khuyên cô “chỉ nên giao tiếp với các thiếu nữ mà thôi, không nên biết gì về con trai và cũng nên sợ đừng chơi với chúng” (22).
Nhưng cùng một lúc, thánh Giêrôm cũng là một trong những nhà giải thích gây ảnh hưởng nhiều hơn hết trong Giáo Hội sơ khai về cuộc đời và con người của đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Để chống lại Jovinian, người tuy là một đan sĩ nhưng lại tấn công điều ông cho là cái nhìn phóng đại về sự khiết trinh, thánh Giêrôm đã soạn thảo một bài tranh luận rất sắc sảo, trong đó, nói theo một cuốn giáo khoa trình bày văn chương Kitô Giáo sơ khai, “sự giải thích đề nghị cho đoạn 1 Cor 7 cùng với những kiểu nói tượng hình rút từ văn chương chống phụ nữ của ngoại giáo đã gây nên nhiều ganh ghét” (23). Cuốn chuyên khảo Chống Helvidius viết năm 383 là để bênh vực sự khiết trinh của đức Ma-ri-a, “để minh chứng rằng mẹ [Chúa] Con, đấng làm mẹ trước khi làm nàng dâu, vẫn tiếp tục là một Trinh Nữ cả sau khi Con của Ngài được hạ sinh” (24). Lợi dụng kỹ năng đáng sợ về tu từ học của một nhà tranh biện chuyên nghiệp và kỹ năng ngoại hạng của một học giả Thánh Kinh, thánh Giêrôm đã chứng tỏ được rằng các ám chỉ trong Tân Ước nói đến Chúa Giê-su như là Con đầu lòng của đức Ma-ri-a không nhất thiết có ý nói đức Ma-ri-a còn có những con trai khác sau Chúa Giê-su, vì “bất cứ con trai duy nhất nào cũng là con trai đầu lòng, nhưng không phải mọi con trai đầu lòng đều là con trai duy nhất” (25). Thánh nhân cũng dành nhiều luận chứng dài dòng và cẩn trọng bàn đến vấn đề do các trích đoạn từ Phúc Âm nói đến “anh em” của Chúa Giê-su (26). Để giải quyết vấn đề này, thánh Giêrôm chủ trương rằng: “các con trai của bà Ma-ri-a, chị em họ với mẹ Chúa Giê-su, người trước đây không tin nhưng sau đó tin, cũng có thể gọi được là anh em của Chúa” (27). Việc thánh Giêrôm bênh vực sự trinh khiết suốt đời của đức Ma-ri-a đã trở thành luận chứng tiêu chuẩn, được mọi người trình bày học lý này sau đó sử dụng, kể cả chính Martin Luther. Nhưng sau khi hoàn tất phần nói về đức Ma-ri-a, thánh Giêrôm còn thêm phần thảo luận về công phúc tương đối giữa khiết trinh và hôn nhân, một vấn đề từng được Helvedius bàn đến và giờ đây được thánh nhân trả lời. Helvedius đặt vấn đề như thế này: “Các người đồng trinh có trọng hơn Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, là những người đàn ông có vợ, hay không? Há hàng ngày các hài nhi đang không được bàn tay Thiên Chúa tạo nên trong cung lòng các bà mẹ của chúng hay sao?”. Helvedius muốn hàm ý rằng ít nhất hôn nhân cũng thánh thiện chẳng kém bậc đồng trinh (28).
Câu trả lời của thánh Giêrôm muốn chứng tỏ nó nối tiếp luận chứng của thánh tông đồ Phaolô: “Đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng…Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn” (29). Điều này không có nghĩa hôn nhân là điều xấu: nó tốt nhưng giữ được trinh khiết thì tốt hơn. Dựa vào thế giá Tân Ước này, thánh Giêrôm cảm thấy mình đủ tư cách nói rằng: “tôi khẩn thiết xin qúy độc giả đừng cho rằng, khi ca ngợi khiết trinh, ít nhất tôi cũng đã coi rẻ hôn nhân, và phân rẽ các thánh của Cựu Ước với các thánh của Tân Ước, nghĩa là các đấng có vợ con và các đấng tự ý hãm mình không hưởng vòng tay êm ái của phụ nữ” (30). Tuy thế, trên thực tế, thánh Giêrôm quả có coi rẻ hôn nhân thật – và do đó các phụ nữ nói chung – như trong đoạn văn sống động sau đây, một đoạn văn ngài sử dụng nhuần nhuyễn kỹ năng tu từ học đến chẳng thua gì Cicero: "Mục tiêu của trinh nữ là tỏ ra bớt duyên dáng đi; nàng sẽ phải tự đánh lừa mình để che dấu nét quyến rũ tự nhiên của mình. Người đàn bà có chồng thì son phấn đầy trước gương, và, như để chửi đấng Hóa Công dựng nên nàng, nàng cố gắng làm sao để đạt được điều gì đó tốt hơn chính nét đẹp tự nhiên của mình. Nhưng rồi tiếng lách cách của trẻ thơ, tiếng ồn ào khắp nhà, con cái đợi lệnh mẹ, chờ mẹ hôn, cộng các khoản tiêu, chuẩn bị các khoản chi… Trong khi ấy thì tin nhắn chồng và bạn hữu sắp về. Người vợ như con én bay khắp nhà. Phải quán xuyến mọi chuyện. ‘Tràng kỷ êm chưa? Hè nhà quét chưa? Hoa đã cắm trong bình chưa? Cơm đã sẵn sàng chưa?’ Tôi xin qúy độc giả hãy cho tôi biết giữa cảnh ấy liệu còn chỗ để nghĩ đến Chúa hay không?" (31).
Điều mô tả trên không thể không gây ấn tượng tiêu cực đối với hôn nhân. Để tránh ấn tượng ấy, chỉ còn biết trích một lời khác cũng của chính thánh Giêrôm: “Chúng tôi không lên án hôn nhân, vì trinh khiết xét cho cùng cũng là hoa trái của hôn nhân” (32).
Thiếu sót trong bài trình bày trên của thánh Giêrôm trước hết là đã không xem sét tỉ mỉ hơn về việc đức Ma-ri-a không những là Trinh Nữ mà đồng thời còn là Mẹ nữa, và thứ hai, một tuyên bố rõ ràng hơn về tính bí tích của hôn nhân. Điều thứ nhất được người đồng nghiệp và cũng là người đã đưa thánh Augustinô tới Phúc Âm Kitô Giáo, là thánh Ambrôsiô thành Milan, đem lại cho chúng ta. Hơn cả thánh Augustinô, thánh Ambrôsiô được mệnh danh là Tiến Sĩ Thực Sự Về Đức Ma-ri-a, ít nhất một phần cũng do ngài dựa mạnh vào truyền thống Kitô Giáo Hy Lạp.
Thánh Ambrôsiô là người đầu tiên đưa ra “mối liên kết nhân quả giữa việc thụ thai đồng trinh và việc Chúa Kitô không hề có tội…, việc tổng hợp các ý niệm lưu truyền tội nguyên tổ qua giao hợp tính dục và Chúa Giê-su không tội lỗi vì được tượng thai cách đồng trinh” (33); việc tổng hợp này cuối cùng đã thúc đẩy Giáo Hội Phương Tây đến chỗ định nghĩa ra học lý vô nhiễm nguyên tội nơi đức Ma-ri-a (34). Không kém thánh Giêrôm, thánh Ambrôsiô cũng nhấn mạnh đến việc đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh. Theo thánh Ambrôsiô, Đức Ma-ri-a là Đấng “không tìm an ủi ở chỗ có thể sinh thêm con trai” (35). Thánh nhân cũng theo quan điểm của thánh Phaolô mà nhìn nhận rằng trinh khiết ở bình diện cao hơn hôn nhân, và đã mạnh mẽ chống lại những ai cho rằng: “kiêng cữ chẳng có công gì, sống thanh đạm chẳng được ơn phúc chi, cả trinh khiết cũng thế, tất cả đều ngang nhau, cùng một giá” (36). Giống thánh Giêrôm, thánh Ambrôsiô cũng dành một số trước tác để bàn tới chủ đề trinh khiết, kể cả chuyên khảo Liên Quan Đến Các Trinh Nữ. Cuốn giáo khoa về văn chương thời Kitô Giáo sơ khai, đã trích trên đây về thánh Giêrôm, khi nói về thánh Ambrôsiô, đã viết như sau: “Trước tác này, được coi như chuyên khảo linh đạo và thần học Latinh đầu tiên có tổ chức nói về chủ đề trinh khiết, đã đưa ra một phê phán khá quân bình và tích cực về hôn nhân” (37). Trong Tập II của chuyên khảo này, sau khi trình bày cho bà chị của mình là Marcellina các mô tả và lời khuyên liên quan đến cuộc sống khiết trinh, ngài đã liên tưởng tới đức Ma-ri-a: “Như thế chị hãy đặt cuộc sống của đức Ma-ri-a, một cuộc sống vốn dĩ khiết trinh, làm mẫu mực, qua đó, như thể qua một tấm gương, dáng vẻ khiết trinh và hình vóc nhân đức có thể phản chiếu lại. Nhờ đó, chị có thể mô phỏng cuộc sống của chính chị, tỷ dụ như biểu lộ ra các qui luật rõ rệt của nhân đức: điều chị phải sửa đổi, phải thực hiện và phải bám lấy” (38).
Đề cao Ngài là mẫu mực của cuộc sống Kitô Giáo, thánh Ambrôsiô đã mô tả các nhân đức của đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nhất là sáu nhân đức sau đây: “Bí quyết đoan trang, ngọn cờ đức tin, bí quyết sùng kính, Trinh Nữ trong gia hộ, đồng thừa tác vụ [với Chúa Kitô], Mẫu Thân nơi đền thờ” (39). Nhưng bộ ba thứ hai trong hai bộ ba trên “Trinh Nữ trong gia hộ, đồng thừa tác vụ [với Chúa Kitô] và Mẫu Thân nơi đền thờ” cho phép thánh Ambrôsiô đi xa hơn bộ ba thứ nhất “bí quyết đoan trang, ngọn cờ đức tin, bí quyết sùng kính” và nhờ đó, làm cho bức chân dung của mình sâu sắc hơn bức chân dung của Thánh Giêrôm. Bộ ba đầu mô tả đức Trinh Nữ trong cõi tư riêng của tâm hồn, trong huyền nhiệm giữa Ngài và Thiên Chúa, trong khi bộ ba thứ hai hướng ra bên ngoài, tới sứ mệnh lịch sử làm Mẹ Chúa Kitô của Ngài. Vì “Trinh Nữ trong gia hộ” cũng là “Mẫu Thân nơi đền thờ”, và vì Ngài không phải chỉ là Trinh Nữ mà còn là Mẫu Thân nữa, nên Ngài là “bạn đồng hành trong sứ vụ của Chúa Kitô”. Điều ấy rọi một ánh sáng mới vào nhiều trình thuật trong Phúc Âm, nhưng nó cũng có xu hướng đưa cả sự trinh khiết của đức Ma-ri-a vào ngữ cảnh chức phận làm Mẹ Thiên Chúa của Ngài, như W.J. Dooley từng nêu rõ (40). Từ trình thuật của Phúc Âm, Thánh Ambrôsiô đã suy diễn rằng “Bất cứ điều gì Ngài làm đều là một bài học”; vì Ngài “chú ý đến mọi sự như thể được nhiều người cảnh giác, và chu toàn mọi nghĩa vụ nhân đức như thể đang giảng dậy chứ không phải học tập” (41). Bởi thế, thánh Ambrôsiô nhấn mạnh đến “sự sung mãn phục vụ” của đức Ma-ri-a và đến việc Ngài vừa “bận bịu việc riêng trong nhà” vừa “được người khác tháp tùng ra bên ngoài” (42) – dĩ nhiên bao gồm cả những “bận bịu” được thánh Giêrôm mô tả trên đây.
Thuyết nhị nguyên siêu hình, đã được nhắc trên đây như một hệ luận của phong trào khổ hạnh thời Hậu Cổ Đại, không biến mất với việc xuất hiện của Kitô Giáo, ngược lại đã chiếm được một chỗ đứng trong tư duy Kitô Giáo, nhất là trong tư duy của nhiều thần học gia Kitô Giáo vốn liên kết Kitô Giáo với chủ nghĩa Tân Platông. Với việc liên kết ấy, phong trào khổ hạnh Kitô Giáo sẽ xuất đầu lộ diện thành một hình thức từ bỏ thân xác, một điều xem ra muốn nói rằng Thiên Chúa không hề tạo ra thân xác, và do đó, ghét bỏ tính dục bằng cách coi nó ngang hàng với vô luân. Vì phần đông các tác giả viết về đề tài này là đàn ông và là đàn ông độc thân, nên sự ghét bỏ kia dễ dàng biến thành khinh bỉ có tính kỳ thị chống lại đàn bà, coi họ như cạm bẫy của ma qủy để hủ hóa lối sống thiên thần [vita angelica] của các nhà khổ hạnh hay các đấng trượng phu độc thân. Bởi thế, nhu cầu thứ hai là phải xác định hôn nhân như một bí tích của Giáo Hội, một diễn trình thật lâu dài và phức tạp. Lạ một điều: trong danh sách sau cùng của bẩy bí tích, hôn nhân là bí tích duy nhất được Tân Ước coi như một mầu nhiệm [mysterion] hay bí tích [sacramentum] (43). Dù những hạn từ này khởi nguyên không được dùng trong tiếng Hy Lạp lẫn tiếng Latinh theo nghĩa chuyên môn để chỉ bí tích như bây giờ, nhưng chúng quả có góp phần vào việc xác định hôn nhân như là bí tích (44).
Vai trò của học lý về đức Ma-ri-a trong việc phát triển học lý về hôn nhân không được rõ ràng mấy. Bức tranh của Giotto vẽ cảnh Đám Cưới Trinh Nữ tại Nhà Nguyện Arena ở Padua cho thấy rõ điều trên, một bức tranh từng lôi cuốn John Ruskin rất mạnh (45). Nhìn hời hợt, đây chỉ là một bức tranh khác vẽ cảnh đám cưới với cô dâu chú rể vận lụa là gấm vóc và khách khứa hỗ trợ họ bằng yêu thương và cầu nguyện. Nhưng nhìn kỹ, ta thấy có điều gì đó hết sức độc đáo trong đám cưới này và nơi đôi tân hôn này, nhất là cô dâu, người, vì trước đó khấn giữ khiết trinh, nên vừa tham dự vừa không tham dự vào diễn trình hân hoan này. Nhìn bức tranh, người ta không thể không nhớ đến bức chân dung Thánh Phanxicô Cưới Nàng Nghèo, được nhắc đến trong Bài XI tác phẩm Paradiso của Dante, trong đó, việc thánh Phanxicô từ bỏ những sự thiện thế gian đã được thánh hiến bằng một nghi lễ đầy tính ẩn dụ thường dùng để ban phát chính các sự thiện thế gian kia (46). Ở đây cũng thế, đám cuới là đám cưới thật sự, nhưng nó có đặc tính độc đáo chỉ vì Cô Dâu. Vì nàng là “Cô Dâu Không Cưới” [nymphos anymphetos] như thánh ca tiếng Hy Lạp Akathistos vốn tặng cho nàng.
Vì một đàng, cả các thần học gia lẫn các luật gia giáo luật đều bênh vực luận đề cho rằng cuộc hôn nhân của đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là cuộc hôn nhân thực sự dù không được hoàn hợp về phương diện tính dục, vì dựa vào nguyên tắc sau: “chính sự ưng thuận, chứ không phải giao hợp tính dục, làm nên một cuộc hôn nhân [consensus, non concubitus, facit connubium]”. Cho nên, “một cuộc hôn nhân trong đó cả hai người phối ngẫu đều tự nguyện và vì những động lực siêu nhiên noi theo tiền lệ của đức Ma-ri-a và thánh Giu-se mà thực hành tiết chế hoàn toàn, hoặc ngay những ngày đầu hoặc về sau này” thì được gọi là cuộc hôn nhân theo kiểu thánh Giu-se [Josephsehe] và có tư cách một kết hợp thành sự (47). Nhưng đàng khác, dựa trên cái nhìn huyền nhiệm coi đức Ma-ri-a như là nguyên mẫu (archetype) của Giáo Hội và coi Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, thì thật khó có thể diễn dịch được các hệ luận rõ ràng cho bản tính bí tích của hôn nhân nhân bản, vốn không do Chúa Kitô thiết lập lúc còn trên dương gian (ngay cả ở tiệc cưới Cana miền Galilê) (48) nhưng là do đấng Tạo Hóa đã dựng nên Adong và E-và trong vườn Địa Đàng trước khi sa ngã phạm tội. Thế nhưng, như cách mô tả đức Ma-ri-a như một Trinh Nữ để chống lại những cái quá lạm về tính dục của thời Hậu Cổ Đại thế nào, thì cách mô tả Ngài như một người mẹ cũng để chống lại những cái quá lạm của phong trào khổ hạnh như vậy. Sự thật xem ra nằm ở chỗ nghịch lý.
_____________________________________________________________________
Ghi Chú
1. Lc 1:42.
2. Bernhard Lohse, Askese und Monchtum in der Antike und in der alten Kirche (Munich: R. Oldenborg, 1969).
3. Lampe, 244.
4. Marcus Aurelius Meditations II.17 (bản dịch của Maxwell Staniforth).
5. Trên hết là Eph. 6:10-17; nhưng cả 1Tm 6:12, 2Tm 4:7, và những chỗ khác nữa.
6. 1Cor 9:24-27.
7. Plutarch Parallel Lives, Numa, 10.
8. Jaroslav Pelikan, The Excellent Empire: The Fall of Rome and the Triumph of the Church (New York: Harper and Row, 1987),59.
9. Peter Robert Lamont Brown, The Body and Society: Men, Women, and Sexual Renunciation in Early Christianity (New York: Columbia University Press, 1988).
10. Dân Số 6:2.
11. Thủ Lãnh 13:5.
12. Philo trong the Contemplative Life 68 (bản dịch của C.D. Yonge).
13. Eusebius Ecclesiastical History II.xvii.18-19 (bản dịch của Arthur Cushman McGiffert Sr).
14. Thánh Athanasiô Life of Anthony 5.
15. Thánh Augustinô Confessions VIII.vi.14-15.
16. Development of Chriatian Doctrine: Some Historical Prolegomena, 100-104.
17. Peter Brown, Augustine of Hippo (London: Faber, 1969), 274.
18. Thánh Giêrôm Epistles 127.5.
19. Thánh Giêrôm Epistles 108.33.
20. Thánh Giêrôm Epistles 108.20.
21. Xem Pelikan, Excellent Empire, 43-52.
22. Thánh Giêrôm Epistles 128.3.
23. Joannes Quasten, Patrology 4 cuốn (Westminster, Md.: Newman Press and Christian Classics, 1951-1986), 4:239; khảo luận naỳ xuất hiện trong PL 23:211-338.
24. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 2.
25. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 12.
26. Xem chương 2 ở trên.
27. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 16.
28. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 20.
29. 1Cor 7:1-2, 38.
30. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 22.
31. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 22.
32. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 21.
33. Joseph Huhn, Das Geheimmis der Jungfrau-Mutter Ma-ri-a nach dem Kirchenvater Ambrosius (Wurzburg:Echter Verlag, 1954), 79-80.
34. Xem chương 14 ở dưới.
35. Thánh Ambrôsiô Epistles 63.111.
36. Thánh Ambrôsiô Epistle 63.7.
37. Quasten, Patrology, 4:167.
38. Thánh Ambrôsiô Concerning Virgins II.ii.6.
39. Thánh Ambrôsiô Concerning Virgins II.ii.15.
40. W.J. Dooley, Marriage According to St. Ambrose (Washington D.C.:Catholic Universita of America, 1948).
41. Thánh Ambrôsiô De virginibus II.ii.9.
42. Thánh Ambrôsiô De virginibus II.ii. 8-9.
43. Eph. 5:32.
44. Xem The Christian Tradition , 3:211-212.
45. John Ruskin, Giotto and his Works in Padua: Being an Explanatory Notice of the Series of Woodcuts Executed for the Arundel Society After the Frescoes in the Arena Chapel (London: Arundel Society, 1854).
46. Xem chương 10 ở dưới.
47. LTK 5:1140-41 (Joseph Wenner).
48. Ga 2:1-11.
Làm sao việc này xẩy ra được, vì tôi không biết người nam? - Lu-ca 1:34
Sự nghịch lý nơi Đức Ma-ri-a, đấng vừa là Mẹ vừa là Trinh Nữ, không những đã thực sự minh họa mà còn dứt khoát khuôn định nên sự nghịch lý căn bản trong quan điểm của Chính Thống Giáo và Công Giáo về vấn đề tính dục, là vấn đề đã được tóm gọn qua việc coi trọng khiết trinh hơn hôn phối, và qua việc cử hành hôn phối, chứ không phải khiết trinh, như là một bí tích. Vì trong tư cách Trinh Nữ, đức Ma-ri-a được coi như mẫu mực độc nhất và tuyệt vời của khiết trinh. Cùng một lúc, với tư cách là Mẹ, Ngài là người duy nhất “có phúc hơn mọi người nữ” như bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ngài và như lời kinh Kính Mừng chào kính Ngài. Có phúc không phải vì là Trinh Nữ, nhưng vì, như bà Ê-li-sa-bét nói, Ngài là “Mẫu Thân của Chúa tôi” (1). Những căng thẳng do sự nghịch lý ấy gây ra đã gây tác động trong suốt phần lịch sử tiếp theo của Kitô Giáo, nhất là trong lịch sử của việc cố gắng xác định ra ý nghĩa của luân lý tính và cuộc sống Kitô Giáo. Đối với cả lịch sử ấy, đức Ma-ri-a cũng là một sức mạnh chính.
Chủ nghĩa khổ hạnh Kitô Giáo chắc chắn đã đi trước chính Kitô Giáo. Thế giới mà Kitô Giáo sơ khai bước vào từng kinh qua một loạt những phong trào mạnh mẽ chủ trương từ khước các yêu sách của cuộc sống thể lý và chuyên chăm tu luyện tự chế đối với thức ăn đồ uống, các tiện nghi xác thân, và nhất là bất cứ hình thức tính dục nào (2). Hạn từ askesis trong tiếng Hy Lạp cổ điển tuy có nghĩa tổng quát chỉ việc thực hành và kỷ luật, giờ này đây được áp dụng đặc biệt vào các thực hành tự chế và tự ép xác mình (3). Ngôn ngữ của kỷ luật nhà binh và luyện tập thể thao được đem áp dụng vào lãnh vực luân lý, để giải thích nhu cầu cần kiêng cữ mong đạt các mục tiêu lớn hơn, cả ở đời này lẫn ở đời sau. Như chính Marcus Aurelius đã nói khi sử dụng các ẩn dụ nhà binh: “cuộc đời là một trận chiến, một cuộc cư ngụ vắn vỏi trên một mảnh đất xa lạ; và sau cuộc tranh chấp, là lãng quên. Như thế, con người biết tìm đâu ra sức mạnh để hướng dẫn và bảo vệ bước chân anh ta? Chỉ ở một điều và chỉ một điều này thôi là Triết Lý. Muốn thành nhà triết lý, người ta cần phải giữ cho cái tinh thần thần minh trong họ tinh khiết nguyên tuyền, để nó có thể thắng vượt mọi khoái lạc và đau đớn” (4). Các trước tác mang tên tông đồ Phaolô cũng dùng tới ngôn ngữ nhà binh để mô tả kỷ luật Kitô Giáo (5). Nhưng ẩn dụ sống động nhất của Thánh Phaolô để chỉ kỷ luật khổ hạnh được lấy từ khoa thể dục thể thao, như đang được thực hành trong thế giới Hy Lạp: “Anh em không biết rằng mọi người trong cuộc đua đều chạy đua hết, nhưng chỉ có một người thắng mà thôi sao? Cho nên anh em hãy chạy đua, để nắm phần thắng. Và hễ ai muốn nắm phần chủ thắng, thì phải kiêng cữ đủ điều. Ấy là họ chỉ nhằm đoạt phần thưởng mau hư; còn chúng ta, chúng ta nhắm phần thưởng không hư nát. Bởi thế tôi chạy đua không phải như người không chắc chắn; tôi đấm, không phải như người đấm không khí. Nhưng tôi giữ gìn thân xác tôi và bắt nó phải phục tùng: kẻo chính mình, cách nào đó, lại bị loại sau khi đã rao giảng cho người khác” (6). Giữ gìn thân xác và bắt nó phải phục tùng, rõ ràng đó là nhiệm vụ của bất cứ người Kitô hữu nào, nhưng cuối cùng đã trở thành lãnh vực riêng của những nhà khổ tu chuyên nghiệp.
Tuy không nhất thiết, nhưng đôi khi cái sung động khổ hạnh kia bắt rễ từ một chủ nghĩa nhị nguyên siêu hình học, bất kể có nguồn gốc nơi Platông hay không. Đây là một quan điểm về thế giới và bản tính con người, chủ trương rằng các thèm muốn nơi con người, nhất là thèm muốn tính dục, xuất phát từ một nguồn hạ cấp trong tạo dựng và loài vật hạ cấp nào cũng có. Những thèm muốn này chống lại các lệnh truyền của trí khôn và bản tính siêu đẳng trong con người, đến nỗi phương cách duy nhất để giải thoát tâm tư và trí khôn là vượt thắng các thèm muốn ấy bằng hy sinh từ bỏ. Dù không trực tiếp nối kết với lối suy luận trên, nhưng định chế Rôma thời cổ quả có buộc các trinh nữ giữ lửa (vestal virgins) phải duy trì sự trinh tiết của họ suốt thời gian phục vụ đền thờ, thường là 5 năm nhưng đôi khi lâu hơn, và sẵn sàng chôn sống họ nếu họ vi phạm lệnh buộc này (7).
Điều xem ra hiển nhiên là việc tôn kính sự trinh khiết và việc trau dồi khổ hạnh, ít nhất một phần, đã phát sinh từ thái độ tởm gớm đối với điều bị coi là những quá trớn trong việc dung túng tính dục thời Hậu Cổ Đại. Các nhà duy luân lý sau này thích trích lại lời các nhà trào phúng La Mã như Tacitus, Juvenal, và Martial nói về những điều quá trớn này; ngay Edward Gibbon, vốn không dấu diếm là mình chống đối phong trào đan sĩ và khổ tu, từng theo chân Tacitus sống “niềm khóai lạc trung thực chống lại cái đức hạnh man rợ (của người Đức) với tác phong phóng đãng của các mệnh phụ La Mã” cũng ghi nhận rằng “kẻ thù nguy hiểm nhất của [trinh khiết] là sự mềm yếu của tâm trí” (8). Như Peter Brown đã nhận xét, trong xã hội Hậu Cổ Đại, người ta có cảm thức khá phổ quát rằng cần phải cứu cuộc sống con người khỏi khuynh hướng buông thả giác quan, và sự thánh thiện đích thực chỉ có khi người ta chịu từ bỏ điều mà Gibbon gọi là “sự mềm yếu của tâm trí” để mà tự chế (9). Và nếu điều này đúng cho các cá nhân, thì nó cũng đúng cho cả xã hội nữa. Cho nên xã hội cần có sự hiện diện của những nhà khổ tu toàn thời gian và vĩnh viễn. Họ sẽ là những thách đố và gương sáng đối với những kẻ chỉ biết sống cuộc sống tầm thường của thèm muốn và giác quan.
Thúc đẩy khổ hạnh thời Hậu Cổ Đại gây ảnh hưởng bàng bạc đến độ ngay cả Do Thái Giáo cũng phần nào chịu sức chi phối của nó. Trong định chế gọi là Nazarites [nadia], được mô tả trong sách Dân Số, Israel từng có một nhóm người tự buộc mình giữ những lời khấn thánh thiêng phải sống trong sự từ bỏ mình, “khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Thiên Chúa” (10). Nổi tiếng hơn cả có Samson, người, theo lời thiên thần Chúa báo tin cho cha ông là Manoah, đã được chỉ định làm “một nadia để dâng kính Thiên Chúa ngay từ lòng mẹ”(11). Nhưng triết gia kiêm thần học gia Do Thái là Philo thành Alexandria, người cùng thời với Chúa Giê-su và thánh Phaolô, trong khảo luận tựa là Bàn Về Đời Sống Chiêm Niệm, còn cung cấp nhiều chi tiết hơn nữa về phong trào khổ hạnh Do Thái trong nhóm được ông gọi là “Therapeutae”, gồm cả đàn ông lẫn đàn bà sống thành cộng đoàn đan sĩ tại các sa mạc Ai Cập gần Alexandria. Philo cho hay trong số những người này “nhiều phụ nữ cũng tham dự …, mà phần đông, dù đã già, là trinh nữ về phương diện đức trong sạch (không do bắt buộc như một số nữ tư tế của người Hy Lạp, là những người bị buộc phải giữ trinh khiết hơn là tự ý tuân giữ), nhưng do lòng ngưỡng mộ và yêu mến đức khôn ngoan mà họ muốn có để sống cuộc sống của mình, nhờ thế, họ lãnh đạm đối với các khoái cảm thân xác, không muốn có con cái mau chết, chỉ mong muốn các con cái trường sinh” (12). Sự giống nhau rất rõ nét giữa các cộng đoàn Therapeutae trong Do Thái Giáo Hy Lạp này và phong trào đan sĩ thời Kitô Giáo sơ khai đã khiến Eusebius, nhà sử học đầu tiên của Kitô Giáo, tin rằng thực ra Philo đang đề cập đến một nhóm Kitô hữu; trích lại đoạn văn trên, Eusebius coi chứng cớ ấy là những “điển hình rõ nét hơn, chỉ tìm thấy trong tôn giáo Phúc Âm của người Kitô hữu” (13). Theo nhận xét của Eusebius, đến thế kỷ thứ tư, phong trào khổ hạnh và đan sĩ bắt đầu vững mạnh trong Giáo Hội. Tài liệu quan trọng nhất chứng minh điều trên là cuốn Hạnh Thánh Antôn của thánh Athanasiô thành Alexandria, cũng là tiểu sử một đan sĩ trong sa mạc Ai Cập, nhưng giờ đây là một đan sĩ Kitô Giáo, người học cách “làm khỏe thân xác mình bằng đức tin, cầu nguyện, và ăn chay” ngay cả khi “ma qủy mang hình dáng một người đàn bà và bắt chước mọi hành vi của người đàn bà này để đánh lừa Antôn” (14). Điều ý nghĩa là nhờ bản dịch Hạnh Thánh Antôn sang tiếng Latinh, có lẽ được thực hiện khi thánh Athanasiô đang bị đầy biệt xứ tại Phương Tây, mà Thánh Augustinô học biết về phong trào khổ hạnh Kitô Giáo (15).
Như mọi người chờ mong, các nhà hộ giáo bênh vực cho phong trào khổ hạnh Kitô Giáo đã chú mục vào đức Trinh Nữ Ma-ri-a, coi Ngài là mẫu mực đời sống khiết trinh và hãm mình. Thánh Athanasiô đã làm như thế trong Thư Gửi Các Trinh Nữ của mình, trong đó thánh nhân mô tả đức Ma-ri-a bằng một ngôn từ có mục đích khích lệ các nữ khổ hạnh được ngài viết thư cho (16). Nổi tiếng không kém trong hàng hộ giáo này phải kể thánh Giêrôm, người từng gây ảnh hưởng lớn lao đối với nhiều người cùng thời. Thí dụ, như Peter Brown từng nói, “cuộc thư từ qua lại lâu dài” của ngài với thánh Augustinô về nhiều đề tài khác nhau, đã “là một tài liệu độc đáo thời Giáo Hội Sơ Khai. Vì nó cho thấy hai con người có trình độ giáo hóa cao đã tiến hành một cách lịch lãm một cuộc thư từ qua lại đầy nét đắng cay” (17). Tầm quan trọng lớn nhất của thánh Giêrôm trong lịch sử chắc chắn là công trình ngài dịch Thánh Kinh sang tiếng Latinh, tuy nhiên ngài còn nhiều đóng góp to lớn khác. Trong số này, hai đóng góp có ảnh hưởng tầm xa hơn cả là các cơ sở đan sĩ và học lý về đức Ma-ri-a của ngài. Lúc đầu đời, trước khi thụ phong linh mục, thánh Giêrôm sống như một ẩn tu trong sa mạc Syria tại Chalcis, chuyên chăm thực hành khổ hạnh và nghiên cứu bác học, gồm cả việc học tiếng Híp-ri, một việc giúp ích cho ngài rất nhiều khi phải bình luận và phiên dịch Sách Thánh Do Thái. Rồi sau đó làm nghề công chức tại Constantinốp rồi làm thư ký riêng cho Đức Giáo Hoàng Đamasô tại Rôma; nhưng cả lúc đó nữa, ngài cũng vẫn là người mạnh mẽ bênh vực cuộc sống khổ hạnh, thuyết phục được nhiều mệnh phụ qúy tộc La Mã, kể cả Paula và con gái bà là Eustochium cũng như Marcella và Melania, từ bỏ cuộc sống ưu đãi và địa vị của mình trong một xã hội thời thượng của Rôma để bước vào các cộng đoàn đan sĩ.
Các cộng đoàn này có mặt tại Palestine, nơi thánh Giêrôm rời cư vào năm 386 và lập một đan viện tại Bêlem. Vì thấy rằng “trong thời kỳ này, không một phụ nữ Rôma thuộc giai cấp thượng lưu nào đã khấn sống cuộc sống đan viện hay dám công khai tuyên bố mình là một nữ tu sĩ - một điều xem ra quá lạ lùng và chẳng đáng hãnh diện chút nào vào thời điểm này”, nên ngài cho rằng chính Hạnh Thánh Antôn của thánh Athanasiô đã có công gợi hứng cho Marcella cũng như các phụ nữ khác can đảm chọn lối sống khổ hạnh (18). Trong một bức thư gửi cho Eustochium khi nghe tin mẹ của bà qua đời, một bức thư “phải khổ công hai đêm để đọc cho người ta viết” (19) và dài gần như một cuốn tiểu sử bỏ túi, thánh Giêrôm đã mô tả chi tiết lối sống khổ hạnh của Paula và cộng đoàn đan sĩ dành cho các phụ nữ hiến thân do bà đứng đầu. Ngài giải thích: “Paula nghiêm nhặt tách các chị em ra khỏi nam giới đến nỗi đã không cho cả các hoạn quan đến gần họ, kẻo liều mình tạo cơ hội cho các miệng lưỡi gian xảo (luôn sẵn sàng gièm pha tôn giáo) có thể tìm cách biện hộ cho các ác ý riêng của họ” (20). Trong một bức thư khác gửi cho Gaudentius, trong đó có nhiều đoạn rất cảm động nói về việc cướp phá Rôma năm 410 (21), thánh nhân nói đến ơn gọi sống khiết trinh. Sau khi đã nhấn mạnh rằng “điều tôi nói tôi không muốn áp dụng cho mọi người”, nhưng ngài vẫn hỏi Gaudentius “ông có đồng trinh không? Vậy tại sao ông lại thích tìm khoái cảm trong giao tiếp với phụ nữ?”. Và đối với một cô gái được người cha dâng tiến sống đời khiết trinh ngay lúc còn thơ ấu, ngài khuyên cô “chỉ nên giao tiếp với các thiếu nữ mà thôi, không nên biết gì về con trai và cũng nên sợ đừng chơi với chúng” (22).
Nhưng cùng một lúc, thánh Giêrôm cũng là một trong những nhà giải thích gây ảnh hưởng nhiều hơn hết trong Giáo Hội sơ khai về cuộc đời và con người của đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Để chống lại Jovinian, người tuy là một đan sĩ nhưng lại tấn công điều ông cho là cái nhìn phóng đại về sự khiết trinh, thánh Giêrôm đã soạn thảo một bài tranh luận rất sắc sảo, trong đó, nói theo một cuốn giáo khoa trình bày văn chương Kitô Giáo sơ khai, “sự giải thích đề nghị cho đoạn 1 Cor 7 cùng với những kiểu nói tượng hình rút từ văn chương chống phụ nữ của ngoại giáo đã gây nên nhiều ganh ghét” (23). Cuốn chuyên khảo Chống Helvidius viết năm 383 là để bênh vực sự khiết trinh của đức Ma-ri-a, “để minh chứng rằng mẹ [Chúa] Con, đấng làm mẹ trước khi làm nàng dâu, vẫn tiếp tục là một Trinh Nữ cả sau khi Con của Ngài được hạ sinh” (24). Lợi dụng kỹ năng đáng sợ về tu từ học của một nhà tranh biện chuyên nghiệp và kỹ năng ngoại hạng của một học giả Thánh Kinh, thánh Giêrôm đã chứng tỏ được rằng các ám chỉ trong Tân Ước nói đến Chúa Giê-su như là Con đầu lòng của đức Ma-ri-a không nhất thiết có ý nói đức Ma-ri-a còn có những con trai khác sau Chúa Giê-su, vì “bất cứ con trai duy nhất nào cũng là con trai đầu lòng, nhưng không phải mọi con trai đầu lòng đều là con trai duy nhất” (25). Thánh nhân cũng dành nhiều luận chứng dài dòng và cẩn trọng bàn đến vấn đề do các trích đoạn từ Phúc Âm nói đến “anh em” của Chúa Giê-su (26). Để giải quyết vấn đề này, thánh Giêrôm chủ trương rằng: “các con trai của bà Ma-ri-a, chị em họ với mẹ Chúa Giê-su, người trước đây không tin nhưng sau đó tin, cũng có thể gọi được là anh em của Chúa” (27). Việc thánh Giêrôm bênh vực sự trinh khiết suốt đời của đức Ma-ri-a đã trở thành luận chứng tiêu chuẩn, được mọi người trình bày học lý này sau đó sử dụng, kể cả chính Martin Luther. Nhưng sau khi hoàn tất phần nói về đức Ma-ri-a, thánh Giêrôm còn thêm phần thảo luận về công phúc tương đối giữa khiết trinh và hôn nhân, một vấn đề từng được Helvedius bàn đến và giờ đây được thánh nhân trả lời. Helvedius đặt vấn đề như thế này: “Các người đồng trinh có trọng hơn Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, là những người đàn ông có vợ, hay không? Há hàng ngày các hài nhi đang không được bàn tay Thiên Chúa tạo nên trong cung lòng các bà mẹ của chúng hay sao?”. Helvedius muốn hàm ý rằng ít nhất hôn nhân cũng thánh thiện chẳng kém bậc đồng trinh (28).
Câu trả lời của thánh Giêrôm muốn chứng tỏ nó nối tiếp luận chứng của thánh tông đồ Phaolô: “Đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng…Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn” (29). Điều này không có nghĩa hôn nhân là điều xấu: nó tốt nhưng giữ được trinh khiết thì tốt hơn. Dựa vào thế giá Tân Ước này, thánh Giêrôm cảm thấy mình đủ tư cách nói rằng: “tôi khẩn thiết xin qúy độc giả đừng cho rằng, khi ca ngợi khiết trinh, ít nhất tôi cũng đã coi rẻ hôn nhân, và phân rẽ các thánh của Cựu Ước với các thánh của Tân Ước, nghĩa là các đấng có vợ con và các đấng tự ý hãm mình không hưởng vòng tay êm ái của phụ nữ” (30). Tuy thế, trên thực tế, thánh Giêrôm quả có coi rẻ hôn nhân thật – và do đó các phụ nữ nói chung – như trong đoạn văn sống động sau đây, một đoạn văn ngài sử dụng nhuần nhuyễn kỹ năng tu từ học đến chẳng thua gì Cicero: "Mục tiêu của trinh nữ là tỏ ra bớt duyên dáng đi; nàng sẽ phải tự đánh lừa mình để che dấu nét quyến rũ tự nhiên của mình. Người đàn bà có chồng thì son phấn đầy trước gương, và, như để chửi đấng Hóa Công dựng nên nàng, nàng cố gắng làm sao để đạt được điều gì đó tốt hơn chính nét đẹp tự nhiên của mình. Nhưng rồi tiếng lách cách của trẻ thơ, tiếng ồn ào khắp nhà, con cái đợi lệnh mẹ, chờ mẹ hôn, cộng các khoản tiêu, chuẩn bị các khoản chi… Trong khi ấy thì tin nhắn chồng và bạn hữu sắp về. Người vợ như con én bay khắp nhà. Phải quán xuyến mọi chuyện. ‘Tràng kỷ êm chưa? Hè nhà quét chưa? Hoa đã cắm trong bình chưa? Cơm đã sẵn sàng chưa?’ Tôi xin qúy độc giả hãy cho tôi biết giữa cảnh ấy liệu còn chỗ để nghĩ đến Chúa hay không?" (31).
Điều mô tả trên không thể không gây ấn tượng tiêu cực đối với hôn nhân. Để tránh ấn tượng ấy, chỉ còn biết trích một lời khác cũng của chính thánh Giêrôm: “Chúng tôi không lên án hôn nhân, vì trinh khiết xét cho cùng cũng là hoa trái của hôn nhân” (32).
Thiếu sót trong bài trình bày trên của thánh Giêrôm trước hết là đã không xem sét tỉ mỉ hơn về việc đức Ma-ri-a không những là Trinh Nữ mà đồng thời còn là Mẹ nữa, và thứ hai, một tuyên bố rõ ràng hơn về tính bí tích của hôn nhân. Điều thứ nhất được người đồng nghiệp và cũng là người đã đưa thánh Augustinô tới Phúc Âm Kitô Giáo, là thánh Ambrôsiô thành Milan, đem lại cho chúng ta. Hơn cả thánh Augustinô, thánh Ambrôsiô được mệnh danh là Tiến Sĩ Thực Sự Về Đức Ma-ri-a, ít nhất một phần cũng do ngài dựa mạnh vào truyền thống Kitô Giáo Hy Lạp.
Thánh Ambrôsiô là người đầu tiên đưa ra “mối liên kết nhân quả giữa việc thụ thai đồng trinh và việc Chúa Kitô không hề có tội…, việc tổng hợp các ý niệm lưu truyền tội nguyên tổ qua giao hợp tính dục và Chúa Giê-su không tội lỗi vì được tượng thai cách đồng trinh” (33); việc tổng hợp này cuối cùng đã thúc đẩy Giáo Hội Phương Tây đến chỗ định nghĩa ra học lý vô nhiễm nguyên tội nơi đức Ma-ri-a (34). Không kém thánh Giêrôm, thánh Ambrôsiô cũng nhấn mạnh đến việc đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh. Theo thánh Ambrôsiô, Đức Ma-ri-a là Đấng “không tìm an ủi ở chỗ có thể sinh thêm con trai” (35). Thánh nhân cũng theo quan điểm của thánh Phaolô mà nhìn nhận rằng trinh khiết ở bình diện cao hơn hôn nhân, và đã mạnh mẽ chống lại những ai cho rằng: “kiêng cữ chẳng có công gì, sống thanh đạm chẳng được ơn phúc chi, cả trinh khiết cũng thế, tất cả đều ngang nhau, cùng một giá” (36). Giống thánh Giêrôm, thánh Ambrôsiô cũng dành một số trước tác để bàn tới chủ đề trinh khiết, kể cả chuyên khảo Liên Quan Đến Các Trinh Nữ. Cuốn giáo khoa về văn chương thời Kitô Giáo sơ khai, đã trích trên đây về thánh Giêrôm, khi nói về thánh Ambrôsiô, đã viết như sau: “Trước tác này, được coi như chuyên khảo linh đạo và thần học Latinh đầu tiên có tổ chức nói về chủ đề trinh khiết, đã đưa ra một phê phán khá quân bình và tích cực về hôn nhân” (37). Trong Tập II của chuyên khảo này, sau khi trình bày cho bà chị của mình là Marcellina các mô tả và lời khuyên liên quan đến cuộc sống khiết trinh, ngài đã liên tưởng tới đức Ma-ri-a: “Như thế chị hãy đặt cuộc sống của đức Ma-ri-a, một cuộc sống vốn dĩ khiết trinh, làm mẫu mực, qua đó, như thể qua một tấm gương, dáng vẻ khiết trinh và hình vóc nhân đức có thể phản chiếu lại. Nhờ đó, chị có thể mô phỏng cuộc sống của chính chị, tỷ dụ như biểu lộ ra các qui luật rõ rệt của nhân đức: điều chị phải sửa đổi, phải thực hiện và phải bám lấy” (38).
Đề cao Ngài là mẫu mực của cuộc sống Kitô Giáo, thánh Ambrôsiô đã mô tả các nhân đức của đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nhất là sáu nhân đức sau đây: “Bí quyết đoan trang, ngọn cờ đức tin, bí quyết sùng kính, Trinh Nữ trong gia hộ, đồng thừa tác vụ [với Chúa Kitô], Mẫu Thân nơi đền thờ” (39). Nhưng bộ ba thứ hai trong hai bộ ba trên “Trinh Nữ trong gia hộ, đồng thừa tác vụ [với Chúa Kitô] và Mẫu Thân nơi đền thờ” cho phép thánh Ambrôsiô đi xa hơn bộ ba thứ nhất “bí quyết đoan trang, ngọn cờ đức tin, bí quyết sùng kính” và nhờ đó, làm cho bức chân dung của mình sâu sắc hơn bức chân dung của Thánh Giêrôm. Bộ ba đầu mô tả đức Trinh Nữ trong cõi tư riêng của tâm hồn, trong huyền nhiệm giữa Ngài và Thiên Chúa, trong khi bộ ba thứ hai hướng ra bên ngoài, tới sứ mệnh lịch sử làm Mẹ Chúa Kitô của Ngài. Vì “Trinh Nữ trong gia hộ” cũng là “Mẫu Thân nơi đền thờ”, và vì Ngài không phải chỉ là Trinh Nữ mà còn là Mẫu Thân nữa, nên Ngài là “bạn đồng hành trong sứ vụ của Chúa Kitô”. Điều ấy rọi một ánh sáng mới vào nhiều trình thuật trong Phúc Âm, nhưng nó cũng có xu hướng đưa cả sự trinh khiết của đức Ma-ri-a vào ngữ cảnh chức phận làm Mẹ Thiên Chúa của Ngài, như W.J. Dooley từng nêu rõ (40). Từ trình thuật của Phúc Âm, Thánh Ambrôsiô đã suy diễn rằng “Bất cứ điều gì Ngài làm đều là một bài học”; vì Ngài “chú ý đến mọi sự như thể được nhiều người cảnh giác, và chu toàn mọi nghĩa vụ nhân đức như thể đang giảng dậy chứ không phải học tập” (41). Bởi thế, thánh Ambrôsiô nhấn mạnh đến “sự sung mãn phục vụ” của đức Ma-ri-a và đến việc Ngài vừa “bận bịu việc riêng trong nhà” vừa “được người khác tháp tùng ra bên ngoài” (42) – dĩ nhiên bao gồm cả những “bận bịu” được thánh Giêrôm mô tả trên đây.
Thuyết nhị nguyên siêu hình, đã được nhắc trên đây như một hệ luận của phong trào khổ hạnh thời Hậu Cổ Đại, không biến mất với việc xuất hiện của Kitô Giáo, ngược lại đã chiếm được một chỗ đứng trong tư duy Kitô Giáo, nhất là trong tư duy của nhiều thần học gia Kitô Giáo vốn liên kết Kitô Giáo với chủ nghĩa Tân Platông. Với việc liên kết ấy, phong trào khổ hạnh Kitô Giáo sẽ xuất đầu lộ diện thành một hình thức từ bỏ thân xác, một điều xem ra muốn nói rằng Thiên Chúa không hề tạo ra thân xác, và do đó, ghét bỏ tính dục bằng cách coi nó ngang hàng với vô luân. Vì phần đông các tác giả viết về đề tài này là đàn ông và là đàn ông độc thân, nên sự ghét bỏ kia dễ dàng biến thành khinh bỉ có tính kỳ thị chống lại đàn bà, coi họ như cạm bẫy của ma qủy để hủ hóa lối sống thiên thần [vita angelica] của các nhà khổ hạnh hay các đấng trượng phu độc thân. Bởi thế, nhu cầu thứ hai là phải xác định hôn nhân như một bí tích của Giáo Hội, một diễn trình thật lâu dài và phức tạp. Lạ một điều: trong danh sách sau cùng của bẩy bí tích, hôn nhân là bí tích duy nhất được Tân Ước coi như một mầu nhiệm [mysterion] hay bí tích [sacramentum] (43). Dù những hạn từ này khởi nguyên không được dùng trong tiếng Hy Lạp lẫn tiếng Latinh theo nghĩa chuyên môn để chỉ bí tích như bây giờ, nhưng chúng quả có góp phần vào việc xác định hôn nhân như là bí tích (44).
Vai trò của học lý về đức Ma-ri-a trong việc phát triển học lý về hôn nhân không được rõ ràng mấy. Bức tranh của Giotto vẽ cảnh Đám Cưới Trinh Nữ tại Nhà Nguyện Arena ở Padua cho thấy rõ điều trên, một bức tranh từng lôi cuốn John Ruskin rất mạnh (45). Nhìn hời hợt, đây chỉ là một bức tranh khác vẽ cảnh đám cưới với cô dâu chú rể vận lụa là gấm vóc và khách khứa hỗ trợ họ bằng yêu thương và cầu nguyện. Nhưng nhìn kỹ, ta thấy có điều gì đó hết sức độc đáo trong đám cưới này và nơi đôi tân hôn này, nhất là cô dâu, người, vì trước đó khấn giữ khiết trinh, nên vừa tham dự vừa không tham dự vào diễn trình hân hoan này. Nhìn bức tranh, người ta không thể không nhớ đến bức chân dung Thánh Phanxicô Cưới Nàng Nghèo, được nhắc đến trong Bài XI tác phẩm Paradiso của Dante, trong đó, việc thánh Phanxicô từ bỏ những sự thiện thế gian đã được thánh hiến bằng một nghi lễ đầy tính ẩn dụ thường dùng để ban phát chính các sự thiện thế gian kia (46). Ở đây cũng thế, đám cuới là đám cưới thật sự, nhưng nó có đặc tính độc đáo chỉ vì Cô Dâu. Vì nàng là “Cô Dâu Không Cưới” [nymphos anymphetos] như thánh ca tiếng Hy Lạp Akathistos vốn tặng cho nàng.
Vì một đàng, cả các thần học gia lẫn các luật gia giáo luật đều bênh vực luận đề cho rằng cuộc hôn nhân của đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là cuộc hôn nhân thực sự dù không được hoàn hợp về phương diện tính dục, vì dựa vào nguyên tắc sau: “chính sự ưng thuận, chứ không phải giao hợp tính dục, làm nên một cuộc hôn nhân [consensus, non concubitus, facit connubium]”. Cho nên, “một cuộc hôn nhân trong đó cả hai người phối ngẫu đều tự nguyện và vì những động lực siêu nhiên noi theo tiền lệ của đức Ma-ri-a và thánh Giu-se mà thực hành tiết chế hoàn toàn, hoặc ngay những ngày đầu hoặc về sau này” thì được gọi là cuộc hôn nhân theo kiểu thánh Giu-se [Josephsehe] và có tư cách một kết hợp thành sự (47). Nhưng đàng khác, dựa trên cái nhìn huyền nhiệm coi đức Ma-ri-a như là nguyên mẫu (archetype) của Giáo Hội và coi Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, thì thật khó có thể diễn dịch được các hệ luận rõ ràng cho bản tính bí tích của hôn nhân nhân bản, vốn không do Chúa Kitô thiết lập lúc còn trên dương gian (ngay cả ở tiệc cưới Cana miền Galilê) (48) nhưng là do đấng Tạo Hóa đã dựng nên Adong và E-và trong vườn Địa Đàng trước khi sa ngã phạm tội. Thế nhưng, như cách mô tả đức Ma-ri-a như một Trinh Nữ để chống lại những cái quá lạm về tính dục của thời Hậu Cổ Đại thế nào, thì cách mô tả Ngài như một người mẹ cũng để chống lại những cái quá lạm của phong trào khổ hạnh như vậy. Sự thật xem ra nằm ở chỗ nghịch lý.
_____________________________________________________________________
Ghi Chú
1. Lc 1:42.
2. Bernhard Lohse, Askese und Monchtum in der Antike und in der alten Kirche (Munich: R. Oldenborg, 1969).
3. Lampe, 244.
4. Marcus Aurelius Meditations II.17 (bản dịch của Maxwell Staniforth).
5. Trên hết là Eph. 6:10-17; nhưng cả 1Tm 6:12, 2Tm 4:7, và những chỗ khác nữa.
6. 1Cor 9:24-27.
7. Plutarch Parallel Lives, Numa, 10.
8. Jaroslav Pelikan, The Excellent Empire: The Fall of Rome and the Triumph of the Church (New York: Harper and Row, 1987),59.
9. Peter Robert Lamont Brown, The Body and Society: Men, Women, and Sexual Renunciation in Early Christianity (New York: Columbia University Press, 1988).
10. Dân Số 6:2.
11. Thủ Lãnh 13:5.
12. Philo trong the Contemplative Life 68 (bản dịch của C.D. Yonge).
13. Eusebius Ecclesiastical History II.xvii.18-19 (bản dịch của Arthur Cushman McGiffert Sr).
14. Thánh Athanasiô Life of Anthony 5.
15. Thánh Augustinô Confessions VIII.vi.14-15.
16. Development of Chriatian Doctrine: Some Historical Prolegomena, 100-104.
17. Peter Brown, Augustine of Hippo (London: Faber, 1969), 274.
18. Thánh Giêrôm Epistles 127.5.
19. Thánh Giêrôm Epistles 108.33.
20. Thánh Giêrôm Epistles 108.20.
21. Xem Pelikan, Excellent Empire, 43-52.
22. Thánh Giêrôm Epistles 128.3.
23. Joannes Quasten, Patrology 4 cuốn (Westminster, Md.: Newman Press and Christian Classics, 1951-1986), 4:239; khảo luận naỳ xuất hiện trong PL 23:211-338.
24. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 2.
25. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 12.
26. Xem chương 2 ở trên.
27. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 16.
28. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 20.
29. 1Cor 7:1-2, 38.
30. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 22.
31. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 22.
32. Thánh Giêrôm Against Helvidius, 21.
33. Joseph Huhn, Das Geheimmis der Jungfrau-Mutter Ma-ri-a nach dem Kirchenvater Ambrosius (Wurzburg:Echter Verlag, 1954), 79-80.
34. Xem chương 14 ở dưới.
35. Thánh Ambrôsiô Epistles 63.111.
36. Thánh Ambrôsiô Epistle 63.7.
37. Quasten, Patrology, 4:167.
38. Thánh Ambrôsiô Concerning Virgins II.ii.6.
39. Thánh Ambrôsiô Concerning Virgins II.ii.15.
40. W.J. Dooley, Marriage According to St. Ambrose (Washington D.C.:Catholic Universita of America, 1948).
41. Thánh Ambrôsiô De virginibus II.ii.9.
42. Thánh Ambrôsiô De virginibus II.ii. 8-9.
43. Eph. 5:32.
44. Xem The Christian Tradition , 3:211-212.
45. John Ruskin, Giotto and his Works in Padua: Being an Explanatory Notice of the Series of Woodcuts Executed for the Arundel Society After the Frescoes in the Arena Chapel (London: Arundel Society, 1854).
46. Xem chương 10 ở dưới.
47. LTK 5:1140-41 (Joseph Wenner).
48. Ga 2:1-11.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Madona
Sen K.
23:26 03/01/2010
MADONA
Ảnh của Sen K. – Philippines (Hình chụp tại Lào quốc)
Mẹ ban phước
Không người nào cầu xin mà chẳng được
Không ai chạy đến Mẹ lại về không !
Maria ! Mẹ tiến lên như rạng đông.
(Trích thơ của LM. Xuân Văn)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền