Ngày 10-01-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:01 10/01/2009
CHỦ NHẬT

LỄ CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA


Tin mừng: Mc 1, 7-11.

“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con.”


Bạn thân mến,

Trong thân phận làm người, Chúa Giê-su đã trở thành mẫu gương khiêm hạ tuyệt vời cho chúng ta, khi Ngài chịu phép rửa nơi sông Gio-đan, mặc dù Ngài không cần sám hối ăn năn, bởi vì Ngài là Đấng vô tội đang hiện diện giữa những người tội lỗi để trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Trong tâm tình ấy, bạn và tôi suy niệm về câu Lời Chúa trên đây:

1. Con là Con yêu dấu của Cha...

Sự khiêm hạ của Chúa Giê-su đã cảm động Thiên Chúa Cha, và nơi sự hy sinh tột cùng ấy –thân phận con người- Chúa Cha đã công khai xác nhận Chúa Giê-su là Con Một của mình, trước mặt những người đến sông Gio-đan xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa để tỏ lòng sám hối ăn năn.

Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài, nhưng từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, Thiên Chúa chưa gọi ai là con yêu dấu của mình, ngoại trừ một mình Chúa Giê-su. Bởi vì sự vâng lời và hy sinh của Chúa Giê-su đã làm cho khuôn mặt của yêu thương của Chúa Cha được tỏ hiện nơi nhân loại; bởi vì Chúa Giê-su là trưởng tử của Chúa Cha và là anh cả của nhân loại dám hy sinh mạng sống của mình để cho những đàn em qua muôn thế hệ được sống; bởi vì tự cung lòng Chúa Cha, Chúa Giê-su đã hiện hữu với Ngài ngay từ thưở hằng có đời đời, là hình ảnh vô hình của Chúa Cha hiện diện trước mặt nhân loại...

2. Cha hài lòng về con.

Một đứa con biết vâng lời cha mẹ, biết nhìn thấy yêu thương và hy sinh của cha mẹ đối với bản thân mình, thì luôn làm đẹp lòng cha mẹ, đó chính là người con làm đẹp mặt nở mày cha mẹ mình nhất.

Chúa Cha đã hài lòng về Chúa Con –Chúa Giê-su- vì sự hy sinh cao cả của Ngài cho nhân loại, cho phần rỗi đời đời của mỗi người trong chúng ta, sự hy sinh này đẹp như là của lễ toàn thiêu, mà Chúa Giê-su phải hiến dâng trẹn thánh giá đã làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.

Nhưng có một lý do quan trọng khác mà Chúa Cha xác thật Chúa Giê-su là con yêu dấu của mình, đó là Chúa Cha đem Chúa Giê-su giới thiệu công khai cho nhân loại biết khi Ngài chuẩn bị công khai rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài chính là Đấng cứu độ nhân loại, là nguồn mạch sự sống đời đời, ai tin vào Ngài thì đồng thời cũng tin vào Chúa Cha, ai yêu mến Ngài thì cũng sẽ yêu mến Chúa Cha.

Bạn thân mến,

Ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa, làm cho bạn và tôi nhớ lại bản thân mình đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành con Thiên Chúa, để trở nên môn đệ của Chúa Giê-su, và như thế bạn và tôi đều có bổn phận loan báo tin vui Nước Trời cho mọi người biết, loan báo tin mừng bình an của Chúa Giê-su cho mọi người chung quanh chúng ta.

Chúa Giê-su đã được Chúa Cha công khai giới thiệu cho mọi người khi Ngài chịu phép rửa ở sông Gio-đan, bạn và tôi cũng được Chúa Giê-su công khai sai đi làm chứng cho Ngài khi chúng ta lãnh bí tích Rửa Tội. Nhưng có lúc nào bạn và tôi hồi tâm suy nghĩ đến hồng ân to lớn ấy mà Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta không ? Chúng ta có lấy cuộc sống của mình để làm chứng cho tình yêu của Chúa Giê-su giữa cuộc đời này không ?

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://360.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:02 10/01/2009
N2T


62. Thiên Chúa đem giới răn thứ nhất cao diệu nhất đứng đầu mười giới răn, làm phương hướng chung cuộc của người thế chúng ta, chỉ là muốn chúng ta nâng cao tâm hồn, ngẩng cao mắt để nhìn xem hướng chung cuộc của chúng ta cao xa như thế nào, bèn nghĩ đến đức hạnh của mình không thể yếu kém, ngõ hầu cố gắng tiến lên phía trước, không thể an lòng nơi những thành công nhỏ nhặt.

(Thánh Augustine)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:03 10/01/2009
N2T


7. Mạnh khỏe là nhân tố chủ yếu của hạnh phúc, rèn luyện là bảo đảm quan trọng của mạnh khỏe.

 
Giới thiệu Chúa cho người khác
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
13:08 10/01/2009
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN, năm B

Ga 1, 35-42

Giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, cho anh em là bổn phận và trách nhiệm của tất cả Kitô hữu trên trái đất này ? Nếu Đức Giêsu không được nhiều người nhận biết và tin bởi vì ít người nói, loan báo về Ngài. Bởi vậy, việc loan báo và giới thiệu Đức Giêsu cho anh em là việc làm khẩn thiết và quan trọng đối với người môn đệ của Chúa.Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên, năm B, nhắn nhủ mọi người nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.

ANRÊ ĐÃ LÀM GÌ ?:

Đọc Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và hết sức khâm phục Anrê, vị tông đồ luôn giới thiệu Đức Giêsu cho người khác. Đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho thấy Anrê đã gặp Đức Giêsu: ” Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia “ ( Ga 1, 41 ), rồi Anrê liền giới thiệu em mình là Phêrô cho Chúa Giêsu. Anrê đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến vai trò của mình, khi dân chúng đi theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy và vì chiều, dân quá đông, các môn đệ đề nghị với Chúa Giêsu giải tán đám đông, để họ tự đi tìm thức ăn, nhưng Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ: ” Các con hãy cho họ ăn “. Thế rồi Anrê đã tìm được một cậu bé có ‘” năm chiếc bánh và hai con cá “, Anrê liền đưa cậu bé giới thiệu với Chúa Giêsu. Qua việc giới thiệu cậu bé này, với sự cộng tác của bàn tay con người hay nói đúng hơn, có vật chất: có bánh, có cá. Chúa Giêsu sau khi đã cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa Cha, Ngài đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở thành bữa tiệc tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.Lần cuối cùng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Ngài. Anrê là người đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa Giêsu đã rất hài lòng về Anrê, bởi vì sau đó chính Ngài đã nói: “ phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ khéo mọi người lên với Ta” ( Ga 12, 32 ). Xem như thế, chúng ta thấy vai trò của Anrê thật quan trọng và đáng được ghi nhận để bắt chước Anrê vì nếu Anrê không giới thiệu em mình là Simon Phêrô cho Chúa Giêsu, Giáo Hội làm gì có một Phêrô là thủ lãnh được Chúa tin tưởng, yêu thương đặt lên coi sóc Giáo Hội của Ngài: ” Hãy chăm sóc chiên con, chiên mẹ của Ta “. Và nếu không có Anrê giới thiệu cậu bé có “ năm chiếc bánh mì nhỏ và hai con cá “, làm sao có một phép lạ đẹp và hoành tráng như phép lạ Chúa Giêsu đã làm để nuôi sống một đám đông người như thế.

HÃY LÀM NHƯ ANRÊ:

Anrê đã giới thiệu nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Do đó, Tin Mừng của thánh Gioan 1, 35-42 mời gọi mọi Kitô hữu hãy xét lại thái độ, cử chỉ và hành động của mình cách cụ thể hơn: tại sao Kitô hữu lại chưa muốn chia sẻ đức tin của mình cho người khác ? tại sao Kitô hữu lại chưa mau mắn giới thiệu Chúa Giêsu cho người xung quanh, cho bạn bè và cho nhiều người khác ? Quả thực, nếu người môn đệ của Chúa đã tìm gặp Tin Mừng, đã nhận ra Tin Mừng là chính Đức Giêsu thì tại sao họ lại chậm chạp, chứ chưa chóng vánh chia sẻ niềm vui, chia sẻ đức tin cho bạn bè, những người quen biết và nhiều người mình chưa quen biết ? Đây là vấn nạn quan trọng được đặt ra và mỗi người phải tự mình trả lời trước lương tâm, trước mặt Chúa về câu hỏi này, không ai có thể trả lời giúp họ được vấn nạn này. Mọi người đang nhìn vào cách thể hiện đức tin của người môn đệ Chúa và sự chia sẻ đức tin của họ cho người khác là điều rất quan trọng và hết sức hệ trọng. Bài Tin Mừng này là bài học cho mọi Kitô hữu hãy bắt chước việc làm của vị tông đồ Anrê: ” giới thiệu Chúa Giêsu và chia sẻ đức tin cho người khác “.

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :

Xung Quanh chúng ta còn biết bao người chưa biết Chúa và còn biết bao người chưa được nghe nói tới Tin Mừng. Chính vì thế, thái độ và việc làm của chúng ta là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như Anrê, như các tông đồ xưa và nhiều người khác đã làm. Được phục vụ cho anh chị em lương dân và những anh chị em Dân tộc thiểu số, tôi vẫn cảm nghiệm được việc làm chứng cho Chúa bằng đời sống là cần thiết và việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu là tối ư quan trọng. Bởi, nếu không rao giảng, không chia sẻ đức tin mình có được thì anh chị em lương dân hay anh chị em Dân tộc sẽ không thể nào nhận ra Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy cho chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết mau mắn loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người khác và lệnh truyền của Chúa: ” …Hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng “ được nhiều môn đệ Chúa chóng vánh thi hành. Amen.
 
Con đường của Ðức Giêsu
Lm Nguyễn Hữu Thy
13:54 10/01/2009
Lễ Chúa Chịu Phép Rửa (Mc 1,7-11)

Cách đây đã khá lâu, xuất hiện ở Pháp một cuốn sách: «Các thánh đi xuống hỏa ngục». Cuốn sách diễn tả các hoạt động của những Linh Mục thợ thuyền đã rời bỏ Giáo Hội để sống liên đới hoàn toàn với giới thợ thuyền, nghĩa là họ đã đi con đường mà Giáo Hội công khai phê bình và phủ nhận.

Con đường của những vị Linh Mục thợ thuyền này đi sâu vào tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, những kẻ được ghi dấu bởi sự đói nghèo, bởi sự khốn cùng và cả những đen tối khác.

Kinh nghiệm sống của những Linh Mục thợ thuyền cuối cùng đã bị Giáo quyền Pháp phủ nhận. Chắc chắn là đã có nhiều vị trong số các Linh Mục thợ thuyền đó đã lệch lạc trên con đường đi tới với người nghèo, nhưng đàng khác, người ta cũng phải công nhận là cộng đồng thợ thuyền người Pháp luôn biết ơn ghi nhớ con đường dẫn vào «hỏa ngục» của đời họ mà các Linh Mục thợ thuyền đã đi. Chính tôi đã hơn một lần nghe người ta phàn nàn: «Trước kia Giáo Hội đã đến với chúng tôi. Ngày nay chúng tôi đã bị xa tránh!»

Và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe Ðức Giêsu đã đi trên con đường nào! Người đã không hề xa tránh những người nghèo khổ và những người tội lỗi.

Phép Rửa của Ðức Giêsu ở sông Gio-đan đã cho chúng ta thấy rằng Con Thiên Chúa cao cả đã hoàn toàn dấn thân sống hòa mình và chìm đắm mình vào kiếp sống gian khổ hèn yếu của phàm nhân. Vâng, qua cuộc sống cụ thể của Người với từng lớp người thấp kém và hèn hạ nhất trong xã hội, Ðức Giêsu đã hiện thực đúng nghĩa của chữ «chìm đắm.» Nhưng khi chúng ta nghe nói đến chữ «chìm đắm», tự nhiên chúng ta sẽ có ngay một cảm giác tiêu cực nào đó. Vì ai để mình «chìm đắm», thì phải hiểu là người đó đã nhập bọn với những người chẳng những là thiếu đứng đắn, mà nhiều khi còn là những kẻ tội phạm, những kẻ tội lỗi và rồi cùng họ làm những điều phạm pháp.

Phúc Âm đã tường thuật là Ðức Giêsu đã vào nhà của những kẻ tội lỗi và cùng đồng bàn với họ (x. Lc 19,7). Thực vậy, Ðức Giêsu đã không ngại ngùng đi vào tận đáy tất cả những chiều sâu của cuộc sống con người. Người đã đi xa đến nỗi Người đã không còn phân biệt mình với những kẻ tội lỗi nữa. Quả thực Ðức Giêsu đã nhập bọn với những kẻ tội lỗi, với những tội phạm và với những kẻ bị khinh bỉ, nhưng không phải để cùng họ làm điều xằng bậy phạm pháp, nhưng để yêu thương, che chở và cứu vớt họ Và cái chết của Người trên thập giá như một tên tội phạm là điểm chấm tận của con đường Người đã đi đó!

Tuy nhiên, trên con đường của Người trong một thế giới vô đạo và bất luân, Ðức Giêsu đã không hề lẻ loi một mình. Từ khởi đầu, Ðức Chúa Cha luôn ở bên Người và đã cho Người hay là Người đang bước đi trên chính lộ, trên con đường tương ứng với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù nhiều người khác lại phê bình, chỉ trích và kết án. «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Nói cách khác: Cha rất hài lòng, là Con đã chọn đi con đường hoàn toàn liên đới với những kẻ đã hư mất, với những người đau khổ và bị coi khinh. Con hãy cứ tiếp tục bước đi trên con đường đó, cả khi nó sẽ bị chấm tận trong một thảm họa chóng qua. Con đừng sợ: Cha luôn ở bên Con với tất cả tình yêu thương của Cha!

Cả những lời Ðức Giêsu thốt lên trong khi hấp hối trên thánh giá: «Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?», cũng không thể làm cho chúng ta hiểu sai về Cha trên Trời. Những lời đó là câu mở đầu của Thánh Vịnh Ai Ca (Tv 22), mà một trong những câu cuối Thánh Vịnh đã ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với những người công chính biết kính sợ Người: «Bởi vì Thiên Chúa chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu» (Tv 22,25). Người ta có thể quả quyết được rằng Ðức Giêsu cũng đã nói lên cho mình những lời đó khi người còn thoi thóp trên Thánh giá.

Hình ảnh con chim câu đậu xuống trên Người sau khi chịu phép rửa cũng đã chứng minh rằng con đường Ðức Giêsu chọn đi về phía những người tội lỗi đã không hề bị Thần Khí bỏ rơi. Trái lại, Chúa Thánh Thần đã cho Người sức mạnh để có thể chữa lành tất cả những kẻ đang «bị giam cầm trong quyền lực của ma quỉ» (Cv 10,38).

Nếu Phép Rửa của Chúa là tượng trưng cho sự dấn thân của Người vào cuộc sống nhân loại chúng ta và ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Người, thì chúng ta cần phải xét lại con đường sống của chúng ta: Chúng ta đang đi trên con đường nào? Chúng ta có can đảm đi tới những người sống ngoài lề xã hội? Chúng ta cư xử thế nào với những người đã không thành công trong cuộc sống, với những kẻ phạm pháp tù đày, với những người nghiện ngập tứ độ tường, với những người lang thang đầu đường xó chợ? Chúng ta đối xử thế nào với những người ngã sa và sống trong vòng tội lỗi?

Vâng, chúng ta là những người đã được rửa tội nhân danh Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thể sống hòa mình, sống chìm đắm theo kiểu cách của Ðức Giêsu không? Liệu chúng ta có can đảm tiếp cận với xã hội xấu để có thể mang lại cho nó một bộ mặt mới mẻ không? «Các thánh đi xuống hỏa ngục» muốn ám chỉ các Linh Mục thợ thuyền ở Pháp, những người muốn bắt chước Ðức Giêsu dấn thân sống cho những kẻ bị thua thiệt mất mát trong cuộc sống. Có phải chúng ta muốn có được Thiên đàng trên trái đất, còn thế gian chúng ta lại giao mặc cho ma quỉ?

Ước gì Thánh Lễ hôm nay có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường của Ðức Giêsu, tức con đường dẫn tới mọi anh em đồng loại của chúng ta, cách riêng những người nghèo đói, những người đau khổ và những người bị khinh khi miệt thị.

Ðức Giêsu, Người Anh Cả của chúng ta, đã dấn thân trọn vẹn cho loài người tội lỗi đến nỗi phải hy sinh mạng sống mình. Tình yêu của Người thật quá bao la! Nhưng Người đã phục sinh để sống trong một cuộc sống đầy sung mãn.

Con đường Ðức Giêsu đi thật khó khăn, nhưng cuối đường là sự sống thật, là hạnh phúc viên mãn! Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường đó?
 
Nhạc: Bộ Lễ Chúa Ba Ngôi
Xuân Minh
14:49 10/01/2009










 
Bài Giáo Lý mới XVII của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Thánh Phaolô và Việc Thờ Phượng chân chính
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
20:34 10/01/2009
Dưới đây là bản dịch bài huấn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong buổi triều yết chung ngày 7 tháng 1, 2009 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Thánh Phaolô

* * *

Anh chị em thân mến,

Trong buổi triều yết chung đầu tiên của năm 2009, cha muốn chúc anh chị em những lời cầu chúc nồng nhiệt nhất cho Năm Mới vừa bắt đầu. Chúng ta hãy phục hồi quyết tâm mở rộng trí khôn và tâm hồn cho Đức Kitô, để làm và sống như bạn hữu chân chính của Người. Sự đồng hành của Người sẽ biến năm nay là thành một con đường đầy tràn niềm vui và an bình, dù vẫn có những khó khăn không thể tránh được của nó. Thật ra, chỉ khi nào chúng ta tiếp tục kết hợp với Chúa Giêsu thì Năm Mới sẽ thật sự là một năm tốt lành và hạnh phúc.

Dấn thân sống kết hiệp với Đức Kitô là mẫu gương mà thánh Phaolô để lại cho chúng ta. Tiếp tục những bài Giáo Lý dành cho Thánh Nhân, hôm nay chúng ta dừng lại để suy niệm về một khía cạnh quan trọng trong tư tưởng của ngài, việc phụng tự mà các Kitô hữu được mời gọi hiến dâng. Trong quá khứ chúng ta hay nói về  khuynh hướng chống-phụng-tự của Thánh Tông Đồ, về việc “tâm linh hóa” tư tưởng phụng tự. Ngày nay chúng ta tốt hơn là hiểu rằng Thánh Phaolô nhìn thấy nơi Thập Giá của Đức Kitô một khúc quanh lịch sử, là khúc quanh biến đổi và canh tân tận gốc thực tại của việc phụng tự. Trên hết, có ba đoạn từ Thư gửi tín hữu Rôma mà trong đó nhãn quan mới về phụng tự này được trình bày.

1. Trong Roma 3:25, sau khi nói về “ơn cứu độ do Đức Chúa Kitô Giêsu đem lại”, Thánh Phaolô nói tiếp về một công thức bí nhiệm đối với chúng ta” khi ngài nói: “Thiên Chúa đã định cho Người [Chúa Giêsu] như [công cụ] đền tội, qua đức tin, bằng máu của Người”. Qua cách diễn tả có vẻ rất xa lạ đối với chúng ta  -- “công cụ đền tội” – Thánh Phaolô ám chỉ điều mà người ta gọi là bàn xá tội, tức là cái nắp đậy trên hòm bia giao ước; nắp ấy được coi như điểm tiếp xúc giữa Thiên Chúa và loài người, vì nắp Hòm Bia diễn tả sự hiện diện bí nhiệm của Thiên Chúa trong thế giới loài người. “Bàn xá tội” này, trong ngày đại lễ Xá Tội -- Yom Kippur -- được rảy bằng máu của thú vật sát tế, là máu mang cách tượng trưng những tội lỗi của năm trước đến tiếp xúc với Thiên Chúa, và như thế các tội ấy được ném vào vực thẳm lòng nhân từ của Thiên Chúa và được sức mạnh của Thiên Chúa thu hút, thắng vượt và tha thứ. Như vậy cuộc đời đươc làm lại từ đầu.

Thánh Phaolô nhắc đến nghi lễ ấy và nói rằng: Nghi lễ này diễn tả ước mong là tất cả các lỗi lầm của chúng ta thực sự được ném vào vực thẳm của lòng xót thương của Thiên Chúa, và như thế chúng biến mất. Nhưng với máu của loài vật, tiến trình đó không được nên trọn. cần phải có một sự tiếp xúc thực tế hơn giữa lỗi lầm của con người và tình yêu của Thiên Chúa. Sư tiếp xúc này đã xảy ra nơi Thập Giá của Đức Kitô. Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã trở nên người thật, đã tự mình gánh lấy tất cả mọi tội lỗi của chúng ta. Chính Người là điểm tiếp xúc giữa sự khốn cùng của loài người và lòng xót thương của Thiên Chúa; trong trái tim Người, toàn khối các sự dữ đau buồn mà nhân loại đã tạo ra được phai nhạt và sự sống được canh tân.

Khi bày tỏ sư thay đổi này, Thánh Phaolô bảo chúng ta: Với Thánh Giá của Đức Kitiô -- cử chỉ tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa, được biến đổi thành tình yêu nhân loại --  việc hiến tế các loài vật theo kiểu cũ trong đền thờ Giêrusalem đã chấm dứt. Cách thờ phượng tượng trưng này, thờ phượng bằng lòng muốn, giờ đây đã được thay thế bằng một cách thờ phượng chân chính: là tình yêu của Thiên Chúa Nhập Thể trong Đức Kitô, được thi hành đến trọn vẹn trong cái chết trên Thập Giá. Cho nên, đây không phải là tâm linh hóa việc phụng tự thật, mà trái lại, là sự thờ phượng đích thực, tình yêu thật của Thiên Chúa-loài người, thay thế việc thờ phượng tượng trưng và  tạm thời. Thánh Giá của Đức Kitô, tình yêu bằng xương thịt và máu huyết của Người, là việc thờ phượng thật, theo thực thể của Thiên Chúa và loài người. Ngay trước khi đền thờ bị phá hủy bề ngoài, đối với Thánh Phaolô, thời đại của đền thờ và việc thờ phượng ở đó đã chấm dứt: Chúng ta tìm  thấy ở đây là Thánh Phaolô hoàn toàn đồng ý với những lời của Chúa Giêsu, Đấng đã công bố sự chấm dứt của đền thờ  và công bố về một đền thờ khác “không do bàn tay người phàm làm ra” -- đền thờ của Thân Xác Phục Sinh của Người (x. Mc 14,58; Ga 2,19 tt.). Đó là đoạn thứ nhất.

2. Đoạn thứ nhì về phụng tự mà Cha muốn nói đến hôm nay được tìm thấy ở câu đầu tiên của chương 12 trong thư gửi tín hữu Roma. Chúng ta đã nghe câu này và cha xin lặp lại một lần nữa: “Cho nên, tôi van nài anh em, vì lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy hiến dâng thân xác anh em như một hy lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.  Ðó là cách thờ phượng thiêng liêng của anh em.” (12,1).

Trong những lời này, một điều xem ra mâu thuẫn được thực hiện: Trong khi việc hiến tế thường đòi buộc lễ vật phải chết, còn Thánh Phaolô thì nói đến sự sống của các Kitô hữu. Câu nói “dâng hiến thân xác anh em” được kết hợp với quan niệm về hy tế đi theo sau đó,  một việc phụng tự có sắc thái của việc “cho đi trong của lễ, việc hiến dâng”. Lời khuyên “hãy hiến dâng thân xác anh em” ám chỉ toàn thể con người. Thực ra, trong Rôma 6:13, Thánh Phaolô đưa ra lời mời gọi “hãy hiến mình anh em cho Thiên Chúa.” Còn những câu còn lại, việc nhắc đến một cách dứt khoát những chiều kích thể lý của Kitô hữu trùng hợp với lời mời gọi “tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:20 ). Đó là việc tôn vinh Thiên Chúa trong cuộc sống thường nhật cụ thể nhất, bằng một sự rõ ràng có thể liên hệ và cảm nhận được.

Cách sống theo kiểu này được Thánh Phaolô coi là “hy lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Chính ở đây chúng ta tìm thấy từ “hy lễ.” Theo cách sử dụng thông thường, từ này làm thành một phần nội dung thánh và  được dùng để chỉ việc cắt cổ một con vật, mà một phần của nó được đốt để kính các thần minh và phần kia được những người dâng của lễ dùng trong bữa tiệc. Thay vào việc ấy, Thánh Phaolô áp dụng nó vào đời sống của Kitô hữu. Thực ra ngài xắp loại hy lễ như thế bằng cách dùng ba tĩnh từ. Tĩnh từ thứ nhất là – “sống động” - để diễn tả một sức sống. Tĩnh từ thứ nhì là – “thánh thiện” -- nhắc lại quan niệm về sự thánh thiện của Thánh Phaolô là quan niệm không liên quan đến nơi chốn hay đồ vật, nhưng với chính con người của Kitô hữu. Tĩnh từ thứ ba – “đẹp lòng Thiên Chúa” – có thể là nhắc đến cách diễn tả về mùi thơm tho của lễ vật (x. Lêvi 1:13 , 17; 23:18 ; 26:31, vv…).

Ngay sau đó, Thánh Phaolô định nghĩa cách sống mới này: đây là “cách thờ phượng thiêng liêng của anh em”. Việc dịch cụm từ Hy Lạp (tēn logikēn latreían) không phải dễ dàng. Tiếng La Tinh dịch la “rationabile obsequium [cách thờ phượng hợp lý]”. Cùng một chữ “rationabile” được thấy trong Kinh Nguyện Thánh Thể, Nghi Lễ Rôma: Trong đó chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa chấp nhận của lễ này như “phải đạo”. Truyền thống dịch thuật tiếng Ý dịch là “việc thờ phượng thiêng liêng” [một hiến lễ trong tinh thấn], không phản ảnh tất cả những chi tiết của bản văn Hy Lạp, và ngay cả bản văn La Tinh. Dù trong trường hợp nào đi nữa thì đó không phải là việc thiếu thờ phượng chân chính hoặc chỉ là một việc thờ phượng ẩn dụ, nhưng là một việc thờ phượng cụ thể và thực tế hơn, một việc thờ phượng mà trong đó chính con người, trong toàn thể con người của mình, như một người có lý trí, được biến đổi thành sự thờ phượng và vinh danh Thiên Chúa hằng sống.

Công thức của Thánh Phaolô lại xuất hiện một lần nữa trong Kinh Nguyện Thánh Thể Rôma,  là kết qủa của một sự phát triển lâu dài của kinh nghiệm tôn giáo trong các kỷ nguyên trước Đức Kitô. Trong kinh nghiệm này, chúng ta tìm thấy những phát triển thần học của Cựu Ước và các trào lưu tư tưởng Hy Lạp. Cha xin đan cử ít ra là một vài yếu tố điển hình của sự phát triển này. Các ngôn sứ và nhiều Thánh Vịnh đã mạnh mẽ phê bình các hiến tế đổ máu trong đền thờ. Thí dụ Thánh Vịnh 50 (49), trong đó chinh Thiên Chúa là Đấng đã phán rằng: “Ta mà đói, Ta đâu cần nói ngươi hay, vì trái đất với mọi loài, chính Ta làm chủ. Thịt bò là thức Ta ăn sao? Máu chiên là đồ Ta uống ư? Hãy tiến dâng Thiên Chúa lời tạ ơn làm hy lễ của ngươi” (Câu 12-14).

Trong cùng một ý nghĩa ấy, Thánh Vịnh 51 (50) sau đó nói, “…Vì Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm; con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê, một tấm lòng khiêm cung” (Câu 18 trở đi).

Trong Sách Đaniel, vào thời kỳ đền thờ bị phá hủy trong tay chế độ Hy Lạp (Thế kỷ thứ 2 B.C.), chúng ta thấy những bước mới đi theo cùng một hướng. Giữa đám lửa – đó là bách hại và đau khổ -- Adaria cầu nguyện thế này: “Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương. Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt. Ước gì hy lễ chúng con thượng tiến Ngài hôm nay cũng làm đẹp ý Ngài như vậy. Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng.” (Dan 3:28tt).

Trong việc đền thánh và việc phụng tự bị phá hủy, trong hoàn cảnh bị tước đoạt mọi dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa, các tín hữu dâng hiến như của lễ toàn thiêu chân chính một tâm hồn thống hối, một ước ao về Thiên Chúa.

Chúng ta thấy một sự phát triển quan trọng, đẹp đẽ, nhưng vớì một nguy hiểm. Có một sự tinh thần hóa và luân lý hóa việc phụng tự: Phụng tự trở nên một điều gì chỉ thuộc về con tim và tinh thần. Nhưng thiếu thể xác và cộng đoàn. Như chúng ta hiểu rằng thánh vịnh 50 và Sách Daniel chẳng hạn, tuy có phê bình việc phụng tự, vẫn muốn trở về thời kỳ của việc hiến tế. Nhưng đó là thời canh tân, trong một tổng hợp chưa được nhìn thấy, mà cũng chưa ai nghĩ đến.

Chúng ta hãy trở lại với Thánh Phaolô, là người thừa hưởng các phát triển này của ước muốn phụng tự đích thực, mà trong đó chính con người trở thành vinh quang của Thiên Chúa, việc thờ phượng sống động với tất cả con người của mình. Theo nghĩa này, ngài nói với tín hữu Rôma: “Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em như một của lễ sống động, … việc thờ phượng thiêng liêng của anh em” (Rom 12:1).

Như thế, Thánh Phaolô lập lại những điều ngài đã nói đến ở chương 3: Thời của các hiến tế bằng loài vật, hiến tế thay thế, đã chấm dứt. Thời của việc phụng tự đích thực đã đến. Nhưng ở đây cũng có nguy cơ gây ra một sự hiểu lầm: Việc phụng tự mới này có thể dễ dàng bị người ta giải theo nghĩa luân lý – qua việc dâng hiến đời sống mình chúng ta làm thành việc phụng tự đích thực. Bằng cách này, việc phụg tự bằng [việc hiến tế] súc vật được thay thế bằng việc sống theo luân lý: Mọi người sẽ tự mình làm mọi sự dựa vào sức mạnh luân lý của mình. Và đây chắc chắn không phải là mục đích của thánh Phaolô.

Nhưng vấn đề vẫn còn là: Vậy thì chúng ta phải giải thích “phụng tự thiêng liêng cách hợp lý” này như thế nào? Thánh Phaolô luôn luôn giả thiết rằng chúng ta trở nên “một trong Đức Chúa Kitô Giêsu” (Gi 3:28 ), rằng chúng ta đã chết trong bí tích Thánh Tẩy (Rom 1) và giờ đây sống với Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô. Qua sự kết hiệp này, trong Người và với Người, chúng ta có thể trở thành một “của lễ sống động” và dâng lên một “phụng tự đích thực”. Súc vật được hiến tế đáng lẽ phải thay thế con người, sự tự hiến của con người, nhưng chúng không thể thay thế được. Đức Chúa Giêsu Kitô, trong việc hiến mình cho Thiên Chúa Cha và cho chúng ta, cũng không phải là một sự thay thế, nhưng thay vào đó, Người đã đem theo trong Người con người nhân loại, các tội lỗi của chúng ta và ao ước của chúng ta; Người thật sự đại diện cho chúng ta và mang lấy chúng ta trong Chính Người. Trong sự kết hợp với Đức Kitô, được hiện thực trong Đức Tin và trong các bí tích, chúng ta, dù còn khuyết điểm, được biến đổi thành hy lễ sống động: “Việc phụng tự đích thực” được hoàn thành.

Cách tổng hợp này được tìm thấy ở cuối Nghi Lễ Rôma mà trong đó chúng ta cầu xin cho của lễ này được “phải đạo” để việc thờ phượng thiêng liêng đuợc thể hiện. Hội Thánh biết rằng trong bí tích Thánh Thể rất thánh, sự tự hiến của Đức Kitô, hiến tế thật của Người, được làm cho hiện diện. Nhưng Hội Thánh cầu xin để cho cộng đoàn cử hành được thực sự kết hợp với Đức Kitô, được biến đổi. Hội Thánh cầu nguyện để chính chúng ta được trở thành điều mà chúng ta không thể trở thánh bằng những cố gằng riêng của mình: hiến lễ “hợp lý” đẹp lòng Thiên Chúa. Bằng cách này Kinh Nguyện Thánh Thể giải thích một cách đầy đủ những lời của Thánh Phaolô.

Thánh Agustinô đã làm sáng tỏ tất cả những điều này một cách kỳ diệu trong cuốn sách thứ 10 của tác phẩm ”Thành của Thiên Chúa” của ngài. Cha chỉ xin đan cử hai câu: “Đây là hiến lễ của các Kitô hữu: tuy nhiều nhưng chúng ta chỉ là một thân thể duy nhất của Đức Kitô.”... “Toàn cộng đoàn được cứu độ, cộng đoàn và xã hội của các thánh, đang dâng lên Thiên Chúa qua vị Thượng Tế, là Đấng đã tự hiến mình” (10,6; CCL 47,27 tt.).

3. Sau cùng, cha muốn để lại một suy niệm ngắn về đoạn thứ ba trong Thư gửi tín hữu Rôma, nói vể cách phụng tự mới. Thánh Phaolô nó thế này trong chương 15: “ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm một thừa tác viên của Ðức Giêsu Kitô giữa các Dân Ngoại trong chức vụ là tư tế của Tin Mừng của Thiên Chúa để của lễ của các Dân Ngoại được thánh hoá bởi Chúa Thánh Thần trở nên đẹp lòng Thiên Chúa” (15:15tt.).

Cha chỉ muốn nhấn mạnh hai bình diện của bản văn tuyệt diệu này và một bình diện của ngữ thuật độc đáo trong các thư Thánh Phaolô. Trước tất cả những người khác, Thánh Phaolô giải thích công việc truyền giáo của ngài giữa các dân trên thế giới để xây dựng Hội Thánh Hoàn Vũ, như là một hành động tư tế. Loan báo Tin Mừng để kết hợp các dân tộc trong sự hiệp thông với Đức Kitô Phục Sinh là một hành động “tư tế”. Vị tông đồ của Tin Mừng là một tư tế đích thực, làm điều nằm ở tâm điểm của chức vụ tư tế là chuẩn bị hy lễ đích thực.

Và bình diện thứ nhì: mục đích của hoạt động truyền giáo là -- chúng ta có thể nói cách này -- phụng tự vũ trụ: các dân kết hợp với Đức Kitô, thế giới như thế trở thành vinh danh Thiên Chúa, “của lễ thơm tho, được thánh hóa trong Chúa Thánh Thần”. Ở đây lại xuất hiện một bình diện có sức năng động, bình diện hy vọng trong quan niệm của Thánh Phaolô về phụng tự: Sự tự hiến của Đức Kitô ám chỉ sức lôi cuốn tất cả mọi người vào sự hiệp thông trong Thân Thể của Người, để kết hợp thế giới lại. Chỉ trong sự hiệp thông với Đức Kitô, Con Người gương mẫu, làm một với Thiên Chúa, thế giới mới trở nên như mọi người chúng ta mong ước: là một tấm gương phản ánh tình yêu Thiên Chúa. Động năng này luôn hiện diện trong bí tích Thánh Thể[1]; động năng này phải gợi hứng và uốn nắn cuộc đời chúng ta. Và với động năng này chúng ta mở đầu năm mới. Cám ơn anh chị em đã kiên nhẫn lắng nghe.


[1] Bản tiếng Anh của Zenit.org dịch là Thánh Kinh, trong khi bản tiếng Ý và tiếng Pháp viết là Thánh Thể.

 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:25 10/01/2009
TÍN NGƯỠNG

N2T


Sư phụ dẫn lời nói của A-rít-tốt để dạy đệ tử: “Trong khi đi tìm chân lý, nghĩa vụ đầu tiên là phải từ bỏ tất cả những gì mà mình đã thành thạo.” Ông ta đem hai chữ “chân lý” đổi thành hai chữ “Thiên Chúa”.

Không lâu sau đó, một đệ tử bẩm cáo với sư phụ: “Vì để đi tìm Thiên Chúa, con đã quyết định từ bỏ tất cả: tiền tài, bạn bè, gia đình, thậm chí hy sinh mạng sống cũng không tiếc nuối, ngoài những việc ấy ra, thì một cá nhân còn có thể từ bỏ những gì nữa ?”

Sư phụ bình tĩnh trả lời: “Anh ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa.”

Người đệ tử ấy buồn rầu bỏ đi. Vì anh ta cần phải tin tưởng, anh ta sợ ngu dốt hơn cả sự chết.

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Từ bỏ tất cả để đi tìm Thiên Chúa, đó là người khôn ngoan, bởi vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên vũ trụ, có Ngài là có tất cả, kể cả sự sống vĩnh hằng mai sau trên thiên đàng.

Những người dâng mình làm tôi Chúa đã từ bỏ tất cả: tiền tài, danh vọng, cha mẹ, anh em chị em.v.v...để đi theo làm môn đệ của Chúa Giê-su, sự tù bỏ này sẽ được đền bù xứng đáng ngay khi còn ở đời này và nhất là đời sau.

Có những người sợ ngu dốt hơn cả sự chết, hơn cả sự tin tưởng vào Thiên Chúa, cho nên dù họ đã từ bỏ tất cả rồi, nhưng khi đã đạt mục đích rồi thì vì sợ “ngu dốt” nên đấu tranh với bề trên để được đi học với lý do là học cho cộng đoàn, học để giúp cộng đoàn; lại có người đã từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng vẫn cứ bon chen kiếm tiền kiếm bạc nơi người hảo tâm này người tốt bụng kia, với lý do là giúp người này giúp người nọ...

Đã từ bỏ tất cả mà chưa hoặc không từ bỏ chính lòng tham sân si của mình, thì càng tệ hại hơn khi chưa từ bỏ. Tại sao vậy ? Thưa tại vì họ không tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:27 10/01/2009
N2T


63. Thánh đức không để ý đến tư tưởng có kỳ diệu, nói lời kỳ diệu, hoặc là tâm tình có phát ra cảm giác kỳ diệu hay không.

(Thánh Terese of Lisieux)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:28 10/01/2009
N2T


8. Một cái bánh do nổ lực mà có được, so với ăn một bàn tiệc kế thừa thì vẫn nhiều hơn.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Hoa Kỳ tha thiết xin giúp đỡ tại Gaza
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
01:42 10/01/2009
Bạo lực không thể đem lại công lý và hòa bình

WASHINGTON, D.C (Zenit.org).- Chủ tịch Ủy Ban các giám mục Hoa Kỳ về Công Lý và Hòa Bình Quốc tế kêu gọi gởi một đại diện Hoa Kỳ cao cấp tới Trung Đ6ng hầu giúp thương thuyết hoà bình giữa Israel và Hamas.

Lời kêu gọi này được Giám Mục Hosward Hubbard tại Albany, New York, gởi trong bức thư đến Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, bà Condolezza Rice.

“Những cuộc tấn công tên lửa chống Israel phải chấm dứt, và những cuộc tấn công của lực lượng vũ trang Israel trên dãi Gaza phải đình chỉ,” giám mục đã viết. “Hội Đồng Giám Mục chúng tôi tin rằng cần nhiều hơn những lời nói. Chúng tôi xin ngài thuyết phục tổng thống gởi một đại diện cá nhân cao cấp tới ngay vùng này để giúp thương thuyết một cuộc đình chiến và chuẩn bị đồ cung cấp cho việc giúp đỡ nhân đạo đối với dân chúng Gaza.”

Hôm nay, vì trận chiến tiếp tục sang ngày thứ sáu tại Trung Đông, hơn 400 người Gaza đã bị giết.

“Sự thiệt hại do những cái chết và đau khổ con người, những tác dụng tiêu cực về sự phát triển trong những cuộc thương thuyết hoà bình và những rủi ro của chiến tranh mở rộng, gây ra do sự leo thang bạo lực này không thể được phép tiếp tục,” Giám Mục Hubbard đã khuyên. “Đức Thánh Cha chúng ta, Giáo Hoàng Biển Đức XVI, đã kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp dân Israel và Palestine thải bỏ ‘mục đích chết’ của bạo lực và ngược lại theo đuổi ‘con đường đối thoại và thương thuyết.’ Sự lãnh đạo trực tiếp, rõ ràng và quyết định của Hoa Kỳ là cần thiết khẩn trương.”

Vị giám chức đã than phiền rằng lúc mà sự chú ý của những Kitô hữu “tự nhiên hướng về nơi sinh của Hoàng Tử Hoà Bình, thì điều thê thảm là những công dân vô tội một lần nữa lại là những nạn nhân của vụ xung đột vũ trang và của một cơn khủng hoảng vô nhân đạo.”

“Một cuộc ngưng bắn và một sự cứu viện nhân đạo là những bước đầu cần thiết trên con đường tới một giải pháp hai quốc gia--một sự sống Israel bảo đảm trong hoà bình và một quốc gia Palestine có thể thực hiện được,” ngài đã kết thúc.

LỜI KÊU GỌI ĐẠI KẾT

Đang khi đó, từ Ireland, Đức Hồng Y Sean Brady, tổng giám mục Armagh, chung tiếng nói của ngài với tiếng nói của bên tương ứng của ngài từ Giáo Hội Ireland, Alan Harper.

Trong một tuyên ngôn ngày 30/12, các lãnh đạo tôn giáo chung cùng bày tỏ “sự phiền não và sự quan tâm sâu xa của các ngài đối với những nạn nhân vô tội.”

Các ngài nói rằng sau một cuộc thăm viếng Đất Thánh đầu năm 2007 với tư cách” những người hành hương chung vì hoà bình,” các ngài “đã theo dõi thảm kịch bộc lộ Gaza. Chúng tôi đã kêu gọi các thẩm quyền cả hai phía Israel và Gaza tức khắc ngừng chiến đấu và rút lui, và chấm dứt tất cả hận thù hầu có khả năng thương thuyết một cuộc ngưng bắng vĩnh viễn. Chỉ khi nào bạo lực châm dứt thì mới có thể thương thuyết một hoà bình bền vững.”

Các lãnh đạo Kitô giáo đã kêu gọi “tất cả dân đức tin phải cầu nguyện cho mọi người mắc kẹt trong vụ xung đột.”

Và, các ngài nói thêm, “Chúng tôi cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế và cách riêng Hiệp-Chúng-Quốc và Liên Hiệp châu Âu sử dụng tối đa ảnh hưởng để chấm dứt tất cả bạo lực tức thì, và tạo nên những điều kiện sẽ dẫn tới một nền hoà bình chính đáng cho người Palestine cũng như ngưòi Israel.”
 
Các trẻ em có quyền được sống an toàn.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
01:48 10/01/2009
Đức Giáo Hoàng tiếp tục khẩn thiết xin chấm dứt xung đột tại Gaza

VATICAN (Zenit. Org).- Đức Biển Đức XVI XVI đã kêu gọi bảo vệ các em nhỏ, cách riêng những em “bị chối từ một tuổi bé thơ yên tỉnh,” trong một ngày lễ mà tại nhiều quốc gia người ta tưởng nhớ những thành phần trẻ nhất trong xã hội.

Đức Giáo Hoàng đưa ra lời kêu gọi của ngài khi đọc Kinh Truyền Tin với hàng ngàn người qui tụ trong Quảng trường Thánh Phêrô ngày Lễ Chúa Hiển Linh. Đức Thánh Cha đã kêu xin cách riêng với các nhóm vũ trang phóng thích các em nhỏ bị bắt buộc làm lính chiến.

“Tôi kêu gọi những người gây ra hành động tàn bạo vô nhân thả các em nhỏ này về cho các gia đình của các em và cho các em một tương lai an toàn và phát triển,” Đức Thánh Cha đã nói.

Đức Thánh Cha đã nói những hành vi như thế “còn đáng trách hơn vì trong năm 2009 sẽ cử hành kỷ niệm thứ 20 Công Ước về những Quyền của Trẻ em.

Sau khi chào Giáo Hội Phương Đông, theo niên lịch Julian và sẽ cử hành lễ Giáng Sinh ngày thứ Tư, Đức Biển Đức XVI hướng sự chú ý của ngài tới vụ xung đột đang tiếp diễn tại Trung Đông.

“Tôi ưu phiền sâu sắc về những sự đối mặt vũ trang bạo lực đang diễn tiến trong bờ cõi Gaza,” ngài nói.

Đức Giáo Hoàng đã khẳng định rằng “việc loại bỏ đối thoại không mang lại gì khác hơn là chiến tranh,” và ngài cổ võ những cố gắng “giúp đỡ các người Israel và Palestines ngồi xuống bàn và nói chuyện với nhau.”

“Xin Thiên Chúa ủng hộ sự dấn thân của những kẻ kiến tạo hoà bình,” ngài nói thêm

Những cố gắng quốc tế đang tiến hành đề nghị một sự ngưng bắn giữa Israel và các chiến binh Hồi Giáo Hamas. Vụ xung đột 11 ngày đã đưa tới hậu quả là 600 người chết.
 
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI Giải Thích Thờ phụng cách chân thật.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
01:56 10/01/2009
Ngài nghiên cứu quan niệm Phaolô về sự ngợi khen Thiên Chúa

VATICAN (Zenit.org).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói chỉ trong sự hiệp thông với Chúa Kitô mà các Kitô hữu có thể dâng lên Thiên Chúa sự thờ phụng thật.

Đức Giáo Hoàng đã giải thích sự này hôm nay trong buổi tiếp kiến chung đầu tiên của năm 2009, trong đó ngài đã tóm kết bài giáo lý của ngài về Thánh Phaolô.

Tuy bị khàn tiếng sau những chương trình diễn giảng rộng lớn trong mùa lễ Giáng Sinh, Đức Thánh Cha đã cống hiến một bài giải thích dài về quan niệm “sự thờ phụng đích thực” của Thánh Phaolô, như đã được trình bày trong ba đoạn Thơ gởi cho các tín hữu Roma.

Trước hết khi đề cập tới một qui chiếu Phaolô thực hiện về một nghi lễ trong Cựu Ước, Đức Thánh Cha đã ghi nhận sự sát tế các thú vật như sự đền đáp cho các tội lỗi con người thí không bao giờ là đủ.

“Một sự tiếp xúc thật hơn giữa tội lỗi con người và tình yêu của Chúa đã là cần thiết, “ ngài nói. “Sự tiếp xúc này được thể hiện với thánh giá của Chúa Kitô. Chúa kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã trở nên người thật, đã gánh lấy trong chính mình tất cả tội lỗi chúng ta. Chính Người là nơi tiếp xúc giữa sự khốn khổ loài người và lòng thuơng xót của Chúa; trong con tim của Người, số lớn buồn bã sự dữ do nhân loại thực hiện được tháo mở, và sự sống được đổi mới.”

Thánh Phaolô nói về sự thay đổi cơ bản này trong sự thờ phượng, khi giải thích rằng “với thánh giá Chúa kitô—hành vi tối cao của tình yêu Thiên Chúa, đổi thành tình yêu nhân bản--sự thờ phượng cũ xưa với sự sát tế các con vật trong đền thờ Jerusalem đã chấm dứt. Sự thờ phượng biểu tượng này, sự thờ phượng của lòng ao ước, bây giờ được thay thế bằng sự thờ phượng đích thực: tình yêu của Thiên Chúa nhập thể trong Chúa Kitô và đã được đưa tới chỗ hoàn thiện trong sự chết trên thánh giá.”

“Do đó, sự này không phải là một sự thiêng liêng hóa của sự thờ phụng thật, nhưng ngược lại, đó là sự thờ phụng thật, tình yêu thần linh-nhân bản thật, thay thế sự thờ phượng biểu tượng và tạm thời.”

Tuy nhiên, sự thờ phụng thiêng liêng này có một tiên quyết, Đức Giám Mục thành Roma đã giải thích, và đó là sự hiệp nhất với Chúa Kitô.

“Phaolô luôn luôn giả thiết rằng chúng ta đã nên ‘một trong Chúa Ktiô Giêsu,’ chúng ta đã chết trong bí ích rửa tội và bây giờ chúng ta sống với Chúa Kitô, qua Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Trong sự hiệp nhất—và duy nhất trong cách này—chúng ta có thể nên một ‘hy lễ sống động’ trong Người và với Người, hầu dâng lên một sự thờ phụng thật.’”

Đức Biển Đức XVI đã khẳng định bằng cách mặc lấy bản tánh nhân loại, Chúa kitô có khả năng làm cho con nguời điều mà các con vật hiến tế không thể làm,.

“Các con vật hiến tế đáng lý đã thay thế con người, quà tặng bản thân của con người, và chúng không thể. Chúa Giêsu Kitô, trong sự người phú mình cho Cha và cho chúng ta, không phải là một sự thay thế, nhưng đúng hơn thật sự kéo theo trong Người hữu thể nhân bản, những tội lỗi và những ý muốn chúng ta; Người thật sự biểu hiện chúng ta, Ngài thừa nhận chúng ta trong chính Ngưòi.

“Trong sự hiệp thông với Chúa Kitô, được hoàn thành trong đức tin và trong các bí tích, chúng ta biến đổi, mặc dầu những nhược điểm chúng ta, thành hy lễ sống động: ‘Sự thờ phụng thật’ đã hoàn thành.”
 
Các nhóm cứu trợ yêu cầu xem xét các vi phạm nhân quyền tại Gaza
Bùi Hữu Thư
01:58 10/01/2009

Các nhóm cứu trợ yêu cầu xem xét các vi phạm nhân quyền tại Gaza



Liên Hiệp Quốc ngưng cứu trợ sang ngày thứ hai

Binh sĩ Do Thái bắn lựu đan cay vào các nhóm ủng hộ Hamas tại Hebron
GENEVA, Thụy Sĩ ngày 9 tháng 1, 2009
(Zenit.org).- Một tổ hợp các nhóm Công Giáo đang yêu cầu Liên Hiệp Quốc điều tra các vi phạm quốc tế công pháp bởi cả hai bên, Do Thái và Palétin đang tham chiến tại Gaza.

Trong một tuyên cáo của Cơ Quan Bác Ái Quốc Tế (Caritas Internationalis) hôm nay, cơ quan cứu trợ báo cáo điều này cùng với Các Tu sĩ Đa Minh cho Công Lý và Hòa Bình (Dominicans for Justice and Peace), Tổ chức Thanh Sinh Công Xây Dựng Hòa Bình, và Pax Romana, họ viết cho Uỷ Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc kêu gọi một cuộc điều tra.

Bản tuyên cáo chung yêu cầu tất cả mọi thành phần phải bảo vệ cho đời sống của dân chúng và tuân hành luật quốc tế về nhân bản và nhân quyền.

Linh Mục Robert Vitillo, lãnh đạo phái đoàn Bác Ái Quốc Tế tại Genève nói, "Chúng tôi đang kêu gọi Uỷ Ban Nhân Quyền điều tra và xem xét các vi phạm nhân quyền và hoàn cảnh con người tại Gaza và Do Thái. Chúng tôi kêu gọi Do Thái chấm dứt các vụ trừng phạt tập thể không phân biệt dân chúng tại Gaza và ngưng việc sử dụng quá mức các vũ khí. Chúng tôi cũng yêu cầu Hamas chấm dứt các vụ tấn công dân chúng bên Do Thái bằng hỏa tiễn."

Họ cũng yêu cầu sự hợp tác quốc tế để đảm bảo việc bảo vệ dân chúng tại Gaza và Do Thái, nhất là những người yếu đuối nhất, theo quốc tế công pháp.

Các tổ chức Công Giáo, cũng như chính Liên Hiệp Quốc đang kêu gọi một cuộc ngưng chiến tức khắc để có thể đưa các vật liệu cứu trợ vào Gaza và bảo vệ đời sống con người. Liên Hiệp Quốc đã ngưng việc cứu trợ sang ngày thứ hai vì vấn đề an ninh sau khi một tài xế xe vận tải bị thương vong vì hỏa lực của Do Thái.
 
Bài huấn dụ lễ Hiển Linh của Đức Giáo Hoàng
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
02:05 10/01/2009
Chúa Giêsu đến thế gian với sự khiêm tốn vĩ đại và trong bí mật.

VATICAN (Zenit.org).- Bài huấn đức Đức Biển Đức XVI trình bày hôm nay, lễ Hiển Linh của Chúa, trước khi đọc Truyền Tin với những người qui tụ trong Quảng Trường Thánh Phêrô.

* * *

Anh Chị Em thân mến:

Hôm nay chúng ta cử hành Lễ Trọng Hiển Linh, “sự tỏ mình “của Đức Chúa. Bài Tin Mừng tường thuật Chúa Giêsu đã đến thế gian với sự khiêm tốn vĩ đại và trong bí mật. Tuy nhiên, Thánh Matthêu qui chiếu về sự tới của các hiền sĩ, đến từ phương Đông, được một ngôi sao hướng dẫn, để bái lạy vị vua Do Thái mới sinh. Mỗi khi tôi nghe tường thuật này, tôi bị ám ảnh bởi sự đối nghịch rõ ràng một mặt giữa thái độ các Hiền Sĩ, mặt khác thái độ của Hêrôđê và của những người Do Thái.

Bài Tin Mừng nói rằng, khi nghe những lời các Hiền Sĩ, Vua Hêrôđê […] rất bối rối, và cả thành Gierusalem cũng xôn xao (Nt 2:3). Phản ứng này có thể được hiểu nhiếu cách: Hêrôđê bối rối vì ông thấy trong Đấng mà các Hiền Sĩ tìm kiếm là một đối thủ với ông và các con ông.

Các thẩm quyền và dân cư thành Jerusalem, tuy nhiên, xem ra kinh ngạc hơn điều gì khác, dường như họ thức dậy từ một trạng thái hôn mê và cần thời gian để suy nghĩ. Isaiah, trên thực tế đã loan báo: ‘Vì một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta; Người gánh vác quyền bính trên vai. Danh hiệu của Người là: Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh Dũng Mảnh, người Cha Muôn Thuở, Thủ Lãnh Hoà Bình.” (Is.9:5)

Vậy thì, tại sao Jerusalem trở nên ưu tư? Xem ra tác giả Tin Mừng muốn nói trước lập trường mà các thượng tế và Thượng Hội đồng sẽ có, cũng như lập trường của dân chúng, đối với Chúa Giêsu trong đời sống công khai của Người. Chắc chắn, điều này nêu cao sự kiện là sự biết Kinh Thánh và những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế không giúp mọi người mở lòng đón Chúa và lời của Người. Chúa Kitô nhắc tới sự này, khi Người than khóc thành Giêrusalem bởi vì nó không nhận biết thời giờ được Thiên Chúa viếng thăm (x.Lc 19-44).

Ở đây chúng ta chạm tới một trong những điểm quan trọng của thần học lịch sử: thảm cảnh tình yêu trung thành của Thên Chúa trong con người Chúa Giêsu, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11).

Trong ánh sáng của toàn bộ Kinh Thánh, thái độ thù nghịch, mơ hồ hay là nông cạn này biểu lộ thái độ của mọi người và của “thế giới”—theo nghĩa thiêng liêng—khi họ khép kín mình cho mầu nhiệm Thiên Chúa thật, Đấng đến gặp chúng ta với sự hiền từ tình yêu làm nguôi giận. Chúa Giêsu, “Vua người Do Thái” (x. Ga 18:37), là Thiên Chúa thương xót và trung tín; Người muốn cai trị trong tình yêu và chân lý, và xin chúng ta cải thiện, từ bỏ những việc xấu xa và quyết chí theo con đường sự lành.

“Giêrusalem,” theo nghĩa này, là tất cả chúng ta. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đón tiếp Chúa Giêsu với đức tin, giúp chúng ta đừng khép kín lòng chúng ta cho Tin Mừng cứu rỗi của Người. Chúng ta hãy để chúng ta được chinh phục và biến đổi nhờ Người—Emmanuel (Chúa ở cùng chúng ta)-- hầu ban cho chúng ta hòa bình và tình yêu.

[sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Giáo Hoàng nói:]

Tôi xin gởi lời chào chân tình của tôi tới các anh chị em những Giáo Hội phương Đông, những người theo lịch Julian và sẽ cử hành lễ Giáng Sinh ngày mai. Xin cho sự kỷ niệm ngày sinh của Chúa Cứu Thế gây ra trong những tâm hồn anh chị em càng ngày càng thêm niềm vui vì được Thiên Chúa yêu thương. Việc nhớ những anh chị em chúng tôi trong đức tin đưa chúng tôi cách thiêng liêng tới Đất Thánh và vùng Tung Đông. Tôi ưu sầu sâu xa về những sự đối đầu vũ trang dữ dội đang diễn ra tại biên giới Gaza. Đang khi tôi khẳng định rằng hận thù và sự loại bỏ đối thoại không mang lại điều gì trừ chiến tranh, tôi muốn khuyến khich những sáng kiến và những cố gắng của những kẻ, vì yêu hoà bình, đang ra sức giúp những người Israel và Palestine ngồi xuống bàn và nói chuyện. Xin Thiên Chúa ủng hộ sự cam kết của những kẻ kiến tạo hoà bình!

Trong nhiều xứ, lễ Hiển Linh cũng là một cử hành của các trẻ em. Tôi nghĩ tới cách riêng tất cả các trẻ em, kho tàng và sự chúc phúc của thế giới, và hơn hết tất cả những em bị từ chối một tuổi thơ thanh thản. Tôi muốn sự chú ý, cách riêng tới tình huống của hàng trăm trẻ em và thanh thiếu niên mà, trong những tháng qua, gòm có lễ Giáng Sinh, đã bị bắt cóc bởi những băng cướp vũ trang, những kẻ đã tấn công những thành phố nhỏ trong tỉnh phía đông Nước Cộng Hoà Congo, đã gây nên nhiều nạn nhân và kẻ bị thương.

Tôi kêu gọi các tác giả của những hành động tàn bạo vô nhân trả những giới trẻ này về cho các gia đình các em và cho một tương lai an toàn và sự phát triển, là quyền lợi các em, cùng với những cư dân đáng yêu này. Tôi muốn bày tỏ đồng thời sự gần gũi thiêng liêng của tôi với các Giáo Hội địa phương, mà những thành viên và những công việc bị tổn thương, đang khi tôi khích lệ các mục tử và các tín hữu ở mạnh mẽ và vững bền trong hy vọng.

Những tình tiết bạo lực chống các em nhỏ, vô phúc cũng xảy ra trong những phần khác thế giới, càng đáng trách hơn vì trong năm 2009 sẽ cử hành kỷ niệm Công Ước Quyền Trẻ em: một cam kết mà cộng đồng quốc tế được kêu gọi đổi mới ngõ hầu có thể bào vệ và thăng tiến tuổi thơ khắp thế giới.

Xin Chúa giúp những kẻ làm việc hằng ngày để phục vụ những thế hệ mới—và họ là vô số--giúp họ nên những kẻ lãnh đạo tương lai. Hơn nữa, Ngày Truyền Giáo Thiếu Nhi, đưọc cử hành trong lễ Hiển Linh, là một cơ hội thuận tiện nhấn mạnh các em nhỏ và thanh thiếu niên tương lai có một vai trò quan trọng trong việc truyến bá Tin Mừng và trong những công việc liên đới với những kẻ đồng tuổi đang túng thiếu. Xin Chúa ân thưởng các em!

[Sau đó Đức Giáo Hoàng chào các người hành hương trong nhiều ngôn ngữ. Trong tiếng Anh, ngài nói:]

Tôi chào tất cả những khách tham quan nói tiếng Anh kết hợp với chúng tôi trong kinh Truyền Tin. Trong ngày lễ Hiển Linh, Giáo Hội cử hành sự tỏ minh của Chúa Kitô, Con Đời Đời của Cha, là sự sáng các quốc gia và là Đấng Cứu Thế toàn thể nhân loại. Mong sao tính chất huy hoàng vinh quang Đức Chúa tràn đầy anh chị em và các gia đình anh chị em bằng niềm vui thiêng liêng sâu sắc, và lôi kéo những người nam và nữ khắp nơi tới đức tin và sự sống mới trong Người!
 
Đức Giáo Hoàng: Bây giờ tương lai bị đe dọa hơn trong quá khứ nhưng không nên ngã lòng.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
02:23 10/01/2009
VATICAN (Zenit.org)- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ, nhưng chúng ta không nên ngã lòng nhưng đúng hơn, phải tăng gấp đôi sự dấn thân cho hoà bình.

Đức Giáo hoàng đã khẳng định điều này hôm nay 8/1 trong một diễn từ thường niên truyền thống trước các thành viên ngoại giao đoàn được ủy nhiệm bên cạnh Toà Thánh. Toà Thánh có những tương quan ngoại giao với 177 quốc gia. Trong bài diễn từ bằng tiếng Pháp của ngài, Đức Thánh Cha tiếp tục chủ đề sứ điệp của ngài phát hành ngày 1/1 Ngày Hoà Bình Thế Giới, xét về nhu cầu chiến thắng nạn khó nghèo hầu xây dựng hoà bình.

Trong một bài diễn từ đề cập một số lãnh vực khó giải quyết của hành tinh, Đức Thánh Cha trước hết đã bày tỏ lòng ưu ái của ngài cho nhiều trong số những kẻ đau khổ cách đặc biệt trong năm 2008 “hoặc như một hậu quả do những thiên tai trầm trọng, cách riêng tại Việt Nam, Miến Điện, Trung Hoa và Philippine, tại Trung Mỹ và vùng Caribbean, và tại Columbia và Brazil; hay là như một hậu quả do những vụ xung đột dữ dội quốc gia hay vùng; hay là như một hậu quả của những cuộc tấn công khủng bố đã gây chết chóc và phá hoại trong những xứ như Afghanistan, India, Pakistan và Algeria.”

“Dầu có rất nhiều cố gắng, hoà bình chúng ta ao ước vẫn còn xa,” ngài than phiền. “Đối mặt với thực tại này, chúng ta không nên ngã lòng hay là giảm bớt sự dấn thân của chúng ta cho một nền văn hoá hoà bình đích thực, nhưng đúng hơn tăng gấp đôi những cố gắng chúng ta vì an ninh và phát triển.”

Về phương diện này, Đức Biển Đức XVI bảo đảm rằng cuộc chạy đua vũ trang không phải là con đường tới hoà bình.

Ngài nói rằng “Toà Thánh đã tiếp tục tái khẳng định rằng hoà bình không thể được xây dựng khi những phí tổn quân sự đổi hướng những tài nguyên nhân bản và vật chất kếch sù từ những dự án phát triển, cách riêng sự phát triển của những dân tộc nghèo nhất.”

Hy vọng mới

Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng muốn xây dựng hoà bình, “chúng ta cần cho những người nghèo niềm hy vọng mới.”

Khi lưu ý đến các cá nhân và các gia đình bị áp bức nặng bởi nạn suy thoái kinh tế hiện nay, và cũng nhắc tới cơn khủng hoảng lương thực và tình trạng nóng địa cầu, ngài nói có một nhu cầu khẩn cấp chấp nhận một chiến lược hiệu nghiệm hầu chiến thắng nạn đói và cổ võ sự phát triển nông nghiệp dịa phương, càng nhiều hơn vì con số người nghèo đang gia tăng cả trong những xứ giàu có.”

Về phương diện này, Đức Giám Mục Thành Roma ca ngợi quá trình nhận ra “những tiêu chuẩn hữu ích quản trị hệ thống kinh tế và giúp đỡ những người có nhu cầu nhất,” được vạch rõ tại Hội nghị Doha.

Nhưng, ngài nói, điều mà nền kinh tế thật sự cần là sự đổi mới niềm tin.

“Trên một mức độ sâu hơn, việc tăng cường kinh tế đòi hỏi phải tái xây dựng niềm tin. Mục tiêu này chỉ đạt được bằng cách thi hành khoa đạo đức học dựa trên phẩm giá bẩm sinh con người, “ ngài khẳng định. “Tôi biết điều này sẽ đòi hỏi nhiếu, nhưng đó không phải là một chuyện không tưởng! Ngày nay hơn trong quá khứ, tương lai chúng ta lâm nguy, cũng như vận mạng của hành tinh chúng ta và của những cư dân hành tinh, cách riêng thế hệ trẻ hơn đang hưởng một hệ thống kinh tế và một khung xã hội bị thiệt hại nghiêm trọng

Những người nhèo nhất trong các kẻ nghèo

Khi kết thúc diễn từ của ngài, Đức Thánh Cha đã tái nhắc lại rằng “những con người nghèo nhất là những hài nhi chưa sinh ra.”

Và ngài tiếp tục nhắc tới “ những kẻ nghèo khác, như những người bịnh, những người già bị bỏ mặc, những gia đình tan vở và những kẻ thiếu những điểm qui chiếu.”

“Nạn nghèo,” Đức Giáo Hoàng khẳng định, “bị đánh bại nếu nhân loại trở nên huynh đệ hơn như là một hậu quả của những giá trị và lý tưởng được chia sẻ, được xây dựng trên phẩm giá con người, trên quyền tự do liên kết với trách nhiệm, trên sự thừa nhận có hiệu quả về chỗ đứng của Thiên Chúa trong sự sống con người.”

Ngài nói rằng Chúa Kitô Hài Nhi tại Belem dạy rằng “tình liên đới huynh đệ giữa mọi người nam và nữ là con đường vương giả đánh bại nạn nghèo và xây dựng hoà bình.” Và ngài xin ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô “hướng dẫn chúng ta suốt năm này, năm dã khởi đầu bây giờ.”
 
177 quốc gia có liên quan ngoại giao với Tòa Thánh
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
02:32 10/01/2009
VATICAN (Zenit.org).-Toà Thánh duy trì những liên quan ngoại giao đầy đủ với 177 quốc gia, với Botswana là quốc gia cuối cùng cho vào danh sách năm nay.

Cơ quan báo chí Vatican đã tường thuật sự này hôm nay nhân dịp bài diễn từ của Đức Giáo Hoàng trước đoàn ngoại giao được ủy nhiệm bên Toà Thánh.

Thông cáo Vatican ghi nhận thêm rằng vào số 177 quốc gia đã có những cộng đồng châu Âu và Chủ quyền quân đội tại Malta, cũng như hai sứ vụ có đặc tính đặc biệt: sứ vụ Liên Bang Nga, do một đại sứ quản trị, và cơ quan Tổ Chức Giải Phóng Palestine (OLP), do một giám đốc quản trị.

Toà Thánh cũng được đại diện với một quan sát viên thường trực trước Liên-Hiệp-Quốc, và là một thành viên của bảy cơ quan và tổ chức U.N., là quan sát viên trong 8 tổ chức khác, và là thành viên hay quan sát viên trong năm tổ chức vùng.

Giữa những xứ không có liên quan ngoại giao với Toà Thánh là Trung Hoa, North Korea, Việt Nam và Saudi Arabia.

Toà Thánh đã thiết lập những liên quan ngoại giao với Botswana ngày 4/11/2008.
 
Ý nghĩa của nghệ thuật vẽ ảnh thánh
Linh Tiến Khải
16:53 10/01/2009
Một số nhận định của thần học gia kiêm sử gia Francois Boespflug, dòng Đa Minh, về ý nghĩa của nghệ thuật vẽ ảnh thánh

Trong mùa Vọng và mùa Giáng Sinh tại nhiều nước Âu châu, đặc biệt là Italia, có rất nhiều hàng quán bán các ảnh tượng hang đá nghệ thuật đủ kiểu đủ loại rất đẹp. Tại hí trường Colosseo ở Roma hiện cũng có cuộc triển lãm mấy trăm hang đá nghệ thuật quốc tế. Riêng tại thành phố Napoli, nam Italia, hằng năm các nhà làm và bán tượng ảnh Giáng Sinh cũng bán tượng của các nhân vật chính trị nổi tiếng thế giới như tượng của tổng thống Bush và đặc biệt là tượng của tổng thống tân cử Barack Obama.

Trước làn sóng tục hóa và duy đời cực đoan muốn loại bỏ các truyền thống Kitô khỏi cuộc sống của người dân các nước Kitô Âu châu, Italia vẫn duy trì được nhiều truyền thống cao qúy, trong đó có truyền thống làm hang đá giáng sinh với các kỹ thuật rất tinh vi sống động. Thật ra Italia là quốc gia quy tụ 70% gia tài nghệ thuật toàn thế giới thuộc đủ mọi ngành hội họa, điêu khắc, kiến trúc và đặc biệt là sản xuất và bán cảc ảnh tượng thánh.

Cũng liên quan tới nghệ thuật vẽ ảnh tượng thánh, hồi cuối năm 2008 vừa qua Linh Mục Francois Boespflug, dòng Đa Minh, đã cho xuất bản một cuốn sách dầy tựa đề ”Thiên Chúa và các hình ảnh của Người. Một lịch sử của Đấng Vĩnh Cửu trong nghệ thuật”. Cha Boespflug là giáo sư nghệ thuật thánh tại đại học Strasbourg bên Pháp, đồng thời là chuyên viên nghiên cứu các hình vẽ trong lịch sử nghệ thuật thánh từ hơn 30 năm qua. Theo cha, diễn tả Thiên Chúa ra bằng hình ảnh là một việc không thể làm được. Nhưng hình vẽ có khả năng vượt thắng được hạn hẹp này.

Sau đây là một số nhận định của cha về ý nghĩa hình ảnh trong nghệ thuật thánh.

Hỏi: Thưa cha tại sao Kitô giáo lại đã chỉ khám phá ra là mình yêu thích các hình ảnh thánh một cách từ từ, chứ không có ngay từ đầu?

Đáp: Ngày nay nữa việc diễn tả Thiên Chúa ra bằng các hình ảnh vẫn được coi như là một loại mâu thuẫn. Các tín hữu độc thần khác như người do thái và người hồi lại còn nghi ngờ hay chống đối các hình ảnh. Các hình ảnh Kitô liên quan tới các chủ thể mà tín hữu bước vào trong mối tương quan liên chủ thể. Nói cho cùng nó không liên quan tới một sự thật, cũng không minh giải một đề tài hay diễn tả một giai đoạn hoặc một lịch sử.

Hình ảnh vượt qua sự minh giải và trình thuật. Thần học gia người do thái Martin Buber đã viết rằng: ”Thiên Chúa của các tín hữu Kitô vừa không có hình ảnh, vừa được diễn tả bằng hình ảnh”. Ông nói tới một Thiên Chúa đáng lý ra không có hình ảnh.

Thật ra tín điều Kitô đã luôn luôn nhấn mạnh rằng đối với mọi họa sĩ việc vẽ hình ảnh của Thiên Chúa là điều không thể làm được. Việc bắt chước thực tại không thể thực hiện được, vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thiên linh nên không có một hình thể. Đồng thời trong nghệ thuật cổ Kitô, Thiên Chúa đã được diễn tả ra một cách từ từ, bắt đầu từ những hình ảnh nhân hình rất quen thuộc và thường xuyên hơn. Nhưng các hình ảnh này là một yếu tố của hiện tại được tín hữu sống.

Hỏi: Việc vẽ hình của Thiên Chúa đã trở thành hoàn toàn hợp pháp vào thế kỷ nào thưa cha?

Đáp: Nhiều nghi ngờ còn sót lại đã tan biến sau Công đồng Nicea thứ II năm 787. Nhờ gia tài của các Giáo Phụ, trong một văn bản rất chính xác Công đồng cho rằng khi tin vào Ngôi Lời nhập thể, thì không có lý do khước từ hình ảnh diễn tả Người. Điều này sẽ được diễn tả ra bằng một quyền sáng tạo, trình bày và tôn kính các hình ảnh của Chúa Kitô, của Đức Trinh Nữ Maria, của các thiên thần và các thánh. Nhờ một minh giải tín lý ngoại thường sẽ có một nền tảng vĩnh viễn được thiết lập liên quan tới sự hợp pháp của khoa vẽ ảnh tượng thánh Kitô.

Hỏi: Thưa cha, thế thì đâu là các yếu tố sẽ ảnh hưởng trên sức bành trướng và lan tràn của các ảnh tượng trong thời trung cổ?

Đáp: Tôi đã không bao giờ tin vào lý thuyết của nhu cầu dựa trên sự đối kháng giữa giáo quyền và tín hữu, hay lý thuyết cho rằng dân chúng và tín hữu đòi giáo quyền phải thỏa mãn nhu cầu có ảnh tượng, và giáo quyền đã phải nhượng bộ. Thật ra thì đã có nhiều Giám Mục nổi tiếng ưa thích các ảnh tượng và khuyến khích nghệ thuật vẽ ảnh tượng. Tôi tin nhiều hơn vào điều mà tôi sẽ định nghĩa là năng động diễn tả các trực giác mạnh mẽ. Một tôn giáo được một nền văn minh sống một cách sâu đậm, thì đương nhiên nó phải được diễn tả ra bên ngoài bằng các hình ảnh của nghệ thuật thánh. Và sau các diễn tả bằng lời nói, thì Kitô giáo đã chinh phục một cách có luận lý các kiểu diễn tả khác, từ nghệ thuật điêu khắc hội họa cho tới âm nhạc, kịch nghệ và văn chương. Thế rồi các kiểu diễn tả này ảnh hưởng trên các yếu tố đặc thù khác nữa, như việc suy tư về vài đoạn trong Phúc Âm, đặc biệt là Phúc Âm của thánh Gioan, trong đó Chúa Giêsu dùng rất nhiều lần động từ ”nhìn”, ”xem”, ”trông thấy”.

Hỏi: Vậy nghệ thuật Kitô có mang trong mình các dấu vết của các đảo lộn lớn của lịch sử hay không thưa cha?

Đáp: Thật rất khó mà áp đặt một cách chung chung cho các việc diễn tả Thiên Chúa ra bằng các hình ảnh, một thời đại dựa trên các yếu tố lịch sử, chính trị, dân số, kinh tế và cả giáo hội nữa. Giữa môt biến cố đảo lộn của một thời đại như trận dịch tả lớn và các hình ảnh thánh đã không có tương quan chặt chẽ. Trong một thời đại, trong đó mọi người đều cho rằng bệnh dịch hạch là một hình phạt của Thiên Chúa, thì người ta không nhận ra cái đen tối của kiểu diễn tả. Như thế xem ra lịch sử các hình ảnh thánh xem ra có một sự độc lập nào đó, một tiết nhịp gắn liền với các yếu tố thường hằng sâu thẳm của ý thức lòng tin.

Hỏi: Đâu đã là các thời kỳ phong phú nhất của việc vẽ các ảnh tượng trong lịch sử nghệ thuật thánh thưa cha?

Đáp: Vào cuối thế kỷ XI và tiền bán thứ kỷ XII, nghĩa là trong giai đoạn Roman, người ta đã sáng tác ra 5 lược đồ vẽ ảnh Chúa Ba Ngôi như còn biết nổi tiếng cho tới ngày nay. Còn có một giai đoạn khác mà tôi định nghĩa là giai đoạn phép lạ của nghệ thuật vẽ các hình ảnh thánh: đó là cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV. Trong các giai đoạn này các kiểu vẽ đều được mọi tầng lớp dân chúng ưa thích. Vì thế không thể nói tới nghệ thuật vẽ hình ảnh thánh của giới ưu tú, hay một nghệ thuật vẽ hình ảnh thánh của giới trung lưu hoặc của giới bình dân.

Hỏi: Thưa cha có nhiều người cho rằng trong thời đại hiện kim có cuộc khủng hoảng của nghệ thuật thánh. Cha có đồng ý như thế không?

Đáp: Bên Âu châu bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI các nghệ sĩ hướng tới các đề tài khác, nhưng không phải là họ không gặp các thời gian khắc khoải. Trong tác phẩm ”Tự họa với Chúa Kitô mầu vàng” họa sĩ Gauguin xem ra nói rằng: như là họa sĩ của thế hệ mới, tôi giả vờ chỉ chú ý tới tôi thôi, nhưng thật ra tôi vẫn tiếp tục nghĩ tới Chúa. Đồng thời nghệ thuật vẽ hình ảnh thánh ngày càng bỏ Âu châu để di cư sang các đại lục khác, và nó đã có các thành công ngoài đại lục Âu châu ngày càng gia tăng kể cả ngày nay nữa.

Hỏi: Sức sinh động mới này được diễn tả ra như thế nào thưa cha?

Đáp: Tôi chỉ xin đơn cử một thí dụ thôi: nghệ thuật vẽ hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi bên Mêhicô hiện nay đang thành công như chưa từng thấy từ trước tới nay. Và trong nhiều quốc gia khác người ta đang chứng kiến một hiện tượng nở rộ tươi vui khoan khoái của nghệ thuật thánh. Ngoài ra chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu của cảnh đóng đinh. Đề tài này đang đạt sự thành công chưa từng có trong lịch sử nghệ thuật. Xem ra sự thành công của đề tài đóng đanh tại mọi đại lục được gắn liền với nhu cầu tố cáo các bất công và các cảnh kinh hoàng của thời đại chúng ta ngày nay do chiến tranh, hận thù và sự tàn ác của con người gây ra như cảnh thành phố Nagasaki bị tàn phá bình địa vì bom nguyên tử, như cảnh Shoah diệt chủng của người Do thái nạn nhân của Đức Quốc Xã, như cảnh diệt chủng tại Rwanda, các cảnh khai thác bóc lột nông dân nghèo tại các quốc gia Châu Mỹ Latinh và biết bao nhiêu cảnh bất công tàn ác, mà con người gây ra cho nhau đó đây khắp nơi trên thế giới. Các thảm cảnh của thế giới hiện đại tìm thấy nơi con người bị đóng đanh trên thập giá một hình ảnh diễn tả một cách hùng hồn và không có gì hùng hồn hơn. Và đâu có ai đã có thể thấy trước được điều này đâu!

(Avvenire 4-12-2008)
 
Toàn con người và cuộc đời của Kitô hữu là lễ vật tôn vinh Thiên Chúa
Linh Tiến Khải
16:54 10/01/2009
Sau các ngày nghỉ lễ, sáng thứ tư 7-1-2009 đã có gần 8000 tín hữu tham dự buổi tiếp kiến chung đầu tiên của Đức Thánh Cha trong năm 2009. Giọng nói của Đức Thánh Cha khàn vì ngài bị cảm lạnh.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục loạt bài giáo lý về thánh Phaolô và khai triển đề tài việc phụng tự mà tín hữu kitô phải chu toàn đối với Thiên Chúa. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha chúc mừng năm mới mọi người và đưa ra lời khích lệ như sau:

”Chúng ta hãy làm sống lại trong mình dấn thân rộng mở tâm trí cho Chúa Kitô để là và sống như là bạn hữu thật của Người. Sự đồng hành của Người sẽ khiến cho năm nay là một lộ trình tràn đầy niềm vui và an bình mặc dù nó bao gồm các khó khăn không thể tránh được. Thật thế chỉ khi sống kết hiệp với Chúa Giêsu năm mới sẽ thật sự là một năm tốt lành và hạnh phúc”.

Dấn thân sống kết hiệp với Chúa Kitô là một trong các khía cạnh quan trọng thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta trong giáo huấn và tư tưởng của người. Đó là điều mà thánh nhân gọi là việc phụng tự của các Kitô hữu. Thánh nhân nhận ra nơi thập giá của Chúa Kitô một khúc rẽ lịch sử biến đổi triệt để thực tại của việc phụng tự. Có ba văn bản đề cập tới quan điểm phụng tự mới này. Thứ nhất là chương 3 câu 25 thư gửi tín hữu Roma, tromg đó sau khi nói tới ơn cứu chuộc do Chúa Kitô Giêsu hiện thực, thánh nhân đưa ra một công thức bí nhiệm ”Thiên Chúa đã thiết định Người phục vụ như dụng cụ đền tội qua lòng tin, trong máu của Người”. Qua kiểu nói ”dụng cụ đền tội” thánh nhân muốn ám chỉ nắp hòm bia thánh, được coi như điểm tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người, vì nắp Hòm Bia diễn tả sự hiện diện bí nhiệm của Thiên Chúa trong thế giới loài người. Và trong ngày lễ ”Xá Tội - Yôm Kippur” máu của thú vật sát tế được rảy trên nằp Hòm Bia đó. Nó tượng trưng cho việc đem tội lỗi của toàn năm đến đụng chạm đến Chúa để ném chúng vào vực thẳm lòng lành của Chúa và để chúng được sức mạnh của Chúa thu hút, được thắng vượt và tha thứ. Và thế là cuộc sống bắt đầu trở lại.

Thánh Phaolô nêu bật lễ nghi ấy và khẳng định rằng nó diễn tả ước muốn thực sự của tín hữu ném tội lỗi của mình vào vực thẳm lòng xót thương của Thiên Chúa để cho chúng biến mất. Nhưng tiến trình đó không được hiện thực với máu của súc vật, mà là nơi thập giá Chúa Kitô, là Con Thiên Chúa làm người thật, Đấng đã mang trên mình mọi tội lỗi của chúng ta. Người là điểm tiếp xúc giữa cái khốn cùng của con người và lòng xót thương của Thiên Chúa. Khối sự dữ buồn phiền của nhân loại tan chảy trong trái tim của Người và sự sống được canh tân. Cử chỉ tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa trở thành tình yêu nhân loại đó chấm dứt giai đoạn các lễ vật sát tế cũ trong đền thờ Giêrusalem. Cái chết hiến tế của Thiên Chúa làm người trên thập giá là phụng tự mới đích thật thay thế phụng tự biểu tượng tạm thời của Cựu Ước. Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu là đền thờ mới ”không do bàn tay con người làm ra” (x. Mc 14,58; Ga 2,19 tt.).

Trích văn bản thứ hai nói về phụng tự mới là chương 12 thư gửi tín hữu Roma, Đức Thánh Cha nói:

”Tôi khích lệ anh chị em hãy tiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện, và đẹp lòng Thiên Chúa: đó là cách thức xứng hợp để anh chị em thờ phụng Người” (12,1). Thay vì cái chết của súc vật sát tế bị cắt cổ và một phần bị đốt đi thánh Phaolô nói tới sự sống của Kitô hữu. Việc ”dâng hiến thân mình” ám chỉ toàn con người (Rm 6,13), và của lễ đó có mục đích ”tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác” (1 Cr 6,20), nghĩa là tôn vinh Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày với mọi biến cố lớn nhỏ của nó.

Thánh Phaolô gọi đó là ”hiến tế sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Sự thánh thiện ở đây không gắn liền với các nơi chốn hay vật dụng, mà gắn liền với chính con người tín hữu. Toàn con người của tín hữu bao gồm lý trí, hồn xác trở thành việc tôn thờ, vinh danh Thiên Chúa hằng sống. Kiểu nói thánh Phaolô dùng là kết qủa của một sự phát triển dài của kinh nghiệm tôn giáo trong các thế kỷ trước Chúa Kitô, như có thể gặp trong các phát triển thần học của Cựu Ước và thông thường trong tư tưởng hy lạp. Các ngôn sứ và nhiều tác giả thánh vịnh đã mạnh mẽ phê bình các hiến tế đổ máu trong đền thờ: Thiên Chúa ưa thích tâm lòng thống hối ăn năn, chứ không muốn các của lễ sát tế và máu súc vật (Tv 50, 12-14; 51, 18 tt.; Đn 3,38 tt.). Tuy nhiên việc tinh thần hóa và luân lý hóa phụng tự này cũng có nguy cơ biến phụng tự thành đối tượng của con tim và tinh thần, mà thiếu chiều kích của thân xác và của cộng đoàn. Và chúng ta hiểu tại sao thánh vịnh 50 và văn bản sách Daniel, tuy vẫn phê bình, nhưng vẫn muốn trở về thời của các lễ vật hiến tế. Thật ra đây là một hiến tế được canh tân.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Thánh Phaolô là người thừa hưởng các phát triển này của ước muốn phụng tự đích thật, trong đó con người trở thành vinh quang của Thiên Chúa và tôn thờ Chúa với tất cả con người mình. Thánh nhân lập lại những gì người đã nói trong chương 3 thư gửi tín hữu Roma: thời của các hiến tế bằng súc vật đã chấm dứt, giờ đây là thời của việc phụng tự đích thật. Nhưng ở đây cũng có thể xảy ra sự hiểu lầm lẫn lộn hiến tế đích thật với khuynh hướng luân lý: thay thế phụng tự bằng nỗ lực luân lý. Nhưng đây không phải là tư tưởng của thánh Phaolô. Như thế phải giải thích ”phụng tự tinh thần, có lý lẽ” như thế nào đây? Thánh Phaolô luôn luôn giả thiết rằng chúng ta trở thành ”một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gi 3,28), chết đi trong bí tích Rửa Tội (Rm 1) và giờ đây sống với Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Trong sự kết hiệp ấy chúng ta có thể trở nên trong Người và với Người ”của lễ sống động” và dâng tiến lên Chúa một ”phụng tự đích thực”. Khi tận hiến mình cho Thiên Chúa Cha và cho chúng ta, Chúa Kitô đã đem theo trong Người con người phàm, các tội lỗi của chúng ta và ước muốn của chúng ta: Người đại diện cho chúng ta thực sự và nhận lấy chúng ta trong Người. Trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô được hiện thực trong lòng tin và trong các bí tích, chúng ta trở nên hiến tế sống động, mặc dù tất cả các thiếu sót của chúng ta.

Giáo Hội biết rằng trong Bí tích Thánh Thể rất thánh việc tự hiến dâng của Chúa Kitô, hiến tế đích thật của Người hiện diện thực sự. Nhưng Giáo Hội cầu xin cho cộng đoàn cử hành thực sự hiệp nhất với Chúa Kitô được biến đổi, để chúng ta tất cả được trở thành hiến tế đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Agostino đã minh giải điểm này trong cuốn X của tác phẩm ”Kinh Thành của Thiên Chúa”: Tuy nhiều nhưng các tín hữu chỉ là một trong một thân thể duy nhất của Chúa Kitô... Toàn cộng đoàn được cứu chuộc, cộng đoàn của các thánh là lễ vật dâng lên Thiên Chúa qua vị Thượng Tế đã tự hiến mình (10,6; CCL 47,27 tt.).

Sau cùng thánh Phaolô viết trong chương 15 thư gửi tín hữu Roma: ”Tôi viết thế là nhờ vào ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi là người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (15,15-16). Trong văn bản tuyệt diệu này thánh Phaolô giải thích công việc truyền giáo của người giữa các dân ngoại để xây dựng Giáo Hội Phổ Quát, như là một hành động phụng tự của linh mục. Loan báo Tin Mừng để hiệp nhất các dân tộc trong sự hiệp thông của Chúa Kitô là một hành động tư tế. Tông đồ Phúc Âm là một linh mục đích thực chuẩn bị cho hiến tế đích thực. Mục đích của hoạt động truyền giáo là phụng tự vũ hoàn làm vinh danh Thiên Chúa. Sự tự hiến của Chúa Kitô hiệp nhất các dân nước và lôi cuốn tất cả vào sự hiệp thông của Thân Mình Người. Chỉ trong sự hiệp thông với Chúa Kitô, Con Người gương mẫu, làm một với Thiên Chúa, thế giới mới trở thành như mọi người chúng ta mong mỏi: là tấm gương phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa. Năng động này luôn hiện diện trong bí tích Thánh Thể; nó phải gợi hứng và nhào nặn cuộc sống chúng ta trong năm mới này.

Sau khi chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
 
Các Giám Mục Venezuela tố cáo chính phủ quá coi trọng việc duy trì quyền lực
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
17:04 10/01/2009
Caracas (CNA) - Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Thường niên lần thứ 91 của Hội đồng Giám Mục Venezuela, Đức Tổng Giám Mục Ubaldo Santana, Chủ tịch HĐGM cho hay chính phủ đang bỏ qua vai trò của mình trong việc giải quyết các vấn đề của người dân Venezuela và chỉ chăm bẵm quá đáng vào việc duy trì quyền lực.

Đức Tổng Giám Mục cho hay: "Chúng ta phải yêu cầu các vị lãnh đạo của chúng ta thực hiện vai trò của họ và đảm bảo đầy đủ nhân quyền cho tất cả mọi người", ngài cho biết thêm các giám mục quan tâm đến điều này than phiền rằng "sự chú ý quá đáng" đang được dành cho việc gia tăng quyền lực, trong khi đó các vấn đề của người dân Venezuela đang bị bỏ qua. Ngài cho biết thêm: "(Họ) bỏ qua một bên các nhu cầu cơ bản của đất nước làm tiêu diệt người dân và gieo rắc tình trạng hỗn lọan. Con người quan trọng hơn là cơ cấu chính trị."

Đức Tổng Giám Mục cũng bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn Đức Hồng y Jorge Urosa của Caracas để phản ứng lại những tấn công mới nhất mà Tổng Thốn Hugo Chávez phát ngôn chống lại ngài. Ngài giải thích: "Mọi người dân Venezuela xứng đáng được tôn trọng và Hiến pháp đảm bảo quyền tự do và trân trọng quyền phát biểu quan điểm của một người mà không được xúc phạm"

Trong bình luận của mình, Đức Tổng Giám mục Santana tố cáo các dấu hiệu khác nhau của sự thối nát trong xã hội Venezuela, chẳng hạn như "băng nhóm chống xã hội đang hoạt động trên khắp các khu vực công cộng, gieo rắc kinh hoàng và lo sợ." "Dân chủ không tồn tại nếu cuộc sống, đường lối không có giới hạn và tư hữu không được đảm bảo. Tình trạng mất an ninh đã tước đi 4 quyền của người dân Venezuela: tính toàn vẹn, sự sống, tiếp cận công lý và sự biến động".

Đức Tổng Giám Mục kêu gọi tạo ra bầu khí hòa bình, thêm vào đó: "nhân quyền cần phải có trước trên mọi thể chế chính trị. Không có bất cứ lý do nào để vi phạm chúng. Chúng tôi đòi hỏi tôn trọng tất cả người dân, chấm dứt đấu tranh giai cấp và dùng ngôn từ bất kính"
 
Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ lại lặp lại ủng hộ nghiên cứu tế bào gốc phôi thai
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
17:06 10/01/2009
Washington DC (CNA) - Nancy Pelosi, Chủ tịch Hạ viện Quốc Hội Hoa Kỳ, người tự xem mình là “người Công Giáo hăng hái, tích cực”, đã lặp lại lần nữa sự ủng hộ của bà tài trợ ngân qũy cho việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai (ESCR).

Bình luận của bà được đăng trên tờ International Herald Tribune, nói về các đề xuất của phe Dân Chủ đề nghị tiến hành xây dựng luật cho việc tài trợ ngân quỹ nhằm đảo lộn các chính sách mà chính phủ Tổng Thống Bush đã thiết lập. Bà cho hay: "Bản thân tôi sẽ ủng hộ dự luật, để nó trở thành luật".

Theo California Catholic Daily, Chủ tịch Hạ viện Pelosi, một đảng viên Dân Chủ San Francisco, đã bị các giám mục và những người Công Giáo khác chỉ trích vì bình luận gây hiểu lầm của bà về Giáo Huấn của Giáo Hội và trách nhiệm đạo đức đối với sự sống của các hài nhi chưa được sinh ra. Trong một trả lời phỏng vấn của Bà hồi tháng Tám, 2008 với Meet the Press, bà nói rằng thời điểm mà sự sống bắt đầu là "một vấn đề gây tranh cãi" qua lịch sử của Giáo Hội.

Về vấn đề này, nổi bật trong số các giám mục khác, Đức Hồng y Justin Rigali của Ủy ban các Hoạt động Phò Sự Sống, và Đức Giám Mục William Lori của Ủy Ban Giáo lý, Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã đưa ra một tuyên bố chung nói rằng Chủ tịch Hạ viện "đã xuyên tạc lịch sử và bản chất của giáo huấn đích thực của Giáo Hội Công Giáo chống phá thai".

Vào tháng Chín năm ngoái, Đức Tổng Giám Mục George Niederauer của San Francisco đã mời Chủ tịch Hạ viện Pelosi để trò chuyện với ngài về đức tin Công Giáo của bà và quan điểm của bà trái ngược với Giáo huấn Công Giáo. Ngài cho hay: "Hãy để chúng tôi cùng nhau cầu nguyện để Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng tôi hướng đến sự hiểu biết sâu sắc và đánh giá đúng đắn về sự sống con người, và hướng đến giải quyết những khác biệt này trong sự thật, bác ái và hòa bình". Hiện chưa có bất kỳ tin tức nào liên quan đến việc liệu Bà Pelosi có trò chuyện với Đức Tổng Giám Mục hay không.

Phát biểu mới nhất của Pelosi nghiên cứu tế bào gốc phôi thai trong bối cảnh Quốc Hội và chính phủ Obama tới đây được mong đợi sẽ bãi bỏ những hạn chế về tài trợ ngân qũy cho nghiên cứu.

Vào năm 2001, Tổng thống George W. Bush đã ký một sắc lệnh cấm dùng ngân qũy liên bang tài trợ cho nghiên cứu tế bào gốc phôi thai, ngoại trừ 60 dòng tế bào gốc từ phôi thai hiện có vốn đã bị phá hủy. Vào tháng Sáu năm 2007, một sắc lệnh khác cho phép Bộ Y Tế và Dân Sự Hoa Kỳ và Viện Sức Khỏe Quốc Gia Hoa Kỳ tài trợ ngân quỹ nghiên cứu tế bào gốc chỉ khi các tế bào là sản phẩm của các phương pháp mà không tạo ra phá hủy, hoặc gây tổn hại cho phôi thai người.

Tổng Thống Bush đã phủ quyết các đạo luật tài trợ ngân quỹ cho nghiên cứu tế bào gốc phôi thai vào các năm 2006 và 2007. Bào chữa cho quyền phủ quyết của mình vào năm 2007, Tổng Thống cho hay: "Nếu dự luật này trở thành luật, nó sẽ buộc người đóng thuế Hoa Kỳ - cho lần đầu tiên trong lịch sử của chúng ta - ủng hộ cho chủ tâm hủy diệt phôi thai người". Tổng thống nói thêm: "Tôi đã làm rõ với Quốc Hội và người dân Mỹ rằng tôi sẽ không cho phép quốc gia chúng ta băng qua lằn ranh đạo đức này"; "Hủy họai sự sống con người để gìn giữ sự sống con người là phi đạo đức -- và nó không phải là chọn lựa duy nhất trước mắt chúng ta".

Vào tháng Sáu, 2008, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã nhắc lại Giáo Huấn của Giáo Hội về nghiên cứu tế bào gốc phôi thai, trong đó nói rằng: "Việc lấy những 'tế bào gốc phôi thai' này liên quan đến chủ tâm giết chết người vô tội, một hành động phi đạo đức trầm trọng".

Liên quan đến vấn đề việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai, hôm 12/12/2008, Văn phòng Báo Chí Tòa Thánh Vatican đã công bố Huấn thị của Thánh bộ Giáo lý Đức tin mang tên “Dignitas Personae” (Phẩm giá con người) về các vấn đề liên quan đến đạo đức sinh học nhằm cập nhật những vấn đề mới cho Huấn thị "Donum vitae" (Hồng ân Sự sống - 1987).

Trong Phần thứ ba của Huấn thị: Những liệu pháp điều trị mới liên quan đến sự thao tác trên phôi thai và gia sản di truyền của con người, Huấn thị dạy rằng: “Việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai và những khả năng điều trị trong tương lai của chúng đã gợi lên mối quan tâm to lớn, dù là cho đến nay những nghiên cứu như thế đã không mang lại những kết quả mang tính hiệu quả, trái với việc nghiên cứu tế bào gốc trưởng thành. Vì một số người cho rằng khả năng của những tiến bộ y khoa có thể đạt được kết quả từ việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai có thể bào chữa cho các hình thức khác nhau cho việc thao tác và phá hủy phôi người, nên một loạt các vấn đề đã nổi lên trong lĩnh vực liệu pháp gien, từ nhân bản vô tính đến việc sử dụng các tế bào gốc, vốn đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc lưu tâm đến đạo đức”. (số 24)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Những mảnh đời thiếu vắng Mùa Xuân
Quang Huyền, OFM
03:46 10/01/2009
Không khí Tết Nguyên Đán đang đến gần trên quê hương Việt Nam. Người người, nhà nhà đang chuẩn bị cho những ngày vui Xuân, đón Tết: Công nhân, sinh viên chuẩn bị mua vé xe tàu về quê ăn Tết, các bà nội trợ đang săn đón những món hàng khuyến mãi dịp Tết rất hấp dẫn nào đó, các công chức đang chờ lãnh lương và thưởng trong dịp Tết… Như thế, không khí ấm áp và vui tươi của mùa Xuân như đang đến với nhiều người trong đời thường. Nhưng khi đi vào những khu nhà trọ của người di dân, đi thăm những gia đình nghèo, neo đơn, bệnh tật ở thành phố, tôi không mảy may thấy một chút hơi hám của mùa Xuân sẽ đến với họ. Từ đó, tôi cảm thấy bùi ngùi thương cảm cho những phận người bất hạnh ấy?

Long đong cuộc sống nhập cư.

Tôi vẫn thường đến với các nhóm công nhân lao động nhập cư ở Sài Gòn, Bình Dương trong các dịp sinh hoạt hay ngày lễ truyền thống của các nhóm và chưa thấy hết những nỗi vất vả lao nhọc và thực tế cuộc sống của họ. Gần đây tôi có dịp sinh hoạt với một nhóm di dân Công giáo ở Thủ Dầu Một – Bình Dương và mới thấm thía sự bấp bênh trong cuộc sống của người nghèo nhập cư.

Tôi đến vài khu nhà trọ quanh thị xã Thủ Dầu Một, nơi đây có khoảng 50 gia đình nhập cư đang sinh sống, trong đó có 23 gia đình công giáo đến từ Miền Trung và Miền Tây. Vì miếng cơn manh áo, họ phải rời bỏ quê hương xứ đạo của mình để đến đây sinh sống. Rời quê hương với đôi bàn tay trắng, nên họ không có đất và nhà cửa để định cư lâu dài. Tất cả các gia đình này đều thuê nhà trọ, để bám trụ và tìm kế sinh nhai ở quê hương thứ hai này. Có gia đã sinh sống ở đây được hơn chục năm, gia đình được 5 hay 7 năm, ít nhất là 1năm. Công việc của họ là công nhân, lao động phổ thông, bán vé số, chạy xe ôn. Vì thế, cuộc sống của họ rất bấp bênh và thiệt thòi. Trường hợp gia đình anh Hai Sinh đến từ Họ đạo Cồn Én – Giáo phận Long Xuyên là một ví dụ. Ở quê, anh Hai làm mộc, chị hai bán bánh mì ở chợ làng, nhưng không đủ nuôi sống 4 miệng ăn, đành bỏ quê lên Bình Dương kiếm công ăn việc làm để sinh sống. Anh làm nghề phụ hồ, chị và đứa út 13 tuổ bán vé số, đứa lớn 17 tuổi làm công nhân dày dép. Lúc bình yên thì kinh tế gia đình tạm ổn, nhưng những lúc đau bệnh hay mất việc làm thì gia đình lại thiếu tiền cơm, tiền nhà. Anh Hai Sinh tâm sự: “Sống ở thành phố bếp bênh lắm, lúc đói, lúc no, hổng chắc, lúc có dziệc làm thì tạm sống, lúc hổng có dziệc thì đói, nhưng còn tốt hơn dưới quê”. Cũng thế, 22 gia đình Công Giáo khác sống ở khu vực này đều có chung điều kiện sống như gia đình anh Hai. Họ cũng chịu cảnh nghèo khổ và bấp bênh triên miên.

Từ chổ kinh tết không ổ định, họ tập trung lo “miếng cơn, manh áo”, đã là khó khăn. Vì thế, các gia đình này không thể lo cho con đi học văn hóa hay học nghề được. Hiện nay, ở khu trọ có khoảng 20 trẻ em công giáo chưa được đến trường. Trong số đó có nhiều em đã 13-15 tuổi và các em khác trong độ tuổi tiểu học và mẫu giáo. Công việc thường ngày của các em là bán vé số và phụ giúp gia đình trông bế em. Cha mẹ không thể cho con đi học, chính quyền địa phương và các đoàn thể không biết đến họ để giúp đỡ. Các em đang chịu thiệt thòi về các quyền căn bản của mình. Tương lai của các em sẽ rất mịt mờ. Cuộc đời của các em vẫn là mùa đông ảm đạm và giá lạnh.

Bên cạnh đó, đời sống tôn giáo của các gia đình nhập cư này cũng bị hạn chế. Nơi họ ở xa nhà Thờ. Nên việc tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật hay các sinh hoạt tôn giáo khác cũng rất khó khăn. Một số gia đình di dân chỉ nhớ đến ngày lễ lớn trong năm như Giáng Sinh, Phục sinh. Con em của họ cũng không được tham gia các lớp giáo lý và lãnh các bí tích như rửa tội, thêm sức, hôn phối. Đời sống đạo của họ cũng mang tính thời vụ và ngày càng xa dần những sinh hoạt tôn giáo đều đặn và thánh thiêng như ở giáo xứ gốc của họ.

Nhìn chung, hiện nay cuộc sống của những người nhâp cư ở các khu nhà trọ ở đây đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hậu quả của cơn “bão giá” và sự suy thoái kinh tế trong dịp cuối năm đang làm cho đời sống của các gia đình nhập cư này điêu đứng. Nghèo đói, thất học, bệnh tật vẫn là cái vòng luẩn quẩn, luôn đeo bám và không chịu buông tha họ. Tương lai của các gia đình nhập cư và con em của họ vẫn là một bài toán nan giải. Mùa xuân năm nay cùng với sự sung túc của nó vẫn còn đang rất xa vời với họ.

Buồn thay kiếp nghèo đô thị.

Có lẽ nhiều người nghĩ rằng ở Tp. Hồ Chí Minh ít có người nghèo, nhưng nếu có dịp đi vào các khu “ổ chuột” và các khu nhà trọ cho người nhập cư ở Quận 9, bạn sẽ gặp biết bao cảnh đời đang sống trong nghèo khổ và bệnh tật. Họ là những người vì hoàn cảnh cuộc sống “sa cơ lỡ vận” hoặc là vì mưu sinh đã rơi vào cảnh nghèo khổ.

Có dịp đến Khu phố I, Phương Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, bạn sẽ chứng kiến một gia cảnh thương tâm. Đó là gia đình ông Trần Văn Đạt. Năm nay ông Đạt 75 tuổi, bị liệt chân phải hơn một nam nay, đi lại rất khó; vợ ông, bà Lan 73 bị thoái hóa cột sống mãn tính, đi còng. Ông bà có 2 người con bị bệnh tâm thần: người con trai 40 tuổi bị tâm thần từ nhỏ, người con gái cũng bị tâm thần và bị câm nằm một chổ từ lúc 7 tuổi. Một gia đình toàn những người già bệnh tật sống chung với nhau, không có một nguồn thu nhập nào cả. Bốn con người già cả bệnh tật này chỉ nhờ một người con trai khỏe mạnh làm nghề phụ hồ. Anh là chỗ dựa và nguồn sống duy nhất của cả gia đình. Nhưng vì cha mẹ và anh chị đau bệnh triền miên, nên anh phải bỏ việc để ở nhà chăm sóc họ. Nghĩ về gia cảnh của mình, ông Đạt chia sẻ: “Nhà tui nghèo từ lâu rồi. Mấy đứa con bệnh tật nên vợ chồng suốt đời không ngóc đầu lên nỗi, nay còn sống lây lất và ngày mai không biết thế nào nữa?”. Đúng thế, gia đình ông đạt sống mà không dám nghĩ đến tương lai ngày mai, vì họ cũng chưa lo được cuộc sống gia đình mình ngay ngày hôm nay. Sự nghèo khổ bệnh tật họ không muốn, nhưng nó đã thình lình giáng lên gia đình họ và đang bào mòn cuộc sống của họ. Cũng may mắn thay, vẫn còn có Chúa là niềm hy vọng duy nhất của gia đình. Ông bà có niềm tin tưởng, phó thác rất lạ kỳ vào Thiên Chúa. Chính Chúa đã chăm sóc họ, như lời bà Lan vẫn thường nói với tôi.

Cũng chịu cảnh nghèo, nhưng gia đình anh Toàn, chị Diệu lại khác, họ đã rơi vào cái nghèo mà họ không ngờ được. Cách đây 5 năm, anh chị có nhà cửa ổn định, nhưng vì con trai bị bệnh bại não. Anh chị đã tốn nhiều tiền của để lo chạy chữa cho con, nhưng “tiền mất tật mang” con vẫn không khỏi bệnh. Kể từ đó, gia đình anh chị lâm vào nợ nần và cuối cùng phải bán nhà để lo trả nợ cho người ta. Giờ đây, gia đình anh chị và 3 người con đang phải thuê nhà trọ để ở. Vì không có nghề nghiệp ổ định, nên gia đình thiếu ăn triền miên, hai người con không có điều kiện để đi học, người con bệnh tật không được chăm sóc chu đáo. Cả nhà chỉ trông chờ vào nghề xe ôm của anh mà thôi.

Tôi đến khu phố II, Phường Tăng Nhơn Phú B, và cũng gặp thấy một gia cảnh đáng thương tâm khác. Cụ Năm 85 tuổi, bị bệnh khớp lâu năm. Trước đây, cụ bán vé số nhưng nay tuổi già, sức yếu và không thể tiếp tục. Cuộc sống của cụ chỉ nhờ vào 150 000Đ tiền trợ cấp người già của phường. Thế nhưng, cụ lại phải nuôi người con trai bị bệnh Gút. Anh Thắng con trai cụ năm nay 45 tuổi, không vợ con. Anh bị bệnh Gút hơn cả chục năm nay. Tình hình bệnh tật ngày càng tệ hại. Gia đình cụ đã vay mượn và chạy chữa cho anh hết cả gia sản vẫn không khỏi. Nay anh vừa bị cưa chân phải. Các khớp xương của anh đang sưng tấy lên. Nghe anh kể: Bác sĩ bảo còn phải cưa thêm chân và tay để duy trì tính mạng. Người mẹ già suốt ngày nhìn đứa con bệnh tật nhưng không làm được gì giúp con ngoài việc khóc và khóc.

Còn nhiều lắm những mảnh đời bất hạnh xung quang chúng ta mà chúng tôi chưa thể kể ra đây. Thương thay những kiếp người đau khổ và bệnh tật. Họ đang ngày đêm gồng mình để vượt lên số phận. Mùa Xuân vẫn như đang im lặng với họ luôn mãi. Cuộc sống của họ vẫn như những cây lục bình trôi dạt vô định trên dòng sông cuộc đời, chẳng biết về đâu. Họ đang cần đến hơi ấm tình người trong dịp Tết đến, Xuần về.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tâm thư gửi các chức sắc, các vị lãnh đạo các tôn giáo
Trần Đoan Hùng
02:52 10/01/2009
“HÃY TỈNH THỨC” TRƯỚC CHIÊU BÀI HIỂM ĐỘC CỦA CỘNG SẢN
THÔNG QUA “CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ NHÀ, ĐẤT LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO”


Trọng kính Các Vị Chức Sắc, các Nhà lãnh đạo các tôn giáo tại Việt nam.

Là một đạo hữu hèn mọn, ẩn khuất, trong tập thể đông đảo anh chị em các đạo hữu thuộc các tôn giáo và thành phần tín ngưỡng tại đất nước Việt nam thân yêu, con xin cung kính dâng lên Quý Vị Chức Sắc và Các nhà lãnh đạo các tôn giáo đôi điều cảm nghiệm và chia sẻ về chủ trương của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đối với các tôn giáo trong bối cảnh chính trị và xã hội hiện tại thông qua “CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ NHÀ, ĐẤT LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO”

1. Đánh giá thực tế chính trị-xã hội của đất nước Việt nam hôm nay:

a/. Vẫn là một đất nước bị cai trị bởi một đảng cầm quyền độc đoán, độc tôn, độc tài. Đó là đảng Cộng Sản Việt nam.

b/. Toàn bộ sinh hoạt chính trị và tổ chức xã hội bị chi phối bởi các nguyên tắc của một ý thức hệ mang đầy những ảo tưởng, sai lầm, cổ hủ, gian dối và bệnh hoạn. Đó là ý thức hệ hay chủ nghĩa Mác-Lê được nhào nặn và trộn lẫn với một thứ quái thai, dị dạng là “đạo đức Hồ Chí Minh”.

c/. Toàn bộ các cấp lãnh đạo từ trung ương “thượng tầng kiến trúc” cho tới địa phương “hạ tầng cơ sở” đều là các đảng viên của đảng Cộng sản, những người được nhào nặn và đúc khuôn trong cái lò “bát quái Cộng sản”, nên tư duy và hành động “trước sau như một” vẫn là “Cộng sản” mà tố chất cốt lõi chính là “tam vô’: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo”.

- Vì vô tổ quốc, nên sẵn sàng “dâng đất, nhượng biển cho Tàu phù” miển là giữ được cái thế “ổn định chính trị” để đảng Cộng sản nắm quyền ăn trên ngồi trước.

- Vì vô gia đình, nên khinh chê các giá trị luân lý nền tảng về gia đình, về đạo hiếu, về hôn nhân và tính dục của văn hóa truyền thống Việt nam, của luân lý cơ bản các tôn giáo trong khi dung túng và buông lỏng, tạo điều kiện và khuyến khích lối sống bất hiếu, đồi trụy, vô luân (khởi đầu là những cuộc “đấu tố cha mẹ” trong chiến dịch “cải cách ruộng đất”, thứ đến là chuyện Bác Hồ giết vợ, từ con… và hôm nay cả một lũ cán bộ thoái hóa kéo theo cả một trào lưu tự do luyến ái, ly dị, phá thai…)

d/. Cũng chính từ hệ thống chính trị như thế, nên cơ cấu xã hội chỉ là một guồng máy cồng kềnh, định hướng sai lệch, vận hành kém cỏi: Một nền hành chánh lượm thượm, rách nát nhiễm cơn bệnh nan y tham nhũng đến hết thuốc chữa, một nền giáo dục què quặt không lối thoát, một nền y tế mục nát dánh mất căn tính lương y, một nền văn hóa – thông tin nô dịch làm phương tiện để tuyên truyền, câu cơm, một nền kinh tế vá víu, bắt chước, chụp giật đứng hẳn về phía của những kẻ quyền uy, giàu có và gạt ra bên ngoài những dân đen nghèo khổ, thấp cổ bé miệng.

2. Tỉnh thức trước các thủ đoạn và chiêu bài chính trị mỵ dân của Cộng sản:

Chắc chắn, trong kinh nghiệm dư đầy và với kiến thức uyên bác của Quý vị Chức Sắc, những nhận định khái quát và thô thiển trên về bối cảnh chính trị-xã hội Việt nam hiện nay vẫn chỉ là một phác thảo nhỏ nhoi và phiến diện. Chắc chắn Quý vị còn thấy rõ hơn và rộng hơn hiện tình của đất nước Việt nam thân yêu kể từ ngày Cộng sản nắm quyền thống trị từ Miền Bắc (1945) tới Miền Nam (1975).

Người đạo hữu mọn hèn nầy chỉ xin mạo muội chia sẻ đôi điều cảm nghiệm và suy tư khởi đi từ biến cố Thủ tướng của chính quyền cọng sản Việt nam Nguyễn Tấn Dũng vừa ban hành một chỉ thị (Số 1940 – CT-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2008) về lãnh vực nhà, đất liên quan đến các tôn giáo.

a/. Trước hết, đây chỉ là một “chỉ thị” rập khuôn như bao văn bản hành chánh khác trong nền “hành chánh Cộng sản”, được vá víu sơn phết sao cho mang tính “đối phó” với tình hình bức xúc và bất bình của toàn thể xã hội, đặc biệt với phong trào đòi công lý của đoàn thể “Dân Oan”, của các cộng đồng các tôn giáo mà đĩnh điểm là vụ việc “Tòa Khâm sứ” và “Đất đai của giáo xứ Thái hà” nổ ra trong cuối năm 2008 vừa qua tại thủ đô Hà Nội.

b/. Mục đích chính của “Chỉ thị” chắc chắn không nhằm để giải quyết vấn đề cơ bản là “trả lại quyền tự do cơ bản đó là quyền tư hữu” như đề nghị trong “Bản Quan Điểm của Hội Đồng Giám Mục Việt nam”. (Xin trích)

1. Trước hết, nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì nên sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sử đổi nầy cần phải quan tâm tới quyền tư hữu của người dân như Tuyên Ngôn Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người dân có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác…và không ai bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” (số 17). Vì thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ…” (Quan Điểm phần II, số 1)

Đây chỉ là một “động thái chính trị” nhằm tạo cho các cộng đồng tôn giáo một cảm giác ảo rằng: Nhà nước đang có thiện chí đáp ứng và giải quyết thỏa đáng các yêu cầu bức xúc của các cộng đồng tôn giáo. Với động thái nầy, chính quyền cộng sản hy vọng sẽ giải tỏa tâm lý bức xúc và phẫn nộ đang dâng cao trong quần chúng về đủ mọi lý do như:

- hèn nhát trước mộng bá quyền của Trung Quốc,

- bất công trong đời sống xã hội, nạn tham nhũng, biến chất, cửa quyền của cán bộ, đảng viên,

- chà đạp và bóp nghẹt các quyền tự do căn bản của con người như: tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận…

c/. Đây là một lối ứng xử cũng như chiến thuật thường xuyên của người cộng sản mang tính biện chứng theo lý luận Mác-Lê nhằm duy trì thế độc tôn chuyên quyền của đảng Cộng sản, dập tắt phong trào đòi dân chủ, quyền con người, phân hóa hàng ngủ lãnh đạo của các tổ chức tôn giáo, tạo sự mặc cảm, tỵ hiềm giữa các thành phần tôn giáo, dân tộc, để làm suy yếu sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong tiếng nói chung về những yêu cầu thiết thân của hiện tại và tương lai đất nước.

d/. Khi triển khai “chỉ thị” nầy, chắc chắn người cộng sản hy vọng rằng: các tổ chức tôn giáo sắn sàng “đón nhận ơn huệ của nhà nước” để thỏa mãn các yêu cầu về nhà đất thay vì phải kiên trì đấu trành cho lý tưởng dân sinh, dân quyền, dân chủ, một sinh hoạt mà đảng cộng sản đặt tên là “diễn biến hòa bình” và luôn đặt hàng đầu trong công tác loại trừ, chống phá.

Với nhận định trên, kính xin các vị chức sắc, các vị lãnh đạo các tôn giáo, hãy tỉnh thức trước chiếc bẩy tinh vi của nhà đương cuộc cọng sản và đừng lôi kéo tổ chức tôn giáo của mình chạy theo những quyền lợi nhỏ nhoi trước mắt để bị ru ngủ trong thái độ cầu an, nô dịch, bỏ lại bao tiếng kêu tha thiết nhức nhối của bao thành phần dân nghèo bị chà đạp, đối xử bất công, không bạn đồng hành, không nơi nương tựa.

Với tâm nguyện của một tín đồ luôn thao thức với tiền đồ dân tộc và tương lai an hòa, đoàn kết, phát triển của các tôn giáo tại Việt Nam, kính mong các vị chức sắc và các vị lãnh đạo các tôn giáo nhận nơi đây tấm lòng hiếu thảo kính yêu.
 
Từ hoa tặc, cây tặc và sự xuống cấp tệ hại chất lượng sống cộng đồng
Trần Tiến Dũng
03:33 10/01/2009
Vào mấy ngày đầu năm Dương Lịch 2009 sự kiện tô đậm trên báo giấy, báo mạng, blog là chuyện: hoa tặc. Danh từ hoa tặc được dùng để định nghĩa hành vi của số đông người đã đã công khai “mở hội” ngắt, hái, bưng, bê... làm tan hoang cả cái lễ hội đường hoa lần đầu tiên được tổ chức ở thủ đô Hà Nội.

Hoa Hà Nội dịp Tết (Photo: AFP/Getty)
Và việc dư luận trên các hệ thống truyền thông lên tiếng báo động với đủ thứ ngôn từ biểu cảm, từ lắc đầu ngao ngán đến phẫn nộ rơi nước mắt... đã cho thấy phần nào sự lành mạnh của dư luận, cũng như cho thấy toàn cảnh một vấn nạn tan hoang khác đó là: Vấn nạn dần dần biến mất những chuẩn mực văn hóa ứng xử cộng đồng của xã hội hôm nay.

T. là một người Sài Gòn, từng được tuyển vào bộ đội vào năm 1976, ông từng là lứa thanh niên ở phía Nam đầu tiên ra Hà Nội học quân sự. Ông kể: “Lúc đó mua tem phiếu uống bia, muốn có bia thì phải đứng canh cái ly của ai đó đang uống để giành ly. Sau đó các cửa hàng bia thủ đô gọi là học tập tp Hồ Chí Minh thực hiện việc phục vụ tại bàn, nhưng chỉ được một thời gian ngắn lại quay lại bán tem phiếu, và khách hàng phải tự phục vụ. Tôi hỏi lý do thì các cô mậu dịch nói phục vụ kiểu trong ấy cứ sơ ý là họ biến đi đằng nào không rõ, mất sạch tiền, chúng em phải đền. Nhân chuyện đường hoa Hà Nội vừa bị vơ vét, tôi kể lại ra việc này vì nhớ hoài những đôi mắt đỏ hoe của các cô mậu dịch, của các bà các chị cột bó rau con cá sau yên xe đạp mà bị kẻ cắp làm cho biến đi đằng nào chẳng rõ.”

Tất nhiên trong cái thời đời sống khó khăn thì chuyện gì cũng có thể tìm ra lý do thông cảm được. Nhưng trong chuyện đường hoa mừng năm mới 2009, và trước đó là chuyện triển lãm hoa anh đào Nhật, cái diện mạo và tâm tính ứng xử văn hóa cộng đồng tệ hại của không ít người mang danh là công dân xứ kinh kỳ, đã làm nhiều người cảm thấy khó hiểu. Họa sĩ TC nói: “Hoa là thứ không thể ăn được vậy thì tại sao!” Một nhà thơ nói: “Khi mà tài sản vật chất công được các quan chức đua nhau nhũng lạm ngon lành mà không bị xử lý triệt để, thì hệ quả đương nhiên sẽ sản sinh ra những hành vi của một số công dân công khai chiếm đoạt tài sản văn hóa tinh thần công cộng.”

Những bài học về tài sản tinh thần công cộng không phải là một thứ triết học hoang tưởng, và không phải là không được truyền đạt trong hệ thống giáo dục hiện nay. Nhưng vụ hoa tặc lần này và một số vụ việc cưỡng đoạt thô bạo tài sản vật chất và tinh thần khác đã khiến những ai có ý thức phải trăn trở. Và có khi không thể ngăn được họ kết luận rằng: Ðã bắt đầu tiến trình tan rã của những nỗ lực giáo dục của cả gia đình và xã hội. Và thủ phạm chính, ai cũng có thể chỉ ra đó là những “tấm gương” nhũng lạm tài sản tinh thần và vật chất công cộng của các quan cộng sản, chính những kẻ núp bóng dưới danh từ mị dân là “đầy tớ” đang công khai thụ hưởng vinh hoa phú quí từ vô số những nguồn của cải bất minh. Vụ án đại lộ Ðông Tây, vụ buôn lậu sừng tê giác, vụ phi công dính vào đường dây ăn cắp và tiêu thụ hàng ăn cắp ở Nhật, vụ một đội phó CSGT hối lộ cả tỷ đồng... Và tất nhiên người ta sẽ không lạ khi ngay sau vụ hoa tặc lại tiếp tục xảy ra vụ cây tặc.

Ngày 13/1 báo Thanh Niên đưa tin: Bà tổng giám đốc Phạm Thị Thanh, công ty vận Tải Thuận Thảo, một đại gia nổi tiếng ở Phú Yên đã công khai cho nhân viên bứng hàng loạt cây xanh công cộng của thành phố Tuy Hòa, đem vào resort của bà trồng làm kiểng. Khi bị bắt quả tang bà Thanh hùng hồn tuyên bố là được phép của chính quyền thành phố bứng cây trồng làm cảnh trên đường phố (tài sản quốc gia) về làm của riêng. Và để “khắc phục hậu quả” ăn cướp cây xanh, bà Cây tặc này hứa sẽ xuất tiền túi cho trồng cây con thay vào!!!

Theo luật thì chiếm đoạt tài sản nhà nước như vậy là bị khép vào tội hình sự nhưng có vẻ như bà Thanh vẫn bình chân như vại. Báo chí chỉ loan tin viên chức địa phương đòi hỏi bà này phải đem trồng trả lại các cây đã lấy cắp khi tin tức đã trở thành ồn ào.

Bất cứ một công dân nào ở Việt Nam cũng có thể thống kê những “tấm gương” ngang nhiên chà đạp luật pháp và các chuẩn mực giá trị công đồng xã hội. Và phản ứng của những người chiếm đoạt hội hoa ở Hà Nội hay những vụ khác tương tự như thế sẽ chỉ là những phản ứng ban đầu, và không ai biết chắc sẽ còn tiếp tục việc gì nữa và đi xa tới đâu. Có thể những phản ứng đó đang gây những hậu quả tiêu cực và đáng phê phán nhưng vẫn có thể thông cảm.

Bởi vì với mỗi con người, ranh giới giữa hành vi tiêu cực và tích cực rất mỏng manh, và một khi họ phải thường trực sống trong một xã hội mà những người có ý thức thượng tôn pháp luật và những chuẩn mực văn minh, tất cả họ thật sự đang bị dồn ép về một phía quá mỏng manh.

Những nhà báo đấu tranh chống tham nhũng, những công dân tìm công lý cho mảnh đất kiếm cơm, những thanh niên biểu tình vì Hoàng Sa-Trường Sa... tất cả họ điều quá mỏng manh. Hay nói cách khác chính vì lòng yêu nước và khát vọng mong cầu một chất lượng sống văn minh đã khiến họ trở nên mỏng manh như thế.

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=89203&z=157, Thursday, January 08, 2009)
 
Trường ca Xuân Dân Tộc
Đinh văn Tiến Hùng
03:39 10/01/2009
Tôi khát khao là một nhà nghệ sĩ,
Hồn lâng lâng và miệng hát ca vang.
Ngón tay tôi không biết nắn cung đàn,
Cho âm điệu bay lên cùng trời đất.
Lòng dạt dào với hồn thơ chứa chất,
Không gọt thành những vần điệu ngân nga.
Bàn tay tôi nào đâu phải ngọc ngà,
Để tô điểm nên bức tranh tuyệt mỹ,
Nhưng hôn tôi trở về muôn thế kỷ,
Với một Dân tộc lịch sử hùng anh.

Việt nam qua bao năm tháng đấu tranh,
Của tiền nhân và cha anh đi trước,
Đem tim gan cùng máu xương giữ nước,
Từ vua Hùng lập quốc hiệu Văn lang,
Đoàn kết trăm con chống giặc ngoai bang,
Tới Trưng Triệu phất cao cờ chính nghĩa,
Dù má hồng giặc tan tành khiếp vía.
Qua nhà Đinh,Lê,nối tiếp Lý, Trần…
Giặc Mông, Hán, Nguyên… xâm lấn nhìều lần,
Đều cởi giáp qui hàng thật nhục nhã.
Bởi dân Việt đâu muốn làm khuyển mã,
Không cúi đầu khiếp nhược trước quân thù,
Sợ ô danh dơ trang sử nghìn thu.
Những Đống đa, Bạch đằng ôi ngời sáng
Những Chi lăng, Diên hồng thề sát đát
Dệt bài thơ Xuân Dân tộc ngàn năm.

Thoát khỏi giặc Tàu đến Pháp thực dân,
Muốn Đất nước ta trở thành thuộc địa,
Xóa Việt nam trên bản đồ quốc tế,
Đưa dân ta trở lại kiếp lầm than,
Nhưng chúng ta quyết không chịu qui hàng.
Nêu cao gương biết bao nhà chí sĩ:
Thái Học, Đình Phùng, Bội Châu, Cường Để..
Những tiếng bom Sa điện xé vang trời,
Đông Du, Văn Thân, Nghĩa Thục… khắp nơi,
Đem khí thế vào mùa Xuân Dân Tộc.

Nhưng Việt nam chưa hoàn toàn độc lập,
Dẹp tan giặc ngoài, bộc phát thù trong,
Cảnh nồi da xáo thịt quá đau lòng,
Nước chia cắt thành hai miền Nam Bắc.
Anh giết em, cha con thành thù hận,
Hơn ba mươi năm nội chiến tương tàn,
Cũng vì một tập đoàn tàn ác gian tham,
Say Mác Lê với tam vô nhị các,
Yêu Bác Đảng, gieo đói nghèo hiểm ác.
Ba triệu dân tìm mọi cách lìa xa,
Xót đau ly biệt Đất Tổ Quê Cha,
Sống phiêu bạt nơi chân trời góc biển,
Vẫn nhớ mình là con dân Nước Việt,
Mong sớm ngày quang phục lại Quê hương.

Xa Việt nam lòng khắc khoải sầu vương,
Tôi muốn được trở thành nhà nghệ sĩ,
Đem tâm hồn về qua muôn thế kỷ,
Lòng lâng lâng và miệng hát ca vang,
Mười ngón tay tôi dìu dặt cung đàn,
Cho âm điệu bay lên cùng trời đất,
Lòng dạt dào với hồn thơ chứa chất,
Tôi ghi thành những vần điệu ngân nga,
Bàn tay tôi dù không phải ngọc ngà,
Quyết tô điểm cho Non sông tuyệt mỹ,
Dựng Việt nam thành Mùa Xuân hùng vĩ,
Một mùa Xuân Dân Tộc Việt rạng ngời...
 
''Năm Giáo dục Gia Đình'': Làm sao giúp con em chúng ta thoát khỏi cảnh học hành dối trá?
Alfonso Hoàng Gia Bảo
14:17 10/01/2009
Đem chuyện tình tư của người khác ra bàn thảo ở chốn công là việc làm đòi hỏi sự thận trọng, dù người ấy có là kẻ đã từng gây khổ đau cho chúng ta. Với ông Hồ Chí Minh (HCM) cũng vậy. Đắn đo, nhưng cuối cùng tôi cũng đành phải đem cái chuyện chẳng đặng đừng này ra viết. Bởi im lặng mãi sao được khi thấy hôm nay con cháu chúng ta đến nhà thờ để được dạy rằng “Chúa là Đàng, là Sự Thật…” và thực tế cuộc sống cũng chỉ trong Sự Thật con người mới tìm thấy Chân – Thiện – Mỹ, thì ngay ngày mai khi cắp sách đến trường, chúng không thể thoát khỏi việc bị thầy cô bắt chiêm ngưỡng ông Hồ như một thánh nhân, với thứ “đạo đức HCM” mà ngày nay chúng ta biết quá rõ, tình tư của ông ta chỉ toàn những chuyện bỉ ổi!

Trong các lớp học tại Nhà nước CSVN
Càng đáng lên án hơn nữa trong lúc nhà cầm quyền buộc con em chúng ta phải ‘lặn hụp’ trong môi trường học tập đầy giả dối phải sửa chữa và thay đổi ‘xoành xoạch’ làm khổ sở nhiều triệu phụ huynh học sinh cả nước, thì họ lại tìm cách gởi con em mình sang các nước tư bản để học những điều hay lẽ phải. Thậm chí chúng còn dùng cả tiền ngân sách tức tiền thuế của chúng ta hoặc bằng tiền tham nhũng để chi trả cho việc ăn học của con cái họ ở ngoại quốc. Thử hỏi còn điều gì bất công, phi lý, đau lòng hơn?

Thấy những điều sai trái mà không dám lên tiếng phản đối, cứ im lặng để mặc tình trạng đầu độc tuổi thơ kéo dài năm này sang năm khác, người lớn chúng ta chắc chắn không thể không có lỗi với các em.

Về phần đạo, các Đấng bậc Giáo hội có nên xem xét cần có thêm những hướng dẫn, biện pháp đấu tranh gì trước mắt để bảo vệ các em thiếu nhi trong họ đạo mình chống lại những sự dối trá ấy? Nếu không, những gìờ giáo lý, những buổi sinh hoạt thiếu nhi học lời Chúa ít ỏi của các em mỗi tuần liệu có trở nên vô nghĩa?


I. Từ chuyện của Fidel đến chuyện của HCM

Nhân kỷ niệm 50 năm quốc khánh Cuba hôm 1/1/2009, BBC Vietnamese có bài viết “Đời tư trong bóng tối của Fidel Castro”, trích thuật lại từ bài “The life and loves of Fidel Castro” của nữ ký giả Christine Toomey trên tờ The Sunday Times kể về một “Fidel đa tình” nổi tiếng chẳng thua kém gì một “Fidel vĩ đại” của nước Cuba.

Thật ra, bài báo trên cũng không đưa ra thêm điều gì mới, ngoài việc có lẽ đây là lần đầu tiên chuyện tư tình của một lãnh tụ cộng sản ‘gộc’ bị đem ra công khai trên báo ngay khi ông này còn sống. Nhưng cũng nhờ có mẩu chuyện về ‘đồng chí Fidel kính mến’ này, mà sau khi đọc xong nó mọi người Việt ắt sẽ phải liên tưởng ngay đến cuộc đời ‘vì dân vì nước’ của một ‘đồng chí đáng kính mến’ khác, đó chính là Hồ Chí Minh, để rồi tự hỏi, chừng nào thì chiếc mặt nạ của vị “cha già dân tộc” này cũng sẽ bị rơi rụng như Fidel?

Sở dĩ chuyện ‘vụng trộm ái tình’ của ông HCM cho đến nay vẫn còn nằm ngoài mục tiêu của báo chí nước ngoài, không phải vì họ thiếu thông tin hoặc thiếu chú ý. Tác giả bài báo viết về Fidel, nữ ký giả Christine Toomey cũng đã từng đến VN nhiều lần. Lần gần đây nhất là chuyến đi 10 ngày hồi đầu năm ngoái. Chuyện tư tình của Fidel đã được bà quan tâm đến từng chi tiết nhỏ như thế thì chuyện vợ con của ông HCM chắc cũng khó lòng nằm ngoài ‘vùng phủ sóng’ của bà, không chừng bà còn biết nhiều chuyện thâm cung bí sử hơn cả chúng ta cũng nên? Nhưng chưa đụng đến có lẽ do họ tôn trọng khi chưa thấy người con rơi nào của ông ta lên tiếng đòi quyền làm con như Fidel, mà bà chưa buồn ‘đụng’ đến.

Từ lâu ở trong nước, chuyện tình tư của ông Hồ bị xem là chuyện kiêng cữ. Chính quyền tất nhiên cũng rất muốn luôn ém nhẹm mọi sự lỡ làng của ông ta, nhưng kẹt nỗi giữa thời buổi thông tin điện tử ngày nay, ‘ngăn sông cấm chợ’ chỉ còn là dĩ vãng và hoang tưởng.

Christine Toomey (phải) cùng con gái tại VN tháng 1/2008 (The Sunday Times)
Chính vì vậy, không phải tự nhiên mà ông Nông Đức Mạnh lúc mới lên làm tổng bí thư 7 năm về trước, đã phải vội ưu ái dành cho tờ TIME một cuộc phỏng vấn riêng nhằm giải tỏa bớt những lời đồn đoán ông ta là con ruột của HCM. Có lẽ vì sợ phải đối mặt với những ánh mắt xăm soi ‘xem ông tân TBT giống HCM chỗ nào’ hoặc những lời dị nghị ‘con rơi, con rớt, con vua rồi lại làm vua’ v.v… chẳng lấy gì là vinh dự từ cửa miệng thế gian.

Việc một lãnh tụ cộng sản ‘gộc’ lại đồng ý để cho báo Mỹ phỏng vấn về đề tài ‘nhạy cảm’ như vậy là chuyện cực hiếm, đủ cho ta thấy chính ông TBT họ Nông cũng nhận thức được tầm vóc quan trọng của vấn đề ‘vợ con ông Hồ’.

Đề tài này ở vào cuối phần phỏng vấn và xem cái cách phóng viên Kay Johnson nhập vai công an để thẩm vấn ông Mạnh về mối liên hệ ruột thịt với ông HCM, rõ ràng nữ ký giả Kay Johnson tin chuyện này là có thật nên mới dồn ép ‘đối phương’ để hy vọng trong khoảng khắc bị ‘ép sân’ vì lúng túng mà ông ta hé lộ ra điều gì chăng.

….

TIME: Suốt sự nghiệp chính trị của ông đã có khá nhiều tin đồn thổi. Trong chiều hướng đổi mới và trong sáng, xin ông cho chúng tôi biết rõ ràng: Hồ Chí Minh có phải là cha đẻ của ông hay không?

- Mạnh: (Tặc lưỡi) Tôi cần phải lập lại và khẳng định điều đó không đúng. Tôi có thể cho bà biết tên của cha mẹ tôi, nhưng họ đã chết cả rồi. Cứ mỗi tháng ba, tôi đều về làng cũ thăm nom mộ phần của cha mẹ. Chị và em tôi vẫn còn sinh sống ở đó. Tôi không hiểu sao lời đồn đại vẫn còn dai dẳng mãi.

TIME: Ngay cả sau Đại hội đảng, trả lời của ông vẫn không rõ ràng khiến người ta vẫn còn nghi ngờ. Thế thì tên của bố đẻ của ông là gì?

- Mạnh: Tên bố tôi là Nông Văn Lai và tên mẹ tôi là Hoàng Thị Nhi. Thông tin này không khó kiểm tra đâu. Về làng tôi thăm hỏi, họ cũng sẽ nói với bà như thế. Nếu người ta cho tôi giống Hồ Chí Minh, tôi nghĩ là trên đời có nhiều người giống nhau thôi (cười).

TIME: Như thế ông không có mảy may liên hệ nào với Hồ Chí Minh?

- Mạnh: Tất cả người Việt Nam đều là con cháu Bác Hồ. Tôi nghĩ cả dân tộc Việt Nam xem Hồ Chí Minh như cha tinh thần, và tôi cũng thế.

TIME: Nhưng không phải là cha ruột?

- Mạnh: Chắc chắn như thế, (Hồ Chí Minh) không phải là bố đẻ của tôi.

Có vẻ như sự nhẫn nhục ‘cắn răng mà cười’ khi bị truy hỏi tới cùng như vậy, đối với một TBT đảng lớn như ông ta là quá sức tưởng tượng! Có lẽ chưa ai dám hỏi thẳng ông ta về những chuyện như vậy trước đó nhưng ông Mạnh phải cam chịu để đổi lấy việc tiếng nói của mình được phép xuất hiện trên một tờ báo tầm cỡ TIME. Chỉ tiếc cho sự hàm hồ “Tất cả người Việt Nam đều là con cháu Bác Hồ”!!! của ông ta.

Câu trả lời ‘thông manh’ lọc lõi này, ở vào địa vị nhân vật quyền lực số một nhưng lại rơi vào hoàn cảnh éo le ‘côi cút’ có dính dáng với một người như ông HCM, bất kỳ ai cũng phải thủ sẵn trong đầu vài câu trong đầu để sẵn sàng đối phó những tình huống bất chợt có thể xảy đến trong giao tiếp.

Nhưng có thật là mọi người VN đều kính trọng ông Hồ không, chắc chắn ông Mạnh phải nắm rõ hơn ai hết, vì làm sao bộ chính trị do ông ta đứng đầu lại không biết hiện trong nước có bao nhiêu ‘quân phản động’!?

Với chúng tôi ông HCM chỉ là kẻ ranh ma và cơ hội. Rà soát lại hết các sách sử kim cổ đông tây, không khó để nhận ra rằng việc cứu nước mình khỏi ách đô hộ ngoại bang mà lại khởi nghiệp bằng con đường làm bồi bếp, thì quả thật chỉ có mỗi ‘anh Ba’ Nguyễn Tất Thành của VN là trường hợp độc nhất vô nhị. Mà từ rày cho đến ngày trái đất này nổ tung ra, chắc chắn thế gian cũng chẳng có vị anh hùng dân tộc nào khác dám ‘noi gương’ anh.

Đảng Csvn bảo con đường ông Hồ đi là sáng suốt, nhưng chúng tôi lại thấy chuyện “tìm đường cứu nước” kiểu của ông Hồ trên chiếc tàu Pháp từ bến cảng Nhà Rồng vào đầu thế kỷ trước, có khác gì việc ngày nay những người dân nghèo ở các tỉnh lên Sàigòn lập nghiệp bằng nghề lao động chân tay và buôn thúng bán bưng?

Họ chỉ có thể kiếm tiền giúp cho gia đình ở quê nghèo sống qua cơn khốn khó nhưng chắc chắn không ‘có cửa’ đem về vinh quang và tương lai sáng lạn về cho dòng họ bằng các em sinh viên đến đây lo chuyện học hành, trau dồi kiến thức.

Nhìn lại lịch sử chúng ta cũng thấy qui luật này được chứng minh hết sức rõ ràng. Sở dĩ Ấn Độ nhẹ nhàng thoát khỏi ách đô hộ của người Anh mà chẳng tốn nhiều máu xương như VN, chính là nhờ họ có một Mohandas Karamchand Gandhi. Sống gần như cùng thời HCM và có hoàn cảnh bị đô hộ giống như VN, nhưng Gandhi sang Anh không phải để làm bồi bếp như ‘anh Ba’ mà để học làm luật sư.

Tôi nhớ đã có lần đọc được đâu đó tài liệu tiết lộ chuyện HCM từng bị một trường Pháp từ chối không cho học vì vấn đề lý lịch không rõ ràng sao đó (?). Không biết đầu đuôi chuyện này ra sao, nhưng nếu HCM thật sự là người có đủ những phẩm chất trở thành lãnh đạo và cũng được đào tạo để trở thành trí thức như ‘Thánh Gandhi’, chắc chắn việc đấu tranh giải phóng của ông ta đã không thể chọn con đường sắt máu và bạo lực mà chúng ta chỉ thường hay gặp ở những bạo chúa hoang dâm, kém tài ít đức.

Thánh Ganhdi không cần cầu cạnh Liên Xô, Trung Cộng viện trợ súng đạn, không cần chủ nghĩa xã hội mà chính nhờ sự hiểu biết uyên thâm xã hội tư bản Anh, Gandhi đã đánh thẳng vào ‘tử huyệt’ yêu chuộng tự do nhân quyền của xã văn minh Phương Tây này, cuối cùng người Anh cũng đành phải ‘chào thua’ ông ta và phải trao trả lại độc lập cho dân Ấn. (Hà Nội sau này mới biết ứng dụng nó vào phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ và hương Tây thập niên 70s khiến Mỹ phải rút quân khỏi VN thì đã quá muộn!).

Trong khi đó, ông HCM lại đi rước bầy voi voi quốc tế về giày xéo mồ tổ! Dùng súng đạn Nga Tàu để biến VN thành bãi chiến trường. Chúng tôi đã nói nhiều lần, hai con đường giải phóng dân tộc ấy khác xa nhau về hiệu quả lắm, xin ông Mạnh nhớ kỹ điều này chớ vội vơ đũa cả nắm, không phải ai cũng ngưỡng mộ HCM cả đâu!

Trở lại cuộc phỏng vấn, biết rõ ông Mạnh là tay dối trá và nói năng hàm hồ nên khi phát hành, tờ TIME có vẻ như đã chơi chữ ông ta bằng cách ‘chộp’ lấy mỗi đoạn '…We Don't Want to Keep Secrets Anymore' trong câu trả lời đầu tiên đem đặt tên cho toàn bộ bài viết ‘Chúng tôi không muốn giữ bí mật nữa’ nghe rất lấp lửng và đầy ‘khiêu gợi’ tạo cho người đọc tưởng ông Mạnh muốn ‘bật mí’ chuyện vợ con ông Hồ (mà thật ra lúc này Kay Johnson chưa đả động gì đến ông HCM cả).

Bài này tuy đã cũ nhưng tính thời sự của nó vẫn chưa hết, Quí vị nào quan tâm có thể xem lại bằng cả tiếng Việt lẫn bản gốc tiếng Anh ở đây:

http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=print&sid=2311

http://www.time.com/time/world/article/0,8599,195506,00.html

II. Trách nhiệm lịch sử?

Nhưng cho dù việc không có chuyện đòi ‘quyền làm con’ này xảy ra, những bí mật về chuyện ‘vợ hờ con tạm’ của ông Hồ thiết nghĩ rất khó thoát khỏi ‘lưới’ lịch sử. Bởi là một nhân vật ‘vĩ đại’ từng gây điêu đứng cho hàng triệu người dân bằng chủ nghĩa cộng sản, cuộc đời ông ta sẽ còn là ‘nguồn hứng khởi’ cho nhiều sử gia đi tìm hiểu.

Sau khi đảng cộng sản LX sụp đổ gần hai thập niên trước, nhiều tài liệu mật liên quan đến ông Hồ cũng đã được tìm thấy nhưng chưa phải đã đầy đủ. Đảng cộng sản TQ và VN chắc chắn cũng không thể trường tồn vĩnh cửu, vì thế còn nhiều bí ẩn chung quanh chuyện vợ con ông Hồ chưa được biết đến.

Và ngoài ra còn phải kể đến nhờ nhiều nguồn thông tin xác thực từ những người thân cận của ông HCM. Như việc ông Vũ Kỳ nguyên là thư ký riêng đã tiết lộ lai lịch lịch đứa con nuôi tên Vũ Trung của ông thật ra là con của ông Hồ, đã khiến chuyện vợ con của ông Hồ không còn là chuyện bịa đặt nữa.

Chỉ hai năm sau khi VN có internet, những thông tin đầu tiên về nhân vật Nguyễn Tất Trung này (hay còn có tên là Vũ Trung) là con ruột của ông Hồ Chí Minh đã thấy bắt đầu xuất hiện trên mạng vào 1997 từ nhiều nguồn khác nữa. Qúi vị có thể tìm thấy chúng như trong cuốn “Ðêm Giữa Ban ngày” của Vũ Thư Hiên hoặc loạt bài “Hãy giải oan nghiệt cho dòng họ Nguyễn Tất” theo đường link sau http://www.vietnamexodus.org/vne/vnenews/thoisu/NTTphan_1.htm.

Lãnh tụ Fidel Castro theo kết luận của Christine Toomey trên tờ The Sunday Times “Đó là một tay tán gái chuyên nghiệp với bao nhiêu con cái ngoại hôn không ai biết”, thế còn ông HCM thì sao?

Được biết “vị cha già” này đã từng ăn ở không chính thức với rất nhiều phụ nữ khác nhau từ lúc mới tập tễnh sang Pháp, sang Nga, Trung Quốc và cho tới lúc ‘mò’ về lại VN vào giữa những năm 40 gần như ở đâu cũng có vợ.

Trong một bài viết ngắn chúng tôi chỉ có thể tóm tắt một vài tên tuổi phụ nữ có liên quan đến cuộc đời ông HCM, được dư luận đề cập nhiều những năm gần đây như sau:

- Với bà Tăng Tuyết Minh. Khoảng 1927-1929 tại Quảng Đông TQ và kết thúc khi HCM trốn sang Hong-Kong. Theo một sử gia người Trung Quốc, sau này khi cách mạng thành công và trở thành chủ tịch nước, ông Hồ Chí Minh có tìm cách liên lạc với Tăng Tuyết Minh, nhưng mọi thư từ đều không tới tay bà.

- Với bà Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1931, lúc còn lưu lại ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc hình như bắt đầu một cuộc tình mới với một phụ nữ người Việt Nam trong nhóm cách mạng của ông. Người phụ nữ đó là Nguyễn Thị Minh Khai… Mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai mặc dù không công khai là vợ chồng. Tuy nhiên, một số thư từ và báo cáo mật trong nội bộ Đảng Cộng sản Đông dương đề cập đến Nguyễn Thị Minh Khai như là “la femme de Quoc,” và dữ kiện này cho các nhà sử học Tây phương một chứng cớ để cho rằng hai người có quan hệ tình cảm vợ chồng. Trong một tờ khai lí lịch đảng viên [bằng tiếng Nga] của Nguyễn Thị Minh Khai còn lưu trữ tại Moscow, trong phần gia đình, bản lí lịch ghi chồng là Nguyễn Ái Quốc, nhưng có dấu viết gạch bỏ lời khai này.

- Với bà Nông Thị Ngát. Trước năm 1940 Hồ Chí Minh hoạt động ở rừng Việt Bắc, thời gian nầy Pháp thường truy đuổi tàn quân theo chủ nghĩa cộng sản của HCM. Ông ta phải rút vào rừng sâu ở gần biên giới Viêt- Trung và hang Pacpo. HCM được sự chăm lo của 1 hộ lý tên Nông thị Ngát.( HCM sửa tên cho bà ta là Nông thị Trưng ). Hồ Chí Minh quan hệ với Nông thị Ngát. Năm 1940 bà ta sanh được đứa con trai là Nông Đức Manh đương kiêm Tổng bí thư Đảng cộng sản VN hôm nay.

- Với bà Nông Thị Xuân. Trong thời gian ở nầy ông có để ý đến 1 cô gái Dân tộc Tày tên là Nông Thị Xuân. Năm 1950 Nông Thi Xuân được 14 tuổi. Năm 1956 Hồ Chí Minh được làm chủ tịch nước, lúc nầy Hồ được 66 tuổi và ông ta chỉ thị cho trung ương Đảng đến Cao Bằng rước Nông Thị Xuân về Hà Nội làm hộ lý cho Ông ta. Đến năm 1957 Nông Thị Xuân sanh được 1 đứa con trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung.

Ngoài ra, khi ở LX, Nguyễn Ái Quốc tức HCM được Cộng sản Quốc tế “cấp cho” một bà vợ người Nga và hai người đã sinh một người con gái, hồ sơ lưu nầy còn lưu trử ở Moscow và trong cuốn hồi kí ngắn, “Dọc đường gió bụi” ông Trần Trọng Kim viết rằng ông Hồ còn có quan hệ tình cảm và có con với một người nữa tên là Đỗ Thị Lạc.

III. Vì sao phải giả dối?

Thiết nghĩ đối với bất kỳ người đàn ông bình thường nào, bấy nhiêu ‘bà’ cũng đã là quá không bình thường huống gì là lãnh tụ một quốc gia, càng làm lớn càng phải sống có tư cách hơn người dân bình thường.

Chúng ta hẳn vẫn chưa quên vụ tổng thống Bill Clinton mới chỉ có dấu hiệu ‘léng phéng’ với cô nàng Monica Lewinsky thôi cũng đã phải ra tòa tuyên thệ đủ thứ và vụ scandal này suýt biến thành ‘Watergate’ thứ 2 khiến ông B.Clinton phải gãy gánh dọc đường như Nixon.

Chuyện vợ con gian dối của HCM và Fidel đặt ra cho chúng ta câu hỏi, điều lệ đảng cộng sản không hề qui định ai muốn trở thành lãnh đạo phải sống độc thân, vậy vì lý do gì mà họ phải lén lút chuyện vợ con như những thằng ăn trộm? Trong khi với quyền lực và sự ngưỡng mộ của dân chúng trong tay, họ hoàn toàn có thể có vợ đẹp con ngoan như gia đình các lãnh đạo quốc gia khác. Ai bắt họ phải làm thế trong khi có những lãnh đạo sống độc thân thật sự như cố tổng thống Ngô Đình Diệm, thì lại chẳng bao giờ lấy chuyện không vợ con của mình ra gọi đó “đạo đức” hay “vì nước quên mình” hòng lừa bịp dân chúng?

Trong khả năng hiểu biết và suy nghĩ hạn hẹp của người không nghiên cứu về lịch sử, người viết chỉ có thể đưa ra lời giải thích về các ‘lỗ hổng’ của họ như sau:

1./ Vá ‘lỗ hổng’ cho chủ thuyết: Bản chất cách mạng của chủ nghĩa cộng sản đi ngược lại trào lưu tiến bộ chung của nhân loại. Trong lúc càng văn minh con người càng muốn trở nên độc lập thì chủ thuyết này lại đề cao tính ‘đại đồng, bầy đàn’ vì thế mà họ rất thiếu nhân tính trong cách hành xử.

Để ‘dụ’ được dân tin theo buộc họ họ phải núp dưới những lớp vỏ đạo đức nhưng chiếc áo đạo đức không thể khoác lên vai ‘cộng sản chủ nghĩa’ vì cả hai đều là những phạm trù tinh thần trừu tượng rất khó nhìn thấy, khó thuyết phục được những tầng lớp nghèo khổ, ít học. Vì thế mà đảng cs phải ‘hiện thực hóa’ nó bằng các ‘hình tượng’ cụ thể và không còn gì hay hơn bằng chính các lãnh tụ của họ.

2./ Trám ‘lỗ hổng’ cho lãnh tụ: Bản thân các lãnh tụ cộng sản như Fidel và HCM cũng đang rất cần đều điều này. Bởi họ leo lên nắm quyền không bằng con đường tiến thân học vấn mà bằng sự lăn lộn đấu tranh ngoài thực địa. Cũng giống như tất cả các nhà nước cộng sản khác, sự nghiệp của cả Fidel và HCM đều bằng hai vụ cướp họ gọi là “cướp chính quyền”.

Tâm lý chung của con người giàu có và quyền thế sau một quãng đời gian truân, cái mà họ thèm khát nhất và là cái họ sẽ không bao giờ tìm được, đó là tuổi thơ chuyện học hành cùng những giá trị tinh thần khác. Có lẽ vì vậy mà những người này luôn cảm thấy thiếu thốn thậm bất an. Kinh nghiệm của người giàu nhất hành tinh chúng ta hiện nay là bằng chứng của tâm lý này, Bill Gates cũng đã từng ‘đau khổ’ và tỏ vẻ hối tiếc chuyện bỏ học sau khi đã thành tỷ phú ra sao chắc mọi người cũng đã nghe nói. Tình trạng bằng cấp giả tràn làn ở VN cũng xuất phát vì lý do này. Lớp thanh niên xung phong dưới thời ông Võ Văn Kiệt nay đang phủ kín hàng ngũ lãnh đạo thành phố Saìgòn, như Huỳnh Ngọc Sỹ ngày xưa anh hùng đào kênh mương thủy lợi nhưng nay ai nấy đều bằng cấp cử nhân với tiến sĩ quấn đầy người !

Việc tìm cách khỏa lấp ‘tử huyệt’ của các lãnh tụ cộng sản, có thể ví như chuyện các quí bà không mấy xinh xắn thường thích tìm đến các thẩm mỹ viện. Dù rất chăm chút tô vẽ lại cái vỏ bề ngoài cho mình, nhưng vẫn không bao giờ là khuôn mặt, vóc dáng thật của họ, thậm chí có những trường hợp còn trở nên lố bịch, phản tác dụng.

Tấm ảnh chụp ông Hồ chỉ huy dàn nhạc hát bài Kết Đoàn, niềm tự hào về “cha già dân tộc đa tài” (sau đa tình) có thể xem là ví dụ khác.

Ai từng học nhạc đều biết, để cầm được chiếc đũa nhạc trưởng, mọi nhạc sinh phải mất tối thiểu 8-10 năm học trong các trường nhạc. Ông Hồ không học nhạc lấy nửa ngày, sao lại dám ‘vung tay quá trán’? Mục đích của việc ‘lăng xê’ này là gì nếu không phải để bóng trình độ năng lực (một cách lố bịch) của một ông già 70 tuổi? Bạn bè quốc tế nhất là các nước Phương Tây với trình độ thưởng lãm nhạc cổ điển cao họ sẽ nghĩ gì khi được giới thiệu về ông Hồ với vai nhạc trưởng trong tấm hình này trong viện bảo tàng HCM?

Đi đôi với việc xây dựng huyền thoại về tài năng, đức độ trong các xã hội cộng sản, còn có cả một ma trận thêu dệt khác đằng sau những bức màn sắt bưng bít thông tin. Sống trong một cái ao tù không thông với sông lớn, con cá lóc bảo với lũ nòng nọc chúng ta đang ở Thái Bình Dương thì chúng cũng phải tin đó là sự thật.

Khi viết bài này, tôi rất muốn tìm tấm hình HCM chụp chung với một trong số các ‘qúi bà’ của ông ta nhưng không bao giờ tìm thấy như Fidel. Đã có khá nhiều tư liệu hình ảnh ông từ khi còn ở hang Pácbó còn lưu giữ, chẳng nhẽ khi đã làm chủ tịch nước ở giữa Hà Nội mà lại không chụp hình với bà Nông Thị Xuân hay Nguyễn Tất Trung? Vấn đế là tất cả sự thật đã bị chế độ cộng sản che giấu quá kỹ, thậm chí thủ tiêu như chính số phận bà Xuân.

Tóm lại, cũng giống như trong một gia đình, một khi con cái còn tin rằng bố mẹ chúng là những ông bố bà mẹ tốt đã và đang hết lòng yêu thương, lo lắng, hy sinh chăm sóc chúng, thì dù họ có nghèo hèn, sống khổ cực đến đâu, đối với người Á Đông chúng ta vốn luôn xem chữ Hiếu là quan trọng, con cái cũng khó có đứa nào nỡ ruồng rẫy bố mẹ mình. Nhưng lỡ có đứa phát hiện ra rằng bố mẹ chúng xưa vì ăn chơi trác táng mà nghèo một lúc bất bình nào đó lên tiếng bêu rếu phản đối, thì liền bị xã hội lên án là “nghịch tử”. Rất có thể Fidel đã học tập mánh khóe đóng vai ‘bố già dân tộc’ này nơi HCM, vì là dân Châu Mỹ, chắc chắn ông không thể hiểu vai trò quan trọng của tình phụ tử bằng HCM để mà khai thác nó.

Khi xây dựng hình tượng “cha già dân tộc”, đảng Csvn và ông Hồ hiểu rất rõ tác dụng của huyền thoại Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện các anh hùng “lấy thân mình bịt lỗ châu mai” trong trận Điện Biên Phủ. Nhờ hai hình tượng giả dối này mà Việt Minh đã đẩy được vài ngàn thanh thiên miền Bắc lao vào chiến trường Điện Biên như những con thiêu thân.

Đem đời mình ra làm bia “cha già dân tộc” ông Hồ mất gì? Chẳng mất gì cả, bất cứ khi nào cần phụ nữ cũng đã có thuộc hạ lo lại được tiếng “bác vì lo cho gia đình lớn mà quên gia đình nhỏ của mình” Như vậy ‘bác’ được còn nhiều hơn là mất!

Chính nhờ có nhiều kiểu ‘bánh vẽ’ trên mọi lĩnh vực xã hội miền Bắc những năm tháng chiến tranh, trong đó có cái bánh vẽ rất lớn là về HCM mà chế độ này mới có thể lừa dối gần hai mươi triệu người dân suốt mấy chục năm.

Bởi vậy, sau khi ông Hồ mất, dù rất tốn kém đảng cũng phải làm cái lăng ông thật to chi phí bảo dưỡng cái xác chết hằng năm tốn kém không ít nhưng vẫn phải bám víu vào huyền thoại này. Bởi nếu để mất nó chắc chắn chế độ này sẽ chết theo.

IV. Hậu quả

Tất nhiên người đầu tiên phải lãnh hậu quả từ những chuyện trăng hoa này, không ai khác chính là những người vợ và những đứa con rơi rớt cùng cha khác mẹ chào đời ở khắp nơi của ông ta, chẳng những họ không được ông Hồ công khai nhìn nhận là vợ con, mà ngược lại, ngay đến sự an toàn của cũng bị đe dọa.

Về chuyện này chúng tôi đánh giá HCM còn tệ hơn cả Fidel khi không dám nhìn nhận bất cứ người con nào, trong khi F.Catro ít ra cũng đã thể hiện được vai trò làm cha, tấm hình bên là bằng chứng.

Fidel Castro và con gái Alina Fernandez ngày cưới năm 17 tuổi
Nếu chỉ vì những hậu quả gia đình của họ thôi, chắc chẳng ai thèm bỏ công ra ngồi viết làm gì vì thế gian xưa nay còn có lắm vua dâm ô phóng đãng hơn HCM nhiều lần.

Sở dĩ chúng tôi phải đem vấn đề ‘vợ con của HCM’ ra đây, như đã nói ngay từ đầu bài viết, vì nó không còn là chuyện nội bộ của một gia đình mà bị nhiều người xem là vấn đề lịch sử nghiêm trọng. Nguyên nhân là do chính ông ta đã ‘toa rập’ cùng nhà cầm quyền VN ngay từ lúc còn sống đã thêu dệt nên chuyện “suốt đời sống độc thân để lo cho nước cho dân” lấy đó làm lý do để bắt dân chúng, đặc biệt là các em học sinh, sinh viên cả nước phải học tập gương ‘đạo đức HCM’ nhưng mặt trái của vấn đề này ra sao, như đã trình bày trên, toànlà những chuyện hết sức bỉ ổi !!!

Với thế hệ chúng tôi, bây giờ đảng Csvn có đem ông ta ra ‘đánh bóng’ lại vài chục lần mỗi năm họ cũng không thể làm thay đổi được điều gì, vì thế hệ chúng tôi đã biết quá rõ về ông ta.

Nhưng vấn đề lại trở nên cấp bách và quan trọng với hàng triệu các em học sinh, sinh viên trong nước là tương lai của cả dân tộc chúng ta. Bởi làm sao có nổi một VN văn minh tiến bộ ngày mai nếu hôm nay các em vẫn bị tiếp tục nhồi nhét muôn điều dối trá?

Trong thực tế khi phát hiện ra chuyện vợ lén con lút của HCM, các em sinh viên học sinh sẽ phải đối mặt với những gì? Đã có hai trường hợp xảy ra:

1./ Một anh bạn học gặp tôi kể rằng, con trai anh chắc do tình cờ đọc được một số bài anh copy từ mạng lưu trong máy tính về ông Hồ, khi vào lớp em đã đem chuyện vợ con của ông ta ra hỏi các bạn học xem có ai hay biết chuyện này hay không? Lập tức chuyện này bị mấy ‘cây ăngten’ đoàn viên báo cáo cho ban giám hiệu. Và thế là ngay hôm sau con anh bị giáo viên chủ nhiệm lớp, theo lệnh của nhà trường gọi con anh ta lên văn phòng để điều tra về nguồn thông tin và sau đó họ còn điện thoại cả về gia đình hỏi thăm, làm cả nhà phải một phen lo ‘sốt vó’.

Thế đấy! Qua cách đối phó của họ, chúng ta có cơ sở để tin rằng chính nhà trường cũng biết quá rõ về chuyện ‘con rơi - vợ rớt’ của ông Hồ nên mới tỏ ra lo lắng hốt hoảng như vậy. Tuy nhiên kiểu quan tâm ‘hình sự hóa’ vấn đề như vậy đã khiến con em chúng ta và thậm chí cả phụ huynh không khỏi lo lắng. Nhà trường bảo là ‘nhắc nhở’ mà thực chất là hăm dọa “nếu em còn tuyên truyền nói xấu bác Hồ sẽ bị đuổi học!”

Thật đáng xấu hổ cho thiên chức nhà giáo của không ít giáo viên, giáo sư ngày nay. Chỉ vì miếng cơm manh áo mà họ sẵn sàng bán tay với đảng bắt con em chúng ta phải lặn ngụp trong môi trường học tập dối trá.

2./ Nhưng nếu các em biết mà vẫn im lặng chấp nhận giống thầy cô, mọi chuyện liệu có ổn không?

Thiết nghĩ tình trạng hàng loạt những vụ tai tiếng nhục nhã do các quan chức ‘danh giá’ VN gây ra trên trường quốc tế gần đây chính là câu trả lời chính xác nhất cho sự im lặng của xã hội chúng ta đang sống bấy lâu.

Mấy chục năm trước khi chuyện du học chưa đưọc dễ dàng như bậy giờ, ắt hẳn các ‘công dân ưu tú’ như các ‘quí ông’ Huỳnh Ngọc Sỹ, giám đốc một dự án tham nhũng vốn ODA tại Sàigòn đang chờ ngày ra tòa, ‘quí bà’ Bà Vũ Mộc Anh, bí thư thứ nhất Sứ quán Việt Nam ở Nam Phi bị tố giác buôn lậu sừng tê giác, ‘quí anh’ Đặng Xuân Hợp, phi công Vietnam Airlines bị cảnh sát Nhật bắt giữ sau chuyến bay từ Hà Nội hạ cánh xuống phi trường quốc tế Narita tại Nhật vì tội tiếp tay vận chuyển hàng ăn cắp v.v… cũng đã từng phải ‘lặn hụp’ trong môi trường học tập giả dối như con em chúng ta hôm nay.

Sau khi rời ghế nhà trường, chắc chắn họ phải tiếp tục tự nguyện nâng cao việc nhào nặn cùng dối trá thêm nữa thì mới có cơ hội tiến thân sau khi gia nhập đảng nên mới được cho ngồi vào những chỗ ‘hái ra tiền’ như vậy.

Và bây giờ thì những kết quả “phấn khởi hồ hởi” của cái qui trình “trăm năm trồng người” theo kiểu ông Hồ đã sản sinh ra cho đất nước những ‘trái đắng’ như họ !!!

Khi cả một xã hội mà mọi người đều phải ngầm hiểu với nhau rằng, những gì chúng ta đang thấy đấy, đang nghe đấy đều là không cái có thật, thì tương lai đất nước ấy sẽ trôi về đâu nếu không phải chuyện ai có điều kiện chỉ còn biết lo thu vén cho cá nhân?

V. Làm gì bây giờ?

Trước những sự thực và bằng chứng ‘người thật việc thật’ sờ sờ ra trên các trang báo, diễn đàn khắp nơi vậy mà chính quyền cộng sản vẫn cứ xem như không có chuyện gì xảy ra, vẫn luôn ca tụng ông là “vì nước vì dân mà hy sinh hạnh phúc riêng tư cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc” và còn yêu cầu cán bộ đảng viên nhân dân phải “học tập đạo đức HCM”. !!!

Dân chúng phải sống trong một xã hội ngập chìm những sự giả dối như vậy chẳng trách sao họ, đảng viên càng học đạo đức của ông Hồ tình hình tham nhũng, buôn lậu làm những chuyện mất danh dự tổ quốc càng tệ hại, như xe tuột dốc mất phanh.

Gần đây giới lãnh đạo ‘chóp bu’ Hà Nội dường như cũng đã bắt đầu nhận ra ‘tư tưởng HCM’ đang trở nên lỗi thời mất giá, vì thế họ đang có ý định ‘giải phẩu’ lại ông Hồ lần nữa để còn có thể tiếp tục ‘xài’ được lâu hơn và lần này rất có thể họ đang nhờ bàn tay của một chuyên gia Nhật ‘refresh’ lại!

Tại một cuộc hội thảo quy tụ hàng trăm nhà nghiên cứu trong ngoài nước được tổ chức tại Hà Nội trung tuần tháng 12/2008 vừa qua, GS. Yoshiharu Tsuboi, Đại học Waseda, giới thiệu bài viết "Khảo cứu lại về Hồ Chí Minh" mà theo BBC “Một chuyên gia người Nhật đã thu hút chú ý của người tham dự Hội thảo Việt Nam học ở Hà Nội, với bài thuyết trình nhận định ông Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng hòa chứ không phải cộng sản”!!!

Chuyện này xảy ra giữa một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn ‘nước phải sống chung với lửa’ do kinh tế thị trường phải chống chọi lại nhà nước XHCN, chúng ta có thể tiên đoán rằng một khuôn mặt lố bịch mới của ông Hồ đang được Hà Nội lên khuôn để giải quyết cho những mâu thuẫn nội tại của hệ thống chính trị VN hiện nay.

Bởi vì với lời tuyên bố cực kỳ phản động “HCM không phải là cộng sản” làm lung lay đến tận ngóc ngách của chế độ nếu chẳng được chính quyền VN ‘bật đèn xanh’ cho phép, chắc chắn việc “Lê Lai cứu Chúa” này đã không thể xảy ra, nếu ông giáo sư ấy không muốn ‘giỡn mặt’ đảng Csvn. Nếu chuyện này mà xảy ra khoảng thập niên 80, chỉ cần đề xuất thôi, ông ta chắc chắn đã gặp không ít rắc rối, không chừng bị bị nhốt vào Hỏa Lò vì tội gián điệp khỏi có đường trở về Nhật với vợ con luôn!?

Nhưng dẫu đảng csvn có nhào nặn thế nào, con người giả dối của HCM vẫn bất di bất dịch. Ngày nào chế độ này còn tồn tại, khoảng hai triệu các em học sinh, sinh viên công giáo chúng ta dù không muốn nhưng vẫn cứ phải lặn hụp trong sự học hành giả dối của họ.

Trước thềm năm mới 2009, năm được mệnh danh là “Năm Giáo dục Gia đình Công Giáo”, khi mọi người đã biết quá rõ nhà trường XHCN-VN đang nhồi nhét vào đầu óc non nớt của các em bao điều giả dối, một vấn đề lớn và nóng bỏng có lẽ nên được đặt ra cho các Đấng Bậc trong giáo hội, các Cha Xứ các họ đạo, các Soeurs, các anh chị giáo lý viên và tất cả cộng đồng công giáo chúng ta ngay từ bây giờ, là cần làm gì để hạn chế lại những tác hại của những dối trá ấy?

Xin dành câu trả lời cho mỗi người trong chúng ta. Vẫn biết việc làm này bây giờ chẳng còn sớm, nhưng vẫn tốt hơn trước khi mọi chuyện trở nên quá muộn !

Sàigòn, 10/1/2009
 
Ngăn chặn một Âm Mưu Diễn Biến Hòa Bình
Ngô Nhân Dụng/ Người Việt
14:32 10/01/2009
Bùi Minh Quốc là một thi sĩ. Năm ngoái ông gặp bạn thơ Phan Ðắc Lữ, người Quảng Nam. Phan Ðắc Lữ kể chuyện gửi bản thảo một tập thơ để xin nhà Hội Nhà Văn xuất bản. Nhưng các vị chức sắc trong hội này đã kiểm duyệt, cắt sửa nát các bài thơ ra, Phan Ðắc Lữ thấy chúng không còn là thơ của mình nữa, nên chán không muốn in. Trong số những đoạn thơ bị cắt, có 4 câu này:

Tổ Quốc ta nơi nào cũng đẹp
Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau
Sông là máu đừng đem mua bán
Núi là xương đừng lấy đổi trao.


Bùi Minh Quốc rất ngạc nhiên. Ðây là những câu thơ ca ngợi đất nước trẻ em nào cũng nên học thuộc lòng! Tại sao có người Việt Nam nào lại kiểm duyệt, cấm một thi sĩ Việt Nam không được làm thơ kêu gọi người Việt yêu nước Việt?

Câu trả lời là: Nếu có những người đã “bán núi sông” và “buôn xương máu” của dân Việt Nam, thì chính bọn đó không muốn người Việt nào nghe những câu thơ hô hào lòng yêu nước như vậy.

Khi biết danh tính các người trong Hội Nhà Văn đã cầm kéo kiểm duyệt cắt 4 câu thơ trên là ai, Bùi Minh Quốc càng ngạc nhiên. Vì không hiểu tại sao hai ông này đã thay đổi nhiều đến nỗi như thể họ đã tự biến thành những “công cụ cho thế lực vong bản bên trong và bành trướng bên ngoài?”

Thế lực “bành trướng” từ bên ngoài, Bùi Minh Quốc đã nói thẳng, đó là Trung Quốc. Còn “thế lực vong bản bên trong” là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bùi Minh Quốc, cư ngụ tại thành phố Ðà Lạt, đã viết một bài gửi cho nhật báo Nhân Dân và cho tất cả các tờ báo cùng mạng lưới khắp thế giới. Âm mưu “Diễn Biến Hòa Bình” mà ông công khai tố cáo là một âm mưu của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc với sự đồng lõa của các lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Âm mưu này nhằm nắm vận mệnh nước Việt Nam qua mối liên hệ giữa hai đảng cộng sản “trước là đồng chí sau là anh em.” Trung Quốc đã làm công việc “diễn biến” này từ hơn nửa thế kỷ tới giờ. Có những đảng viên cộng sản trong Hội Nhà Văn đã “tự diễn biến” khi họ cấm cả những bài thơ ca ngợi lòng yêu nước, như trong câu chuyện kiểm duyệt thơ Phan Ðắc Lữ. Nhìn thấy kết quả như vậy, Bùi Minh Quốc phải báo cho các đảng viên cộng sản khác biết, đồng thời báo động với toàn thể mọi người Việt Nam, ở trong nước và ngoài nước.

Muốn thấy âm mưu “diễn biến hòa bình” này bắt đầu từ bao giờ, Bùi Minh Quốc dẫn lời ông Hoàng Tùng, một đảng viên cộng sản lâu đời, nguyên bí thư trung ương Ðảng, và trưởng ban tuyên giáo trung ương. Xin nhắc lại, năm 1949 Cộng Sản Trung Quốc chiếm được chính quyền, năm sau họ bắt đầu chi viện cộng sản Việt Nam. Ông Hoàng Tùng kể hai phái đoàn cố vấn Trung Cộng, do La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cầm đầu, sang Việt Nam năm 1950, họ đã đưa ra một đề nghị mà nếu thi hành thì sẽ tiêu diệt gần hết tinh hoa trong quân đội. Lúc đó, chúng ta biết, toàn dân Việt Nam muốn tham gia chiến đấu chống quân thực dân Pháp, cho nên những thanh niên ưu tú đã bỏ thành phố về thôn quê, lên rừng núi tham gia kháng chiến. Một số nhỏ những người này là đảng viên Cộng Sản, còn phần lớn đi kháng chiến chỉ vì lòng yêu nước và tình đoàn kết dân tộc. Ông Hoàng Tùng kể, có người đã đưa cho các cố vấn Trung Cộng một danh sách các sĩ quan gốc gác gia đình không phải là công nhân và nông dân, để thi hành kế hoạch gạt họ ra ngoài quân đội. Nếu điều này được thực hiện thì những người ưu tú nhất chắc chắn sẽ bị loại, vì lúc đó những thanh niên có học vấn và khả năng lãnh đạo nhất đều thuộc thành phần gia đình tiểu tư sản, địa chủ, quan lại, vân vân, chứ bần cố nông có ai được đào luyện làm sĩ quan đâu! Khi Hồ Chí Minh biết, ông đã ra lệnh đốt bản danh sách đó đi. Theo lời Hoàng Tùng kể, ông Hồ nói rằng ông lo nếu thay thế “bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ” nữa. Câu nói đó chứng tỏ mối quan tâm của Hồ Chí Minh có tính cách chiến thuật, ông không muốn thi hành ngay kế hoạch của các cố vấn Trung Quốc vì sợ trong quân đội sẽ thiếu cán bộ. Không thấy ông nói rằng chủ trương đó sai lầm vì sẽ làm mất nhân tài của dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã học được kinh nghiệm của Lenin đối với vấn đề Do Thái. Khi đảng Bôn Sơ Vích chiếm được chính quyền, nhiều người trong đảng muốn loại bỏ những người Nga gốc Do Thái trong guồng máy kinh tế, hành chánh và ngân hàng. Nhưng Lenin không cho, vì sợ không còn ai để làm việc nữa! Theo chiến thuật “lùi một bước, tiến hai bước,” Lenin đã “thu dụng” người Do Thái, để sau này Stalin thanh toán dần dần. Chắc các cố vấn Trung Quốc cũng phải nhìn thấy lý luận thực tế của ông Hồ, nên họ chấp thuận.

Bùi Minh Quốc nhận xét rất xác đáng: “Qua vụ việc ông Hoàng Tùng kể, ta thấy cái đòn ‘diễn biến hòa bình’ của Trung Quốc trước hết nhằm vào quân đội ta (hãy nhớ đến luận điểm “súng đẻ ra chính quyền, súng chỉ huy Ðảng” của Mao Trạch Ðông).”

Có thể nói âm mưu của các tổng cố vấn La Quý Ba, Vi Quốc Thanh là tiêu diệt sinh lực của dân Việt Nam, chứ không phải chỉ muốn vô sản hóa quân đội người Việt. Không thực hiện được âm mưu này ngay năm 1950 vì lý do chiến thuật, mấy năm sau các cố vấn Trung Quốc đã đi những bước khác, qua các đợt “chỉnh huấn,” “cải cách ruộng đất.” Hồ Chí Minh đã hoàn toàn “nhất trí” với các cố vấn, chính ông đứng ra kêu gọi toàn đảng và toàn dân, toàn quân ủng hộ các chiến dịch này. Nên nhớ năm 1950 ông Hồ đã được Mao Trạch Ðông cho tháp tùng trong chuyến đi sang Liên Xô để được gặp Stalin. Và năm 1952, sau khi lãnh ý của các cố vấn Trung Cộng rồi, ông Hồ còn gửi bản kế hoạch cải cách ruộng đất sang Mát Cơ Va xin Stalin cho ý kiến trước khi thi hành. Nhưng chính Cộng Sản Trung Quốc có mưu toan riêng trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam từ năm 1952, một hậu quả là gây chia rẽ trong lòng dân tộc trong lúc còn đang cần đoàn kết để chống Pháp. Khi chiến dịch cải cách ruộng đất được phát động, nhiều người đã bỏ kháng chiến về thành phố, vì thấy Hồ Chí Minh đã tự bỏ cái mặt nạ dân tộc mà ông vẫn đeo từ năm 1940, tự để lộ rõ bộ mặt quốc tế cộng sản của ông.

Bùi Minh Quốc nhìn thấy mục tiêu của các cố vấn Trung Quốc trong cải cách ruộng đất là do “mưu đồ nham hiểm” năm 1950 bất thành, nhưng các cố vẫn đã làm lại qua cuộc cải cách ruộng đất. Và họ đã “thành công ở qui mô chưa từng thấy, dưới một hình thái bi thảm chưa từng thấy: (Ðó là) Ðảng ta tự đưa mình vào cảnh dùng tay nọ chặt tay kia. Hàng nghìn cán bộ đảng viên, hầu hết là những người tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất, những người con ưu tú nhất của Ðảng, của dân tộc bị giết, bị hành hạ, tù đầy, số sống sót thì bị vô hiệu hóa. Hàng vạn người dân lương thiện, trong đó nhiều người là ân nhân của cách mạng và kháng chiến cũng chịu cảnh tương tự.” Ðó là những lời thống thiết của một cựu đảng viên cộng sản!

Bùi Minh Quốc so sánh kết quả tai hại do âm mưu các cố vấn Trung Quốc gây ra: “Tổn thất này (lớn) vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa.” Sau cuộc cải cách ruộng đất, dù sau này đảng Cộng Sản phải sửa sai vì dân oán thán, nhưng hậu quả còn lại là: “Ðường lối giai cấp trong công tác cán bộ chính thức xác lập.” Ðường lối này do các cố vấn Trung Quốc chỉ đạo đã “đưa hàng vạn nông dân thất học vốn hiền lành chất phác nhưng được bồi dưỡng để nói điêu, tố điêu rất giỏi, thoắt cái đã trở thành cán bộ cốt cán. Khối đại đoàn kết toàn dân chỉ còn là hình thức, Mặt Trận trở thành nơi trình diễn sự đoàn kết bề ngoài, bên trong là đoàn kết’ kiểu chơi cha thiên hạ.”

Ðó là lời tố cáo Ðảng Cộng Sản Việt Nam của cựu đảng viên Bùi Minh Quốc, người đã bị bắt, bị giam vì dám một mình đi lên ải Nam Quan và thác Bản Giốc tìm hiểu tại sao cửa ải và ngọn thác đã bị biến vào lãnh thổ Trung Hoa.

Theo Bùi Minh Quốc thì người đóng vai trò then chốt làm nội gián cho kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” của Trung Quốc là ông Lê Ðức Thọ. Bùi Minh Quốc viết: “Xin hãy nhớ, Lê Ðức Thọ nắm (chức trưởng ban) tổ chức, có thời gian còn nắm luôn cả (ban) tư tưởng, mấy chục năm liên tục cho tới 1986.”

Lê Ðức Thọ nổi bật lên trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống Ðảng” do ông ta làm trưởng ban chuyên án, được phong (hoặc tự phong) là “tư lệnh đánh xét lại”, mà sau này nhà ngoại giao Nguyễn Khắc Huỳnh trong hồi ký của mình nhận xét rằng đó chỉ là “thủ đoạn nham hiểm dựng ra vụ án nhằm thanh toán các đồng chí thật sự tài đức để thoái đoạt quyền bính. Hàng trăm cán bộ sĩ quan trung cao cấp trong và ngoài quân đội cùng gia đình họ bị tù đày, hành hạ triền miên, có người đã chết trong tù,...” theo lời Bùi Minh Quốc.

Bùi Minh Quốc đặt câu hỏi: “Có bao giờ âm mưu và thủ đoạn diễn biến hòa bình của Phương Tây và của các thế lực bành trướng cổ truyền Trung Quốc đạt kết quả to tát như thế chưa?” Và ông trả lời: “Chưa!” Ông giải thích, vì Trung Quốc biết “bành trướng thông qua mối quan hệ giữa hai Ðảng cầm quyền.”

Bắc Kinh đã dùng mối quan hệ đó làm vũ khí biến đảng Cộng Sản Việt Nam thành đàn em lệ thuộc vào đàn anh Cộng Sản Trung Quốc. Từ mối quan hệ đó, các quyết định chính trị của nước Việt Nam cũng tùy thuộc chính sách của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.

Tại sao âm mưu “Diễn Biến Hòa Bình” của Trung Quốc lại thi hành được? Theo Bùi Minh Quốc thì đó là do đảng Cộng Sản để cho “công tác cán bộ vẫn do một người hoặc một nhóm người quyết định mà người dân chẳng biết đâu mà lần.” Nhưng chúng ta biết, âm mưu Diễn Biến Hòa Bình qua quan hệ hai đảng này cũng chỉ thực hiện được nếu đảng Cộng Sản nắm vững độc quyền chính trị, như điều 4 trong hiến pháp bảo đảm!

Cho nên, muốn ngăn chặn âm mưu Diễn Biến Hòa Bình của Trung Quốc thì trước hết cần chấm dứt chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam. Ngay từ bây giờ, các đảng viên cộng sản Việt Nam phải chấm dứt chế độ một nhóm người tự tung tự tác nắm toàn quyền trong đảng của họ. Thanh toán được tệ nạn đó rồi, mới có thể trả lại quyền cho dân tộc Việt Nam, dân chủ hóa đất nước, nhờ thế mà chấm dứt các thủ đoạn Diễn Biến Hòa Bình của nước cộng sản đàn anh phía Bắc!

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=89229&z=7) Thursday, January 08, 2009
 
Chỉ thị 1490/CT-TTg và những kẻ tráo bài ba lá
Lê Sáng
14:57 10/01/2009
1490/CT-TTg VÀ NHỮNG KẺ TRÁO BÀI BA LÁ

"Bài ba lá" là hình thức dùng bài tây đánh bạc bằng cách chỉ lấy các quân từ Át đến 9 rồi chia cho người chơi (thường từ 3 người trở lên) mỗi người được chia 3 quân, sau đó cộng điểm lấy dãy số tự nhiên từ 0 đến 9 làm chuẩn, ai hơn là thắng, nếu bằng điểm, thì lấy thứ tự chất (Rô-Cơ-Nhép-Bích) theo cây cao nhất của bài để phân định. Hình thức chơi này luôn gắn liền với đánh bạc, không phải một trò giải trí lành mạnh. Vì việc tổ chức chơi đơn giản, không tốn phí… Nên lưu manh, xã hội đen hay dùng để dẫn dụ người chơi rồi đánh tráo bài… Thắng – thua là do nó sắp đặt. Thường khi tổ chức chơi, lưu manh xã hội đen điều hành một cách khéo léo thắng thua vừa phải để che mắt người chơi, nắm bắt tâm lý, đoán định tình thế, xử lý tình huống rất nhanh… Ăn nói rất mềm mỏng, hành xử rất hợp lý… Luôn "hào phóng" cho kẻ cháy túi chút tiền để có lộ phí mà về… Nhưng nếu bị con bạc phát hiện, ngay lập tức nó giở võ lực hiếp đáp gí dao vào cổ, sẵn sàng giết người không run tay. Trong từng canh bạc, hay những cuộc xô sát do có chuẩn bị trước, lưu manh, xã hội đen luôn là kẻ thắng.

Tráo bài ba lá, là một thuật ngữ tự phát trong xã hội. Nó nhằm chỉ những kẻ lưu manh, lừa đảo, ăn gian, tráo trở, lá mặt lá trái, lừa được người thì ngọt nhạt giả nhân với cái vỏ bọc lịch sự tử tế, không lừa được thì ngay lập tức phùng mang trợn mắt trở mặt tấn công không từ thủ đoạn đê hèn, giết người chẳng gớm tay.

Chính trị vốn là một lĩnh vực phức tạp nhất của xã hội loài người. Hoạt động, tồn tại, thăng tiến trong lĩnh vực chính trị thường là những người có khả năng nhất định. Đặc biệt những chính khách - Người hoạt động chính trị chuyên nghiệp, có tiếng tăm, có vị trí hàng đầu thường là những người rất giỏi đoán định, xử lý tình thế, lời ăn tiếng nói thường có nhiều nghĩa để có thể xoay sở… Xã hội loài người có quá nhiều kinh nghiệm xương máu về cái sự "xoay sở" của các chính khách, cho nên nhiều luật lệ được đặt ra để đảm bảo nó có giới hạn, và không gây hại cho cộng đồng. Ấy vậy mà các chính trị gia vẫn có thể lách được luật, họ xoay sở, dẫn dắt vấn đề, sự việc theo ý riêng, đem luật ra làm thước đo, vẫn không bắt bẻ được họ…

Vì thế xã hội loài người phải dùng thêm ngôn luận, dư luận, đạo đức… để giám sát, giới hạn hành vi các chính khách bất lương. Nhìn chung, kết quả giám sát các chính trị gia bằng luật lệ, ngôn luận, dư luận, đạo đức… Còn tuỳ thuộc vào lương tâm của họ. Nếu họ cứ nhất quyết "tráo bài ba lá" thì không có cơ chế nào tỏ ra có hiệu lực tuyệt đối cả…

Lịch sử xã hội loài người đã ghi nhận biết bao nhiêu sự kiện chính trị gia tráo bài ba lá, gây nên thảm hoạ núi xương sông máu... Thảm khốc nhất, lâu dài nhất có lẽ việc là các chính khách cộng sản dùng học thuyết cộng sản vô luân để đánh tráo chân lý từ thời họ làm cách mạng cướp chính quyền cho đến hôm nay, khi mà học thuyết phá sản, bộ máy nhà nước cộng sản của họ tự tan rã… Dù phải từ bỏ cả học thuyết cộng sản, phải xây dựng một nhà nước bầu cử tự do, nhưng họ vẫn tráo bài ba lá, làm cho vô hiệu mọi cơ chế giám sát bằng luật lệ, hay bằng tự do ngôn luận… Lèo lái quốc gia dân tộc vào một cuộc phiêu lưu mới rõ ràng không phải vì lợi ích của nhân dân, người công chính.

1) Chuyện tráo bài ba lá ở nước Nga:

Trong các chính khách đương đại là cộng sản, hoặc có ngồn gốc cộng sản, cộng sản trá hình… Điển hình của tráo bài ba lá là Putin - Cựu tổng thống - Đương kim thủ tướng - Tương lai tổng thống Nga. Tiểu sử của Putin tương đối rõ ràng, và ai cũng được biết, ông ta khởi nghiệp là một đảng viên cống sản, sĩ quan tình báo của Liên Xô, được tổng thống đầu tiên nước Nga hậu cộng sản là Boris Elsin đưa lên quyền tổng thống trước khi tranh cử - Một khởi điểm trên đầu các ứng viên tổng thống khác của nước Nga trong cuộc bầu cử 2000. Đương nhiên Putin thắng cử. Dẫu sao về mặt hình thức nước Nga cũng đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa cộng sản cho nên các vấn đề bầu cử, luật lệ cũng phải cải thiện theo tiêu chuẩn văn minh Âu châu… Cho nên dù muốn dù không, Putin vẫn phải điều hành quốc gia một cách minh bạch văn minh hơn thời cộng sản, không thể tuỳ tiện như thời Liên Xô… Nhưng hãy xem Putin làm những gì:

Sau khi lên nắm quyền, Putin không chỉ xiết chặt các luật lệ hạn chế quyền tự do dân chủ, mà có nơi, có lúc, người ta thấy bóng dáng của những cuộc thanh toán bằng ám sát, giết chóc bằng tai nạn… đối với những người mà chế độ của ông ta liệt vào danh sách nguy hiểm. Để cho các màn kịch này hoàn hảo, vấn đề tự hào dân tộc được Putin đưa lên hàng đầu… Thi hài, lăng mộ lãnh tụ cộng sản Lenin được ông ta ra chỉ thị tiếp tục cho duy trì, mặc dù có luồng dư luận rất lớn từ thời Borit Elsin cho dẹp bỏ theo di nguyện của chính Lenin. Putin cũng biết rằng duy trì lăng mộ và thi hài Lenin sẽ tốn kém đối với ngân sách Nga và vớ vẩn đối với văn minh nhân loại. Nhưng lại làm vừa lòng hàng chục triệu người Nga đã chót đi theo chủ nghĩa cộng sản vì bị lừa dối (?) không dám đối mặt với sự thực phũ phàng…

Kèm theo vấn đề tự hào dân tộc là Putin cho thực hiện chính sách an sinh xã hội tốt hơn thời của Borit Elsin, người hưu trí có cái ăn cái mặc... Chính sách bài ngoại cũng được tiến hành một cách rất khéo léo, hợp lý: Cấm người nước ngoài kinh doanh bán hàng trực tiếp tại chợ, nương tay với các vụ việc thanh niên Nga có đầu óc dân tộc chủ nghĩa tấn công giết chóc người nước ngoài…

Thay vì hoà giải với người đang sống, Putin cho hoà giải với những người đã chết, đã đi vào lịch sử: Ông ta công khai phê phán chính sách tập chung cải tạo của Xtalin, đến thăm các trại cải tạo, thắp nến tưởng niệm các nạn nhân… Trong khi đó các trí thức, chính khách có quan điểm khác với ông ta, không xu thời, thì bị chèn ép, thậm chí ám sát thủ tiêu… Các dân tộc thiểu số của nước Nga bị giám sát chặt chẽ, bị đàn áp rất tinh vi và thực hiện chính sách bịt miệng không cho kêu ra ngoài quốc tế…

Những năm cuối của nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, Putin cho tầu chiến, máy bay từ thời Liên Xô chạy lòng vòng, bay búa xua trên trời dưới biển… Rồi tuyên bố sẽ ngắm bắn vào chỗ nọ, ném bom vào chỗ kia nếu làm mất cân bằng quân sự của Nga… Với những chuyên gia về chính trị, quân sự thì đó chỉ là tiếng la ó, chứ thực hiện được là chuyện không tưởng. Nhưng đối với dân Nga, nó như làm sống lại thời kỳ Liên Xô siêu cường… Trong con mắt dân Nga, Putin là anh hùng dân tộc vì hoà bão lớn lao… Trong con mắt của cộng sản việt nam, Putin là niềm hy vọng cho một liên minh đã mất, nay quay trở về?…

Tại sao Putin lại thực hiện được các chính sách nêu trên? Trước tiên phải nói đến cách thức điều hành rất bài bản của một sĩ quan tình báo, nhưng một yếu tố vô cùng may mắn cho Putin là ông ta có tiền để thực hiện các ý đồ chính trị của mình… Phần lớn tiền Putin có được không phải do phát triển kỹ nghệ, giao thương, mà chủ yếu là do bán tài nguyên rất giầu có trên đất Nga…

Sau hai nhiệm kỳ tổng thống kèm theo nhiều may mắn bởi có nguồn tài chính lớn từ việc dầu mỏ, khoáng sản được giá trên thị trường, trong khi tài nguyên rất dồi dào tại Nga và được Putin cho triệt để khai thác. Putin không cần phải tại vị mà đưa một đàn em chẳng hề có chút kinh nghiệm nào trên chính trường quốc tế lên làm tổng thống - Một tổng thống "Putin" có tên mới là Medvedev nên đương nhiên các chính sách của Putin được sao y bản chính. Cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra… Chính sách của Putin về phục hồi niềm tự hào đại Nga bị các nước láng giềng từng bị Nga đô hộ trong liên bang xô viết nhận ra không mấy khó khăn, nghĩa là sảo thuật tráo bài ba lá của Putin bị lộ… Gruzia một quốc gia láng giềng nhỏ bé công khai vạch mặt trò cờ gian bạc lận của Putin, và thế là xô sát sảy ra, dao được gí vào cổ… Nhưng giết cả một dân tộc không đơn giản như giết một con bạc. Xét riêng một "canh bạc" nhỏ này đương nhiên Putin thắng. Xét toàn cuộc xin được trình bày sau vì vần đề quá lớn, một bài báo không đăng tải được.

Cao điểm của việc tráo bài ba lá là Putin chỉ thị cho đàn em Medvedev sửa hiến pháp nâng nhiệm kỳ tổng thống lên 6 năm, chuẩn bị cho việc quay lại làm tổng thống trực tiếp nước Nga hai nhiệm kỳ nhưng bằng ba nhiệm kỳ… Và như thế Putin có thể làm tổng thống nước Nga 5 nhiệm kỳ trong khi hiến pháp Nga chỉ cho 1 người giữ chức vụ tổng thống tối đa 2 nhiệm kỳ "liên tiếp" - Sự hớ hênh trong thuật ngữ khi xây dựng hiến pháp của giới lập pháp Nga?

Phương pháp thủ đoạn gì cũng có giới hạn, chỉ có chân lý mới vĩnh cửu trường tồn. Tráo bài ba lá để lên nắm quyền, bán tài nguyên để lấy tiền thực hiện ý đồ chính trị… Tráo mãi rồi cũng bị lộ. Bán mãi nếu chưa hết thì người ta cũng không mua, giá sẽ rớt, còn 1/2; 1/3; hay ế ẩm, rẻ mấy cũng không có người mua… Lúc đó không lẽ cứ gí dao vào cổ khắp lượt láng giềng??? Tiền lấy ở đâu ra mà vung vít vào các ý đồ chính trị thiếu nhân bản đây???

2) Tráo bài ba lá trong vụ vườn hoa nước mình:

Nói cho đúng, phải là chuyện chính sách luật pháp về đất đai ở Việt Nam, chứ không phải vụ vườn hoa. Nhưng vì hai cái vườn hoa mà chính quyền cộng sản cho xây dựng siêu nhanh từ chính sách cướp đất siêu dài (hơn nửa thế kỷ) là thời điểm hành vi tráo bài ba lá bị bắt quả tang cho nên sự kiện hai cái vườn hoa "siêu đẳng" kia sẽ vĩnh viễn ghi vào lịch sử cho dù người muốn kẻ không mặc lòng.

Trong số chính khách của cộng sản việt nam đương đại, Nguyễn Tấn Dũng được cho là người trẻ, danh giá, cấp tiến, có đầu óc cải tổ, được lòng quốc tế và quan thầy cộng sản Trung Quốc… Lại nằm trong chính sách bồi dưỡng đào tạo sàng lọc "nhân tài cộng sản" tìm "Thánh" sau thời "Thánh Hồ Chí Minh" có vẻ như đã tuyệt chủng…

Nguyễn Tấn Dũng lên làm thủ tướng không qua bầu cử dân chủ bằng Putin. Nhưng cũng không phải cái chức thủ tướng từ trên trời rơi xuống. Ông ta cũng phải làm nhiều sảo thuật ít ra là trong nội bộ đảng cộng sản việt nam, vì ông ta không có học thức bằng cấp gì chính qui, công trạng cũng thua xa nhiều đảng viên uỷ viên trung ương khác. Khi sự kiện toà Khâm sứ nổ ra cuối 2007, Dũng vào toà TGMHN, theo chân Tổng Giám Mục Hà Nội ra tận hiện trường để các "phóng viên tự do" chụp cả hình, rồi "nhẫn nhịn" nghe, xem TGMHN chỉ tận nơi, nói tận mặt… Thật là một sự mềm mỏng chưa từng thấy của những chính khách cộng sản, vốn nổi tiếng hống hách hơn cả vua quan phong kiến. Sau đó diễn tiến của sự việc như thế nào, ai cũng đã biết: Bị Tổng Giám Mục Hà Nội sỉ thẳng vào mặt về cái gọi là "Giới thiệu một địa điểm khác để TGM-HN làm thủ tục xin đất cấp mới" – Trò tráo bài ba lá của Nguyễn Tấn Dũng coi như bị bể.

Tên lưu manh mặt rỗ trán bóng quay ngoắt 180 độ, chỉ đạo thuộc cấp cắn xé TGM-HN. Đương nhiên giết một Tổng Giám Mục Công Giáo không đơn giản như giết một con bạc… Mọi chuyện ngày càng bung bét, cộng sản việt nam liên tiếp gặp "vận đen" thế là những người cộng sản theo chủ nghĩa vô thần khoa học mới viện đến cả thầy phù thuỷ… Thành uỷ Hà Nội phải xoay cả cổng chính, từ phố Tôn Đản sang phố Ngô Quyền… Bộ chính trị, trung ương đảng, chính phủ họp kín họp hở phí phạm thời gian, phí phạm tiền bạc của dân mà chưa gỡ được mớ bòng bong về chính sách đất đai… Chính sách luật pháp kiểu "Tráo bài ba lá" – Đúng đúng là sai, sai sai là đúng. Trong đúng có sai, trong sai có đúng… Một mê hồn trận đầy rẫy cạm bẫy do chính người cộng sản tạo ra, bây giờ chính người cộng sản là nạn nhân. Mỗi bước đi lại giẫm phải bẫy của chính mình… Thảm cảnh ! Thảm hoạ ! Muốn thoát được, người cộng sản cũng thừa biết.

Ngày 31/12/2008 Nguyễn Tấn Dũng ký chỉ thị về đất đai liên quan đến cơ sở tôn giáo số 1490/CT-TTg (*) Ngày 05/01/2009 nó được công bố. Nội dung của nó lại là những từ ngữ lại lập lờ, hiểu được nhiều nghĩa… Người thì nói là Dũng có ý răn đe quan chức tham nhũng thiếu gì nơi gì chỗ mà lại đi "ăn đất" của tôn giáo làm cho mọi sự rối tung, tổn hại danh tiếng nhà nước ra tận ngoài quốc tế… Quan chức địa phương khôn hồn thì phải sắp xếp hài hoà "Lợi ích tôn giáo và lợi ích dân tộc"… Kẻ lại bảo là Dũng răn đe tu sĩ các tôn giáo đừng có kích động quần chúng đòi đất rồi làm "diễn biến hoà bình" lật đổ chế độ cộng sản mà người cộng sản dầy công vun đắp bằng núi xương sông máu…

Nếu có kiến thức về Luật, có hiểu biết về bản chất của nhà nước cộng sản Việt nam người ta dễ dàng nhận ra cái chỉ thị 1490 này là sự nối tiếp cái nghị quyết ăn cướp số 23/2003 của quốc hội bù nhìn cộng sản. Và nó nằm trong một chỉnh thể thống nhất các chính sách cướp bóc của chế độ cộng sản từ xưa đến nay. Thực chất Nguyễn Tấn Dũng là kẻ kế tục cầm cái trong băng nhóm cờ gian bạc lận chuyên tráo bài ba lá, dù Dũng muốn hay không cũng phải ký cái chỉ thị kia… Nhưng khi thực hiện đám quan chức cấp dưới liệu chừng mà "tráo bài ba lá" để các tôn giáo dù có "Cháy túi" cũng phải có chút "lộ phí" mà về… Nếu làm hỏng canh bạc, dù là ngựa đầu dòng, giữa dòng hay cuối dòng cũng sẽ bị thay vì sự an toàn cho cả băng nhóm…

Đối với các tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo, từ Vatican, đến hội đồng Giám Mục Việt Nam, hay từng giám mục tu sĩ… Không phải họ không biết mấy trò tráo bài ba lá của những kẻ lưu manh, họ lại càng không dễ mà sa vào mê trận cờ gian bạc lận của cộng sản... Nhưng chủ đích của họ là dùng đức bác ái, đức nhẫn nhịn, sự hy sinh liên nỉ kêu gọi sự thống hối, thay đổi từ trong tâm hồn con người, vì đó mới là thay đổi thực sự và bền vững. Cho nên bao nhiêu năm nay họ không chỉ trích, không làm mất mặt kẻ gian, để chờ đợi sự phản tỉnh… Họ sống cùng cộng sản, nhưng không thể theo cộng sản. Nhưng nếu dùng vũ lực mà ép họ phải theo cộng, phải làm trái luân lý, phải từ bỏ lẽ công bằng, phải chấp nhận bất công… Đó là bách hại Công Giáo. Người cộng sản hãy xem lại giáo sử Công Giáo để được biết Công Giáo làm gì với các cuộc bách hại.

Một thủ tướng cộng sản đến tận nơi gặp Tổng Giám Mục Hà Nội hứa trả lại tài sản cho êm chuyện trước một chuyến công du sang Mỹ, rồi sau đó tráo trở không giữ lời hứa đứng đằng sau giật dây cấp dưới dùng thủ đoạn đê hèn của xã hội đen tấn công giáo dân tu sĩ Công Giáo, tài sản không ăn được thì đạp đổ biến thành vườn hoa công cộng… Đến tận bây giờ vẫn thói cờ gian bạc lận, trước công an, quân đội thì hô hào cảnh giác, chỉ thị phải thẳng tay đàn áp để bảo vệ chế độ… Nhưng trước HĐGMVN thì vẫn ngọt nhạt nói chuyện thương lượng giải thuyết thoả đáng… Vờ có thiện chí chủ động xin tiếp xúc với Vatican… Rồi xua nghị sĩ bù nhìn sang tận Âu châu phát ngôn điên loạn… Đúng là một băng đảng tráo bài ba lá đang đến hồi kết.

Đem so ông Putin ở tận nước Nga, với ông Nguyễn Tấn Dũng ở cạnh vườn hoa Ba Đình, ông Dũng không phải đối mặt với luật, vì luật là do ông ta, đảng của ông ta độc quyền ban hành, sửa đổi tuỳ thích. Ông ta cũng không phải đối mặt với dư luận, ngôn luận, đạo đức, vì những cái này đều phải đi ở lề bên phải theo chỉ thị của chính ông ta cũng như cái đảng độc tài của ông ta phát lệnh… Vậy mà làm gì cũng hỏng, đến một chút tinh thần dân tộc chủ nghĩa đối với đất đai biển đảo, biên giới quốc gia của tiền nhân để lại đang bị trung quốc ngang nhiên lấn chiếm, mà cũng không dám để dân chúng nói lên bằng lời… Cho nên Nguyễn Tấn Dũng chẳng qua cũng chỉ là kẻ tráo bài ba lá hạng bét mà thôi.

Kết thúc của những kẻ tráo bài ba lá là thế nào xin hãy nhìn lại lịch sử, một thẩm phán công bình không ăn hối lộ, và chẳng vị thân sơ.
 
Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
Chúc mừng hai tân Linh mục Dòng Đồng Công
LM Giuse Nguyễn Thanh Liêm
17:00 10/01/2009

CHÚC MỪNG


Chúc mừng Tỉnh dòng Đồng Công, Hoa Kỳ
và 2 tân chức Linh mục:

Thầy Đaminh Maria Nguyễn Hoan Lương, CMC
Thầy Laurensô Maria Nguyễn Châu Hy, CMC


sẽ được Đức Cha James Johnston
Giám Mục Giáo Phận Springfield-Cape Girardeau
truyền chức Linh Mục vào Thứ Bảy, ngày 10 tháng 01- 2009
lúc 10:30 sáng, tại Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ, Carthage, Missouri

Xin Thiên Chúa, Mẹ Đồng Công,
Thánh Cả Giuse, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
xuống nhiều ơn cho các Tân Linh Mục trung thành theo ơn gọi
và hăng say Phục vụ Dân Chúa

Thánh lễ mở tay của tân Linh Mục Lương sẽ được cử hành
ngày Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa 11-1-2009

Thánh Lễ tạ ơn của tân Linh Mục Hy sẽ được cử hành
ngày Thứ Hai 12 tháng Giêng 2009

Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Kỷ niệm 50 năm thành lập các trại định cư tại miền Nam và công lao của các vị cha già
Trần Vinh
00:54 10/01/2009
KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP CÁC TRẠI ĐỊNH CƯ TẠI MIỀN NAM VÀ CÔNG LAO CỦA CÁC VỊ CHA GIÀ

Các vị cha già là danh xưng vừa đầy lòng kính trọng vừa dạt dào tình cảm thương mến, biết ơn của đồng bào di cư Công Giáo tị nạn Cộng Sản 1954 dành cho các vị linh mục có công dẫn dắt họ đi mở xứ. Mặc dù là thế, nhưng trong bài này, chúng tôi xin gác sang một bên khía cạnh tôn giáo, chỉ thuần đứng trên phương diện đời, phương diện dân sự để đánh giá công lao của các vị cha già trong công cuộc di cư 1954 mà chúng tôi coi như là một cuộc di dân vĩ đại, đưa dân đi từ Bắc vô Nam để khai khai khẩn đất đai, tạo dựng đời sống ấm no, an cư lạc nghiệp cho hàng trăm ngàn đồng bào vào thời kì đặc biệt của đất nước sau Hiệp định Genève chia đôi lãnh thổ năm 1954.

Chúng tôi viết bài này vì gia đình chúng tôi cũng ở trong đoàn lưu dân ấy. Lúc đó tuy tuổi còn nhỏ, song chúng tôi vẫn còn nhớ tình cảnh đồng bào di cư đã phải trải qua tại các trại định cư lúc ban đầu đầy khó khăn. Chúng tôi đã nhìn thấy vai trò lãnh đạo của các vị linh mục cần thiết như thế nào trong việc ổn định cuộc sống mới cho đồng bào. Sau này lớn lên đi ra ngoài xã hội, mỗi khi có dịp trở về một trại định cư năm xưa, chúng tôi đều kinh ngạc về khả năng thay hình lột xác mau chóng và tốt đẹp trong đời sống mọi người. Công cuộc định cư đã thành công tốt đẹp, chẳng những là ơn ích cho chính những lưu dân mà còn là phúc lợi xét về nhiều mặt cho đất nước nữa.

Nhiều sách báo đã nói về cuộc di cư vĩ đại năm 1954, nhưng chưa có tác giả nào đề cập tới công lao của hàng trăm vị linh mục đã góp sức đáng kể vào sự thành công tốt đẹp cho công cuộc này. Hôm nay nhân là thời điểm kỉ niệm việc thành lập các trại định cư được đúng một nửa thế kỉ, chúng tôi cảm thấy cần phải nói lên tình cảm biết ơn đối với các vị cha già bằng cách tuyên dương công lao của các vị. Các vị linh mục năm xưa ấy hầu hết đã ra người thiên cổ, chỉ một số rất ít còn sót lại nay đã lên bậc đại thọ. Tuy là chậm trễ song vẫn hơn là không bao giờ.

Cuộc di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954 đã đưa vào Miền Nam gần một triệu đồng bào miền Bắc. Trong số này, có khoảng 200 ngàn quân nhân, công chức và dân các thành thị, đã cung cấp cho Miền Nam (VNCH) nhiều người có tài năng, học thức, đóng góp xuất sắc trên các lãnh vực: chính trị, hành chánh, an ninh, quân sự, văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật, kinh tế, thương mại, khoa học kĩ thuật, v. v.. Nhưng thành phần ưu tú này không phải là đối tượng của bài này. Ở đây chúng tôi chỉ nói tới khối đa số đồng bào di cư thuộc thành phần thợ thuyền và nông dân Công giáo. Họ là những người bình dân, là nông dân chưa bao giờ ra khỏi lũy tre làng, nay vì nạn Cộng Sản mà phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy vào Miền Nam xa xôi, tương lai không biết sẽ ra sao. Họ mới là thành phần cần có người lãnh đạo, hướng dẫn trong cuộc sống mới. Người hướng dẫn, lãnh đạo họ chính là các vị linh mục được sai tới.

Trong tình hình rối loan lúc đó, mỗi người, mỗi gia đình trốn thoát Cộng Sản một cách khác nhau. Chỉ có rất ít trường hợp vị linh mục ra đi cùng giáo dân, đa số là những cuộc vượt thoát cá nhân, không có tổ chức. Gia đình chúng tôi trốn khỏi làng bằng 3 đợt khác nhau. Cuối cùng chúng tôi được gặp lại nhau tại trường trung học Dũng Lạc cạnh nhà thờ lớn Hà Nội, trước khi được tổ chức đi máy bay Dakota vào Sài Gòn. Không biết vị linh mục chính xứ của chúng tôi ra đi cách nào, chỉ biết chắc là ông đã phải bí mật vượt thoát, bởi khi Cộng Sản về làng, chúng tôi còn thấy ông mặc bộ quần áo màu nâu, hằng ngày cuốc đất ngoài vườn, mặt lúc nào cũng đăm chiêu lo lắng. Cảnh ông linh mục cuốc đất chúng tôi chưa từng thấy xẩy ra trước đó.

Lúc ban đầu, hàng trăm linh mục di cư thuộc 10 giáo phận miền Bắc và Bắc Trung phần sống tập trung với nhau tại những địa điểm riêng của từng giáo phận di cư. Đến khi các trại đinh cư được thành lập, các linh mục lần lượt được giáo quyền gửi đi theo với giáo dân. Đồng bào Công giáo chiếm tới 80% tổng số dân di cư và đa số họ là những nông dân, một số ít là ngư phủ, cho nên hầu hết các trại định cư cũng trờ thành các xứ đạo, họ có khuynh hướng chọn làm nghề cũ và ở rất nhiều nơi, những người đồng hương lại tìm về với nhau. Do đó mà có các địa danh như Hà Nội, Hà Đông, Hải Dương, Tân Hà, Bắc Hà, Lạng Sơn, Bùi Chu, Tân Bùi, Bùi Môn, Phát Diệm, Tân Phát, Bùi Phát, Thanh Hóa, Tân Thanh, Tân Sa Châu, Kẻ Sặt, Xã Đoài, Phúc Nhạc, Ninh Phát, Kim Thượng, Bạch Lâm, Ngọc Đồng, v.v.

Theo luật lệ thuở trước, các linh mục Công giáo được huấn luyện kĩ lưỡng qua 7 năm Trung học (Tiểu chủng viện), rồi ít nhất là 2 năm Triết học, 1 năm đi thử và 4 năm Thần học, trước khi có thể trở thành linh mục. Do đó, vừa vì niềm tin tôn giáo của giáo dân vào thiên chức linh mục, vừa vì các linh mục, nói chung, có kiến thức cao hơn giáo dân cho nên giáo dân rất kính trọng các linh mục. Gặp thời buổi quốc biến, trong lúc nông dân Công giáo di cư tị nạn Cộng Sản đang lâm cảnh biệt xứ, hoang mang, lạc lõng thì các linh mục được sai tới với họ tự khắc trở thành người lãnh đạo họ cả về tinh thần lẫn vật chất.

Về tinh thần, hàng ngày, sớm tối, các linh mục cùng với bổn đạo tụ họp để kinh sách, lễ hạt, giảng giải, đem đến nguồn an ủi vô biên, niềm tin kính tuyệt đối vào tình thương của Chúa Nhân Lành, giúp cho tín hữu cảm nhận đầy đủ nghị lực hầu có thể vượt qua mọi đau thương thử thách. Chúng tôi đã từng tham dự thánh lễ ở ngoài trời tại một vài trại định cư, vì cảnh chân ướt chân ráo trại chưa kịp dựng lên một nơi thờ phượng, dù là bằng cây lá thô sơ. Chính trong cảnh thiếu thốn vật chất ấy, dường như lại thấy giầu có hơn, sung mãn hơn về tin tưởng, sốt mến.

Lúc ban đầu này, vị linh mục không phải chỉ chăm lo phần tinh thần cho đồng bào mà còn đóng vai trò lãnh đạo phần đời lo đời sống vật chất cho đồng bào ở trại định cư nữa, bởi vì ông là người hiểu biết luật lệ thủ tục hơn, có uy tín hơn. Ở trại định cư nào chúng tôi cũng thấy chính vị linh mục, cùng với vài ba giáo dân thân tín, tương đối có trình độ và lòng chung hơn, đã đôn đáo, đi đi về về, lo tiếp nhận và phân phát những đồ viện trợ như quần áo, thực phẩm, máy may, nông cụ, v.v.. Có một số trại định cư vì một lí do nào đó xét thấy không thích hợp cho cuộc sống mới của đồng bào, vị linh mục đã ‘nhổ’ toàn trại ra đi tìm một nơi sinh sống thuận tiện hơn. Công việc này thật sự khó khăn, nhưng các vị linh mục ấy đã làm được, chẳng hạn như linh mục Phạm Bá Nha đã đưa đồng bào từ Đốc Vàng, Châu Đốc về tái định cư tại An Hiệp, Bến Tre; linh mục Nguyễn Duyên Mậu đưa đồng bào từ Hố Đồn, Tây Ninh về tái định cư tại Ninh Phát, Long Khánh, v. v.. Tại một số trại, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã làm nhà sẵn cho đồng bào, cách xếp đặt trang trại do Phủ Tổng Ủy quy hoặch có lớp lang thứ tự. Nhưng ở nhiều trại, nhà cửa do đồng bào tự làm lấy với sự trợ cấp từ Phủ Tổng Ủy. Trong những trường hợp này, vị linh mục cùng những người phụ tá đã cùng nhau vẽ phác sơ đồ toàn trại, sắp xếp vị trí thánh đường, trường học, nhà xứ, trạm y tế, chợ, đường xá, các dẫy nhà của đồng bào, nghĩa trang, v.v.. Đã có nhà thờ bao giờ cũng có trường học kế bên. Nhiều nơi còn có trường trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp (cấp ba ngày nay) nữa. Nhờ vậy, chỉ sau khoảng 10 năm, các trại định cư đã cung cấp cho quốc gia rất nhiều sinh viên, hạ sĩ quan, sĩ quan, công chức, giáo chức, v.v.. Cũng do vị trí đặc biệt của một vị lãnh đạo vừa tinh thần vừa vật chất, mà linh mục có thể đóng góp tích cực, hữu hiệu vào việc giáo dục thanh thiếu niên trong trại, góp phần giữ gìn an ninh trật tự. Những tội phạm như trộm cắp, vô luân, ẩu đả, v.v., là tối thiếu. Đã có một thời, vị linh mục còn đóng được cả vai trò của một vị thẩm phán hòa giải cho những cặp vợ chồng bất hòa, bất trung, những vụ tranh chấp nhà cửa, đất đai, v.v..

Ngày nay ai xuôi miền Hậu Giang - Rạch Giá, tất phải đi qua vùng định cư Cái Sắn trù mật bát ngát, sẽ thấy làng mạc, kinh rạch, ruộng nương và các cơ sở văn hoá giáo dục có lớp lang, ngoạn mục. Các bô lão kể lại trước khi đồng bào di cư tới đây khai phá từ năm 1956, toàn vùng này chỉ là cỏ lác cao ngút đầu và muỗi mòng thì dầy đặc như trấu. Nếu có ai lên xứ hoa đào qua quốc lộ 1, tiếp nối qua quốc lộ số 20, sẽ chứng kiến các thị trấn nhỏ sầm uất mọc lên như nấm, nhà cửa đan kín dọc hai bên đường, dân chúng đông vui tấp nập. Có ai ngờ trước năm 1955, vùng Hố Nai chỉ là vùng đất bạc mầu, hoang vu và khô chồi; còn vùng Gia Kiệm, Dốc Mơ, Túc Trưng, La Ngà, Phương Lâm chỉ là rừng tre già và mây gai ra tới tận lề đường; quốc lộ 20 hoàn toàn mất an ninh, xe cộ không thể lưu thông được. Rồi còn những Đức Lập, những Ban Mê Thuột, những Bình Giả, những Bảo Lộc...

Song dù thế nào, cuối cùng linh mục vẫn chỉ là người có nhiệm vụ chuyên biệt lo phần thiêng liên tôn giáo chứ không có nhiệm vụ phần đời. Các vị ra gánh vác giúp đỡ đồng bào di cư, vì gặp hoàn cảnh đặc biệt ngoại lệ. Cho nên tới ngày 10 tháng 4 năm 1956, giám mục Phạm Ngọc Chi, phụ trách Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư Công Giáo, đã yêu cầu các linh mục chuyển giao mọi việc thuộc hành chánh cho dân chúng để trở về thuần túy lo việc đạo. Từ nay, các linh mục có chăng chỉ còn là vị cố vấn giúp đỡ chính quyền xã, ấp địa phương mà thôi.

Trở lên, chúng ta đã thấy cuộc di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954 của gần một triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung phần chẳng những có ý nghĩa chính trị, quân sự quan trọng mà còn là một cuộc di dân khổng lồ góp phần phát triển quốc gia. Cuộc di cư ấy đã được chính phủ và quốc tế giúp đỡ tích cực, đưa tới thành công tốt đẹp. Từ bàn tay trắng, vậy mà các trại định cư đã mau chóng ổn định cuộc sống.

Riêng về các trại định cư mà hầu hết là của đồng bào Công Giáo thì các vị linh mục đã góp công to lớn xây dựng cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Các vị ấy, nhà nước không mất công đào tạo, huấn luyện, nhưng đã trở thành một thứ ‘cán bộ’ đầy khả năng, giúp vào công tác có tầm vóc quốc gia, xem ra còn cách đắc lực hơn là các cán bộ nhà nước thứ thiệt.

Người ta hết sức cảm động chứng kiến lễ tang của mỗi vị cha già, tất cả đồng bào trong trại định cư xưa, không biệt tuổi tác, có gia đình gồm cả ba thế hệ, đều chít khăn tang để tỏ lòng kính trọng, nhớ ơn vị ân nhân có công khai sáng. Nhiều nơi đồng bào an táng vị cha già ngay cạnh giáo đường để hằng ngày khi tới giáo đường, đồng bào như còn được nhìn thấy, như là ngài vẫn còn đấy, chưa đi xa!

Ước mong các trại định cư xưa thu thập lại những tài liệu, hình ành, những con số thống kê trong lịch sử thành lập trại; thâu thập tiểu sử và điếu văn của cha già khai sáng để lưu truyền cho con cháu hoặc là tập trung về tàng trữ tại một trung tâm Công Giáo nào đó để trở thành tài liệu lịch sử.

Cuộc đời dâu bể. Một nửa thế kỉ trôi mau như bóng câu vút qua song. Năm theo mẹ di cư vào Nam chúng tôi là cậu bé 9 tuổi thế mà nay đã vừa chẵn 6 bó! Hồi tưởng lại cuộc di cư, đối với số phận mỗi cá nhân, mỗi gia đình, việc ra đi hay ở lại, có thể có cái hay cái dở, nhưng nói chung cái hay là vượt trội. Song đối với quốc gia, cuộc di cư ấy hoàn toàn là một cuộc di dân chỉ đem lại lợi ích to lớn mà thôi. Các vị cha già đã đóng góp tích cực, làm cho cuộc di cư ấy thành công tốt đẹp, tức là đã đóng góp đắc lực vào cuộc di dân phát triển quốc gia.

Tham khảo:

* Văn Phòng Tổng Thư Ký HĐGMVN. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2004. Nhà xb Tôn giáo. Hà Nội, 2004.

* Trường Cao Đẳng Sư Phạm Tp. HCM & Cục Đo Đạc Và Bản Đồ Nhà Nước. Việt Nam Tập Bản Đồ Hành Chính Và Du Lịch. 1989.

* Phan Phát Huồn. Việt Nam Giáo Sử. Quyển II. Cứu Thế Tùng Thư. Sài Gòn, VN. 1962.

* Đoàn Thêm. Hai Mươi Năm Qua 1945 - 1964 Việc Từng Ngày. Xuân Thu.

* Đoàn Thêm. 1969 Việc Từng Ngày. Xuân Thu.

* Lâm Thanh Liêm & Gustave D. Meillon. Từ Sàigòn Tới Tp. HCM. Nam Á.

* Đỗ Hữu Nghiêm. Giáo Hội Và Các Đồng Bào Thiểu Số Ở Việt Nam. Định Hướng 26.

* Tôn Thất Trình. Khảo Luận về Công Cuộc Phát Triển Vùng Hậu Giang Việt Nam. Định Hướng. Số 45.

Trần Vinh
 
Văn Hóa
Một góc khi chiều buông
Nguyễn Thị Thu Vân
03:42 10/01/2009
Khi mặt trời bắt đầu xế bóng, chim chóc gọi nhau về tổ thì cũng là lúc nhiều người kết thúc một ngày làm việc mệt nhọc. Ngược lại thì một số loại côn trùng, một số người bắt đầu làm việc từ những buổi hoàng hôn. Các hoạt động trong xã hội đôi khi quay theo chiều kim đồng hồ, lắm lúc chạy theo chiều ngược lại, người thì thức dậy khi trời vừa hừng sáng, kẻ thì ngả lưng chợp mắt lúc bình minh.

Dường như những sinh hoạt trên trái đất này chỉ là những vòng chạy đua tiếp sức, điểm dừng của người này chính là điểm xuất phát của người kia, người này nằm xuống, kẻ khác được sinh ra. Có lẽ rất ít ai mang cùng chung tâm trạng cho dẫu rằng ở trong cùng một khoảng không gian và thời gian. Một người có thể cảm thấy tâm trí mình thanh thản hơn khi ngắm nhìn hoàng hôn chầm chậm xuống nơi vùng biển xanh cát trắng, ngược lại thì các ngư phủ thả lưói vào ban đêm chưa chắc gì đã an tâm khi mũi thuyền tách bến hướng ra khơi lúc trời chiều buông xuống. Những giọt nước mưa rơi có thể đẹp tựa ngọc ngà châu sa trong nhiều tác phẩm của các nhạc sĩ, thi sĩ hoặc văn sĩ nhưng đôi khi chỉ là những giọt nước mắt thay lời kêu than não ruột lúc thấm ướt mái tranh nghèo. Tuy rằng chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, một qủa đất nhưng sự cảm nhận về thiên nhiên hoàn toàn khác biệt từ người này sang người khác, từ thời điểm này đến thời điểm khác. Từ mỗi góc cạnh của cuộc sống con người sẽ có mỗi cái nhìn khác nhau về cuộc đời, dẫu rằng vũ trụ muôn thưở vẫn luân chuyển đều đặn, hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm, mặt trời lúc nào cũng mọc ở phương đông và lặn ở phương tây.

Chính vì những lẽ đó nên nhịp điệu của cuộc sống có thể được so sánh như nhịp điệu của một bản nhạc mà trong đó bảy ngày trong tuần ví như bảy nốt nhạc chính: do, re, mi, fa, sol, la, si. Năm giòng kẻ của khuôn nhạc tựa như năm giác quan của thân thể: nhìn, nghe, nói, ngửi, nếm. Bốn khe của khuôn nhạc tượng trưng cho bốn mùa trong năm: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu và mùa đông. Bài hát đời người rộn rã vui tươi hay sầu não thê lương đều tùy thuộc vào cách phối hợp từ thể xác, trí tuệ, tâm linh của riêng từng người. Với bản nhạc này thì mỗi người phải vừa tự sáng tác, vừa là ca sĩ trình bày mà trong đó khán giả là tha nhân, giám khảo chính là Thiên Chúa tối cao, bản nhạc nào được khán giả yêu mến ắt hẳn sẽ được giám khảo lựa chọn vào ngày chung kết.

Đàn ơi chớ tấu cung sầu
Cho hồn khóc ngất buồn rầu bất an
Ca chi khúc hát than van
Chùng giây lỡ nhịp âm vang lạc loài.


Tựa như những dấu lặng thường được đặt vào trong khuôn nhạc thì những giây phút thinh lặng cũng cần được đặt vào trong ngày sống để con người có thể giữ lại sự thăng bằng cho thể xác, trí tuệ và tâm linh của mình. Cũng giống như những cánh chim bay về tổ khi chiều đến, lúc chiều xuống là lúc tôi tìm về bên thánh thể để trò chuyện với Chúa, để nhìn lại thân phận của chính mình, để trút bỏ những vướng bận của một ngày làm việc, để cầu cho những người đã khuất và cũng để xin thêm ơn soi sáng, phù trợ. Những lúc ấy tôi thường ngồi ở một góc trong căn phòng nhỏ có đặt mình thánh Chúa, tôi thường xin Ngài mở mắt tâm hồn của tôi ra, cho tôi được nhìn thấy bóng dáng Ngài qua từng ngọn cây lá cỏ, qua từng giọt nắng yếu ớt còn sót lại bên ngoài khung cửa. Tôi cứ đến và Chúa vẫn hiện diện ở đó trong hình tấm bánh trắng, ngày lại ngày qua đi, cho đến một hôm. ..

Đó chính là một buổi chiều thứ sáu của mùa chay năm 2003, sau khi đi làm về tôi đã ghé nhà thờ đi lễ. Lễ xong tôi chạy xe về nhà để bỏ mấy thứ lỉnh kỉnh và cũng để kiếm chút gì bỏ bụng cho đỡ đói. Tiếp đến tôi chạy xe ngược trở lại nhà thờ để đi đàng thánh giá cùng với cha xứ và mọi người theo như giờ giấc đã in trong tờ thông báo của giáo xứ. Hôm ấy khí trời lạnh lẽo, bầu trời u ám, gió thổi mạnh, trời tối rất sớm. Tôi đã cố gắng đến đúng giờ nhưng khi tôi trở lại thì nhà thờ vắng hoe, không một bóng người, ngoại trừ vài bóng đèn điện vàng vọt yếu ớt và cây nến bên cạnh nhà tạm vẫn cháy sáng. Tôi đã ngồi ở phía cuối nhà thờ để lần chuỗi trong khi chờ đợi đi đàng thánh giá. Lúc ấy tôi chỉ ước gì mình có quyển sách để có thể suy gẫm 14 chặng dàng thánh giá một mình, khỏi phải lệ thuộc vào giờ giấc của người khác. Tôi đọc kinh mà cứ nhìn đồng hồ mãi vì chỉ sợ đồng hồ của mình chạy sai. Một lát sau có một cô gái người Mễ bước vào, cô ấy cũng ngồi phía cuối nhà thờ nhưng ở dãy ghế phía bên kia. Cô ta ngồi chờ khoảng chừng mười phút, khi chỉ thấy bốn bề vắng lặng thì cô ta bước ra. Lúc bấy giờ chỉ còn một mình tôi trong nhà thờ, cúi xuống nhìn đồng hồ thì đã gần tám giờ tối, tôi quyết định ra về vì đến giờ ấy mà cha xứ không đến coi như mọi người sẽ không đi đàng thánh giá nữa.

Trước khi đi về tôi muốn nói với Chúa vài câu nên tôi đã bước vào căn phòng nhỏ ở phía bên hông nhà thờ. Đó là căn phòng có đặt mình thánh Chúa trong một cái hào quang được phủ khăn lại, hai bên cạnh có mấy cây nến, căn phòng này có cánh cửa riêng biệt. Lúc tôi bước vào thì bên trong ấy rất tối vì không có ánh sáng. Tôi không thắp nến cũng chẳng bật công tắc đèn điện lên, tôi cũng không mở tấm khăn phủ mình thánh Chúa ra vì tôi chỉ có ý định nói với Chúa vài câu thôi. Tôi đã qùy xuống ở bàn qùy của cái ghế cuối cùng trong góc phòng, chắp tay, nhắm mắt lại để thưa rằng:

- Lạy Chúa, trời lạnh qúa, con đã mệt rồi mà cũng ráng chạy tới đây để đi đàng thánh giá. Bữa nay không có cha nên con không đi đàng thánh giá được. Thôi, con vô chào Chúa rồi đi về nhà. Con mệt qúa, lại buồn vì chẳng có sách để đi đàng thánh giá thứ sáu mùa chay nữa. Chúa nhớ cho con tối nay ngủ ngon nghe.

Thật là kỳ lạ, lúc tôi vừa nói xong thì tự nhiên có một luồng ánh sáng màu trắng chói lòa, chiếu xuống từ một góc phía bên trái trên đầu tôi. Luồng ánh sáng trắng xóa này có hình tam giác, chiếu xòe ra với năng lượng cực mạnh, đỉnh xuất phát của nó ngay phía trên đầu tôi xong từ từ lan tỏa khắp người. Luồng ánh sáng này sáng chói hơn tất cả các tia chớp lúc trời mưa giông và chạy nhanh như luồng điện, khi nó chạy đến đâu thì tự nhiên phần thân thể của tôi chỗ đó khỏe lại. Sự mệt mỏi, buồn bã trong thân xác tôi tan biến ngay trong tích tắc. Tôi vẫn nhắm mắt lại một chút để có thể cảm nghiệm sự biến đổi kỳ diệu chưa từng có này, xong tôi cúi đầu tạ ơn, bái Chúa ra về. Lúc bước ra khỏi căn phòng này tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hều như một tờ giấy, gần như thân xác của tôi chẳng còn trọng lượng gì nữa, tâm hồn thì lại rực sáng. Tôi bước ra cửa nhà thờ trong niềm thư thái hân hoan, miệng hát nghêu ngao, khí trời vùng cao nguyên càng về đêm càng lạnh mà chẳng hiểu vì sao tôi lại cảm thấy mát mẻ dễ chịu.

Từ ngày tôi được nhìn thấy luồng ánh sáng trắng trong căn phòng ấy đến nay thì tôi siêng năng đến viếng mình thánh Chúa hơn trước. Gần như ngày nào tôi cũng cố gắng ghé vào thăm Chúa ít nhất là một lần. Ngày lại ngày trôi qua, cho đến một buổi chiều thứ năm của mùa đông năm 2004. Hôm ấy trời trở lạnh nên tôi bị ngã bệnh, cơn bệnh hoen suyễn mà tôi đã mang theo từ thưở lọt lòng mẹ. Tuy rất mệt nhưng tôi vẫn cố gắng đi làm, thật ra tôi chẳng làm được gì mấy, tôi chỉ ráng có mặt để khỏi bị lôi thôi. Khi hết giờ làm việc tôi chỉ muốn chạy xe thẳng về nhà để nằm nghỉ, nhưng chợt nhớ ra rằng mình chưa viếng Chúa vào ngày thứ năm để cầu nguyện cho các linh mục nên tôi đã đi đến nhà thờ.

Cũng giống như trước kia, trong căn phòng có đặt mình thánh Chúa chẳng có ai lúc tôi bước vào. Tôi đã qùy bái Chúa, thắp mấy cây nến nhưng không bật đèn điện lên vì trời vẫn còn sáng, ánh sáng ngoài trời được chiếu vào từ một bức tường làm toàn bằng kiếng. Tôi đã qùy ở một góc phòng, chắp tay nhìn lên thánh thể mà không nói gì vì qúa mệt. Tôi chỉ muốn viếng Chúa một chút, đọc vài kinh xong đi về thôi. Nhưng ô kìa! Khi mắt tôi liếc nhìn qua bức ảnh lòng thương xót Chúa được treo trên tường phía bên cạnh mình thánh Chúa thi khuôn mặt của bức ảnh bỗng mỉm cười, khuôn mặt Chúa Giêsu trong bức ảnh rực sáng với vòng hào quang tỏa ra chung quanh. Tôi nghĩ rằng mình bị hoa mắt nên đã nhìn ra phía khác xong rồi nhìn trở lại bức ảnh, qủa thật Chúa Giêsu vẫn đang mỉm cười, cặp mắt trông rất sinh động. Tôi chắp tay lại và hỏi:

- Chúa ơi, có phải Chúa cười với con tại vì con bị đau mà ráng đến đây thăm Chúa không?

Thế rồi tôi đứng lên, đi thẳng đến gần bức ảnh để quan sát thật kỹ, để khỏi nghi ngờ cặp mắt của mình. Đúng là khuôn mặt Chúa Giêsu trong bức ảnh đang cười, không phải tôi đã hoa mắt. Tại vì bức ảnh này tôi đã nhìn hằng ngày, người ta vẽ kiểu khuôn mặt Chúa nghiêm trang, miệng ngậm lại, ở ngực có hai luồng ánh sáng màu trắng và màu đỏ chiếu xòe ra theo chiều ngang, cả hai đều phát xuất từ trái tim của Ngài. Khi biết chắc là Chúa đang cười thì tôi trở về chỗ qùy, cúi đầu tạ ơn, đọc vài kinh để cầu nguyện cho các linh mục và cũng không quên cầu cho các đẳng linh hồn trước khi ra về.

Khi bước ra khỏi căn phòng có đặt mình thánh Chúa ấy thì toàn thân tôi khỏe hẳn lại, đầu óc rất thanh thản, dường như cái xác cũng chẳng còn trọng lượng gì nữa. Tôi bước đi trên mặt đất mà ngỡ như thân hình mình lướt nhẹ trong không trung tựa chiếc lá đang bay giữa cơn gió vậy. Tôi nhìn mọi cảnh vật xung quanh với sự bình thản chưa từng có, tuy rằng tôi là người duy nhất từ trong nhà thờ bước ra và chiếc xe của tôi là vật duy nhất còn lại ở bên ngoài nhà thờ. Tôi không thể ngờ được rằng chỉ mới cách đây vài phút đồng hồ, lúc bước vào căn phòng có đặt mình thánh Chúa này thì chân tôi bước đi gần như không nổi, thân xác nặng nề mệt mỏi, đầu óc bối rối, hoang mang tột bực. Tôi không hề có ý định đến để xin Chúa chữa bệnh mà chỉ có ý muốn ghé thăm Chúa một chút để đọc kinh cầu nguyện cho các linh mục thôi. Vậy mà Ngài đã biết rõ điều gì tôi cần, đã ban cho tôi vượt qúa điều tôi mong đợi. Tôi không ngờ Chúa thương và chăm sóc tôi kỹ lưỡng đến như vậy, Ngài thương tôi nhiều hơn tôi nghĩ, Ngài lo liệu cho tôi chu đáo hơn cả bản thân tôi lo toan cho chính mình.

Từ một góc tối trong căn phòng có Chúa Giêsu thánh thể hiện diện tôi đã được nhìn thấy ánh sáng chói lòa. Từ một góc của sự thinh lặng lúc trời chiều buông xuống bên cạnh mình thánh Chúa tôi đã nhận biết được một tình thương bao la. Từ đó tôi đã nhìn cuộc đời này dưới một góc cạnh khác, góc cạnh của lòng từ bi và ân sủng. Tôi đã nhận thức được rằng khi con người càng xa rời Thiên Chúa, càng chạy đua theo của cải vật chất, càng ham mê danh vọng tiền tài cũng như các thú vui xác thịt thì tâm hồn con người càng bị chao đảo, bất an, càng cảm thấy trống vắng do bị tha hóa vì đã đặt lệch trọng tâm cuộc sống của chính mình.

Người đời thưòng tìm đủ cách để làm ra tiền khi qúa nghèo, đi làm cả ban ngày lẫn ban đêm, chẳng kể gì đến giờ giấc. Khi có của cải dư dật thì người ta lại lo lắng vì phải tìm cách cất giữ để khỏi bị kẻ khác chiếm đoạt, hoặc là đã có chín đồng lại muốn kiếm thêm một đồng nữa cho chẵn chục để đem đi cất. Người ta mua bảo hiểm xe vì sợ xe bị tai nạn, mua bảo hiểm nhà vì sợ nhà bị sụp hoặc bị cháy, mua bảo hiểm sức khỏe để phòng khi bệnh hoạn, mua bảo hiểm nhân thọ để nhỡ ra chết bất đắc kỳ tử có tiền xoay sở. Nhưng xét cho cùng thì chẳng mấy ai đi mua bảo hiểm để linh hồn mình khỏi bị hư hỏng, khỏi bị sa chước cám dỗ, khỏi bị chôn vùi trong những đam mê vật chất, khỏi bị thiêu đốt trong lửa hỏa ngục đời đời. Mỗi người đều có một linh hồn bất tử, đáng qúy hơn bất cứ bộ phận nào trong cơ thể mình mà dường như ít đưọc người đời quan tâm, ngoại trừ những người tín hữu chân chính mà thôi.
“Các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai. Hãy sợ Đấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, thầy bảo các con hãy sợ Đấng ấy. Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ, các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ". (Lc 12, 4-7)

Thông thưòng người ta hay buồn rầu khóc lóc khi bị tình phụ, nhưng đôi khi lại không nhận ra rằng chính mình cũng là kẻ phụ tình, phụ bạc tình yêu của một Đấng đã hy sinh cả mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại. Người ta muốn nghe mấy chữ xin lỗi khi người khác làm phật lòng mình, trong khi chẳng mấy khi mình nhớ cúi đầu tạ lỗi với Chúa vì sự thờ ơ bạc bẽo của mình với Ngài. Nhiều lúc người ta chê trách người nọ vong ân, kẻ khác bội nghĩa mà trong khi chính bản thân mình cũng chẳng bao lần nói lên lời cảm tạ Đấng đã ban cho mình trời cao đất rộng với đầy đủ hoa lá xinh tươi, đã ban cho mình quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Khi yêu nhau người ta thích đến gần nhau để chuyện trò, thích lắng nghe, thích chia sẻ nỗi niềm vui buồn của nhau, thích mua qùa tặng để mang niềm vui cho người mình yêu. Cũng với một lối cư xử như vậy thì khi yêu Chúa mình sẽ thích đến chuyện trò với Chúa, thích dâng tặng Chúa những việc hy sinh, thích giúp đỡ người khác vì mọi người đều được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.

Cuộc sống hôm nay sẽ là cây cầu dẫn đưa đến sự trầm luân hoặc là đời sống vĩnh cửu sau này. Thiếu sự kết hợp với Thiên Chúa và quan tâm đến tha nhân trong đời sống hằng ngày thì cây cầu này sẽ bị hụt chiều cao và thiếu bề ngang. Con người càng sống lâu năm thì chiều dài của cây cầu càng dài ra theo thời gian, càng ích kỷ thì cây cầu càng hẹp chiều ngang, càng xa rời Thiên Chúa thì chân cầu sẽ càng thấp xuống và càng bám víu vào của cải vật chất thì toàn thân cầu sẽ bị bao phủ bởi đầy dẫy rong rêu sình lầy. Một cây cầu như vậy chắc chắn sẽ chẳng bao giờ dẫn đưa con người đến bến bờ hạnh phúc vì nó có thể bị gãy đổ bất cứ lúc nào. Nếu biết rằng một mai kia tôi sẽ từ giã cõi trần này ra đi, không thể mang theo được gì, thì chẳng việc gì tôi phải qúa lo lắng cho phần xác đến độ lãng quên hoặc thiếu sót phần hồn.

Chẳng khi nào là muộn màng để chúng ta thay đổi lối sống nếu cần. Chúng ta có thể tìm đến với thánh thể qua việc siêng năng tham dự thánh lễ hơn, siêng năng tham dự các giờ chầu phép lành hơn, thăm viếng Chúa điều đặn hơn. Chúng ta có thể cùng nhau dâng lên Chúa Giêsu nhân lành những đau khổ trong cuộc đời để xin Ngài thánh hóa, vì mỗi đau khổ được chấp nhận với lòng tin yêu sẽ biến thành công nghiệp, biến thành hạnh phúc cho cuộc sống mai sau. Chúng ta có thể quan tâm đến tha nhân hơn, giúp đỡ lẫn nhau cho dầu chỉ là một câu kinh, một lời cầu nguyện, một nụ cười thông cảm, một vài tiếng nói an ủi, một cái nhìn khích lệ. Hãy cất cao lời chúc tụng, cất cao câu hát cảm tạ khi còn có thể được. Bản nhạc đời tôi không thể thiếu vắng giám khảo và khán giả, khúc ca ngày mùa không phải là khúc hát đơn điệu thì xin hãy luôn hòa nhịp cùng với mọi người để tất cả đều kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính bản thân mình.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình”. (Mt 22, 37-39).
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Trong Nhà Nguyện
Trầm Tĩnh Nguyện
14:00 10/01/2009

TRONG NHÀ NGUYỆN



Ảnh của Trầm Tĩnh Nguyện, Việt Nam, Hình chụp tại Vũng Tầu

Nơi đây mình Chúa mình con,

Vui buồn sướng khổ chẳng còn nghĩa chi.

Yêu thôi, suy nghĩ làm gì!

(Trầm Tĩnh Nguyện)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền