Ngày 11-01-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Cảm Nghiệm Sống - Tôi Đi Hành Hương Đất Thánh #2
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
15:53 11/01/2010
TÔI ĐI HÀNH HƯƠNG ĐẤT THÁNH # 2

3- Jordan. 4- Núi Chúa bị cám dỗ. 5- Cana

Đất Thánh hôm nay càng ngày càng giầu đẹp, ngày nào cũng tấp nập khách hành hương đến viếng thăm, nhà cửa phần lớn là nhà hộp lầu đúc nhiều tầng, hệ thống giao thông thật hiện đại…

4- Sông Gio-đan: (Mc 1, 2-8) Gần biển chết, nơi ông Gioan Tẩy giả xuất hiện trong hoang địa, là Tiền Hô của Chúa Cứu Thế kêu gọi người ta sám hối, chịu phép rửa để được ơn tha tội. Nơi đây, Chúa Giêsu từ Nadaret đến và được ông Gioan làm phép rửa cho. Sông sâu, chiều ngang rộng từ 10 đến 12 mét, nước trong vắt, có cá trê và cá sặt bơi lội. Người ta xây đất nơi đây thành những trung tâm kính nhớ, buôn bán nước sông, vật lưu niệm và các tiện nghi khác. Ngày nay, bên bờ sông người ta làm lối đi xuống, ngăn những hàng sào sắt an toàn, để khách hành hương xếp hàng lội xuống sông, diễn lại phép rửa của mình, hết đoàn này đến đoàn khác, thật là tập nập.!

Câu nói khiêm tốn của ông Gioan như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn người, Người đã làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. (Mc 1, 7-8)

Khi Chúa Giêsu đến bờ sông Gio-đan nhờ ông Gioan làm phép rửa: “Vừa bước lên, người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về con.” (Mc 1, 9-10)

5- Núi Chúa chịu cám dỗ: (x. Lc 4, 1-2) Núi Chúa bị cám dỗ sau khi chịu phẻp rửa trên sông Giođan, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày là một hầm núi lớn, có lối đi vào ông đủ hai người đi? nhắc nhớ đến ông Mo-sê qua 40 ngày trên núi Si-nai, con cháu It-ra-en 40 năm trong sa mạc, và 40 ngày tiên tri Ê-li-a đi lên núi Khô-rêp: “Ông Elia dậy, ăn bánh và uống nước, Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi được suốt bốn mươi ngày... (x. 1 Vua 19, 8)

Kính Thánh chép: “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần từ sông Gio-đan trở về, và được Thần Khí dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu ma quỉ cám dỗ. …(Lc 4, 1-2). Chúa Giêsu đã nhận Thánh Thần một cách viên mãn để đương đầu với qủi trong cuộc chiến đầu tiên và quyết liệt này: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi ! Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.(Lc 4, 3-4) Câu 3 đã nhắc lại Lời Chúa Cha nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Giođan.

6- Cana (Gioan 2, 1-11): Nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên cho nước trở nên rượu, tại một đám cưới của tín hữu, hiện giờ là ngôi thánh đường hai tầng, nguy nga do dòng Fanxicô coi sóc. Phúc âm kể: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: Họ hết rượu rồi. Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con. Giờ của con chưa đến. Thân mẫu Người mới nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo...” (Gioan 2, 1-5).

Cana ở Galilê nơi mà ông Philip-phê gọi ông Na-tha-na-en và nói chúng tôi có có gặp Chúa Giêsu. Ông Na-tha-na-en nói: người đến từ Na-da-ret đâu có gì là hay, Kinh Thánh kể: “Ông Philipphê gặp ông Na-tha-na-en và nói: “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Na-da-ret, Ông Na-tha-na-en liền bảo: “Từ Na-da-ret, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Gioan 1, 45-49)

Cũng tại nơi đây, dấu lạ thứ hai ở Ca-na là Đức Giêsu chữa con của trai một sĩ quan cận vệ của nhà vua sắp chết, nó đang bị bệnh tại Ca-pha-na-um, nói lên quyền năng ban sự sống của Chúa Giêsu. Vậy Người trở lại Galilê là nơi Người đã làm cho nước hoá thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Ca-pha-na-um. Khi nghe tin Đức Giêsu từ Giu-đê đến Ga-li-lê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. Đức Giêsu nói với ông: “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu! “Viên sĩ quan nói: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất.” Đức Giêsu bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống…” (x. Gioan 4, 46-54)

Sau đó Chúa lên Gierusalem, gần cửa chiên chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bết-da-tha. Vì thế, đoạn này dẫn đến những chủ đề lớn của Phúc âm Gioan như đoạn 5, 19-47 nói công việc của Chúa con, Nước Hằng Sống (x. 7, 37-39), Ánh Sáng đem lại Sự Sống:(8, 12)

Phó tế: Gioan B. Maria Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
 
Đi ăn cưới
LM. Anphong Trần Đức Phương
22:11 11/01/2010
ĐI ĂN CƯỚI

(CHÚA NHẬT II, THƯỜNG NIÊN,NAM C)
(Bài Đọc I: Isaia 62: 1-5, Bài Đọc II:1Côrintô 12: 4-11, Bài Phúc Âm: Gioan 2:1- 11)


Cuối tuần, vào ngày Thứ Bảy, nhất là trong Mùa Hè, các linh mục thường được mời đi “ăn cưới”. Có khi phải đi dự cả hai hay ba tiệc cưới. Đến chỗ này một lúc, chỗ kia một lúc để cho công bằng, khỏi bị phân bì. Có đám cưới còn xin các cha đến sớm để làm phép bữa tiệc, làm bằng tiếng Việt, rồi làm tiếng Anh (trường hợp cô dâu chú rể thuộc hai chủng tộc khác nhau).

Có người nói là “nhà tu” mà cũng đi dự tiệc cưới, vừa mất giờ, vừa không thích đáng; nhưng Bài Phúc Âm hôm nay (Gioan 2: 1-11) cho chúng ta thấy “Chúa Giêsu và các môn đệ cũng đến dự tiệc cưới” ở Cana, xứ Galilêa, và có cả sự hiện diện của Mẹ Maria. Lại chính nhờ lời yêu cầu của Mẹ Maria mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để cứu vãn danh dự cho đám cưới này.

Hôm nay, chúng ta lại có dịp cùng nhau bàn về giá trị và hạnh phúc gia đình, nhất là trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, gia đình đang gặp nhiều thử thách, khó khăn vì những phong trào luyến ái tự do, ly dị bừa bãi, nam cưới nam, nữ cưới nữ vẫn thành vợ chồng, mà nhiều nơi được chính quyền và cả một số giáo phái công nhận và thực hành!

Hạnh phúc của mỗi người tùy thuộc rất nhiều vào hạnh phúc gia đình: “Người chồng vui mừng vì người vợ…” (Bài Đọc I). Con cái vui mừng vì thấy cha mẹ hòa thuận, thương yêu nhau. Gia đình là “Tổ Ấm”. Mọi người đều cảm thấy mong muốn trở về với “Mái Ấm Gia Đình” (Home sweet home!) Hạnh phúc gia đình trần gian dọn đường đưa đến hạnh phúc gia đình Nước Trời.

Gia đình là nơi huấn luyện tuổi trẻ, là học đường đầu tiên mà chính cha mẹ là “Thầy, Cô” tuyệt diệu, là nhà giáo dục hiểu biết rõ nhất học trò của mình (vì là chính con của mình). Mọi người đều đau đớn khi gia đình tan vỡ; vợ chồng đau đớn; con cái đau đớn, ông bà cha mẹ cũng ngậm ngùi khổ đau, các vị Chủ Chăn trong giáo xứ cũng buồn lòng. Giáo Hội Công Giáo cũng rất quan tâm về thảm trạng này, nên đã tổ chức những Hội nghị về Gia đình, để tìm những phương cách cứu vãn. Giáo Hội cũng đòi buộc các vị Chủ Chăn phải chuẩn bị kỹ càng cho các đôi hôn phối trước khi cho kết hôn theo lễ nghi Công Giáo; đặc biệt phải dự đủ các lớp “Dự Bị Hôn Nhân”. Giáo Hội cũng kêu gọi các bạn trẻ hãy cầu nguyện và suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định kết hôn thành vợ chồng và cùng nhau xây đựng một gia đình mới. Ngoài ra, các bạn trẻ nên tham khảo và lắng nghe ý kiến các bậc cha mẹ trước khi kết hôn; không nên “yêu cuồng sống vội!”

Có thể chịu Bí Tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, nhưng hầu hết các gia đình muốn con cái được kết hôn trong Thánh Lễ. Đó là điều rất tốt lành! Nhưng quan trọng là cần dành thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng để chịu ơn thánh và chuẩn bị cho một giai đoạn mới rất quan trọng của cuộc đời. Có nhiều bạn trẻ đã nhận thức được điều đó, nên đã ghi danh đi tĩnh tâm một cuối tuần để cùng nhau cầu nguyện, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và chuẩn bị cho ngày rất trọng đại được Chúa chúc lành và kết hiệp nên Một, thành vợ chồng và bắt đầu một cuộc đời mới. Tuy nhiên, cũng có những bạn trẻ quá lo tổ chức ‘đám cưới linh đình bề ngoài mà coi nhẹ phần tinh thần, đạo đức, đưa nhau đến nhà thờ chỉ để lấy lệ cho qua. Đó là điều đáng tiếc, và ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống chung trong tương lai.

Sau Khi đã kết hôn, các bạn trẻ nên nhớ câu: “Mình với ta tuy hai mà Một. Ta với mình tuy một mà Hai!” Vợ chồng đã được Chúa kết hiệp nên một và sống chung suốt đời trong một gia đình (Mình với ta tuy hai mà một!); nhưng cần thông cảm các khác biệt nam nữ của nhau để bổ túc nhau cho có sự hải hòa (Ta với mình tuy một mà hai!). Hơn nữa, cần thông cảm những khuyết điểm của nhau, vì tất cả chúng ta đều chỉ là nhựng con người bất toàn. Hiểu như thế để dễ dàng tha thứ cho nhau “nếu người này có điều gì làm mất lòng người kia” (Colose 3: 13), dù phải tha thứ “bảy mươi bảy lần bảy…” Việc cầu nguyện chung trong gia đình cũng là điều rất cần thiết để giữ vững hạnh phúc gia đình. “Gia đình nào biết cầu nguyện chung, sẽ luôn bền vững” (“The family that prays together, stays together”, Father Patrick Peyton). Hãy có Chúa và Mẹ Maria ở trong gia đình chúng ta thì chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng những khó khăn hơn (noi gương gia đình tổ chức tiệc cưới Cana trong Bài Phúc Âm hôm nay.)

Thực tế, gia đình nào cũng có những ngày mùa xuân tươi đẹp; nhưng cũng có những ngày mùa đông ‘lạnh giá’ và nhiều khi cũng có bão tố. Con thuyền gia đình có bao nhiêu ngày lướt đi êm đềm trên biển, yên sóng lặng, nhưng cũng không thiếu những ngày sóng to, gió lớn. Vợ chồng hãy cùng chung tay chèo chống, đừng trách trời, trách người, đừng đổ lỗi cho nhau sinh ra những bất hòa vào chính lúc cần hòa hợp yêu thương để vượt qua sóng gió. Lâu lâu, nên cùng nhau xem lại các hình ảnh thân thương cũng như những cuốn phim đã quay rất đẹp và tốn kém trong ngày thành hôn ngày nào để nhớ lại những kỷ niệm êm đềm đó.

Khi gặp những khủng hoảng quá lớn, hãy bày tỏ với các vị trưởng thượng, các Chủ Chăn, nhất là vị đã lo công việc hôn phối cho mình. “Đóng cửa bảo nhau” là điều tốt, nhưng khi vấn để đã không thể giải quyết được giữa hai vợ chồng, thì cần được sự nâng đỡ và giúp ý kiến của những người thân thương, thành thực giúp đỡ; những vị này thường có cái nhìn khách quan hơn, hiểu rõ vấn đề hơn, và đưa ra những giải pháp tốt đẹp cho cả đôi bên. Chính chúng tôi đã giúp đỡ được nhiều cặp gặp khủng hoảng, đi đến giải quyết êm thắm.

Để đề phòng những căng thẳng, những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân, vợ chồng cần dành thời giờ để thương yêu nhau! Dành thời giờ để chăm lo cho con cái. Dành thời giờ để cùng đi dâng Thánh Lễ, cầu nguyện với nhau. Đi chơi chung gia đình, tham dự các sinh hoạt của Giáo xứ, tham gia ca đoàn, các hội đoàn, rộng rãi giúp đỡ người khác, nhất là người nghèo khó, bệnh tật, lâm cảnh khốn cùng (“hạnh phúc là sống cho người khác”). Đừng chỉ lo sống cho gia đình mình. Đừng mải mê “làm giầu” nhiều quá mà không còn thời giờ sống cho nhau và sống cho Chúa và cho tha nhân. Một gia đình biết sống cởi mở sẽ tránh được nhiều khủng hoảng, căng thẳng. Sống cho tha nhân, khi cần tha nhân lại tiếp tay với chúng ta.

Xin Chúa và Mẹ Maria luôn hiện diện trong gia đình chúng ta, chúc lành cho gia đình chúng ta. Xin cho mọi người trong gia đình biết nâng đỡ lẫn nhau, cầu nguyện cho nhau, cùng nhau vui sống trong mái ấm gia đình, cùng nhau vượt thắng những khó khăn thử thách. Trước hết và trên hết xin cho chúng ta biết thương nhau và tha thứ cho nhau.

“Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời!
Đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người!
Đâu có tình Bác Ái, thì Chúa chúc lành không ngơi!
Đâu ý hợp tâm đầu, ở đấy chứa chan nguồn vui!”

( Vinh Hạnh, Thánh Ca “Đâu Có Tình Yêu Thương)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt bạo động tôn giáo
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
08:41 11/01/2010
Sau hàng loạt những vụ tấn công xảy ra trên thế giới trong dịp lễ Giáng Sinh năm nay mà các Kitô hữu là nạn nhân, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng không thể có sự nhân danh Thiên Chúa trong việc sử dụng bạo động. Ngài cũng khuyến cáo các thể chế chính trị và tôn giáo cần phải ý thức vai trò trách nhiệm của mình.

«Dùng bạo động chống lại các Kitô hữu trong một số nước gây ra nhiều phẫn nộ, cũng vì lý do chúng lại được nhắm vào đúng những ngày cực kỳ thánh thiêng của truyền thống Kitô giáo», Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh, vào Chúa Nhật vừa qua, sau buổi xướng kinh Truyền Tin.

«Các thể chế chính trị cũng như tôn giáo - ngài nhắc lại - không được lãng quên trách nhiệm của mình. Không thể có một thứ bạo lực nhân danh Thiên Chúa. Người ta không thể cùng một lúc vừa tôn kính Thiên Chúa lại vừa xúc phạm đến phẩm giá và quyền tự do của anh em đồng loại», Đức Thánh Cha nói thêm.

Một trong những vụ tấn công mới đây nhắm vào các Kitô hữu đã xảy ra tại Ai Cập vào đêm Giáng Sinh của Chính Thống Giáo (06/01) trong thành phố Nagaa Hamadi. Một loạt đạn đã làm 7 người thiệt mạng, gồm 6 tín hữu theo nghi thức Cốp và một cảnh sát hồi giáo với nhiều người bị thương.

Những ngày vừa qua, một số nhà thờ công giáo tại Mã Lai đã bị tấn công vì lý do cho phép phổ biến danh hiệu Alla của Hồi Giáo trong các công bố của mình.

Tại Irak, hàng loạt các Kitô hữu tại Miền Nam di cư lên Miền Bắc để tìm kiếm điều kiện khả quan hơn.

Còn ở Pakistan, nhiều tín hữu trong dịp Giáng Sinh đã sống trong nỗi lo sợ. Tỷ lệ tham dự thánh lễ Giáng Sinh chỉ đạt dưới 40% so với những năm trước đây.

(Nguồn: http://zenit.org/article-23157?l=french)
 
Mã Lai: 11 cơ sở Công Giáo bị phá hủy trong 4 ngày.
Nguyễn Long Thao
10:10 11/01/2010
Mã Lai: 11 cơ sở Công Giáo bị phá hủy.

KUALA LUMPUR 11/01/2010. Trong mấy ngày qua, các hãng thông tấn quốc tế liên tiếp đưa tin nhà thờ hay cơ sở Công Giáo tại Mã Lai bi đập phá sau khi quan toà đưa ra phán quyết tờ báo Công Giáo ỏ Mã Lai được quyền sử dụng danh xưng Allah để chỉ Thiên Chúa. Tính đến 11 tháng 1 năm 2010 nghiã là sau bốn ngày đưa ra phán quyết về danh xưng Allah, đã có đến 11 cơ sở của Công Giáo giáo bị tấn công.

Trong khi báo chí ngoại quốc dùng những từ ngữ như “tự do đánh bom”các cơ sở Công Giáo thì Đức Tổng Giám Mục Murphy Pakiam cai quản giáo phận thủ đô Kuala Lumpur nói các giáo dân chỉ biết cầu nguyện và không có phản ứng nào gây hấn. Ngài nói thêm việc phá hủy các thánh đường là hành động riêng lẻ của các nhóm nhỏ, có lẽ xuất phát từ những cá nhân đang hăng hái sau buổi cầu nguyện của Hồi Giáo vào ngày thứ Sáu.

Còn Bộ trưởng Nội Vụ Mã Lai là tướng Mahmood Adam nói “ Những biến cố giận dữ đó là hành động của tinh thần quá khích nhằm làm tổn hại tính đa dạng của công đồng cùng quyết tâm củng cố tinh đoàn kết chủng tộc.

Bộ Trưởng Mahmood Adam nói thêm: “Những hành động này không chỉ nhằm tấn công vào các nơi thờ từ mà còn nhắm vào các giá trị tự do mà người dân Mã Lai cùng chia sẻ”.

Được biết dân số Mã Lai là 27.7 triệu người trong đó 3% là người Kitô Giáo.
 
Giáo hội mừng lễ kính thánh nữ đầu tiên của Canada
Phụng Nghi
13:18 11/01/2010
Nhân bản tin vào cuối năm qua cho biết nước Úc vào năm mới 2010 sẽ có vị nữ thánh đầu tiên – đó là Chân phước Mary MacKillop – xin nói về thánh nữ đầu tiên của Canada.

Bài của CNA- Ngày thứ Ba 12 tháng này giáo hội sẽ mừng kính lễ Thánh Marguerite Bourgeoys, một phụ nữ trẻ người Pháp đã đặt chân lần đầu đến Canada để làm giáo viên. Nỗ lực của bà đã đưa đến việc thành lập Tu hội Đức Mẹ (Congregation of Notre Dame), một nhà dòng tiền phong của các nữ tu chuyên về công tác dạy học.

Marguerite sinh tại nước Pháp đúng vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh năm 1620, là con thứ 6 trong một gia đình có 12 con. Năm Marguerite 19 tuổi, bà mẹ qua đời. Năm kế tiếp, Marguerite được linh hứng muốn dâng hiến đời mình để phụng sự Chúa.

Bà gia nhập một nhóm giáo dân gồm các thiếu nữ trẻ tự nguyện dậy học cho trẻ em nghèo. Thế rồi bà gặp được một linh mục người Pháp lúc đó đang phục vụ tại Montreal (Canada) tên là Monsieur de Maisonneuve. Được cha thuyết phục, bà di cư đến Montreal, và bắt đầu dạy học cho các trẻ em Pháp và thổ dân da đỏ.

Cuộc sống ở thuộc địa lúc đó rất khó khăn về vấn đề sức khỏe. Khi Marguerite tới, bà khám phá ra rằng trẻ con ở đây thường khó mà sống được đến tuổi đi học. Tuy vậy bà bắt đầu cộng tác với người nữ y tá phụ trách nhà thương ở Montreal, và mở ngôi trường học đầu tiên trong một chuồng trại nuôi súc vật.

Marguerite đã ba lần trở về Pháp, bằng những cuộc hành trình xuyên Đại tây dương, để tuyển thêm giáo viên cho sứ vụ và cho hội dòng còn non yếu. Tu hội Đức Mẹ lúc đó thật độc đáo vì các chị em trong dòng đều là giáo viên và không sống cuộc đời biệt lập như các nữ tu dòng kín. Trước nhiều áp lực đòi hỏi tu hội của Marguerite phải sát nhập vào một dòng kín khác, Marguerite đã phải tranh đấu để giữ cho sứ vụ giảng dậy được độc lập và cố thuyết phục một vị giám mục cho phép các nữ tu được chuyển dịch trong những địa bàn rộng lớn của vùng hoang dã Canada lúc đó để làm công tác dạy học.

Tuy các nữ tu dậy học thường phải sinh sống trong các ngôi nhà lợp tranh và chịu nhiều gian khổ khác, nhưng hội dòng bắt đầu phát triển. Họ không chỉ dâng hiến cuộc đời để dạy học cho trẻ em thôi, nhưng cũng còn lập ra những ngôi trường để dạy dỗ cho lớp người di dân mới cách thức sống còn trong môi trường sinh hoạt mới.

Khi hội dòng phát triển, mẹ Marguerite đã chuyển quyền lãnh đạo cho một trong các nữ tu. Mấy năm cuối đời còn lại, bà dành thời giờ cầu nguyện và viết tự truyện. Đúng ngày cuối năm 1699, một trong những nữ tu trẻ của dòng bị bệnh, nằm chờ chết. Mẹ Marguerite cầu xin Chúa cất mạng sống của mình thay thế cho người nữ tu kia. Vào sáng ngày 1 tháng giêng năm 1700, người nữ tu trẻ hồi phục còn Mẹ Marguerite nhiễm cơn sốt nặng.

Bà chịu khổ đau như thế trong 12 ngày và mất ngày 12 tháng giêng năm 1700.

Bà được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong lên bậc hiển thánh ngày 31 tháng 10 năm 1982, trở thành nữ thánh nhân đầu tiên của Canada.
 
TIN KHẨN: Các Giám Mục Hoa Kỳ khẩn thiết kêu gọi giáo dân liên lạc với các đại diện dân cử gấp
Trần Mạnh Trác
18:11 11/01/2010
Với chủ trương đã có từ lâu về cải cách y tế, các giám mục Công Giáo Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh các vấn đề đạo đức là phải bảo vệ sự sống, nhân phẩm, lương tâm và sức khỏe cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho người nghèo và người dễ bị tổn thương, và không thăng tiến chương trình phá thai.

• Ngày 7 tháng 11, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua một dự luật cải cách chăm sóc sức khỏe trong đó khẳng định sự cần thiết, lâu đời và rộng rãi một chính sách cấm việc sử dụng quỹ liên bang cho phá thai và bao gồm nhiều biện pháp tích cực cho việc chi trả và cho người nhập cư.

• Ngày 24 tháng 12, Thượng viện Mỹ đã bác bỏ chính sách trên và thông qua một dự luật cải cách chăm sóc sức khỏe đòi hỏi dùng quỹ liên bang để trợ cấp y tế và thúc đẩy kế hoạch phá thai. Mọi người mua kế hoạch y tế sẽ bị đòi hỏi phải trả tiền cho phá thai của người khác thông qua một khoản thanh toán riêng biệt duy nhất để trả tiền phá thai.

• Ngoài vấn đề phá thai, cả hai dự luật cũng không có điều khoản đầy đủ để bảo vệ về quyền lương tâm cho kế hoạch chăm sóc sức khỏe, cho các nhà cung cấp và cho nhân viên.

• Hai dự luật bây giờ sẽ được kết hợp thành một dự luật duy nhất mà cả Hạ viện và Thượng viện sẽ bỏ phiếu chung cuộc. Những quy định đối với nguồn tài trợ phá thai, bảo vệ quyền lương tâm, khả năng chi trả, và việc truy cập chăm sóc y tế cho người di dân phải là một phần của dự luật mới để có sự công bằng và công chính, nếu không thì đạo luật chung kết này phải bị phản đối.

Kêu gọi: Xin hãy liên lạc với các đại diện dân cử cuả bạn ngay ngày hôm nay bằng e-mail, điện thoại hoặc FAX.

• Để giúp soạn thảo văn bản email, xin dùng bản đã dọn sẵn tại www.usccb.org/action.

• Hãy gọi cho US Capitol số: 202-224-3121, hoặc gọi các văn phòng dân cử địa phương. Xin dùng những trang web sau đây để tìm những thông tin liên hệ đến vị đại diện dân cử cuả bạn: www.house.gov hoặc www.senate.gov.

KHI NÀO: Ngay trong tháng 1 này, lưỡng viện Quốc Hội sẽ bỏ phiếu chung cuộc.

Act today! Thank You!

Sau đây là mẫu email messages:

MESSAGE—HOUSE:

“I am pleased that the House health care bill maintains the longstanding policy against federal funding of abortion. I urge you to work to uphold essential provisions against abortion funding, to include full conscience protection and to assure that health care is accessible and affordable for all. Until and unless these criteria are met, I urge you to oppose the final bill.”

MESSAGE—SENATE:

“I am deeply disappointed that the Senate health care bill fails to maintain the longstanding policy against federal funding of abortion and does not include adequate protection for conscience. I urge you to support essential provisions against abortion funding, similar to those in the House bill. Include full conscience protection and assure that health care is accessible and affordable for all. Until and unless these criteria are met, I urge you to oppose the final bill.”
 
Nhà báo Công Giáo Mỹ: 5 điều tệ hại nhất và 5 điều khích lệ nhất của năm 2009
Vũ Văn An
18:35 11/01/2010
Phil Lawler, giám đốc trang mạng CatholicCulture.org có một loạt bài về 5 điều tệ hại nhất và 5 điều khích lệ nhất của năm 2005 và 5 điều được ông chờ mong nhất cho năm 2010.

I. Năm điều tệ hại nhất: Năm điều tệ hại nhất này được Phil Lawler kể theo thứ tự từ từ dưới đi lên.

5. Sự thất sủng của Giám Mục Raymond Lahey

Trong Mùa Thu, sau nhiều tuần lễ tin tức sôi động, giáo dân giáo phận Antigonish được biết về việc đền bù 13 triệu Gia Kim cho các nạn nhân bị xách nhiễu tình dục. Nhưng tin sau đó còn làm họ bối rối hơn nữa, đó là tin Đức Cha Raymond Lahey xin từ chức vì bị cưỡng bức phải làm vậy. Lý do: chính ngài cũng sẽ bị khởi tố về tội ấu dâm.

Câu hỏi được họ nêu ra là tại sao các viên chức chấp pháp biết rõ tác phong không đẹp của vị giám mục này trong khi các đồng nghiệp của ngài lại không hay biết gì? Còn nếu các đồng nghiệp của ngài biết rõ tác phong ấy, thì tại sao lại không đưa ra biện pháp để ngăn cản tác phong đầy thất sủng ấy đối với riêng ngài và đối với Giáo Hội nói chung?

4. Sự thất sủng của Linh Mục Marcial Maciel

Từ những ngày đầu của Đạo Binh Chúa Kitô (Legion of Christ), các đoàn viên vốn ngưỡng mộ vị sáng lập của họ như một vị thánh sống đáng mô phỏng. Kể cả sau khi Tòa Thánh yêu cầu cha Maciel cao niên lui về sống ẩn dật những năm tháng cuối đời, tiếp theo nhiều đơn tố cáo các hành vi tính dục sai trái của ngài, các đoàn viên của Đạo Binh vẫn lên tiếng bênh vực vị sáng lập của mình. Bởi thế, vào tháng Hai, khi các nhà lãnh đạo của Đạo Binh chính thức thừa nhận tác phong xấu xa của Cha Maciel, thì các đoàn viên hết sức ngỡ ngàng. Vụ xì-căng-đan này chỉ được thông tin đầy đủ trong năm 2009, với nhiều đơn tố cáo hơn về việc Cha Maciel biển thủ công qũy, có con rơi và còn đạo văn nữa.

Một phong trào tu trì do một người lầm lỗi đến thế sáng lập có thể nào sống còn được không? Các đoàn viên ngày nay còn có thể tin tưởng được những nhà lãnh đạo từng che chở cha Maciel khỏi bị điều tra hay không? Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã ra lệnh tiến hành một cuộc thanh tra của Tòa Thánh (apostolic visitation) để giải quyết các vấn đề ấy; năm vị giáo chủ đã bắt đầu cuộc thanh tra ấy vào mùa hè vừa qua.

3. Sự cực đoan đầy phá hoại của Giám Mục Richard Williamson

Một trong những sự việc tích cực nhất trong năm 2009 là việc Đức Giáo Hoàng vươn tay ra chào đón Hội Thánh Piô X (SSPX) do TGM Lefèbre sáng lập. Nhưng cử chỉ ấy đã bị báo chí đời làm lu mờ do cách Vatican vụng về xử lý một trong các giám mục của nhóm này, tức Đức Cha Richard Williamson. Người ta còn nhớ ngay trong tuần Đức Giáo Hoàng công bố những biện pháp đầy cởi mở để dọn đường cho Nhóm tìm về hiệp nhất, thì một đài truyền hình của Thụy Điển cho phát hình cuộc phỏng vấn trong đó Đức Cha Williamson cho hay ngài hoài nghi tầm mức của cuộc Diệt Chủng chống người Do Thái trong Thế Chiến II. Quan điểm của vị giáo chủ này rất phổ biến nơi giáo dân của ông, nhưng các viên chức Tòa Thánh có nhiệm vụ thương thảo với Nhóm SSPX thì xem ra lại không hay biết gì. Điều ấy làm giới truyền thông cũng như các nhà lãnh đạo Do Thái ngỡ ngàng. Cuộc tranh cãi nhân vụ này đã ảnh hưởng xấu đối với kế hoạch hòa giải của Đức Giáo Hoàng. Và vấn đề không ngưng ở đấy. Vì gần cuối năm, Đức Cha Williamson vẫn chống lại một quyết định của tòa án Đức phạt ngài về tội xét lại cuộc Diệt Chủng; ngài yêu cầu được có cơ hội giải thích các quan điểm của mình một lần nữa.

2. Cuộc phản loạn của hàng giáo sĩ Áo

Khi Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm một linh mục bảo thủ là Đức Ông Gerhard Wagner làm giám mục phụ tá giáo phận Linz, các linh mục của giáo phận này đã thực sự nổi loạn chống lại việc bổ nhiệm ấy. Tệ hơn nữa, các vị giám mục của Áo, thay vì ủng hộ quyết định của Đức Giáo Hoàng, đã lên tiếng chỉ trích Tòa Thánh không chịu tham khảo các nhà lãnh đạo Giáo Hội Áo trước khi công bố quyết định. Trước sự chống đối không thể nào vượt qua, Đức Ông Wagner đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng rút lại việc bổ nhiệm mình. Và sau một thời gian suy nghĩ, Đức Giáo Hoàng đã chấp nhận lời yêu cầu của Đức Ông. Nhưng sau đó, ngài đã cho mời các giám mục Áo tới Rôma dự phiên họp đặc biệt. Nhiều phúc trình cho hay nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ sự ngỡ ngàng của ngài trước thái độ làm ngơ của các giám mục Áo đối việc nổi loạn công khai và các lạm dụng về phụng vụ.

Câu hỏi chủ chốt tại Áo là liệu Tòa Thánh có áp dụng kỷ luật đối với Giáo Hội này hay không. Câu hỏi ấy cũng đang xuất hiện tại nhiều nơi khác. Như tại Ba Tây chẳng hạn, TGM José Cardoso Sobrinho đã phản đối mạnh mẽ khi quan điểm phò sự sống của ngài khiến nhiều giới chức Tòa Thánh lên tiếng chỉ trích trên tờ L’Osservatore Romano. Ngài than phiền rằng các chỉ trích đó không chính xác nhưng ngài lại không được cơ hội trả lời trên tờ báo của Tòa Thánh. Cuối cùng, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã lên tiếng bênh vực ngài, nhưng việc bênh vực này chỉ xẩy ra sau khi việc ngài từ chức đã được công bố.

Tại Hoa Kỳ, Đức Cha Joseph Martino đột ngột từ chức sau khi bị nhiều người chỉ trích về chủ trương phò sự sống quá mạnh mẽ của ngài. Lý do việc từ chức này chưa bao giờ được giải thích thỏa đáng. Có lẽ có một lý do gì đó khá vững chắc nhưng không tiện công bố cho mọi người cùng biết. Hiệu quả thuần của việc từ chức này hiện đang làm nhiều người tin rằng Giáo Hội không nhân nhượng các cố gắng đòi áp dụng kỷ luật đối với những người ủng hộ phá thai.

1. “Mùa chay dài” của Giáo Hội Ái Nhĩ Lan

Cố linh mục Richard Neuhaus (mà cái chết cũng là một truyện buồn đã xẩy ra trong năm 2009) từng gọi vụ xì-căng-đan xách nhiễu tình dục của năm 2002 là “mùa chay dài” của Giáo Hội Hoa Kỳ, với thật nhiều các câu truyện làm cho cả những người vững mạnh nhất cũng phải nản lòng. Năm nay, Giáo Hội Ái Nhĩ Lan cũng đang kinh qua một kinh nghiệm như thế. Nó bắt đầu với một phúc trình về việc lạm dụng “kinh niên” các trẻ em trong các định chế Công Giáo trong thế kỷ 20; sự việc càng trở nên nghiêm trọng qua một phúc trình khác, đề cập tới việc lạm quyền và phá hoại lòng tin do cách hàng giáo phẩm Dublin xử lý các vụ lạm dụng tình dục. Rồi tiếp theo các phát hiện sau cùng, liên tiếp 4 vị giám mục lần lượt từ chức. Áp lực mỗi ngày một gia tăng đòi vị giám mục thứ 5 từ chức khiến nhiều giáo phận khác không thoát khỏi nạn bị điều tra. Và kết quả các cuộc điều tra này đã làm đức tin nhiều tín hữu Công Giáo giao động. Bất hạnh thay, chưa có lý do nào khiến các phát hiện xấu xa thuộc loại này chấm dứt.

II. Năm điều tích cực nhất của năm 2009: Năm điều tích cực này cũng được xếp theo thứ tự từ dưới đi lên.

5. Tòa Thánh điều tra các cộng đoàn nữ tu Hoa Kỳ

Tháng 11 năm 2008, Đức Hồng Y Franc Rodé cho hay: “Nhiều năm qua, Thánh Bộ Dòng Tu vốn theo dõi các lắng lo do nhiều nhân vật Công Giáo Hoa Kỳ (tu sĩ, giáo dân, giáo sĩ và giáo phẩm) bày tỏ liên quan đến phúc lợi của các nữ tu sĩ và những người sống cuộc sống tận hiến nói chung”. Và cuối cùng, vào năm nay (2009), Tòa Thánh đã hành động.

Tháng Hai, Tòa Thánh công bố sẽ thanh tra các dòng nữ của Hoa Kỳ. Cuộc thanh tra này được Thánh Bộ Dòng Tu ủy nhiệm cho Mẹ Clare Millea, ASCJ, đảm trách, người từng tuyên bố sẽ thực hiện một cuộc tìm hiểu nghiêm chỉnh và mạnh mẽ.

Trong khi bề trên một số dòng nữ lên tiếng phản đối cuộc điều tra này, thì một tin khác đã được công bố: Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin sẽ tiến hành một cuộc điều tra khác về tín lý đối với Hội Đồng Lãnh Đạo Các Dòng Nữ, tức cơ quan đầu não các dòng nữ chính của Hoa Kỳ.

Trong các năm sau Vatican II, các nữ tu Hoa Kỳ càng ngày càng trở nên qúy hiếm. Con số các Nữ Tu Hoa Kỳ hiện nay chỉ bằng nửa con số năm 1965. Tuổi trung bình của các nữ tu còn lại này mỗi ngày một lên cao. Ấy thế nhưng, truyện nghịch thường là các cộng đoàn chiêm niệm và các cộng đoàn hoàn toàn dấn thân bước theo các mẫu sống cổ truyền của cuộc sống tu trì thì lại dồi dào ơn gọi. Chỉ duy những cộng đoàn được coi là “chính dòng đời”, nghĩa là những dòng tu một thời vốn cung cấp đoàn viên cho các trường nhà xứ và các bệnh viện khắp quốc gia, là đang biến mất đi. Điều đáng lo ngại là càng ngày càng có chứng cớ cho thấy họ tự gây họa cho chính mình; họ không còn khả năng thu hút các thiếu nữ, chỉ vì họ đã đánh mất chính căn tính tu trì rõ nét của mình. Như Đức Hồng Y Rodé từng nói trong một cuộc nói truyện thẳng thắn với một cử tọa Hoa Kỳ trong năm 2008, một số nữ tu “chưa bao giờ ta thán về việc đời sống tu trì hay ít nhất cộng đoàn họ đang dần dần biến mất đi”.

Nếu các con số thống kê về cuộc sống tu trì đủ để chứng tỏ sự cần thiết phải có cuộc thanh tra trên, thì phản ứng giận dữ của một số nữ tu nổi tiếng của Hoa Kỳ đã nói lên bản chất thực sự của vấn đề. Một nhóm nữ tu có ảnh hưởng đã lên tiếng hô hào một cuộc phản kháng bất bạo động đối với động thái của Tòa Thánh, và tháng 11 vừa qua, tờ National Catholic Reporter cho hay các cộng đoàn chính dòng đã phát động một “cuộc phản kháng gần như toàn diện” chống lại cuộc thanh tra của Tòa Thánh. Chỉ có 1% các dòng nữ đã giữ đúng hạn chót trả lời các câu hỏi điều tra. Bề trên các tu hội lớn nhất dường như coi Tòa Thánh là đích thủ của họ. Sự kiện ấy đủ nói lên nhu cầu cần Tòa Thánh phải chặn đứng các nữ tu này.

4. Các giám mục Ái Nhĩ Lan đã nắm được vấn đề

Như trên đã nói, các tiết lộ về xách nhiễu tình dục tại Ái Nhĩ Lan được kể là một trong 5 điều tệ hại nhất của năm 2009, nhưng cuộc thống nạn của Giáo Hội Ái Nhĩ Lan cũng đem lại một kết quả khá tích cực. Không giống các đồng nghiệp Hoa Kỳ của mình, các giám mục Ái Nhĩ Lan đã biết nhìn nhận phần trách nhiệm của mình.

Trong vòng một tháng sau khi công bố phúc trình Murphy, 4 vị giám mục Ái Nhĩ Lan đã xin từ chức. Các vị từ nhiệm một phần do công luận gây áp lực. Mà áp lực này phần lớn do ảnh hưởng của Đức TGM Diarmuid Martin của Dublin, người đã lên tiếng minh nhiên kêu gọi bất cứ vị giám mục nào của Dublin có liên quan đến vụ việc phải nghiêm chỉnh xét lại vị trí của mình, tuy không chính thức kêu gọi các vị từ nhiệm.

Đức Cha James Moriarty, một trong các vị từ nhiệm, bác bỏ lời tố cáo cho rằng ngài làm ngơ các đơn khiếu nại về xách nhiễu tình dục, nhưng nhìn nhận rằng: “đáng lẽ ra tôi phải thách thức nền văn hóa đương thịnh mới đúng”. Đúng như thế. Bất cứ vị giám mục nào dễ dãi đối với việc xách nhiễu tình dục, hay làm ngơ đối với những vị tỏ ra dễ dãi như thế, là tự chứng tỏ mình thiếu khả năng phán đoán mục vụ một cách lành mạnh. Vị giám mục nào giải quyết vụ xì-căng-đan bằng cách che đậy chứng cớ thì một là tỏ ra hoàn toàn dửng dưng đối với phúc lợi các linh hồn đã được trao phó cho ngài chăm sóc hai là làm méo mó một cách nghiêm trọng khuôn mặt đích thực của Giáo Hội. Trong cả hai trường hợp, ngài đã tự biến mình thành thất sủng và làm người ta hoàn toàn mất tin tưởng vào khả năng lãnh đạo mục vụ của ngài. Từ chức do đó là giải pháp hay nhất.

Tại Hoa Kỳ, nơi hàng tá các giáo phận có liên lụy tới các vụ xách nhiễu tình dục trong thập niên qua, chỉ có một giám mục đã đệ đơn từ chức. Trong khi đó, chỉ trong vòng non một tháng, 4 vị giám mục Ái Nhĩ Lan đã liên tiếp theo nhau từ chức khi chỉ có một giáo phận bị tiết lộ là có vấn đề. Quả các vị giám mục Ái Nhĩ Lan chứng tỏ được một nhậy cảm mục vụ mà các đồng nghiệp Hoa Kỳ của các vị xem ra đang thiếu. Đối với câu truyện đáng buồn này, người ta còn thấy một khía cạnh tích cực khác. Đức Bênêđíctô XVI đã hứa sẽ ban hành một thư mục vụ về cuộc khủng hỏang Ái Nhĩ Lan. Việc Đức Thánh Cha khéo léo xử lý vụ xì-căng-đan xách nhiễu tình dục tại Hoa Kỳ nhân cuộc tông du hồi tháng Tư năm 2008 tại đó khiến người ta hy vọng rằng ngài sẽ rút ra được nhiều bài học quan trọng từ vấn nạn Ái Nhĩ Lan.

3. Các động thái nhằm hòa giải Hội Thánh Piô X

Cả câu truyện này nữa cũng đi đôi với một trong năm điều tệ hại nhất của năm 2009. Nhưng không giống trường hợp trên, trong đó, câu truyện buồn đã tạo ra nhiều khía cạnh tích cực, trong trường hợp này, truyện buồn hầu như che khuất toàn bộ các khía cạnh tích cực. Các dấu hiệu tích cực của Ái Nhĩ Lan ví như viền bạc chiếu qua làn mây đặc. Trái lại, cuộc tranh cãi chung quanh vụ việc của Đức Cha Williamson gần như đã thu hút mọi chú ý, khiến không ai còn có dịp để ý tới các sáng kiến rất tích cực của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nhằm hòa giải Hội Thánh Piô X.

Còn nhớ hồi tháng Giêng, Đức Bênêđíctô XVI quyết định bãi bỏ các sắc lệnh phạt vạ tuyệt thông 4 vị giám mục của Hội Thánh Piô X sau khi họ được tấn phong giám mục bất hợp pháp bởi TGM Marcel Lefèbre. Khi làm thế, Đức Giáo Hoàng, người trước đó đã cho phép việc sử dụng rộng rãi nền phụng vụ Latinh truyền thống, đã loại bỏ trở ngại quan trọng cuối cùng khiến Hội Thánh Piô X ngần ngại không về hiệp nhất với Tòa Thánh.

Cử chỉ mạnh dạn của Đức GH sau đó không lâu đã bị che mờ bởi tính thời sự tiêu cực do vụ việc Williamson tạo ra. Động thái của Đức Thánh Cha đã mất đi tác động đều tiên của nó; cả Tòa Thánh lẫn Hội Thánh Piô X đều lâm vào thế thủ. Sandro Magister, quan sát viên Tòa Thánh của tờ L’Espresso nhận xét rằng vụ việc này cho thấy rõ “sự cô lập của Đức Bênêđíctô XVI, sự thiếu khả năng của Giáo Triều, và sự tịt ngòi (misfires) của Văn Phòng Quốc Vụ Khanh”. Tất cả những buộc tội trên đều quá đúng.

Với một đức khiêm nhường và nhẫn nại cao độ, Đức Bênêđíctô XVI sau đó đã ban hành một lá thư nói rõ mục đích trong động thái của ngài, và gần như van nài các vị giám mục hoàn cầu hỗ trợ kế hoạch hoà giải của ngài. Lá thư này cũng nhấn mạnh đến quyết tâm của Đức Bênêđíctô XVI. Ngài giải thích rằng ngài là người đầu tiên thấy rõ: việc hòa giải với nhóm Công Giáo bướng bỉnh này sẽ mang lại ích lợi cho toàn thể Giáo Hội: “việc trở về với Giáo Hội vĩ đại, rộng khắp và của chung này sẽ thắng vượt tính một chiều và làm nhẹ các căng thẳng, khiến cho từ nay họ trở thành lực lượng tích cực cho toàn thể Giáo Hội”.

Đức GH Bênêđíctô XVI hiển nhiên đã nhìn ra vai trò như thế của Hội Thánh Piô X. Và mặc dù có sự chống đối đối với động thái đầu tiên này của ngài, người ta thấy các tiến bộ hướng tới hòa giải vẫn tiếp tục xẩy ra. Vào tháng 10 vừa qua, các đại diện của Nhóm đã họp với các viên chức của Tòa Thánh để thảo luận loạt vấn đề đầu tiên của dự án liên quan tới khía cạnh tín lý. Các cuộc thảo luận này nhằm mục tiêu làm sáng tỏ việc giải thích đúng đắn Công Đồng Vatican II. Về lâu về dài, nhờ thiết lập được các giới hạn cho điều người Công Giáo phải chấp nhận, và điều được phép thảo luận, các cuộc thảo luận này sẽ giúp hàng ngàn người duy truyền thống hay thủ cựu nói trên tìm được đường về hiệp nhất trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo.

2. Vươn tay chào đón anh em Anh Giáo

Tháng 10, Đức GH Bênêđíctô XVI đưa ra một quyết định táo bạo khác, đó là việc công bố sẽ ban hành một tông hiến ấn định điều kiện cho anh em tín hữu Anh Giáo gia nhập hiệp thông trọn vẹn với Tòa Phêrô mà vẫn giữ được truyền thống tổ chức và truyền thống phụng vụ riêng của họ. Đức Thánh Cha một lần nữa cũng giải thích rằng sáng kiến của ngài là một phương tiện làm giầu thêm Giáo Hội hoàn vũ, nhờ hòa giải với các anh chị em ly khai.

Trong trường hợp này, sự ly khai đã kéo dài nhiều thế kỷ. Và vì nhiều vấn đề nội bộ có tính nghiêm trọng mà anh chị em Anh Giáo đang phải đương đầu, người ta coi lời mời gọi của Đức GH là hết sức hợp thời và do đó, được mọi người chào đón.

Kế hoạch của Đức GH hết sức đơn giản; và hành động của ngài hết sức dứt khoát. Nhiều năm qua, các người Anh Giáo theo khuynh hướng bảo thủ vẫn mong chờ viễn tượng cả nhóm được gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Nhưng lòng mong chờ ấy đã gặp nhiều phản ứng không thuận lợi từ phía những nhà đại kết chuyên nghiệp, là những người vốn lo ngại sẽ bị phía TGM Canterbury nổi giận cũng như từ phía các giám mục Anh là những người không mấy hứng khởi trước viễn tượng phải tiếp nhận hàng ngàn những người Công Giáo mới có khuynh hướng thần học bảo thủ gia nhập giáo phận của mình. Rất may, chỉ cần một nghĩa cử độc nhất của Đức Giáo Hoàng, là những quan ngại ấy đã được dẹp qua một bên. Điều đáng lưu ý là cả những nhà đại kết chuyên nghiệp hàng đầu của Tòa Thánh lẫn hội đồng giám mục Anh đều đã không trực tiếp can dự vào việc soạn thảo bản tuyên bố sau cùng của Đức Bênêđíctô XVI.

Khi được công bố chính thức, hiến chế nói trên tỏ ra hết sức nhạy cảm đối với các cử tọa Anh Giáo, hết sức tôn trọng và kính phục truyền thống Anh Giáo. Các thái độ ấy chắc chắn sẽ gây nhiều ấn tượng mạnh mẽ nơi các Kitô hữu khác, nhất là anh chị em Chính Thống Giáo, những người đang dò dẫm khả thể hiệp thông trọn vẹn với Rôma.

Cũng như đối với Hội Thánh Piô X, việc hợp nhất của Anh Giáo chắc chắn sẽ diễn tiến một cách chậm chạp; còn rất nhiều chi tiết phải được giải quyết. Nhưng sau 400 năm chờ đợi, ai cũng thấy diễn trình hòa giải đã chính thức khai diễn dưới triều Đức Bênêđíctô XVI.

1. Các giám mục Hoa Kỳ tìm được tiếng nói công cộng

Việc trường đại học Công Giáo nổi danh nhất của Hoa Kỳ quyết định vinh danh Tổng Thống Barack Obama qua việc trao tặng ông bằng tiến sĩ danh dự quả là một chuyện kỳ quặc. Rất may, khá nhiều giám mục Hoa Kỳ đã lên tiếng nhận định như thế.

Vị bản quyền sở tại là Đức Cha John D’Arcy đã khơi mào việc lên án bằng cách cho rằng lời mời của ĐH Notre Dame là một phá lệ đáng tiếc của điều đáng ra phải là trận tuyến thống nhất của người Công Giáo chống lại nạn phá thai. Khi vị chủ tịch của Trường từ khước không chịu xét lại việc trao bằng danh dự nói trên, Đức Cha D'Arcy đã chính thức công bố tẩy chay, không tham dự buổi lễ. Việc ấy tự nó rất đáng lưu ý. Vì trước đó, chưa bao giờ có một vị giám mục Hoa Kỳ nào lên tiếng công khai và trực diện chỉ trích một đại học Công Giáo như thế.

Tuy nhiên, Đức Cha D’Arcy không chiến đấu đơn độc; hơn 70 vị giám mục Hoa Kỳ khác đã cùng góp tiếng chỉ trích ĐH Notre Dame. Và chính Hội Đồng GM Hoa Kỳ cũng đã thông qua một nghị quyết nhằm hỗ trợ Đức Cha D’Arcy.

Một câu truyện khác xẩy ra trong năm 2009 cũng đáng được đặc biệt nhắc đến. Khi Đức Cha Thomas Tobin của Giáo Phận Providence, Rhode Island, kêu gọi dân biểu Patrick Kennedy “hồi tâm và thống hối”, lúc ngài lên tiếng thắc mắc không hiểu nhà lập pháp trẻ tuổi của dòng họ chính trị nổi danh nhất nước Mỹ này có chu toàn bổn phận căn bản của một người Công Giáo hay không, thì lời kêu gọi hoàn toàn mạnh bạo ấy đã trở thành liều thuốc bổ đối với những người Công Giáo vốn đợi cả mấy chục năm qua mới nghe được một câu đầy thách thức như vậy.

Đức Cha Tobin không khởi xướng cuộc tấn công đối với ông Kennedy; chính vị dân biểu Rhode Island này đã lên tiếng đánh phủ đầu hàng giáo phẩm trước và sau đó còn leo thang bằng cách tiết lộ rằng chính Đức Cha Tobin đã yêu cầu ông đừng rước lễ. Tuy nhiên, Đức Cha Tobin đã không rút lại cuộc tấn công. Thái độ của ngài cho thấy các vị giám mục Hoa Kỳ không còn nấn ná nữa, nhưng đã dứt khoát trở nên cứng rắn đối với các chính trị gia Công Giáo phò “văn hóa sự chết”.

III. Năm điều chờ mong trong năm 2010: Sau khi đưa ra 5 điều tệ hại nhất và 5 điều khích lệ nhất của năm 2009, Lawler tiên đoán 5 điều sau đây sẽ xẩy ra trong năm 2010, cũng theo thứ tự từ dưới đi lên. Theo ông, những tin tức hàng đầu để có thể chạy hàng tít lớn không dễ gì mà tiên đoán được. Ngược với triều đại Đức Gioan Phaolô II, các công bố lớn dưới thời Đức Bênêđíctô XVI thường xẩy ra mà không có báo trước. Dinh tông tòa hình như không có lỗ hổng nào; các nhà báo không được dành một tuần lễ nào để thảo luận hay “vặn vẹo”một tài liệu trước khi được công bố. Ngay cả khi một chủ đề nào đó đã được các giới bao quanh Vatican thảo luận hàng tháng trước, thì Đức Bênêđíctô XVI vẫn có khả năng làm cho các nhà báo chưng hửng về ngày giờ công bố chủ đề ấy. Trong năm 2009 chẳng hạn, việc ngài bãi bỏ vạ tuyệt thông cho các giám mục của Hội Thánh Piô X và việc ngài mời gọi anh chị em Anh Giáo đều là những việc bất ngờ, cho dù các phúc trình về mối liên hệ của Tòa Thánh với Nhóm Duy Truyền Thống và với các người Anh Giáo bảo thủ đã được bàn tán cả mấy năm trước. Cũng thế, dù người ta biết rõ Bộ Phong Thánh đã sọan sẵn sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Piô XII, nhưng không nhà báo nào tại Vatican dự đoán được việc Đức Giáo Hoàng cho công bố sắc lệnh đó vào tháng 12 vừa qua.

Rõ ràng là Đức Bênêđíctô XVI đưa ra động thái về chính sách khi ngài cho đã đến lúc thuận tiện để làm việc đó, chứ không hẳn để chiều theo “tiên đoán” của báo chí. Bởi thế, tiên đoán các biến cố chính có tính tin tức cho năm 2010, người ta chỉ làm một cố gắng để đọc ra tâm tư của Đức Giáo Hoàng mà thôi.

5. Đức Bênêđíctô XVI sẽ đưa ra các đề nghị mới nhằm phục hưng nền phụng vụ Latinh.

Nhiều năm trước đây, khi còn là Hồng Y Ratzinger, Đức Bênêđíctô XVI vốn được nhận diện là một trong những người cổ vũ hăng say nhất việc“canh tân cuộc canh tân”. Ngài hay viết về phụng vụ và luôn nhấn mạnh đến nhu cầu phải phục hưng cảm thức về thánh thiêng. Khi được bầu làm Giáo Hoàng, những người thuộc một khuynh hướng phụng vụ với ngài vốn mong đợi sẽ có những thay đổi quan trọng về phụng vụ. Từ ngày đó đến nay, các thay đổi như thế rất ít. Nhưng Đức Bênêđíctô hành động một cách hết sức có tính toán, và không có lý do gì để tin là ngài hết quan tâm tới việc canh tân phụng vụ. Trái lại, khi ngài cho công bố tông thư Summorum Pontificum, cho phép việc sử dụng rộng rãi nền phụng vụ Latinh cổ truyền, ngài đã cho hay việc sử dụng rộng rãi hình thức cử hành ngoại thường này chắc chắn sẽ sản sinh ra một phong trào hướng tới cuộc canh tân mà nhiều người đang mong chờ đối với Novus Ordo (Phần Thường Lễ).

Trong suốt mùa hè năm 2009, tại Rôma từng có nhiều lời đồn đãi cho rằng Bộ Thờ Phượng Thánh đang nghiên cứu các đề nghị mới về phụng vụ. Những lời đồn đại này được phao truyền rộng rãi đến độ Phòng Báo Chí Tòa Thánh phải ra thông cáo khéo léo đính chính đại loại như sau: hiện không có “đề nghị có tính định chế” nào đang được xem sét.

Nhưng sau đó, Andrea Tornielli, một nhà báo chuyên về Vatican vốn được coi là chính xác một cách nhất quán nhất, đã quả quyết trên tờ Il Giornale rằng dù Tòa Thánh bác bỏ, nhưng nhiều đề nghị nhằm “canh tân cuộc canh tân” đang được xem sét. Mấy tuần sau, phúc trình của Tornielli, trong yếu tính, đã được một thẩm quyền rất giá trị của Vatican xác nhận, đó chính là Đức HY Antonio Cañizares Llovera, bộ trưởng thánh bộ Thờ Phượng Thánh.

Hẳn có điều gì đó đang sắp xẩy ra. Người ta không biết rõ hình dạng của nó ra sao và ngày giờ nó ra đời lúc nào, nhưng họ có quyền chờ đợi nó trong năm 2010.

4. Đức GH Gioan Phaolô II và Đức HY John Henry Newman sẽ được phong chân phước

Theo Lawler, đây không hẳn là một tiên báo táo bạo. Vì ai cũng biết Đức Gioan Phaolô II đã được nâng lên hàng Đáng Kính, chỉ cần một phép lạ được công nhận nữa là ngài được phong chân phước. Mà phép lạ gán cho lời cầu bầu của ngài thì nhiều và hiện đang được nghiên cứu. Vả lại, hàng triệu tín đồ Công Giáo khắp thế giới đang khao khát cho việc nghiên cứu này tiến hành mau chóng. Tất cả những yếu tố ấy khiến người ta đủ lý do để tin rằng mùa thu này, Đức Gioan Phaolô II sẽ được phong chân phước.

Việc phong chân phước cho Đức HY Newman cũng thế, chỉ còn là vấn đề thời gian. Tòa Thánh đã xác nhận tính chân thực của một phép lạ do sự cầu bầu của ngài đem lại. Có chăng chỉ còn việc ấn định ngày phong chân phước mà thôi. Vì phép lạ đã được nhìn nhận hồi tháng 7, nên việc phong chân phước đáng lẽ đã xẩy ra rồi. Tại sao có sự trì hoãn này? Một số giới chức Công Giáo Anh cho rằng Đức Bênêđíctô XVI có thể dành vinh dự chủ tọa lễ phong chân phước này cho chính ngài, dịp ngài qua thăm Anh Quốc vào tháng 9 năm 2010.

3. Tòa Thánh sẽ có một tranh chấp lớn về chính sách với Liên Hiệp Âu Châu

Ít người lưu ý tới việc năm 2009 khi Hiệp Ước Lisbon có hiệu lực, thì Liên Hiệp Âu Châu đã trở thành một cơ cấu có chủ quyền, được trao cho nhiều quyền lực mới vượt trên các quốc gia hội viên.

Dù Tòa Thánh luôn mạnh mẽ hỗ trợ chính nghĩa hiệp nhất Âu Châu, nhưng cơ quan đầu não của Liên Hiệp Âu Châu luôn chống lại Giáo Hội trong các vấn đề như phá thai, hôn nhân đồng tính, giáo dục tôn giáo và cả việc đối xử với tôn giáo trong các văn kiện thành lập Liên Hiệp. Cả hàng thập niên qua, Tòa Thánh luôn đấu tranh chống lại các nhà lãnh đạo chính trị duy tục của Âu Châu trong nhiều vấn đề đặc thù, trong khi vẫn hỗ trợ mục tiêu tổng quát của Liên Hiệp này. Nay, một khi Liên Hiệp Âu Châu đã mang hình thức một cơ chế có chủ quyền, một kình chống trực diện thế nào cũng xẩy ra.

Cuộc kình chống ấy sẽ xẩy ra nhân dịp tòa án Âu Châu lên án việc Ái Nhĩ Lan ngăn cấm phá thai chăng? Việc lên án này quả là chuyện nghịch thường phi lý vì các giám mục Ái Nhĩ Lan đều là những người từng mạnh mẽ ủng hộ hiệp ước Lisbon. Hay sự kình chống ấy sẽ được khai triển đối với quyết định vốn đã được Tòa Nhân Quyền của Âu Châu phán quyết: tức phán quyết cho rằng việc trưng tượng chịu nạn trong các lớp học ở Ý là vi phạm nhân quyền? Hay cũng có thể là một vấn đề khác hẳn. Cuộc kình chống ấy khó lòng tránh được.

2. Đức Bênêđíctô XVI sẽ có động thái đại kết ngoạn mục đối với các giáo hội Đông Phương.

Ta biết Đức Bênêđíctô XVI vốn quan tâm đến việc hòa giải với các người Công Giáo duy truyền thống và tháng Giêng năm ngoái, ngài đã có động thái ngoạn mục qua việc bãi bỏ vạ tuyệt thông cho các giám mục của Hội Thánh Piô X. Ta cũng biết ngài rất quan tâm đến việc lôi cuốn các anh chị em Anh Giáo có tinh thần truyền thống trở về với Giáo Hội Công Giáo, và tháng 10 năm ngoái, ngài từng đưa ra một đề nghị ngoạn mục. Và ta còn biết là ngài rất quan tâm đến việc xích gần lại các giáo hội Chính Thống. Nên hãy chờ xem.

Với việc bầu cử Thượng Phụ Kirill đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga, Đức Bênêđíctô XVI hiện đang có một người đối thoại ở Mạc Tư Khoa cũng quan tâm chẳng kém đối với việc đại kết như mình. Dù toà thượng phụ Mạc Tư Khoa vẫn tiếp tục đưa ra nhiều lời chỉ trích chống lại điều họ gọi là cố gắng lôi kéo người ta vào đạo của Công Giáo, nhưng giọng điệu trong các lời chỉ trích này đã bớt phần chua cay hơn trước nhiều, ngầm cho thấy ý muốn sẵn sàng đối thoại thường xuyên và có chất lượng hơn.

Trong trường hợp có sự kình chống lớn với Liên Hiệp Âu Châu, phần chắc là Giáo Hội Chính Thống Nga sẽ hỗ trợ Giáo Hội Công Giáo. Vì nhiều năm qua, giới lãnh đạo Chính Thống Nga công khai bày tỏ ý muốn được liên minh với Công Giáo trong cố gắng chống lại chủ nghĩa thế tục tại Âu Châu.

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần bày tỏ ý nguyện được viếng Mạc Tư Khoa. Nhưng mỗi lần có kế hoạch họp thượng đỉnh với Thượng Phụ Alexei II, thì các giới chức Nga lại ngăn cản. Đức GH Bênêđíctô chưa công khai bày tỏ ý nguyện du hành qua Nga, nhưng thượng phụ Mạc Tư Khoa đã bắt đầu đưa ra gợi ý về một cuộc họp thượng đỉnh gần đây. Trong năm 2010 chăng?

1. Đức Bênêđíctô sẽ cử nhiệm thêm nhiều hồng y

Tiên đoán này khá dễ dàng. Cơ mật viện cuối cùng để cử nhiệm hồng y là tháng 11 năm 2007. Tuổi tác và cái chết đã dần dần làm con số các vị hồng y có tư cách đầu phiếu thưa dần, và một số vị giáo chủ đang phải đảm nhiệm các chức vụ, cả ở Vatican lẫn địa phương, mà thường ra vốn dành cho các vị hồng y.

Hiện có 112 hồng y dưới tuổi 80 nghĩa là có thể tham dự việc bầu giáo hoàng. Đến cuối tháng 3 này, con số ấy sẽ xuống còn 108, vì 4 vị hồng y nữa sẽ vượt qua tuổi 80. Qua tháng 9, con số ấy chỉ còn 103, ấy là chưa kể trường hợp có vị qua đời. Chắc chắn Đức Bênêđíctô XVI phải nghĩ đến viễn ảnh ấy. Có tin cho rằng Đức TGM Raymond Burke, hiện đứng đầu Tòa Án Tối Cao (Apostolic Signatura) sẽ là lãnh mũ hồng y trong cơ mật viện tới. Cũng có nguồn tin cho hay trước khi triệu tập cơ mật viện sắp tới, Đức GH có thể sẽ có những thay đổi lớn trong Giáo Triều. Trong đó, có việc thay thế Đức HY Giovanni Battista Re, bộ trưởng Thánh Bộ Giám Mục. Có tin đồn cả năm nay cho rằng sau khi đã làm việc tại Giáo Triều cả 20 năm nay, Đức HY Re sẽ được thay thế nhân dịp ngài 76 tuổi vào ngày 30 tháng Giêng này.
 
Top Stories
Laos: Nomination du nouvel évêque du vicariat apostolique de Savannakhet,
Eglises d'Asie
08:07 11/01/2010
Le 9 janvier dernier, le recteur du grand séminaire Jean-Marie Vianney de Thakhek, unique séminaire de la petite Eglise du Laos, le P. Jean-Marie Prida Inthirath, a été nommé par Benoît XVI évêque du vicariat apostolique de Savannakhet. Le poste était vacant depuis le décès, le 14 juillet dernier, de Mgr Jean Sommeng Vorachak, d’un cancer de la moelle osseuse, à l’âge de 76 ans. Nommé à la tête du vicariat de Savannakhet en 1997, le prélat avait traversé toutes les étapes de l’histoire mouvementée de l’Eglise du Laos, de la prise totale du pouvoir par le Pathet Lao en 1975 à la lente renaissance de l’Eglise catholique ces dernières années (1).



Le P. Prida Inthirath, né le 19 février 1957 dans la province de Khammouan, sur le territoire du vicariat apostolique de Savannakhet, a étudié la philosophie et la théologie à Thakhek, avant d’être ordonné prêtre le 20 avril 1986, toujours pour le vicariat de Savannakhet. Pour parfaire sa formation, il a étudié en France de 1993 à 1994 (année de formation pastorale à Toulouse). De retour au Laos, et jusqu’en 2004, il eut la responsabilité pastorale de nombreux villages du vicariat, puis se vit confier le poste de recteur du grand séminaire de Thakhek ainsi que la cure des paroisses de Khôksang et de Keng Kasi.



Le vicariat de Savannakhet, situé au centre du Laos et dont le siège épiscopal est Thakhek, est l’un des quatre vicariats apostoliques (2) du pays. Erigé en 1963, il compte actuellement six prêtres en activité sur place (certains étant en formation à l’étranger), 54 paroisses et 98 religieux (dont une cinquantaine de religieuses) pour quelques 13 000 catholiques dispersés dans un environnement bouddhiste très majoritaire (3). La majeure partie de la communauté catholique, qui se concentre dans la localité de Thakhek de ses environs, est formée de Vietnamiens et d’autres ethnies minoritaires.



Selon les sources ecclésiastiques locales, les catholiques sont à l’heure actuelle près de 1 % (entre 40 000 et 45 000 fidèles environ) de la population du Laos, essentiellement bouddhiste. Pour cette Eglise qui manque cruellement de prêtres (une vingtaine seulement pour tout le pays), la liberté religieuse reste très limitée et les activités ecclésiales étroitement surveillées. Ce n’est qu’en 2006, et non sans difficultés, que les autorités ont permis la reprise des ordinations sacerdotales, lesquelles restent néanmoins insuffisantes pour les besoins de la mission (4).



Le lieu ainsi que la date d’ordination du nouvel évêque ne sont pas encore connus.



(1) Voir EDA 512

(2) Les trois autres vicariats apostoliques de l’Eglise au Laos sont Paksé, Vientiane et Luang Prabang.

(3) Sources: Ucanews, 11 janvier 2010, Fides, 9 janvier 2010, Catholic Hierarchy.

(4) Rapport 8 janvier 2010 de le HCR, Haut Commissariat aux réfugiés des Nations Unies. Voir EDA 500

(sOURCE: Eglises d'Asie, 11 janvier 2010)
 
Vietnam: Catholics beaten, robbed, kidnapped; pastor accused of inciting riot against people’s government
Emily Nguyen
17:23 11/01/2010
Police and pro-government thugs in the village of Dong Hoi, located at around 70 km South of Hanoi, are at war with Catholics. Seven Catholics were kidnapped. A priest was restrained and threatened while trying to intervene in an attack against his travel companion.

Police and pro-government thugs ready to attack

Catholics
Blocking access to the area
Catholics marching on the street to protest
“Had he not been wearing a helmet, he’d be death by now,” said a nurse who was also a nun of the Lovers of the Holy Cross order in Dong Chiem who provided medic care to save the life of JB Nguyen Huu Vinh, a Catholic writer and reporter who was beaten and robbed by a dozen of police and pro-government thugs.

At 5:30 PM on Monday Jan. 11, Fr. Nguyen Van Lien, assistant priest of Dong Chiem Parish, was attacked by “a group of police in uniform and plain clothes” when he was giving the victim a riding tour around the village on his motorbike.

“As I was trying to get around a huge dirt pile on the bridge of Ai Nang, freshly dumped to block access to the area, a group of police in uniform and plain clothes attacked us,” the priest recalled.

“Seeing the victim wearing a camera in his neck, about 10 police officials jumped to and beat him savagely, trying to snatch his camera. I left my motorbike, jumping to his defense but the police used batons to threaten and held me back, ” said Fr. Nguyen. “Once they got the camera, they left the scene, leaving the victim lying in the middle of the road with a bloody mouth and a concussion,” he added.

The priest was not in serious condition, but his companion was beaten to unconsciousness.

Sisters of the order of Lovers of the Holy Cross in Dong Chiem came to rescue. On their way, Fr. Nguyen and the sisters also found a bike of two Catholic disabled war veterans. Fr. Nguyen confirmed that the two veterans had come to visit Dong Chiem and left him minutes earlier. The two had been attacked and abducted by the same group of police, passersby reported. Their motorbike remained at the scene, their whereabouts, however, remained un-accounted for.

After the evening Mass, thousands of Catholics marched on the street of Dong Chiem to protest the attack against Fr. Nguyen and other Catholics and the detention of other 5 parishioners.

On Jan. 7, a day after the infamous police attack in Dong Chiem, in a gesture of defiance toward the government, the faithful erected a new bamboo cross at the very site where the destroyed crucifix once stood. The action was to affirm the right of ownership of the land that "has belonged to the parish for more than 100 years and will not be abandoned."

A few hours later, 5 among the poorest parishioners in the village were asked to come to governmental service center for "filling out applications for food aid". At the end of the day, local authorities announced on loud speakers that the five “had bent their heads admitting guilty” in re-erecting the bamboo cross. They then were jailed at an unknown location.

The situation in Dong Chiem seems spinning out of control as the local government is reapplying the old trick of using hired thugs, and delinquent juveniles to attack Catholics while state media keep spreading negative image of Catholic on loud speakers day in and day out with the same language to distort the truth, defame religion, and promote hatred between Catholics and non-Catholics.

On the streets, police and gangs of thugs have stopped anyone who dares wearing any Catholic religious symbol to assault them.

On Jan. 09, Le Cong Sang, chairman of My Duc District's People Committee, who had ordered the brutal attack at Dong Chiem 3 days earlier, signed a statement accused Fr. Joseph Nguyen Van Huu of "not fulfilling his duty as pastor but rather leading his faithful into committing crimes". The pastor of Dong Chiem was also accused of “encouraging anti-government activities”, “undermining the great national unity bloc,” and “conducting propaganda against the people’s government”.

Sang ordered Fr. Joseph Nguyen to remove the new erected bamboo cross and to present himself in person at the People’s Committee of My Duc District. The courageous priest has defiantly protested the order. He set up a bulletin board to fill his flock in with latest developments and reassure them that they would not be alone in this ordeal, that Masses and prayer vigils have been held to pray for them throughout the country and from as far away as England, Ireland, Japan, and USA.

Bishops from all over the country have praised Fr. Joseph Nguyen and his parishioners for their testimonies of faith. Despite the risk of being assaulted by pro-government thugs, Bishop Joseph Nguyen Van Yen of Phat Diem travelled personally to the site to console them.

However outpouring the support is, the government does not seem ready to back down as the language in the statement of the Committee of My Duc indicated. If they have their way, Dong Chiem will be just another Thai Ha, Tam Toa, or Vinh Long where they had boldly held on to their plan of not returning the properties belonged to the Church, despite of what they said to the public and to the Vatican during the heads of the state visits in the recent past.
 
Vietnam: Gewalt wegen Friedhofskreuz (tiếng Đức)
Katholisches
17:29 11/01/2010
(Hanoi) Veröffentlicht am 11. Januar 2010 - Wegen eines Friedhofskreuzes ist es zu Gewalt gegen Christen gekommen. Nach Angaben eines Sprechers der Diözese Dong Chiem hat die Polizei am 6. Januar trotz Protesten ein Kruzifix auf einem katholischen Friedhof abmontieren lassen. Es kam zu Handgreiflichkeiten, demonstrierende Gläubige wurden gewaltsam verschleppt. Hintergrund sind Streitigkeiten über die Besitzverhältnisse. Die katholische Kirche reklamiert den Grund für sich, er sei seit über 100 Jahren im Besitz einer Pfarrei, während der kommunistische Staat Privateigentum nicht anerkennen will.

(Source: http://www.katholisches.info/?p=5979)
 
Vietnam: Sicherheitskräfte sprengen Kreuz auf Friedhof (tiếng Đức)
Die katholische Erlebniswelt
17:30 11/01/2010
Rom (KNA) - In der vietnamesischen Hauptstadt Hanoi haben Sicherheitskräfte ein Kreuz gesprengt, das auf einem katholischen Friedhof stand. Gegen Gläubige, die sich zum Schutz des Kruzifixes friedlich versammelt hatten, ging die Polizei nach Angaben des römischen Pressedienstes asianews vom Donnerstag gewaltsam vor. Mindestens zwei junge Männer seien verletzt worden, berichtete asianews unter Berufung auf eine Mitteilung der Erzdiözese Hanoi. Das Bistum verurteilte das Vorgehen der Sicherheitskräfte.

Den Angaben zufolge wurde das auf einem Felsen inmitten des Friedhofs errichtete Kreuz am Mittwochmorgen (Ortszeit) von einer Armeeeinheit durch eine Sprengladung zerstört. Zum Schutz der Aktion hatten die Behörden laut asianews rund 500 Polizisten mit Hundestaffeln auf den Gottesacker der Gemeinde von Dong Chiem in Hanoi abkommandiert. Diese seien gegen die protestierenden Gläubigen mit Tränengas und Schlagstöcken vorgegegangen.

Ein ähnlicher Vorfall hatte sich dem Bericht zufolge am 5. November in der nordvietnamesischen Diözese Vinh ereignet, als Bulldozer eine Marienstatue von einem katholischen Friedhof entfernten.

(Source: http://www.liborius.de/nachrichten/ansicht/artikel/vietnam-sic.html)
 
Wietnam: biskupi apelują do rządu o respektowanie praw człowieka i wolności religijnej (Ba Lan)
Katolicka Agencja Informacyyjna
17:32 11/01/2010
Ostatnia aktualizacja 2010-01-11 -- O respektowanie praw człowieka i wolności religijnej zaapelowali do władz Socjalistycznej Republiki Wietnamu biskupi północnej części kraju. Hierarchowie wyrazili solidarność z arcybiskupem Hanoi, Josephem Ngč Quang Ki?tem oraz potępili zniszczenie symboli religijnych i atak na wspólnotę katolicką.

Biskupi północnej części Wietnamu spotkali się 8 stycznia w kurii archidiecezjalnej w Hanoi. W komunikacie ze swych obrad stwierdzili, że zniszczenie przez oddziały milicji krzyża na cmentarzu parafii katolickiej w Dong Chiem 6 stycznia oraz przemoc wobec wiernych należą do stałych składników polityki wyznaniowej wietnamskich władz. Przestrzegają rząd przed odwoływaniem się do środków, które mogą powodować dalsze niezadowolenie, gniew i nieufność społeczeństwa.

Hierarchowie po raz kolejny domagają się zmiany ustawodawstwa dotyczącego własności nieruchomości i uznanie własności prywatnej, zgodnie z Powszechną Deklaracją Praw Człowieka. Tymczasem wietnamskie władze twierdzą, że cała ziemia jest własnością ludu, a państwo nią zarządza. Biskupi podkreślają wolę współpracy z rządem dla dobra kraju oraz budowania,, wielkiej rodziny", której wszyscy członkowie mogliby współżyć w pokoju.

Abp Joseph Ngč Quang Kiet wraz z innymi biskupami odwiedzili parafię Dong Chiem. Tamtejsi wierni na miejscu krzyża zniszczonego przez bojówki milicyjne postawili nowy, z bambusa. Pragną w ten sposób potwierdzić prawo Kościoła do własności terenu, który od ponad stu lat należy do parafii i,, nie zostanie porzucony". W odpowiedzi władze aresztowały pięciu katolików oraz odcięły dostęp do terenu. Funkcjonariusze nie zniszczyli jednak nowego krzyża. Państwowe media podjęły natomiast oszczerczą kampanię przeciw katolikom, oskarżając ich o podżeganie do nienawiści.

(Source: http://wyborcza.pl/1,91446,7439889,Wietnam__biskupi_apeluja_do_rzadu_o_respektowanie.html)
 
Hanoi Archdiocese slams cross removal ’sacrilege’
Asia-News
17:33 11/01/2010
January 11, 2010 - Hanoi archdiocese has condemned local security officials’ removal of a cement cross which stood on top of a hill used as a Catholic cemetery.

Fr John Le Trong Cung, secretary at the archbishop’s house, said 600-1,000 security officials using hand tools destroyed the cement cross at 2 a.m. on Jan. 6, UCA News reports.

The cross stood on top Nui Tho (Worship Mountain) near Dong Chiem church in Hanoi’s My Duc district.

In a message dated Jan. 7 to local Catholics, Father Cung said security officials had blocked roads leading to the hill which the parish has owned since its establishment over 100 years ago. Local Catholics once used the hill as a cemetery for family members and for the victims of a severe famine in 1945-1946, he added.

His message is posted on the archdiocesan website and other local Church websites.

The priest said many local Catholics were beaten and tear gassed when they protested the destruction of the cross. Two women were seriously injured and are in hospital, he added.

Fr Cung described the incident as a “sacrilege.”

“We are deeply concerned. Destroying a cross is offending Christ” as the cross is “the most sacred symbol of the Catholic faith and the Catholic Church,” he said.

The archdiocesan official also described the security officials’ treatment of protesters as “an inhuman action.”

Fr Cung asked local Catholics to pray for justice, spiritual values and human rights to be respected and protected in the country.

According to local Church sources, after the officials left the hill, local Catholics erected two small wooden crosses, hung funeral flags and placed candles around the foot of the old cross.

Later, 40 archdiocesan priests visited the site and concelebrated a special Mass at the church.

Local Catholics also peacefully gathered outside the homes of several officials to urge them to repent of what they had done.

According to local Church sources, parishioners erected the cement cross on the hill on March 4, 2009, replacing an old wooden cross.

Government authorities accused local Catholics of erecting the new cross illegally and ordered them to remove it. However, local people refused.

(Source: http://www.cathnewsasia.com/2010/01/11/hanoi-archdiocese-slams-cross-removal-sacrilege/)
 
PRESS RELEASE: Journalist Nguyen Huu Vinh attacked by Vietnamese Communist Officers and Police
Vietnamese Catholic Mass Media
23:20 11/01/2010
The Federation of Vietnamese Catholic Mass Media

92 The River Rd - Revesby NSW 2212
Tel: (02) 9773 0933
Fax: (02) 9773 3998
paulvanchi@yahoo.com

PRESS RELEASE

FOR IMMEDIATE RELEASE

Contact: Fr. Paul Van Chi Chu
Tel: (02) 9773 0933
Mob: 0410 552 650


Sydney, Jan 12, 2010- The Federation of Vietnamese Catholic Mass Media is urgently reporting to the world community about a brutal act of violence committed by the police against a Catholic writer and reporter in Vietnam

At 5:30 PM on Monday Jan. 11, Mr. JB Nguyen Huu Vinh, a Catholic freelance journalist was accompanying Fr. Nguyen Van Lien, assistant priest of Dong Chiem Parish, on their trip to the site of an early morning police attack on Jan 6, 2010 which left dozen parishioners wounded before dynamites were used to blow up a 5 meter crucifix erected on the hilltop of the parish cemetery dubbed "Mount of worship".

According to Fr. Lien, when they were about 500 meters to their destination of Dong Chiem, My Duc District of Hanoi, the pair ran into a huge dirt pile on the bridge of Ai Nang, freshly dumped by the police to block access to Dong Chiem. As the priest was trying to get his motorbike around this road bock, a group of about 10 uniformed and plainclothes police suddenly approached and assaulted Mr. Vinh savagely until he became unconscious.

Seeing his companion being attacked, Fr. Lien abandoned his bike and rushed to Mr. Vinh's rescue, only to get him being overpowered and manhandled by police forces.

The perpetrators then left with the victim's camera, leaving him with a bloody mouth and a concussion on the side of the road. Only then Fr.Lien could call for help and the Sisters of the order of Lovers of the Holy Cross in Dong Chiem quickly came to their rescue, in time to save Mr. Vinh's life. He is still being cared for by medical doctors and his family in Hanoi.

In light of the violence against Mr. JB Nguyen Huu Vinh, The Federation, therefore, would like to:

1. Strongly denounce Vietnamese police brutality against a journalist.

2. Demand Vietnam government to start an investigation on this incident in order for the perpetrators to be brought to justice, and the victim properly compensated for the bodily and emotional trauma he has sustained as a result of this senseless act.

3. Expose to the world community an illegal and immoral crime committed by Vietnamese law enforcement against the right to perform duty of a reporter.

4. Express our growing concern that the situation in Dong Chiem has started spinning out of control as the local government is reapplying the violent strategy of using hired thugs, and delinquent juveniles to attack Catholics while state media keep spreading negative image of Catholic, distorting the truth, defaming religion, and promoting hatred between Catholics and non-Catholics. Vietnam government must stop persecuting the Catholic priests and the faithful, and restore law and order in worshiping areas to prevent violence aimed at participants.

5. Demand local authorities in Vietnam to respect the law they promulgated and return the properties which rightfully belonged to the Catholic Church and other religious groups.

Contact:
Fr. Paul Van Chi Chu
Tel: (02) 9773 0933
Mob: 0410 552 650

Mons. Peter Tai Van Nguyen
Director of Radio Veritas Asia
Buick St. North Fairview,
Quezon City, Philippines
P.O. Box 2642
Email: rvaprogram@rveritas-asia.org

Fr. John Nghi Tran
Director of VietCatholic News Agency
435 Berkeley Ave
Claremont, CA 91711, USA
Email: conggiao@gmail.com

Fr. Joachim Viet-Chau Nguyen Duc
Director of People Of God Magazine in America
PO Box 1419 Gretna,
LA 70053-5440, USA.
Email: danchuausa@yahoo.com

Fr. Anthony Quang Huu Nguyen
Director of People Of God Magazine in Australia
715 Sydney Rd. Brunswick Vic 3056
Australia
Email: danchuaucchau@gmail.com

Fr. Stephen Luu Thuong Bui
Director of People Of God Magazine in Europe
Magazine Catholique
Katholische Monatszeitschrift
Monthly Catholic Magazine
Email: info@danchua.de

Fr. Paul Van-Chi Chu
Vice Director of VietCatholic Network
92 The River Rd - Revesby
NSW 2212
Australia
Email: paulvanchi@yahoo.com
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tuần lễ di dân Tổng Giáo Phận Sàigòn
Sr. Minh Nguyên
15:42 11/01/2010
(SAIGON) Ngày 10 tháng 1 vừa qua, tại nhà thờ thánh Phaolo mà người dân Saigon quen gọi là nhà thờ Hỏa Tiễn ( Tên Lửa) dã diễn ra ngày bế mạc tuần lễ di dân của Tổng Gp. Saigon.

Từ 2g chiều các bạn trẻ di dân khắp nơi như Gx. Hiển Linh, Tam Hải, Khiết Tâm, Xuân Hiệp. Bình Chánh....tổng cộng gồm 27 đơn vị bao gồm các giáo xứ và các anh chị em di dân được các Hội Dòng chăm sóc.

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng: Tuần lễ di dân của Gp. Saigon bắt đầu từ ngày 03 tháng 1 và thánh lễ khai mạc được tổ chức tại giáo xứ Xuân Hiệp- Thủ Đức. Các bạn trẻ di dân tập trung về Xuân Hiệp khoảng hơn 2 ngàn trên danh sách, nhưng đến giờ cao điểm là thánh lễ số người tham dự lên đến 6 ngàn. Sau đó các bạn ở Xuân Hiệp lại được cầu nguyện bằng hình thức diễn nguyện với sự phục vụ của 12 ca sĩ: Phi Nguyễn, Kim Cương OP, Gia Ân, Kim Cúc, Tuyết Mai Ly, Hoàng Hiệp, Dịu Hiền và các ca sĩ trong nhóm Trái tim Yêu. Tiếp đến là hạt Bình An tổ chức ở Gx. Bình An Thượng và Gx. Phú Trung hạt Tân Sơn Nhì cũng được ban di dân của Tổng Gp. Saigon hỗ trợ tổ chức ngày họp mặt và thánh lễ cho anh chị em công nhân và ngoài ra còn rất nhiều nhà thờ như Khiết Tâm, Bình Chánh...tổ chức cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa và làm việc bác tong suốt tuần lễ di dân.

Đúng 2 giờ chiều, nhà thờ Phaolo không còn chỗ chứa, anh chị em công nhân khắp nơi đổ về. Nhóm nào cũng hăm hở nói cười thân thiện. Vào khuôn viên nhà thờ, các bạn như ngây ngất với những trang trí của ngày Giáng Sinh vẫn còn đây, kia ông già Noel to đùng cười tuần lạc đi phát quà, đây Ba Vua đang cưỡi lạc đà về chiêm bái Hài Nhi Các bạn công nhân thỏa thích ngắm nhìn và cũng thỏa thích.. chụp hình lưu niệm, đẹp và rực rỡ, to chưa từng thấy.... đó là những lời nhận xét của các bạn. Có lẽ cha xứ Phaolo Phạm Trung Dong cũng để dành cho các bạn đến chụp hình nên cũng chưa gỡ đi.

2g 30 chiều, 143 chủng sinh từ chủng viện Saigon chia thành hơn 25 tổ, mỗi tổ lại chia thành 3-4 nhóm cùng các bạn di dân chia sẻ... thật vui, thật dễ gần và hạnh phúc... những cảm tưởng của các bạn công nhân có lẽ còn hơn thế nữa, nhưng không thể biểu lộ qua ngôn ngữ mà chỉ trong ánh mắt, trong sự hòa mình và nhiệt tình của các bạn khi được các thầy chia sẻ và sinh hoạt. Lúc đó tôi đi vòng quanh thì thấy sân nhà thờ đã chật hết chỗ, có một số nhóm ra ngoài khuôn viên nhà thờ, ngồi gần... đống rác họp mà vẫn thấy vui !

Đúng 4g chiều, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đến với các bạn công nhân. Không khí chào đón nồng nhiệt từ bốn phía nhà thờ, cộng với dàn trống cũng của công nhân, làm cho bầu khí vui tươi và cao trào. Trên sân khấu lúc này tôi đếm được khoảng hơn 30 cha, gồm các cha trong Ban Mục Vụ Di Dân và các cha khách cũng như các cha xứ thuộc tổng Gp. Saigon. Các bạn công nhân đã gặp gỡ ĐHY qua những lời chia sẻ và những câu hỏi. Tôi ghi nhận các bạn đến từ nhiều vùng miền đất nước khác nhau lên đặt câu hỏi: Xin ĐHY chỉ cho chúng con cách biết tiếp cận Chúa cho gần hơn nữa. Xin cầu nguyện cho đức tin của chúng con mạnh mẽ vì hạt giống của chúng con như đang sống giữa bụi gai. Xin chỉ cho con cách dễ nhất giúp cho người bạn làm cùng với mình biết Chúa như mình. Xin ĐHY lưu tâm đến vấn đề trước và sau hôn nhân của chúng con, vì ở đất Saigon này, nữ công nhân nhiều hơn nam, do vậy chúng con lập gia đình với người chưa công giáo là điều tất yếu xảy ra... và câu hỏi cuối cùng: ĐHY khao khát điều gì nhất ở anh chị em di dân chúng con.

Thay vì trả lời cho những câu hỏi này ĐHY lại tỏ ý khen ngợi các bạn trẻ công nhân. Ngài nói rằng: Tôi rất vui mừng khi nghe được những câu hỏi này. Cách đây khoảng mấy năm, cũng tại ngôi nhà thờ này tôi được nghe các bạn tâm sự: ở đâu có khu công nghiệp ở đó có di dân, ở đâu có di dân ở đó có ba điều đó là ly di, phá thai và tình trạng nghiện ngập xì ke và Sida. Những câu hỏi của các bạn hôm nay đã hướng sang một chiều kích khác, đó là xoay quanh vấn đề đức tin, đức tin trong đời sống hôn nhân và đức tin trong xã hội. ĐHY chia sẻ thêm trong chuyến Ngài đi họp tại Roma tháng 11-2009 vừa qua về di dân trên toàn thế giới với 300 đại biểu khắp nơi. Ngài nói hội nghị muốn giáo hội địa phương và giáo hội tiếp nhận phải có sự hợp tác, như vậy sự chăm sóc cho anh chị em di dân mới được chu đáo. Ngài ví GH tiếp nhận là chiếc tàu ông Noe chở các bạn đến đất dồi dào hơn về đức tin, tinh thần cũng như vật chất. Các bạn sẽ trở nên những sứ giả Tin Mừng trên đất nước chúng ta, các bạn đã hỏi và từ những câu hỏi đó các bạn đã có ý hướng trở nên sứ giả rồi.

Những tràng pháo tay tưởng như không dứt của hơn ba ngàn bạn trẻ như nói lên cảm ơn ĐHY từ những lời khen ngợi ý nhị này.

Trong phần giảng lễ, ĐHY cũng lưu tâm anh chị em di dân về việc cầu nguyện, vì đây là nền tảng cho đức tin được giữ vững và được thắp sáng. Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tìm những hạt giống lời Chúa nằm trong nền văn hóa để dễ dàng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp biết về Chúa.

Sau thánh lễ là nghi thức sai đi, các bạn trẻ trên tay cầm nến sáng, những ánh nến thắp rực rỡ trong đêm, xua tan khỏang tối, soi rõ mặt người bạn đứng bên cạnh. Tuy nhiên có đến khoảng 8 ngàn người tham dự nên không đủ nến và cũng không đủ đồ chụp nến, nên một số bạn đứng quanh tôi có nến mà không có chụp, các bạn cố giữ cho ngọn nến của mình cháy sáng bằng nhiều cách như bao bằng tờ bướm bài hát, che bằng tay, nhưng cũng có người nến tắt mà không biết, anh vẫn say sưa nhìn chăm chú lên bàn thờ làm cử điệu theo cha Nguyễn Minh Thiệu. Tôi thấy những hình ảnh này thật ý nghĩa và thật đep, đức tin mình cũng có thể ví như những ánh nến đó, mình cố giữ cho nến cháy sáng bằng nhiều phương thế khác nhau, và đôi lúc nến tắt mà không biết vì bên cạnh mình, nến của anh chị em sáng soi cả cho mình nữa.

Quà chúc Xuân của ĐHY năm nay gửi cho các bạn trẻ di dân đầu tiên, chưa một ai có, đó là lá thư chúc xuân của Ngài. Các bạn đón nhận và cảm ơn lại bằng những tràng pháo tay đầm ấm.

Trong lúc giải lao, tôi được một cha ở Đà Nẵng Gx. An Ngãi chia sẻ: quả là ngày tổ chức vĩ đại và hoành tráng. Con bạn Hoài quê Nam Định thì nói: được tham dự thế này thì mình cảm thấy hãnh diện. Có lẽ bạn muốn diễn ta rằng thánh lễ tổ chức quy mô, ngày gặp gỡ thân tình và ấm cúng, nhưng bạn không biết diễn tả thế nào cho hết được tâm tình của mình, chỉ cảm thấy rằng hãnh diện vì mình được tham dự trong ngày hôm nay.

Hôm nay các bạn được thưởng thức bánh giò Saigon, một chai nước ngọt, một trái chuối và một hộp cơm rất ư là ngon. Có lẽ vì thế mà trong phần múa chung cộng đồng, các bạn làm thật hăng say, nhiệt tình và hết mình...

Sau đó các bạn di dân được thưởng thức một chương trình đại nhac hội với chủ đề Bước đi trong tin yêu với sự góp mặt của các diễn viên cây nhà lá vườn, nhưng luyện tập rất công phu, tuy đơn sơ, mộc mac, nhưng gói trọn lòng yêu mến là phục vụ.

Tuy nhiên, ngày hôm nay, tôi thích nhất hình ảnh của 26 tấm bảng đề tên các giáo phận được các bạn để chung quanh lễ đài. Tôi có cảm tưởng rằng 26 giáo phận đang hiện diện nơi đây, đang cùng chung vai sát cánh với nhau che chở nhau, nâng đỡ nhau cho GH Việt Nam ngày càng triển nở hơn về đời sống đức tin và đời sống làm con Chúa.

Hình ảnh Tuần Lễ Di Dân

Saigon 10.1.2010

Sr. Minh Nguyên
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Lên núi nhặt thịt Chúa
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
07:53 11/01/2010
LÊN NÚI NHẶT THỊT CHÚA

Có đáng ngạc nhiên ?

Câu chuyện thời sự khiến mọi tín hữu Công Giáo Việt Nam quan tâm lúc này, là những gì mới xảy ra tại giáo xứ Đồng Chiêm trong những ngày qua. Đọc các bài viết trên mạng Vietcatholic, tôi thấy nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên: Làm sao sau cuộc viếng thăm Vatican của Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, cùng với bao lời lẽ tốt đẹp trao đổi với Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI, lại có thể có một vụ việc tồi tệ và trầm trọng như thế này được ? Trước cuộc viếng thăm này, có người đã tỏ vẻ lạc quan. Thậm chí có giám mục đã nói đến một cuộc viếng thăm khả dĩ của Đức Giáo Hoàng đến Việt Nam sau cuộc viếng thăm Vatican của Chủ tịch Nước ! Rồi còn nói đến khả năng các Giáo Hội anh chị giúp đỡ về mặt tài chánh để có thể đón Đức Giáo Hoàng !

Bản thân tôi chẳng kỳ vọng gì trước chuyến đi của Chủ tịch Nước, cũng không ngạc nhiên trước những sự việc mới xảy ra. Các quan chức cộng sản có thể có những vai diễn khác nhau, nhưng đạo diễn duy nhất vẫn là đảng cộng sản. Tôi nhớ có đọc ở đâu đó lời một chính trị gia, ông Âu Dương Thệ, đại khái như thế này: Nhìn từ bên ngoài, ta có thể đoán: trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam, có phe thân Tàu, có phe thân Mỹ, nhưng kỳ thực, chỉ có những phe thân nhau mà thôi. Thành ra bắt tay Đức Giáo Hoàng, hay là triệt hạ Cây Thánh Giá, chỉ là những màn khác nhau của cùng một vở tuồng. Cộng sản Việt Nam với tôn giáo, ở đây chính xác là Công Giáo: Chiến thuật thay đổi tuỳ thời điểm, nhưng chiến lược thì không.

Tại sao lúc này ?

Ngược dòng thời gian thì cách đây chưa lâu, thửa đất non hai chục mẫu của thánh địa La Vang mới được trả lại. Toà Tổng Giám Mục Huế đang khẩn trương lên phương án xây một trung tâm hành hương với kinh phí 25 triệu Mỹ Kim. Nhìn từ phía Nhà Nước thì đây không phải là đất “trả lại” nhưng là đất “cấp cho theo yêu cầu” dựa trên nguyên tắc “đất đai là của toàn dân do Nhà Nước quản lý” ! Trước nữa là đất xây trung tâm mục vụ Đà Lạt. Nghe đâu xin ba mẫu, cho đến tám chín mẫu gì đó. Làm sao ăn của chùa mà không phải ngọng miệng ! Nhưng qua các vụ việc xảy ra liên quan đến đất đai, trong đó có đất của Công Giáo, chính quyền cộng sản Việt Nam muốn cho thấy rằng: Cho đất xây trung tâm mục vụ hay trung tâm hành hương là ta, biến đất Toà Khâm Sứ hay Thái Hà thành công viên chính là ta, không trả đất Giáo Hoàng Học Viện cũng là ta, thì nay đập Thánh Giá trên đất Đồng Chiêm vẫn là ta.

Nét đặc thù của vụ Đồng Chiêm

Các vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý… và nay là Đồng Chiêm, đều có một mẫu số chung, đó là đất. Thế nhưng vụ Đồng Chiêm thì không chỉ liên quan đến đất mà thôi. Giả sử chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhà thờ Đồng Chiêm hay Toà Tổng Giám Mục di dời Cây Thánh Giá, mà lệnh đó không được thực hiện thì khác, đàng này, giữa đêm hôm khuya khoắt, điều động cả đến non ngàn dân quân với chó nghiệp vụ và đủ loại vũ khí, rồi dùng hoá chất để cho nổ tung Cây Thánh Giá, thì điều không thể nghi ngờ là chính quyền Hà Nội, với thái độ ngạo mạn của người muốn biểu dương quyền lực, đã cố tình công khai xúc phạm biểu tượng thiêng liêng của Ki-tô giáo.

Phản ứng từ phía Công Giáo

Khác với vụ Tam Toà, lần này thì đã có nhiều dấu hiệu hiệp thông của giới Công Giáo ở trong nước cũng như hải ngoại, đặc biệt từ phía các giám mục. Vị đầu tiên lên tiếng là đức cha Đặng Đức Ngân, giám mục giáo phận Lạng Sơn, rồi sau đó là tất cả các giám mục thuộc giáo tỉnh Hà Nội. Giáo tỉnh miền Trung thì có giám mục Kontum, đức cha Hoàng Đức Oanh. Các giám mục khác thì có vẻ theo nguyên tắc: chuyện địa phương nào thì địa phương đó lo, cho dù như đã nói ở trên, chuyện Đồng Chiêm không đơn thuần chỉ là chuyện đất. Và chắc cũng vì biết trước là sẽ không có một lập trường chung trong giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam, nên chính quyền mới không sợ mạnh tay như mọi người đã thấy. Cũng may mà ngay ngày sự việc xảy ra, từ Toà Tổng Giám Mục trở về sau buổi tĩnh tâm, 40 linh mục Hà Nội đã tới Đồng Chiêm dâng thánh lễ đồng tế, trong thánh lễ đó, cha Phạm Minh Triệu đã có một bài chia sẻ tuyệt vời, vừa cho thấy lòng tin bất khuất, vừa chứng tỏ một thái độ bao dung của người môn đệ Chúa Ki-tô, lại vừa bày tỏ lòng yêu nước sâu xa trước hiểm hoạ xâm lăng của Trung Quốc.

Nhưng điều không thể không nói tới ở đây chính là những đóng góp vô cùng to lớn của anh em linh mục tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Không chỉ chờ đến khi vụ việc lan đến Thái Hà là nơi anh em có trách nhiệm mục vụ, nhưng ngay từ lúc xảy ra vụ Toà Khâm Sứ, rồi đến lúc vụ việc lan tới Tam Toà, và cuối cùng là Đồng Chiêm, anh em luôn ở tuyến đầu để cung cấp thông tin và hình ảnh, nhờ đó, bất kỳ ở đâu trên thế giới, người tín hữu Công Giáo Việt Nam cũng có thể hiệp thông. Và trong hết mọi lời tuyên bố, không có lời nào vừa đầy đủ, vừa mạnh mẽ như lời cha Nguyễn Văn Khải, đại diện cho cộng đồng tu sĩ và giáo dân Thái Hà: “Hiệp thông trong đức tin và đức mến của những người con cái Chúa và trong tư cách là những người đã chịu chung thân phận bị bách hại, Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội cực lực phản đối và lên án hành vi báng bổ tôn giáo cách điên cuồng của nhà cầm quyền thành phố Hà Nội”.

Trước việc “hai nạn nhân bị công an đánh trọng thương và họ đã dùng bạo lực đưa 2 nạn nhân này đến bệnh viện Hà Nội, cho các bác sĩ ở đây khám qua quýt các vết thương rồi bỏ lơ các nạn nhân ở đấy cho đến chiều ngày mùng 6/1/2010, thì đẩy các nạn nhân ra khỏi bệnh viện đang khi tính mạng nguy kịch,” Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội “cực lực phản đối và lên án hành vi sử dụng bạo lực của nhà cầm quyền để khủng bố và gây thương tích cho các giáo dân giáo xứ Đồng Chiêm” và “lên án hành vi vô nhân đạo của nhà cầm quyền khi không dành cho những người bị thương sự cứu chữa cần thiết và đúng mức và lại còn đẩy họ ra khỏi bệnh viện trong tình trạng tính mạng nguy kịch.” Giá mà lời tuyên bố hùng hồn đó không phải chỉ đến từ một xứ đạo, nhưng là từ cả Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đứng đầu là Hội Đồng Giám Mục, thì trọng lượng của lời tuyên bố đó sẽ được nhân lên gấp trăm, gặp vạn lần. Và ai cũng hiểu được nỗi bức xúc của anh J.B. Nguyễn Hữu Vinh, tác giả bài “Thánh Giá Đồng Chiêm: Cơn thử thách khắc nghiệt của tín hữu Ki-tô” đăng tải trên Vietcatholic ngày 8.1.2010 khi anh viết: “Nếu không có sự hiệp thông trong toàn Giáo Hội Công Giáo khi Thánh Giá bị xúc phạm đập phá ngang nhiên và trắng trợn, thì khi đó có nghĩa là đã có một sự ‘Mầu nhiệm’ xảy ra. Đó là sự ‘mầu nhiệm’ về những ‘thành công’ của chính quyền cộng sản Việt Nam đối với Giáo Hội Công Giáo.”

Kết luận

Trong bài viết mang tựa đề “Đồng Chiêm ơi ! Về rồi ta thấy gì ?” đăng tải trên trang Vietcatholic ngày 8.1.2010, tác giả Joseph Nguyễn Văn Thống ghi lại mẩu chuyện sau đây: “Các em thiếu nhi lũ lượt kéo nhau lên Núi Thờ… ngọn núi ấy quả là cheo leo và hiểm trở, vậy mà các em đã không ngại khó để lên được nơi chính điểm đã chôn Cây Thánh Giá. Khi được hỏi các em leo lên núi làm gì vậy ? Các em trả lời ngay, và trên tay cầm một hòn đá: ‘Chúng em lên nhặt thịt Chúa’. Thịt Chúa của các em đây chính là những miếng đá bê tông đã làm nên Cây Thánh Giá, và Thánh Giá này đã bị cộng sản Việt Nam đập vỡ ra từng miếng nhỏ và giờ đây các em đây đi tìm.” Đọc xong câu chuyện cảm động này, tôi chợt nghĩ: các em đích thực là con cháu các thánh Tử Đạo Việt Nam, và tuy không mặc áo dòng, các em đích thực là những Ki-tô hữu mến Thánh Giá. Tôi nhớ trong cuốn Hồi Ký của Đức Cha Lê Đắc Trọng, khi đề cập đến chuyện đức tin thì phải, ngài nói giáo dân thì hơn linh mục, linh mục hơn giám mục. Tôi là linh mục, tôi không nghĩ linh mục chúng tôi hơn các giám mục đâu, nhưng đối với tôi, giáo dân hơn linh mục là điều chắc chắn. Và những em nhỏ như em đang nói ở đây, những tín hữu đã đương đầu với bao khó khăn thử thách, bất chấp tù đày, bất chấp cả hiểm nguy cho tính mạng như chúng ta đã thấy qua các vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Toà… và nay là Đồng Chiêm, đích thực là những bậc thầy, những tấm gương trong đời sống đức tin cho hết mọi Ki-tô hữu, đặc biệt trên quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Và đó cũng là niềm hy vọng cho bất cứ người Việt Nam nào đang mong chờ một đất nước tự do, một tương lai tươi sáng cho Dân Tộc.

Sài-gòn, ngày 10 tháng 01 năm 2010
pascaltinh@gmail.com
 
Giáo Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Nhật Gửi Thư Hiệp Thông với Đồng Chiêm
Lm. Nguyễn Hữu Hiến
08:10 11/01/2010
Giáo Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Nhật

Trọng kính Đức Cha,

Chúng con, cộng đoàn giáo dân Việt Nam tại Nhật Bản xin bày tỏ nỗi đau buồn, lòng thương cảm với các nạn nhân vừa bị đàn áp tại Đồng Chiêm, thuộc giáo tỉnh Hà Nội. Đồng thời chúng con cũng thật sự căm phẫn trước những hành vi phi nhân, bạo ngược, vi hiến mà công an và chính quyền địa phương vừa gây ra cho các công dân Việt Nam trong nước.

Chúng con xin hợp lời cầu nguyện cho các nạn nhân này và nguyện nỗ lực hợp sức kêu gọi lương tâm nhân loại, cá tổ chức công quyền trên thế giới để cùng quan tâm và tìm cách bênh vực, bảo vệ công lý cho hết mọi thành phần công dân Việt.

Qua các thông tin nhận được từ quê nhà và lá thư của cha đại diện gửi, đặc biệt là quan điểm mà các Đức Cha trong tổng giáo phận Hà Nội đã bày tỏ, chúng con rất lấy làm phấn khởi và hy vọng. Ước mong sự đồng tình đồng cảm trước cảnh “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ” sẽ là một sức mạnh bày tỏ niềm phẫn nộ trước các hành vi bất nhân, thiếu văn hoá và bạo lực của công quyền, và tạo cơ hội cho ánh sáng công lý cũng như khát vọng sự thật được nẩy sinh hầu xây dựng một nền công lý và hoà bình thật sự trên đất nước Việt Nam.

Nhớ lại phương thức hành động để phản đối việc xâm phạm nhân quyền và tự do tín ngưỡng tại Ấn Độ năm trước, khi chính quyền địa phương bao che, dung túng cho một số phần tử cực đoan hãm hiếp, giết hại một số giáo dân và tu sĩ Công Giáo. Giáo hội Ấn Độ đã mạnh dạn lên tiếng kêu gọi công lý thế giới và đồng loạt đóng cửa hơn 25,000 cơ sở giáo dục, từ thiện xã hội trực thuộc. Chính nhờ sự dũng cảm và đồng lòng này đã thức tỉnh được lương tâm nhân loại, khiến chính phủ Ấn Độ phải công khai nhận lỗi và ra biện pháp mạnh để bảo vệ quyền lợi và địa vị của giáo dân Công Giáo trên toàn thể lãnh thổ Ấn Độ.

Nhìn vào thực trạng tại quê hương mình, có thể là hành động như trên chưa thể thực hiện cách dễ dàng và hiệu quả. Nhưng thiết nghĩ cũng còn nhiều hình thức khác có thể làm được và nên làm. Thí dụ như việc tham khảo luật pháp để hành xử theo luật hiện hành. Những hành vi vi hiến hiện đang tái diễn tại Việt Nam cần được làm sáng tỏ dựa trên luật pháp của Việt Nam và công pháp quốc tế, dầu rằng chính quyền Hà Nội vẫn thường chủ trương và lạm dụng một cách mỉa mai và kệch cợm để lừa đảo người dân và che mắt thế giới. Nhưng, tất cả các việc đàn áp, đánh đập dã man vừa xảy ra cho giáo dân đều là các hành vi vi phạm Hiến Pháp của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, điều khoản 3, 70, 71, 71, 73. Đối với người công dân và mọi tổ chức liên hệ, tất cả mọi người đều có quyền gửi đơn tố cáo, kháng kiện theo luật định. Việc công khai gửi đơn tố cáo, kháng cáo nói lên sự minh bạch của vấn đề và cũng là để minh định quyền lợi. Hơn thế nữa, đơn kháng cáo hoặc những văn thư chính thức này sẽ thay thế đương sự để kêu gọi lương tâm đồng loại cũng như sự quan tâm của các cơ quan quốc tế hậu thuẫn cho công lý và nhân quyền.

Chúng con vẫn biết rằng Nhà Nước Việt Nam luôn xem thường dư luận quốc tế và hành xử theo luật rừng, nhưng không vì thế mà nhường bước hoặc bỏ lỡ cơ hội làm sáng tỏ sự thật và bổn phận phải bênh vực công lý. Tất cả mọi công dân Việt Nam trong nước đều phải được tôn trọng và bảo vệ theo công pháp quốc tế, dựa trên những điều khoản mà Nhà Nước Việt Nam đã cam kết và ký vào tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Khi có được các văn bản kháng nghị, văn thư tố tụng chính thức tất cả các giáo dân, đoàn thể hoặc mọi lương tâm ngay chính trên thế giới đều có thể dựa vào đó mà bày tỏ thái độ ủng hộ hoặc thực thi nhiều hình thức gây sự quan tâm để lấy hậu thuẫn của thế giới và đặt vấn đề với bạo quyền, theo các phương thức phù hợp với từng môi trường và địa vị của từng người hoặc mỗi đơn vị, đoàn thể ủng hộ.

Giáo đoàn chúng con xin hợp một lòng và quyết tâm đồng hành cùng toàn thể giáo dân giáo phận Hà Nội.

Lễ Chúa Chịu Phép Rửa

Đại diện
Lm. Nguyễn Hữu Hiến
Meguro Catholic Church
4-6-22 Kami-Osaki, Shinagawa-ku, Tokyo. 141-0021. JP
 
Linh Mục Đoàn Giáo Phận Vinh gửi Thư Hiệp Thông
LM Phêrô Trần Phúc Chính
08:14 11/01/2010
 
Phóng viên JB Nguyễn Hữu Vinh bị tấn công thương tích trầm trọng
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải
08:34 11/01/2010
Cách đây khoảng hơn nửa giờ, tức là khoảng 5h30 chiều thứ Hai 11/01/2010, cha Nguyễn Văn Liên, Phó xứ Đồng Chiêm, chở anh Nguyễn Hũu Vinh đi thăm làng Đồng Chiêm.

Hình anh Vinh sau khi bị đánh
Tới gần đầu cầu Ái Nàng, cách nhà thờ khoảng 500 m, nơi có tụ điểm công an trấn giữ, gặp đống đất đá đổ ngang đường, hai người buộc phải xuống xe. Trong khi cha Liên đang dắt xe qua đống đất đá thì anh Vinh tìm cách chụp lại cảnh giao thông bị cản trở.

Lập tức có khoảng hơn 10 người từ tụ điểm công an lao vào đánh anh Vinh và tìm cách cướp máy ảnh của anh. Cha Liên cho biết đấy là những người mang quân phục công an viên và cả những người mang thường phục. Họ đánh anh Vinh khoảng 5 phút. Sau khi đánh anh nhừ tử và đã cướp được máy ảnh của anh, họ buông ra.

Thấy bạn mình bị tấn công, cha Liên đã vứt xe máy đấy lao vào cứu giúp anh Vinh. Lập tức cha bị công an viên dùng dùi cui đe doạ và khống chế, không cho cha cứu giúp bạn mình.

Khi những kẻ đánh người bỏ đi và các công an viên hết khống chế cha Liên, cha Liên đã vực anh Vinh dậy, đưa anh về Dòng Mến Thánh Giá Đồng Chiêm, nhờ các nữ tu ở dây cấp cứu.

Các nữ tu cho biết anh Vinh, bị đánh u đầu và gãy một răng cửa. Nếu không có mũ bảo hiểm có lẽ đã bị chết. Hiện nay anh đã tỉnh. Anh vẫn đang được các nữ tu chăm sóc.

Cha Liên cũng cho biết, có hai anh thương binh đi trước cha Liên cũng đã bị bắt đưa đi đâu mất tích. Xe ba bánh của các anh bị vứt lại hiện trường đầu cầu Ái Nàng, chỗ các công an tụ tập án ngữ. Hai anh này vừa từ Hà Nội ra Đồng Chiêm hành hương. Một anh tên Công, một anh tên Tĩnh.

Cha Chính phó xứ Đồng Chiêm đang ra UBND xã để trình báo và khiếu nại về sự vụ này.

Xin cộng đoàn cầu nguyện cho các ngài, cho giáo dân Đồng Chiêm và cho các nạn nhân của bạo lực vừa xảy ra. Đặc biệt cho anh Vinh, Giáo dân xứ Kẻ Sét: Công và Tĩnh, giáo dân Hàm Long và Thái Hà. Xin cám ơn quý vị.

Sydney ngày 12 tháng 1 năm 2010 - Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam phản đối trước cộng đồng thế giới và nghiêm khắc lên án việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tấn công một nhà báo Công Giáo tại Hà Nội.

Vào lúc 5giờ 30 chiều ngày 11/01/2010, ký giả Nguyễn Hữu Vinh được LM Nguyễn Văn Liên, Phó xứ Đồng Chiêm, chở bằng xe gắn máy đi thăm làng Đồng Chiêm là nơi vào ngày 6 tháng 1 năm 2010 đã diễn ra việc Thánh Giá trên Núi Thờ bị các lực lượng vũ trang chính quyền Việt Nam triệt hạ và đập phá.

Đến cách nhà thờ Đồng Chiêm khoảng 500m, nơi có tụ điểm công an trấn giữ, gặp đống đất đá đổ ngang đường, ký giả Vinh buộc phải xuống xe. Trong khi cha Liên dắt xe qua đống đất đá thì ông Vinh đứng chụp hình đống đá được công an đổ ra giữa đường nhằm ngăn trở khách từ xa đi xe tới Đồng Chiêm. Lập tức có khoảng hơn 10 người từ tụ điểm công an chạy ra đánh ký giả Vinh và cướp máy ảnh của ông. LM Liên cho biết đấy là những người mang quân phục công an và cả những người mang thường phục. Họ đánh ông Vinh khoảng 5 phút và đã cướp đi chiếc máy ảnh của ông.

Thấy ông Vinh bị tấn công, cha Liên lao vào cứu giúp ông Vinh. Lập tức cha cũng bị công an dùng dùi cui đe doạ và khống chế, không cho cha cứu giúp. Khi những kẻ đánh người bỏ đi, cha Liêm đưa ông Vinh về Dòng Mến Thánh Giá Đồng Chiêm, nhờ các nữ tu cấp cứu.

Các nữ tu Đồng Chiêm đã chăm sóc vết thương ông Vinh, và cho biết ông bị đánh u đầu và gãy một răng cửa. Hiện nay ông đã được đưa về Hà Nội để được bác sĩ khám nghiệm và điều trị vết thương.

Trước hành động công an hành hung ký giả Nguyễn Hữu Vinh, Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam tuyên cáo các điểm sau đây:

1. Cực lực phản đối nhân viên công lực CSVN hành hung ký giả.
2. Yêu cầu nhà cầm quyền mở cuộc điều tra để trừng trị kẻ phạm pháp và bồi thường cho nạn nhân.
3. Tố cáo trước công luận quốc tế về hành động phi pháp của nhân viên công lực nhà nước VN đã vi phạm quyền hành nghề của ký giả.
4. Bày tỏ quan ngại mỗi lúc mỗi gia tăng của chúng tôi là tình hình tại Đồng Chiêm bắt đầu vượt quá vòng kiểm soát khi nhà cầm quyền địa phương tái áp dụng chiến lược bạo lực họ đã sử dụng trước đây bao gồm việc thuê mướn các nhóm côn đồ tấn công người Công Giáo, trong khi các phương tiện truyền thông bôi nhọ hình ảnh người Công Giáo, xuyên tạc sự thật, nói xấu các tôn giáo và kích động hận thù giữa người có đạo và người không có đạo. Nhà cầm quyền Việt Nam phải dừng ngay việc bách hại các linh mục và anh chị em giáo dân, tái lập trật tự tại những nơi thờ tự và ngăn cấm bạo lực nhắm vào những người tham dự các buổi lễ.
5. Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam tôn trọng chính pháp luật mà họ đã công bố và trả lại ngay tài sản chính đáng của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và các tôn giáo khác.

Liên hệ:
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Giám Đốc Radio VERITAS Asia
Buick St. North Fairview,
Quezon City, Philippines
P.O. Box 2642
Email: rvaprogram@rveritas-asia.org

Lm. Gioan Trần Công Nghị
Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic
435 Berkeley Ave
Claremont, CA 91711, USA
Tel (909) 581-8888
Email: conggiao@gmail.com

Lm. Joachim Nguyễn Đức Việt Châu
Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu
PO Box 1419 Gretna,
LA 70053-5440, USA.
Email: danchuausa@yahoo.com

Lm. Antôn Nguyễn Hữu Quảng
Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu
715 Sydney Rd. Brunswick Vic 3056
Australia
Email: danchuaucchau@gmail.com

Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu
Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu
Magazine Catholique
Katholische Monatszeitschrift
Email: info@danchua.de

Lm. Paul Chu Văn Chi
Phó Giám Đốc VietCatholic Network
92 The River Rd - Revesby
NSW 2212
Australia
Email:paulvanchi@yahoo.com

 
Thư gửi anh Nguyễn Hữu Vinh: Dẫu có chết nhưng vẫn hân hoan bước vào cõi sống
Mai Hạnh
23:27 11/01/2010
Anh JB. Nguyễn Hữu Vinh thân mến,

Hôm qua, được tin anh bị hành hung ở Đồng Chiêm, chúng tôi vô cùng xúc động. Sáng nay, xem những hình ảnh của anh chúng tôi rất căm phẫn, cháu lớn nhà tôi không cầm được nước mắt khi truy cập trang web, cháu khóc và hỏi tôi: “Chú Vinh bị người ta đánh hở mẹ ?” Tôi không trả lời được câu hỏi này !

Chúng ta gặp nhau rất nhiều lần trong các giờ Thánh Lễ, nhưng chưa lần nào tôi dừng chân lại để hỏi thăm anh đôi câu. Trong con mắt của gia đình tôi, anh là người chiến sĩ can trường của Đức Tin và là tấm gương yêu thương Hội Thánh. Dĩ nhiên anh là con người, nên anh cũng có những giới hạn của anh, nhưng anh đã không ngừng hiến mình cho Chân Lý, cho Công Bằng và Yêu Thương, chúng tôi ngưỡng phục anh.

Anh có gia đình, anh có trách nhiệm với gia đình, với vợ con, với mẹ già của anh và với các anh chị em của anh, gia đình anh đã nuôi anh ăn học, với tấm bằng kỹ sư, với trình độ không thấp về nghề nghiệp, với các mối quan hệ mà anh đã cố công tạo dựng, với những kinh nghiệm trong lãnh vực kỹ thuật và quản trị, anh hoàn toàn có thể xây dựng một mái ấm gia đình đủ ăn đủ mặc, đủ mọi điều kiện tối thiểu để lo cho con cái và cũng đủ để nâng đỡ mẹ già. Nhưng anh đã đành lòng mất tất cả vì yêu thương Hội Thánh. Vì Hội Thánh và vì anh em mình, anh mất nhiều thứ lắm, nhưng anh vẫn can đảm để mất. Rõ ràng anh có rất nhiều thứ để mất nhưng anh lại không sợ, nhiều người không có gì để mất thì lại... sợ !

Anh xông xáo trong mọi hoàn cảnh, anh dấn thân đến những nơi cần anh hiện diện, anh can thiệp mạnh mẽ để lên tiếng về sự bất công, anh bất chấp trở ngại gian nguy, bất chấp thời tiết nắng mưa, bất chấp quyền lực đen tối, anh đã hy sinh rất nhiều khi không ai bắt anh phải hy sinh cả. Anh đã moi ra từ ruột gan anh những lời đanh thép để trả lời cho những người gian tham và loan báo cho toàn thế giới biết, anh đã không ngại ngần nói với những địa chỉ nhạy cảm trong Hội Thánh về trách nhiệm ngôn sứ, anh can đảm chỉ vì anh đơn thuần là người Giáo Dân với đúng nghĩa là người Giáo Dân của Hậu Công Đồng Vatican II, tuy vẫn bị tội lỗi chi phối, nhưng một lòng yêu mến Hội Thánh.

Đã có một lúc người ta tìm cách bôi nhọ anh, giải thích các bài viết của anh theo chiều hướng tiêu cực, đặt cho anh một ý đồ xấu trong xã hội, anh vẫn cầm chắc chiếc máy ảnh trên tay, anh cười với bạn bè và chia sẻ rằng: “Chúa biết !”

Gia đình chúng tôi có được cuốn “Các chứng nhân Đức Tin tại Việt Nam dưới mắt các họa sĩ Việt Nam cùng thời”, sách được phát hành nội bộ từ Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, đúng vào dịp kỷ niệm năm Thánh 2010. Trong Lời Ngỏ, Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống viết:

“…Xúc dộng vì được tận tay đụng chạm đến những cảnh tái hiện giây phút cuối đời của các Anh Hùng Tử Đạo. Xúc động vì thủ pháp hội họa dân gian diễn tả khung cảnh xét xử, dẫu đơn thuần là một cuộc hành hình dã man, nhưng lại rộn ràng như một cuộc hành hình vinh thắng. Xúc động vì bối cảnh pháp trường có vẻ đông đúc vòng vo quanh co tản mát, mà thực ra lại tập trung xoay quanh nhân vật chính, làm tôn lên nét đẹp hào hùng của những chứng nhân Đức Tin khi hiến dâng mạng sống. Xúc động vì đường cọ màu sắc giản dị của một mặt phẳng chừng như tĩnh lặng, nhưng lại xôn xao tiếng nói vừa hiền hòa tha thứ vừa đanh thép tuyên xưng. Và xúc động hơn cả còn vì khi chiêm ngưỡng, rất tự nhiên người ta chuyển từ cương vị khách tham quan trước các tác phẩm hội họa sang cương vị của con cháu trước xương máu Cha Ông, để hòa nhập vào bầu khí linh thiêng của dòng người hạnh phúc, dẫu phải chết nhưng đang hân hoan bước vào cõi sống…”

Thú thật, tôi đã phải chật vật để chép được các hàng chữ trong Lời Ngỏ của Đức Cha Giuse, một phần vì văn của ngài có một sắc thái khá riêng biệt, nhưng phần lớn là vì cuốn sách in tuy rất công phu nhưng không rõ, những hình nền đã nổi lên làm át đi những dòng chữ cần cho người đọc, lu mờ đi các hình ảnh cần cho người xem, vì thế nó làm cho tôi không đọc rõ được ý của Lời Ngỏ, nhưng khi những hình ảnh của anh được đưa lên mạng, lập tức những ý tưởng của Lời Ngỏ bật lên trong tôi. Tôi đã hơn một lần thấm thía từng lời của Đức Cha Giuse viết, nhưng những lời ấy hôm nay, làm cho tôi rùng mình xúc động !

Tôi xúc động vì như thể mình chạm được tay vào các hình ảnh đau thương mà anh phải chịu… “Cuộc hành hình dã man nhưng lại rộn ràng như một hành trình vinh thắng”,. ..“đông đúc vòng vo quanh co tản mát nhưng chỉ xoay quanh một nhân vật chính”. Vâng, Đức Kitô đang tiếp tục chịu khổ nạn nơi thập giá để nổi bật lên hình ảnh hào hùng của chứng nhân... Một mặt phẳng tĩnh lặng nhưng xôn xao một lời hiền hòa tha thứ nhưng cũng là một lời đanh thép tuyên xưng…

Và xúc động hơn cả là không ai có thể chỉ là kẻ khách quan đứng xa mà ngắm nghía, nhưng tất cả đều bị cuốn hút vào bầu khí linh thiêng của “dòng người hạnh phúc, dẫu phải chết nhưng hân hoan bước vào cõi sống...”

Những lời văn trau chuốt như thế của Đức Cha Giuse bây giờ bỗng trở nên hiện thực sống động, sống động đến lạ kỳ với sự kiện Đồng Chiêm đang diễn ra. Tôi chợt hiểu, chợt ngộ ra, tại sao anh liều lĩnh và quả cảm đến thế !

Cám ơn anh, anh JB. Nguyễn Hữu Vinh anh dũng hào hùng, tôi cũng xin được nói lời cám ơn các anh các chị, cám ơn các bạn các cháu ở Đồng Chiêm, cám ơn những người đang xếp hàng trong “dòng người hạnh phúc, dẫu phải chết nhưng hân hoan bước vào cõi sống”.

Hỡi những người thân yêu của chúng tôi, cả thế giới ngưỡng vọng Đồng Chiêm.

Hà Nội, ngày 12.1.2010

(Nguồn: dcct.net)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Chữ quốc ngữ đã được Công Giáo khai sinh năm 1651
Trần Văn Cảnh
09:08 11/01/2010
Chữ quốc ngữ đã được Công Giáo khai sinh năm 1651

Năm 1651 cho xuất bản hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên: cuốn « Tự điển việt bồ latinh » và cuốn giáo lý công giáo « Phép giảng tám ngày », cha Đắc Lộ, dòng Tên, đã khai sinh ra chữ quốc ngữ. Nhưng góp phần vào công việc này, có sự đóng góp của nhiều giáo sỹ và giáo dân khác. Lại có cả phần đóng góp của Thánh bộ Truyền giáo ở Giáo triều Rôma nữa. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã dùng tựa đề « Chữ quốc ngữ đã được Công Giáo khai sinh năm 1651 ».

1. Cuốn « Tự điển việt bồ latinh », có tên bằng tiếng latinh là « Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°,

Cha Đắc Lộ cho biết sở dĩ ngài soạn được cuốn từ điển này là vì thứ nhất ngài đã lưu trú 12 năm cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Thứ hai ngài đã học tiếng Việt, nhất là về thanh và âm, với một cậu bé việt nam 13 tuổi. Thứ ba ngài cũng đã học tiếng việt với cha Francois de Pina người Bồ, là người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng Đàng Trong, người thứ nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Thứ bốn ngài đã xử dụng từ điển Việt Bồ của cha Gaspar d’Amaral và từ điển Bồ Việt của cha Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ.

Đỗ Quang Chính đã mô tả như sau « Cuốn tự điển được soạn bằng ba thứ chữ Việt-Bồ-La (mà tên sách chỉ đề bằng chữ Latinh, rõ rệt hướng tới độc giả giáo sỹ truyền giáo âu châu), với hai mục đích đã được tác giả ghi rõ: thứ nhất, gíup các nhà truyền giáo học tiếng Việt, để có thể truyền giáo; thứ hai, chiều theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã, thêm chữ La tinh vào, để người Việt Nam có thể học thêm La ngữ.

Cuốn tự điển gồm ba phần chính:

- Lingvae Anmiticae seu Tvnchinensis brevis declaratio, 31 trang, từ trang 1 đến 31, được sắp lên đầu cuốn tự điển va được đánh số tách biệt với cuốn tự điển. Ðây là cuốn ngữ pháp Việt Nam, nhưng soạn thảo bằng La ngữ, với mục đích cho người Tây phương học. Tuy sách vắn, nhưng tác giả cũng chia ra 8 chương rõ rệt, không kể Lời Nói Ðầu:

Chương I: Chữ và vần trong tiếng Việt (De literis et syllabis quibus haec lingua constat). Chương II: Dấu nhấn và các dấu (De Accentibus et aliis signis in vocalibus). Chương III: Danh Từ (De Pronominibus). Chương IV: Ðại danh từ (De Pronominibus). Chương V: Các đại danh từ khác (De aliis Pronominibus). Chương VI: Ðộng từ (De Verbis). Chương VII: Những phần bất biến (De reliquis orationis partibus indecli nabilibus). Chương chót: Cú pháp (Praecepta quaedam ad syntaxim pertinentia).

- Dictionarivm Ananmiticvm seu Tunchinense cum Lusitana, et Latina declaratione. Phần này không đánh số trang nhưng ghi theo cột chữ (mỗi trang có hai cột chữ). Từ đầu đến cuối là 900 cột, từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để cách một trang trắng, có khi hai trang trắng. Một điều khác đặc biệt với tự điển Việt Nam ngày này, Ðắc Lộ thêm mẫu tự /b sau mẫu tự b. Thực ra đó là một số chữ thuộc mẫu v bây giờ. Ví dụ /bá (vá: vá áo), /bã (vã: vã nhau, tát nhau), /bạch (vạch: vạch tai ra mà nghe), /bậy (vậy: ấy vậy), /bán (ván: đỗ, đậu ván), /bỗ (vỗ: vỗ tay), /bỏ (vỏ: vỏ gươm), /bua (vua: vua chúa), /bú (vú). Mẫu tự /b này chiếm 10 cột, tức 5 trang giấy.

- Index Latini sermonis là phần thứ ba cuốn tự điển. Trong phần này, tác giả liệt kê chữ La tinh có ghi trong phần hai và bên cạnh mỗi chữ có đề số cột, với mục đích để người học tiếng Việt, nếu đã biết La tinh, thì dò theo phần này để tìm chữ Việt ở phần kia. Trong phần này không đánh số trang, cũng không ghi số cột (mỗi trang có hai cột chữ). Chúng tôi đếm được 350 cột tức 175 trang.


(Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Ra khơi: Sài gòn 1972, tr. 84-86)

2. Cuốn giáo lý « Phép giảng tám ngày » có tên bằng tiếng latinh và tiếng việt như sau: « Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°. (Hình chụp sách chính bản, lưu trữ tại Thư Viện Á châu, Hội Thừa sai Hải Ngoại Paris)

« Ðây là một cuốn giáo lý mà tác giả muốn viết cho những người dậy giáo lý dùng. Cuốn sách được viết bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh (chữ xiên), bên tay phải là chữ Việt (chữ đứng). Ðể độc giả dễ dàng đối chiếu hai thứ chữ, Ðắc Lộ đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách có 319 trang, không đề Lời tựa. Sau trang bìa và trang ghi ngày được phép in sách, là đến phần chính ngay.

Viết sách này, tác giả không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học, có tính cách sư phạm, và như chúng ta đã biết là sách được chia ra Tám ngày. (Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 86)


3. Cha Đắc Lộ đã học tiếng việt và cho in hai sách trên thế nào ?. Ở một chỗ khác, trong một bài tường thuật ngắn, cha Đắc Lộ đã vắn tắt mô tả những bước đầu truyền giáo của ngài từ năm 1624 tại Việt Nam, việc học tiếng việt và việc xuất bản hai tập sách trên. Ngài nhắc lại việc cần thiết phải chuyên cần học tập tiếng việt nếu muốn truyền giáo hiệu quả, ngài cũng nhắc đến việc ngài học tiếng việt với một cậu bé việt nam và việc in sách tự điển, ngữ pháp và giáo lý. Ngài viết: Vì Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, nên bề trên tin rằng Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng Trong nhận Phúc âm.

Thế là năm 1624, bề trên phái cha Mathêu Mattos, trước kia ở Rôma làm quản thủ các tỉnh dòng, đến thăm việc truyền giáo ở Đàng Trong, cùng với năm bạn đồng sự người Âu, trong số đó tôi hân hạnh là người thứ năm và một người Nhật thông thạo chữ Hán.

Chúng tôi khởi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và sau mười chín ngày thì tới Đàng Trong, tất cả đều hồ hởi bởi hoạt động tốt. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông tạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu. Tiếng mới này còn thông dụng ở Đàng Ngoài, ở Cao Bằng, ở Đàng Trong và người ta còn nghe và hiểu ở ba xứ lân bang khác. Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được.

Hết các tiếng đều độc vận và chỉ phân biệt ý do nhiều giọng nói khác nhau. Một chữ như “đại” chẳng hạn, có tới hai mươi ba nghĩa hoàn toàn khác nhau, do cách đọc khác nhau, vì thế khi nói thì như ca như hát. Tôi đã đề cập tới nhiều hơn trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài. Căn cứ vào đó thì thấy học thứ ngôn ngữ này không phải là dễ.

Vì thế mà tôi thấy cha Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng, chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn vì nói rất thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích nhiều hơn bài các vị khác. Điều này khiến tôi tận tuỵ học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc. Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm. Tôi khuyên tất cả các vị nhiệt tâm muốn tới những tỉnh dòng chúng tôi để chinh phục các linh hồn, thì nên chuyên cần ngay từ buổi đầu. Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các mầu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí.

Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả mỹ mãn, cậu rất mến thương tôi nên đã muốn lấy tên tôi.

Từ ngày tôi trở về Au Châu, tôi đã cho in ở Rôma, nhờ các vị ở bộ Truyền giáo, một tự vị tiếng Đàng Trong, Latinh và tiếng Bồ, một cuốn ngữ pháp và một cuốn giáo lý, trong đó tôi bàn giải về phương pháp chúng tôi dùng để trình bày mầu nhiệm đạo thánh cho lương dân. Việc này sẽ có ích cho những người ao ước tới giúp việc giảng Chúa Kitô bằng ngôn ngữ tới nay chỉ dùng để sùng bái quỷ ma. (ALEXANDRE DE RHODES, HÀNH TRÌNH VÀ TRUYỀN GIÁO, chương 3, do Nguyễn Khắc Xuyên dịch).


( http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=136&ict=319)

4. Ai là tác giả của hai tác phẩm này ? Vì tên tác giả đề ngoài sách chỉ có tên cha Đắc Lộ, thông thường chúng ta vẫn hiểu rằng đó là tác phẩm của riêng cha Đắc Lộ. Cách hiểu này không đúng với sự thực. Về cuốn từ điển, thì chính cha Đắc Lộ đã nói rõ trong lời tựa nói với độc giả rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn và từ điển Bồ Việt của Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ..

Và một cách tổng quát, trong một nghiên cứu mới đây, cha Jacques ROLAND đã đưa ra một trả lời thực tế như sau: « Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền Bá Ðức Tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng cho các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Toà Thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là "tác gia" duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điêu này y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc này với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác.

Còn cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn la tinh được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp này đây là "phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các màu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc". Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công trình tập thể ».

(http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/1232_jacques_roland/page7.shtml)


5. Các giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ trước khi hai sách trên được xuất bản. Trong tác phẩm nghiên cứu rất nghiêm chỉnh về « Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 », Linh mục Đỗ Quang Chính, dòng Tên, đã mở đầu chương 2, bàn về « Sơ lược giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ (1620-1648) bằng lời xác định tổng quát rằng: « Chữ Việt ngày nay là một thứ chữ đã được nhiều linh mục Dòng Tên ở Việt Nam (với sự cộng tác âm thầm của một số Thầy giảng Việt Nam) vào thế kỷ 17 sáng tạo ra. Nói một cách tổng quát thì họ đã dùng mẫu tự La tinh, rồi dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hy Lạp, để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng ». (Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 19-76)

Dựa vào những tài liệu gốc, viết tay, tìm được trong các văn khố, cha Chính đã phát hiện ra hai yếu tố căn bản phân chia sự biến chuyển trong tiến trình thành hinh của chữ quốc ngữ 1620-1648. Rồi tựa vào đó, cha đã nêu ra hai giai đoạn thành hình của chữ quốc ngữ trước ngày hai cuốn sách của cha Đắc Lộ được phổ biến năm 1651. Hai giai đoạn đó là: Giai đoạn sơ khởi chữ quốc ngữ 1621-1626 với các đặc tính chung là « hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó », và giai đoạn hai 1631-1648 mà hai đặc tính chung là « Chữ quốc ngữ đã được viết khá đúng về hai phương diện: cách ngữ và dấu ».

51. Giai Ðoạn Sơ Khởi (1620-1626)

Các nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. « Sang đến đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo dòng Tên gồm người Âu châu và một số ít người Trung hoa, Nhật bản, mới chính thức đến truyền bá Phúc âm ở Việt Nam, và hoạt động của các ông đã được ghi lại khá đầy đủ.

Ngày 06.01.1615, ba tu sĩ Dòng Tên là hai lm Francesco Buzomi (Ý), Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Dias (Bồ Đào Nha), đáp tầu buôn Bồ Đào Nha từ Áo Môn đi Đàng Trong, và tới Cửa Hàn ngày 18.01.1615. Sau đó mấy tháng các ông đến ở Hội An…

Ba nhà truyền giáo mà chúng ta vừa nói, đến Hội An với mục đích đầu tiên là giúp đỡ giáo hữu Nhật về mặt tôn giáo, và nhờ người Nhật làm thông ngôn để tiếp xúc với người Việt Nam. Sau năm 1615, nhiều tu sĩ Dòng Tên khác không những đến truyền giáo ở Đàng Trong mà cả Đàng Ngoài nữa, nhưng đa số là người Bồ Đào Nha.

Các nhà truyền giáo tới Việt Nam thời ấyđều phải học tiếng Việt mới có thể tiếp xúc với người Việt Nam. Theo chúng tôi biết thì Lm Francisco de Pina là người Âu châu đầu tiên nói thâo tiếng Việt. Pina sinh năm 1585 ở Bồ Đào Nha, ông tới Đàng Trong năm 1617. Lúc đầu sống ở Hội An, sang năm 1618 ông ở tại Nước Mặn với Buzomi và Borri. Hai năm sau, ông trở lại Hội An, rồi năm 1623, Pina đến ở tại Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh. Pina chết đuối ở bờ bể Quảng Nam ngày 15.12.1625….

Nhờ biết tiếng Việt, nên ngay từ năm 1620, các tu sĩ Dòng Tên tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng « chữ Đàng Trong », tức là chữ Nôm. Cuốn sách này vì soạn bằng chữ Nôm, nên chắc chắn phải có sự công tác của người Việt.

Nhưng chúng tôi tưởng cuốn sách này cũng được viết bằng chữ Việt mới nửa (chữ quốc ngữ ngày nay), mà người có công soạn thảo là Lm Francisco de Pina, ví lúc đó chỉ có ông là người Âu châu thạo tiếng Việt nhất….

Theo sự nhận xét của chúng tôi thì vào năm 1620 dù Lm Pina đã nói được tiếng Việt, nhưng khó lòng mà phân biệt được lối cách ngữ như chúng ta đang dùng ngày nay. Dựa vào những tài liệu viết tay năm 1621-1626, chúng tôi tôi biết được hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó. Chính dựa theo hai đặc điểm này mà chúng tôi cho là giai đoạn sơ khởi chữ quốc ngữ.(Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 20-24)


Bảy tài liệu viết tay đả được trình bày. Đó là những tài liệu của: Joao Roiz năm 1621, Gaspar Luis năm 1521, Cristoforo Borri năm 1621, Đắc Lộ năm 1625, Gaspar Luis năm 1626, Antonio de Fontes năm 1626 và Francesco Buzomi năm 1626. Trong những tài liệu này, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ:

- Annam = An Nam
- Unsai = Ông Sãi
- Ungue = Ông Nghè
- Bafu = Bà Phủ
- doij = đói
- scin mocaij = xin một cái
- Sayc Chiu = Sách chữ
- Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết

52. Giai Ðoạn Hai (1631-1648)

Sang giai đoạn hai 1631-1648, 11 tài-liệu viết tay đã được nhắc đến.

• Hai tài liệu được nhắc đến, nhưng không tìm được tài liệu lưu trữ. Đó là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim) và cuốn tự-điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa.
• Năm tài liệu của cha Đắc Lộ, viết vào tháng 1.1631, tháng 5.1631, năm 1636, năm 1644 và năm 1647
• Hai tài liệu của Gaspar d’Amaral năm 1632 và năm 1637
• Hai tài liệu về biên-bản hội-nghị viết tay năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam: năm 1645 và 1648.

Mưới một tài liệu này cho thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu.

Nhiều chữ nhìn tương tự như chữ quốc ngữ ngày nay, nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác

• Thính hoa: Thanh Hóa
• oũ bà phủ: Ông bà Phủ
• hụyen: huyện
• sãy: sãi
- Chuá thanh đô (Chúa Thanh đô, Thanh đô vương Trịnh Tráng)
- Chuá cả (Chúa Cả, tước hiệu dành cho Trịnh Tạc)
- Đức Chuá Blờy sinh ra chín đớng thiên thần la cuôn cuốc Đức Chuá Blờy (Đức Chúa Trời sinh ra chín đấng thiên thần là quân quốc Đức Chúa Trời)

Nhiều chữ được viết như chữ quốc ngữ ngày nay. Thí dụ như:

• Nghệ An
• Bố Chính
- Kẻ chợ
- đàng ngoài
- một nam, một nữ

(Đỗ Quang Chính, Ibid. tr. 20-76)

LỜI KẾT

Với hai cuốn sách Tự điển Việt Bồ Latinh và Giáo lý ấn hành năm 1651, cha Đắc Lộ đã chấm dứt thời gian thai nghén và đã làm khai sinh cho chữ quốc ngữ. Dĩ nhiên cha không phải là người duy nhất mà chỉ là một trong nhiều người đã góp phần thành lập chữ quốc ngữ. Nhưng cha là người có công rất nhiều trong việc soạn thảo và xuất bản hai cuốn sách này. Viết « Lời giới thiệu » cho tập khảo cứu « Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 » của Đỗ Quang Chính, giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh đã nhận định một cách chính đáng rằng: « Để thực hiện công cuộc truyền đạo của họ tại Đại Việt, các giáo sĩ Dòng Tên ngay từ khoảng đầu thế kỷ thứ XVII đã cố gắng tạo nên một lối chữ viết căn cứ trên mẫu tự la tinh, nhờ đó có thể diễn tả ngôn ngữ Việt. Từ những sự dò dẫm phiên âm các nhân danh và địa danh lúc ban đầu, cho đến lúc Đắc Lộ cho xuất bản hai sách quốc ngữ đầu tiên vào năm 1651, các cố gắng tập thể của các nhà truyền đạo Tây Phương cho phép thành lập chữ viết của chúng ta ngày nay ». (Đỗ Quang Chính, sđd, Lời giới thiệu, tr. 5)

Góp phần sáng tạo chữ quốc ngữ và cho ấn hành hai tác phẩm tiếng việt đầu tiên, cha Đắc Lộ cũng như các giáo sĩ Dòng Tên chỉ nhắm có hai mục đích: thứ nhất, gíúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt, để có thể truyền giáo; thứ hai, để giúp người Việt Nam có thể học thêm La ngữ. Trong mục tiêu thứ hai, chữ quốc ngữ đã được đưa vào chương trình đào tạo các tín hữu việt nam ưu tú, để đào tạo họ thành thầy giảng và thành linh mục (thời Thừa Sai Hải Ngoại Paris, từ 1666). Đó là lý do khiến, ngay từ buổi đầu, một số tín hữu việt nam đã thông thạo chữ quốc ngữ và đã viết được những tác phẩm giá trị, như tập « Lịch sử nước Annam » của thầy giảng Bento Thiện, viết tay năm 1659.

Sau cha Đắc Lộ, nhiều giáo sĩ Âu châu tiếp tục công việc nghiên cứu chữ quốc ngữ: Trong lãnh vực tự điển, có rất nhiều tác giả, trong đó phải kể đến Đức cha Bá Đa Lộc (Pierre Pigneaux, évêque d’Adran; Vocabularium Anamitico-Latinum - Pondichéry, 1772. - [70]-729 p.; 35 cm.); Đức cha Taberd Từ (Jean-Louis Taberd; Dictionarium latino-anamiticum; – Se-rampore: ex Typis J. C. Marshman, 1838. - LXXXVIII-708-VIII-135 p.; 28 cm.),…

Trong lãnh vực sách quốc ngữ với những tác phẩm của cha Philipphê Bỉnh, của cố Pierre Cadro Lương, …chữ quốc ngữ đã mở đầu một nền văn học công giáo.

Chẳng bao lâu sau đó, những nhà văn quốc ngữ đã xuất hiện, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của. Rồi sự ra đời vào năm 1865 của tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Nam kỳ, tờ « Gia định báo »; Từ 1905, chữ quốc ngữ lại được các nho gia cách mạng trong phong trào duy tân Đông Kinh Nghĩa Thục, như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Phan Chu Trinh,… cổ võ và truyền bá. Chẳng bao lâu sau, chữ quốc ngữ đi vào học trình các trường sư phạm, đại học, thông ngôn. Năm 1907, Đông Cổ Tùng Báo ra đời với chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Nhiều báo khác tiếp theo, như Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Nam Phong tạp chí với Phạm Quỳnh ?.... Các nhà in được thiết lập, hội dịch sách ra đời,…Công việc biên khảo và phê bình phát triển,…Các ký sự, tiểu thuyết mới xuất hiện,…Thơ mới ra đời,. . Tự Lực Văn Đoàn,…cả một nền văn học mới đã được chữ quốc ngữ mở ra, mang theo một nền văn hóa mới, đặt căn bản trên tự do và trách nhiệm cá nhân, hướng về tương lai, dựa vào khoa học khách quan, xây dựng quốc gia trên nền tảng công ích, lương thiện, sự thật và công bình. (Xin xem Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, tập 3: Văn học hiện đại 1862-1945).

Chuẩn bị năm thánh 2010, để « Nhìn lại quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ (1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), đặc biệt là 50 năm Chánh Toà (1960-2010) », mọi thành phần Dân Chúa chung lòng chung sức với hàng Giáo phẩm xây dựng một Giáo Hội hiệp thông, Giáo Hội tham gia, và Giáo Hội vì loài người, nhằm tạo thuận lợi cho việc thi hành cách có hiệu quả hơn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô, trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm nay.

Vào Việt Nam từ 1533, công giáo đã mang Tin Mừng cho người Việt Nam. Khai sinh ra chữ quốc ngữ vào năm 1651, công giáo đã đưa ra những đóng góp tạo hình quan trọng của mình vào văn hóa việt nam.

Paris, ngày 01 tháng 04 năm 2009

Xem lại ngày 10 tháng 01 năm 2010
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Một Ngày Đông
Đặng Đức Cương
23:07 11/01/2010

MỘT NGÀY ĐÔNG



Ảnh của Đặng Đức Cương

Tuyết đã về đây, em, tuyết ơi !

Áo em bay trắng một phương trời..

(Trích thơ của Ngô Minh Hằng)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền