Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Khi ấy, ông Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”
Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Đó là lời Chúa
(Suy niệm lễ Chúa Hiển Linh)
Ngôi sao dẫn đường cho các nhà chiêm tinh hôm nay nói lên điều gì với mỗi chúng ta vậy? Một mặt, nói lên tầm quan trọng của việc dẫn đường của “Ngôi Sao Giê-su”, mặt khác, nói lên ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa dành cho mọi người mà không phân biệt, cụ thể Hài Nhi Giê-su đã hiển linh hay tỏ ra cho các nhà chiêm tinh, đại diện cho mọi dân mọi nước. Thông qua ‘ngôi sao’ dẫn đường cho các nhà chiêm tinh hôm nay, tôi và mọi người được mời gọi hãy trở nên ‘ngôi sao dẫn lối’ hay ‘là người dẫn đường’ cho người khác đến với Chúa, đến với đạo Công Giáo. Nói đến ngôi sao là nói đến sự toả sáng và chỉ lối để người khác nhận biết. Nói đến ngôi sao là nói đến trung tâm điểm để người khác để ý và vai trò đặc biệt của nó. Ví dụ: ngôi sao bóng đá, ngôi sao ca nhạc, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao của trường học,…Nhưng ‘ngôi sao’ trong Tin mừng không phải là trung tâm điểm mà chỉ là trung gian dẫn lối cho các vua. Nó làm nhiệm vụ để giúp người khác đến với Hài Nhi Giê-su, Trung Tâm Điểm của vũ trụ. Hình ảnh ngôi sao này tượng trung hình ảnh mỗi ki-tô hữu phải trở nên ngôi sao dẫn người khác biết về Chúa hay đến với Chúa cũng như giới thiệu Chúa cho người khác.
Chuyện kể rằng: Sư Cô Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng (Huineng), “Con đã nghiên cứu Kinh Đại Bát Niết Bàn trong nhiều năm, tuy nhiên, có nhiều lãnh vực con vẫn chưa hiểu hoàn toàn. Xin Thầy hãy soi sáng cho con.”
Lục Tổ trả lời, “Thầy không biết đọc chữ. Con hãy đọc bài kinh đó cho Thầy nghe, và nếu may mắn, Thầy có thể giải thích ý nghĩa bài kinh cho con hiểu.”
Sư cô trả lời, “Thầy còn không biết đánh vần, thế thì, Thầy làm sao hiểu được ý nghĩa của bài kinh?”
“Sự thật không liên hệ gì đến các từ ngữ. Sự thật giống như là mặt trăng chiếu sáng trên bầu trời. Trong trường hợp nầy, các từ ngữ được xem như là ngón tay. Ngón tay có thể chỉ vào vị trí của mặt trăng. Tuy nhiên, ngón tay không phải là mặt trăng. Khi con muốn nhìn thấy mặt trăng, con cần phải nhìn xa hơn là ngón tay, có đúng không?”
Ngón tay chỉ mặt trăng hay ngôi sao dẫn đường được hiểu thế nào đây? Ngón tay hay ngôi sao không là đích đến nhưng là dụng cụ hay phương tiện giúp người khác biết đường hay mặt trăng. Nói khác đi, ngón tay hay ngôi sao giống như chiếc thang hoặc chiếc thuyền giúp người ta trèo lên chỗ cần hoặc đưa người ta qua sông mới là đích đến. Trong Tin mừng hôm nay, ngôi sao lạ đã dẫn lối cho các nhà chiêm tinh đến gặp Hài Nhi Giê-su, Ngài là Vua. Cái đích chính là Hài Nhi Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, là Đấng Cứu Thế chứ không phải ngôi sao. Ngôi sao chỉ làm vai trò dẫn đường chứ không là Đấng Cứu Chuộc.
Quả thật, Giê-su vừa là Ngôi Sao Đích Thực, là Vầng Sáng xua tan mọi bóng tối, là Ánh Sáng chiếu soi khắp mọi miền mọi nước, vừa là Ngôi Sao dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Điều này Đức Giê-su là luôn luôn khẳng định: ‘Ta là’. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. (Ga 14, 6); “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”(Ga 8,12); “Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng Ta chẳng hề đói, và ai tin Ta chẳng hề khát”(Ga 6, 33-35)…Ngài đích thật là Thiên Chúa ở cùng nhân loại để cứu độ con người. Nhưng Ngài cũng là Trung Gian đích thực và duy nhất để nối kết đất với trời, nối kết con người với Thiên Chúa. Ngài là đường để mọi người đến với Chúa Cha. Ngang qua Lời giảng dạy và các phép lạ, Đức Giê-su muốn quy tụ mọi dân mọi nước, nhất là các hoàn cảnh nghèo nàn, bệnh hoạn tật nguyện về với Thiên Chúa duy nhất để được hưởng kiến ơn cứu độ. Đức Ki-tô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân. Ngài không chỉ đến cho dân riêng của Ngài là Israel, là dân Do Thái, nhưng Ngài đến để cho muôn người được hưởng ơn cứu độ. Ơn cứu độ phổ quát nơi Ngài được thể hiện rõ khi “ngôi sao Hài Nhi” chỉ đường cho 3 Vua đại diện cho các dân tộc khác nhau. “Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. (Mt 2, 1-6). Trong khi các nhà chiêm tinh được hiển linh, được tỏ rõ sự ra đời của Hài Nhi Giê-su, thì những người được học hành, nghiên cứu và có truyền thống như các thượng tế và kinh sư lại thờ ơ và không nhận ra sự hiện diện của Hài Nhi. Có người còn tìm cách tiêu diệt Hài Nhi Giê-su khi mới nghe nói đến Danh Ngài như Vua Hê-rô-đê. Có thể nói, trong trạng huống này, chính các nhà chiêm tinh lại đóng vai trò ngôi sao chỉ lối, chỉ đường cho Dân Thành Giê-ru-sa-lem, cho các Thượng tế và Kinh sư cũng như cho Vua Hê-rô-đê.
Phần chúng ta, là những người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta cũng được mời gọi phải nói về Chúa, giới thiệu về Chúa, làm chứng về Chúa cho tha nhân. Chúng ta chỉ là ngón tay chỉ về Chúa cho tha nhân, nhưng ngón tay đó cũng phải lành lặn, phải tinh sạch, phải đứng đắn. Như thế, chúng ta mới thật sự đóng vai trò của ngôi sao chỉ đường cho người khác được. Tuy nhiên, làm sao chúng ta trở thành ngôi sao chỉ đường nếu chúng ta chưa thật sự tốt và thật sự xứng đáng? Phải chăng lời dạy của Thánh Phaolô Tông đồ sau đây như phần nào hướng dẫn chúng ta muốn trở thành người chỉ đường, người làm chứng thì phải làm thế nào? “Anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em : ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng….,hãy từ bỏ tất cả những cái đó : nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu…. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (x. Cl 3, 5-14).
Thật vậy, như ngôi sao lạ hôm nay đã dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến gặp gỡ Hài Nhi Giê-su, Vua muôn vua, Chúa các chúa, chúng ta cũng được mời gọi trở nên những ánh sao dẫn đường cho bao người chưa nhận biết Chúa bằng những hành động - cử chỉ yêu thương và bác ái hầu giúp họ đụng chạm được Chúa nơi toàn bộ đời sống của chúng ta. Tuy nhiên, để trở nên ánh sao sáng dẫn đường, tiên vàn chúng ta phải chạy đến với Chúa để đổ tràn dầu của Lời Chúa, dầu của các Bí tích, nhất là Bí tích Giao Hoà và Bí tích Thánh Thể để đủ sáng, đủ sức sống và nhiệt huyết tông đồ nhằm lên đường cách hăng say mang Chúa đến cho mọi người ở mọi nơi và mọi lúc.
Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương
https://www.youtube.com/watch?v=jmtbH_m3UgM&t=100s
NIỀM TIN LÊN ĐƯỜNG
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh: Mt 2, 1-12
Suy niệm
Mátthêu cho biết Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì. Bêlem là một thị trấn cách Giêrusalem mười cây số về phí Nam. Thời xưa nó còn được gọi là Épratha. Tên “Bêlem” có nghĩa là “nhà bánh”, vì nằm ở một vùng quê mầu mỡ nhiều lúa mì. Đó cũng là nhà và thành của Đavít (1Sm 16,1;17,12; 20,6). Chính từ dòng dõi nhà Đavít mà Thiên Chúa ban Đấng cứu độ cho dân Ngài, như tiên tri Mikha đã loan báo: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1). Vì vậy mà dân Do Thái luôn trông đợi.
Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng kể về các nhà chiêm tinh, gọi là Magi, từ phương Đông đi tìm kiếm Đấng cứu tinh vừa mới giáng sinh, mà họ phát hiện qua ánh sao lạ. Magi là một chi phái Mêđi, là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Ban đầu là một đảng phái chính trị, nhưng về sau trở thành chi phái tư tế. Họ là những người khôn ngoan và thánh thiện, rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh, tin rằng có thể tiên đoán tương lai dựa vào các vì sao, và tin rằng số mệnh một người cũng được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, thì phải chăng Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó?
Điều quan trọng trong bài Tin Mừng là các nhà chiêm tinh như đại diện cho các dân ngoại. Matthêu viết theo lối văn khải huyền của người Do thái, nên không thể hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu cho các nhà chiêm tinh biết Con Ngài đã chào đời. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nhận thấy lời mời gọi lên đường để tìm kiếm vị Cứu Chúa của muôn dân. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả để bước đi trong đêm tối, chỉ còn dựa vào ánh sao của niềm tin khi tỏ khi mờ. Họ chỉ gặp được Chúa sau khi trải qua nhiều gian nan thử thách trên đường, và chỉ nhận ra Chúa với cái nhìn đức tin mạnh mẽ, nhất là khi đứng trước cảnh hang lừa tồi tàn. Thiếu đức tin, người ta vẫn thấy Chúa nhưng không nhận ra Ngài.
Các nhà chiêm tinh từ ngàn dặm xa xôi đã lên đường tìm Ðấng Cứu Thế, đang khi Hêrôđê và hàng lãnh đạo Do thái giáo cũng được báo tin, thì lại bình chân như vại. Bởi lẽ các luật sĩ hay biệt phái chỉ thao thức về lề luật; các thượng tế chỉ lo nghi lễ trong đền thờ; các kỳ lão chỉ bận tâm về truyền thống. Họ là những người lãnh đạo tôn giáo nhưng lại tự mãn và khép kín trong những cơ chế an toàn và cứng nhắc. Còn vua Hêrôđê thì toan tính để khai trừ vị vua mới sinh. Điều này không lạ gì vì ông là người đa nghi và tàn bạo, đã từng giết vợ, mẹ vợ, ba người con trai, và nhiều danh tướng khác. Phản ứng của Hêrôđê là ganh ghét và thù địch, nên cũng tìm cách diệt trừ Đức Giêsu.
Thời nay vẫn có những triết gia chủ trương bất khả tri, coi Thiên Chúa chỉ là một phạm trù siêu việt, nếu Ngài có hiện hữu thì cũng không ăn nhập gì đến thế giới loài người. Vẫn có những nhà khoa học và những người chủ trương vô thần phủ nhận những gì là thần linh, họ cho điều huyền nhiệm cũng chỉ là huyền thoại. Vẫn không thiếu những kẻ có quyền thế tìm cách trù dập chân lý. Đối với họ, vũ trụ thiên nhiên như một đối tượng để nghiên cứu và khống chế, chứ không mang tính siêu nhiên, càng không như một dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng cũng trong thời đại này, dù không là Kitô hữu, vẫn có biết bao người đang rong ruổi tìm kiếm Thiên Chúa. Có ánh sáng nào đó soi chiếu trên đường đời của họ, khiến họ miệt mài phục vụ trong mọi lãnh vực, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và góp phần kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn, hướng con người đến những giá trị tâm linh, vĩnh cửu.
Còn chúng ta thì sao? Nếu không tỉnh thức, ta dễ tự mãn với những điều mình biết về Thiên Chúa, chẳng còn thao thức kiếm tìm Ngài, nên cũng chẳng quan tâm gì đến những dấu chỉ hay thời điềm. Dường như đời sống đức tin của chúng ta đã được gói gọn trong các câu kinh và nghi thức. Những gì sâu xa nhất cũng đã được hệ thống hóa trong các cử hành phụng vụ, nên ta cảm thấy quá đầy đủ, không cần nhận ra Chúa nơi điều gì khác. Cần có lòng khao khát chân lý và sự thiện hảo như các nhà chiêm tinh, để ta can đảm ra khỏi mình, ra khỏi những an toàn và tiện nghi đang trói buộc mình hằng ngày, để thấy Chúa đang tỏ mình qua mọi biến cố của đời sống, từ thiên nhiên vạn vật đến con người.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Chúa không chỉ tỏ mình cho Israel,
mà còn tỏ mình cho mọi dân mọi nước,
Chúa vẫn làm sáng lên những ánh sao,
không phải chỉ ở trên trời cao,
mà còn chính ở trong lòng người thế,
để cho thiên hạ luôn biết nẻo tìm về.
Chúa đặc biệt tỏ mình cho những ai,
có tâm hồn đơn sơ và ngay chính,
sống công bình và bác ái yêu thương,
không vấn vương bám víu vào trần thế,
không bị đam mê và lắng lo kiềm chế,
sống cuộc đời trong tâm thế hồn nhiên.
Như các nhà chiêm tinh đi tìm Chúa,
xin cho con dám đi ra khỏi mình,
khỏi định kiến và lười biếng tinh thần,
khỏi tiện nghi và tự mãn bản thân,
để nhận ra Chúa nơi mỗi tha nhân,
qua dấu chỉ của thiên nhiên vạn vật.
Xin cho con sống niềm tin lên đường,
luôn can trường và chấp nhận đau thương,
để sau khi vượt qua nhiều gai chướng,
được gặp Chúa ở cuối cuộc hành hương,
là niềm vui hạnh phúc chốn thiên đường,
mà lòng con vẫn hằng luôn mong ước.
Cho con nên dấu chỉ của Chúa ở mọi nơi,
là ánh sao giữa đời trong đêm tối,
để âm thầm luôn dẫn lối đưa đường,
là ánh sao hiền lành và khiêm nhượng,
ánh sao phục vụ với tất cả tình thương,
tỏa sáng an bình của Chúa Giáng Sinh. Amen.
40. Lấy tâm hồn yêu thương để tiếp thu tất cả những hy sinh nhỏ, thì sẽ làm cho Thiên Chúa của sự thánh thiện một niềm vui lớn; Ngài chỉ vì một ly nước lã mà ban hạnh phúc rộng lớn như biển cả cho những kẻ tin vào Ngài.
(Thánh Francis of Sales)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Quyên Thục Thắng vốn tính ngu đần mà lại nhát gan.
Đêm nọ, một mình đi vội vã trên đường, ánh trăng chiếu xuống trên mình anh ta tạo thành một bóng đen ảo ảo, anh ta bước một bước thì bóng đen cũng bước một bước.
Cúi đầu nhìn lại, thì thật kinh hoàng: nhất định có thằng quỷ bám chặt trên lưng mình rồi !
Lại ngẩng đầu nhìn lên, càng sợ hết vía: tóc tai dựng đứng, nhất định có một thằng qủy tóc dài khác!
Thế là co cẳng chạy một mạch về nhà.
Anh ta chạy càng nhanh, thằng quỷ nhỏ và quỷ tóc dài cũng chạy thật nhanh.
Chạy lại chạy, trước sau không thoát được hai thằng qủy rắc rối.
Chạy về tới nhà thì lực kiệt khí suy mà chết.
( Tuân tử )
Suy tư 32:
Lúc còn nhỏ nghe nói đến ma quỷ thì ai cũng sợ là bởi vì chưa hiểu biết và vì gan chưa “to”.
Lúc tôi còn nhỏ là một thằng sợ ma vô cùng, buổi tối đừng hòng biểu tôi ra đường một mình, đến năm mười chín hai mươi tuổi mà vẫn còn sợ ma. Nhưng sau đó đi tu ở một mình trong nhà thờ, kề cận với các hủ hài cốt, nên lâu dần thành quen, ban đêm ban hôm một mình vào phòng hài cốt cũng chẳng có ấn tượng sợ hãi gì.
Ma quỷ thì có thật, Đức Chúa Giê-su đã dạy như tế, Giáo Hội Công Giáo và các thánh cũng đã dạy và chứng minh như thế.
Quỷ thì có nhiều, nhưng có bảy loại quỷ luôn bám vào trong tâm hồn của chúng ta, mà nếu chúng ta không hết lòng cầu nguyện, khiêm tốn và dứt khoát từ bỏ, thì chúng nó vẫn luôn bám chặt lấy mình, bảy loại quỷ đó là: quỷ kiêu ngạo, quỷ hà tiện, quỷ dâm dục, quỷ ghen ghét, quỷ mê ăn mê uống, quỷ hờn giận, quỷ lười biếng làm việc lành.
Bảy loại quỷ này cần phải đề phòng và tránh xa, nó rất tinh vi và khôn gian xảo quyệt, chỉ có cầu nguyện, siêng năng rước Mình Thánh Chúa và đến với tòa cáo giải thì mới chiến thắng nó được.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Các nhà chiêm tinh phương đông phát hiện ra một ngôi sao đặc biệt xuất hiện trên bầu trời và nhận ra đó là dấu hiệu cho thấy có một vì vua vĩ đại mới ra đời. Thế là các vị quyết tâm lên đường, vượt qua muôn dặm đường xa, mong được triều bái vị vua mới sinh.
Lòng thành kính của các vị đã được đền đáp. Họ được phúc tìm gặp Đấng cứu thế là vua trời mới giáng sinh tại Bê-lem.
Thế là nhờ ánh sáng của một ngôi sao chỉ đường, các nhà chiêm tinh phương đông được phúc tìm gặp Chúa Giê-su giáng thế. Trong khi đó, có vô vàn dấu hiệu trên trời dưới đất, nhan nhản khắp nơi mà chúng ta tiếp cận hằng ngày, có thể chứng tỏ cho người đời nhận ra Thiên Chúa, thế mà người ta không mảy may tìm hiểu, do đó không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo thành.
Thiết tưởng chỉ cần khảo sát một chiếc lá thôi cũng đủ để cho ta nhận ra có một Đấng sáng tạo đầy quyền năng.
Mỗi chiếc lá là một nhà máy tuyệt vời tự chế biến ra thức ăn để nuôi cây chủ và nuôi sống nhiều loài động vật khác, kể cả con người.
Lá hút nước từ đất lên, hóa hợp với khí cacbonic đầy dẫy trong không khí, phơi mình dưới ánh sáng mặt trời để quang hợp. Thế rồi từ hai thứ nguyên liệu dư dật nầy, lá sản xuất ra khí ôxy trong lành tối cần thiết cho cuộc sống và cung cấp chất dinh dưỡng là glucose nuôi cây, nuôi các loài cầm thú và cả loài người.
Nếu không có những chiếc lá quá đỗi tầm thường nầy thì sẽ không có rau cỏ, không có hạt, không có trái cây để nuôi sống chim chóc, thú vật cũng như con người và như thế, cuộc sống trên địa cầu sẽ lụi tàn ngay.
Đến đây, chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề: Ai tạo nên những chiếc lá?
Tất nhiên, đất đai là thứ vô tri vô giác, không thể tạo nên những chiếc lá và lá cũng không thể tự tạo nên mình. Các nhà khoa học cũng không thể tạo nên lá vì lá cây xuất hiện trước khi có con người.
Chỉ còn một câu trả lời thỏa đáng nhất: Chính Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng phép tắc mới có thể tạo dựng nên muôn vật muôn loài, từ những chiếc lá nhỏ bé cho đến những công trình lớn lao.
Thế là chỉ cần khảo sát và ngắm nhìn một chiếc lá thôi, chúng ta cũng có thể nhận biết có Thiên Chúa quyền năng là Đấng tạo nên nó.
Ngoài ra, khi khảo sát một con kiến, một con ong hay bất kỳ sinh vật nào trên Địa Cầu, chúng ta đều thấy chúng là những kỳ quan tuyệt vời do Thiên Chúa tạo nên. Nếu Chúa không tác thành, chẳng vật gì có thể tự có được.
Như thế, từ một chiếc lá nhỏ bé tầm thường đến những ngôi sao hùng vĩ trên vòm trời cao thẳm, tất cả đều là những dấu hiệu, là những “ngôi sao” khác… dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa và thờ lạy Ngài như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Lạy Chúa Giê-su,
Các nhà chiêm tinh cách đây 2.000 năm, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ dẫn đường, đã sẵn sàng vượt qua muôn dặm đường xa, trải qua cuộc hành trình gian lao vất vả, tìm đến xứ lạ quê người để được gặp mặt và triều bái Chúa mới giáng sinh.
Hôm nay, xin cho chúng con biết noi gương các ngài, dựa vào những điều kỳ diệu chung quanh chúng con, để nhận ra Chúa là Đấng quyền năng đã tác tạo muôn vật muôn loài và không ngừng tung hô chúc tụng Chúa. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Lễ Ba Vua: Kẻ Lạc Đường (Matt 2:1-12)
Ba Vua theo như thánh sử Matthew đã lạc đường trên con đường hành hương.
SUY NIỆM
Thành công và thất bại là hai mặt của cùng một đồng tiền. Nghĩa là thành công và thất bại là hai mảnh đời của cuộc sống. Có người thành công, có người thất bại! Và nếu tình cờ tôi là người thành công trong xã hội, xin được tạ ơn Chúa. Bởi vì Chúa là tác nhân chính, Đấng duy nhất ban cho tôi sự thành công. Bởi thế, ngôi sao đã được gửi tới dẫn đường Ba Vua tới ngôi nhà của Hài Nhi Thánh.
Nhưng nếu thật không may, nếu bạn thất bại hoặc bị lạc lối trong đời sống. Tôi dám chắc một điều bạn sẽ nản lòng, thậm chí chán nản nếu tình hình ngày càng trở nên tồi tệ.
Tuy nhiên, tại thời điểm thất bại, giây phút trắng tay, tôi mới có cơ hội để cảm nghiệm sâu xa về bản chất của con người. Đó là, nhân gian thực sự bất lực và dễ bị tổn thương. Thực sự ra, nhân gian chẳng là gì. Một thời tôi đã tới cuộc đời rong chơi. Rồi tôi lại rời bỏ cuộc đời, quay về cát bụi. Dưới ánh sáng niềm tin, khi mọi việc diễn ra không như mong đợi, ta được nhắc nhở một cách thật thà về bản chất thực sự của con người, về sự ngắn ngủi của cuộc đời và cả sự mỏng manh bình sành của cuộc sống. Trên tất cả, vào lúc tôi cảm thấy lạc lõng, tôi mới nhận ra mình thật may mắn biết bao vì vẫn có Thiên Chúa là bờ vai vững chắc để có thể tựa vào khóc, những hạt nước mắt tràn đầy, ướt đẫm đôi vai Đấng Tối Cao.
Đức tin trong những hoàn cảnh như vậy đã trở nên cần thiết. Nói một cách khác, có Chúa đồng hành sánh bước, tôi, người lạc đường, người thất bại, người nghèo khổ, trở nên người có phúc.
Bởi thế,
Đức Giêsu đã phán,
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó” (Matt 5:3).
Vì chỉ cho đến khi chúng ta trở thành một trong những người nghèo, chúng ta mới bắt đầu nhìn thế giới từ lăng kính người nghèo. Khi đó chúng ta mới nhận ra rằng dù cuộc sống có tồi tệ đến cỡ nào đi nữa, không ai có quyền xua đuổi bất cứ một người nào ra vùng ngoại vi, bãi rác.
(Trích Suy Niệm Ta Thương Tổn Ta)
KHÁT KHAO NHỮNG GÌ ĐÁNG KHAO KHÁT NHẤT
“Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi!”.
Hôm nay, thế giới vẫn hướng về Rôma, nơi vừa cử hành Lễ An Táng của Đức Bênêđictô, một triết gia, một nhà tư tưởng và nhà thần học. Ấy thế, ngài còn được gọi là vị “Giáo Hoàng khiêm nhượng”. Trong di chúc, ngài viết, “Từ tận đáy lòng, tôi cầu xin sự tha thứ của tất cả những ai tôi đã từng sai phạm cách nào đó”. “Chúa Kitô thực sự là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống - và Giáo Hội, bất kể những khuyết điểm của mình, thực sự là Thân Thể của Ngài!”. Lời cuối cùng của ngài được ghi nhận là, “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa!”. Khi nói, “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa!”, Đức Bênêđictô đã tiết lộ nỗi ‘khát khao những gì đáng khao khát nhất’ của mình!
Kính thưa Anh Chị em,
Gioan, con người của sứ mệnh! Mọi khía cạnh cuộc đời của Gioan dành trọn cho việc dọn đường cho Đấng Thiên Sai; mọi thớ thịt của Gioan đều khao khát được thấy ngày Ngài đến. Bằng việc ẩn mình trong sa mạc để sám hối, hay ra khỏi đó để kêu gọi ăn năn, Gioan đã làm tất cả những gì có thể để chuẩn bị cho người đương thời đón chào Chúa Cứu Thế. Vì lòng khao khát Chúa Kitô, nên mọi hành động, mọi lời nói của Gioan đều phản ánh cơn khát cháy bỏng trong tâm hồn. Và Gioan đã vui mừng biết bao, như Marcô viết, “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nazareth miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giorđan”. Cuối cùng, ngày mà Gioan chờ mong cũng đã đến! Thật tốt biết bao khi bạn và tôi, như Gioan, thực sự ‘khát khao những gì đáng khao khát nhất’, chính Chúa Kitô, và sau đó đạt được Ngài!
Hãy khao khát Chúa Kitô bước vào cuộc sống mình! Thế nhưng, chúng ta không cần nhìn đâu xa. Qua phép Rửa, Chúa Kitô đã nắm lấy tay chúng ta, bạn và tôi đã thuộc về Ngài! Phép Rửa cho chúng ta xác tín rằng, Chúa Kitô ở đây, Ngài đã đến trong cuộc đời tôi, chiếm lấy linh hồn tôi và sẽ ở lại với tôi, trừ khi tôi cố tình quay lưng lại với Ngài khi phạm tội. Thậm chí sau đó, Ngài vẫn chờ đợi và theo đuổi tôi để khôi phục lại tình bạn nghĩa thiết với Ngài. Vậy tôi có đánh giá cao món quà Rửa Tội không? Tôi có tích cực làm việc để hạt giống đó đơm hoa kết trái trong đời mình không? Nói cách khác, tôi có ‘khát khao những gì đáng khao khát nhất’ không?
Khi chúng ta thực hiện những cam kết của phép Rửa, thế giới sẽ biến đổi! Những ý thức hệ bạo lực, khuynh hướng tham ô, cơn đói quyền lực và của cải sẽ rơi rụng. Thay vào đó, mắt chúng ta sẽ mở ra trước nhu cầu của người khác; họ cũng khao khát Chúa Kitô, ‘khát khao những gì đáng khao khát nhất!’. Món quà lớn nhất chúng ta trao cho họ, như Gioan, là chỉ cho họ Chiên Thiên Chúa, dẫn họ đến với Ngài - vì chỉ Ngài mới có thể thoả mãn cơn khát của mọi tâm hồn!
Anh Chị em,
“Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi!”. Ai trong chúng ta không muốn thấy cuộc đời mình được biến đổi bởi tình yêu và quyền năng của “Đấng đến sau” đó! Ai trong chúng ta không muốn trở nên khí cụ bình an, lòng thương xót và sự công chính của Ngài! Hãy xét xem sự khiêm nhường của chính Đấng ấy và cầu xin Thánh Thần rèn giũa trái tim bạn. Một khi làm như thế, thiên đường cũng sẽ mở ra cho bạn. Chúa Kitô sẵn sàng đổi mới chúng ta trong Thánh Thần của Ngài và xức dầu để chúng ta ra đi thi hành sứ mạng; Ngài đã làm điều đó ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Vậy hãy ‘khát khao những gì đáng khao khát’ nhất, chính Chúa Kitô; và với Ngài, bạn cũng có thể chiếu toả niềm vui Tin Mừng cho những người khác!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, khoảnh khắc con chịu phép Rửa là khoảnh khắc Chúa mở cửa thiên đàng cho con. Xin cho con một chỉ khao khát Chúa, “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa!”, Amen.
(Tgp. Huế)
(Suy niệm lễ Hiển Linh)
Đây là Sadio Mane, một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Senegal đang chơi cho đội bóng Liverpool tại Vương quốc Anh.
Với thu nhập khoảng 10,2 triệu đô la mỗi năm, anh đã cho cả thế giới một bài học về sự khiêm tốn sau khi một số người hâm mộ phát hiện ra anh vẫn sử dụng một chiếc iPhone có màn hình bị nứt.
Câu trả lời của anh ấy đã trở thành huyền thoại:
“Tại sao tôi phải có 10 chiếc Ferrari, 20 chiếc đồng hồ kim cương và 2 chiếc máy bay phản lực? Điều đó sẽ giúp ích gì cho thế giới? Tôi đã từng không đủ ăn, phải làm việc trên các cánh đồng, chơi bóng với đôi chân trần và tôi không được đi học. Nhưng bây giờ tôi có thể giúp đỡ mọi người. Tôi muốn xây dựng trường học, mang tới cho người nghèo thức ăn hoặc quần áo. Tôi đã xây trường học và các sân bóng, cung cấp quần áo, giày dép và thực phẩm cho những người nghèo cùng cực. Ngoài ra, tôi tặng 70 euro mỗi tháng cho tất cả những người đến từ vùng rất nghèo ở Senegal để họ có thể phát triển kinh tế gia đình. Tôi không cần phải trưng bày xe sang, nhà sang, những chuyến du lịch và thậm chí cả máy bay. Tôi muốn người dân của đất nước tôi nhận được một phần nào đó từ những gì mà cuộc sống đã ban tặng cho tôi.” Mane nói. (Nguồn: Chuyện Nhân dân).
Bạn thân mến,
Nhiều người cứ nghĩ rằng tôi sinh ra trên đời này quá vô nghĩa. Tôi chẳng làm được gì cho đời. Tôi thấy tôi hiện diện thay vì đem lại lợi ích cho đời thì tôi lại trở nên kẻ ăn hại và vô tâm. Vì thế, tôi sống chẳng có ý nghĩa gì nữa. Không một người thương mến và hiểu tôi. Tôi nên tiếp tục sống hay chết quách đi cho đỡ khổ…v.v.
Nếu ai đó suy nghĩ như vậy là người ấy đang có chút lương tâm và đáng khen ngợi vì người ấy đang tự mình nhận ra thân phận của bản thân mình hiện diện trong đời sống. Mấy ai suy nghĩ và tự hồi tâm được như vậy?
Bạn thân mến, dù bạn có khổ đau và thất vọng đi chăng nữa, dù bạn bị bạn bè hay người thân không để ý đến bạn, nhưng bạn hãy yên tâm vì Thiên Chúa của chúng tôi, Thiên Chúa của đạo Công Giáo sẽ luôn yêu thương bạn dù bạn là ai và là người như thế nào đi chăng nữa. Bạn biết không? Thiên Chúa của Đạo Công Giáo đang hiện diện nơi Hài Nhi Giê-su mà bạn và chúng ta đang trông thấy nơi hang đá được dựng nên trong Mùa Giáng Sinh. Thiên Chúa là Đấng vô hình, chúng ta không thể nhìn thấy, không thể đụng chạm được, nhưng chúng ta có thể và chắc chắn đụng chạm được Người ngang qua Con của Người là Hài Nhi Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (x.Is 7,14). Ngài hiện diện nơi trần gian đã hơn 2022 năm rồi. Ngài đến để giải thoát con người khỏi đau khổ và khỏi sự chết. Nơi Ngài, tất cả mọi người sẽ được đón nhận hạnh phúc, bình an và sự sống đời đời. Ngài là Đấng cứu độ duy nhất, ngoài Ngài ra, không có danh nào có thể đem lại ơn cứu độ con người. (x.Cv 4,12)
Bạn biết không? Hôm nay, Hài Nhi Giê-su đó đã đến và Ngài đang hiện diện nơi chúng ta, nhưng nhiều người trong chúng ta đã không nhận ra Ngài. Chẳng những vậy, nhiều người còn tìm cách xua trừ, lạnh lùng với Ngài và thậm chí còn tìm cách giết chết Ngài vì không muốn Ngài hiện diện. Tại sao vậy? Vì Ngài là Đấng sự thật, là Ánh sáng muôn dân. Nhiều người sống trong bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ngoại tình, của trộm cắp, của tham lam, của ích kỷ, của hận thù, của ghen ghét,…thì sợ ánh sáng của Ngài. Ngài là Ánh Sáng đến để xua tan bóng tối. Chúng ta sẽ thấy rất rõ nét nơi khung cảnh Tin mừng của Ngày lễ Hiển Linh hôm nay:
“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:“Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.”. (Mt 2,1-12)
Quả thật, Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Be-lem, mà không cần phải đi qua Giêrusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Giêrusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Giêrusalem để loan tin. Nhưng bạn biết không? Thái độ thờ ơ của Dân Thành Giêrusalem cũng như các Thượng Tế và Kinh sư rất rõ ràng. Họ biết Chúa Giê-su sinh ra ở Bê-lêm nhưng họ đã cố chấp, họ sợ khó nhọc, sợ ánh sáng, sợ lạnh lẽo, sợ đường xa,...nên họ không đi tìm gặp Hài Nhi Giê-su, là Thiên Chúa hữu hình đến cư ngụ với nhân loại để cứu độ nhân loại. Thái độ đắng cay hơn nữa là của Vua Hê-rô-đê: sau khi nghe Các Đạo Sĩ nói về Hài Nhi Giê-su, Vua muôn vua, Chúa các chúa, ông ta háo hức muốn gặp. Tuy nhiên, cái mong gặp của Hê-rô-đê thay vì là để tôn thờ, để đón nhận ơn bình an từ Hài Nhi Giê-su, ông lại muốn tìm gặp để loại trừ, để giết chết hay để thủ tiêu vì theo ông, Hài Nhi Giê-su sinh ra là ảnh hưởng đến cái ‘ghế’, cái ngai của ông. Ông ích kỷ và tham lam với cái chức, cái toà của mình, cho nên sợ ai đó chiếm mất. Nên ông đã hành động quá tàn khốc sau khi Các Đạo Sĩ không quay lại với ông. Vì sợ Hài Nhi Giê-su chiếm mất vị trí tương lai, nên Hê-rô-đê đã ra lệnh giết tất cả các hài nhi từ 2 tuổi trở xuống. (x. Mt 2,13-18). Đúng là giết nhầm hơn bỏ sót! Tuy nhiên, trước đó, Hài Nhi Giê-su đã được Giuse và Mẹ Ngài dẫn đi sang Ai-cập theo lệnh của sứ thần của Thiên Chúa để tránh sự tàn khốc của vị bão chúa này.
Bạn biết không? Hôm nay, ngôi sao lại dẫn đường cho Ba vị Đạo Sĩ muốn diễn tả điều gì vậy? Như đã nói trên, việc sinh ra của Hài Nhi Giê-su là một biến cố vô cùng trọng đại và có giá trị cứu độ muôn loài muôn vật. Ngài sinh ra không chỉ dành riêng cho dân Israen hay chỉ riêng cho dân Do Thái, nhưng sự hiện diện của Ngài là sự hiện diện chung cho tất cả mọi người mà không phân biệt lương hay giáo, màu da hay sắc tộc. Hình ảnh Ba Đạo Sĩ được ngôi sao dẫn đến gặp Hài Nhi Giê-su hôm nay là hình ảnh đại diện cho mọi dân mọi nước sẽ được đón nhận ơn lành của Thiên Chúa. Chính bạn và tôi, chính những anh chị em bên cạnh chúng ta dù chưa được biết về Ngài, nhưng Ngài sẽ sẵn sàng ghé thăm và ban ơn phúc nếu chúng ta mở cửa đón tiếp Ngài. Chính Ngài đã phán cách rõ ràng: “Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta. (Kh 3, 20). Quả thật, ơn của Chúa vẫn tiếp tục và luôn luôn đổ xuống trên chúng ta, nhưng chúng ta có nhận biết và đón gặp được Ngài hay không, cái này tuỳ thuộc vào sự cộng tác của chúng ta. Chính “Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.”(Mt 5,45). Thật vậy, để nói lên tầm quan trọng của sự cộng tác của chúng ta, thánh Augustinô đã nói “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người”.
Nói tóm lại, Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này? Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng? Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc. Bạn thấy thế nào rồi? Bạn đã phần nào nhận ra đời bạn có giá trị không vì Thiên Chúa đang yêu thương và đang đến với bạn? Bạn hãy mở lòng và thành tâm thiện chí tìm gặp Ngài đi, tôi tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ sẵn sàng ban ơn giúp sức cho bạn và ban một cách dư tràn mà bạn sẽ không bao giờ nghĩ tới. Bạn và tôi hãy làm việc thiện, và cố gắng gieo nhiều điều tốt cho người khác, nhất là cho những hoàn cảnh nghèo khổ giống như cầu thủ Sadio Mane mà tôi vừa kể ở đầu bài nói chuyện này, chắc chắn bạn và tôi sẽ luôn bình an và hạnh phúc và Thiên Chúa sẽ chúc phúc và đón nhận chúng ta dù chúng ta bất toàn và tội lỗi.
Chúc bạn thành công và sống lạc quan nhé.
Bạn của bạn,
Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương
Linh mục tiến sĩ James Bradley, Giảng sư Giáo luật tại Đại học Công Giáo America ở Washington, DC, và là một linh mục của Bản quyền Tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, nhân dịp Đức Bênêđictô qua đời, đã thuật lại ảnh hưởng của vị Giáo hoàng này trong việc ngài từ Anh giáo chuyển sang Công Giáo (https://catholicherald.co.uk/benedict-xvis-most-tangible-legacy-the-ordinariates):
Tôi không biết mình đã từng gặp một người Công Giáo thực hành đạo nào trước khi vào đại học chưa. Tôi được biết một người bạn ở trường có tên họ Ái nhĩ lan và cha mẹ anh có đi lễ. Nhưng lớn lên trong một gia đình Anh giáo và theo học các trường Anh giáo, kiến thức của tôi về Công Giáo trước đó là con số không. Một trải nghiệm duy nhất xẩy ra trong một chuyến đi Rome. Chúng tôi ở đó vài ngày, và một số ít người trong chúng tôi quyết định thử gặp Đức Giáo Hoàng.
Chúng tôi nhận được vé dự Buổi yết kiến chung, và vào một buổi sáng thứ Tư buồn tẻ, đứng trong phòng yết kiến Phaolô VI khi Đức Gioan Phaolô II, lúc đó đã khá già và không được khỏe, đi ngang qua chúng tôi ở lối đi giữa. Tôi đã chụp một bức ảnh của vị giáo hoàng ốm yếu và nhớ đã khoe nó khi tôi về nhà như một trong nhiều điểm tham quan trong chuyến đi, cùng với Pantheon, Forum và chiếc bánh pizza mà chúng tôi đã ăn vào đêm cuối cùng.
Đến lúc đó, đức tin của tôi, ngược lại, đang tăng trưởng. Tôi được hưởng ơn ích từ một nền tảng Anh giáo vững chắc: giáo xứ nông thôn tốt, ca đoàn nhà thờ và tuyên úy trường học tận tụy. Nhưng Công Giáo không nằm trong tầm ngắm của tôi. Tôi không có ác cảm với nó - ít nhất là không hơn bất cứ cậu học sinh nào có giáo viên lịch sử dường như không buộc phải bắt kịp các bài viết của Eamon Duffy - tôi chỉ đơn giản là không có quan điểm mạnh mẽ nào về nó.
Điều trên đã thay đổi khi tôi tiếp xúc với Anh-Công Giáo. Tôi bắt đầu đánh giá cao nghi thức và nghi lễ của Công Giáo trong việc thờ phượng, và qua đó bắt đầu hỏi nó đến từ đâu và tại sao nó lại quan trọng. Điều này lần lượt dẫn đến việc khám phá ra đức tin mà sự thờ phượng đặc biệt này đã tìm cách thể hiện, và chẳng mấy chốc, tôi đã trở thành một người theo chủ nghĩa Giáo hoàng Anh đầy thuyết phục…
Cái bước đi nước kiệu hướng tới Giáo Hội Công Giáo này đã có một hướng rõ ràng hơn khi tôi được chấp nhận làm mục vụ trong Giáo hội Anh. Tại trường thần học ở Oxford, tôi bắt đầu củng cố bằng lý luận thần học những gì tôi đã tiếp nhận theo bản năng. Các Giáo phụ rất quan trọng, nhưng các tác phẩm của các vị giáo hoàng sau này và của Công đồng Vatican II cũng vậy. Những điều này đã được trình bày và trở nên rõ ràng như là những nguồn học thuyết mạch lạc và đáng tin cậy – ít nhất là vào thời điểm đó – chỉ đơn giản là khẳng định một cách thuận tiện các quan điểm hiện có.
Giáo hội Anh vào đầu thập niên 2000 không phải là nơi thích hợp để đưa ra những kết luận này. Cuộc tranh cãi về các nữ linh mục một thập niên trước đó vẫn chưa lắng xuống, và một cơn bão mới đang ập đến với kế hoạch phong chức giám mục cho phụ nữ. Đây là một vấn đề mà tôi đã cố gắng hết sức để tránh có một quan điểm chắc chắn. Nhưng sự mơ hồ của tôi đã kết thúc khi những mệnh lệnh mà tôi khao khát nhận được ngày càng gần hơn. Đối với tôi, ít nhất, tính toàn vẹn của những gì chúng tôi đã làm trong Giáo hội, của những gì chúng tôi nói chúng tôi tin và của các nguồn mà chúng tôi tìm cho cả hai, chỉ có ý nghĩa - chỉ có tính toàn vẹn - nếu chúng tôi “tất cả đều ở trong”. Tất nhiên, điều này dẫn đến một con đường rõ ràng hơn.
Đức Bênêđictô XVI đã bước vào cái ngưỡng quá độ [liminality] này. Từng bị thuyết phục trước các chân lý của đức tin Công Giáo nhưng ý thức sâu sắc rằng mình đang ở bên ngoài những giới hạn hữu hình của nó, tôi đứng “trên bờ sông Babylon” mà không biết phải rẽ vào đâu. Trong sự bối rối này xuất hiện một vị giáo hoàng người Bavaria, người ngay lập tức dường như hiểu chính xác cách chúng tôi tri nhận cuộc sống Kitô hữu của mình, chính xác cách chúng tôi sa vào sự hỗn độn của giáo hội, và (môt cách quan trọng) chính cách chúng tôi xem việc thờ phượng không những chỉ là nghĩa vụ đơn thuần, mà còn là biểu hiện cao nhất và sống động nhất của sự sống trong Chúa Giêsu Kitô. Đáng ngạc nhiên hơn nữa, nhân vật này – người ngẫu nhiên bị nhiều người có vẻ không thích - muốn chúng tôi mang tất cả những điều đó vào Giáo Hội Công Giáo, và thậm chí nhờ đó làm phong phú thêm cuộc sống của chính Giáo hội này.
Như tôi đã nói, trước thời điểm này, tôi không có ác cảm với Giáo Hội Công Giáo. Nó chỉ đơn giản là có vẻ không có liên quan. Tuy nhiên, ở Đức Bênêđictô, tôi không những chỉ thấy một nhà lãnh đạo giáo hội cống hiến tất cả những gì mà trái tim Anh giáo quanh co của chúng tôi tìm kiếm, mà còn làm như vậy không phải trong sự cô lập vốn đã trở thành tiêu chuẩn của chúng tôi, mà với tư cách là Mục tử tối cao của Giáo hội hoàn vũ. Nói tóm lại: tôi đã nhìn thấy ở ngài, và lần đầu tiên, vị giáo hoàng của thiên niên kỷ thứ nhất mà tôi đã thấy ở các Giáo phụ, và do đó, theo bản năng, tôi đã tin tưởng ngài khi ngài cho thấy định chế này vẫn còn được tìm thấy trong ngôi giáo hoàng ngày nay.
Hiện thân của cuộc hành trình bản thân này, mà tôi luôn coi như phát triển từ mối liên kết bản thân với Đức Giáo Hoàng Bênêđictô, đã xẩy đến với tông hiến Anglicanorum coetibus năm 2010. Các tòa Bản quyền tòng nhân là di sản hữu hình nhất của triều đại giáo hoàng Bênêđictô, được thiết lập vĩnh viễn viễn kiến phụng vụ và giáo hội học của ngài trong các cơ cấu. Tất nhiên, đây là lý do tại sao việc mất ngài đối với chúng tôi ngay lập tức là một nguyên nhân gây nên nỗi buồn và lòng biết ơn.
Chúng tôi sẽ vô cùng hoài nhớ ngài và chúng tôi thương tiếc sự ra đi của ngài, nhưng chúng tôi cũng biết rằng sự phong phú trong suy nghĩ và niềm tin của ngài vẫn tiếp tục trong cộng đồng của chúng tôi, trong sự thờ phượng của chúng tôi và trong cuộc sống của hàng ngàn cựu tín hữu Anh giáo giờ đây đang vui mừng trong sự hiệp thông trọn vẹn và hòa bình của những gì Thánh John Henry Newman gọi là “một đoàn chiên của Đấng Cứu Chuộc”.
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Đây là những lời cuối cùng Chúa nói trên thập tự giá; hơi thở cuối cùng của Ngài, có thể nói như vậy, đã tóm tắt toàn bộ cuộc đời của Ngài: một sự phó thác không ngừng trong tay Chúa Cha. Ngài là bàn tay tha thứ và cảm thương, chữa lành và thương xót, xức dầu và chúc lành, khiến Ngài cũng phó thác mình trong tay các anh chị em của mình. Chúa, cởi mở với từng cá nhân và những câu chuyện của họ mà Người gặp trên đường đi, đã để cho mình được uốn nắn theo ý muốn của Chúa Cha. Ngài đã gánh vác tất cả những hậu quả và khó khăn theo đòi buộc của Tin Mừng, ngay cả khi nhìn thấy đôi tay mình bị đâm thủng vì tình yêu. “Hãy xem tay Thầy”, Người nói với Tôma (Ga 20:27), và nói với mỗi người chúng ta. Những bàn tay bị xiên qua không ngừng vươn tới chúng ta, mời gọi chúng ta nhận ra tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và tin vào tình yêu đó (x. 1 Ga 4:16).[1]
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Đây là lời mời gọi và là chương trình cuộc sống mà Người âm thầm khơi dậy nơi chúng ta. Giống như người thợ gốm (x. Is 29:16), Ngài muốn uốn nắn trái tim của mỗi mục tử, cho đến khi nó hòa hợp với trái tim của Chúa Giêsu Kitô (x. Pl 2:5). Hòa hợp trong lòng tận tụy biết ơn, phục vụ Chúa và dân của Ngài, một sứ vụ phát sinh từ lòng biết ơn vì một món quà hoàn toàn là ân sủng:
“Con thuộc về Ta… con thuộc về họ”, Chúa thì thầm, “con ở dưới sự bảo vệ của bàn tay Ta. Con đang ở dưới sự bảo vệ của trái tim Ta. Hãy ở trong tay Ta và trao tay của con cho Ta”.[2] Ở đây chúng ta thấy sự “hạ cố” và gần gũi của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng trao phó chính mình trong bàn tay yếu đuối của các môn đệ, để họ nuôi dân của Người và cùng Người nói: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống, vì đây là mình, máu Thầy hiến dâng vì anh em (x. Lc 22:19).
Hòa hợp trong sự sùng kính cầu nguyện, một sự sùng kính được hình thành và tôi luyện một cách âm thầm giữa những thử thách và kháng cự mà mỗi mục tử phải đối mặt (x. 1Pr 1:6-7) trong việc tín thác vâng phục mệnh lệnh của Chúa để chăn đàn chiên của Người (x. Ga 21:17). Giống như Thầy, người mục tử mang gánh nặng cầu thay và xức dầu cho dân của mình, nhất là trong những hoàn cảnh mà sự thiện phải đấu tranh để thắng thế và phẩm giá của anh chị em chúng ta bị đe dọa (x. Dt 5:7-9). Trong quá trình cầu thay này, Chúa lặng lẽ ban cho tinh thần khiêm nhường sẵn sàng hiểu, chấp nhận, hy vọng và mạo hiểm, bất chấp mọi hiểu lầm có thể xảy ra. Đó là nguồn gốc của một hoa trái vô hình và khó nắm bắt, phát sinh từ việc ngài biết Đấng mà ngài đã đặt niềm tin tưởng (x. 2 Tim 1:12). Một sự tin tưởng tự nó phát sinh từ việc cầu nguyện và tôn thờ, có khả năng nhận ra điều gì được mong đợi nơi một mục tử và uốn nắn con tim và các quyết định của ngài theo thời điểm thuận tiện của Thiên Chúa (x. Ga 21:18): “Nuôi dưỡng có nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng. Yêu thương có nghĩa là ban cho chiên những gì thực sự tốt lành, lương thực chân lý của Thiên Chúa, lời Chúa, lương thực sự hiện diện của Ngài”. [3]
Hòa hợp trong lòng tận tụy được nâng đỡ bởi sự an ủi của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn đi trước mục tử trong sứ vụ của mình. Trong nỗ lực say mê của mình để truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng (x. Gaudete et Exsultate, 57). Trong chứng tá hiệu quả của tất cả những người, giống như Mẹ Maria, bằng nhiều cách đứng dưới chân thập giá. Trong sự thanh thản đau đớn nhưng kiên định không tấn công cũng không ép buộc. Trong niềm hy vọng bướng bỉnh nhưng kiên nhẫn rằng Chúa sẽ thành tín với lời hứa của Người, lời Người đã hứa với cha ông chúng ta và với con cháu họ đến muôn đời (x. Lc 1:54-55).
Khi giữ vững những lời cuối cùng của Chúa và chứng tá của cả cuộc đời người, chúng ta cũng vậy, với tư cách là một cộng đoàn giáo hội, muốn nối gót người và phó thác anh em chúng ta trong tay Chúa Cha. Xin cho những bàn tay đầy lòng thương xót đó thắp sáng ngọn đèn của người bằng dầu Tin Mừng mà người đã truyền bá và làm chứng trong suốt cuộc đời mình (x. Mt 25:6-7).
Khi kết thúc Quy tắc mục vụ của mình, Thánh Grêgôriô Cả đã thúc giục một người bạn dâng cho ngài sự đồng hành thiêng liêng này: “Giữa cơn đắm tàu của cuộc sống hiện tại, xin hãy nâng đỡ tôi, tôi nài xin bạn, bằng tấm ván cầu nguyện của bạn, để khi sức nặng của chính tôi làm tôi chìm xuống, bàn tay công đức của bạn sẽ nâng tôi lên”. Ở đây, chúng ta thấy ý thức của một mục tử không thể gánh vác một mình điều mà thực tế là ngài không bao giờ có thể gánh vác một mình, và do đó ngài có thể tự phó thác cho lời cầu nguyện và sự chăm sóc của những người được ủy thác cho ngài. [4] Các tín hữu của Chúa, quy tụ nơi đây, giờ đây đồng hành và phó thác cho Chúa cuộc đời của vị chủ chăn của họ. Giống như những người phụ nữ ở ngôi mộ, chúng ta cũng đã đến với hương thơm của lòng biết ơn và hương thơm của hy vọng, để một lần nữa cho Người thấy tình yêu bất diệt. Chúng ta muốn làm điều này với cùng sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã mang đến cho chúng ta trong những năm qua. Cùng nhau, chúng ta muốn nói: “Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của người trong tay Cha”.
Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!
[1] X. BENEDICT XVI, Deus Caritas Est, 1.
[2] X. ID., Bài giảng Lễ Dầu, 13 tháng 4, 2006.
[3] ID., Bài giảng Khai mạc Triều đại Giáo hoàng, ngày 24 tháng 4 năm 2005.
[4] X. Thượng dẫn
Cái chết của Đức Bênêđictô hôm thứ Bảy đã chấm dứt một thập kỷ cựu giáo hoàng và đương kim giáo hoàng sống cạnh nhau ở Vatican.
Vào cuối lễ tang ở quảng trường Thánh Phêrô, một số người đã hét lên bằng tiếng Ý “Santo Subito!” (Phong thánh ngay cho ngài!). Đó là cụm từ tương tự được sử dụng trong đám tang của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2005, mặc dù khi đó nhiều người tham dự lễ tang hơn.
Ba trong số năm vị giáo hoàng gần đây nhất đã được tuyên thánh, nhưng chỉ khoảng một phần ba tổng số 265 vị giáo hoàng qua đời được tuyên thánh trong lịch sử 2.000 năm của Giáo hội.
Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã ngồi trong phần lớn thời gian của buổi lễ vì bị đau đầu gối, kể cả khi đọc bài giảng, trong đó ông chỉ nhắc đến tên Đức Bênêđíctô một lần tại buổi lễ có hơn 50.000 người tham dự tại một quảng trường bị sương mù bao phủ.
Cuối cùng, ngài đứng dậy khi quan tài của Đức Bênêđíctô đang được mang đi chôn cất trong một nghi thức riêng bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Cúi đầu thầm cầu nguyện, Đức Thánh Cha Phanxicô chạm nhẹ vào quan tài.
Ở tuổi 86, Đức Phanxicô, người đã phải ngồi xe lăn nhưng không có dấu hiệu chậm lại, với các chuyến đi được lên kế hoạch cho Phi Châu và Bồ Đào Nha trong những tháng tới. Đức Thánh Cha Phanxicô giờ đây hơn Đức Bênêđictô một tuổi khi ngài nghỉ hưu.
Bản thân Đức Phanxicô đã nói rõ rằng một ngày nào đó ngài sẽ không ngần ngại thoái vị nếu sức khỏe tinh thần hoặc thể chất cản trở ngài thực hiện nhiệm vụ của mình, nhưng các quan chức Vatican luôn nghi ngờ ngài có thể làm điều này khi Đức Bênêđictô XVI vẫn còn sống.
Một trình thuật về triều đại giáo hoàng của Benedict, cùng với các đồ vật khác, bao gồm cả tiền xu của Vatican được đúc trong thời kỳ trị vì của ngài, đã được cất trong quan tài của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16. Bản tường trình, được viết bằng tiếng Latinh, nói rằng Đức Bênêđictô “đã kiên quyết đấu tranh” chống lại sự lạm dụng tình dục của các giáo sĩ trong Giáo hội.
Sau lễ an táng, quan tài được quấn trong dải ruy băng màu đỏ có hình chữ thập. Các công nhân sau đó đã đặt nó vào một chiếc quan tài bằng kẽm và hàn nó lại. Cả hai sau đó được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ, trước khi hạ xuống hầm mộ.
Mọi người từ khắp nơi trên thế giới, nhiều người từ Đức, quê hương của Đức Bênêđictô, đã đến từ rất sớm để nói lời từ biệt, trong đó có một số nguyên thủ quốc gia và một số hoàng gia Âu Châu.
“Đó là một ngày buồn nhưng đầy ý nghĩa. Tôi muốn ở đây nhiều đến nỗi tôi có thể cảm nhận được điều đó trong trái tim mình,” một phụ nữ Ý, cô Marianna, cho biết.
Dorotea Dadaeki, một phụ nữ Rwandan sống ở Rôma, cho biết: “Tôi tự nhủ rằng mình phải đến tham dự Thánh lễ để cùng cầu nguyện với ngài”.
Xavier Mora, 24 tuổi, người Tây Ban Nha chuẩn bị thụ phong linh mục, cho biết anh đã học thần học của Đức Bênêđíctô và có “tình cảm và sự kính trọng lớn đối với ngài”.
Khoảng 200.000 người đã xếp hàng để đi ngang qua thi hài của Đức Bênêđíctô được trưng bày trong ba ngày cho đến tối thứ Tư.
Buổi lễ bắt đầu khi 12 người khiêng quan tài của ngài ra khỏi Đền Thờ Thánh Phêrô và đặt trên mặt đất trước ngôi nhà thờ lớn nhất trong thế giới Kitô. Chuông cũng được vang lên ở các thành phố của Đức.
Lần cuối cùng một vị giáo hoàng đương kim chủ trì lễ tang của người tiền nhiệm là vào năm 1802, khi Đức Piô Đệ Thất chủ trì nghi lễ cho Đức Piô Đệ Lục, thi hài của ngài đã trở về Vatican sau khi ngài qua đời vào năm 1799 trong cuộc sống lưu vong.
Trong bài giảng của mình, Đức Phanxicô chỉ nhắc đến tên của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 một lần duy nhất vào dòng cuối cùng. Nhiều người tỏ ra không hài lòng. Tuy nhiên, nói một cách công tâm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng nhiều phát biểu và tác phẩm của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và ngài đi xa đến mức so sánh tâm tình phó thác của Đức Bênêđictô với Chúa Giêsu, kể cả những lời cuối cùng của ngài trước khi chết trên thập giá: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha.”
Trong Thánh lễ được đồng tế bởi 125 Hồng Y, 200 giám mục và khoảng 3.700 linh mục, Đức Phanxicô đã nói về “sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã ban cho chúng ta trong những năm qua”.
Ngài đã đề cập đến Đức Bênêđíctô ở dòng cuối cùng, nói rằng: “Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!”
Theo yêu cầu của ngài, Đức Bênêđíctô được chôn cất trong các hang động dưới lòng đất của Vatican trong hốc nơi đầu tiên để thi hài của Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và sau đó là Đức Gioan Phaolô II trước khi hài cốt của các ngài được chuyển đến những nơi nổi bật hơn trong Đền Thờ Thánh Phêrô sau khi các vị được tuyên Chân Phước.
Source:Reuters
Khi các bạn bước vào đời chúng ta, và ở mọi giai đoạn sau đó, chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho sự an toàn và hạnh phúc. Cho dù chúng ta là cha mẹ, giáo chức hay những người làm việc với giới trẻ ở một lãnh vực nào, chúng ta hãy ý thức rằng cần có những người tận tâm và yêu thương giúp trẻ em hoàn thành sứ mệnh Chúa giao khi chúng lớn lên.
Cám ơn Chúa đã trao ban cho chúng ta những vị thánh, mẫu gương cho mọi mẫu người để giúp đỡ chúng ta trong bất luận hoàn cảnh nào. Dưới đây là 7 vị thánh được coi như là mẫu gương...
Cho thai nhi – Thánh Gianna Molla (1922-1962)
Là một bác sĩ, một người vợ và một người mẹ, Gianna đã qua đời khi quyết định mang thai đứa con thứ tư cho đến ngày sinh nở, dù nữ thánh mắc bệnh ung thư. Nữ thánh đã trở thành người bảo trợ cho những đứa trẻ chưa sinh và mẹ của chúng.
Cho trẻ sơ sinh – Thánh Nicholas thành Tolentino (c. 1246-1304)
Một cha mẹ biết mình không thể có con, các ngài đã hành hương đến một ngôi đền dành kính Thánh Nicholas, Vị thánh này đã trở thành một tu sĩ và luôn cổ võ kiến tạo hòa bình, qua việc giảng thuyết và chữa lành.
Dành cho thiếu nữ – Thánh Catherine thành Genoa (1447-1510)
Catherine là con người hăng say cầu nguyện, cảm thấy được mời gọi sống đời tu trì nhưng thay vì đi tu, cô buộc phải bước vào một cuộc hôn nhân sắp đặt lúc 16 tuổi. Nhưng Cô đã dẫn dắt chồng mình đến với đức tin và cuối cùng họ cùng nhau phục vụ người nghèo.
Dành cho thanh niên nam – Thánh Gioan Bosco (1815-1888)
Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, John đã phụ giúp gia đình và luôn có tấm lòng yêu thương trẻ em ngay từ khi còn nhỏ. Cuối cùng, Bosco đã thành lập được một khánh lễ viện để giúp đỡ các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi…
Cho mọi hoàn cảnh – Thánh Giuse, phu quân của Mẹ Maria
Ai có thể sánh ví là một vị thánh mẫu mực hơn hơn là người cha nuôi của Chúa Giêsu? Ngài là một người thợ mộc và là bạn của Đức Maria, Ngài sẽ lắng nghe và đáp lời các thiên thần để đến hướng dẫn bạn...
Cho thanh thiếu niên và thanh niên – Thánh Charles Lwanga (1860-1886)
Charles là một trong những vị tử vì đạo ở Uganda. Ngài bị giết trong cuộc đàn áp Mwangan lúc mới 26 tuổi. Dù là con của vua, ông đã bí mật rửa tội và cố gắng bảo vệ những trẻ em dưới quyền chăm sóc của mình.
Ký giả Edward Pentin của tờ National Catholic Register có bài tường trình nhan đề “Pilgrims Throng St. Peter’s Square for Benedict’s Funeral Mass”, nghĩa là “Những người hành hương xếp hàng rồng rắn tại quảng trường Thánh Phêrô” để dự Thánh lễ An táng của Đức Bênêđictô.
Trong bài tường trình này ông ghi nhận hai điều nổi bật. Thứ nhất, bài Phúc Âm được đọc bằng tiếng Ý kể về “Người Trộm Lành”. Dưới con mắt đức tin, câu Chúa nói với anh ta “Hôm nay, anh sẽ với tôi trên nước thiên đàng” chính là lễ phong thánh đầu tiên trong lịch sử nhân loại, và điều đó tiêu biểu cho một dấu chỉ rõ ràng về việc tuyên thánh trong tương lai của Đức Bênêđíctô.
Thứ hai, Phúc âm tiếp tục nói rằng “bóng tối bao trùm cả vùng đất” nhưng ở Rôma ngày nay “thì ngược lại”. “Trong khi trời có sương mù suốt cả buổi sáng, đột nhiên, như một phần thiêng liêng của buổi lễ phụng vụ tuyệt đẹp trên mặt đất, mặt trời được phản chiếu trong quả cầu vàng trên đỉnh mái vòm của Đền Thờ Thánh Phêrô tại ngày vọng Chúa Hiển Linh này. Điều đó tiêu biểu cho di sản thực sự của Đức Bênêđictô XVI: đó là làm cho toàn thế giới biết đến Dung Nhan của Thiên Chúa.”
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Ước tính có khoảng 50,000 người đưa tang đã tập trung tại quảng trường, một số cắm trại qua đêm, để nói lời từ biệt cuối cùng với vị giáo hoàng kính yêu, người đã qua đời ở tuổi 95 vào ngày 31 tháng 12, lễ kính Thánh Giáo hoàng Sylvestrô.
Cờ của Bavaria và Đức với dòng chữ Danke Papst Benedikt! và Santo Subito bay phấp phới trong màn sương khi tiếng chuông tang lễ của Đền Thờ Thánh Phêrô vang lên. Các tín hữu đã cùng nhau lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho linh hồn Bênêđictô trong bầu khí mặc niệm, tôn kính và cầu nguyện.
Sau khi được long trọng rước vào quảng trường qua cửa phía trước Đền Thờ, quan tài được đặt nằm trên một tấm thảm đỏ dưới chân bàn thờ, với một cuốn sách Tin Mừng được đặt trên cùng. Thư ký riêng lâu năm của Đức Bênêđictô, Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein, sau đó cúi xuống hôn quan tài trước khi ngồi vào hàng ghế đầu, cùng với những người thân cận nhất với Đức Bênêđictô, bao gồm cả các nữ giáo dân tận hiến Memores Domini, những người đã chăm sóc ngài trong nhiều năm.
Một đám rước gồm hàng trăm Hồng Y, giám mục và khoảng 3.700 linh mục đã ngồi vào chỗ của họ. Trong số đó có Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, 90 tuổi, của Hương Cảng, một đồng minh thân cận của Đức Bênêđictô XVI trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho người Công Giáo ở Trung Quốc Cộng sản. Các Hồng Y Sean O'Malley của Boston, Timothy Dolan của New York, Robert McElroy của San Diego và Daniel DiNardo của Galveston-Houston nằm trong số các giám mục Hoa Kỳ tham dự tang lễ trọng thể, cùng với một số thượng phụ Đông phương, trong đó có Đức Hồng Y Louis Raphael Sako, Thượng phụ Công Giáo Chaldea của Baghdad, và Đức Hồng Y Bechara Rai, Thượng phụ Maronite của Antiôkia ở Li Băng.
Trong số các đại diện chính thức của nhà nước có Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier, Thủ tướng Đức Olaf Scholz, và một phái đoàn lớn gồm các quan chức Ý do Tổng thống Sergio Mattarella và Thủ tướng Giorgia Meloni dẫn đầu.
Các quốc gia khác đã gửi các quan chức, hoàng gia hoặc đại diện ngoại giao nhưng không phải là phái đoàn chính thức. Hoa Kỳ được đại diện bởi Đại sứ của Tổng thống Joe Biden tại Tòa thánh, Joseph Donnelly.
Đức Thánh Cha Phanxicô bước vào tiền đình đền thờ ngay trước 9:30 sáng để trở thành vị giáo hoàng đầu tiên cử hành tang lễ của người tiền nhiệm kể từ năm 1802, khi Đức Piô VII đã mang hài cốt của Đức Piô VI về Rôma để cải táng sau khi ngài qua đời và đã được chôn cất vài năm trước đó trong cảnh lưu đày với tư cách là tù nhân của Napoléon.
Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức ban đầu, lời nguyện nhập lễ và nghi thức Sám hối. Ba bài đọc sau đó được công bố cho các tín hữu: bài thứ nhất trích Sách Tiên Tri Isaia đọc bằng tiếng Tây Ban Nha, Thánh Vịnh 23 bằng tiếng Latinh, bài đọc thứ hai bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ bằng tiếng Anh và Tin Mừng bằng tiếng Ý.
Bài Tin Mừng kể về “Người Trộm Lành” hoán cải trên cây thánh giá bên cạnh Chúa Giêsu và Chúa công bố sự Phục Sinh với những lời này: “Tôi bảo thật anh: hôm nay anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng.” Một tập tài liệu Thánh lễ đã được trao cho các tín hữu để họ có thể tham gia phụng vụ tốt hơn.
Với hình ảnh phục sinh của Chúa Kitô phủ phía trước đền thờ, Đức Phanxicô bắt đầu bài giảng ngắn của mình với những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá, “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 12:46) — Đức Giáo Hoàng nói, những lời “tóm tắt” “toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu: một sự phó thác không ngừng trong tay Cha của Người.” Trái ngược với bài giảng của Đức Bênêđíctô tại tang lễ của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II năm 2005, trong đó ngài đề cập rõ ràng đến nhiều phẩm chất và thành tích của Đức Gioan Phaolô II, Đức Phanxicô đã ngầm bày tỏ lòng kính trọng đối với cuộc đời của Đức Joseph Ratzinger bằng những lời này, liên kết ngài với lòng trung thành, chu toàn những đòi hỏi và lòng sùng kính cầu nguyện của đời sống thánh hiến.
“Các tín hữu của Thiên Chúa, quy tụ tại đây, giờ đây đồng hành và phó thác cho Người cuộc đời của vị mục tử của họ,” ngài nói. “Giống như những người phụ nữ ở ngôi mộ, chúng ta cũng đến với hương thơm của lòng biết ơn và dầu thơm của hy vọng, để một lần nữa cho Ngài thấy tình yêu bất diệt,” Đức Thánh Cha kết luận. “Chúng ta muốn làm điều này với cùng sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã ban cho chúng ta trong nhiều năm. Cùng nhau, chúng ta muốn nói: ' Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của người trong tay Cha’”.
Đức Thánh Cha nói thêm: “Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!”
Vào cuối Thánh lễ cầu nguyện đơn giản và trang trọng, thánh lễ đầu tiên kể từ thế kỷ thứ sáu dành cho một vị giáo hoàng quá cố đã nghỉ hưu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Lễ Tuyên Dương và Chào Từ Biệt Cuối cùng, sau đó là một phút thinh lặng cầu nguyện. Những tràng pháo tay dài và những lời hô vang của Santo Subito! và Viva il Papa! đã được nghe thấy khi các Hồng Y tập hợp quay trở vào đền thờ.
Cùng lúc đó, tiếng đàn organ trang trọng được chơi và tiếng chuông vang lên khi những người khiêng quan tài nhấc quan tài và khiêng nó đến phía sau bàn thờ, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô cúi đầu, đặt tay lên nắp gỗ và ban phép lành. Sau đó, những người khiêng quan tài được bọc bằng cây bách qua cửa chính của đền thờ, rồi Đức Bênêđíctô được chôn cất trong các hang động của Vatican trong một buổi lễ riêng tư.
Những lời tri ân nồng nhiệt dành cho Đức Bênêđictô XVI đã tuôn trào kể từ khi ngài qua đời vào ngày lễ Thánh Sylvestrô. Trong các bình luận cho tờ National Catholic Register, Đức Hồng Y Raymond Burke cho biết ngài tin rằng “di sản lớn nhất của Đức Joseph Ratzinger là giáo huấn của ngài, sự trau dồi và thúc đẩy việc sử dụng Nghi thức Rôma cổ xưa hơn.” Vị Hồng Y người Mỹ, người được Đức Bênêđictô bổ nhiệm làm Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao vào năm 2008, cho biết vị giáo hoàng người Đức quá cố sẽ được “tưởng nhớ vì chiều sâu của giáo huấn và cách thức dễ tiếp cận triệt để mà ngài đã truyền đạt”.
Ambrogio Jonghyu Jeong, cựu đại sứ Hàn Quốc tại Tòa thánh từ 2016 đến 2018, nói với tờ National Catholic Register rằng sau cái chết của Đức Bênêđictô XVI, “cảm giác mất mát chung của người Công Giáo Hàn Quốc là vô cùng lớn”. Nhà cựu ngoại giao, người đã dịch 7 cuốn sách của Đức Joseph Ratzinger sang tiếng Hàn, nói rằng 9 năm trước cuộc bầu cử của Đức Thánh Cha Phanxicô “đã được hoan nghênh” và ngài “là một loại ngôi sao nhạc pop ở Hàn Quốc.” Trong khi đó, ông nói rằng Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã “dần dần bị lãng quên; nhưng gần đây, vị giáo hoàng thoái vị, đã được phát hiện lại.”
Tác giả người Đức Paul Badde, người đã viết cuốn sách The Holy Veil of Manoppello năm 2018 và thân cận với Đức Bênêđictô, cho biết điều gây ấn tượng nhất cho ông trong tang lễ là bài đọc Tin Mừng về “Người Trộm Lành”. Badde nói, bài đọc đó là “lễ phong thánh đầu tiên trong lịch sử nhân loại,” và điều đó tiêu biểu cho một dấu chỉ rõ ràng về việc tuyên thánh trong tương lai của Đức Bênêđíctô. Sau đó, Badde lưu ý rằng Phúc âm tiếp tục nói rằng “bóng tối bao trùm cả vùng đất” nhưng ở Rôma ngày nay “thì ngược lại”.
“Trong khi trời có sương mù suốt cả buổi sáng, đột nhiên, như một phần thiêng liêng của buổi lễ phụng vụ tuyệt đẹp trên mặt đất, mặt trời được phản chiếu trong quả cầu vàng trên đỉnh mái vòm của Đền Thờ Thánh Phêrô tại ngày vọng Chúa Hiển Linh này. Điều đó tiêu biểu cho di sản thực sự của Đức Bênêđictô XVI: đó là làm cho toàn thế giới biết đến Dung Nhan của Thiên Chúa.”
Source:National Catholic Register
Nhận “Các Thánh Tử Đạo việt Nam” làm bổn mạng, Ca đoàn Giới Trẻ Bình Thái đã hoạt động trong suốt 20 năm qua, với mục đích và tôn chỉ tông đồ là: “Tôn Vinh Thiên Chúa và yêu mến anh em”.
Được thành lập vào năm 2003 cùng với Ban mục vụ Giới Trẻ để phục vụ Thánh Lễ dành riêng cho Giới trẻ Giáo xứ Bình Thái, Ca đoàn này phục vụ hát lễ vào mỗi Chúa nhật tuần thứ 2 của tháng, lúc 18g10.
Đầu tiên, Ca đoàn nhận được sự hướng dẫn từ ca trưởng Phêrô Trần Phi Hùng, và được sự hỗ trợ của các ca trưởng thuộc nhiều ca đoàn trẻ xứ nhà trong 7 năm đầu.
Đến năm 2010, Ca đoàn chính thức được giao cho anh Giuse Nguyễn Anh Quân đảm trách, và vào thời gian này, Ca đoàn có nhiều sự phát triển vượt bậc về số lượng, từ con số 20 tăng lên đến 60 ca viên. Kỹ thuật hát xướng lúc này cũng được tôi luyện vượt bậc.
Hoạt động định kỳ của Ca đoàn:
Tập hát vào mỗi thứ Hai từ 20g đến 21g30,
Hát lễ vào Chúa nhật thứ 2 của mỗi tháng lúc 18g,
Dã ngoại: 1 lần/năm,
Phục vụ hát lễ cưới, an táng và các ngày lễ trọng khác khi được phân công,
Tham gia các hoạt động của giới trẻ hạt Bình An.
Được sự hỗ trợ và đồng hành trong suốt thời gian qua từ Linh mục Chánh xứ, Phó xứ và HĐMV, BMV Giới trẻ, quý ân nhân, thân nhân, nên tinh thần phục vụ của các thành viên ngày càng thăng tiến hơn và luôn sẵn sàng đón tiếp các bạn mới để cùng nhau dấn thân phục vụ, đồng hành trên con đường tìm đến hạnh phúc quê trời.
Các ca viên luôn tạ ơn Chúa về những gì Ngài đã thực hiện trên Ca đoàn Giới trẻ Bình Thái, và luôn xin được tán dương Ngài như con thơ trong lòng Mẹ hiền: “Xin cho con đắm say lời hát chúc khen Danh Ngài…”
Maria Huỳnh Thị Ngọc Dung (TGPSG)
Dịp Lễ Hiển Linh năm 2015 trên hộp thư email của anh em Cựu Chủng sinh Tiểu Chủng viện Sao Biển Nha Trang có trao đổi về từ ngữ “Mộc dược hay Một dược?” Nhiều anh em Cựu Chủng sinh trong nước cũng như sống ở nước ngoài đã tìm tài liệu để dẫn chứng trong 2 từ trên, từ nào chuẩn xác nhất. Cuối cùng anh em thống nhất là dùng từ “Một dược” để dịch từ “Myrrha” của tiếng Latin [1].
Vào google gõ “Mộc dược hay Một dược” sẽ có nhiều bài giải thích về 2 từ ấy. Đại đa số các tác giả Công Giáo và không Công Giáo đều công nhận từ “Một dược” là chuẩn xác nhất.
Trong bản dịch Kinh Thánh Cựu Tân ước của Linh mục Đa Minh Trần Đức Huân tái bản năm 1971 dùng từ “Một dược”. Bản thảo dịch Kinh Thánh của Linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn ghi là “Một dược” nhưng khi đem in thì người ta tưởng Linh mục viết sai chính tả nên sửa lại thành “Mộc dược”.
Bài Phúc âm dành cho Lễ Hiển linh sắp đến (8/1/2023) được đăng trên trang thông tin các Giáo phận đều thấy ghi “…lễ vật: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược”.
Để biện minh cho việc dùng từ “Mộc dược” tác giả Phê rô Nguyễn Đình Diễn đã viết: “Với MỘT DƯỢC dân chúng sửa (chỉ có các nhà phiên dịch sửa, chứ không có “dân chúng” nào cả!- T/g) thành MỘC DƯỢC có lẽ vì MỘC gần giống với MỘT nhưng quen thuộc hơn và dễ hiểu hơn vì có sự liên tưởng đến cây cỏ dùng làm thuốc.
“Kết luận, nên dùng MỘT DƯỢC để nhất quán với chữ gốc Hán. “Từ điển Công Giáo” của Hội đồng Giám mục Việt Nam, tái bản năm 2019, đã dùng MỘT DƯỢC ở mục từ CHIÊM TINH, NHÀ-. Nhưng không nên khắt khe cho rằng dùng MỘC DƯỢC là sai lầm. MỘC DƯỢC mang tính xã hội nhiều hơn MỘT DƯỢC. Trong não trạng người Việt Nam Công Giáo và ngoài Công Giáo, MỘC gợi lên ý nghĩa về thảo dược trong khi MỘT không nói lên điều gì”[2].
Sao lại “MỘT không nói lên điều gì”? Trong Tự Điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai Trí có từ “Một” nghĩa là chết, mất, hết: Mai một= vùi lấp.
Một dược (Myrrha) là hương liệu dùng trong việc tẫn liệm xác chết ở vùng Ai Cập và Palestine thời xa xưa, vì nó có tính chất chống lại sự thối rữa.
Lý luận như tác giả Phê rô Nguyễn Đình Diễn: “…không nên khắt khe cho rằng dùng MỘC DƯỢC là sai lầm. MỘC DƯỢC mang tính xã hội nhiều hơn MỘT DƯỢC”. Vậy cái gì “mang tính xã hội nhiều” là đúng chăng? Cứ “chúng khẩu đồng từ” (Nhiều miệng cùng nói một lời-“Thiểu số phục tùng đa số”) đều đúng hay sao?
Tác giả Bùi Ngọc Hiển khẳng định: “Chỉ có một dược mà không hề có mộc dược để dịch myrrha (của Latin), thì tại sao cứ cố chấp dùng cái không có thay cho cái có?”[3].
Biết sai thì cố gắng sửa sai, nếu không, nói như tác giả Bùi Ngọc Hiển là “cố chấp”.
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Nha Trang
Chú thích:
[1]- http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/MucVu/178 MotDuoc.htm
[2]-http://www.legiomariaevn.com/chi-tiet-tin-tuc/1682/moc-duoc-hay-mot-duoc-.html
[3]-http://www.tutevungtau.blogspot.com/2015/04/mot-duoc-hay-moc-duoc.htm
1. Ukraine tấn công căn cứ không quân Belbeck
Petro Andriushchenko, cố vấn của thị trưởng Mariupol lưu vong, báo cáo rằng lực lượng phòng không của quân Nga đã được kích hoạt hai lần vào đầu giờ ngày thứ Tư 4 tháng Giêng.
Sau đó, vào buổi sáng thứ Tư, “Thống đốc Sevastopol” do Nga bổ nhiệm Mykhailo Razvozhaev tuyên bố rằng “vào sáng sớm hôm nay, hệ thống phòng không đã bắn hạ hai máy bay không người lái trên biển ở khu vực Belbek”.
Sevastopol là một thành phố cảng quan trọng đối với Nga, từ đó họ khởi động hạm đội Hắc Hải chịu trách nhiệm ném bom cơ sở hạ tầng năng lượng quan trọng trên khắp Ukraine.
Theo Ông Petro Andriushchenko, các cư dân địa phương đã báo cáo về những vụ nổ rất lớn trong căn cứ không quân Belbeck, nơi chứa các thiết bị quân sự. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ các thiệt hại của quân Nga.
2. Binh sĩ Ukraine đẩy lùi cuộc tấn công, đánh chiếm các cứ điểm của quân xâm lược ở khu vực Bakhmut. 720 binh sĩ Nga bị loại khỏi vòng chiến trong 24 giờ qua
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv sáng thứ Năm mùng 5 tháng Giêng, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cho biết giao tranh có phần lắng đọng tại thành phố Bakhmut nhưng tiếp tục căng thẳng quanh Karmazynivka và Bilohorivka, gần thành phố Kreminna.
Ở phía Bắc thành phố Bakhmut, quân Ukraine đã tái chiếm được làng Yakovlivka. Giao tranh với quân Wagner vẫn còn ác liệt tại làng Kurdyumivka, một ngôi làng ở phía Nam thành phố Bakhmut. Trong 24 giờ qua, quân Nga được pháo binh, xe tăng yểm trợ đã cố gắng ngăn chặn các cuộc phản công của quân Ukraine. Hai xe tăng, và sáu xe thiết giáp của Nga đã bị bắn cháy.
Chuẩn tướng Oleksii Hromov tiết lộ rằng chỉ trong 24 giờ qua, ở hai mặt trận phía Bắc và phía Nam thành phố Bakhmut, quân Nga và quân Ukraine đã giao tranh với nhau 22 lần. Tình hình bi thảm đến mức, theo các báo cáo của quân trú phòng Ukraine, trong nhiều trường hợp xe tăng và xe thiết giáp Nga cán lên xác lính Nga vùi trong tuyết để tiến lên hay rút lui. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của lính Nga. Một số lính đánh thuê Wagner tìm cách bỏ trốn bất kể nếu họ bị bắt lại, họ sẽ bị hành quyết.
Tuy nhiên, ông bày tỏ lạc quan là thành phố Bakhmut sẽ đứng vững và các cuộc giao tranh sẽ dịu lại. Giải thích lý do cho hy vọng này ông nói rằng trước đây quân Nga có thể chứa đạn dược và hỏa tiễn cách xa tiền tuyến hơn 100km để tránh pháo binh Ukraine. Tuy nhiên, trong điều kiện lầy lội của mùa Đông, xe cộ thường bị lún sâu trong sình lầy, quân Nga đã phải đưa đạn dược đến gần tiền tuyến hơn. Hai kho đạn như thế đã nổ tung ở phía Bắc thành phố Bakhmut trong 24 giờ qua. Trung Đoàn Xe Tăng Cận Vệ số 59, và Tiểu Đoàn 148 Trinh Sát, cả hai cùng thuộc Sư Đoàn 144 súng trường cơ giới của Nga đã rút lui khỏi phía Bắc thành phố Bakhmut vì không được tiếp tế đạn dược.
Thống Đốc Luhansk là ông Serhiy Haidai cho biết giao tranh vẫn tiếp tục diễn ra dữ dội dọc theo xa lộ P66 nối Svatove và Kreminna. Quân Ukraine đã cắt đứt xa lộ này tại 2 thị trấn Chervonopopivka và Ploshchanka. Tất cả xa lộ hiện này trong tầm hỏa lực của quân Ukraine.
Giao tranh đang diễn ra chủ yếu tại Karmazynivka và Bilohorivka, trong khi quân Nga trong thành phố Kreminna đang tìm cách rút lui để tránh bị bao vây.
Trong 24 giờ qua, con số thương vong của quân Nga tiếp tục cao. 720 người bị loại khỏi vòng chiến, cùng với 2 xe tăng, 6 xe thiết giáp, 6 hệ thống pháo, và 1 hệ thống phòng không.
Tính chung từ ngày 24 tháng 2, 2022 đến ngày 4 tháng Giêng, 108.910 lính Nga đã thiệt mạng. Lực lượng phòng thủ Ukraine cũng phá hủy 3.038 xe tăng, 6.106 xe thiết giáp, 2.039 hệ thống pháo, 424 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, 215 hệ thống tác chiến phòng không, 283 máy bay, 270 máy bay trực thăng, 1.842 máy bay không người lái, 723 tên lửa hành trình, 16 tàu chiến, 4.745 xe chuyển quân và nhiên liệu, và 181 thiết bị đặc biệt.
3. Ukraine lần đầu buộc tội hai chỉ huy Nga với các tội liên quan đến tấn công dân thường
Chính quyền Ukraine lần đầu tiên buộc tội hai chỉ huy quân sự cấp cao của Nga với tội danh liên quan đến tấn công dân thường Ukraine.
Đại tá Serhii Kobylash, chỉ huy Lực lượng Hàng không Tầm xa của Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga, và Đô đốc Igor Osipov, cựu chỉ huy Hạm đội Hắc Hải của Liên bang Nga, đã bị buộc tội vắng mặt.
Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU, thông báo rằng họ đã “thu thập được cơ sở bằng chứng với phẩm chất cao chống lại hai đại diện của bộ chỉ huy cấp cao Nga, những người chịu trách nhiệm tấn công các cơ sở dân sự ở Ukraine”.
SBU cho biết Kobylash và Osipov bị buộc tội theo hai phần của bộ luật hình sự Ukraine: đầu tiên là “lên kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu và tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược” và thứ hai là “xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ và quyền bất khả xâm phạm của Ukraine.”
Nếu họ bị bắt và bị kết án, cả hai có thể phải đối mặt với án tù chung thân, SBU cho biết.
“Trong quá trình điều tra, các nhà điều tra của SBU phát hiện ra rằng kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện, Serhii Kobylash đã tuân theo chỉ thị của lãnh đạo chính trị và quân sự hàng đầu của Nga để phá hủy các thành phố của Ukraine,”.
“ Theo lệnh của ông ta, những kẻ xâm lược Nga thực hiện các cuộc tấn công hỏa tiễn lớn vào các tòa nhà dân cư, bệnh viện và cơ sở hạ tầng quan trọng ở các khu vực khác nhau của Ukraine.”
SBU cáo buộc Igor Osipov đã ra lệnh “tấn công hỏa tiễn có hệ thống từ Hắc Hải vào các khu định cư đông dân cư của Ukraine”.
Bộ Quốc phòng Nga đã không phản hồi về các cáo buộc và CNN không thể liên hệ trực tiếp với bị cáo.
4. Lãnh đạo Wagner thừa nhận gặp khó khăn ở Bakhmut khi danh tiếng của nhóm này đang lâm nguy
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Wagner Leader Admits to Struggles in Bakhmut as Reputation Hangs by Thread”, nghĩa là “Lãnh đạo Wagner thừa nhận gặp khó khăn ở Bakhmut khi danh tiếng của nhóm này đang lâm nguy”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Đình Trinh.
Người đứng đầu Tập đoàn lính đánh thuê Nga Wagner thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn mới rằng tiến độ đang diễn ra chậm chạp và khó khăn khi lực lượng của ông ta nỗ lực đánh chiếm Bakhmut, một thành phố đang bị bao vây ở miền đông Ukraine.
Trong một cuộc phỏng vấn được hãng truyền thông nhà nước Nga Ria Novosti công bố, Yevgeny Prigozhin nói rằng có một “pháo đài trong mỗi ngôi nhà” ở Bakhmut. Prigozhin cho biết cuộc chiến giành từng ngôi nhà đôi khi có thể kéo dài hơn một ngày hoặc thậm chí vài tuần.
Và một khi mỗi “pháo đài” đã bị chiếm, thì một “pháo đài” khác đã sẵn sàng ở phía sau nó.
“Hôm nay, vào buổi sáng, tôi đã đánh chiếm một ngôi nhà và phá vỡ hàng phòng thủ. Và đằng sau ngôi nhà này, vẫn còn một tuyến phòng thủ mới, chứ không chỉ một”, Prigozhin nói với Ria Novosti. Và có bao nhiêu tuyến phòng thủ như vậy ở Bakhmut? Nếu chúng ta nói là 500, chắc chúng ta sẽ không nhầm đâu.”
Nhận xét của Prigozhin về các tuyến phòng thủ nhiều lớp này của Ukraine xung quanh Bakhmut cung cấp thêm thông tin chi tiết về cuộc đấu tranh của Nga để giành lấy thành phố ở khu vực Donetsk phía đông. Nga đã cố gắng chiếm Bakhmut trong nhiều tháng, làm cạn kiệt nguồn cung cấp và nhân lực trong quá trình này. Các lực lượng liên kết với Tập đoàn Wagner được cho là đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc tấn công Bakhmut.
Trung tướng Hoa Kỳ đã nghỉ hưu Ben Hodges, người trước đây từng là tướng chỉ huy của Quân đội Hoa Kỳ ở Âu Châu, nói với Newsweek rằng uy tín của Prigozhin và Tập đoàn Wagner đang bị đe dọa trong trận chiến Bakhmut. Hodges cho biết, nếu các lực lượng cuối cùng buộc phải rút khỏi Bakhmut hoặc kết thúc nỗ lực của họ ở đó, thì đây sẽ là một “đòn giáng” vào uy tín của Prigozhin và gây tổn hại “về mặt tâm lý” cho người Nga nói chung.
Hiện vẫn chưa rõ liệu Nga có thể giành chiến thắng ở Bakhmut hay không vào thời điểm này. Nga được cho là đã đạt được một số lợi ích nhỏ xung quanh Bakhmut trong những tuần gần đây, Viện Nghiên cứu Chiến tranh đã viết trong một đánh giá chiến dịch vào tuần trước rằng cuộc tấn công Bakhmut có khả năng đã “lên đến cực điểm”.
“Học thuyết quân sự của Hoa Kỳ định nghĩa cực điểm là 'điểm mà tại đó một lực lượng không còn khả năng tiếp tục hình thức hoạt động, tấn công hoặc phòng thủ' hay 'khi một lực lượng không thể tiếp tục tấn công và phải chuyển sang tư thế phòng thủ hoặc thực hiện một chiến dịch tạm dừng,'“ ISW đã viết trong bản đánh giá.
Nếu các lực lượng Nga ở Bakhmut đã lên đến cực điểm, họ có thể tiếp tục các cuộc tấn công chống lại thành phố như cũ, mặc dù các cuộc tấn công như vậy “rất khó có thể đạt được lợi ích đáng kể về mặt quân sự”, ISW viết.
Ngay cả khi Nga cuối cùng chiếm được Bakhmut, các chuyên gia không tin rằng thành phố này sẽ mang lại nhiều lợi ích chiến lược hoặc chiến thuật cho Nga hoặc các lực lượng liên kết với Nga. Nhưng sau khi Nga phải đối mặt với một số thất bại lớn trong những tháng gần đây, chẳng hạn như việc rút lui khỏi thành phố miền nam Kherson vào tháng 10, việc chiếm Bakhmut có thể mang tính biểu tượng đối với Tổng thống Nga Vladimir Putin để ông có thể thể hiện nó như một kiểu chiến thắng quân sự.
Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga để bình luận.
5. Mạc Tư Khoa đổ lỗi cho các binh sĩ Nga dùng điện thoại di động dẫn đến cuộc tấn công Makiivka. Ukraine bác bỏ
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv sáng thứ Năm mùng 5 tháng Giêng, Đại Tá Serhii Cherevatyi, phát ngôn nhân lực lượng Liên Hợp Phía Đông, cho biết việc quân đội Nga sử dụng điện thoại di động không phải là lý do chính khiến vị trí của họ ở Makiivka bị lộ, dẫn đến một cuộc tấn công tàn khốc ở khu vực Donetsk phía đông.
“Tất nhiên, sử dụng điện thoại có định vị là một sai lầm. Nhưng rõ ràng là cáo buộc này của Mạc Tư Khoa quá lố bịch”
Bộ Quốc phòng Nga hôm thứ Tư đã đổ lỗi cho chính các binh sĩ về vụ tấn công của Ukraine, nói rằng “nguyên nhân chính” của vụ tấn công là việc binh lính Nga sử dụng rộng rãi điện thoại di động “trái với lệnh cấm”, cho phép Ukraine “theo dõi”, và xác định tọa độ vị trí của những người lính.” Nga cũng điều chỉnh ước tính số binh sĩ thiệt mạng, từ 63 lên 89.
Cherevatyi cho biết “việc triển khai một lượng lớn những người mới được huy động như vậy - có nghĩa là không được đào tạo bài bản, không được phối hợp chặt chẽ - những người trong những căn phòng lớn không thích hợp để trú ẩn trong trường hợp nguy hiểm, đó là một lý do.”
“Tất nhiên, đây là một sai lầm của người Nga, và tôi nghĩ rằng bây giờ họ đang tham gia tìm kiếm ai đó để trút trách nhiệm. Họ đang đổ lỗi cho nhau,” ông nói.
“Rõ ràng là việc sử dụng điện thoại này không phải là lý do chính. Lý do chính là họ không thể bí mật triển khai những binh sĩ này. Và chúng ta đã tận dụng điều đó, phát hiện mục tiêu một cách mạnh mẽ và tiêu diệt nó”, Cherevatyi nói thêm.
Theo Bộ Quốc phòng Nga, bốn quả hỏa tiễn từ bệ phóng HIMARS do Mỹ sản xuất đã được sử dụng trong cuộc tấn công vào Makiivka. Trước đó, Phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga, Trung tướng Igor Konashenkov cho rằng quân Ukraine đã phóng 25 quả hỏa tiễn vào ngôi trường này.
Daniil Bezsonov, phát ngôn nhân của cái gọi là Cộng hòa Nhân Dân Donetsk, đã công khai thách thức các tuyên bố của Konashenkov. Theo Daniil Bezsonov, người Nga tỏ ra không hiểu gì về HIMARS. Một quả HIMARS giá hàng trăm ngàn Mỹ Kim. Người Ukraine cũng không có nhiều hỏa tiễn để phóng bừa bãi như thế. Theo ông, quân Ukraine chỉ phóng một quả hỏa tiễn duy nhất. Thương vong kinh hoàng là do lãnh đạo quân đội dùng trường học làm nơi chứa hỏa tiễn và đạn dược. Quân Nga chết nhiều là do hỏa tiễn và đạn dược của chính mình nổ tung sau đó. Đây là vấn đề mà ông cho rằng người Nga phải rút kinh nghiệm.
Quân đội Ukraine tuyên bố có khoảng 400 binh sĩ Nga thiệt mạng trong cuộc tấn công, nhưng sau đó nói thêm rằng con số này “đang được làm rõ”. Konashenkov cho rằng chỉ có 89 người thiệt mạng. Daniil Bezsonov cũng thách thức con số này và cho rằng con số cuối cùng còn cao hơn con số do Ukraine ước lượng. Các cuộc đào bới vẫn đang được tiến hành.
6. Putin điều tàu khu trục hải quân trang bị hỏa tiễn siêu thanh tới Địa Trung Hải
Hôm thứ Tư, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh đưa tàu khu trục “Đô đốc Gorshkov” vào chiến đấu.
Hãng thông tấn nhà nước Nga TASS dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu đưa tin, con tàu sẽ thực hiện một chuyến hải hành dài ngày qua Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, cũng như Địa Trung Hải.
Tàu khu trục được trang bị “hệ thống hỏa tiễn siêu thanh Zircon mới nhất,” mà ông Putin kháo rằng “thế giới không có một hệ thống nào tương tự. Đó là hệ thống siêu thanh trên biển - cũng như các vũ khí thế hệ mới nhất khác”, ông Putin nói qua liên kết video với Shoigu và chỉ huy tàu Igor Krokhmal. Putin cũng tuyên bố rằng tốc độ của hỏa tiễn siêu thanh Zircon quá nhanh đến mức không hệ thống phòng không nào của phương Tây có thể đánh chặn.
“Tôi chắc chắn rằng những vũ khí mạnh mẽ như vậy sẽ giúp bảo vệ Nga một cách đáng tin cậy khỏi các mối đe dọa tiềm tàng từ bên ngoài và sẽ giúp bảo đảm lợi ích quốc gia của đất nước chúng ta”, ông Putin nói thêm.
Theo Shoigu, tàu khu trục sẽ “tiến hành các cuộc tập trận” với hỏa tiễn siêu thanh Zircon.
“Tôi rất vui, xin chúc mừng! Đây là công việc chung tuyệt vời, kết thúc với kết quả tốt đẹp như mong đợi”, ông Putin nói trước khi ra lệnh cho tàu khu trục “bắt đầu thi hành nhiệm vụ”.
7. Thống đốc khu vực tây nam Nga tổ chức các cuộc hội đàm tại Mạc Tư Khoa sau cái chết của quân nhân trong cuộc tấn công Makiivka
Thống đốc vùng Samara phía tây nam của Nga đã có cuộc hội đàm tại Mạc Tư Khoa hôm thứ Ba với lãnh đạo Bộ Quốc phòng Nga, sau khi hàng trăm binh sĩ Nga thiệt mạng tại thành phố Makiivka thuộc vùng Donetsk, theo hãng thông tấn nhà nước Nga RIA Novosti.
Thống đốc vùng Samara Dmitri Azarov cho biết hầu hết các quân nhân đã thiệt mạng trong cuộc tấn công diễn ra ngay tại một trường dạy nghề bị biến thành trại lính, đã được huy động từ vùng Samara.
Bộ Quốc phòng Nga cho biết 89 quân nhân đã thiệt mạng trong cuộc không kích. Quân đội Ukraine ban đầu tuyên bố có khoảng 400 binh sĩ Nga thiệt mạng, sau đó nói thêm rằng con số này “đang được làm rõ” sau khi Daniil Bezsonov, phát ngôn nhân của cái gọi là Cộng hòa Nhân Dân Donetsk, cho rằng con số có thể còn cao hơn.
CNN không thể xác minh độc lập số người chết được báo cáo. Nhưng dù thế nào, cuộc tấn công này cũng đánh dấu một trong những tình huống nguy hiểm nhất mà các lực lượng Nga phải đối diện.
Azarov đã đồng ý về “sự phối hợp đầy đủ với các hành động của Bộ Quốc phòng và khu vực”.
Azarov nói rằng các vấn đề liên quan đến chăm sóc y tế cho các quân nhân được huy động từ lãnh thổ vùng Samara, đồng phục bổ sung và các vấn đề khác “đã được giải quyết”.
“Dữ liệu chính thức được xác minh là rất quan trọng bây giờ. Khi có thông tin về từng quân nhân, chúng tôi sẽ cung cấp thông tin cho người thân và bạn bè”, ông Azarov cho biết.
Hôm thứ Tư, Azarov có kế hoạch đến thăm các quân nhân bị thương từ Samara tại một bệnh viện khu vực ở thành phố Rostov-on-Don. Tuy nhiên, ông đã hủy bỏ chuyến thăm này để đến Mạc Tư Khoa.
Cư dân ở thành phố Samara đã tổ chức lễ tang vào hôm thứ Ba cho các quân nhân Nga thiệt mạng ở Makiivka. Người dân tập trung tại Quảng trường Vinh quang ở Samara để tham dự lễ tưởng niệm và dành một phút mặc niệm tưởng nhớ những người lính, sau đó họ đặt hoa trước ngọn lửa vĩnh cửu, RIA Novosti đưa tin.
“Đã ba ngày tôi không ngủ và thành phố Samara không ngủ. Chúng tôi thường xuyên liên lạc với vợ của các chàng trai của chúng ta. Nó rất khó khăn và đáng sợ. Nhưng nó sẽ không phá vỡ chúng ta. Nỗi đau thống nhất chúng ta… Chúng ta sẽ không tha thứ và chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng”.
Một buổi lễ tưởng niệm cũng diễn ra tại thành phố lân cận Togliatti, nơi các thành viên của quân đội, đại diện của các tổ chức công cộng và cựu chiến binh, và người dân đã tập trung tại Công viên Chiến thắng của thành phố, cơ quan này đưa tin.
Theo các bloggers quân sự Nga, Azarov bị triệu tập lên Mạc Tư Khoa, rồi đồng phục bổ sung và các vấn đề khác “đã được giải quyết”, cho thấy Bộ Quốc Phòng Nga đang tìm cách bịt miệng Azarov. Con số thương vong thực sự sẽ không ai được biết.
1. Đức Hồng Y Pell khẳng định Đức Bênêđíctô XVI hoàn toàn trái ngược với những bức tranh biếm họa do kẻ thù của ngài vẽ ra
Hồng Y người Úc George Pell, nguyên Tổng Trưởng Bộ Kinh Tế của Vatican và nguyên Tổng Giám Mục Sydney, đã chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn với EWTN News in Depth về Đức Bênêđictô XVI và nhấn mạnh rằng Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 hoàn toàn trái ngược với những bức tranh biếm họa mà kẻ thù của ngài vẽ ra.
Đức Hồng Y nói rằng Đức Bênêđictô XVI là “người hoàn toàn trái ngược với bức tranh biếm họa do những kẻ thù của ngài vẽ ra, đặc biệt là trước khi ngài trở thành giáo hoàng. Và mọi người thực sự đã thấy ngài như thế nào. Những kẻ gièm pha gọi ngài là 'Panzerkardinal' – ‘Hồng Y thiết giáp’ hoặc 'Gottes Rottweiler' – “Con chó nhà Đức Chúa Trời.”
Vị Hồng Y người Úc nhấn mạnh rằng Đức Bênêđictô XVI thực sự là “một người trầm lặng, dịu dàng, ngoan đạo, một người chính nhân quân tử tuyệt đối.”
Khi được hỏi những lời gièm pha này đã ảnh hưởng đến Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô như thế nào, Đức Hồng Y Pell nói: “Tôi nghĩ rằng ngài tỏ ra buồn cười; Tôi không nghĩ điều đó thực sự khiến ngài bận tâm vì ngài là một người đàn ông rất thông minh và ngài nhận ra rằng sự thật là những hí họa ất không liên quan gì đến ngài”.
Đức Hồng Y Pell nói tiếp rằng “Nói thế, không có nghĩa là ngài không bảo thủ. Ngài bảo thủ, nhưng bạn thấy đấy, với tư cách là người Công Giáo, thật khó để không bảo thủ bởi vì chúng ta đi theo một người đã chết cách đây 2,000 năm. Và chúng ta nói rằng Đấng ấy đã giải thích cho chúng ta những bí mật của cuộc sống, kiếp này và kiếp sau.”
Khi được hỏi về phản ứng của ngài trước tin Đức Bênêđictô XVI qua đời tại Rôma vào ngày 31 tháng 12, Đức Hồng Y nói: “Tôi rất buồn” vì “tôi đã biết ngài rất rõ, tôi ngưỡng mộ những gì ngài làm, tôi nghĩ ngài là ân sủng rất tốt cho Giáo Hội và vì vậy thật buồn khi chứng kiến một giai đoạn tuyệt vời khác trong lịch sử Giáo Hội kết thúc.”
2. Cha Raymond J. de Souza: Lịch phụng vụ đã định hình cuộc đời của Đức Bênêđictô như thế nào
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Trên tờ National Catholic Register, ngài có bài viết nhan đề “How the Liturgical Calendar Framed Pope Benedict’s Life”, nghĩa là “Lịch phụng vụ đã định hình cuộc đời của Đức Bênêđictô như thế nào”, trong đó ngài trình bày những suy tư về câu hỏi nhiều người đang đặt ra trên các mạng xã hội: “Cuộc đời Thứ Bảy Tuần Thánh của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 kết thúc vào ngày 31 tháng 12 - ngày thế tục và phụng vụ này có thể gợi ý những gì cho chúng ta về sự quan phòng của Chúa?” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Lan Vy.
Một cuộc đời được định hình bởi phụng vụ thánh bắt đầu từ một ngày sinh của ngài - ngày 16 tháng 4 năm 1927 - trùng với một ngày phụng vụ quan trọng, là Thứ Bảy Tuần Thánh. Sinh nhật cuối cùng của Đức Bênêđictô XVI, vào năm 2022, lần thứ 95 của ngài, cũng là một ngày Thứ Bảy Tuần Thánh.
“Tôi luôn tràn ngập lòng biết ơn vì cuộc đời tôi đã được đắm chìm theo cách này trong mầu nhiệm Phục sinh, vì đây chỉ có thể là một dấu hiệu chúc phúc,” Đức Hồng Y Joseph Ratzinger viết trong hồi ký của mình năm 1998, cuốn Milestones, hay Những Chặng Đường,
“Chắc chắn, đó không phải là Chúa Nhật Phục Sinh mà là Thứ Bảy Tuần Thánh, nhưng càng suy nghĩ về nó, tôi càng thấy điều này dường như phù hợp với bản chất của cuộc sống con người chúng ta: Chúng ta vẫn đang chờ đợi Lễ Phục Sinh; chúng ta vẫn chưa đứng trong ánh sáng trọn vẹn, mà đang tiến về phía đó với niềm tin hoàn toàn.”
Cuộc đời Thứ Bảy Tuần Thánh của Đức Hồng Y Ratzinger, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2022. Ngày thế tục và phụng vụ đó có thể gợi ý những gì cho chúng ta về sự quan phòng của Chúa? Tôi thấy có ba khía cạnh gợi lên một cách rõ ràng.
Dies Natalis, hay sinh nhật
Theo truyền thống Công Giáo, ngày mất của một vị thánh — thường cũng được ấn định là ngày lễ kính vị thánh ấy — được gọi là dies natalis, “ngày sinh nhật” để đánh dấu ngày ngài bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, trong đó Đức Bênêđíctô qua đời, đánh dấu sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Đấng làm cho cuộc sống vĩnh cửu là khả thi.
Tam nhật Phục sinh và Tuần Bát Nhật của ngày lễ đó, cùng với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và Bát Nhật Giáng Sinh, đánh dấu những cao điểm của năm phụng vụ. Điều đáng nhắc đến là cuộc đời của Đức Bênêđíctô đã bắt đầu và kết thúc trong những ngày phụng vụ cao độ đó.
Trong những năm gần đây, bệnh tật khiến Đức Bênêđíctô XVI không thể cử hành Thánh lễ một mình được nữa, nên ngài đã đồng tế với thư ký của mình là Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein. Thánh lễ cuối cùng của ngài diễn ra trong phòng của Đức Bênêđíctô khi ngài không thể đến nhà nguyện được nữa. Thánh Lễ được cho là diễn ra vào ngày thứ năm của Lễ Giáng Sinh. Nếu đúng như thế thì Đức Bênêđíctô đã nghe nói về vị thánh bảo trợ của mình, Thánh Giuse, cùng với Đức Maria, đưa Hài Nhi Giêsu vào Đền Thờ. Sau đó, ông già Simeon nói “Nunc dimittis,” là lời cầu nguyện ban đêm của Giáo hội: “Lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được ra đi bình an…”
Khi Đức Bênêđíctô dần dần mất khả năng viết, thính giác và thị giác, giọng nói của ngài chỉ còn là tiếng thì thầm yếu ớt, ngài bắt đầu cảm nghiệm sâu sắc hơn những gì ngài đã dạy bảo từ lâu, đó là phụng vụ cho phép con người thưa chuyện với Thiên Chúa theo cách mà nếu không có Phụng Vụ thì con người không có khả năng thực hiện.
Giao Thừa
Đức Bênêđíctô qua đời khi năm cũ sắp qua đi, một ngày của những ngày sắp kết thúc để hướng về ngưỡng cửa của tương lai, khi năm mới sắp đến. Giao thừa là ngày ngưỡng cửa, ngày mong chờ, ngày người ta đếm ngược trong nỗi chờ mong bước sang năm mới.
Trong sản phẩm thần học đồ sộ ngoài sức tưởng tượng của ngài, tác phẩm của Đức Bênêđíctô về đức tin và phụng vụ có xu hướng thu hút nhiều sự chú ý nhất, nhưng một sự đồng thuận rộng rãi là một trong những tác phẩm thần học vĩ đại nhất và đặc biệt nhất của ngài là cuốn sách thần học, Eschatology, hay Cánh Chung Luận, một nhánh thần học bàn về cái chết, sự phán xét, thiên đường và địa ngục — bốn “điều cuối cùng”. “Những điều cuối cùng” của thế giới này thực sự không phải là những điều cuối cùng, mà là những điều trường tồn nhìn xuyên qua mầu nhiệm của cái chết đến tương lai mở ra trước mắt linh hồn. Cái chết giống như một đêm giao thừa, một kết thúc nhưng thực sự lại là một khởi đầu.
Thánh Sylvestrô, Đức tin và lý trí
Ngày cuối cùng của năm là die natalis của Thánh Giáo Hoàng Sylvestrô, vị giáo hoàng đầu tiên trị vì Giáo hội hoàn toàn tự do dưới thời Đại Đế Constantinô. Sau Sắc lệnh Milan năm 313, Đức Sylvestrô trị vì từ năm 314 đến năm 335 khi Đế chế Rôma chuyển sang Kitô giáo. Ưu tiên đầu tiên trong sứ vụ của ngài, có thể nói là tìm ra giáo lý đúng đắn về Chúa Giêsu Kitô.
Điểm nổi bật trong triều đại của Thánh Giáo Hoàng Sylvestrô là Công đồng Nicê năm 325, nơi đức tin tông truyền của Giáo hội được thể hiện bằng ngôn ngữ của triết học Hy Lạp - Chúa Con “đồng bản thể” với Chúa Cha. Từ ngữ không có trong Kinh thánh đó - homoousion trong tiếng Hy Lạp - là điều cần thiết cho sự diễn đạt đức tin chính thống. Đức tin đã dùng ngôn ngữ của lý trí để diễn tả nội dung mạc khải.
Đức Bênêđíctô đã bị thuyết phục về “sự hợp lý của niềm tin vào Thiên Chúa,” mà ngài đã cống hiến cả cuộc đời học thuật lâu dài của mình. Đức tin cần lý trí, và lý trí cần niềm tin - một mệnh đề được ngài trình bày rõ ràng nhất trong Diễn từ tại Đại Học Regensburg năm 2006. Thật vậy, Đức Bênêđíctô nổi lên như một người đấu tranh cho khả năng hiểu biết sự thật của lý trí con người vượt xa hơn nhiều nhà phê bình thế tục chống lại ngài, những người đã bị nhốt kín trong cái bẫy của “chế độ độc tài của thuyết tương đối”.
Khi xác nhận các hành động của Công Đồng Nicê, Đức Sylvestrô đã thực hiện sứ mệnh tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô vào Chúa Giêsu Kitô, sử dụng ngôn ngữ triết học để thực hiện điều đó. Công thức của Nicê đã trở thành một văn bản phụng vụ - “đồng bản thể” trở thành một phần của việc thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật - khiến cho sự tổng hợp của Đức Sylvestrô về đức tin, lý trí và phụng vụ trở thành một die natalis phù hợp cho Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđictô XVI.
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Đây là những lời cuối cùng Chúa nói trên thập tự giá; hơi thở cuối cùng của Ngài, có thể nói như vậy, đã tóm tắt toàn bộ cuộc đời của Ngài: một sự phó thác không ngừng trong tay Chúa Cha. Ngài là bàn tay tha thứ và cảm thương, chữa lành và thương xót, xức dầu và chúc lành, khiến Ngài cũng phó thác mình trong tay các anh chị em của mình. Chúa, cởi mở với từng cá nhân và những câu chuyện của họ mà Người gặp trên đường đi, đã để cho mình được uốn nắn theo ý muốn của Chúa Cha. Ngài đã gánh vác tất cả những hậu quả và khó khăn theo đòi buộc của Tin Mừng, ngay cả khi nhìn thấy đôi tay mình bị đâm thủng vì tình yêu. “Hãy xem tay Thầy”, Người nói với Tôma (Ga 20:27), và nói với mỗi người chúng ta. Những bàn tay bị xiên qua không ngừng vươn tới chúng ta, mời gọi chúng ta nhận ra tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và tin vào tình yêu đó (x. 1 Ga 4:16).[1]
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Đây là lời mời gọi và là chương trình cuộc sống mà Người âm thầm khơi dậy nơi chúng ta. Giống như người thợ gốm (x. Is 29:16), Ngài muốn uốn nắn trái tim của mỗi mục tử, cho đến khi nó hòa hợp với trái tim của Chúa Giêsu Kitô (x. Pl 2:5). Hòa hợp trong lòng tận tụy biết ơn, phục vụ Chúa và dân của Ngài, một sứ vụ phát sinh từ lòng biết ơn vì một món quà hoàn toàn là ân sủng:
“Con thuộc về Ta… con thuộc về họ”, Chúa thì thầm, “con ở dưới sự bảo vệ của bàn tay Ta. Con đang ở dưới sự bảo vệ của trái tim Ta. Hãy ở trong tay Ta và trao tay của con cho Ta”.[2] Ở đây chúng ta thấy sự “hạ cố” và gần gũi của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng trao phó chính mình trong bàn tay yếu đuối của các môn đệ, để họ nuôi dân của Người và cùng Người nói: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống, vì đây là mình, máu Thầy hiến dâng vì anh em (x. Lc 22:19).
Hòa hợp trong sự sùng kính cầu nguyện, một sự sùng kính được hình thành và tôi luyện một cách âm thầm giữa những thử thách và kháng cự mà mỗi mục tử phải đối mặt (x. 1Pr 1:6-7) trong việc tín thác vâng phục mệnh lệnh của Chúa để chăn đàn chiên của Người (x. Ga 21:17). Giống như Thầy, người mục tử mang gánh nặng cầu thay và xức dầu cho dân của mình, nhất là trong những hoàn cảnh mà sự thiện phải đấu tranh để thắng thế và phẩm giá của anh chị em chúng ta bị đe dọa (x. Dt 5:7-9). Trong quá trình cầu thay này, Chúa lặng lẽ ban cho tinh thần khiêm nhường sẵn sàng hiểu, chấp nhận, hy vọng và mạo hiểm, bất chấp mọi hiểu lầm có thể xảy ra. Đó là nguồn gốc của một hoa trái vô hình và khó nắm bắt, phát sinh từ việc ngài biết Đấng mà ngài đã đặt niềm tin tưởng (x. 2 Tim 1:12). Một sự tin tưởng tự nó phát sinh từ việc cầu nguyện và tôn thờ, có khả năng nhận ra điều gì được mong đợi nơi một mục tử và uốn nắn con tim và các quyết định của ngài theo thời điểm thuận tiện của Thiên Chúa (x. Ga 21:18): “Nuôi dưỡng có nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng. Yêu thương có nghĩa là ban cho chiên những gì thực sự tốt lành, lương thực chân lý của Thiên Chúa, lời Chúa, lương thực sự hiện diện của Ngài”. [3]
Hòa hợp trong lòng tận tụy được nâng đỡ bởi sự an ủi của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn đi trước mục tử trong sứ vụ của mình. Trong nỗ lực say mê của mình để truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng (x. Gaudete et Exsultate, 57). Trong chứng tá hiệu quả của tất cả những người, giống như Mẹ Maria, bằng nhiều cách đứng dưới chân thập giá. Trong sự thanh thản đau đớn nhưng kiên định không tấn công cũng không ép buộc. Trong niềm hy vọng bướng bỉnh nhưng kiên nhẫn rằng Chúa sẽ thành tín với lời hứa của Người, lời Người đã hứa với cha ông chúng ta và với con cháu họ đến muôn đời (x. Lc 1:54-55).
Khi giữ vững những lời cuối cùng của Chúa và chứng tá của cả cuộc đời người, chúng ta cũng vậy, với tư cách là một cộng đoàn giáo hội, muốn nối gót người và phó thác anh em chúng ta trong tay Chúa Cha. Xin cho những bàn tay đầy lòng thương xót đó thắp sáng ngọn đèn của người bằng dầu Tin Mừng mà người đã truyền bá và làm chứng trong suốt cuộc đời mình (x. Mt 25:6-7).
Khi kết thúc Quy tắc mục vụ của mình, Thánh Grêgôriô Cả đã thúc giục một người bạn dâng cho ngài sự đồng hành thiêng liêng này: “Giữa cơn đắm tàu của cuộc sống hiện tại, xin hãy nâng đỡ tôi, tôi nài xin bạn, bằng tấm ván cầu nguyện của bạn, để khi sức nặng của chính tôi làm tôi chìm xuống, bàn tay công đức của bạn sẽ nâng tôi lên”. Ở đây, chúng ta thấy ý thức của một mục tử không thể gánh vác một mình điều mà thực tế là ngài không bao giờ có thể gánh vác một mình, và do đó ngài có thể tự phó thác cho lời cầu nguyện và sự chăm sóc của những người được ủy thác cho ngài. [4] Các tín hữu của Chúa, quy tụ nơi đây, giờ đây đồng hành và phó thác cho Chúa cuộc đời của vị chủ chăn của họ. Giống như những người phụ nữ ở ngôi mộ, chúng ta cũng đã đến với hương thơm của lòng biết ơn và hương thơm của hy vọng, để một lần nữa cho Người thấy tình yêu bất diệt. Chúng ta muốn làm điều này với cùng sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã mang đến cho chúng ta trong những năm qua. Cùng nhau, chúng ta muốn nói: “Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của người trong tay Cha”.
Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!
[1] X. BENEDICT XVI, Deus Caritas Est, 1.
[2] X. ID., Bài giảng Lễ Dầu, 13 tháng 4, 2006.
[3] ID., Bài giảng Khai mạc Triều đại Giáo hoàng, ngày 24 tháng 4 năm 2005.
[4] X. Thượng dẫn
1. Nga hô hào ám sát Thiếu Tướng Kyrylo Budanov
Người đứng đầu Tổng cục Tình báo của Bộ Quốc phòng Ukraine, Thiếu Tướng Kyrylo Budanov, đã gợi ý rằng có khả năng các cuộc tấn công tiếp theo vào lãnh thổ Nga sẽ diễn ra “ngày càng sâu hơn”.
Ông nói như trên trong một cuộc phỏng vấn với ABC News vào ngày sinh nhật của ông, mùng 4 tháng Giêng.
Khi được hỏi liệu Ukraine có thực hiện các cuộc tấn công vào căn cứ không quân Engels của Nga, nằm cách biên giới Ukraine hơn 1.200 km hay không, Budanov cho biết ông sẽ có thể trả lời câu hỏi này “chỉ sau khi chiến tranh kết thúc”.
Đồng thời, khi được hỏi liệu sẽ có nhiều cuộc tấn công như vậy trong tương lai hay không, ông nói: “Tôi nghĩ là có”, đồng thời nói thêm rằng các cuộc tấn công sẽ diễn ra “ngày càng sâu hơn” bên trong nước Nga.
Và khi được hỏi về các cuộc tấn công vào Crimea, vốn bị Nga sáp nhập bất hợp pháp vào năm 2014, Budanov nói: “Crimea là lãnh thổ của Ukraine, chúng ta có thể sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trên lãnh thổ của mình”.
Budanov cho biết ông cho rằng giao tranh sẽ trở nên “nóng nhất” vào tháng 3, đồng thời cho biết thêm rằng Ukraine đang lên kế hoạch cho một cuộc tấn công lớn vào mùa xuân.
Ông nói: “Mục tiêu của chúng ta và chúng ta sẽ đạt được mục tiêu đó là quay trở lại đường biên giới năm 1991, giống như Ukraine được tất cả các chủ thể của luật pháp quốc tế công nhận”.
Ông lưu ý rằng kho vũ khí của Nga đang cạn kiệt, buộc nước này phải dùng đến các giải pháp “rẻ hơn” như máy bay không người lái tự hủy Shahed do Iran sản xuất.
Về tương lai của nước Nga, Budanov cho biết có một số kịch bản đang diễn ra, nhưng thông điệp rất rõ ràng: “Các bạn không nên sợ hãi trước sự chuyển mình của nước Nga. Nó sẽ chỉ mang lại lợi ích cho toàn thế giới.”
“Nga không còn là mối đe dọa quân sự đối với thế giới nữa. Khả năng quân sự của Nga chỉ là một câu chuyện hoang đường,” ông nói thêm.
Theo Budanov, vấn đề duy nhất còn lại là kho vũ khí hạt nhân của Nga “và chế độ ngang ngược không thể kiểm soát” sẽ khiến “cả thế giới nhận ra sự cần thiết của việc phi hạt nhân hóa Nga hoặc ít nhất là một sự giám sát quốc tế đối với kho vũ khí hạt nhân của nước này”.
Sau khi cuộc phỏng vấn được công bố, các tuyên truyền viên của Điện Cẩm Linh đã lên án tử cho Budanov.
Ông Budanov tên đầy đủ là Kyrylo Oleksiyovych Budanov sinh ngày 4 tháng Giêng năm 1986 tại Kyiv.
Ông tốt nghiệp trường Võ Bị Lục Quân Odessa vào năm 2007, sau đó bắt đầu phục vụ trong lực lượng đặc biệt của Tổng cục Tình báo của Bộ Quốc phòng Ukraine và tham gia trong chiến tranh Nga-Ukraine vào năm 2014.
Vào ngày 4 tháng 4 năm 2019, chiếc ô tô Chevrolet Evanda của Budanov đã bị một người Nga tên là Alexei Lomaka cho nổ tung, nhưng nó đã phát nổ quá sớm nên ông thoát chết. Kẻ tấn công và nhóm phá hoại đã bị bắt giữ.
Năm 2020, ông trở thành Phó Giám đốc Cục Tình báo Nước ngoài Ukraine. Vào ngày 5 tháng 8 năm 2020, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã bổ nhiệm Budanov làm người đứng đầu Tổng cục Tình báo của Bộ Quốc phòng Ukraine.
Trong cuộc xâm lược Ukraine vào ngày 24 tháng Hai năm ngoái, một nhóm 5 biệt kích Nga nhảy dù xuống Kyiv với nhiệm vụ bắt sống hay sát hại Budanov đã bị bắn chết.
2. Quân đội Ukraine phá hủy hai kho đạn của quân Nga ở khu vực Bakhmut
Lực lượng phòng vệ Ukraine đã phá hủy hai kho đạn dược của Nga ở khu vực Bakhmut hôm thứ Tư, ngày 4 tháng Giêng.
Đại Tá Serhii Cherevatyi, phát ngôn viên của Lực lượng phía Đông, cho biết như trên.
“Lực lượng hỏa tiễn và pháo binh của chúng ta đã đánh trúng nhiều mục tiêu, trước hết là nơi tập trung đông quân xâm lược, nhân sự, thiết bị, cũng như các kho chứa vũ khí, đạn dược và nhiên liệu. Hôm nay, hai nhà kho chứa đạn dược đã bị phá hủy ở khu vực Bakhmut, một ở khu vực Avdiivka và một ở khu vực Lyman,” Cherevatyi nói.
Ông nói thêm rằng trên thực tế, các hệ thống vũ khí có độ chính xác tương đối cao như HIMARS và MLRS săn lùng mục tiêu của kẻ thù và đạt được độ chính xác bắn tỉa độc đáo, điều này có thể được xác nhận bởi các sự kiện gần đây ở Makiivka.
Khi được hỏi liệu những kẻ xâm lược sử dụng điện thoại di động có định vị địa lý ở Makiivka có phải là một sai lầm hay không, Cherevatyi lưu ý rằng việc sử dụng điện thoại di động tất nhiên là một sai lầm, nhưng nó không thể so sánh với quyết định sai lầm của bộ chỉ huy Nga là triển khai một số lượng lớn quân đội ở một nơi duy nhất.
Cherevatyi nói: “Kẻ thù không thể bí mật triển khai binh sĩ của mình và tình báo Ukraine đã phát hiện và tận dụng thông tin nắm được. Ông nói thêm rằng hiện tại, những kẻ xâm lược không đủ khả năng để bốc dỡ những lô đạn pháo lớn cách tiền tuyến hơn 100 km.
Cherevatyi lưu ý rằng bất chấp tổn thất nặng nề gần Bakhmut, kẻ thù vẫn tiếp tục tấn công các vị trí của Lực lượng Vũ trang Ukraine.
Phát ngôn nhân cho biết: “Trong 24 giờ qua, kẻ thù đã phát động 238 cuộc tấn công bằng nhiều hệ thống hỏa lực, xe tăng, có 22 trận đụng độ chiến đấu, kẻ thù thiệt hại 142 người chết và 204 người bị thương”.
3. Bộ Tổng tham mưu xác nhận cuộc tấn công vào sở chỉ huy quân Nga gần Tokmak.
Lực lượng Vũ trang Ukraine đã tấn công trụ sở của quân xâm lược Nga gần Tokmak ở vùng Zaporizhzhia. Phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov đã cho biết như trên trong cuộc họp báo hôm thứ Năm 5 tháng Giêng.
“Một cuộc tấn công vào cụm nhân lực và thiết bị quân sự của quân xâm lược ở Tokmak, vùng Zaporizhzhia, vào ngày 3 tháng Giêng đã được xác nhận. Quân xâm lược mất khoảng 80 binh sĩ thiệt mạng và bị thương”.
Ngoài ra, có thông tin cho rằng hơn 100 lính đánh thuê của Công ty quân sự tư nhân Wagner đang được điều trị tại khoa thần kinh của bệnh viện lâm sàng khu vực ở Luhansk tạm thời bị xâm lược.
4. Blogger quân sự hàng đầu của Nga nghi ngờ về số người thiệt mạng chính thức của Bộ Quốc phòng trong cuộc tấn công vào Makiivka
Một blogger quân sự hàng đầu của Nga, người chỉ vài tuần trước đã nhận được giải thưởng từ Tổng thống Vladimir Putin, đã nghi ngờ về con số chính thức của Mạc Tư Khoa về số người chết trong cuộc tấn công vào doanh trại Nga ở miền đông Ukraine bị xâm lược.
Semyon Pegov, người viết blog với bí danh “WarGonzo,” đã đăng một video dài năm phút trên kênh Telegram của anh ta thảo luận về cái mà anh ấy gọi là “thảm kịch Makiivka.”
“Mặc dù có tuyên bố chính thức của Bộ Quốc phòng, con số thương vong chính xác vẫn chưa được biết,” Pegov nói trong video.
“Ở mức độ mà chúng ta có thể tin tưởng vào các nguồn tin của mình, những người làm việc tại nơi xảy ra thảm kịch này cho biết họ vẫn đang đào bới đống đổ nát vào lúc này. Và thật không may, số nạn nhân của thảm kịch này – cuộc tấn công của HIMARS vào các khu vực của cả quân đội mới được huy động và quân đội đang phục vụ, bao gồm cả Lực lượng Vệ binh Quốc gia – có thể còn lớn hơn.”
Trong một lần thừa nhận hiếm hoi, Phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga, Trung tướng Igor Konashenkov hôm thứ Hai cho biết 63 quân nhân đã thiệt mạng ở Makiivka khi Ukraine sử dụng hỏa tiễn HIMARS để tấn công một tòa nhà nơi các binh sĩ Nga đang đóng quân. Một ngày sau đó, Konashenkov nói có đến 89 binh sĩ Nga đã tử trận.
Quân đội Ukraine tuyên bố khoảng 400 binh sĩ Nga thiệt mạng và hơn 300 người khác bị thương, đồng thời cho biết con số chính xác “đang được làm rõ”.
Putin đã đích thân trao tặng Pegov “Huân chương Dũng cảm” tại Điện Cẩm Linh vào ngày 20 tháng 12.
Pegov không phải là người duy nhất nghi ngờ về báo cáo chính thức của Nga.
Igor Girkin, cựu quan chức của Cộng hòa Nhân dân Donetsk do Nga hậu thuẫn, hôm thứ Hai cho rằng số người chết và bị thương có thể lên tới hàng trăm.
“Vẫn chưa có số liệu cuối cùng về số thương vong, vì nhiều người vẫn đang mất tích,” ông nói.
Daniil Bezsonov, phát ngôn nhân của cái gọi là Cộng hòa Nhân Dân Donetsk, đã công khai thách thức các tuyên bố của Konashenkov, khi ông này cho rằng quân Ukraine đã phóng 25 quả hỏa tiễn vào ngôi trường này. Theo Daniil Bezsonov, người Nga tỏ ra không hiểu gì về HIMARS. Một quả HIMARS giá hàng trăm ngàn Mỹ Kim. Người Ukraine cũng không có nhiều hỏa tiễn để phóng bừa bãi như thế. Theo ông, quân Ukraine chỉ phóng một quả hỏa tiễn duy nhất. Thương vong kinh hoàng là do lãnh đạo quân đội dùng trường học làm nơi chứa hỏa tiễn và đạn dược. Quân Nga chết nhiều là do hỏa tiễn và đạn dược của chính mình nổ tung sau đó. Đây là vấn đề mà ông cho rằng người Nga phải rút kinh nghiệm.
Boris Rozhin, một blogger quân sự Nga, chuyên về các nỗ lực chiến tranh với biệt danh Colonelcassad, nói rằng “sự kém cỏi và không có khả năng nắm bắt kinh nghiệm chiến tranh tiếp tục là một vấn đề nghiêm trọng.”
Anh ta nói rằng quân Ukraine đã biết rõ ngôi trường này nhưng không tấn công vì các học viên của trường này vẫn tiếp tục học và một số vẫn ở nội trú. Quân Ukraine không dám pháo kích vào vì sợ chết dân. Lợi dụng điểm yếu đó của Ukraine, các chỉ huy Nga đã chất đạn dược và hỏa tiễn trong trường mà không biết rằng trong một năm có một ngày gọi là Ngày Tết. Trong cái ngày gọi là Ngày Tết ấy các học viên ở đây đã về nhà, họ còn chần chừ gì nữa mà không tấn công. Vụ tấn công diễn ra vào lúc 0 giờ 2 phút và những tiếng nổ kinh hoàng chỉ kết thúc vào xế trưa. Những tiếng nổ dữ dội vừa gây thêm thương vong, vừa ngăn cản các nỗ lực cấp cứu. Nhiều người chết đơn giản vì mất máu quá lâu khi bị chôn vùi dưới đống đổ nát.
5. Zelenskiy: Pháp đang đưa hỗ trợ quốc phòng cho Ukraine lên một tầm cao mới
Pháp đang đưa sự hỗ trợ quốc phòng cho Ukraine lên một tầm cao mới, điều này sẽ giúp khôi phục an ninh cho người Ukraine và hòa bình cho người Âu Châu.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã nói điều này trong bài phát biểu video hàng ngày trước quốc dân đồng bào.
“Pháp đang đưa sự hỗ trợ quốc phòng của Âu Châu dành cho Ukraine lên một tầm cao mới và tôi cảm ơn Tổng thống Macron vì sự lãnh đạo này. Chúng ta sẽ nhận được nhiều xe bọc thép hơn, đặc biệt là xe tăng bánh lốp do Pháp sản xuất. Đây là điều gửi một tín hiệu rõ ràng tới tất cả các đối tác khác của chúng ta: không có lý do chính đáng nào khiến Ukraine chưa được cung cấp xe tăng kiểu phương Tây. Và điều này rất quan trọng để khôi phục an ninh cho tất cả người dân Ukraine và hòa bình cho tất cả người dân Âu Châu”, ông Zelenskiy nói.
Ông nói thêm rằng tín hiệu như vậy cực kỳ phù hợp trước cuộc họp “Ramstein” tiếp theo: “Chúng ta phải chấm dứt chính xác sự xâm lược của Nga trong năm nay và không trì hoãn bất kỳ khả năng phòng thủ nào cũng đều có thể đẩy nhanh quá trình đánh bại nhà nước khủng bố. Xe bọc thép hiện đại của phương Tây, xe tăng kiểu phương Tây chỉ là một trong những khả năng chính này”.
“Mỗi đối tác của chúng ta sẽ có thông tin rất cụ thể về nhu cầu quốc phòng của chúng ta. Và tất cả chúng ta đều có chung một mục tiêu: chấm dứt sự xâm lược của Nga càng sớm càng tốt, khôi phục nền hòa bình đáng tin cậy và lâu dài”, ông Zelenskiy nói.
Hôm 4 tháng Giêng, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã thảo luận về việc hợp tác hơn nữa để tăng cường khả năng phòng không và các năng lực phòng thủ khác của Ukraine.
Zelenskiy cảm ơn Macron về quyết định chuyển xe tăng hạng nhẹ và xe thiết giáp chở quân Bastion cho Ukraine, cũng như tăng cường hợp tác với các đối tác theo hướng này.
6. Ukraine dự đoán rằng Nga sẵn sàng hy sinh thêm 70.000 binh sĩ trước tháng 6
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Russia Ready to Lose 70K More Soldiers Before June, Ukraine Predicts”, nghĩa là “Ukraine dự đoán rằng Nga sẵn sàng hy sinh thêm 70.000 binh sĩ trước tháng 6”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Lan Vy.
Quân đội Nga có thể chịu thương vong lên tới 70.000 người trong vòng 4 hoặc 5 tháng tới, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov cho biết như trên.
Chuẩn tướng Oleksii Hromov nhận định rằng giới lãnh đạo Nga đang lường trước những tổn thất như vậy, và sẵn sàng chấp nhận, vì các cuộc đàm phán hòa bình dường như khó xảy ra.
Một cuộc tấn công hôm thứ Hai của lực lượng Ukraine vào một căn cứ ở thị trấn Makiivka bị xâm lược, thuộc vùng Donetsk phía đông, khiến 89 binh sĩ đồn trú thiệt mạng, đây là vụ tấn công có số người chết lớn nhất được Nga công nhận kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 2022. Con số 89 là do phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga, Trung tướng Igor Konashenkov đưa ra. Daniil Bezsonov, phát ngôn nhân của cái gọi là Cộng hòa Nhân Dân Donetsk, cho biết con số thực sự trên 400 người và đang tiếp tục tăng lên.
“Theo ước tính của tình báo quân sự Ukraine, người Nga sẽ cố gắng tiếp tục tiến hành các hoạt động tấn công vào năm tới,” Chuẩn tướng Oleksii Hromov cho biết. “Họ đã không thể đạt được mục tiêu của mình trên bất kỳ mặt trận nào. Họ hiểu rằng họ đang thua, nhưng họ không có kế hoạch kết thúc chiến tranh.”
Ông nói thêm rằng Nga có thể sẽ cố gắng thực hiện các bước tiến quân sự mang tính tấn công từ nhiều hướng khác nhau trong những tháng tới.
Ông nói: “Chúng tôi đang xem xét khả năng họ có thể tấn công từ phía bắc hoặc phía đông cùng lúc. Theo đánh giá của tình báo quân đội Ukraine, trong vòng 4 đến 5 tháng tới, quân đội Nga có thể mất thêm tới 70.000 quân nhân. Và ban lãnh đạo của quốc gia xâm lược đã sẵn sàng cho những tổn thất như vậy.”
Ông cũng dự đoán rằng Nga sẽ muốn giữ hành lang đất liền tới Crimea và chiếm toàn bộ khu vực Donetsk. Ông không tin quân xâm lược có thể vượt sông Dnipro để chiếm Kherson một lần nữa.
Trong một đánh giá vào ngày 2 tháng Giêng, Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, cho biết một blogger quân sự của Nga tập trung vào quân đội đã chỉ trích thời điểm tấn công bằng hỏa tiễn hành trình vào ngày 31 tháng 12 được cho là “quá ít và quá muộn”.
“Blogger này lập luận rằng Nga cần tiến hành các cuộc tấn công như vậy một cách có hệ thống sớm hơn trong cuộc chiến, và rằng cuộc tấn công lẽ ra phải có các cuộc tấn công tiếp theo để bảo đảm thiệt hại tối đa, và rằng thời điểm của cuộc tấn công này là không phù hợp vì các phần tử Ukraine dường như không có mặt ở các cơ sở vào đêm giao thừa,” ISW viết.
Oxana Shevel, phó giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tufts, nói với Newsweek rằng giả thuyết duy nhất để Nga đạt được thành công là do sự sụp đổ lớn ở Ukraine—về tinh thần hay năng lực quân sự, nhưng “cả hai đều không có dấu hiệu gì sẽ xảy ra.”
Cô cho biết khả năng mở cửa khác cho các lực lượng Nga ở Ukraine liên quan đến sự tan vỡ của liên minh phương Tây đã hỗ trợ Ukraine về cơ bản kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Vũ khí là một phần của sự hỗ trợ đó.
“Sự đổ vỡ về hỗ trợ của phương Tây dường như khó xảy ra đối với tôi do Âu Châu nhìn chung đang đối phó thành công với tình hình năng lượng như thế nào, và những hành động tàn bạo liên tục của Nga đang tạo điều kiện dễ dàng hơn cho chính phủ phương Tây và các quốc gia khác,” Shevel nói:
Cô nói thêm, Nga có thể kéo dài cuộc chiến, nhưng “thời gian không đứng về phía họ” khi xem xét triển vọng huy động thêm quân, nền kinh tế, sự hỗ trợ quốc tế hoặc việc giành được trái tim và khối óc ở Ukraine.
“Putin đã đánh cược tương lai cá nhân và tầm nhìn méo mó về 'nước Nga vĩ đại' của mình vào cuộc chiến này và sẽ tiếp tục ném sinh mạng vào cối xay thịt cho đến tận cùng... Tôi không hiểu làm thế nào mà Nga có thể chiến thắng được,” cô nói.
Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Ukraine và Nga để bình luận.
7. Tổng thống Nauseda kêu gọi các đồng minh tăng cường hỗ trợ cho Ukraine
Tổng thống Lithuania Gitanas Nausea đã kêu gọi các đồng minh tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraine và gia tăng tốc độ nhằm mang chiến thắng đến gần hơn.
“Vào năm 2023, Lithuania sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraine. Đó phải là năm Ukraine đánh bại kẻ xâm lược. Lithuania sẽ gửi thiết bị quân sự, đạn dược và huấn luyện quân sự cho Ukraine. Điều quan trọng là tăng tốc độ hỗ trợ của tất cả các đồng minh. Chiến thắng đã cận kề,” tổng thống Nauseda nói.
8. Phát ngôn nhân Lực lượng vũ trang Ukraine nói rằng làn sóng huy động mới sẽ không giúp ích gì cho người Nga
Theo Đại Tá Serhii Cherevatyi, phát ngôn nhân của Cụm quân phía Đông của Lực lượng vũ trang Ukraine, sự hiện diện của một số lượng lớn quân nhân là con át chủ bài duy nhất còn lại đối với người Nga.
Ông nói trên truyền hình của Ukraine rằng một làn sóng huy động mới ở Nga, dự kiến bắt đầu vào ngày 5 tháng Giêng, sẽ không giúp Nga trong cuộc chiến bởi vì quân đội Ukraine được đào tạo, năng động, và được trang bị vũ khí tối tân sẽ chống lại điều này.
“Tất nhiên, tất cả các cấu trúc phân tích, tình báo và thông tin của chúng ta đang hoạt động mạnh mẽ. Một phân tích có hệ thống liên tục được tiến hành ở tất cả các cấp, vì vậy một làn sóng huy động khác ở Nga này không phải là một bí mật. Chúng ta đã biết điều này trong một thời gian dài,” Cherevatyi nói.
Ông nhớ lại rằng tổn thất của quân xâm lược ở mặt trận đòi hỏi phải đổi mới nhân sự của chúng, do đó, một làn sóng huy động mới là điều tất nhiên.
Đồng thời, ông nói thêm rằng Lực lượng Phòng vệ Ukraine đang sử dụng thành công các vũ khí tiên tiến của phương Tây trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược.
Cherevatyi nói: “Động lực và sự huấn luyện của chúng ta, được nhân lên bởi các thiết bị mới nhất của phương Tây, có thể là một bước ngoặt trong cuộc chiến và điều này có thể vô hiệu hóa bất kỳ nỗ lực huy động nào của kẻ thù”.
Người đứng đầu Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng Ukraine, Kyrylo Budanov, tuyên bố vào ngày 30 tháng 12 rằng giới lãnh đạo Nga đã quyết định bắt đầu một đợt huy động mới từ ngày 5 tháng 1 do tổn thất nặng nề ở mặt trận.
9. Quân xâm lược biến cảng biển Mariupol thành căn cứ quân sự
Tại Mariupol, quân xâm lược Nga đang dần biến cảng biển thành căn cứ quân sự.
Petro Andriushchenko, cố vấn của thị trưởng Mariupol, đã cho biết như trên.
“Quân xâm lược đang dần biến hải cảng này thành căn cứ quân sự. Vào cuối tháng 12, tất cả công dân Mariupol làm việc tại cảng đều bị sa thải, ngoại trừ một số chuyên gia và cộng tác viên, và những công nhân mới được đưa đến từ Mạc Tư Khoa”.
Cố vấn của thị trưởng cũng lưu ý rằng một số binh sĩ Ukraine bị bắt tại Mariupol đã được “gửi” đến Crimea bị xâm lược vào tuần thứ ba của tháng 12. Andriushchenko viết: “Sau đó, liên lạc với họ bị mất, người thân không biết tung tích của họ.
Như đã đưa tin, hành động gây hấn của Nga đã gây ra một trong những thảm họa nhân đạo lớn nhất ở Mariupol. Gần 90% thành phố đã bị phá hủy do pháo kích của kẻ thù. Quân xâm lược đang biến Mariupol thành một trung tâm quân sự và hậu cần của quân đội Nga.
1. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI yêu mến Giáo hội đến mức có thể đưa ra một quyết định khó khăn và đau đớn
Cha Roger J. Landry là một linh mục trong Phái bộ Quan sát viên Thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hợp Quốc ở New York. Ngài nguyên là linh mục của Giáo phận Fall River, Massachusetts, và từng là cha chính xứ của Giáo xứ St. Bernadette ở Fall River, Massachusetts, và trước đó là chính xứ St. Anthony Padua ở New Bedford, Massachusetts.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân sinh học tại Đại học Harvard, ngài đã theo đuổi con đường tiến đến chức tư tế ở Maryland, Toronto và Rôma. Sau khi được Đức Cha Sean O'Malley, OFM Cap (nay là Hồng Y) truyền chức linh mục tại Giáo phận Fall River vào ngày 26 tháng 6 năm 1999, ngài trở lại Rôma để hoàn thành chương trình sau đại học về Thần học luân lý và đạo đức sinh học tại Viện Hôn nhân và Gia đình Gioan Phaolô II.
Cha Landry cũng là một nhà văn. Ngài viết cho nhiều tờ báo Công Giáo, bao gồm National Catholic Register và The Anchor, là tờ báo hàng tuần của Giáo phận Fall River, mà ngài là chủ nhiệm kiêm chủ bút từ năm 2005 đến 2012. Một trong những cuốn sách nổi tiếng của ngài là cuốn “Plan of Life: Habits to Help You Grow Closer to God” – “Kế hoạch cho cuộc sống: Những thói quen giúp bạn đến gần Chúa hơn” (Pauline Books and Media 2018).
Ngài vừa có bài viết “Pope Benedict XVI Loved the Church Enough to Make a Difficult and Painful Decision”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI yêu mến Giáo hội đến mức có thể đưa ra một quyết định khó khăn và đau đớn”, trong đó, ngài lý giải rằng việc xem xét kỹ hơn các lý do dẫn đến quyết định thoái vị của Đức Bênêđictô có thể giúp chúng ta thấy tại sao đó là một quyết định can đảm chứ không phải là hèn nhát.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI là nhà thần học vĩ đại nhất đảm nhiệm Ngai Tòa Thánh Phêrô kể từ thời Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả, cai quản Hội Thánh từ năm 440 đến 461. Giáo Hội Công Giáo trong các thế kỷ tương lai có thể nhận thấy những đóng góp của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thậm chí còn lớn hơn cả những đóng góp của Thánh Giáo Hoàng Leô Cả, là người có các tác phẩm về Nhập thể vẫn được nhắc đến vào mỗi dịp Giáng Sinh và lá thư của ngài đã đưa các tranh luận về Kitô học của thế kỷ thứ tư và thứ năm đến hồi kết thúc.
Tuy nhiên, trừ khi việc thoái vị của các vị giáo hoàng trở thành thông lệ, nếu không thì các thế kỷ tương lai có thể ít nhớ đến Đức Bênêđíctô như một vị là tiến sĩ giáo hoàng của Giáo hội như Thánh Lêô và Thánh Grêgôriô Cả, cho bằng một vị Giáo Hoàng đã thoái vị như Đức Cêlestinô Đệ Ngũ và Đức Grêgôriô 12.
Danh xưng thứ nhất, tiến sĩ giáo hoàng, chắc chắn là một trong những vinh dự lớn. Danh xưng thứ hai thường được coi là một trong những điều đáng xấu hổ. Trừ khi việc thoái vị được thực hiện theo nguyên tắc phản đối cái ác, nền văn hóa của chúng ta thường coi việc thoái vị như là một sự bỏ cuộc hoặc thất bại, cả hai điều này thường đi kèm với sự xấu hổ.
Trong trường hợp của Đức Bênêđíctô, sau khi Thánh Gioan Phaolô II đã dũng cảm hoàn thành sứ vụ giáo hoàng của mình, mà như ngài nói, là được linh hứng, bởi vì Chúa Kitô không xuống khỏi thập giá; thì sự từ bỏ của Đức Bênêđictô có vẻ bất trung và hèn nhát.
Do bản chất của quan hệ cha con thiêng liêng gắn liền với chức vụ giáo hoàng, việc thoái vị cũng có vẻ giống như việc một người cha từ bỏ thiên chức và cam kết gia đình của mình một cách bất chính.
Hơn nữa, một số người Công Giáo quan tâm đến những diễn biến khác nhau trong triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ sự phẫn nộ đối với Đức Bênêđíctô - thậm chí đi xa đến mức đổ lỗi cho Đức Bênêđíctô; bởi vì, họ lập luận, nếu Đức Bênêđíctô đã không thoái vị, và có lẽ đã phục vụ trong khoảng thời gian hóa ra gần như là một thập kỷ nữa của cuộc đời, thì những phát triển đó sẽ không bao giờ thành hiện thực.
Vì vậy, việc thoái vị của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã trở thành một trở ngại thực sự đối với việc đánh giá di sản của ngài, cả trong số những người đã bị thuyết phục về sự thánh thiện và tầm quan trọng lịch sử của ngài trước khi xảy ra các sự kiện đầu năm 2013.
Nhưng việc xem xét sâu hơn những lý do Đức Bênêđictô đưa ra để thoái vị có thể giúp chúng ta thấy tại sao đó là sự can đảm, chứ không phải hèn nhát, trung thành chứ không phải bất trung, và là một sự xác nhận chứ không phải là mâu thuẫn về tính cách mà nhiều người đã kính trọng một cách đúng đắn.
Khi Đức Bênêđíctô gây sửng sốt cho các Hồng Y tại Hội trường của Công nghị vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, bằng cách tuyên bố bằng tiếng Latinh rằng 17 ngày sau, ngài sẽ rời Tòa thánh Phêrô, ngài nhấn mạnh: “Sau khi đã nhiều lần kiểm điểm lương tâm của mình trước mặt Chúa, tôi chắc chắn rằng sức lực của tôi, do tuổi cao, không còn phù hợp để thi hành đầy đủ thừa tác vụ của thánh Phêrô nữa.”
Từ lâu, Đức Bênêđictô XVI đã gọi lương tâm là “cơ quan nhạy cảm bên trong” đối với tiếng nói của Thiên Chúa, chỉ cho chúng ta biết điều gì nên làm hay nên tránh. Mặc dù sự phán xét của lương tâm có thể sai lầm, nhưng ngài đã điều chỉnh “cơ quan” của mình và chiến đấu chống lại những ý tưởng sai lầm của lương tâm trong một thời gian dài đến nỗi rất khó có khả năng ngài đã nhầm lẫn nghe Chúa phán: “hãy dừng lại” trong khi thực tế là Chúa đang nhấn mạnh rằng “hãy tiếp tục.”
Do đó, quyết định thoái vị của ngài không phải là lời nói “Không” của một người chỉ muốn trút bỏ gánh nặng của ngôi vị giáo hoàng, mà là một lời “Xin vâng” nữa trong cả cuộc đời trung thành tuân theo những gì Chúa đã yêu cầu ngài.
Đến thời điểm đó, ngài đã thấy rõ rằng mình thiếu những gì mà ngài biết rằng chức vụ giáo hoàng đòi hỏi.
Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng của mình, vào ngày 27 tháng 2, một ngày trước khi lên trực thăng để đến Castel Gandolfo, ngài nói: “Trong những tháng gần đây, tôi cảm thấy sức lực của mình suy giảm, và tôi đã khẩn thiết cầu xin Chúa ban cho tôi sức mạnh của Ngài, ánh sáng và giúp tôi đưa ra quyết định đúng đắn, không phải vì lợi ích của riêng tôi, mà vì lợi ích của Giáo Hội. Tôi đã thực hiện bước này với nhận thức đầy đủ về sự nghiêm trọng của nó và thậm chí cả tính mới mẻ của nó, nhưng với sự thanh thản nội tâm sâu sắc.”
Trong cuộc phỏng vấn dài thành cuốn sách năm 2016 với Peter Seewald, ngài nói rằng ngài đã nói về điều này “một cách rộng rãi với Chúa yêu thương” bởi vì “trách nhiệm và sự nghiêm trọng của sứ vụ giáo hoàng đòi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng nhất, hết lần này đến lần khác phải tự kiểm điểm trước mặt Chúa và trước mặt bản thân mình.”
“Bạn phải trình bày mọi công việc của mình trước mặt Chúa càng rõ ràng càng tốt và cố gắng không chỉ nhìn mọi thứ theo khía cạnh hiệu quả hoặc các tiêu chí khác để thoái vị, mà hãy nhìn mọi việc bằng đức tin. Chính từ quan điểm này mà tôi tin chắc rằng nhiệm vụ của Thánh Phêrô đòi hỏi ở tôi những quyết định cụ thể, những hiểu biết sâu sắc. … Tôi không thể trao ra rất nhiều nữa. … Giáo hoàng không phải là Siêu nhân, và sự hiện diện đơn thuần của ngài không đủ để thực hiện vai trò của mình.”
Ngài nói với Seewald rằng bác sĩ của ngài đã thông báo với ngài sau chuyến đi Mễ Tây Cơ và Cuba năm 2012 rằng ngài không đủ sức khỏe để bay qua Đại Tây Dương một lần nữa, như ngài đã lên kế hoạch cho Ngày Giới trẻ Thế giới ở Rio năm 2013. Ngài cũng nói rằng “Giáo hoàng phải làm những việc cụ thể,” chẳng hạn như “tiếp các nguyên thủ quốc gia, tiếp các giám mục mà người ta phải có thể trò chuyện thân mật sâu sắc, và đưa ra các quyết định mỗi ngày. Ngay cả khi bạn nói rằng một vài trong số những điều này có thể bị loại bỏ, thì vẫn còn rất nhiều điều cần thiết, đến nỗi, nếu khả năng thực hiện chúng không còn nữa… thì bây giờ là lúc để giải phóng chiếc ghế đó cho người khác.”
Trong khi ngài vẫn còn tâm trí và trí tuệ để phục vụ, thì ngài không còn sức lực, sức chịu đựng và nghị lực nữa. Nếu hầu hết các mục tử gặp khó khăn về thể chất để quản lý một giáo xứ bận rộn vào giữa những năm 80, thì việc cai quản một Giáo hội hơn 1 tỷ người và thực hiện lịch trình phụng vụ kéo dài, các cuộc họp và bài phát biểu cấp cao liên tục của giáo hoàng còn đòi hỏi nhiều hơn thế, bên cạnh đó còn có các chuyến tông du quốc tế mệt mỏi.
Và vào thời điểm thoái vị, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã hai lần bị đột quỵ, đeo máy điều hòa nhịp tim trong 20 năm, các vấn đề về tuyến tiền liệt, bệnh thoái hóa khớp và một mắt nhìn không rõ nữa.
Vì vậy, “người làm việc giản dị và khiêm tốn trong vườn nho của Chúa,” như ngài đã tự giới thiệu khi bắt đầu sứ vụ giáo hoàng của mình, đã quyết định thoái vị một cách khiêm nhường và can đảm để trở thành vị giáo hoàng thoái vị đầu tiên sau 598 năm.
Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng, ngài nói : “Yêu mến Giáo hội cũng có nghĩa là can đảm đưa ra những quyết định khó khăn, đau đớn, luôn hướng tới lợi ích của Giáo hội chứ không phải của bản thân. … Tôi không từ bỏ thập tự giá, mà ở lại theo một cách mới ở bên cạnh Chúa Chịu Đóng Đinh. Tôi không còn nắm quyền điều hành Giáo hội nữa, nhưng khi phục vụ việc cầu nguyện, có thể nói, tôi vẫn ở trong vòng rào của Thánh Phêrô. … Tôi sẽ tiếp tục đồng hành với hành trình của Giáo hội bằng lời cầu nguyện và suy tư, với lòng tận tụy đối với Chúa và Hiền Thê của Người mà cho đến nay tôi vẫn cố gắng thực hành hàng ngày và là điều mà tôi luôn muốn thực hành.”
Mặc dù quyết định của ngài là khó khăn và đau đớn cho ngài và cho Giáo hội, nhưng ngài phải làm điều đó và chuyển trách nhiệm của mình sang việc cầu nguyện, là điều mà ngài luôn dạy là điều quan trọng nhất mà các môn đệ có thể làm. Khi thoái vị giáo hoàng để tiếp tục phục vụ Giáo hội qua lời cầu nguyện, ngài nhắc lại rằng công việc cầu nguyện còn quan trọng hơn thừa tác vụ của giáo hoàng.
Cầu nguyện sẽ là cách ngài tiếp tục công việc của mình với tư cách là một người cha thánh thiện.
“Ngay cả vai trò của một người cha cũng có lúc phải dừng lại,” ngài nói với Seewald. “Một người cha không bao giờ ngừng là một người cha, nhưng đến một lúc nào đó, người ấy được trút bỏ trách nhiệm cụ thể. Người ấy vẫn là một người cha theo nghĩa sâu sắc, hướng nội, trong một mối quan hệ cụ thể có trách nhiệm, nhưng không phải với những công việc hàng ngày.”
Khi Seewald hỏi liệu ngài có hối hận về quyết định của mình không, Đức Bênêđíctô nói: “Không! Không! Không!” ba lần và nói thêm: “Mỗi ngày tôi đều thấy rằng điều đó là đúng. … Quyết định đã được coi là chín chắn và được thưa với Chúa.”
Đức Bênêđictô đến cùng đã bị thuyết phục rằng mình đã có một quyết định đúng đắn theo lương tâm. Những người ngưỡng mộ những ân sủng to lớn mà Chúa ban cho đức tin, sự khôn ngoan, lòng can đảm và tình yêu dành cho sự thật mà ngài đã thể hiện trong suốt 85 năm đầu tiên của mình nên tin tưởng vào cách ngài sử dụng chúng trong quyết định lớn nhất của triều đại giáo hoàng và cuộc đời ngài.
Và chúng ta hãy cầu nguyện rằng công việc quan trọng trong tình yêu của Giáo hội mà ngài đã bắt đầu lúc 8:01 tối ngày 28 tháng 2 năm 2013, vẫn tiếp tục trong nhà của Cha.
Source:National Catholic Register
2. Tiến sĩ George Weigel: Joseph Ratzinger, Tiến Sĩ Hội Thánh
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Joseph Ratzinger, Doctor of the Church?”, nghĩa là “Joseph Ratzinger, Tiến Sĩ Hội Thánh?”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Sau khi ngài qua đời vào ngày 31 tháng 12, một số nhà bình luận đã bày tỏ hy vọng rằng Đức Joseph Ratzinger, sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và sau đó là Đức Giáo Hoàng Danh dự, cuối cùng sẽ được phong là Tiến Sĩ Hội Thánh. Dưới ánh sáng của những hy vọng đó, tôi nghĩ sẽ rất thú vị khi xem lại cuộc trò chuyện giữa tôi với Đức Hồng Y Ratzinger, lúc bấy giờ là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, khi tôi đang chuẩn bị cho cuốn sách Chứng nhân Hy vọng, là tập đầu tiên của hai tác phẩm của tôi về tiểu sử của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.Đó là ngày 20 tháng 9 năm 1997, và chúng tôi nói chuyện, như thường lệ, trong văn phòng của Đức Hồng Y ở Palazzo Sant'Ufficio. Như mọi khi, Đức Hồng Y ăn mặc đơn giản trong chiếc áo chùng thâm màu đen không có thánh giá trước ngực. Sau khi thảo luận một số vấn đề khác, tôi hỏi ngài về quyết định gần đây của Đức Gioan Phaolô II phong Thánh Têrêsa thành Lisieux, Bông Hoa Nhỏ, là Tiến Sĩ Hội Thánh, sau khi đã nhận được đơn xin như vậy từ hơn hai ngàn giám mục, nếu tôi nhớ không nhầm, trong một chiến dịch do Đức Giám Mục Phụ Tá đã nghỉ hưu của New York, là Đức Cha Patrick Ahern, lãnh đạo. Quyết định này đã gây ra một số tranh cãi, vì danh hiệu hiếm hoi đó thường được trao cho các nhà thần học lỗi lạc.
Khi tôi hỏi thẳng Đức Hồng Y Ratzinger, “Tại sao Thánh Têrêsa thành Lisieux lại là Tiến Sĩ Hội Thánh,” vị Hồng Y cười (là điều mà ngài đã làm một cách dễ dàng, mặc dù có những xuyên tạc về tính cách của ngài, cho rằng ngài khó tính). Không bình luận gì về sự thẳng thừng, thậm chí là xấc xược trong câu hỏi của tôi, ngài nói và trình bày một cách hoàn chỉnh, như thói quen của ngài. Sau đây là bản chép lại trực tiếp câu trả lời của ngài, mà tôi nghĩ làm sáng tỏ quan niệm về sự thánh thiện của chính ngài và nhiều cách diễn đạt của sự thánh thiện:
Chúng ta đã có những hình thức Tiến Sĩ Hội Thánh khác nhau, thậm chí trước cả Thánh Antôn thành Padua. Một mặt, chúng ta có các Tiến sĩ kinh viện vĩ đại, như Thánh Bonaventura và Thánh Thomas Aquinas, là những giáo sư, viện sĩ và Tiến sĩ vĩ đại theo nghĩa khoa học; trong thời các giáo phụ, chúng ta có những nhà thuyết giảng vĩ đại, những người đã phát triển tín lý không phải trong cuộc thảo luận thần học mà là qua thuyết giảng, qua các bài giảng; chúng ta cũng có Ephraim, người đã phát triển thần học của mình về cơ bản là thánh ca và âm nhạc. Giờ đây, trong thời đại này, chúng ta có những hình thức Tiến sĩ mới và điều quan trọng là phải nâng cao sự phong phú của các phương tiện giảng dạy khác nhau trong Giáo hội. Chúng ta có Thánh Têrêsa thành Avila với những kinh nghiệm thần bí và những diễn giải của bà về sự hiện diện của Thiên Chúa trong kinh nghiệm thần bí. Chúng ta có Thánh Catêrina thành Siena với nền thần học kinh nghiệm. Và bây giờ chúng ta có Thánh Têrêsa thành Lisieux, người đã tạo ra theo một…cách khác một nền thần học về kinh nghiệm.
Điều quan trọng, trong xã hội có đầu óc khoa học của chúng ta, là có thông điệp về một kinh nghiệm đơn giản và sâu sắc về Thiên Chúa, và một giáo huấn về sự đơn giản trong việc trở thành một vị thánh: trong thời gian này, với cách tiếp cận cực kỳ định hướng hành động, trong đó dạy rằng để trở thành một vị thánh không nhất thiết phải là vấn đề của những hành động vĩ đại, mà là để Chúa hành động trong chúng ta.
Điều này cũng thú vị cho cuộc đối thoại đại kết. Học thuyết về sự công chính hóa của Luther đã được khơi dậy bởi sự khó hiểu của ông trong việc hiểu chính mình làm thế nào để được công chính hóa và cứu chuộc thông qua các cấu trúc phức tạp của Giáo hội thời trung cổ. Ân sủng đã không đến với tâm hồn ông ấy và chúng ta phải hiểu sự bùng nổ của 'sola fide', hay ‘công chính hóa chỉ nhờ đức tin’, trong bối cảnh này: rằng cuối cùng ông khám phá ra rằng ông chỉ cần trao phó niềm tin, tín thác cho Chúa, phó mình trong tay Chúa. —và được cứu chuộc. Tôi nghĩ theo một cách rất Công Giáo, điều này đã trở lại nơi Thánh Têrêsa thành Lisieux: Bạn không cần phải làm những điều vĩ đại. Tôi nghèo về tinh thần và vật chất; và phó mình trong tay Chúa Giêsu là đủ. Đây là một cách giải thích thực sự về ý nghĩa của việc được cứu chuộc; chúng ta không cần phải làm những điều vĩ đại, chúng ta phải tín thác, và trong tự do của sự tín thác ấy, chúng ta có thể theo Chúa Giêsu và thực hiện một đời sống Kitô hữu. Đây không chỉ là một đóng góp quan trọng cho cuộc đối thoại đại kết mà còn cho câu hỏi chung của chúng ta – làm thế nào tôi có thể được cứu chuộc, làm thế nào tôi được công chính hóa? “Con đường nhỏ” của Thánh Têrêsa là một tái khám phá rất sâu sắc về trung tâm của đời sống Kitô hữu.
Một khái niệm khác là từ một dòng kín, cách xa thế giới, người ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới. Hiệp thông với Chúa Kitô là hiện diện với các Kitô hữu trên toàn thế giới. Mọi người đều có thể có “hiệu quả” cho Giáo hội hoàn vũ trong thời đại ngày nay. Đây cũng là một định nghĩa mới về “tính hiệu quả” trong Giáo hội. Chúng ta có rất nhiều hành động, và chúng ta phải khám phá ra rằng “hiệu quả” bắt đầu bằng sự hiệp thông với Chúa. Ý tưởng này, rằng trái tim của Giáo hội hiện diện trong tất cả các bộ phận của cơ thể, là một sự điều chỉnh tốt đối với một Giáo hội đơn thuần thực dụng, một Giáo hội “hiệu quả” theo nghĩa bên ngoài. Đó là sự tái khám phá cội nguồn của mọi hành động Kitô giáo.
Thánh Têrêsa cũng có một ý tưởng mới về thiên đường, về mối quan hệ giữa vĩnh cửu và thời gian. Có mặt trên trái đất và làm điều thiện trên trái đất này là thiên đường của tôi. Chúng ta có một mối quan hệ mới giữa vĩnh cửu và thời gian: thiên đàng không vắng mặt trên trái đất, nhưng là một sự hiện diện mới và mạnh mẽ hơn. Sự vĩnh cửu hiện diện trong thời gian, và sống cho sự vĩnh cửu là sống trong và cho thời điểm hiện tại. Bằng cách sống đời sống Kitô hữu, chúng ta hiện diện nhiều hơn trên trái đất, chúng ta đang thay đổi trái đất; chúng ta có thể nói về một cánh chung luận mới ở đây, đó là một học thuyết quan trọng.
Phép biện chứng của sự hiện diện và sự vắng mặt này là một học thuyết rất vĩ đại. Sự tinh tế của Têrêsa cũng thật tuyệt vời khi giải quyết một số đòi hỏi đối với các tín điều mới về Đức Mẹ. Thánh nữ viết, “Đừng luôn nói về những đặc ân của Đức Maria, hãy nói về Đức Mẹ như một hữu thể như chúng ta.” Có một số văn bản tuyệt vời theo đường hướng này và đây là những sửa đổi rất hữu ích chống lại những khuynh hướng siêu Thánh Mẫu Học [hyper-Marian].
Đó là Đức Joseph Ratzinger, hai mươi lăm năm trước, về ơn gọi nên thánh và nhiều hình thức và phương thức nên thánh trong Giáo hội; về thời gian và vĩnh cửu; về sự phó thác chính mình cho Chúa; về tính qui hướng về Chúa Kitô không thể giản lược của đời sống Kitô hữu. Khi nhớ lại cuộc trò chuyện cách đây một phần tư thế kỷ, tôi không thể không nghĩ rằng Đức Ratzinger đang cho tôi thoáng nhìn vào cuộc sống nội tâm sâu thẳm của chính ngài: cuộc đời của một người được Đức Hồng Y Joachim Meisner mô tả một cách khéo léo là có “tâm trí của mười hai giáo sư” và có lòng đạo đức rõ ràng của một đứa trẻ rước lễ lần đầu.
Source:First Things