Ngày 13-01-2019
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong lễ rửa tội cho 27 hài nhi tại nhà nguyện Sistina
J.B. Đặng Minh An dịch
06:32 13/01/2019
Sáng Chúa Nhật 13 tháng Giêng, theo truyền thống, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa trong nhà nguyện Sistina. Dịp này, ngài đã rửa tội cho 27 hài nhi, gồm 12 bé trai và 15 bé gái.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở các bậc cha mẹ về tầm quan trọng của việc thông truyền đức tin cho con cái và trách nhiệm to lớn mà nghĩa vụ này đòi hỏi. Đức Thánh Cha nói:


Khi bắt đầu buổi lễ, tôi đã đặt ra cho tất cả anh chị em một câu hỏi: anh chị em xin gì cho con cái mình? Và tất cả anh chị em đã trả lời: đức tin. Anh chị em xin nơi Giáo hội đức tin cho con cái mình. Và hôm nay, các em sẽ nhận được Chúa Thánh Thần, và hồng ân đức tin trong trái tim họ, trong thần khí của chúng. Và đức tin này phải phát triển. Nó phải lớn lên. Có người có thể nói: vâng, vâng, chúng cần học hỏi đức tin. Chính thế. Khi các em đi học giáo lý, chúng sẽ được học rành rẽ về đức tin. Chúng sẽ tìm hiểu về đức tin. Nhưng trước khi học hỏi đức tin, đức tin phải được thông truyền, và đây là nhiệm vụ được đặt trên vai anh chị em. Nghĩa vụ của anh chị em là thông truyền đức tin. Và anh chị em làm điều này ở nhà, bởi vì đức tin luôn phải được thông truyền theo phương ngữ, phương ngữ của gia đình, nơi mái nhà. Đây là nhiệm vụ của anh chị em: hãy thông truyền đức tin bằng gương sáng, bằng lời nói, dạy chúng biết cách làm Dấu Thánh Giá. Điều này quan trọng. Anh chị em biết có những đứa trẻ không biết làm Dấu Thánh Giá. Chúng nguệch ngoạc như thế này [và Đức Thánh Cha minh họa cách thức làm dấu của những trẻ em không biết làm Dấu Thánh Giá cho đúng cách]. Anh chị em không thể hiểu đó là gì.

Điều quan trọng là anh chị em phải thông truyền niềm tin qua cuộc sống đức tin của anh chị em để trẻ có thể nhìn thấy tình yêu phu phụ, sự bình an trong gia đình, và như thế các em thấy rằng Chúa Giêsu hiện diện ở đó. Nếu anh chị em cho phép tôi đưa ra một lời khuyên: thì xin lỗi, tôi sẽ khuyên anh chị em như thế này: đừng bao giờ cãi nhau trước mặt con trẻ. Đừng bao giờ. Vợ chồng cãi vã nhau là chuyện bình thường. Rất là bình thường. Vợ chồng không bao giờ cãi nhau mới là lạ. Nhưng khi cãi nhau, đừng để trẻ nghe thấy, hay nhìn thấy điều đó. Tất cả anh chị em cần phải biết nỗi thống khổ mà một đứa trẻ phải chịu khi nghe bố mẹ cãi nhau. Tôi muốn trao cho anh chị em lời khuyên đó để giúp tất cả anh chị em thông truyền đức tin. Cãi vã nhau thì không hay, nhưng đôi lúc cũng cần phải tranh biện. Điều đó là bình thường thôi, nhưng anh chị em phải làm sao để con trẻ không nghe hay nhìn thấy, để chúng không phải trải qua nỗi thống khổ đó.

Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục nghi thức Rửa tội. Hãy ghi nhớ điều này: nghĩa vụ của anh chị em là thông truyền đức tin cho con em, truyền bá đức tin tại gia đình, bởi vì cũng chính ở đó, anh chị em đã học được đức tin, rồi anh chị em mới học trong các lớp giáo lý.

Nhưng trước khi tiếp tục, tôi muốn nói một điều khác nữa: các hài nhi hôm nay thấy mình ở một môi trường xa lạ.. có thể là chúng cảm thấy nóng quá, quần áo, khăn tã quấn quanh nhiều quá. Có lẽ chúng cảm thấy nhiệt độ tăng vọt. Chúng khóc vì những lý do này.

Chúng cũng khóc vì đói. Kiểu khóc thứ ba: là khóc ‘phòng ngừa’. Đó không phải là một chuyện lạ. Chúng không biết điều gì sẽ xảy ra. [Một đứa bắt đầu nghĩ] ‘Mình phải khóc ré lên trước’ cho chắc ăn. Đó là một động thái phòng thủ. Điều quan trọng là chúng cảm thấy thoải mái. Hãy cẩn thận đừng quấn quanh chúng nhiều quá khiến chúng bị nóng.

Nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng ăn uống. Đối với các bà mẹ, tôi nói điều này: đừng sợ cho các em bé bú để giữ cho bầu khí được yên tĩnh. Chúa muốn điều này, bởi vì khi có nguy hiểm, có một tiếng gọi đa âm hưởng. Một đứa bắt đầu khóc, rồi đứa khác khóc theo, những đứa khác bắt chước khóc ré lên. Khi đó, nó sẽ là một dàn đồng ca những tiếng khóc.

Chúng ta sẽ tiếp tục buổi lễ này, trong yên bình, với một nhận thức được đặt trên vai anh chị em, đó là hãy thông truyền đức tin cho con cái mình.


Source: Libreria Editrice Vaticana - FESTA DEL BATTESIMO DEL SIGNORE CELEBRAZIONE DELLA SANTA MESSA E BATTESIMO DI ALCUNI BAMBINI OMELIA DEL SANTO PADRE FRANCESCO Cappella Sistina Domenica, 13 gennaio 2019
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chương trình “Vòng tay yêu thương” tại Giáo xứ Thái An- Xuân Lộc
Nữ tu Têrêsa Ngọc Lễ, O.P
10:13 13/01/2019
Đức Cha Giuse với các “Khách mời Kitô Vua” của chương trình “Vòng tay yêu thương” tại Giáo xứ Thái An- Xuân Lộc.

Một chiều thứ Bảy 12/1 thật đặc biệt khi Đức Cha Chánh Giáo phận đã đến gặp gỡ, chia sẻ với các“Khách mời Kitô Vua” của chương trình “Vòng tay yêu thương” do Giáo xứ Thái An, Giáo Hạt Biên Hòa, Giáo phận Xuân Lộc tổ chức.

Như nội dung chủ đề, chương trình “Vòng tay yêu thương” đặc biệt này đang giang rộng vòng tay để sẻ chia, đỡ nâng nhiều gia đình khó khăn đang sống trong địa bàn giáo xứ, cho dẫu bất kể gia đình đó là Công Giáo hay không Công Giáo. Do đó, với sự trợ giúp, cộng tác của nhiều người, nhiều đoàn thể, “Vòng tay yêu thương” chiều thứ Bảy đó đã mời được gần 400 “Khách mời Kitô Vua” đến tham dự vớigần một nửa là gia đình anh chị em lương dân. Như lời khen ngợi của Đức Cha Chánh Giáo phận trong phần cuối lễ, chương trình “Vòng tay yêu thương” quả thật rất có ý nghĩa vì đang cụ thể hóa chương trình mục vụ của Giáo phận đề ra trong việc đồng hành với các gia đình đau khổ, chia sẻ và biểu tỏ lòng Thương xót của Thiên Chúa đến với những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, nhờ đó, biến Giáo phận thành Thánh địa của Lòng thương xót.

Xem Hình

Như tâm tình vốn có hướng về những người đau khổ, những gia đình khó khăn về cả vật chất lẫn tinh thần, trong phần gặp gỡ trước Thánh Lễ, Đức Cha Chánh Giuse đã chia sẻ mục đích chuyến thăm viếng mục vụnày “Tôi muốn nói lên tình nghĩa yêu thương đối với tất cả những người đau khổ, đặc biệt trong bối cảnh của các gia đình.”

Hướng đến những anh chị em, gia đình đau khổ không thuộc Công Giáo, Đức Cha bày tỏ tâm tình rất quý mến, yêu thương đặc biệt với những anh chị em lương dân.“Trong giây phút này đây, xin các anh chị em hãy cảm nhận rằng Cha Chánh xứ, Phó xứ…mọi người đanglà anh chị em của mình…Xin hãy cảm thấy mình như đang ở trong cùng một gia đình…anh chị em vẫn được thương yêu cho dù anh chị em không phải là người Công Giáo.” Ngài giải thích cho họ nhận ra nguồn cội của mọi hoạt động dành cho họ, khởi nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết thảy mọi người, và mọi người là anh chị em với nhau “Đối với người Công Giáo, trong đức tin,chúng tôi đều nhìn nhận tất cả mọi người là anh chị em của mình, bởi anh chị em cũng là con cái của Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết mọi người. Tất cả đều được Thiên Chúa dựng nên với tất cả tình thương yêu vô bờ bến của Ngài. Và cũng trong tình thương yêu vô bờ bến đó, Chúa còn nâng đỡ, che chở, gìn giữ và bao phủ mọi người bằng tình yêu của Chúa như thể một lớp sương mai, che chở, bao phủ chúng ta để chúng ta khỏi bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt.”

Nói đến cụm danh từ “gia đình khó khăn” Đức Cha đã giải thích rằng,khó khăn trong gia đình rất nhiều dạng thức: sự khó khăn về vật chất, sự khó khăn hay đau khổ khi cha mẹ già không có con cái bên cạnh, khi bản thân bị bệnh, hay có người thân đau ốm, khi bản thân hay gia đình không có kinh phí chữa bệnh, khi người già cảm thấy cô đơn, khi con cái hư hỏng, vướng vào những tệ nạn, … Tuy nhiên, để họ không vì sự khó khăn đang gặp phải mà buồn chán, mệt mỏi hay thất vọng, xa Chúa, Đức Cha khuyên nhủ các gia đình “dù khó khăn như thế nào…anh chị em hãy nhớ còn rất nhiều người thương yêu mình.. hãy nhớ Chúa rất yêu thương, nâng đỡ và an ủi anh chị em. Hãy tin tưởng điều này. Đặc biệt, Đức Cha Giuse cũng đã mời gọi anh chị em lương dân cũng hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ “Cả với những anh chị em tôn giáo bạn, là những anh chị em của chúng tôi, cũng hãy tin tưởng điều này. Vì Thiên Chúa là Chúa của mọi người, vì thế, xin anh chị hãy mở lòng để đón nhận Ngài, đón nhận sức mạnh của ơn thánh Chúa…”

Và Đức Cha kết thúc lời chia sẻ bằng sự xác tín rằng “Như thế,dù trong hoàn cảnh khó khăn thế nào đi nữa, chúng ta vẫn tìm ra được sức mạnh thiêng liêng nâng đỡ chúng ta…khi tin tưởng: THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG ANH CHỊ EM.”

Sau những chia sẻ rất yêu thương, quan tâm của Đức Cha Giuse, đại diện những anh chị em đau khổ, khó khăn đã trình bàylên Đức Cha, quý Cha và cộng đoàn những tâm tư, nỗi lòng, mong muốn khao khát sâu thẳm từ trong tâm hồn họ trong từng hoàn cảnh khác nhau của họ.

Rất cảm động khi được nghe cả ba đại diện đều mong mỏi Đức Cha, quý Cha và cầu nguyện cho họ, và người thân đang bị đau bệnh được vững tin, được chữa lành. Anh Thiện Phúc, giáo dân Giáo xứ Thái An, có lẽ với tuổi đời khoảng ngoài 50, nhưng đã bị ung thư não thời gian dài, chia sẻ” Con bị ung thư não đã 8 năm rồi… và vợ con cũng bị suy thận mãn…Xin Đức Cha và mọi người cầu nguyện cho con và gia đình chúng con.”Và cũng thật lạ lùng, khi hai trong số ba người đại diện ấy lại là người lương dân. Anh Đình Phúc, một người lương dân và tuổi đời cũng còn trẻ- ngồi trên chiếc xe lăn chia sẻ “ Thưa Đức Cha, con bị viêm màng não 12 năm, phải ngồi xe lăn…hiện tại con đang đi bán vé số. Con xin Cha cầu nguyện cho con được mạnh khỏe.” Với chị Trần Thị Dung, cũng là một lương dân, thổ lộ rằng “Con xin kính chào Đức Cha, con kính chào Chúa. Chồng con hiện bị tai biến, nằm liệt ở nhà. Con đến đây vì tình yêu thương, vòng tay. Con xin Cha cầu nguyện cho chồng con được khỏe…dù không thể lành, và được tình yêu thương của Chúa.” Những lời khẩn nài cầu xin của Anh Đình Phúc hay Chị Trần Dung quả là một niềm tin vào Thiên Chúa mà Ngài đang khơi lên trong lòng họ qua những cộng tác viên của Ngài nơi Giáo xứ Thái An, vì thế, khiđặt câu hỏi mang tính riêng tư “Vì sao Chị Dung lại xin Đức Cha và mọi người cầu nguyện cho chồng chị?” Chị đã trả lời “Vì tôi tin Chúa sẽ ban ơn cho những lời cầu xin. Chúa luôn ban điều tốt lành cho mọi người, Sr à!”

Đáp lại những tâm tư, nỗi lòng và lời mong ước được mọi người cầu nguyện với Chúa cho những đau khổ của họ, Đức Cha Chánh Giáo phận đáp từ “Chúng ta đã nghe những tâm tình chia sẻ riêng của ba người, và chắc chắn còn rất nhiều có những hoàn cảnh khó khăn khác nhau…dù chưa được nói ra…nhưng tâm tình chắc sẽ giống nhau đã diễn tả được. Chính sự hiện diện của tất cả mọi người nơi đây đã nói lên được tất cả sự cảm thông, tình thương yêu đối với anh chị em, nhất là những người có những cảnh đời đau khổ. Cả ba người, đều có những lời gửi đến Đức Cha, quý Cha và mọi người- cầu nguyện cho anh chị em-. Tôi xin đoan chắc với anh chị em là hằng ngày tôi luôn cầu nguyện cho anh chị em. Từ khi tôi lãnh nhiệm trách nhiệm Giám mục Giáo phận, trong mỗi giờ Kinh Sáng, tôi đều có ý chỉ cầu nguyện dành cho những người đang đau khổ, cho những gia đình gặp khó khăn trong Giáo phận. Nhưng hôm nay, khi gặp gỡ anh chị em, nhìn thấy những khuôn mặt và hoàn cảnh cụ thể… lời cầu nguyện của tôi sẽ cụ thể hơn, vì là những người tôi đã gặp trực tiếp và thật cụ thể…Tôi đoan chắc với anh chị em, hằng ngày tôi sẽ cầu nguyện cho anh chị em.” Và Đức Cha bày tỏ niềm vui khi thấy họ tin tưởng vào Chúa “Một khi anh chị em xin các cha, cộng đoàn cầu nguyện cho mình, điều này có nghĩa là, anh chị em tin tưởng vào Chúa. Có thể Chúa không cho anh chị em, hay người thân khỏi cơn bệnh những căn bệnh đang vướng phải, nhưng Chúa ban cho chúng ta sức mạnh tâm hồn để với những khó khăn này, tâm hồn chúng ta vẫn an bình. Xin anh chị em hãy tiếp tục tin tưởng vào Thiên Chúa…vì Chúa có cách thức riêng của Ngài để đáp lại những lời kêu xin của con cái Chúa.”

Ở đâu đó, trên một vài khuôn mặt, đã có bàn tay chắp lên, gần sát khuôn mặt để che giấu những giọt nước mắt đang chảy xuống…dường như vì cảm nhận tình yêu thương của Chúa, của Đức Cha, của mọi người trên nỗi khó khăn, đau khổ của cuộc đời họ.

Sau buổi gặp gỡ, Đức Cha đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho mọi người đang đau khổ, cho những gia đình khó khăn, và cho cộng đoàn giáo xứ.

Với những gì đã thực hiện trong chương trình “Vòng tay yêu thương”, trong huấn từ cuối Thánh lễ, Đức Cha Giuse tiếp tục mời gọi mọi người trong cộng đoàn Giáo xứ Thái An “hãy mang trong mình cục than hồng của Lòng thương xót Chúa…để nhờ đó, mọi người có thể ra vùng ngoại biên, tìm kiếm mọi người và sẻ chia lòng thương xót này đến hai thành phần đặc việt là những gia đình đang gặp khó khăn, và những anh chị em lương dân.” Từ đây, Đức Cha Giuse bày tỏ sự hài lòng và vui mừng với chương trình “Vòng tay yêu thương” của giáo xứ Thái An vì đã truyền đạt lòng thương xót của Chúa, của Giáo phận đến hai thành phần này. Vì không chỉ là những anh chị em Công Giáo trong Giáo xứ chia sẻ yêu thương này đến với anh chị em lương dân trong những gia đình khó khăn, nhưng từ chính anh chị em lương dân cũng đã chuyển tiếp ngọn lửa, than hồng của lòng thương xót Chúa, tình yêu đến những người đau khổ, gia đình khó khăn khác mà họ gặp qua những vòng tay yêu thương nhân ái lan tỏa từ nơi công đoàn Giáo xứ Thái An.

“Xin cầu chúc Giáo xứ không chi hoàn thiện công trình vật chất nhưng còn là thăng tiến hơn công trình lòng thương xót của Chúa trong lòng của mỗi người, mỗi gia đình và toàn thể Giáo xứ, để biến Gia đình trở thành dấu chỉ của lòng thương xót. Và Giáo xứ cùng với tất cả Giáo xứ khác biến Giáo phận chúng ta thành thánh địa của Lòng Thương Xót.”

Sau Thánh Lễ, các “Khách mời Kitô Vua” đã cùng bàn tiệc tình yêu, chia sẻ với Đức Cha, Cha Xứ, Cha Phó, quý Cha, và anh chị em trong giáo xứ Thái An, cũng như lãnh nhận những phần quà yêu thương dành cho họ.

Nữ tu Têrêsa Ngọc Lễ, O.P
 
Hơn 6 triệu người Việt Nam bị khuyết tật.
Lm. Nguyễn Tất Thắng OP
11:24 13/01/2019
Người Việt Nam khuyết tật chiếm khoảng 6,2 triệu hoặc 2% dân số trên hai tuổi, điều này theo một cuộc khảo sát quốc gia do Tổng cục Thống kê công bố thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của Quỹ Nhi Đồng Liên hiệp quốc (United Nations Children’s Fund - UNICEF). Cuộc khảo sát kéo dài hai năm 2016 và 2017, là cuộc khảo sát đầu tiên được thực hiện trên quy mô lớn như vậy bằng các công cụ quốc tế, bao gồm một công cụ được thiết kế do UNICEF và Nhóm Washington về Thống kê Khuyết tật để kiểm tra chức năng của trẻ em.

Khoảng 13 phần trăm dân số Việt Nam, hoặc gần 12 triệu người, sống trong các hộ gia đình có thành viên khuyết tật. Chỉ có 2,3 phần trăm người khuyết tật được tiếp cận các dịch vụ phục hồi chức năng trong trường hợp bị bệnh hoặc tai nạn. Chỉ có 2 phần trăm các trường tiểu học và trung học trong nước đáp ứng nhu cầu của học sinh khuyết tật. Tỷ lệ đi học của trẻ em khuyết tật, đặc biệt là ở các cấp cao thì thấp hơn so với trẻ em có khả năng.

Chỉ có 2 phần trăm các trường tiểu học và trung học trong cả nước được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của học sinh khuyết tật, trong khi dó chỉ có một trường trong bảy trường có một nhà giáo dục được đào tạo để dạy học sinh khuyết tật.

Giáo Hội Việt Nam luôn cam kết giúp đỡ người khuyết tật, cả người lớn và trẻ em, và chịu trách nhiệm về các sáng kiến khác nhau cho mục tiêu này trong mỗi giáo phận và giáo xứ.

Dịch vụ Cứu trợ Công Giáo (Catholic Relief Services - CRS), một trong những tổ chức Công Giáo tích cực nhất, giúp hơn 6.500 trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. CRS hợp tác với các nhóm địa phương để hỗ trợ trực tiếp cho 300 người sống sót do nổ mìn cũng như chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, dịch vụ hỗ trợ xã hội và sinh kế cho 5.700 người sống sót khác.

Lm. Nguyễn Tất Thắng OP
 
Gia đình VietCatholic miền Nam Cali dâng Lễ Tạ Ơn và Mừng Xuân mới
Minh Thu
20:24 13/01/2019
Tin Nam Cali – Chiều ngày 12 tháng 1, 2019, tuy dù sau một cơn mưa đá tầm tã vào lúc 4:00 chiều, nhưng đa số các anh chị em cộng tác viên của VietCatholic sống tại Nam Cali cũng đã cố gắng đến chung vui tại trụ sở VietCatholic để dâng lễ Tạ Ơn Chúa và tạ ơn nhau vì những ơn phúc thiêng liêng mà anh chị em đã nhận được trong khi hoạt động tông đồ trong lãnh vực Truyền thông.

Photos: Kingston Bùi, William Ngoc, và Nguyên Thanh

Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, nguyên giám mục Kotum là người bạn tri kỷ của VietCatholic đã Chủ tế thánh lễ, đồng tế thánh lễ có Cha Mai Khải Hoàn và Cha Trần Công Nghị; phụ trách phụng vụ và hát lễ do ca đoàn thu gọn các xướng ngôn viên VietCatholic đảm trách.

ĐGM Hoàng Đức Oanh giảng Thánh lễ Tạ Ơn


Nếu nói về cộng tác viên VietCatholic trên toàn thế giới phải nói tới con số trên 400 người gồm các giáo dân nam nữ, các tu sĩ, các linh mục và cả các giám mục. Mỗi người tùy thời giờ cho phép, khả năng và chuyên môm mà cộng tác đóng góp khác nhau, có người đóng góp thường xuyên mỗi ngày; có người mỗi tuần một bài, có người tùy cảm hứng và tùy theo biến cố. Về vai trò đảm trách thì qúi tu sĩ và các anh chị em cộng tác viên gồm các bài viết chuyên biệt về thần học, kinh thánh, văn hóa, lịch sử, giáo luật, tin tức,... các kỹ sư điện toán, các chuyên gia internet, các phóng viên, các trợ bút và dịch thuật, các chuyên viên kỹ thuật đài TV VietCatholic, các xướng ngôn viên, và các cổ động viên, tất cả đều tự nguyện và thiện nguyện hăng say trong sứ vụ tông đồ truyền thông và truyền giáo.

Để tổ chức cuộc họp mặt chung toàn thể Cộng tác viên VietCatholic trên khắp thế giới rất khó khăn vì lý do địa dư và công việc làm cá nhân, do vậy năm 2016 kì niệm 20 thành lập VietCatholic mới có cuộc tổ chức toàn thế giới lần đầu tiên. Ngoài ra có các cuộc tổ chức riêng rẽ tại các quốc gia, hay tại những nơi có đông người, hay mỗi khi có dịp Ban Giám Đốc ghé thăm một vùng nào đó.

Dàn Xướng Ngôn Viên và Thiện Nguyện VietCatholic


Riêng tại miền Nam Cali có chừng gần 80 chục Anh Chị Em phụ trách 1 Văn phòng Thông tin internet, 2 studios Truyền hình và phòng dịch thuật. Buổi họp mặt hôm nay, một số anh chị em vắng mặt vì có những cuộc hẹn quan trọng trước như đi nghỉ hè, đi ăn cưới, ăn giỗ, có trách nhiệm phụng vụ nơi cộng đoàn giáo xứ của mình... Dầu vậy số người tới tham dự có tới gần 60 người. Anh chị em gặp nhau vui vẻ và thỏa lòng mong ước tới ngày này từ vài tháng qua.

Trong bài giảng, ĐC Oanh đã chia sẻ và nhấn mạnh đến vai trò thông tin và sứ mạng của người truyền thông là rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, nói lên Sự Thật, và bệnh vực Công lý cho mọi người, nhất là cho đồng bào quê hương còn đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị và không có tự do tôn giáo đích thật.

Nói về kinh nghiệm cá nhân của Ngài, ĐC nói nếu trước đây không có truyền thông thì có lẽ ngày nay Ngài cũng không còn ở đây, vì có giai đoạn Ngài bị đầy đọa và bị đe dọa, nhưng khi đó có truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế thông báo ra thế giới bên ngoài, thì chắc hẳn không ai ngó ngàng tới tình trạng của ngài… Và sau này nhiều trường hợp như thế nữa.

Để chứng tỏ vai trò truyền thông quan trọng như thế nào, ngài nói về lịch sử bạo vương Neron của Roma vì muốn xây thành Rôma mới nên đã đốt phá đi khu nhà nghèo, chẳng may ngọn lửa tràn sang khu khác cháy lớn, nên dân chúng thành Roma lúc đó nổi loạn… Để thanh minh, Neron đã đổ tội cho người Công Giáo là thủ phạm làm cháy thành và do đó đã ra lệnh truy nã, bắt giam và giết hàng vạn người Công Giáo hầu chạy tội của mình.

Ngày nay Cộng Sản cũng dùng chiêu bài này đổ tội cho tôn giáo và Công Giáo nói riêng đã làm cản bước tiến của xã hội Cộng sản chủ nghĩa… nhưng có khác một điều quan trọng, trước đây không có truyền thông, nên bạo quyền Neron đã có thể che dấu tội lỗi của mình… Ngày nay có truyền thông, có internet nên CSVN không dễ gì che đậy những xảo trá lường gạt của mình được! Dù thế họ vẫn cứ láo khoát tuyên truyền và chỉ đạo báo chí Việt nam phải nói theo đường lối của Đảng CSVN!

Trong bài giảng, Đức Cha Micae còn nói chỉ cho thấy là có những người Công Giáo trí thức đã im re không dám bệnh vực cho đạo giáo của mình trước những tấn công của người không hiểu biết và muốn bôi nhọ Công Giáo Việt Nam, như nói là người bán nước Việt Nam cho Pháp; người Công Giáo bỏ đạo thờ Tổ tiên và không yêu nước, v.v… Đức Cha đan cử ra nhiều trường hợp cho thấy, lịch sử chứng minh ngược lại. Thế kỷ thứ XVI Đạo Công Giáo đã được truyền giáo ở Việt Nam, nhưng Hòa ước Việt Nam và Pháp ký nhượng 3 tỉnh Nam VN cho Pháp được ký mãi vào năm 1862 và sau này năm 1884, như vậy là cả 300 năm sau Pháp mới chiếm Việt Nam vì những sai lầm thiển cận của các vua chúa Việt Nam không chịu nhìn thế giới khi đó đang tiến triển theo nhịp độ khác (gương của Nhật bản hay Thái lan vì họ thức thời nên đã không bị nạn mất nước diệt vong!).

Đức Cha Micae còn đưa ra nhiều ví dụ khác cho thấy là người Công Giáo VN đã đóng góp rất nhiều vào nền văn hóa Việt Nam, và đã có rất nhiều nhà trí thức Việt Nam đã từng đưa ra những cải cách thức thời như nhà bác học Nguyễn trường Tộ chẳng hạn…

Nói về biến cố gây xung động và thảm họa gần đây nhất là vụ Lộc Hưng, Đức Cha Micae cũng cho biết là chúng ta phải cầu nguyện và có trách nhiệm ủng hộ và giúp đỡ anh chị em giáo dân Lộc Hưng đang chịu cảnh màn trời chiếu đất và những bất công đổ xuống trên đầu họ do việc nhà cầm quyền Cộng Sản vô lý cưỡng chiếm đất đai của họ từ cả hơn nửa thế kỷ nay.

Sau thánh lễ, Đức Cha, quí Cha, cùng toàn thể anh chị em mừng Tết sớm qua bữa cơm huynh đệ với những món ăn truyền thống ngon miệng, dĩ nhiên là không thiếu bánh chưng, bánh téc, dưa hành, bao lì xì vui xuân, và màn Văn nghệ bỏ túi đặc sắc do nhạc sĩ Thông và nha sĩ nghệ sĩ Mai Khanh điều hợp làm sôi động khung cảnh vui Xuân.

Cộng tác viên và Niềm vui gặp gỡ VietCatholic
Cộng tác viên và Niềm vui gặp gỡ VietCatholic
 
Gx. Lam Điền Hà Nội: Các em được Rửa tội lễ Chúa Chịu Phép Rửa
Gx. Lam Điền
22:16 13/01/2019
Ngày lễ Chúa chịu Phép Rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh tại giáo xứ Lam Điền Tgp. Hà Nội có 5 em được cha mẹ đưa đến nhà thờ xin ơn phép Rửa Tội, để các em được nhận lấy Chúa Thánh Thần, nhận lấy Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần sẽ ngự xuống tâm hồn các em. Thật là một việc tốt lành mà cha mẹ có bổn phận làm cho con cái mình là thông truyền Đức tin cho con cái.

Xem Hình

Cha chủ sự đã cắt nghĩa từng phần khởi đi từ sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gioan trong sông Giorđan, việc đưa con đến nhà thờ xin phép rửa tội, cử chỉ cha mẹ và người đỡ đầu vẽ Dấu Thánh Giá trên trán, lời tuyên xưng đức tin thay cho các em, các em được xức Dầu Dự Tòng và Dầu Thánh, cho tới việc mặc áo trắng, nhất là người đỡ đầu cầm nến sáng.

Tuyên xưng Đức tin thay là thông truyền cho con cái Đức tin mình đã lãnh nhận. Xức Dầu Thánh, các em được đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần khi xưa đã ngự xuống trên Chúa Giêsu. Chúa Cha cũng chứng dám và hài lòng với các em hôm nay, mặc dầu Ngài không tỏ hiện rõ ràng. Khi cha mẹ và người đỡ đầu mặc áo trắng, nhất cầm nến sáng được thắp từ Cây Nến Phục Sinh, là họ nhận lấy sứ mạng Chúa trao phó, tức là phải chăm nom, lo lắng cho các em, giúp các em sống như con cái sự sáng, bền vững trong đức tin cho đến ngày Chúa đến.

Trong dịp này tại Lam Điền còn có một ông, bố của 5 người con, trong đó có con là Luật sư, nhà báo, thông dịch viên, với hơn 50 tuổi Đảng xin chịu phép Rửa tội, và nữ giáo viên có chồng là Đại tá, con là kỹ sư tại Singapor thành tâm tòng Đạo.

Lễ xong, các gia đình phấn khởi tự hào vì có con em gia nhập Đạo vào đúng ngày Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.

Gx. Lam Điền đưa tin

Ảnh : Gia Trưởng
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Ban Thường Vụ Hội đồng Liên Tôn VN tại Hoa Kỳ thăm xã giao ĐGM Hoàng Đứdc Oanh tại Nam Cali
Minh Thu
16:45 13/01/2019
SANTA ANA - Hôm nay 11/1/2019, Ban Thường Vụ Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ đã đến Văn phòng VietCatholic thăm xã giao và trao đổi về tình hình đất nước Việt Nam với ĐGM Micae Hoàng Đức Oanh. Phái đoàn gồm có Giáo sư Nguyễn Thanh Giầu (Hòa Hảo), hiện là Chủ tịch Liên Tôn; Chánh trị sự Hà Vũ Băng (Cao Đài), tổng thư ký HĐ Liên Tôn; Mục sư Lê Minh (Tin Lành), Thủ Quỹ; và LM Trần Công Nghị (Công Giáo) hiện là Phó Chủ tịch Ngoại vụ HĐ Liên Tôn.

Ban Thường Vụ Hội đồng Liên Tôn VNHK vấn an sức khoẻ GM Hoàng Đức Oanh và hỏi về hiện tình vụ cưỡng chiếm nhà cửa và khu vườn rau Lộc Hưng trong tuần qua mà chính ĐGM đã đến chứng kiến tận mắt. GM Oanh cho biết người CSVN đã lừa đối dân tộc Việt Nam suốt từ năm 1945 cho đến nay, với các chủ trương mị dân nhưng hành động thì tiền hậu bất nhất. Hứa mà không làm gì cả. Đã đến lúc chúng ta các tôn giáo và toàn thể dân chúng cần thấy sự thực này và cùng nhau tranh đấu cho lẽ phải, cho sự sống còn của dân tộc, nhất là nguy cơ bị Tầu Cộng ngoại bang xâm chiếm đất nước.

Các vị Đại diện các Tôn giáo trong Hội Đồng Liên tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng chia sẻ những bằng chứng đàn áp tôn giáo của mình đồng thời nhận định rằng bây giờ là thời điểm các tôn giáo phải cùng nhau đoàn kết, kết hợp các nỡ lực để tranh đấu cho sự thật, công lý, các nhân quyền của người Việt Nam và nhất là cho sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Chỉ nguyên đan cử việc cưỡng chế nhà của và đất vườn rau Lộc Hưng đủ thất cách thức cưỡng chế của nhà cầm quyền CSVN hết sức bạo lực và tàn nhẫn. Không có những thông tri pháp luật rõ ràng và hợp pháp, không có đối thoại và bất chấp thủ đoạn đạt được mục tiêu trục lợi. Hoàn toàn không phủ hợp với cung cánh hành xử của một nhà nước có pháp trị.

 
Tài Liệu - Sưu Khảo
“Xã Hội Đời Tu” Luôn Cần Những “Nguyên Tắc” Và “Giá Trị”
Nữ Tu Anna Phạm Thị Kim Oanh
09:57 13/01/2019
Trong xã hội hôm nay, có nhiều tôn giáo khác nhau và mỗi tôn giáo đều có những giáo huấn riêng, nhưng dường như một số tôn giáo chỉ có những giáo huấn về luân lý cá nhân. Khác với một số tôn giáo, ngoài những giáo huấn về luân lý các nhân, Kitô giáo nói chung -cách riêng là Công Giáo còn chú trọng đến luân lý của các cộng đoàn xã hội; hay nói cách khác, chú trọng đến vai trò của con người xét trong tương quan với xã hội, với những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Tất cả những vấn đề đó được tóm gọn dưới danh từ “Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội Công Giáo”. “Học thuyết xã hội là đạo lý mà các Giáo Hoàng và cộng đoàn đã trình bày về các vấn đề công bằng xã hội” mà quá trình hình thành của nó trải dài suốt chiều dài lịch sử: từ thời các ngôn sứ, các giáo phụ, các nhà thần học…và thời điểm mà chúng ta có thể lấy làm mốc là Thông điệp “Rerum Novarum” của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII.

Học thuyết xã hội Công Giáo được triển khai trên bốn nguyên tắc cốt lỏi: phẩm giá, công ích, bổ trợ và liên đới; cùng với bốn giá trị nền tảng: sự thật, tự do, công lý và yêu thương. Những nguyên tắc và giá trị này được xem như là trọng tâm và là nền tảng của các giáo huấn của Giáo Hội. Các nguyên tắc và các giá trị của học thuyết xã hội không chỉ được áp dụng trong xã hội đời thường mà chúng ta còn có thể áp dụng vào chính trong xã hội đời tu, hay cụ thể hơn, đời sống cộng đoàn tu trì.

Thật vậy, không chỉ xã hội đứng trước những thách đố về giá trị phẩm chất con người mà ngay trong chính cộng đoàn tu trì cũng khó có thể tránh khỏi những vấn nạn đó. Vậy, để giá trị phẩm chất của mỗi người được nâng cao thì cộng đoàn tu trì cũng cần lấy những nguyên tắc và các giá trị của học thuyết xã hội làm trọng tâm và nền tảng trong mối tương quan liên vị trong cộng đoàn.

Trước hết, chúng ta đi vào các nguyên tắc.

Thứ nhất, đó là nguyên tắc phẩm giá (nhân vị).

Có thể nói, phẩm giá con người là nội dung cốt yếu của học thuyết xã hội. “Trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử, con người chính là trọng tâm và linh hồn của tư duy xã hội Công Giáo. Thật vậy, toàn bộ Học thuyết xã hội Công Giáo chẳng qua chỉ là triển khai nguyên tắc: con người có phẩm giá bất khả xâm phạm. Trong tất cả những nghĩa cử đa dạng bày tỏ nhận thức ấy, Giáo Hội luôn cố gắng bên vực phẩm giá con người mỗi khi có toan tính xác định lại hay bóp méo hình ảnh ấy; Giáo Hội cũng thường xuyên tố cáo những sự xâm phạm phẩm giá con người. Lịch sử đã xác nhận rằng chính cơ cấu hình thành nên các quan hệ xã hội nổi lên một số khả năng làm thăng hoa con người, nhưng cũng chính trong cơ cấu ấy lại tiềm tàng những loại bỏ ghê tởm nhất đối với phẩm giá con người”.

Chúng ta không thể tránh né hay loại trừ thực trạng này trong các cộng đoàn dòng tu. Cơ cấu, luật lệ là những yếu tố làm nên một cộng đoàn tu trì và giúp các thành viên trong cộng đoàn sống theo một linh đạo, một đường hướng chung, đồng thời giúp làm triển nở đời sống trong linh đạo-đường hướng đó. Tuy nhiên, nhiều cộng đoàn tu trì vì quá chú trọng đến cơ cấu, luật lệ, hình thức rập khuôn bên ngoài mà thiếu đi vào chiều sâu để phát triển từng nhân vị theo như họ là. Lối hành xử quen thuộc và được ưa chuộng của các cộng đoàn tu trì “trên bảo sao dưới làm vậy”. Chính cách hành xử ấy làm cho mỗi cá nhân, cộng đoàn mất hẳn sức sống, mất hẳn cung cách và nét độc đáo riêng.

Đa số các cộng đoàn tu trì thường chú trọng nhiều vào đời sống kỷ luật sao cho thật trật tự, nề nếp, ổn định, không có gì nổi cộm hay trục trặc, mà không chú tâm đủ việc đi vào từng nhân vị để đào tạo sự trưởng thành. Một cộng đoàn lấy luật lệ làm thước đo và sẵn sàng áp dụng mọi hình thức kỷ luật để chỉ nhắm đến sự ổn định, xuôi chảy, không gì sai chạy sẽ sớm trở thành một cộng đoàn vô hồn, tồn tại cách tẻ nhạt và thiếu sức sống, thiếu tình yêu, thiếu sự cảm thông, đồng cảm….

Một khi đã trở nên một cộng đoàn “đẹp hình thức” nhưng vô hồn thì không còn đủ nhạy cảm để biết lắng nghe “những âm thanh và giai điệu tế nhị” của người khác; đôi khi còn chà đạp lên nhân phẩm của người khác, không tôn trọng thế giới riêng tư của người khác, cái thế giới mà chỉ có Thiên Chúa mới có quyền biết…

Như vậy, để mỗi người được triển nở trong đời sống cộng đoàn tu trì thì mọi thành viên trong cộng đoàn cần phải tôn trọng mỗi người như một nhân vị cá biệt, độc đáo và bất khả xâm phạm. Hơn thế nữa, cần khuyến khích sự thăng tiến và phát triển đúng nghĩa tính độc đáo của từng nhân vị để đời sống cộng đoàn tu trì càng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Chỉ khi nào phẩm chất của mỗi nhân vị được tôn trọng xứng đáng, thì họ mới có thể trưởng thành cách lành mạnh về nhân bản và tâm linh, đầy ý thức về bản thân và về sứ vụ của mình chứ không trở thành như những cái máy được cài lệnh và chúng phải vận hành đúng qui tắc theo các phương trình có sẵn.

Thứ hai, nguyên tắc công ích.

Công ích chính là thiện ích chung về vật chất cũng như tinh thần dành cho mọi người; nghĩa là công ích nhắm đến lợi ích của một xã hội, một tập thể, một cộng đoàn, nó vượt xa hơn nhu cầu của bản thân. Một xã hội, một tập thể hay một cộng đoàn muốn và có ý định tiếp tục phục vụ con người phải lấy công ích - tức là lợi ích của hết mọi người và của con người toàn diện - làm mục tiêu tiên quyết của mình.

Con người không thể tìm được sự phát triển mỹ mãn chỉ nơi bản thân mình, nếu bỏ qua sự kiện con người hiện hữu với người khác và cho người khác. Tuy nhiên, muốn đạt được ý nghĩa trọn vẹn nhất, công ích phải phát xuất từ chính phẩm giá, sự thống nhất và bình đẳng của hết mọi người. Cũng thế, trong đời sống cộng đoàn tu trì, mỗi người sống đều hướng đến ích chung nhằm để xây dựng cộng đoàn, nhưng không vì lý do đó mà lại bỏ qua hay coi nhẹ lợi ích của mỗi cá nhân; vì dù là lợi ích cho cộng đoàn thì cũng là để nhằm xây dựng cho mỗi cá nhân, phát triển từng nhân vị và nhắm đến cùng đích tối hậu là Thiên Chúa. Nếu như chỉ nhắm đến và đặt mục tiêu cho công ích mà không quan tâm đến lợi ích của cá nhân thì rất có thể sẽ làm tổn thương phẩm giá của từng nhân vị. Và như thế, công ích không còn mang giá trị và ý nghĩa theo đúng một đích của nó nữa.

Thứ ba, nguyên tắc bổ trợ.

Nguyên tắc bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của học thuyết xã hội Công Giáo, đã có mặt trong học thuyết ấy ngay từ văn kiện xã hội đầu tiên (Lêô XIII, Rerum novarum). Bổ trợ được hiểu như là sự trợ giúp hay can thiệp của một tổ chức cấp trên để yểm trợ, bổ túc cho các cơ cấu xã hội hay tổ chức thấp hơn, nhưng không bao giờ làm thay hay làm suy giảm trách nhiệm của các tổ chức này.

Đây cũng được xem như là một nguyên tắc cần thiết cho đời sống cộng đoàn tu trì. Mỗi nhiệm vụ, mỗi công việc cần được chia cho các nhóm hoặc cho các cá nhân. Mỗi nhóm, mỗi cá nhân có trách nhiệm chu toàn nhiệm vụ, công việc của mình một cách có trách nhiệm và chỉ yêu cầu sự nâng đỡ từ cấp cao hơn khi cảm thấy vượt quá sức mình. Các cấp cao hơn có trách nhiệm hỗ trợ khi các nhóm hay cá nhân cần giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy vậy, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, nhóm…và khuyến khích sáng kiến của cá nhân, vì có khả năng giúp đỡ chính mình. Đây là một yếu tố quan trọng của phẩm giá con người. Thật là một sai lầm khi các cấp cao hơn ôm đồm hết mọi công việc mà không giao cho các nhóm nhỏ hay các cá nhân làm những việc họ có thể làm được dựa vào sáng kiến và sự chuyên cần của họ, vì như thế là đang đi ngược lại với giá trị và ý nghĩa của nguyên tắc bổ trợ.

Thứ tư, đó là nguyên tắc liên đới.

Nguyên tắc liên đới là nguyên tắc hiện nay được nhấn mạnh nhiều nhất trong học thuyết xã hội Công Giáo, và cũng là nguyên tắc được đưa vào ứng dụng thực tế nhiều nhất. “Liên đới diễn tả chiều kích xã hội của con người”. Nghĩa là con người có tương quan qua lại với nhau. Liên đới không phải là một sự đồng cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những đau khổ của bao người xa gần. Nhưng đó là quyết tâm chắc chắn và bền vững lo cho công ích, nghĩa là cho lợi ích của tất cả và của từng người, bởi vì tất cả chúng ta thực sự đều có trách nhiệm về mọi người.

Đây là một thái độ hoàn toàn có tính chất phúc âm: dấn thân lo cho ích lợi của tha nhân, sẵn sàng như Tin mừng nói, “chết đi” cho người khác, thay vì bóc lột họ, “phục vụ” người khác thay vì đàn áp họ để mưu lợi ích riêng (x. Mt 10, 40 - 42; Mc 10, 42 - 45; Lc 22, 25 - 27). Sống trên đời không ai có thể tự sống cho riêng mình mà không cần tương quan hay giúp đỡ từ người khác. Đây là yếu tố không thể thiếu trong thực tế đời sống xã hội và đặc biệt là trong đời sống cộng đoàn tu trì.

Sống trong cộng đoàn mỗi người cần có tương quan. Tương quan trong đời sống cộng đoàn đó chính là sự nâng đỡ nhau. Người già kiên nhẫn và lắng nghe người trẻ, người trẻ yêu thương và kính trọng người già; người có bằng cấp nâng đỡ những người ít học vấn; người khỏe chăm sóc người đau yếu; người có đức tin mạnh nâng đỡ những người yếu đuối. Mỗi người luôn quan tâm và để ý đến cuộc sống về nhu cầu thể xác cũng như những nhu cầu tâm hồn của từng người nhất là những chị em hèn kém, già yếu, bệnh tật, những chị em gặp thử thách lầm lỡ.

Mỗi người lo cho người khác đến mức chúng ta nhìn thấy nơi chị em như một bản thân khác của mình, được Chúa thương yêu vô biên. Thật vậy, tương quan giúp thăng tiến con người nhờ sự hiểu biết các ý tưởng, lý lẽ, nhu cầu, mong ước của người khác, và để có thể phát triển nhân cách của mình cách trọn vẹn hơn.

Tương quan không chỉ giúp cho mỗi người phát triển nhân cách mà còn đi đến sự hiệp thông, hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi qua Đức Giêsu Kitô- Đấng liên kết nhân loại với nhau và với Thiên Chúa. “Tột đỉnh của viễn tượng mà chúng ta đang nói đến ở đây chính là cuộc đời Đức Giêsu Nazaret, Con Người Mới, Đấng đã kết hợp với nhân loại sâu xa đến mức “chết trên thập giá” (Pl 2,8). Nơi Người, chúng ta luôn luôn nhận ra dấu chỉ sống động của một tình yêu khôn lường và siêu việt của “Thiên Chúa với chúng ta”, Đấng đã mang lấy những bệnh tật của dân mình, cùng đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ thành một”.

Các nguyên tắc của học thuyết xã hội là yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, nó không phải là nền tảng duy nhất để xây dựng một xã hội, một cộng đoàn tốt đẹp nhưng còn cần đến những giá trị, vì tự bản chất học thuyết xã hội gắn liền với những giá trị phổ quát. Học thuyết xã hội đưa ra các giá trị nền tảng: sự thật, tự do và công bằng. Thế nhưng, để con người thật sự chung sống tử tế với nhau còn phải thêm tình yêu và lòng thương xót. Vì thế, thánh Tôma Aquinô nói: “công lý mà thiếu vắng lòng thương xót là độc ác; thương xót mà không có công lý là nguồn gốc của suy đồi”. Vậy ta thử đi vào đào sâu từng giá trị một để thấy được những giá trị thật sự của nó.

Trước hết, chúng ta nói đến giá trị sự thật.

Trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người là hướng về, tôn trọng và làm chứng cho sự thật. Thế nhưng, thực trạng xã hội hôm nay lại là một xã hội xem nhẹ, coi thường và không còn tôn trọng sự thật. Khi người ta không còn tôn trọng sự thật nữa, thì mối tương quan tốt đẹp giữa con người với con người cũng bị bẻ gãy và như vậy con người không còn sống chân thành với nhau, không còn yêu thương nhau và không có sự cảm thông.

Nếu trong một xã hội, người ta không sống theo sự thật, không đối xử chân thành với nhau thì xã hội đó sớm muộn cũng sẽ tan rã hoặc đầy dẫy những đau khổ, bất công. Trong đời sống cộng đoàn tu trì cũng thế, làm sao một cộng đoàn có thể đứng vững và phát triển khi mỗi người trong cộng đoàn không sống sự thật, không tôn trọng sự thật và không chân thành với nhau. “Khi việc làm của chúng ta không còn đi đôi với lời nói và khi chúng ta không còn có thể tin chắc rằng người khác thành thật với mình, thì thái độ ngờ vực, lạnh lùng và xảo quyệt sẽ định dạng cách con người chung sống với nhau.”

Vậy, để có thể làm chứng cho sự thật, trước hết mỗi người phải sống thật với bản thân và sống thật với tha nhân. Nghĩa là dám sống với những khuyết điểm của mình, sống với tất cả con người giới hạn của mình, lột bỏ mặt nạ hoàn hảo của mình để đến với tha nhân bằng con người chân thật và sẵn sàng đón nhận trọn vẹn con người của tha nhân. “Chỉ khi chúng ta ý thức sự thật về mình và về tha nhân với tất cả sự phong phú và nghèo nàn của mỗi người, thì chúng ta mới có thể xây dựng cộng đoàn. Sức mạnh cuộc sống sẽ tuôn trào từ chính thực tại chúng ta là ai.”

Có thể nói, sống thật với chính mình và sống chân thành với chị em là một trong những nét đẹp của nhân cách đời tu.

Thứ đến, là giá trị tự do.

“Tự do là dấu chỉ cao đẹp nhất nơi con người cho thấy con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và do đó, cũng là dấu chỉ cho biết phẩm giá tuyệt vời của mỗi người.” Tự do của con người bao gồm tất cả những gì làm nên bản chất, cá tính, tài năng cũng như tất cả những yếu kém của họ. Tự do đích thực không phải là khả năng chọn bất cứ điều gì mình muốn, dù tốt hay xấu, mà chính là khả năng chọn lựa những điều thiện hảo.

Sống trong cộng đoàn, mỗi người có quyền tự do vì đó là giá trị gắn liền với phẩm giá con người. Tuy nhiên, nó không vượt quá giới hạn hay luật định trong cộng đoàn. Sự tự do khởi đầu bằng việc chấp nhận quyền bính. Thứ đến là việc can đảm từ bỏ chính mình trong việc chấp nhận và đón nhận tha nhân với những giới hạn của họ. Nếu như không chấp nhận quyền bính và không đón nhận tha nhân như là những món quà Thiên Chúa gởi trao thì chúng ta khó có thể sống tự do một cách trọn vẹn được. Ngoài ra, “sự tự do đích thực phải được xây dựng trên sự thật và công lý.” Sự tự do giúp chúng ta dần dần thoát khỏi nhu cầu muốn làm trung tâm vũ trụ và chiếm hữu người khác, cũng như thoát khỏi sự sợ hãi trao ban chính mình cho tha nhân. Đúng hơn, chúng ta học biết yêu như Đức Kitô đã yêu chúng ta, với tình yêu này làm cho chúng ta có khả năng quên mình và hiến mình như Chúa đã làm.

Ngoài ra, còn có giá trị công lý hay còn gọi là công bằng.

“Công bằng là ước muốn liên lỉ trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận”. Sống giữa biển đời không ai là một hòn đảo; nghĩa là mọi người sống trong tương quan, liên đới với nhau. Đã là tương quan, đã là liên đới thì không ai là không mắc nợ nhau.

Trong cái nhìn siêu nhiên, đặc biệt là đối với người Kitô hữu cái nợ lớn nhất đó là mắc nợ Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng từ ngàn đời đã yêu thương chúng ta và cho chúng ta được hiện diện trên cõi đời này, được sống hạnh phúc trong ơn gọi là con cái của Ngài. Ngoài cái nợ ấy, chúng ta còn mắc nợ đối với tha nhân, đó là nợ về tình liên đới và yêu thương. Có lẽ, hơn ai hết người tu sĩ là người cảm nhận được cái nợ mà chúng ta cần phải trả cho Thiên Chúa vì ân huệ đặc biệt mà Chúa dành cho mỗi người trong ơn gọi thánh hiến.

Người tu sĩ là người được Chúa yêu thương cách riêng và chọn gọi để cùng đi với Ngài, cùng học hỏi và cùng sống với Ngài như các môn đệ xưa kia, như thế chẳng phải người tu sĩ đã nợ Thiên Chúa rất nhiều hay sao? Vậy, để sống đúng với giá trị công bằng, mỗi người phải trả nợ cho Thiên Chúa về tất cả những ơn huệ và ân sủng mà chúng ta đã nhận từ Ngài bằng chính đời sống của mình, bằng sự yêu mến, đời sống đạo đức, thánh thiện, luôn luôn sống và thi hành thánh ý Thiên Chúa và luôn khao khát được thuộc trọn về Chúa với tất cả tấm lòng.

Đối với những người lân cận cũng thế, chúng ta được sống trong một cộng đoàn với tất cả những người cùng chung một lý tưởng, cùng chung một đích điểm, chúng ta cũng có một sự liên đới sâu xa với nhau. Thiết nghĩ, làm sao chúng ta không thể không mắc nợ nhau? Chúng ta mắc nợ nhau về tình liên đới và cả tình thương. Món nợ tình thương thì chỉ có thể đáp trả lại bằng chính tình thương và bằng chính đời sống chân thành đới với nhau; tôn trọng nhau: tôn trọng nhau trong việc đối thoại, tôn trọng việc phát triển những tài năng và sự trưởng thành của nhau. Như vậy, sự liên đới và tôn trọng nhau trong đức ái cũng là một nét đẹp của hai chữ công bằng trong cộng đoàn.

Tuy nhiên, công bằng trong đời sống chung không có nghĩa là cộng đoàn phải đáp ứng mọi nhu cầu, yêu sách của tôi, nhưng là đón nhận tôi với tất cả những gì tôi có, đón nhận người khác với những gì họ là.

Cuối cùng, đó là giá trị yêu thương.

“… Tình yêu trong giá trị thật của nó, coi đó như tiêu chuẩn cao nhất và phổ quát nhất của toàn bộ nền đạo đức xã hội. Trong mọi con đường sống của nhân loại, kể cả những con đường đã được tìm kiếm và đón nhận để đáp ứng những vấn đề xã hội hiện hành, bằng những hình thức càng ngày càng mới mẻ, có một con ðýờng “trổi výợt hẳn” (1Cr 12, 31), ðó chính là con ðýờng mang ðậm nét yêu thýõng”.

Như vậy, tình yêu được coi như là tiêu chuẩn và phổ quát nhất của đạo đức xã hội. Một xã hội chỉ có công bằng thôi chưa đủ, mà công bằng ấy phải được hướng dẫn bằng tình yêu thì mới có giá trị, xã hội mới thật sự nhân đạo. Bởi vì, tình yêu cao hơn công bằng; tình yêu thì “nhẫn nhục, hiền hậu” (1Cr 13,4). Tình yêu thương dành cho tha nhân phải là điểm tham chiếu trung tâm cho tất cả mọi hoạt động của xã hội. Cũng thế, tình yêu thương phải là trung tâm điểm, là nền tảng của đời sống và mọi hoạt động của cộng đoàn tu trì. Hay nói cách khác, tình yêu thương chính là phẩm chất của nhân cách đời tu. Không có nơi nào cần thể hiện tình yêu thương cho bằng nơi cộng đoàn tu trì, vì nơi bản thân mỗi người trong cộng đoàn tu trì phải là chứng tá tình yêu của Chúa ở trần gian.

Một cộng đoàn sống bình an, hạnh phúc là một cộng đoàn có tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta phải cụ thể hóa tình yêu ấy qua việc yêu mến chị em trong cộng đoàn vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và tình yêu đó phải là chất keo kết dính mọi khoảng cách. Một cộng đoàn không có tình yêu không thể nói đến chuyện tha thứ, không thể có sự thấu cảm, không thể hiệp nhất và khó tìm đâu ra sự tôn trọng.

Nhưng ngược lại, một cộng đoàn sống yêu thương là một cộng đoàn trong đó tất cả cá thành viên sống chân thành với nhau, không ngại dấn thân hết mình cho nhau, hy sinh cho nhau, hiện diện với nhau, chấp nhận con người và tôn trọng tự do của nhau, lắng nghe nhau, cầu nguyện cho nhau, cùng nhau lớn mạnh và cộng hưởng.

Tình yêu không chỉ giúp chúng ta biết sống công bằng mà hết lòng ước mong làm những điều tốt đẹp nhất cho nhau, hướng đến thiện ích toàn diện cho tất cả mọi người, như thánh Tôma Aquinô đã nhận định: “Tình yêu vui mừng trước điều thiện hảo; đối tượng của tình yêu là điều tốt đẹp. Yêu mến ai nghĩa là mong điều tốt lành cho người đó”.

Khi chúng ta sống đúng và sống trọn vẹn hai chữ yêu thương, chắc chắn đời sống chúng ta luôn được bình an và đời sống cộng đoàn luôn tươi trẻ, hạnh phúc.

Tóm lại, các nguyên tắc và các giá trị của Học thuyết xã hội Công Giáo không gì khác hơn là nhìn nhận, tôn trọng và thăng hoa phẩm giá con người, bởi vì “con người là con đường của Giáo Hội” (x. RH, số 14). Cộng đoàn tu trì phải là nơi thể hiện, biểu lộ rõ nhất điều đó.

Thật thế, đời sống cộng đoàn luôn có những thách đố và khủng hoảng. Hành trình bước theo Chúa cũng tồn tại nhiều nghi ngờ và e ngại. Dấn thân theo Đức Kitô, để trở thành người môn đệ đích thực của Người cũng thật chông gai và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một hướng đi nào đó thích hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc.

Thế nhưng, điều này không phải là chuyện của một sớm một chiều, vì con người thì giới hạn mà khát vọng lại vô cùng. Vì thế, cộng đoàn tu trì cũng như mỗi tu sĩ được gọi mời đón nhận và thực thi các nguyên tắc và các giá trị nền tảng trên, như những bậc thang để bước lên trên tiến trình nên thánh trong ơn gọi của mình, nhất là trong đời sống tu đức và đời sống tâm linh. Các nguyên tắc và các giá trị được Học thuyết xã hội của Giáo Hội đề ra luôn là những định hướng quan trọng và thiết thực để áp dụng vào đời sống xã hội đời thường cũng như xã hội đời tu.

Đó cũng chính là những con đường giúp người tu sĩ đạt tới điều quan trọng và thiết yếu cuối cùng, đó là chúng ta luôn lấy Chúa làm trung tâm cho đời sống của mình, luôn khao khát tìm kiếm Chúa nơi tha nhân và trong mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống.

Nữ tu Anna Phạm Thị Kim Oanh

(Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình Thương)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 14/01/2019: Diễn từ của Đức Thánh Cha trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
14:21 13/01/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Hôm thứ Hai 7 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ thường niên với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Trong dịp này, ngài đã đọc một thông điệp quan trọng. Các thông điệp của Đức Thánh Cha trước ngoại giao đoàn luôn được chú ý rộng rãi vì nó phản ảnh nhận định của Tòa Thánh đối với tình hình thế giới hiện nay. Chẳng hạn như thông điệp năm ngoái 2018, năm thế giới kỷ niệm 70 năm Tuyên ngôn Nhân quyền, Đức Thánh Cha đã dùng dịp này để nhắc nhở toàn thế giới về tình trạng vi phạm quyền con người trong thiên niên kỷ thứ ba này, đặc biệt là quyền sống.

Trong chương trình này chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các nội dung thông điệp năm nay đề cập đến.

1. Các thỏa hiệp trong năm qua, trường hợp Việt Nam và Trung Quốc

Mở đầu diễn từ năm nay Đức Thánh Cha nói:

Thưa quý vị,

Sự khởi đầu của một năm mới cho phép chúng ta ngưng lại tốc độ điên cuồng của các hoạt động hàng ngày trong một vài khoảnh khắc ngõ hầu có thể ôn lại các biến cố trong những tháng vừa qua và suy tư về những thách đố chúng ta phải đối mặt trong tương lai gần. Tôi cảm ơn các bạn vì sự hiện diện đông đảo của bạn tại cuộc họp mặt thường niên này; điều này mang đến một cơ hội chào đón để chúng ta trao đổi những lời chào thân ái và những lời chúc lành với nhau. Thông qua các bạn, tôi muốn gởi đến những dân tộc mà các bạn đại diện sự gần gũi và hy vọng trong lời cầu nguyện của tôi rằng năm mới vừa bắt đầu sẽ mang đến bình an và thịnh vượng cho mỗi thành viên trong gia đình nhân loại.

Tôi rất biết ơn ngài George Poulides, Đại sứ của đảo Sip vì những lời ưu ái dành cho tôi nhân danh các bạn trong lần đầu tiên ngài là Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Đối với mỗi người trong các bạn, tôi muốn bày tỏ sự đánh giá cao về những nỗ lực hàng ngày của các bạn để củng cố mối quan hệ giữa các quốc gia và các tổ chức mà các bạn đại diện với Tòa Thánh, đặc biệt hơn nữa là qua việc ký kết hay phê chuẩn các thỏa hiệp mới.

Tôi đặc biệt nghĩ đến việc phê chuẩn Hiệp Định Khung giữa Tòa Thánh và Cộng Hòa Benin liên quan đến Tình trạng Pháp lý của Giáo Hội Công Giáo tại Benin, và việc ký kết Thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Cộng hòa San Marino liên quan đến việc Giảng dạy niềm tin Công Giáo trong các trường công lập.

Trong lĩnh vực đa phương, Tòa Thánh cũng đã phê chuẩn Công ước khu vực Á châu -Thái Bình Dương của UNESCO về việc công nhận các bằng cấp Đại Học. Tháng 3 năm ngoái, Tòa Thánh đã gắn bó với Thỏa Thuận Mở Rộng Từng Phần Các Tuyến Đường Văn Hóa của Hội đồng Âu châu [cho đến hết năm 2018, đã có 33 tuyến đường văn hóa, đó là các lộ trình du lịch dẫn đến các địa điểm có tính lịch sử, di sản văn hóa tại Âu Châu – chú thích của người dịch]; đó là một sáng kiến cho thấy văn hóa có thể được sử dụng như thế nào để phục vụ hòa bình và là một phương thức thống nhất các xã hội dị biệt tại Âu châu, qua đó thúc đẩy sự hòa hợp giữa các dân tộc. Đây là một điểm son đáng tự hào một cách đặc biệt đối với một tổ chức kỷ niệm bảy mươi năm thành lập vào năm nay. Tòa Thánh cũng đã hợp tác với Hội đồng Âu châu trong nhiều thập kỷ qua, và công nhận vai trò đặc thù của tổ chức này trong việc thúc đẩy nhân quyền, dân chủ và pháp lý trong một khu vực sẽ bao trùm toàn bộ Âu Châu. Cuối cùng, vào ngày 30 tháng 11 vừa qua, quốc gia thành Vatican đã được chấp nhận vào Khu vực Thanh toán Duy nhất bằng đồng Euro (SEPA) [SEPA là sáng kiến cho phép người dân Âu Châu có thể dùng một trương mục ngân hàng duy nhất để chi trả hay nhận tiền Euro từ bất cứ quốc gia nào trong Liên Hiệp Âu Châu – chú thích của người dịch].

Lòng trung tín đối với sứ mệnh thiêng liêng dựa trên lệnh truyền của Chúa Giêsu dành cho Tông Đồ Phêrô “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21,15), thúc đẩy Giáo hoàng – và kế đó là Tòa Thánh, bày tỏ sự quan tâm đối với toàn thể gia đình nhân loại và nhu cầu của nó, bao gồm cả những nhu cầu về vật chất và trật tự xã hội. Tuy nhiên, Tòa Thánh không có ý định can thiệp vào cuộc sống của các quốc gia; thay vào đó Tòa Thánh tìm cách trở thành một người chăm chú lắng nghe, nhạy cảm với các vấn đề của nhân loại, từ một mong muốn chân thành và khiêm nhường là phục vụ mọi người nam nữ.

Quan tâm ấy có thể thấy được trong cuộc gặp gỡ hôm nay của chúng ta; và linh hứng cho các cuộc gặp gỡ của tôi với những người hành hương đến Vatican từ khắp nơi trên thế giới, cũng như những lần gặp gỡ với các dân tộc và các cộng đồng mà tôi hân hạnh được viếng thăm trong năm qua trong các chuyến tông du đến Chí Lợi, Pêru, Thụy Sĩ, Ái Nhĩ Lan, Lithuania, Latvia và Estonia

Mối quan tâm tương tự cũng đã dẫn dắt Giáo hội ở khắp mọi nơi đến việc hoạt động cho sự phát triển của các xã hội hòa bình và hòa giải. Ở đây, tôi đặc biệt nghĩ đến Nicaragua thân yêu. Tôi hằng chú tâm theo dõi tình hình tại đây trong hy vọng của lời cầu nguyện rằng các nhóm chính trị và xã hội khác nhau có thể tìm thấy trong đối thoại con đường tuyệt vời mang đến phúc lợi cho toàn thể quốc gia.

Đây là bối cảnh cho mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, với viễn ảnh bổ nhiệm, trong tương lai gần, của một Đại diện Giáo hoàng thường trú, mà sự hiện diện của ngài trên hết sẽ là một dấu chỉ ủi an của Người kế vị Thánh Phêrô cho Giáo hội địa phương.

Đó cũng là bối cảnh của việc ký kết Thỏa Thuận Tạm Thời giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc bổ nhiệm các Giám mục ở Trung Quốc, diễn ra vào ngày 22 tháng 9 vừa qua. Như các bạn đã biết, Thỏa thuận đó là kết quả của một cuộc đối thoại định chế kéo dài và thận trọng nhằm tìm cách xác định các yếu tố hợp tác ổn định giữa Tòa Thánh và các nhà chức trách dân sự. Như tôi đã lưu ý trong Thông điệp gởi cho người Công Giáo tại Trung Quốc và trên toàn thế giới, [1] Tôi đã chấp nhận vào tình hiệp thông giáo hội hoàn toàn các giám mục chính thức còn lại đã được tấn phong mà không có sự phê chuẩn của giáo hoàng, và thúc giục họ hoạt động quảng đại cho việc hòa giải giữa những người Công Giáo Trung Quốc với nhau, và cho một nỗ lực đổi mới việc truyền giáo. Tôi cảm ơn Chúa rằng, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, tất cả các giám mục ở Trung Quốc đã hiệp thông trọn vẹn với Người kế vị Thánh Phêrô và với Giáo hội hoàn vũ. Một dấu chỉ rõ ràng về điều này là sự tham dự của hai giám mục từ Hoa lục trong Thượng hội đồng gần đây về giới trẻ. Hy vọng rằng các liên lạc tiếp theo liên quan đến việc áp dụng Thỏa Thuận Tạm Thời sẽ giúp giải quyết những vấn đề còn bỏ ngỏ và tạo ra không gian cần thiết cho việc an hưởng tự do tôn giáo một cách thiết thực.

2. Những ngày kỷ niệm trong năm 2019

Các vị Đại sứ thân mến,

Năm vừa mới bắt đầu có một số lễ kỷ niệm quan trọng, ngoài lễ kỷ niệm Hội đồng Châu Âu, mà tôi đã đề cập ở trên. Trong số này, tôi muốn nêu lên một lễ đặc biệt: đó là lễ kỷ niệm một trăm năm Hội Quốc Liên, được thành lập bởi Hiệp ước Versailles, ký ngày 28 tháng 6 năm 1919. Tại sao tôi lại đề cập đến một tổ chức mà ngày nay không còn tồn tại? Bởi vì nó đại diện cho sự khởi đầu của nền ngoại giao đa phương hiện đại, theo đó các quốc gia cố gắng tách biệt mối liên hệ hỗ tương của họ ra khỏi não trạng thống trị từng dẫn đến chiến tranh. Thử nghiệm Hội Quốc Liên nhanh chóng gặp phải những khó khăn nổi tiếng mà đúng hai mươi năm sau khi ra đời đã dẫn đến một cuộc xung đột mới và tàn khốc hơn, đó là Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên, thử nghiệm đó đã mở đường cho việc thành lập vào năm 1945 Tổ chức Liên Hiệp Quốc. Chắc chắn, cách đó vẫn còn đầy khó khăn và trở ngại, cũng không phải lúc nào cũng hữu hiệu, vì các xung đột vẫn còn dai dẳng cho đến ngày nay, nhưng không thể phủ nhận rằng nó cung cấp cơ hội cho các quốc gia gặp gỡ và tìm kiếm các giải pháp chung.

Một điều kiện không thể thiếu cho sự thành công của nền ngoại giao đa phương là thiện chí và ý hướng tốt của các bên, sự sẵn sàng của họ trong việc cư xử với nhau một cách công bằng và trung thực, và sự cởi mở của họ, sẵn sàng chấp nhận các thỏa hiệp không thể tránh khỏi phát sinh từ các tranh chấp. Bất cứ khi nào dù chỉ một trong các yếu tố này thiếu đi, thì kết quả sẽ là tìm kiếm các giải pháp đơn phương và cuối cùng, sự thống trị của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Hội Quốc Liên đã thất bại vì những lý do này, và người ta lưu ý với sự hối tiếc rằng cùng những thái độ như thế hiện đang đe dọa sự ổn định của các tổ chức quốc tế lớn.

Trong tâm trí tôi, điều quan trọng là cả ngày nay nữa, người ta cũng không nên giảm bớt ước muốn có được các cuộc thảo luận thanh thản và mang tính xây dựng giữa các quốc gia. Tuy nhiên, rõ ràng là các mối liên hệ trong cộng đồng quốc tế và toàn bộ hệ thống đa phương đang gặp một thời kỳ khó khăn, với việc tái xuất hiện của các khuynh hướng duy quốc gia đi ngược lại ơn gọi của các Tổ chức quốc tế phải là một khung cảnh để đối thoại và gặp gỡ cho mọi quốc gia. Điều này một phần là do hệ thống đa phương không có khả năng đưa ra các giải pháp hữu hiệu cho một số tình huống chưa được giải quyết lâu dài, như một số vụ xung đột kéo dài hoặc đối đầu với các thách thức hiện tại một cách làm thỏa mãn mọi người. Một phần, nó cũng là kết quả của sự phát triển các chính sách quốc gia được xác định nhiều hơn bởi việc tìm kiếm sự đồng thuận nhanh chóng có tính bè phái hơn là việc kiên nhẫn theo đuổi ích chung bằng cách cung ứng các giải pháp dài hạn. Một phần, nó cũng là kết quả của ảnh hưởng ngày càng tăng trong các cơ quan quyền lực và các nhóm lợi ích muốn áp đặt viễn kiến và các ý niệm của riêng họ, làm dấy lên các hình thức thực dân ý thức hệ mới lạ, thường coi thường bản sắc, phẩm giá và các nhạy cảm của các dân tộc. Một phần, nó cũng là hậu quả của phản ứng ở một số nơi trên thế giới đối với việc hoàn cầu hóa, việc mà ở một số khía cạnh đã phát triển quá nhanh và vô trật tự, dẫn đến chỗ căng thẳng giữa việc hoàn cầu hóa và các thực tại địa phương. Chiều kích hoàn cầu phải được xem xét mà không bao giờ được quên chiều kích địa phương. Như một phản ứng đối với ý niệm hoàn cầu hóa có tính “hình cầu” (spherical), một ý niệm san bằng các dị biệt và giảm thiểu các điểm đặc thù, quả rất dễ để các hình thức của chủ nghĩa duy quốc gia tái hiện. Tuy nhiên, hoàn cầu hóa có thể được chứng minh là có tính hứa hẹn bao lâu nó mang hình thức đa diện (polyhedric), tạo điều kiện cho sự tương tác tích cực giữa bản sắc các dân tộc và quốc gia cá thể và chính việc hoàn cầu hóa, phù hợp với nguyên tắc: toàn bộ lớn hơn từng phần.

Một số các thái độ trên quay trở lại thời kỳ giữa hai Thế chiến, khi các đòi hỏi dân túy và duy quốc gia tỏ ra mạnh mẽ hơn hoạt động của Hội Quốc Liên. Sự tái xuất hiện của những xung lực này ngày nay đang ngày càng làm suy yếu hệ thống đa phương, dẫn đến sự thiếu tin tưởng chung, cuộc khủng hoảng uy tín trong đời sống chính trị quốc tế và dần dần đẩy qua bên lề t các thành viên dễ bị tổn thương nhất trong gia đình các quốc gia.

Trong diễn văn đáng nhớ của mình tại Liên Hiệp Quốc - lần đầu tiên một vị Giáo hoàng phát biểu trước Hội đồng đó – Thánh Phaolô VI, người mà tôi có niềm vui được phong thánh cho ngài vào năm ngoái, đã nói về mục đích của nền ngoại giao đa phương, các đặc điểm và trách nhiệm của nó trong bối cảnh đương thời, mà cả về các điểm tiếp xúc của nó với sứ mệnh thiêng liêng của Giáo hoàng và do đó của Tòa thánh.

3. Tính tối thượng của công lý và pháp luật

Điểm tiếp xúc đầu tiên mà tôi muốn đề cập đến là tính tối thượng của công lý và pháp luật. Như Đức Giáo Hoàng Phaolô đã nói với Hội Đồng: “ Qúy vị phê chuẩn nguyên tắc vĩ đại này: các mối liên hệ giữa các quốc gia phải được điều chỉnh bằng lý trí, công lý, luật pháp, đàm phán, chứ không bằng sức mạnh, cũng không bằng bạo lực, sức mạnh, chiến tranh, cũng không bằng sự sợ hãi và lừa dối”.

Hiện nay, điều gây bối rối là thấy sự tái xuất hiện của các xu hướng muốn áp đặt và theo đuổi lợi ích quốc gia cá thể mà không cần phải sử dụng tới các công cụ do luật pháp quốc tế cung cấp để giải quyết các tranh cãi và đảm bảo rằng công lý được tôn trọng, cũng thông qua các Tòa án quốc tế. Một thái độ như vậy đôi khi là kết quả của một phản ứng từ phía các nhà lãnh đạo chính phủ đối với sự khó chịu ngày càng gia tăng giữa các công dân của không ít quốc gia, những người coi các thủ tục và quy tắc quản lý cộng đồng quốc tế là chậm chạp, trừu tượng và cuối cùng bị loại khỏi chính các nhu cầu thực sự của họ. Điều phù hợp là các nhà lãnh đạo chính trị lắng nghe tiếng nói của các khu vực bầu cử của họ và tìm kiếm các giải pháp cụ thể để cổ vũ lợi ích lớn hơn của họ. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải tôn trọng luật pháp và công lý cả trong cộng đồng quốc gia của họ lẫn trong cộng đồng quốc tế, vì các giải pháp phản động, đầy tính xúc cảm và vội vàng rất có thể thu được sự đồng thuận ngắn hạn, nhưng chắc chắn chúng sẽ không giúp giải quyết các vấn đề sâu sắc hơn; thật vậy, chúng sẽ làm các vấn đề này ra trầm trọng hơn.

Dưới góc độ của sự quan tâm này, tôi đã chọn dành cho Thông điệp của tôi nhân Ngày Hòa bình Thế giới năm nay, được tổ chức vào ngày 1 tháng Giêng, chủ đề này: Nền chính trị tốt phục vụ Hòa bình. Có một mối tương quan chặt chẽ giữa nền chính trị tốt và sự chung sống hòa bình của các dân tộc và các quốc gia. Hòa bình không bao giờ là một thiện ích phiến diện, mà là một thiện ích bao trùm toàn bộ loài người. Do đó, một khía cạnh chủ yếu của chính trị tốt là theo đuổi lợi ích chung của mọi người, bao lâu nó là thiện ích của mọi người và của toàn bộ con người và là một điều kiện của xã hội cho phép mọi cá nhân và cộng đồng như một toàn thể đạt được hạnh phúc vật chất và tinh thần thích đáng của họ.

Chính trị phải có tầm nhìn xa chứ không giới hạn vào việc tìm kiếm các giải pháp ngắn hạn. Một chính trị gia tốt không nên chiếm không gian mà là khởi diễn các diễn trình; họ được kêu gọi làm cho sự hợp nhất thắng thế xung đột, dựa trên “tình liên đới theo nghĩa sâu sắc và thách thức nhất của nó”. Do đó, chính trị trở thành “cách tạo ra lịch sử trong khung cảnh sống trong đó, các cuộc xung đột, chia rẽ và đối lập có thể đạt được một sự hợp nhất đa dạng và mang lại sự sống”.

Cách tiếp cận như vậy tính đến chiều kích siêu việt của con người nhân bản, được tạo nên theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa. Do đó, tôn trọng phẩm giá của mỗi con người nhân bản là tiền đề không thể thiếu cho mọi cuộc chung sống hòa bình thực sự, và luật pháp trở thành phương tiện chủ yếu để đạt được công bằng xã hội và nuôi dưỡng các mối liên hệ anh em giữa các dân tộc. Trong bối cảnh này, vai trò căn bản được đảm nhiệm bởi các nhân quyền được nêu rõ trong Tuyên ngôn Nhân quyền, mà chúng ta vừa tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ bảy mươi của nó. Mục tiêu phổ quát và bản chất hợp lý của các quyền này phải được tái khẳng định một cách đúng đắn, kẻo các tầm nhìn phiến diện và chủ quan về nhân loại có nguy cơ dẫn đến những hình thức bất bình đẳng, bất công, kỳ thị và trong những trường hợp cực đoan, cả các hình thức mới của bạo lực và áp chế.

4. Bảo vệ những người dễ bị tổn thương

Điểm tiếp xúc thứ hai mà tôi muốn đề cập là việc bảo vệ những người yếu thế nhất. Theo lời Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục: “Chúng tôi lên tiếng thay cho người nghèo, người bị khinh miệt, người bất hạnh và những người khao khát công lý, một cuộc sống đúng phẩm giá, tự do, thịnh vượng và tiến bộ”.

Giáo Hội vẫn luôn dấn thân trong việc cứu giúp những người quẫn bách và chính Tòa Thánh, trong những năm qua, đã cổ võ nhiều dự án bênh vực những người yếu thế nhất, những dự án ấy cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều tác nhân quốc tế. Trong số những dự án này, tôi muốn đề cập đến sáng kiến nhân đạo tại Ukraine cho dân chúng đang đau khổ, nhất là tại miền Đông của nước này, vì cuộc xung đột kéo dài gần 5 năm qua, và có những biến chuyển đáng lo âu gần đây trong khu vực Biển Đen. Nhờ sự tham gia tích cực của các Giáo Hội Công Giáo ở Âu Châu và của các tín hữu tại các nơi khác trên thế giới, theo lời kêu gọi của tôi hồi tháng 5 năm 2016, cùng với sự cộng tác của các cộng đoàn Giáo Hội khác và các tổ chức quốc tế, nhằm đáp ứng một cách cụ thể những nhu cầu cấp thiết của người dân tại những vùng bị nạn, là những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh. Giáo Hội và các tổ chức khác nhau của mình sẽ theo đuổi sứ mệnh này, với hy vọng thu hút sự chú ý lớn hơn đến các vấn đề nhân đạo khác, bao gồm cả việc đối xử với con số đông đảo các tù binh. Qua các hoạt động và sự gần gũi với các dân tộc liên hệ, Giáo Hội cố gắng khích lệ, trực tiếp hay gián tiếp, những nẻo đường hòa bình dẫn đến một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, những nẻo đường tôn trọng công lý và luật pháp, bao gồm cả công pháp quốc tế là cơ sở cho an ninh và sự sống chung trong toàn khu vực. Hướng đến mục tiêu này, những khí cụ bảo đảm việc tự do thi hành các quyền tự do tôn giáo vẫn rất quan trọng.

Về phần mình, cộng đồng quốc tế và các cơ quan phối thuộc được kêu gọi để lên tiếng cho những người không có tiếng nói. Trong số những người không có tiếng nói trong thời đại chúng ta, tôi muốn đề cập đến những nạn nhân của các cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn, đặc biệt là ở Syria với con số thương vong quá cao. Một lần nữa, tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế thúc đẩy một giải pháp chính trị cho một cuộc xung đột mà tối hậu chỉ cho thấy hàng loạt những thất bại. Điều quan trọng là phải chấm dứt các hành vi chà đạp luật nhân đạo, gây ra những đau khổ khôn tả cho thường dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, và tấn công vào các cấu trúc thiết yếu như bệnh viện, trường học và trại tị nạn, cũng như các cơ sở tôn giáo.

Chúng ta cũng không thể quên nhiều người bị di dời do cuộc xung đột này; điều này đã gây ra khó khăn lớn cho các nước láng giềng. Một lần nữa, tôi bày tỏ lòng biết ơn của mình đến Jordan và Li Băng vì đã đón nhận con số đông đảo những người tị nạn trong một tinh thần huynh đệ, với một sự hy sinh đáng kể. Đồng thời, tôi cũng hy vọng rằng những người tị nạn sẽ có thể trở về quê hương trong những điều kiện sống an toàn và đúng phẩm giá. Suy nghĩ của tôi cũng hướng đến nhiều quốc gia Âu châu đã hào phóng trao ra lòng hiếu khách cho những người gặp khó khăn và nguy hiểm.

Trong số những người bị ảnh hưởng bởi sự mất ổn định ghi dấu lên Trung Đông trong nhiều năm qua, tôi đặc biệt nghĩ đến các cộng đồng Kitô đã cư ngụ ở những vùng đất này từ thời các thánh tông đồ, và xuyên suốt nhiều thế kỷ đã đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển của những vùng đất ấy. Điều hết sức quan trọng là các Kitô hữu phải có một vị thế nhất định trong tương lai của khu vực này, và vì vậy tôi khuyến khích tất cả những người đã tìm nơi ẩn náu ở những nơi khác hãy làm mọi cách để trở về quê hương mình và trong mọi biến cố hãy duy trì và củng cố những liên hệ với các cộng đồng nguồn gốc của mình. Đồng thời, tôi bày tỏ hy vọng rằng các nhà lãnh đạo chính trị sẽ bảo đảm an toàn cho họ và cho tất cả những ai cần được bảo vệ, sao cho họ có thể tiếp tục sống trong các quốc gia này với đầy đủ quyền công dân, và đóng góp cho sự tăng trưởng của họ.

Đáng buồn thay, trong những năm qua, Syria và nói chung là toàn bộ Trung Đông đã trở thành một chiến trường cho nhiều lợi ích đối kháng. Ngoài những lợi ích có bản chất chính trị và quân sự, chúng ta không nên xem thường những nỗ lực gây ra sự thù địch giữa người Hồi giáo và các Kitô hữu. Bất kể là “trong nhiều thế kỷ, nhiều cuộc tranh cãi và bất đồng đã nảy sinh giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo”, tại các khu vực khác nhau của Trung Đông, họ đã sống trong hòa bình với nhau. Trong tương lai gần, tôi sẽ có dịp đến thăm hai quốc gia nơi người Hồi giáo chiếm đa số là Marốc và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Hai chuyến đi này tiêu biểu cho hai cơ hội quan trọng để thúc đẩy đối thoại liên tôn và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tín hữu của hai tôn giáo, trong năm kỷ niệm tám trăm năm cuộc gặp lịch sử giữa Thánh Phanxicô thành Assisi và Quốc Vương al-Malik al-Kāmil.

Trong số những người dễ bị tổn thương trong thời đại chúng ta, cộng đồng quốc tế được kêu gọi bảo vệ không chỉ những người tị nạn thôi mà cả những người di cư nữa. Một lần nữa, tôi kêu gọi các chính phủ cung cấp các trợ giúp cho tất cả những người bị buộc phải di cư vì tai ương nghèo đói và các hình thức bạo lực và đàn áp đa dạng, cũng như vì thảm họa thiên nhiên và những xáo trộn khí hậu, và tạo điều kiện cho các biện pháp nhắm đến việc hội nhập xã hội của họ ở các nước tiếp cư. Những nỗ lực cũng cần được thực hiện sao cho các cá nhân không bị buộc phải từ bỏ gia đình và đất nước của họ, và cho phép họ trở về an toàn với một sự tôn trọng hoàn toàn nhân phẩm và nhân quyền của họ. Tất cả mọi người đều mong muốn có một cuộc sống tốt hơn và thịnh vượng hơn, và thử thách di cư không thể được giải quyết với một não trạng bạo lực và thờ ơ, hay đơn thuần là các giải pháp nửa vời.

Do đó, tôi không thể không bày tỏ sự đánh giá cao về những nỗ lực của tất cả các chính phủ và các tổ chức, được thúc đẩy bởi một ý thức quảng đại về tình liên đới và bác ái Kitô giáo, hợp tác trong tinh thần huynh đệ vì lợi ích của người di cư. Trong số này, tôi muốn đề cập đến Colombia, cùng với các quốc gia khác trong lục địa, đã chào đón trong những tháng gần đây, một dòng người đông đảo đến từ Venezuela. Đồng thời, tôi nhận ra rằng làn sóng di cư trong những năm gần đây đã gây ra sự lúng túng và lo ngại của người dân ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Âu Châu và Bắc Mỹ, và điều này đã khiến nhiều chính phủ hạn chế nghiêm ngặt số người nhập cư, thậm chí cả những người quá cảnh. Tuy nhiên, tôi không tin rằng các giải pháp nửa vời như thế có thể tồn tại lâu dài đối với một vấn đề quá phổ quát như vậy. Các sự kiện gần đây đã cho thấy sự cần thiết phải có một phản ứng chung, được phối hợp bởi tất cả các quốc gia, không có ngoại lệ nào và tôn trọng mọi nguyện vọng chính đáng, cho dù là của các quốc gia hay của người di cư và người tị nạn.

Về vấn đề này, Tòa Thánh đã tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán và ủng hộ việc thông qua hai Hiệp định Toàn cầu về Người tị nạn và Di cư An toàn, Trật tự và Điều hòa. Đặc biệt, Hiệp định Di dân thể hiện một bước tiến quan trọng đối với cộng đồng quốc tế, mà giờ đây, là một tài liệu có tầm quan trọng trong bối cảnh Liên Hiệp Quốc lần đầu tiên giải quyết ở cấp độ đa phương chủ đề này. Bất kể thực tế là các hiệp định này không có những ràng buộc về mặt pháp lý và một số chính phủ đã vắng mặt trong các Hội nghị Liên Hiệp Quốc gần đây ở Marrakesh, hai hiệp định này sẽ đóng vai trò là các điểm tham chiếu quan trọng cho cam kết chính trị và hành động cụ thể đối với các tổ chức quốc tế, các nhà lập pháp và các chính trị gia, cũng như tất cả những người làm việc cho việc giải quyết một cách có trách nhiệm hơn, phối hợp hơn và an toàn hơn trong các tình huống liên quan đến người tị nạn và người di cư các loại. Trong trường hợp của cả hai Hiệp định này, Tòa Thánh đánh giá cao ý định và tính cách của chúng, tạo điều kiện cho việc thực hiện chúng; nhưng đồng thời, Tòa Thánh cũng bày tỏ sự dè dặt đối với các tài liệu được nêu ra bởi Hiệp định về di cư trong đó chứa đựng các thuật ngữ và những hướng dẫn không phù hợp với các nguyên tắc của Tòa Thánh về sự sống và nhân quyền.

Trong số những người dễ bị tổn thương khác, Đức Phaolô Đệ Lục nói tiếp rằng: “Chúng tôi lên tiếng cho thế hệ trẻ ngày nay, những người đang tiến về phía trước với niềm tin tưởng, với mọi quyền để mong đợi một nhân loại tốt hơn.” Những người trẻ tuổi, những người thường cảm thấy hoang mang và bất định về tương lai, là chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên thứ 15. Họ cũng sẽ ở tuyến đầu trong chuyến tông du mà tôi sẽ thực hiện tại Panama trong vài ngày nữa trong khuôn khổ Ngày Giới trẻ Thế giới thứ 34. Giới trẻ là tương lai của chúng ta, và nhiệm vụ của các chính trị gia là mở đường cho tương lai của họ. Vì thế, cần khẩn cấp đầu tư vào các sáng kiến có thể cho phép các thế hệ sắp tới định hình tương lai của họ, với khả năng tìm được việc làm, thành lập gia đình và nuôi dạy con cái.

Cùng với những người trẻ tuổi, cần đặc biệt chú ý đến trẻ em, đặc biệt là trong năm nay, là năm kỷ niệm ba mươi năm ngày thông qua Công ước về Quyền trẻ em. Đây là một dịp tốt để suy tư một cách nghiêm chỉnh về các bước cần thực hiện để bảo vệ phúc lợi của những người nhỏ bé của chúng ta cũng như sự phát triển xã hội và trí tuệ của họ, cùng với sự phát triển về thể chất, tâm lý và tinh thần của các em. Ở đây tôi không thể không nói về một trong những tai họa của thời đại chúng ta, điều đáng buồn là cũng có sự tham gia của một số thành viên trong hàng giáo sĩ. Lạm dụng trẻ vị thành niên là một trong những tội ác ghê tởm và tàn bạo nhất có thể tưởng tượng được. Sự lạm dụng như vậy vô tình cuốn đi những gì tốt đẹp nhất mà cuộc sống nhân loại dành cho những đứa trẻ vô tội này, và gây ra những thiệt hại không thể khắc phục và kéo dài suốt đời chúng. Tòa Thánh và toàn thể Giáo hội đang nỗ lực chống lại và ngăn chặn những tội ác và sự che giấu những tội ác này, để xác định sự thật về các sự kiện liên quan đến hàng giáo sĩ và đem lại công lý cho những trẻ vị thành niên đã phải chịu đựng bạo lực tình dục gia trọng thêm bởi sự lạm dụng quyền hành và lương tâm. Cuộc gặp gỡ của tôi với các giám mục của toàn thế giới vào tháng Hai tới là một bước tiến nữa trong những nỗ lực của Giáo Hội nhằm làm sáng tỏ sự thật và làm giảm bớt những vết thương do những tội ác đó gây ra.

Thật đau đớn khi nhận thấy rằng trong các xã hội của chúng ta, quá thường bị ghi dấu bởi các tình huống gia đình bấp bênh, chúng ta thấy sự gia tăng bạo lực đối với phụ nữ, mà nhân phẩm đã được nhấn mạnh trong Tông Thư Muliers Dignitatem, được công bố ba mươi năm trước bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đối mặt với tai ương lạm dụng thể xác và tâm lý phụ nữ, có một nhu cầu cấp thiết cần phải khôi phục lại các hình thái quan hệ đúng đắn và cân bằng, dựa trên sự tôn trọng và công nhận lẫn nhau, trong đó mỗi người có thể thể hiện một cách chân thực căn tính của chính mình. Đồng thời, [cần phải cảnh giác rằng] việc thúc đẩy một số hình thái nhất định nhằm xóa nhòa sự khác biệt về giới tính có nguy cơ làm sai lệch bản chất của nam tính và nữ tính.

Mối quan tâm đối với những người dễ bị tổn thương nhất thúc đẩy chúng ta cũng phải suy nghĩ về một vấn đề nghiêm trọng khác trong thời đại chúng ta, đó là tình trạng của người lao động. Trừ khi được bảo vệ đầy đủ, công việc không còn là phương tiện tự hiện thực hóa của con người mà trở thành một hình thái nô lệ hiện đại. Một trăm năm trước nhân loại đã chứng kiến sự thành lập Tổ chức Lao động Quốc tế, nhằm tìm cách thúc đẩy các điều kiện làm việc phù hợp và đề cao phẩm giá của chính người lao động. Đối mặt với những thách thức của thời đại chúng ta, trước hết là sự tăng trưởng công nghệ, là điều đang loại bỏ nhiều công ăn việc làm và đang làm suy yếu các bảo đảm kinh tế và xã hội của người lao động, tôi bày tỏ hy vọng rằng Tổ chức Lao động Quốc tế sẽ tiếp tục, vượt lên trên những lợi ích đảng phái, để trở thành một tấm gương cho đối thoại và những nỗ lực phối hợp nhằm đạt được các mục tiêu cao cả của nó. Trong nhiệm vụ này, cùng với các cơ quan khác của cộng đồng quốc tế, tổ chức này được mời gọi để đối phó với tội ác lạm dụng lao động trẻ em và các hình thái nô lệ mới, cũng như một sự suy giảm giá trị của tiền lương, đặc biệt là ở các nước phát triển, và tình trạng tiếp tục phân biệt đối xử với phụ nữ tại nơi làm việc.

5. Hãy trở thành cầu nối giữa các dân tộc và những người kiến tạo hòa bình

Trong bài phát biểu trước Liên Hiệp Quốc, Thánh Phaolô Đệ Lục đã chỉ rõ mục tiêu chính của Tổ chức quốc tế đó. Ngài nói: “Các bạn đang làm việc để hiệp nhất các dân tộc, để liên kết các quốc gia với nhau để mang họ lại với nhau. Các bạn là cầu nối giữa các dân tộc. .. Đã quá đủ để nhắc nhớ rằng máu của hàng triệu người, cơ man những đau khổ chưa từng thấy, những vụ thảm sát vô dụng và những tàn tích đáng sợ đã cản trở hiệp ước kết hợp các bạn lại với nhau trong lời thề phải thay đổi tương lai của lịch sử thế giới: không bao giờ chiến tranh nữa! Không bao giờ chiến tranh nữa! Nhưng hòa bình, chính hòa bình phải hướng dẫn vận mệnh của các dân nước! [Và] như các bạn biết rõ, hòa bình không chỉ được xây dựng bằng các phương tiện chính trị và một sự cân bằng quyền lực và lợi ích. Nó phải được xây dựng bằng trí óc, bằng những ý tưởng, bằng những công việc của hòa bình.” [9]

Trong năm vừa qua, đã có một số dấu chỉ hòa bình đáng kể, bắt đầu từ thỏa thuận lịch sử giữa Ethiopia và Eritrea, chấm dứt hai mươi năm xung đột và khôi phục quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Bên cạnh đó còn có thỏa thuận được ký bởi các nhà lãnh đạo Nam Sudan, cho phép tái lập sự chung sống dân sự và đổi mới hoạt động của các thể chế quốc gia, thể hiện một dấu chỉ hy vọng cho lục địa Phi châu, nơi vẫn giằng dai những căng thẳng nghiêm trọng và nghèo đói lan rộng. Tôi đặc biệt quan tâm đến tình hình đang phát triển tại Cộng hòa Dân chủ Congo và tôi bày tỏ hy vọng rằng đất nước này có thể khôi phục sự hòa giải mà họ đã chờ đợi từ lâu và thực hiện một hành trình quyết định hướng đến phát triển, và như thế chấm dứt tình trạng bất an đang tiếp tục ảnh hưởng đến hàng triệu người, trong đó có nhiều trẻ em. Hướng đến mục tiêu này, việc tôn trọng kết quả của tiến trình bầu cử là yếu tố quyết định cho một nền hòa bình bền vững. Tôi cũng bày tỏ sự gần gũi với tất cả những người phải chịu đựng bạo lực của những kẻ cực đoan, đặc biệt là ở Mali, Niger và Nigeria, và những ai phải chịu những căng thẳng nội bộ liên tục ở Cameroon, nơi không hiếm khi gây ra cái chết ngay cả của các thường dân.

Nhìn chung, chúng ta nên lưu ý rằng Châu Phi, vượt lên trên những tình huống bi thảm như thế, vẫn cho thấy một tiềm năng tích cực to lớn, dựa trên nền văn hóa cổ truyền và tinh thần hiếu khách truyền thống của nó. Một ví dụ về tình liên đới thực tiễn giữa các quốc gia được nhìn thấy trong việc nhiều quốc gia mở cửa biên giới của họ để quảng đại tiếp nhận những người tị nạn và những người di tản. Một sự trân trọng cũng nên được thể hiện trước thực tế là ở nhiều quốc gia, chúng ta thấy gia tăng sự chung sống hòa bình giữa các tín hữu của các niềm tin khác nhau, cũng như sự thúc đẩy các sáng kiến chung của tình liên đới. Ngoài ra, việc thực hiện các chính sách hội nhập và việc đẩy mạnh các tiến trình dân chủ đang chứng tỏ có hiệu quả ở nhiều khu vực trong trận chiến chống bần cùng và thúc đẩy công bằng xã hội. Do đó, sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế càng trở nên cấp bách hơn trong việc nâng đỡ sự phát triển các cơ sở hạ tầng, thăng tiến các triển vọng cho các thế hệ tương lai và xóa dần các lĩnh vực bấp bênh nhất của xã hội.

Những dấu chỉ tích cực đang đến từ Bán đảo Triều Tiên. Tòa Thánh ủng hộ các cuộc đối thoại đang diễn ra và bày tỏ hy vọng rằng các cuộc đối thoại này cũng có thể giải quyết các vấn đề phức tạp hơn trong một thái độ xây dựng và do đó dẫn đến các giải pháp chung và lâu dài có khả năng bảo đảm tương lai phát triển và hợp tác cho toàn thể người dân Hàn Quốc và cho toàn bộ khu vực.

Tôi bày tỏ một hy vọng tương tự đối với Venezuela yêu dấu, rằng các phương tiện hòa bình được thực thi bởi các định chế có thể được tìm thấy ngõ hầu đem lại giải pháp cho cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội và kinh tế đang diễn ra, đó là những phương tiện có thể giúp đỡ tất cả những người đang chịu đựng những căng thẳng trong những năm gần đây và đem lại cho tất cả người dân Venezuela một chân trời hy vọng và hòa bình.

Tòa Thánh cũng bày tỏ hy vọng rằng cuộc đối thoại giữa người Do Thái và người Palestine sẽ được tái tục, để cuối cùng một thỏa thuận có thể đạt được, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cả hai dân tộc bằng cách bảo đảm sự chung sống của hai quốc gia và đạt đến một nền hòa bình đã được ao ước và chờ đợi quá lâu. Một cam kết thống nhất về phía cộng đồng quốc tế là vô cùng quan trọng và cần thiết để đạt được mục tiêu này, cũng như để thúc đẩy hòa bình trong toàn khu vực, đặc biệt là ở Yemen và Iraq, đồng thời đảm bảo rằng tất cả trợ giúp nhân đạo cần thiết đến được với cho tất cả những ai đang cần.

6. Tái suy nghĩ về vận mệnh chung của chúng ta, chạy đua vũ trang, môi trường

Cuối cùng, tôi sẽ đề cập đến một đặc điểm thứ tư của nền ngoại giao đa phương: nó mời gọi chúng ta suy nghĩ lại về vận mệnh chung của chúng ta. Thánh Phaolô Đệ Lục đã giải thích điều này với những lời sau: “Chúng ta phải làm quen với cách suy nghĩ mới về cuộc sống cộng đồng nhân loại và về con đường của lịch sử và vận mệnh thế giới. Đã đến lúc phải nghĩ lại về nguồn gốc chung, lịch sử, và vận mệnh chung của chúng ta. Lời mời gọi lương tâm luân lý của nhân loại chưa bao giờ cấp thiết như ngày nay, trong một thời đại được đánh dấu bởi sự tiến bộ quá vĩ đại như thế của con người. Vì sự nguy hiểm không phải đến từ những tiến bộ hay như từ khoa học. Mối nguy hiểm thực sự đến từ con người, là những kẻ đã nắm trong tay các công cụ mạnh hơn bao giờ, hoàn toàn có khả năng mang lại sự hủy hoại khi họ muốn đạt được những cuộc chinh phạt to lớn.” [10]

Trong bối cảnh thời đó, vị Giáo hoàng đã tham chiếu về cơ bản đến sự lan tràn của vũ khí hạt nhân. “Vũ khí, đặc biệt là các loại vũ khí khủng khiếp mà khoa học hiện đại đã cung cấp cho các bạn, khơi gợi những giấc mơ xấu, nuôi dưỡng những tình cảm độc ác, tạo ra những cơn ác mộng, sự thù địch và những quyết tâm đen tối, ngay cả trước khi chúng tạo ra bất kỳ nạn nhân và sự tàn phá nào. Chúng đòi hỏi những chi phí rất lớn. Chúng làm gián đoạn các dự án của tình liên đới và lao động hữu ích. Chúng làm phương hại triển vọng các quốc gia.” [11]

Thật đau đớn khi nhận thấy rằng nhân loại dường như không thể ngăn chặn nạn buôn bán vũ khí, mà trên thực tế quyết tâm đua nhau vũ trang đang lan rộng và phát triển, cả về phía cá nhân lẫn nhà nước. Điều đáng quan tâm đặc biệt là việc giải trừ hạt nhân, thường được kêu gọi và theo đuổi phần nào trong những thập kỷ gần đây hiện đang phải nhường bước cho việc tìm kiếm những thứ vũ khí mới, ngày càng tinh vi và có sức tàn phá kinh hoàng. Ở đây tôi muốn nhắc lại một cách khẳng định rằng, “chúng ta không thể không quan tâm một cách thực sự đến các tác động thảm khốc lên nhân loại và môi trường của việc sử dụng bất kỳ thiết bị hạt nhân nào. Nếu chúng ta cũng tính đến nguy cơ phát nổ vì tai nạn hay do những sai sót dưới bất kỳ hình thức nào, thì mối đe dọa sử dụng cũng như việc thủ đắc các phương tiện hạt nhân phải bị lên án một cách mạnh mẽ. Chúng tồn tại nhằm gây ra một tâm lý sợ hãi không chỉ đối với các phe trong những cuộc xung đột mà còn làm kinh sợ toàn bộ loài người. Quan hệ quốc tế không thể bị khống chế bởi sức mạnh quân sự, việc đe dọa lẫn nhau và việc diễu võ dương oai khoe khoang các kho dự trữ vũ khí. Vũ khí hủy diệt hàng loạt, đặc biệt là vũ khí hạt nhân, không tạo ra được điều gì khác hơn là một cảm giác an ninh giả tạo. Chúng không thể tạo thành cơ sở cho sự chung sống hòa bình giữa các thành viên trong gia đình nhân loại, là điều trái lại phải được linh hứng từ ý thức luân lý của tình liên đới.” [12]

Suy nghĩ lại về vận mệnh chung của chúng ta trong bối cảnh hiện tại cũng liên quan đến việc xem xét lại mối quan hệ của chúng ta với hành tinh của mình. Năm nay cũng vậy, những thất vọng và đau khổ mênh mông do mưa lớn, lũ lụt, hỏa hoạn, động đất và hạn hán đã đè nặng lên cư dân của các khu vực khác nhau tại Mỹ Châu và Đông Nam Á. Do đó, trong số các vấn đề khẩn cấp kêu gọi một sự đồng thuận trong cộng đồng quốc tế, chúng ta cần nhắc đến việc chăm sóc cho môi trường và việc biến đổi khí hậu. Về vấn đề này, cũng dưới ánh sáng của sự đồng thuận đạt được tại Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu (COP24) gần đây được tổ chức tại Katowice, tôi bày tỏ hy vọng về một cam kết quyết liệt hơn về phía các quốc gia nhằm tăng cường hợp tác để chống lại hiện tượng đáng lo ngại là sự nóng lên toàn cầu. Trái đất thuộc về tất cả mọi người, và hậu quả của việc khai thác nó ảnh hưởng đến tất cả các dân tộc trên thế giới, cho dù chỉ một số khu vực nhất định cảm thấy những hậu quả đó nghiêm trọng hơn. Một trong số miền như thế là khu vực Amazon, sẽ là trung tâm của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt sắp tới được tổ chức tại Vatican vào tháng 10 tới đây. Cố nhiên Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ thảo luận chủ yếu về các con đường truyền giáo cho dân Chúa. Tuy nhiên, Thượng Hội Đồng chắc chắn sẽ đề cập đến các vấn đề môi trường trong bối cảnh những hậu quả xã hội của các vấn đề này.

7. Kết luận

Thưa quý ngài, thưa quý bà và quý ông,

Vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, Bức tường Bá Linh sụp đổ. Trong vòng vài tháng, một kết thúc sẽ xẩy đến với di sản cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai: sự phân chia đau đớn của châu Âu được quyết định tại Yalta và Chiến tranh Lạnh. Các quốc gia phía đông Bức màn sắt đã lấy lại tự do sau nhiều thập niên bị áp bức, và nhiều quốc gia trong số họ đã lên đường dẫn đến tư cách thành viên của Liên minh châu Âu. Trong bầu khí hiện nay, được đánh dấu bởi các xu hướng ly tâm mới và cơn cám dỗ muốn dựng lên những tấm màn mới, ước mong châu Âu không đánh mất ý thức của nó về các lợi ích – mà lợi ích đầu tiên là hòa bình – đã được mang tới nhờ hành trình thân hữu và xích lại gần nhau giữa các dân tộc bắt đầu từ thời hậu chiến.

Cuối cùng, tôi muốn đề cập đến một lễ kỷ niệm khác. Vào ngày 11 tháng 2, 90 năm trước đây, Thị quốc Vatican ra đời do việc ký kết các Hiệp ước Lateran giữa Tòa thánh và Ý. Hiệp ước này đã kết thúc thời kỳ lâu dài của “Vấn Đề Rôma” tiếp theo việc chiếm Rôma và kết liễu của các lãnh thổ của Giáo hoàng. Với Hiệp ước Lateran, Tòa thánh đã có thể sử dụng “phần nhỏ lãnh thổ vật chất không thể thiếu ấy để thi hành quyền thiêng liêng được giao phó cho con người vì lợi ích của loài người, [13] như Đức Piô XI đã khẳng định. Với Tông Ước (Concordat), Giáo hội một lần nữa có khả năng hơn trong việc đóng góp đầy đủ cho sự lớn mạnh về tinh thần và vật chất của Rôma và nước Ý nói chung, một đất nước giàu về lịch sử, nghệ thuật và văn hóa, mà Kitô giáo từng đóng góp để xây dựng. Vào ngày kỷ niệm này, tôi bảo đảm với nhân dân Ý tôi sẽ cầu nguyện đặc biệt, để, với lòng trung thành đối với truyền thống riêng của họ, họ có thể giữ cho tinh thần liên đới huynh đệ từng phân biệt họ từ lâu luôn sống động.

Với quý vị, các Đại sứ thân yêu và các vị khách đáng kính hiện diện nơi đây và với các quốc gia của quý vị, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp và thân ái để năm mới sẽ tăng cường các sợi dây hữu nghị luôn kết hợp chúng ta và đổi mới các cố gắng nhằm cổ vũ nền hòa bình mà thế giới của chúng ta hằng khao khát.

Cảm ơn quý vị!
 
Đức Thánh Cha đón nhận 27 hài nhi vào Giáo Hội Công Giáo tại nhà nguyện Sistina
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:07 13/01/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sáng Chúa Nhật 13 tháng Giêng, theo truyền thống, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa trong nhà nguyện Sistina. Dịp này, ngài đã rửa tội cho 27 hài nhi, gồm 12 bé trai và 15 bé gái.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở các bậc cha mẹ về tầm quan trọng của việc thông truyền đức tin cho con cái và trách nhiệm to lớn mà nghĩa vụ này đòi hỏi. Đức Thánh Cha nói:

Khi bắt đầu buổi lễ, tôi đã đặt ra cho tất cả anh chị em một câu hỏi: anh chị em xin gì cho con cái mình? Và tất cả anh chị em đã trả lời: đức tin. Anh chị em xin nơi Giáo hội đức tin cho con cái mình. Và hôm nay, các em sẽ nhận được Chúa Thánh Thần, và hồng ân đức tin trong trái tim họ, trong thần khí của chúng. Và đức tin này phải phát triển. Nó phải lớn lên. Có người có thể nói: vâng, vâng, chúng cần học hỏi đức tin. Chính thế. Khi các em đi học giáo lý, chúng sẽ được học rành rẽ về đức tin. Chúng sẽ tìm hiểu về đức tin. Nhưng trước khi học hỏi đức tin, đức tin phải được thông truyền, và đây là nhiệm vụ được đặt trên vai anh chị em. Nghĩa vụ của anh chị em là thông truyền đức tin. Và anh chị em làm điều này ở nhà, bởi vì đức tin luôn phải được thông truyền theo phương ngữ, phương ngữ của gia đình, nơi mái nhà. Đây là nhiệm vụ của anh chị em: hãy thông truyền đức tin bằng gương sáng, bằng lời nói, dạy chúng biết cách làm Dấu Thánh Giá. Điều này quan trọng. Anh chị em biết có những đứa trẻ không biết làm Dấu Thánh Giá. Chúng nguệch ngoạc như thế này [và Đức Thánh Cha minh họa cách thức làm dấu của những trẻ em không biết làm Dấu Thánh Giá cho đúng cách]. Anh chị em không thể hiểu đó là gì.

Điều quan trọng là anh chị em phải thông truyền niềm tin qua cuộc sống đức tin của anh chị em để trẻ có thể nhìn thấy tình yêu phu phụ, sự bình an trong gia đình, và như thế các em thấy rằng Chúa Giêsu hiện diện ở đó. Nếu anh chị em cho phép tôi đưa ra một lời khuyên: thì xin lỗi, tôi sẽ khuyên anh chị em như thế này: đừng bao giờ cãi nhau trước mặt con trẻ. Đừng bao giờ. Vợ chồng cãi vã nhau là chuyện bình thường. Rất là bình thường. Vợ chồng không bao giờ cãi nhau mới là lạ. Nhưng khi cãi nhau, đừng để trẻ nghe thấy, hay nhìn thấy điều đó. Tất cả anh chị em cần phải biết nỗi thống khổ mà một đứa trẻ phải chịu khi nghe bố mẹ cãi nhau. Tôi muốn trao cho anh chị em lời khuyên đó để giúp tất cả anh chị em thông truyền đức tin. Cãi vã nhau thì không hay, nhưng đôi lúc cũng cần phải tranh biện. Điều đó là bình thường thôi, nhưng anh chị em phải làm sao để con trẻ không nghe hay nhìn thấy, để chúng không phải trải qua nỗi thống khổ đó.

Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục nghi thức Rửa tội. Hãy ghi nhớ điều này: nghĩa vụ của anh chị em là thông truyền đức tin cho con em, truyền bá đức tin tại gia đình, bởi vì cũng chính ở đó, anh chị em đã học được đức tin, rồi anh chị em mới học trong các lớp giáo lý.

Nhưng trước khi tiếp tục, tôi muốn nói một điều khác nữa: các hài nhi hôm nay thấy mình ở một môi trường xa lạ.. có thể là chúng cảm thấy nóng quá, quần áo, khăn tã quấn quanh nhiều quá. Có lẽ chúng cảm thấy nhiệt độ tăng vọt. Chúng khóc vì những lý do này.

Chúng cũng khóc vì đói. Kiểu khóc thứ ba: là khóc ‘phòng ngừa’. Đó không phải là một chuyện lạ. Chúng không biết điều gì sẽ xảy ra. [Một đứa bắt đầu nghĩ] ‘Mình phải khóc ré lên trước’ cho chắc ăn. Đó là một động thái phòng thủ. Điều quan trọng là chúng cảm thấy thoải mái. Hãy cẩn thận đừng quấn quanh chúng nhiều quá khiến chúng bị nóng.

Nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng ăn uống. Đối với các bà mẹ, tôi nói điều này: đừng sợ cho các em bé bú để giữ cho bầu khí được yên tĩnh. Chúa muốn điều này, bởi vì khi có nguy hiểm, có một tiếng gọi đa âm hưởng. Một đứa bắt đầu khóc, rồi đứa khác khóc theo, những đứa khác bắt chước khóc ré lên. Khi đó, nó sẽ là một dàn đồng ca những tiếng khóc.

Chúng ta sẽ tiếp tục buổi lễ này, trong yên bình, với một nhận thức được đặt trên vai anh chị em, đó là hãy thông truyền đức tin cho con cái mình.
 
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, 14/1/2019: VietCatholic dâng Lễ Tạ Ơn và mừng Xuân Kỷ Hợi 2019
VietCatholic Network
22:49 13/01/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây

VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật ngày 13/1/2019.

2- Đức Thánh Cha nói: Đức tin chiến thắng tinh thần thế gian.

3- Đức Thánh Cha sẽ khai mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất.

4- Đức Thánh Cha bất ngờ đến thăm các nữ tu dòng kín ở Umbria.

5- Tòa Thánh triệu tập Diễn Đàn Giới Trẻ Quốc Tế.

6- Vatican thành lập đội lực sĩ điền kinh tranh tài quốc tế.

7- Nhà thờ đầu tiên được xây tại Thổ Nhĩ Kỳ sau gần 100 năm.

8- 5 triệu tín hữu Philippines tham gia cuộc rước kiệu truyền thống.

9- Băng nhạc Rock các linh mục sẽ trình diễn tại Panama.

10- Đêm Quốc gia Canh thức Cầu nguyện cho Sự Sống tại Thủ đô Washington, Hoa Kỳ.

11- Đức Cha Nguyễn Văn Long, Úc châu, gửi thư Hiệp thông với đồng bào Lộc Hưng.

12- Cộng tác viên VietCatholic Nam Cali Dâng Lễ Tạ Ơn và Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019.

13- Giới thiệu Thánh Ca: Chúc Tụng Tình Chúa.

Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết: