Ngày 04-02-2023
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên 05/02/2023 dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
01:07 04/02/2023

BÀI ĐỌC 1 Is 58:7 10

Bài trích sách ngôn sứ I sai a.

Đây là lời Đức Chúa phán:

“Ngươi hãy chia cơm cho người đói,

rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;

thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.

Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,

vết thương ngươi sẽ mau lành.

Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,

vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.

Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!’

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở

gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,

nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,

làm thoả lòng người bị hạ nhục,

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.”

Đó là Lời Chúa.

BÀI ĐỌC 2 1Cr 2:1 5

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê su Ki tô, mà là Đức Giê su Ki tô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.

Đó là Lời Chúa.

TUNG HÔ TIN MỪNG Ga 8:12

Alleluia. Alleluia.

Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.

Alleluia.

TIN MỪNG Mt 5:13 16

Tin mừng Chúa Giê su Ki tô theo thánh Mát thêu.

Khi ấy, Đức Giê su nói với các môn đệ rằng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.

“Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Đó là Lời Chúa.
 
Đi Ra ...
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
05:13 04/02/2023

"ĐI RA..."
CHÚA NHẬT V MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM A

Muối, ánh sáng có mặt trên đời không vì chính nó nhưng luôn vì cái gì khác bên ngoài nó. Cả hai đều vừa có sức đánh bật điều tồi tệ, vừa phát huy cái tốt.

Một khi dùng bảo quản, nêm nếm, ngay cả làm phân bón, muối đẩy xa sự hư hao, thối rữa, mang lại sự toàn vẹn, tốt tươi cho cái mà nó bảo quản.

Cũng vậy, ánh sáng không chỉ xóa tan bóng tối mà còn soi rọi, còn làm cho ấm áp, làm cho mọi thứ nên tỏ tường và sáng tỏ...

Tiếp theo Chúa nhật vừa qua, vẫn là bài giảng trên núi, Chúa Giêsu muốn những người vừa học biết các mối phúc thật cũng phải biết rành mạch và xác thực: họ "là muối cho đời… là ánh sáng thế gian".

1. Đã là muối:

Tín hữu phải ý thức bổn phận "ướp mặn" môi trường mà mình hiện diện, phải gieo vào cư dân sống chung quanh cảm tình tôn giáo mà mình đang mang.

Nói cách khác, bằng:

- Gương sáng của đức ái, của tình yêu đồng loại, của việc sống chữ "nhân";
- Những quan tâm thiết thực để không chỉ không ngừng mà còn sẵn sàng và tích cực giúp đỡ những người lân cận;
- Luôn ý thức diễn tả đức tin, đức cậy, đức mến qua đời sống thường nhật, qua mọi tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi... nhằm nêu gương chính tình yêu của Thiên Chúa và của Chúa Kitô cho mọi người, mọi nơi.

2. Đã là ánh sáng:

Người tín hữu phải biết, họ được Chúa nâng cao quá sức. Bởi chỉ một mình Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1, 5); chỉ một mình Chúa Giêsu mới dám tuyên bố: "Ta là Ánh Sáng trần gian" (Ga 8,12).

Vì thế, họ phải luôn đặt mình gần với Chúa qua đời sống cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, sống Lời Chúa, biết nhìn lại mình, khám phá lại bản thân để luôn tự điều chỉnh mình sao cho ngày càng "sáng" và thật "sáng".

"Gần đèn thì sáng". Con người muốn giống ai thì phải theo sát người đó, cố gắng bắt chước người đó, cố gắng học theo từng cách thức, từng lối suy tư mà người đó thể hiện và nêu gương.

Không thể có một Kitô hữu khác Chúa Kitô. Chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường mà Chúa đã dạy và thể hiện bằng cả đời sống nơi trần gian của Ngài.

Thành ánh sáng còn là lời mời gọi truyền giáo. Kitô hữu có bổn phận, bằng chính đời sống, lời nói và mọi cách thế thể hiện của mình, mang đến anh chị em quanh mình hy vọng sống và ơn cứu độ mà Chúa Kitô thực hiện và trao ban.

Kitô hữu phải luôn mang lại cho những ai gần gũi với họ sự an tâm, an ủi và đỡ nâng. Nhất là người nghèo, người đau khổ, người phải sống trong tăm tối và tuyệt vọng, để họ nhận ra ánh sáng của Tin Mừng, của tình yêu Chúa.

Biết mình là ánh sáng, nhưng không phải tự mình mà chỉ có thể nhận lãnh từ Thiên Chúa và từ Chúa Kitô, người tín hữu phải luôn khiêm tốn, luôn thấy mình bất toàn, giới hạn, nhất là phải biết rằng, bản thân cũng chỉ là một người anh em với tất cả mọi người bên cạnh, để họ luôn khiêm tốn, luôn biết hạ mình phục vụ ơn phần rỗi của anh chị em.

Chúng ta hãy cùng lắng nghe lời Cha chung, Đức Thánh Cha Phanxicô, khuyên dạy để có thể giúp bản thân sống Lời Chúa hầu trở thành muối và ánh sáng ngày càng tốt hơn:

"Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng sợ hãi khi sống trong thế giới, ngay cả khi chúng ta sống trong những bối cảnh xung đột và tội lỗi. Trước bạo lực, bất công, áp bức, người Kitô hữu không thể rút lui vào chính mình hoặc ẩn mình vào vỏ bọc an toàn của bản than. Giáo Hội cũng không thể khép mình lại, không thể từ bỏ sứ mạng loan báo Tin Mừng và phục vụ. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha đừng cất các môn đệ khỏi thế gian và để họ ở trong thế gian, nhưng Người xin Chúa Cha gìn giữ họ khỏi tinh thần của thế gian. Giáo Hội trao dâng chính mình với lòng quảng đại và dịu dàng cho những người nhỏ bé và người nghèo. Đây không phải là tinh thần của thế gian, nhưng đây là ánh sáng cho thế gian, là muối cho thế gian" (Trích bài giảng trong buổi đọc kinh Truyền tin ngày 9.2.2020).

 
Muối mất mặn là muối nào ?
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
10:36 04/02/2023
CN 5A TN : “Muối mất mặn là muối nào?”

hoặc “Tại sao muối lại đi cặp với ánh sáng?”

“Anh em là muối của đất. Anh em là ánh sáng của trần gian”. Chắc Chúa cũng có một liên kết nào đó khi đưa cặp muối và ánh sáng này đi sóng đôi với nhau. Chúng ta cũng thường nghe cặp đôi “muối và men,” nhưng tìm khắp 4 cuốn Phúc m chẳng thấy có cặp “muối và men” này, mà chỉ thấy men đi riêng, còn muối thì đi cặp kè với ánh sáng. Vậy muối này là muối nào? Nếu muối đi với men, ta thấy được liên kết giữa đôi bạn này là liên quan tới thực phẩm, muối là gia vị của đồ ăn, men làm đồ uống có hương nồng, hoặc men đưa thực phẩm biến thành món ăn đặc biệt. Tóm là, cả hai liên quan tới ẩm thực, và chắc ta cũng nghe giảng rất nhiều, nếu không nói là gần trăm phần trăm về muối liên quan tới thực phẩm : muối là gia vị, và muối bảo tồn đồ ăn không hư. Giảng về muối thực phẩm tương đối dễ. Nhưng hôm nay Chúa có ý nói về muối thực phẩm không? Nếu có, thì sẽ có 2 thắc mắc :

-Ta có bao giờ thấy muối thực phẩm ra nhạt chưa, và thấy người ta đổ muối này ra ngoài đường cho người ta chà đạp dưới chân chưa?

-Tại sao muối lại đi cặp đôi với ánh sáng, nếu chúng không liên quan gì đến nhau nhiều?

1. Có thấy muối lạt chưa.

Bản thân tôi chưa thấy, chỉ thấy muối tan ra, nhưng tan ra, nó vẫn mặn, mặn đắng luôn. Còn muối để ngoài trời, hoà trộn với nước mưa tan thành nước, đâu còn là muối hột nữa, đâu thể vất ra ngoài đường cho người ta chà đạp dưới chân. Vậy chắc phải có một thứ muối ra nhạt, hoặc chơi chữ 3 “m” : “muối mất mặn.” Chúng ta tìm cho ra thứ muối này, và khi tìm ra được thứ muối này, ta giải được thắc mắc thứ hai, tại sao lại cắp đôi muối với ánh sáng.

2. Cặp đôi muối và ánh sáng

Nhắc tới ánh sáng là nhắc tới lửa. Thời Chúa Giêsu làm gì đã có dầu hôi để đốt sáng, thời Chúa làm gì đã có bóng đèn (điện) để cho ánh sáng. Vậy là, lửa cho sức nóng nhưng lửa cũng cho ánh sáng. Khi nhắc đến ánh sáng do lửa, ta hơi nhận ra cặp đôi “muối và ánh sáng” mà Chúa muốn cho chúng đi với nhau như cặp bài trùng !

Chúa Giêsu phán : nếu muối mất mặn thì chỉ đáng quăng ra ngoài và bị người ta chà đạp. Trong tác phẩm “Chúa Giêsu của Palestine” Bishop kể lại một lời giải thích của cô Newton : tại Palestine bếp lò thường ở ngoài trời và làm bằng đá trên nền (đế) bằng ngói. Trong các lò lộ thiên như vậy muốn giữ sức nóng người ta đổ một lớp muối dày ở dưới nền ngói. Sau một thời gian, muối mất mặn, người ta lật những miếng ngói lên, lấy muối ra, đổ trên đường ngoài cửa lò. Nó đã mất năng lực làm cho tấm ngói nóng lên, nên bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân. Chúng ta tìm thêm cứ liệu :

Cách đây hơn 60 năm một nhà xã hội học Thuỵ Sĩ nghiên cứu về phong tục thì thấy từ Biển Chết, người dân lấy ra một thứ muối gọi là muối lò, muối để đốt, giàu chất clorua manhêsium. Ta đã thấy có liên kết giữa muối và lửa, tức ánh sáng. Khi dùng xong, muối lò trở thành nhạt, muối-mất-mặn, chỉ còn việc đổ ra đường cho người ta dày đạp dưới chân, y như khí đá sau khi ủ trái cây, mất hết sức nóng, cũng chỉ còn cách đổ ra đường cho người ta chà đạp dưới đất.

Do đó ta mới phần nào hiểu được câu trong Mc 9,49-50 : “Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối.” Cha Thuấn dịch: “hết thảy sẽ được muối bằng lửa.” dịch sát sẽ là : “muối để được đốt cháy”

Muối này là chất xúc tác làm cho lửa mau bắt, lại giúp đỡ tốn củi. Có đại lễ người ta giết và thiêu 12 bò mộng một lúc, củi đâu cho xuể, cần có muối cho đỡ tốn củi. Sách Edêkien 43,24 ghi : “Phải rắc muối lên mới thiêu chúng.” Còn sách Xuất Hành 30,35 nói : “Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt : hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh.”

Vậy là muốn trở thành ánh sáng bền lâu, tức lửa không vội tắt, cần cho thêm muối vào lò. Muối làm cho lửa củi cháy lâu. Và muối này phải mặn, chứ khi đã thiêu trong lò, muối mất mặn, tuy vẫn còn dạng hột đó, nhưng chất mặn đã không còn.

Có một điều đáng lưu ý nữa là đôi khi Hội Thánh tiên khởi áp dụng câu này cách rất lạ. Trong hội đường, người Do Thái có một tục lệ : nếu một người Do Thái bỏ đạo, nhưng rồi lại trở về với đức tin, trước khi được thâu nhận lại, người ấy phải ăn năn bằng cách nằm ngang cửa hội đường và mời gọi mọi người bước lên mình mà vào. Ở một số nơi, Hội Thánh cũng nương theo tục lệ đó. Một Kitô hữu bị đuổi khỏi Hội Thánh vì kỷ luật, trước khi được thâu nhận lại, buộc phải nằm trước cửa nhà thờ và mời người bước vào :"Hãy dẵm lên tôi là muối mất mặn".

Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài "Truyền giáo năm 2000," nhiều bạn trẻ đề nghị phải sử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh, cả internet nữa, có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số khác nữa đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo Hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hòa hợp.

Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da màu giơ tay xin phát biểu: "Tại Phi Châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh, máy vi tính… kết mạng, nối phône… Chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo (*).

Một gia đình tốt tức là những con người tốt. Con người là ngọn lửa sáng và sáng lâu nhờ muối lò vẫn còn mặn. Anh em là muối mặn, anh em là ánh sáng, chứ không phải phim ảnh là ánh sáng, sách vở là ánh sáng.

Giáo Hội Việt Nam lấy các năm 2017-2018-2019 quy về gia đình. Ta không cần gửi gia đình đi truyền giáo đâu xa, mà mỗi gia đình là ánh sáng do lửa nhiệt tình nung đốt, nhờ muối mặn làm cho ngọn lửa cháy lâu, tức nhiệt tình truyền giáo bền vững, không nản lòng, thì sẽ đưa được người lương dân bên cạnh về với Chúa là ánh sáng.

An Phong Nguyễn Công Minh, ofm

(lấy một số gợi ý từ cha Hàm)

_________________

(*) [Sáng ngày 1-2-2014 tại Đại thính đường Phaolô 6 dành cho 8 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi 414 gia đình thuộc Con đường Tân Dự Tòng đi truyền giáo tại nhiều nước trên thế giới. Trong đó có 174 gia đình sẽ thuộc 40 cứ điểm mới truyền giáo cho dân ngoại, như ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Mông Cổ, Đông u và Bắc u, thêm vào số 52 cứ điểm đã hiện hữu. Trong buổi tiếp kiến còn có 900 người con của tất cả các gia đình hiện diện. Ngoài ra cũng có hơn 100 gia đình đã đi truyền giáo ở nhiều nơi trên thế giới.

Phần lớn các gia đình được ĐTC sai đi hôm 1-2-2014 là người Tây Ban Nha và Italia. Mỗi cứ điểm truyền giáo gồm 4 gia đình, một LM và 1 phụ tá tháp tùng, thường là một giáo dân hoặc một chủng sinh, một nữ tu cao niên và 3 chị trẻ cộng tác vào sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại.]
 
Kitô Hữu Và Con Đường Chinh Phục Thế Giới
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
10:40 04/02/2023
Kitô Hữu Và Con Đường Chinh Phục Thế Giới

Chúa Nhật 5 TN A 2023

Vào những thế kỷ đầu của Công Nguyên, khi Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô mới du nhập vào trung tâm của đế quốc La Mã, dân Rôma thường có hai cái nhìn, hai thái độ đối với các Kitô hữu:

- Một đàng là dè bĩu, khinh thường; xem các Kitô hữu chỉ là một đám dân hèn hạ, thấp kém, tiêu cực, không còn sức sống…, như phát biểu của hoàng đế Julian, một trong những hoàng đế Rôma không theo Kitô giáo kể từ hoàng đế Constantin và người căm ghét Kitô giáo khét tiếng: "Các bạn có nhìn những kitô hữu này không? Mắt trũng sâu, má hóp xanh xao, ngực lép xẹp, họ xua đuổi cuộc sống, không màng danh vọng, mặt trời soi sáng cho họ nhưng họ chẳng thấy, trái đất cung hiến dư dật nhưng họ không ham thích... ".

- Một đàng ngỡ ngàng và thán phục khi chứng kiến cuộc sống và nhất là những cuộc tử đạo anh hùng của các Kitô hữu, mà bằng chứng sống động được lịch sử ghi lại đó là lời thốt lên của hoàng đế Nêron, người đã bách hại dã man các Kitô hữu, khi chứng kiến cảnh các Kitô hữu thanh thản hát ca tiến ra pháp trường trước miệng thú dữ: “Tại sao họ lại hát?”

Và lịch sử đã làm chứng, Kitô giáo đã chinh phục cả đế quốc Rôma sau gần 300 năm bị bách hại tàn khốc, và Tin Mừng Chúa Giêsu đã lan rộng khắp hoàn cầu, chắc chắn không phải bằng lối sống của những Kitô hữu “Mắt trũng sâu, má hóp xanh xao, ngực lép xẹp…”, mà phải là cuộc sống “như những vì sao rạng rỡ giữa bóng đêm” (Pl 2,15); hay theo ngôn ngữ của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Matthêô vừa được công bố, đó là cuộc sống mang dáng đứng của “muối mặn ướp đời”, hay “ánh sáng thế gian”; và đây chính là nội dung câu chuyện về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật 5 Thường niên (A), một sứ điệp có thể nói được, là để triển khai và áp dụng thực hành con đường “Tám mối phúc thật” mà Chúa Nhật tuần trước đã giới thiệu.

Mặc dù dùng kiểu nói “ngụ ngôn” với hai hình tượng “muối” và “ánh sáng” nhưng lời giáo huấn của Chúa Kitô quả thật đã diễn giải cách thâm thúy sứ điệp “canh tân tôn giáo” của các ngôn sứ thời Cựu ước, đặc biệt với những lời của Tiên tri Isaia, một nhà canh tân tôn giáo thời dân Israel sau cuộc lưu đày. Vâng, đó là giai đoạn mà “Đạo của Giao ước Sinai” vốn đặt nền tảng trên “Thập Điều” với hai giới răn cốt yếu “Mến Chúa – Yêu Người” thì Dân Chúa đã làm cho biến chất để trở thành một thứ “nô lệ mù quáng cho lề luật”, vừa giả hình đối với Thiên Chúa, vừa vô tình đối với anh em đồng loại. Isaia muốn dân tộc của mình, một “Dân ưu tuyển của Thiên Chúa” phải trở về với “Đạo của Giao Ước, Đạo của Tình yêu”: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, … vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Sáu thế kỷ sau những lời giáo huấn trên của ngôn sứ Isaia, cũng trong bối cảnh của một Israel đang suy đồi tôn giáo và bị khuynh loát bởi nhóm “Biệt phái giả hình” hay nhóm “chức sắc mượn đạo tạo đời”, Chúa Giêsu người Nadarét đã đến để làm một cuộc “đại canh tân” mới, không để “tái cấu trúc” một “Do thái giáo” cũ nhưng xây dựng một “Vương quốc Nước Trời” dành cho muôn dân tộc với mọi chân trời góc biển mà “Bản Hiến Chương Bát Phúc” với những áp dụng thực hành cụ thể: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại?... Các con là sự sáng thế gian… Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

Thật vậy, những người môn đệ của Đức Kitô khi sống và thực hành con đường “Bát Phúc” (Khó nghèo, hiền lành, trong sạch, biết xót thương, xây dựng hòa bình…) thì chắc chắn sẽ trở thành “hương vị đậm đà cải tạo môi trường cuộc sống”, như “muối ướp mặn” cho đời, cho người; hay như “ngọn đèn rực rỡ thắp sáng” những cuộc sống, những mảnh đời, những xã hội tăm tối mịt mù của lầm lạc, hận thù, chiến tranh, bạo lực…

Và đó chính con đường chinh phục thế giới của người Kitô hữu, một phương cách loan báo Tin Mừng không dựa trên “sự khôn ngoan trần tục” nhưng là sự chọn lựa chính “Chúa Giêsu” và sự khôn ngoan của “Thập giá”, của “quyền năng Thiên Chúa”, như thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại muôn đời của Kitô giáo đã xác tín: “tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi,… lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa” (Bđ 2).

Ngày hôm nay, thế giới giống như một “cửa hàng đầy thịt cá ê hề”, hay những “thành phố rực rỡ những bóng đèn sáng trưng lòe loẹt”… nhưng hình như đang thiếu “muối và ánh sáng” trầm trọng: thiếu muối và ánh sáng yêu thương để ướp hương nồng, để rọi sáng cho những nơi ghen ghét, đố kỵ…; thiếu muối và ánh sáng khoan dung tha thứ để xóa tan hận thù chiến tranh; thiếu muối và ánh sáng trong sạch tinh khiết để thanh lọc những môi trường đồi bại ô nhơ; thiếu muối và ánh sáng chân lý để dẫn lối đưa đường những tâm hồn lầm lạc về đường chính nẻo ngay, thiếu muối và ánh sáng quảng đại sẻ chia để biết cho đi và sẵn sàng phục vụ…

Vâng, đáp lại tiếng gọi mời và sự chọn lựa “muối, ánh sáng” của Chúa Giêsu, những Kitô hữu đã dấn thân vào đời để cải tạo thế giới. Cho dù ngay từ đầu, chỉ là những “hạt muối”, “viên men”, hay “chút ánh sáng le lói” của Tin Mừng, đã bị Đạo Do Thái khai trừ, đã bị đế quốc Rôma đặt ra ngoài vòng pháp luật suốt gần ba thế kỷ, bị dè bỉu khinh khi như một thứ rác rưởi cùng với những cuộc bách hại khủng khiếp,… nhưng “muối” và “ánh sáng” ấy đã từ từ biến đổi một nền văn hóa đồi trụy bất công của đế quốc thành một nền văn hóa nhân văn bình đẳng; biến một thứ tôn giáo “đa thần” đầy mê tín dị đoan, lầm lạc trở nên một tín ngưỡng, một niềm tin chính chuyên, siêu thoát… Và rồi sau những ngàn năm kế tiếp, Tin mừng đó tiếp tục hóa thân trong những viên muối mặn giản đơn hay chiếu sáng qua những con người nhỏ bé như Phanxicô thành Assisi, như Phanxicô Xavie, Têrêxa hài Đồng, Mẹ Á Thánh Têrêxa thành Calcutta, Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Anrê Phú Yên… để biến họ trở nên những “thảm kính màu rực rỡ”, những thánh nhân sống mãi giữa dòng đời…

Mà không chỉ thánh nhân mới có thể trở thành “muối mặn” hay “ánh sáng” cho đời; tất cả chúng ta, mọi Kitô hữu đều có thể và phải như thế; vì đó chính là phẩm giá, là căn tính, là chọn lựa… của người Kitô hữu. Bởi, nếu không như thế, Kitô hữu hoặc chỉ là “muối lạt phế thải bị ném ra đường” hay chỉ là “bóng đêm thảm hại” !

Ngoài kia Mùa Xuân đang về. Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay sẽ đưa chúng ta đi vào cuộc sống đời thường để làm những viên muối ướp mặn và ngọn đèn thắp sáng lên mùa xuân cho cuộc đời, cho thế giới, không phải bằng những lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu thương và phục vụ con người, như chính Chúa Giêsu đã sống và chết vì tình yêu; hay như cách ví von của một vị tôn sư: “Nếu các người không thấy người anh em mình đang gặp khốn khó và giúp đỡ, thì đó là đêm, là bóng tối. Còn sống tình thương với họ đó là ngày, là ánh sáng”. Amen.

Trương Đình Hiền
 
Cần được nhìn và nghe thấy
Lm Minh Anh
14:25 04/02/2023

CẦN ĐƯỢC NHÌN VÀ NGHE THẤY
Các con là muối đất!”.

Muối được quân đội chiến thắng dùng để trừng phạt một đất nước bại trận. Quân đội sẽ giẫm muối vào đất, muối sẽ ngăn cản sự phát triển của mùa màng trong nhiều năm. Chúa Giêsu cho biết, nếu muối mất hương vị và không được sử dụng cách tích cực, nó sẽ chịu sử dụng cách tiêu cực; bấy giờ, trở nên tai hoạ! Trong quá trình này, bản thân muối sẽ bị giẫm đạp dưới chân!

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ giữ cho ‘muối Kitô’ luôn mặn nồng, hầu không trở nên “tai hoạ” cho thế gian. ‘Vị mặn Kitô’ ‘cần được nhìn và nghe thấy!’. Thật ý nghĩa, hai dụ ngôn hôm nay nằm ngay sau các mối phúc; điều đó muốn nói, các mối phúc không chỉ được sống cách tích cực, mà còn phải “được nhìn thấy để sống!”.

Kitô giáo không của riêng ai, Kitô giáo luôn có một tầm nhìn nhằm thay đổi thế giới. Và không nghi ngờ, nó đã làm được điều đó ở một mức độ lớn! Chúa Giêsu muốn các môn đệ trở nên muối cho đời; điều Ngài nhấn mạnh là hương vị đặc biệt của nó. Bằng cuộc sống tập trung vào Phúc Âm, Kitô hữu mang lại hương vị Kitô cho thế giới; nó sẽ thấm nhuần vào lòng thế giới, đổi mới nó và làm chậm lại sự suy đồi về mặt xã hội và đạo đức của thế giới.

Như muối chỉ phát huy tác dụng khi hoà quyện hoàn toàn với thức ăn; cũng thế, cuộc sống Kitô hữu chỉ có thể thực sự hữu hiệu khi họ hoàn toàn là một thành viên của xã hội, mang lại một hương vị không thể nhầm lẫn và không thể thiếu cho xã hội đó. Trong các bữa ăn phương Tây, người ta thường đặt muối bên cạnh; hình ảnh này khác nào một Kitô hữu có nhiều khả năng, nhưng sống bên lề và không gây ảnh hưởng gì đến xã hội. Điều này rất dễ xảy ra khi chúng ta chỉ biết gia đình mình, cộng đoàn mình và chỉ quan tâm đến nó mà không nỗ lực vươn xa. Có nhiều bộ phận trong xã hội, đặc biệt lĩnh vực chính trị, thương mại, công nghiệp và giải trí, nơi mà Giáo Hội hoàn toàn vắng bóng. Một thái cực khác là khi một Kitô hữu hoàn toàn chìm đắm trong xã hội thế tục, nhưng không có gì để cho. Điều này khác nào muối vô vị vốn chẳng ích gì!

Chúa Kitô ‘cần được nhìn và nghe thấy’. Nhưng nhìn thấy gì? Các giáo đoàn như viện bảo tàng? Các nhà thờ tráng lệ như kiệt tác kiến trúc? Các chuyến bay chở khách hành hương đến Rôma, Đất Thánh, Lộ Đức, Fatima, Mễ Du…? Những điều này là tốt, nhưng chúng không được đề cập trong các bài đọc hôm nay. Isaia đề nghị, “Loại bỏ xiềng xích, cử chỉ hăm doạ!”; và có lẽ chúng xem ra ‘khá chính trị’, nên cụ thể hơn, Isaia nói thêm, “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; gặp một người trần truồng, hãy cho họ đồ mặc!”. Phaolô trong bài đọc hai thì khiêm tốn hơn, “Chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em”. Khi đó, và chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự là muối.

Anh Chị em,

“Các con là muối đất!”. Nhưng hãy là muối được sử dụng “tích cực”, chứ không “tiêu cực”; nghĩa là không bao giờ “trở nên tai hoạ cho thế giới!”. Hãy để ‘vị mặn Kitô’ thấm nhuần thế giới; những việc tốt lành của chúng ta ‘cần được nhìn và nghe thấy!’. Bấy giờ, mọi người sẽ nói, “Người Công Giáo thật tuyệt vời!”. Vậy mà, bạn và tôi chỉ trở thành muối và ánh sáng cho người khác khi nên giống Chúa Kitô. Bởi lẽ, mục đích duy nhất của chúng ta trong việc sống Tin Mừng với tầm nhìn tối đa là hướng mọi người về Chúa Kitô, Đấng yêu thương họ; hạnh phúc tột cùng của họ chỉ có nơi Ngài. Mục đích của bạn và tôi là thúc giục mọi người cùng hoạt động, ướp mặn thế giới, một thế giới Chúa muốn chúng ta có; một thế giới tăm tối mà chúng ta là ánh sáng như nhận định của Thánh Vịnh đáp ca, “Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thế giới ‘cần được nhìn và nghe thấy’ một Giêsu sống động nơi con. Cho con đừng trở nên tai hoạ, nhưng là phần phúc cho thế giới, một người mà ít nhiều nó mang ơn!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tỏa sáng yêu thương
Lm Nguyễn Xuân Trường
21:52 04/02/2023

Trân trọng giới thiệu 3 phút video chia sẻ TỎA SÁNG YÊU THƯƠNG
https://youtu.be/nXIJ5bunwVo?t=142

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chuyến tông du tại Nam Sudan: Diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các nhà cầm quyền, các đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn
Vu Van An
00:00 04/02/2023

Theo tin Tòa Thánh, sau khi đặt chân lên Nam Sudan để thực hiện phần 2 chuyến thăm hai nước Phi Châu của ngài, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngỏ lời với các nhà cầm quyền, các đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại Dinh Tổng Thống ở Juba. Sau đây là nguyên văn Bài Diễn từ của ngài, theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp:



Thưa Tổng thống
Thưa các Phó Tổng thống
Thưa các Thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn,
Thưa các thẩm quyền tôn giáo và dân sự ưu tú,
Thưa quý vị Đại diện Xã hội Dân sự và Thế giới Văn hóa,
Thưa quý bà và quý ông
,

Thưa Tổng thống, tôi cảm ơn ngài vì những lời lẽ tốt đẹp của ngài. Tôi rất vui khi được đến đất nước này, nơi có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi. Tôi biết ơn ngài, thưa Tổng thống, vì sự chào đón của ngài, và tôi gửi lời chào thân ái tới từng qúy ngài, và thông qua qúy ngài, tới tất cả những người đàn ông và đàn bà đang sống trên đất nước trẻ trung và thân yêu này. Tôi đến đây như một người hành hương hòa giải, với hy vọng được đồng hành với qúy vị trên con đường hòa bình. Đó là một hành trình quanh co, nhưng là một hành trình không thể trì hoãn được nữa. Tôi cũng không ở đây một mình, vì trong hòa bình cũng như trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều đồng hành cùng với nhau. Vì vậy, tôi đã đến với hai người anh em, Tổng Giám mục Canterbury và vị điều hành Đại hội đồng Giáo hội Scotland, những người mà tôi cảm ơn vì tất cả những gì họ sẽ nói với chúng ta. Cùng nhau, dang rộng đôi tay, chúng tôi tự trình diện với qúy vị và với dân tộc này nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Hoàng tử Hòa bình.

Chúng tôi đã thực hiện cuộc hành hương đại kết vì hòa bình này sau khi nghe lời cầu xin của toàn thể một dân tộc khóc thương, một cách rất có nhân phẩm, cho tình trạng bạo lực mà họ phải chịu đựng, tình trạng thiếu an ninh kéo dài, tình trạng nghèo đói và những thảm họa thiên nhiên mà họ đã trải qua. Nhiều năm chiến tranh và xung đột dường như không bao giờ kết thúc và gần đây, thậm chí ngày hôm qua, đã có những cuộc đụng độ gay gắt. Đồng thời, quá trình hòa giải dường như bị đình trệ và lời hứa hòa bình chưa được thực hiện. Cầu mong sự đau khổ kéo dài này không vô ích; cầu mong sự kiên nhẫn và hy sinh của người Nam Sudan, dân tộc trẻ trung, khiêm tốn và can đảm này, thách thức tất cả mọi người và giống như những hạt giống gieo vào đất mang lại sự sống cho cây cối, giúp hòa bình đơm hoa kết trái. Thưa các anh chị em, đây là thời gian cho hòa bình!

Trái cây và thảm thực vật phong phú ở đây, nhờ có con sông lớn chảy qua đất nước. Điều mà nhà sử học cổ đại Herodotus đã nói về Ai Cập, tức là, nó có thể được gọi là “hồng phúc của sông Nile” cũng áp dụng cho Nam Sudan. Thực vậy, như qúy vị thường nói, đây là một “vùng đất trù phú”. Tôi muốn dùng hình ảnh của dòng sông vĩ đại này chảy ngang qua đất nước, một quốc gia non trẻ nhưng có một lịch sử lâu đời. Trong nhiều thế kỷ, các nhà thám hiểm đã mạo hiểm đến khu vực này để đi ngược dòng sông Nile Trắng nhằm tìm kiếm nguồn gốc của con sông dài nhất thế giới. Chính từ việc tìm kiếm cội nguồn cuộc sống chung của chúng ta mà tôi muốn bắt đầu cuộc hành trình của tôi với qúy vị. Mảnh đất này, vốn dư dật trong rất nhiều của cải, thổ nhưỡng nhưng trên hết là ở tấm lòng và khối óc của người dân, ngày nay cần được tưới mát trở lại bằng những nguồn suối trong lành và mang lại sự sống.

Qúy vị, những nhà lãnh đạo ưu tú, chính là những dòng suối này: những dòng suối tưới mát cuộc sống của cộng đồng, những người cha, người mẹ của non nước trẻ trung này. Qúy vị được mời gọi đổi mới đời sống xã hội như những nguồn thịnh vượng và hòa bình thuần túy, rất cần thiết cho những người con trai và con gái của Nam Sudan. Họ cần những người cha, không phải lãnh chúa; họ cần những bước phát triển vững chắc chứ không phải những sự sụp đổ triền miên. Cầu mong thời gian tiếp sau sự ra đời của đất nước, tuổi thơ đau thương của nó, dẫn đến một sự trưởng thành hòa bình: đã đến lúc (phải làm như thế). Các nhà cầm quyền thân mến, những “con trai và con gái” đó, và chính lịch sử, sẽ nhớ đến qúy vị nếu qúy vị làm việc vì lợi ích của dân tộc mà qúy vị được kêu gọi phục vụ này. Các thế hệ tương lai hoặc sẽ tôn kính tên của qúy vị hoặc triệt tiêu ký ức của họ, dựa trên những gì qúy vị làm bây giờ. Vì giống như sông Nile rời nguồn để bắt đầu dòng chảy của nó, thì dòng lịch sử cũng sẽ bỏ lại phía sau những kẻ thù của hòa bình và mang lại danh tiếng cho những người kiến tạo hòa bình thực sự. Thật vậy, như Kinh Thánh cho chúng ta biết, “người có hòa bình sẽ có hậu duệ” (x. Tv 37:37).

Ngược lại, bạo lực quay ngược dòng lịch sử. Chính Herodotus đã nói về sự gián đoạn giữa các thế hệ do chiến tranh gây ra, khi con cái không còn chôn cất cha mẹ chúng, mà cha mẹ chôn cất con cái của họ (x. Histories, I, 87). Để mảnh đất này không biến thành nghĩa địa, mà trở thành một khu vườn sum suê một lần nữa, tôi hết lòng nài xin qúy vị chấp nhận bốn hạn từ đơn giản: không phải lời của tôi, mà là lời của Chúa Kitô. Chính Người đã nói chúng trong một khu vườn, vườn Diệtsimani, khi nói với một môn đệ của Người, môn đệ đã rút gươm, Người kêu lớn: “Thôi, ngừng lại!” (Lc 22:51). Thưa Tổng thống và các Phó tổng thống, nhân danh Thiên Chúa, Thiên Chúa mà chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện ở Rôma, Thiên Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11:29), Thiên Chúa mà rất nhiều người của đất nước thân yêu này tin vào, bây giờ là lúc để nói “Thôi, hãy ngừng lại”, không có “nếu” hay “nhưng”. Không còn đổ máu, không còn xung đột, không còn bạo lực và buộc tội lẫn nhau về việc ai phải chịu trách nhiệm về việc đó, không còn để cho người dân của qúy vị khao khát hòa bình. Không còn phá hủy nữa: đã đến lúc xây dựng! Hãy bỏ thời gian chiến tranh lại phía sau và để thời gian hòa bình ló rạng ở bình minh! Và về vấn đề này, thưa Tổng thống, tôi nhớ cuộc trò chuyện buổi tối mà chúng ta đã có nhiều năm trước ở Uganda: ước mong hòa bình của ngài đã ở đó... Chúng ta hãy tiến tới vấn đề này!

Chúng ta hãy nghĩ lại về các cội nguồn của dòng sông, đến những dòng nước tượng trưng cho sự sống. Nguồn gốc của đất nước này, và đường chẩy do người dân Nam Sudan thực hiện vào ngày 9 tháng 7 năm 2011, gợi nhớ đến một hạn từ khác: Cộng hòa. Tuy nhiên, trở thành một nền Cộng hòa, một res publica có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là xem mình thực sự là “công cộng”, “của dân”; nó tuyên bố rằng nhà nước thuộc về tất cả mọi người; và do đó, những người được giao phó những trách nhiệm lớn hơn, chủ trì và điều hành nó, có nhiệm vụ phục vụ công ích. Đó là mục đích của quyền lực: phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, luôn có sự cám dỗ sử dụng quyền lực vì lợi ích của chúng ta. Vì vậy, chỉ đơn giản được gọi là Cộng hòa là không đủ; nó cần phải là một nền cộng hòa thực sự, bắt đầu từ của cải đệ nhất hạng. Các nguồn tài nguyên dồi dào mà Thiên Chúa đã ban phước cho vùng đất này không nên chỉ giới hạn cho một số ít, mà được công nhận là di sản của tất cả mọi người, và các kế hoạch phục hồi kinh tế phải trùng khớp với các đề xuất phân phối của cải một cách công bằng.

Sự phát triển của một nền dân chủ lành mạnh là điều cần thiết cho cuộc sống của một nền Cộng hòa. Nó duy trì sự phân biệt lành mạnh về quyền hạn một cách mà, chẳng hạn, những người thực thi công lý có thể làm như vậy mà không có sự can thiệp từ những người lập pháp hoặc cai trị. Ngoài ra, dân chủ giả định việc tôn trọng các quyền con người, được duy trì bởi luật pháp và việc áp dụng luật pháp, đặc biệt là quyền tự do tự phát biểu. Cần ghi nhớ rằng không có hòa bình nếu không có công lý (x. Thánh Gioan Phaolô II, Sứ điệp cử hành Ngày Hòa bình Thế giới, 1 tháng 1, 2002), nhưng cũng không có công lý nếu không có tự do. Do đó, mọi công dân nên được tạo điều kiện để tận dụng tối đa hồng phúc độc đáo và không thể lặp lại của cuộc đời mình, đồng thời được cung cấp những phương tiện phù hợp để làm điều đó. Theo lời của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: “Mọi người đều có quyền sống, quyền toàn vẹn về thân thể và quyền có những phương tiện cần thiết để phát triển đúng đắn cuộc sống” (Pacem in Terris, 11).

Sông Nile, rời nguồn và đi qua một số địa hình không bằng phẳng tạo ra thác nước và ghềnh, đi vào đồng bằng Nam Sudan và gần Juba, trở nên có thể điều hướng được, trước khi đi vào các khu vực lầy lội hơn. Tương tự như vậy, tôi tin tưởng rằng con đường dẫn đến hòa bình của nền Cộng hòa sẽ không diễn ra gập ghềnh, nhưng, bắt đầu từ thủ đô này, sẽ đi theo một lộ trình có thể điều hướng và không bị sa lầy bởi quán tính. Các bạn thân mến, đã đến lúc chuyển từ lời nói sang hành động. Đã đến lúc lật sang trang mới: đây là lúc cam kết thực hiện một sự biến đổi khẩn cấp và rất cần thiết. Tiến trình hòa bình và hòa giải đòi hỏi một khởi đầu mới. Mong sao đạt được sự hiểu biết và đạt được tiến bộ trong việc tiến lên phía trước với Hiệp định Hòa bình và Bản đồ Lộ trình! Trong một thế giới đầy rẫy chia rẽ và xung đột, đất nước này đang tổ chức một cuộc hành hương đại kết vì hòa bình, một điều hiếm thấy; nó đại diện cho một sự thay đổi hướng đi, một cơ hội để Nam Sudan tiếp tục chèo thuyền trong vùng nước lặng, tiến hành đối thoại, không có sự hai lòng và chủ nghĩa cơ hội. Cầu mong cho mọi người có dịp làm sống lại niềm hy vọng, không chỉ cho chính phủ, mà cho tất cả mọi người. Hãy để mỗi người dân hiểu rằng đã đến lúc không còn bị cuốn theo dòng nước ô nhiễm của hận thù, chủ nghĩa bộ lạc, chủ nghĩa khu vực và sự khác biệt sắc tộc. Anh chị em thân mến, đã đến lúc cùng nhau chèo thuyền hướng tới tương lai! Cùng nhau. Chúng ta không được quên từ này: cùng nhau.

Dòng chảy của dòng sông lớn cũng có thể gợi ý một cách để tiến về phía trước. Trên đường đi, sông Nile hợp lưu với một con sông khác ở Hồ No, tạo thành cái gọi là sông Nile Trắng. Lúc đó, nó là vùng nước trong suốt, phát sinh từ một cuộc gặp gỡ. Anh chị em thân mến, đây là con đường phải đi: tôn trọng nhau, tìm hiểu nhau và tham gia đối thoại. Đằng sau mọi hình thức bạo lực, đều có sự tức giận và oán giận, và đằng sau mọi hình thức giận dữ và oán giận, là ký ức không lành về những vết thương, sự sỉ nhục và sai trái. Theo đó, cách duy nhất để thoát khỏi những điều này là gặp gỡ, văn hóa gặp gỡ: bằng cách chấp nhận người khác như anh chị em của chúng ta và nhường chỗ cho họ, ngay cả khi điều đó có nghĩa là lùi một bước. Thái độ này, vốn cần thiết cho bất cứ tiến trình hòa bình nào, cũng không thể thiếu hữu ích cho sự phát triển gắn kết của xã hội. Trong quá trình quá độ từ sự đối đầu man rợ sang một nền văn hóa gặp gỡ sống còn, những người trẻ tuổi đóng một vai trò quyết định. Do đó, họ nên được cung cấp những không gian gặp gỡ cởi mở để gặp nhau và thảo luận. Cầu mong họ không sợ hãi nắm giữ tương lai vốn là của họ! Sau đó, những người phụ nữ, những người mẹ hiểu rõ sự sống được tạo ra và bảo vệ như thế nào, cần phải ngày càng được tham gia nhiều hơn vào đời sống chính trị và các quá trình ra quyết định. Phụ nữ cần được tôn trọng, vì bất cứ ai có hành vi bạo lực đối với phụ nữ là phạm tội đó với Thiên Chúa, Đấng đã lấy xác thịt từ một người phụ nữ.

Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, đã dạy chúng ta rằng chúng ta càng trở nên nhỏ bé, bằng cách nhường chỗ cho người khác và đón nhận mọi người lân cận như anh chị em, thì chúng ta càng trở nên cao cả hơn trước mắt Chúa. Lịch sử non trẻ của đất nước này, bị xâu xé bởi các xung đột sắc tộc, cần khám phá ra sự huyền bí của cuộc gặp gỡ, ân sủng của toàn thể. Cần phải nhìn xa hơn các nhóm và các khác biệt để hành trình như một dân tộc, giống như ở sông Nile, được làm giàu nhờ sự đóng góp của các nhánh khác nhau của nó. Hơn một thế kỷ trước, chính nhờ dòng sông mà những nhà truyền giáo đầu tiên đã đến những bờ biển này, tiếp theo, với thời gian, là nhiều nhân viên nhân đạo. Tôi muốn cảm ơn họ tất cả vì những công việc có giá trị mà họ đã làm. Đồng thời, tôi nghĩ đến những nhà truyền giáo, phải nói là rất buồn, đã gặp phải cái chết trong khi gieo rắc sự sống. Chúng ta đừng quên họ và đừng quên bảo đảm cho họ và cho những người làm công tác nhân đạo sự an toàn và hỗ trợ cần thiết cho các công việc bác ái của họ, để dòng sông thiện hảo có thể tiếp tục chảy.

Tuy nhiên, một dòng sông lớn đôi khi có thể tràn bờ và gây ra thảm họa. Đáng thương thay, đây là kinh nghiệm của nhiều nạn nhân lũ lụt ở đất nước này. Tôi bày tỏ sự gần gũi của mình với họ và kêu gọi để họ đừng thiếu sự giúp đỡ cần thiết. Các thiên tai kể cho chúng ta nghe câu chuyện về một thiên nhiên bị vùi dập và tổn thương, từ chỗ là nguồn sống có thể biến thành mối đe dọa chết người. Chúng ta cần có tầm nhìn xa để quan tâm đến sáng thế, vì lợi ích của các thế hệ tương lai. Tôi đặc biệt nghĩ đến sự cần thiết phải chống nạn phá rừng do trục lợi.

Để ngăn chặn một dòng sông bị lũ lụt, lòng sông phải được giữ sạch sẽ. Bỏ lại đằng sau những ẩn dụ, sự làm sạch cần thiết của dòng chảy cuộc sống trong xã hội được thể hiện bằng cuộc chiến chống tham nhũng. Sự phân phối các quỹ không công bằng, những kế hoạch bí mật để làm giàu, những thỏa thuận bảo trợ, sự thiếu minh bạch: tất cả những điều này làm ô nhiễm lòng sông của xã hội loài người; chúng chuyển hướng nguồn lực khỏi những điều cần thiết nhất. Trước hết, cần phải chống lại sự nghèo đói, là mảnh đất màu mỡ trong đó hận thù, chia rẽ và bạo lực bén rễ. Nhu cầu cấp thiết của bất cứ quốc gia văn minh nào là quan tâm đến công dân của mình, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất. Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến hàng triệu người tản cư đang sống ở đây: biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ nhà cửa của họ, và giờ đây thấy mình bị đẩy ra bên lề cuộc sống do hậu quả của các cuộc xung đột và buộc phải di tản!

Để các vùng nước mang lại sự sống không biến thành nguồn nguy hiểm chết người, điều cần thiết là dòng chảy của sông phải được kiểm soát bằng các bờ kè phù hợp. Điều này cũng đúng đối với sự chung sống của con người. Trên hết, cần phải kiểm soát dòng vũ khí, bất chấp lệnh cấm, vẫn tiếp tục đến nhiều quốc gia trong khu vực, bao gồm cả Nam Sudan: nhiều thứ cần thiết ở đây, nhưng chắc chắn không phải là có nhiều vũ khí tử thần hơn! Các hình thức xây kè khác là cần thiết để kiểm soát dòng chảy lành mạnh của đời sống xã hội. Ở đây, tôi muốn đề cập đến việc xây dựng các chính sách chăm sóc sức khỏe phù hợp, nhu cầu về cơ sở hạ tầng quan trọng và đặc biệt mục tiêu hàng đầu là thúc đẩy xóa mù chữ và giáo dục, cách duy nhất để trẻ em của vùng đất này có thể tự nắm lấy tương lai của mình. Giống như tất cả trẻ em của lục địa này và trên thế giới, chúng có quyền lớn lên được cầm trên tay những cuốn vở và đồ chơi, chứ không phải vũ khí và công cụ lao động.

Cuối cùng, sông Nile Trắng rời khỏi Nam Sudan, đi qua các quốc gia khác, nhập vào sông Nile Xanh rồi đổ ra biển. Những dòng sông không có biên giới; chúng kết nối các lãnh thổ khác nhau. Tương tự như vậy, để đạt được sự phát triển phù hợp, hơn bao giờ hết, điều cần thiết là phải thúc đẩy các mối quan hệ tích cực với các quốc gia khác, bắt đầu từ những quốc gia trong khu vực. Ở đây, tôi cũng nghĩ đến sự đóng góp quý báu của cộng đồng quốc tế đối với đất nước này, và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực nhằm thúc đẩy hòa giải và phát triển. Tôi tin rằng, để những đóng góp đó có kết quả, thì sự hiểu biết thực sự về các quá trình và vấn đề xã hội là điều cần thiết. Phân tích và báo cáo về chúng từ xa là không đủ; cần phải tham gia trực tiếp, với sự kiên nhẫn và quyết tâm, và nói chung, để chống lại sự cám dỗ áp đặt các mô hình được thiết lập sẵn xa lạ với thực tại địa phương. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói ba mươi năm trước ở Sudan: “Các giải pháp của châu Phi phải được tìm ra cho các vấn đề của châu Phi” (Diễn văn tại Lễ chào mừng, 10 tháng 2 năm 1993).

Thưa Tổng thống, thưa các nhà chức trách đáng kính, khi lần theo dòng chảy của sông Nile, tôi muốn mạo hiểm đi dọc theo con đường của đất nước này, ngay khi nó còn trẻ. Tôi nhận ra rằng một số điều tôi nói có vẻ thẳng thừng và trực tiếp, nhưng xin vui lòng biết rằng điều này xuất phát từ tình cảm và mối quan tâm mà tôi dành cho cuộc sống của đất nước qúy vị, cùng với những người anh em của tôi, những người mà tôi đã cùng đến đây với tư cách là những người hành hương của hòa bình. Chúng tôi muốn gửi đến qúy vị những lời cầu nguyện chân thành và sự hỗ trợ của chúng tôi để Nam Sudan có thể trải nghiệm sự hòa giải và thay đổi hướng đi. Ước gì con đường sống còn của nó không còn bị tràn ngập bởi bạo lực, bị sa lầy trong đầm lầy tham nhũng và bị ngăn chặn bởi sự tràn ngập của nghèo đói. Xin Chúa trên trời, Đấng yêu thương mảnh đất này, ban cho nó một mùa mới bình an và thịnh vượng. Xin Chúa phù hộ Cộng hòa Nam Sudan! Cảm ơn qúy vị.
 
Các nhà lãnh đạo đại kết ngỏ lời với các nhà cai trị Nam Sudan: Hòa bình nằm trong tay qúy vị
Vu Van An
05:06 04/02/2023

Theo VaticanNews, Tổng Giám mục Canterbury và Vị Điều hành Đại hội đồng của Giáo hội Scotland đang ở Nam Sudan cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong một “Chuyến hành hương vì Hòa bình” đã được lên kế hoạch từ lâu. Các vị đã có những lời trực tiếp dành cho các nhà lãnh đạo đất nước tại Cuộc họp với Chính quyền, Xã hội Dân sự và Ngoại giao đoàn ở Juba.



Đức Tổng Giám Mục Justin Welby và Tiến sĩ Iain Greenshields bày tỏ sự thất vọng về cách các chính trị gia Nam Sudan đã cổ vũ và thực hiện các cam kết vì hòa bình của họ và cho biết đất nước cần những nhà lãnh đạo quan tâm đến các giá trị và điều kiện mà người dân của họ đang sống.

Đức Tổng Giám Mục Welby và Tiến sĩ Greenshields đã nói chuyện với các nhà lãnh đạo chính trị của Nam Sudan vào chiều thứ Sáu, tại một cuộc họp khởi đầu chuyến hành hương đại kết diễn ra tại Dinh Tổng thống Nam Sudan.

Như đã loan tin, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các nhà lãnh đạo Nam Sudan ngăn chặn đổ máu. Sau bài diễn văn mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng, Đức Tổng Giám Mục Canterbury nhắc lại đã chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh ở đất nước này và những đau khổ và đau buồn mà nó gây ra khi ngài đến thăm quốc gia này 9 năm trước.

Đức Tổng Giám Mục Welby nhắc nhở những người hiện diện rằng, cùng với một cựu Điều hành viên của Giáo hội Scotland, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tổ chức một cuộc tĩnh tâm tại Vatican vào năm 2019 cho các nhà lãnh đạo của Nam Sudan.

“Chúng tôi đã cầu nguyện cho có một không gian để Chúa Thánh Thần hoạt động, và trong cuộc gặp gỡ đó, chúng tôi đã nhìn thấy khả thể hy vọng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã quỳ xuống hôn chân từng chính trị gia. Gần năm năm sau, chúng tôi lại đến với qúy vị cùng một cách này: quỳ gối để rửa chân, lắng nghe, phục vụ và cầu nguyện với qúy vị”.

Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục nói tiếp, khi nhớ lại những cam kết đã thực hiện vào năm 2019, ngài rất buồn trước những gì mắt thấy tai nghe.

“Chúng tôi hy vọng và cầu nguyện nhiều hơn nữa; chúng tôi mong đợi nhiều hơn nữa; qúy vị đã hứa nhiều hơn. Chúng tôi không thể lựa và chọn các phần của Thỏa thuận hòa bình. Mỗi phần phải được thực hiện bởi mọi người, và điều đó rất tốn phí”.

Hòa bình nằm trong tay qúy vị

Đức Tổng Giám Mục Welby tiếp tục nhấn mạnh rằng “câu trả lời cho hòa bình và hòa giải không nằm ở những chuyến viếng thăm như thế này mà nằm trong tay qúy vị”.

“Đối với những người dân Nam Sudan anh hùng, dũng cảm và can đảm, những người đã chiến đấu quá lâu cho tự do của họ và đã giành được nó,” ngài nói, chắc chắn họ là những người “có can đảm đấu tranh cho hòa bình và hòa giải.”

“[Hòa bình] ở trong tầm tay qúy vị, nó ở gần qúy vị, qúy vị có thể nắm lấy nó, với sự giúp đỡ của Chúa.”

Ngài kết luận, “Tôi cầu nguyện để chuyến viếng thăm này là chuyến viếng thăm của hy vọng và sự chữa lành, của thời gian dành cho nhau như một gia đình của Chúa Kitô, theo một Thiên Chúa duy nhất, Đấng mang chúng ta đến gần nhau hơn và đến với Người hơn”.

“Và tôi cầu nguyện nhiều nhất để lời cầu nguyện mà một nhóm học sinh tiểu học đã hát cho tôi nghe chiều nay được đáp ứng: chúng đã hát 'không tham nhũng nữa, chúng tôi muốn hòa bình ở Nam Sudan. Hãy cho chúng tôi hòa bình ở Nam Sudan! '”

Hòa bình nằm trong tầm tay của các nhà lãnh đạo

Trong bài phát biểu của mình, Tiến sĩ Iain Greenshields đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có hòa bình của Chúa Kitô.

Ông lớn tiếng, “Hôm nay, chúng ta cần sự bình yên đó. Chúng ta cần các giáo hội và các nhà lãnh đạo có trái tim quảng đại, tình yêu phóng khoáng và dồi dào ân sủng của Chúa. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo biết quan tâm tới các giá trị được các quốc gia của chúng ta đem ra sống, những người biết quan tâm tới các điều kiện trong đó người ta sinh sống, và là những người thể hiện niềm tin của họ trong việc làm giữa những người dễ bị tổn thương và bị thiệt thòi nhất.”

“Những điều này tạo nên hòa bình.”

Lưu ý rằng tất cả mọi người đều là những người cùng làm việc thiết yếu trong ước muốn của Thiên Chúa về một thế giới trong đó tất cả mọi người có thể sống một cuộc sống viên mãn, ngài nói rằng “nằm trong tầm tay của Tổng thống, các Phó Tổng thống, các nhà lãnh đạo và người dân Nam Sudan, là việc mở rộng phạm vi để toàn bộ đất nước trẻ trung và lạc quan này, nơi có đầy những người sẵn sàng làm việc vì một tương lai rực rỡ và viên mãn, có thể vươn tới công lý và lòng cảm thương”.

“Mong tất cả các nhà lãnh đạo chính trị, dân sự và quốc tế bắt tay nhau tìm kiếm lời hứa toàn diện của Chúa về cuộc sống viên mãn cho toàn thể dân Chúa.”
 
Vatican phát hành tem vinh danh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
Đặng Tự Do
17:03 04/02/2023


Một tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Danh dự qua đời, các dịch vụ bưu chính của Vatican vinh danh ngài bằng một con tem nêu bật lòng sùng kính của ngài đối với Đức Trinh Nữ Maria

Chỉ những nhà sưu tập cuồng nhiệt nhất và những người đam mê tem mới có thể quen thuộc với Văn phòng Philatelic và Numismatic của Vatican. Được quản lý bởi dịch vụ bưu chính của Vatican, tổ chức này chịu trách nhiệm phát hành, quảng bá và bán tiền xu, huy chương và tem, được sưu tập bởi những người sành sỏi trên khắp thế giới.

Bổ sung mới nhất của họ là một con tem để tôn vinh Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Nó được phát hành vào ngày 31 Tháng Giêng, đúng một tháng sau khi ngài qua đời, và có một bức ảnh được chụp vào năm 2009, khi Giáo hoàng đang đi nghỉ ở Thung lũng Aosta ở miền Bắc nước Ý. Thông cáo báo chí về con tem nói rằng văn phòng muốn nhắc lại lòng sùng kính của vị Giáo hoàng người Đức đối với Đức Trinh Nữ Maria.

“Những ai – như Mẹ Maria – hoàn toàn mở lòng ra với Thiên Chúa, sẽ đón nhận thánh ý Chúa, cho dù vượt quá trí hiểu loài người, cho dù nó thường không phù hợp với ý muốn của mình, và là một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn họ, như cụ già Simêon nói tiên tri với Đức Maria khi Chúa Giêsu được dâng trong Đền thờ (x. Lc 2:35),” Đức Bênêđictô XVI nói trong buổi tiếp kiến chung ngày 19 tháng 12 năm 2012.

Con tem cũng muốn bày tỏ “hương thơm của lòng biết ơn” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến trong bài giảng lễ an táng Đức Bênêđictô XVI vào ngày 5 tháng Giêng.

“Các tín hữu của Thiên Chúa, quy tụ nơi đây, giờ đây đồng hành và phó thác cho Người cuộc đời của vị mục tử của họ. Giống như những người phụ nữ ở ngôi mộ, chúng ta cũng đã đến với hương thơm của lòng biết ơn và hương thơm của hy vọng, để một lần nữa cho Người thấy tình yêu bất diệt. Chúng ta muốn làm điều này với cùng sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã ban cho chúng ta trong những năm qua. Cùng nhau, chúng ta muốn nói: “Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của người trong tay Cha”.

“Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!”

Con tem được in ở Bỉ, có giá 1,25 Euro (khoảng 1,36 USD) và chỉ có 105.000 bản được sản xuất.

Một Văn phòng ghi lại thời gian và lịch sử

Văn phòng Tem và Tiền xu của Vatican phát hành một số lượng nhất định tiền xu, huy chương và tem hàng năm để kỷ niệm các sự kiện cụ thể hoặc đơn giản là một năm trôi qua. Những thứ này sau đó được mua và bán bởi các nhà sưu tập trên khắp thế giới. Với mỗi đối tượng được tạo ra, một khoảng thời gian hoặc sự kiện nhất định được thể hiện và bất tử về mặt vật lý.

Ví dụ: vào tháng 6 năm 2022, Văn phòng đã phát hành một huy chương bạc dành riêng cho hòa bình ở Ukraine, số tiền thu được từ việc bán huy chương này sẽ được dùng để hỗ trợ những người chịu thiệt hại do chiến tranh. Huy chương trị giá 50 Euro (khoảng 54 đô la) có hình một bên là gia đình chạy trốn khỏi cuộc xung đột và bên kia là hình chim bồ câu và cành ô liu.

Văn phòng thậm chí còn có khu vực dành riêng trong Bảo tàng Vatican, nơi lưu giữ những con tem, đồng xu và huy chương quý hiếm từ triều đại giáo hoàng của Đức Giáo Hoàng Pius thứ 9 (1846-1878). Những ngày này có từ trước khi Nhà nước Thành phố Vatican chính thức ra đời, vào năm 1929 với việc ký kết Hiệp ước Lateran.
Source:Aleteia
 
Diễn từ của Đức Phanxicô với các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và chủng sinh Nam Sudan
Vu Van An
20:11 04/02/2023

Theo tin Tòa Thánh, trong ngày thứ hai thăm viếng Cộng hòa Nam Sudan, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tới Nhà thờ Thánh Therese (Juba) để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ. Trong cuộc gặp gỡ này, ngài khẩn khoản yêu cầu họ biết cảm thương và giầu lòng thương xót, không trở thành “lãnh chúa” hay “tù trưởng bộ lạc”. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của ngài, theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp:



Anh em giám mục, linh mục và phó tế thân mến,
Anh chị em tận hiến thân mến,
Các chủng sinh, tập sinh và ứng sinh thân mến, xin chào tất cả anh chị em một buổi sáng tốt lành!


Tôi đã mong chờ được gặp anh chị em, và tôi muốn cảm ơn Chúa vì cơ hội này. Tôi biết ơn Đức Giám Mục Tombe Trille về lời chào mừng và cám ơn tất cả anh chị em về sự hiện diện hôm nay cũng như lời chào mừng của anh chị em; một số anh chị em đã đi nhiều ngày để có mặt ở đây ngày hôm nay! Một số kinh nghiệm trước đây của chúng ta có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi: lễ kỷ niệm tại Đền thờ Thánh Phêrô vào năm 2017, khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho hồng phúc hòa bình, và cuộc tĩnh tâm vào năm 2019 với các nhà lãnh đạo chính trị, những người được yêu cầu ôm hôn, thông qua lời cầu nguyện, cương quyết theo đuổi hòa giải và tình huynh đệ ở đất nước này. Thật vậy, tất cả chúng ta cần ôm lấy Chúa Giêsu, bình an và niềm hy vọng của chúng ta.

Trong bài phát biểu của tôi ngày hôm qua, tôi đã vẽ ra hình ảnh dòng nước sông Nile chảy qua đất nước của anh chị em, như thể đó là xương sống của nó. Trong Kinh thánh, nước thường liên quan đến hoạt động của Thiên Chúa trong sáng thế, lòng cảm thương của Người làm dịu cơn khát của chúng ta khi chúng ta lang thang trong sa mạc, và lòng thương xót của Người trong việc tẩy sạch chúng ta khi chúng ta sa lầy trong tội lỗi. Trong phép rửa, Người thánh hóa chúng ta “nhờ nước tái sinh và đổi mới bởi Chúa Thánh Thần” (Tt 3:5). Từ cùng một quan điểm Kinh thánh, tôi muốn có một cái nhìn khác về nước sông Nile. Hòa vào dòng nước ấy là nước mắt của một dân tộc đắm chìm trong khổ đau và đau đớn, bị dày vò bởi bạo lực, những người có thể cầu nguyện như tác giả thánh vịnh, “Bên dòng sông Babylon, chúng tôi ngồi đó và khóc” (Tv 137:1). Thật vậy, dòng nước của dòng sông lớn ấy gom những tiếng thở dài và những đau khổ của cộng đồng anh chị em, chúng gom những nỗi đau của bao mảnh đời tan nát, chúng gom bi kịch của một dân tộc trốn chạy, những nỗi buồn và sợ hãi trong trái tim và đôi mắt của biết bao người phụ nữ và trẻ em. Chúng ta có thể nhìn thấy nỗi sợ hãi này trong mắt trẻ em. Tuy nhiên, đồng thời, nước sông Nile nhắc nhở chúng ta về câu chuyện của Môsê và do đó chúng cũng nói về sự giải thoát và sự cứu rỗi. Từ những vùng nước đó, Môsê đã được cứu và, bằng cách dẫn dắt dân tộc của mình qua Biển Đỏ, ông đã trở thành phương tiện giải thoát cho họ, một biểu tượng về sự giúp đỡ có tính cứu rỗi của Thiên Chúa, Đấng nhìn thấy nỗi đau khổ của con cái mình, nghe thấy tiếng kêu khóc của chúng và bước xuống để trả tự do cho họ (x. Xh 3:7). Khi nhớ lại câu chuyện về Môsê, người đã dẫn dân của Thiên Chúa băng qua sa mạc, chúng ta hãy tự hỏi việc làm người phục vụ Thiên Chúa có ý nghĩa gì đối với chúng ta trong một vùng đất đầy rẫy chiến tranh, hận thù, bạo lực và nghèo đói. Làm sao chúng ta có thể thi hành thừa tác vụ của mình trên vùng đất này, dọc theo bờ sông đã đẫm quá nhiều máu vô tội, giữa những khuôn mặt đẫm lệ của những người được giao phó cho chúng ta? Đây là câu hỏi. Và khi tôi nói về thừa tác vụ, tôi nói theo nghĩa rộng: tác vụ linh mục và phó tế và cả tác vụ dạy giáo lý, tác vụ giảng dạy, mà rất nhiều tu sĩ nam nữ, cũng như giáo dân, thi hành.

Để cố gắng trả lời điều này, tôi muốn suy nghĩ về hai khía cạnh trong tính cách của Môsê: sự hiền lành nhu mì việc cầu bầu của ông. Tôi nghĩ hai khía cạnh này liên quan đến cuộc sống của chúng ta ở đây.

Điều đầu tiên đánh động chúng ta về câu chuyện của Môsê là sự hiền lành nhu mì của ông, sự đáp ứng ngoan ngoãn của ông đối với sáng kiến của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta không nên nghĩ rằng mọi chuyện luôn diễn ra như vậy: lúc đầu, ông đã cố gắng tự mình chống lại sự bất công và áp bức. Được con gái của Pharaô cứu ở vùng nước sông Nile, sau đó ông phát hiện ra danh tính của mình và cảm động trước sự đau khổ và tủi nhục của những người anh em của mình, đến nỗi một ngày nọ, ông quyết định giành lấy công lý trong tay mình: ông đã giết một người Ai Cập đang đánh một người Do Thái. Kết quả ông phải chạy trốn đến sa mạc, nơi ông ở lại nhiều năm. Ở đó, ông đã trải qua một loại sa mạc nội tâm. Trước đây ông từng nghĩ mình có thể tự mình đương đầu với sự bất công nhưng giờ đây ông thấy mình là kẻ chạy trốn, cô đơn và lẩn trốn, nếm trải cảm giác thất bại cay đắng. Tôi tự hỏi: Sai lầm của Môsê là gì? Ông đã đặt mình làm trung tâm, và chỉ dựa vào sức mạnh của mình. Tuy nhiên, theo cách này, ông đã bị mắc kẹt trong cách làm việc tồi tệ nhất của con người chúng ta: ông đã đáp trả bạo lực bằng bạo lực.

Đôi khi, một điều gì đó tương tự có thể xảy ra trong cuộc sống của chính chúng ta với tư cách là linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh, nam nữ thánh hiến, tất cả chúng ta: trong thâm tâm, chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta là trung tâm của mọi sự, chúng ta có thể dựa vào, nếu không phải trên lý thuyết ít nhất là trong thực tế, hầu như chỉ dựa vào tài năng và khả năng của chính chúng ta. Hoặc, với tư cách là một Giáo hội, chúng tanghĩ rằng chúng ta có thể tìm ra câu trả lời cho những đau khổ và nhu cầu của mọi người thông qua các nguồn nhân lực, như tiền bạc, trí thông minh hoặc quyền lực. Thay vào đó, mọi điều chúng ta hoàn thành đều đến từ Thiên Chúa: Người là Chúa, và chúng ta được kêu gọi trở thành công cụ ngoan ngoãn trong tay Người. Môsê đã học được điều này khi, một ngày nọ, Thiên Chúa hiện ra với ông “trong ngọn lửa từ bụi gai” (Xh 3:2). Môsê thấy mình bị thu hút bởi cảnh tượng này; ông cởi mở để kinh ngạc và vì vậy, một cách nhu mì, ông tiến gần ngọn lửa đang cháy một cách kỳ lạ đó. Ông nghĩ: “Ta phải lại xem cảnh tượng vĩ đại này, và xem tại sao bụi gai không bị thiêu rụi” (c. 3). Đây là loại nhu mì hiền lành mà chúng ta cần trong thừa tác vụ của mình: sẵn sàng đến gần Thiên Chúa trong sự kinh ngạc và khiêm nhường. Anh chị em thân mến, anh chị em đừng đánh mất sự kỳ diệu của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa! Đừng đánh mất sự ngạc nhiên khi tiếp xúc với lời Chúa. Môsê để mình được lôi kéo đến với Thiên Chúa và được Người hướng dẫn. Quyền tối thượng không phải của chúng ta, quyền tối thượng là của Thiên Chúa: tín thác vào lời của Người trước khi chúng ta bắt đầu sử dụng lời của mình, ngoan ngoãn chấp nhận sáng kiến của Người trước khi chúng ta bị cuốn vào các dự án cá nhân và giáo hội của mình.

Bằng cách để cho Chúa uốn nắn mình trong sự nhu mì, chúng ta cảm nghiệm được sự đổi mới trong thừa tác vụ của mình. Trước sự hiện diện của Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải là những thủ lĩnh bộ lạc, nhưng là những mục tử đầy lòng cảm và xót thương; không phải là lãnh chúa, mà là tôi tớ cúi xuống rửa chân cho anh chị em chúng ta; chúng ta không phải là một cơ quan thế gian quản lý của cải trần gian, mà là cộng đồng con cái của Thiên Chúa. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy làm như Môsê đã làm trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta hãy cởi dép ra với lòng kính sợ khiêm tốn (xem câu 5) và từ bỏ lòng tự phụ của con người. Chúng ta hãy để mình được lôi kéo đến với Chúa và dành thời giờ cầu nguyện với Người. Mỗi ngày chúng ta hãy đến với mầu nhiệm của Thiên Chúa, để Người có thể làm chúng ta ngạc nhiên và đốt cháy những thứ gỗ chết khô của lòng kiêu hãnh và những tham vọng quá độ của chúng ta, và biến chúng ta thành những người bạn đồng hành khiêm nhường của tất cả những người được giao phó cho chúng ta chăm sóc.

Được lửa Thiên Chúa thanh tẩy và soi sáng, Môsê đã trở thành phương tiện cứu độ cho những anh chị em đau khổ của mình. Sự nhu mì của ông trước mặt Thiên Chúa khiến ông có khả năng cầu thay cho họ. Đây là khía cạnh thứ hai trong tính cách của ông mà tôi muốn thảo luận hôm nay: Môsê là một người cầu thay. Ông kinh nghiệm về một Thiên Chúa đầy lòng cảm thương, Đấng nghe thấy tiếng kêu cứu của dân Người và xuống giải cứu họ. Cụm từ này thật hay: Người xuống thế. Thiên Chúa giáng thế để giải cứu họ. Trong “sự hạ cố” của mình, Thiên Chúa xuống giữa chúng ta, thậm chí mặc lấy xác phàm của chúng ta trong Chúa Giêsu, trải qua cái chết và những giây phút hỏa ngục nhất của chúng ta. Người không ngừng xuống thế để nâng chúng ta lên. Những người cảm nghiệm Người được dẫn dắt để bắt chước Người. Giống như Môsê, người đã “xuống” ở giữa dân của mình nhiều lần trong thời gian lưu trú trong sa mạc. Thật vậy, vào những thời điểm quan trọng và thử thách nhất, ông sẽ lên núi có sự hiện diện của Thiên Chúa để chuyển cầu cho dân, nghĩa là, đứng vào vị trí của họ để đưa họ đến gần Thiên Chúa hơn, rồi đi xuống. Thưa các anh chị em, cầu thay “không có nghĩa đơn giản là ‘cầu nguyện cho ai đó’, như chúng ta thường nghĩ. Về mặt từ nguyên, nó có nghĩa là ‘bước vào giữa’, sẵn sàng bước vào giữa một tình huống” (C.M. Martini, Un grido di intercessione, Milan, 29 tháng 1, 1991). Đôi khi chúng ta không đạt được nhiều, nhưng chúng ta cần dâng lên một tiếng kêu cầu thay. Như vậy, chuyển cầu là đi xuống và đặt mình ở giữa dân tộc của mình, đóng vai trò như nhịp cầu nối họ với Thiên Chúa.

Chính nghệ thuật “đứng giữa” anh chị em chúng ta này mà các mục tử của Giáo hội cần trau dồi; đây phải là đặc điểm của họ: khả năng bước vào giữa những đau khổ và nước mắt của họ, vào giữa sự đói khát Thiên Chúa và khát khao tình yêu của họ. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta không phải là trở thành một Giáo hội được tổ chức hoàn hảo – bất cứ công ty nào cũng có thể làm được điều này – nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô, đứng giữa cuộc sống đầy khó khăn của mọi người, một Giáo hội sẵn sàng làm bẩn tay mình cho mọi người. Chúng ta không bao giờ được thi hành thừa tác vụ của mình bằng cách đuổi theo uy tín tôn giáo hay xã hội – sự xấu xa của chủ nghĩa nghề nghiệp – nhưng đúng hơn là bằng cách đi giữa và bên cạnh giáo dân của chúng ta, học cách lắng nghe và đối thoại, hợp tác như những thừa tác viên với nhau và với giáo dân. Hãy để tôi nhắc lại hạn từ quan trọng này: cùng nhau. Chúng ta đừng bao giờ quên điều đó: cùng nhau. Các giám mục và linh mục, linh mục và phó tế, mục tử và chủng sinh, thừa tác viên thụ phong và tu sĩ – luôn thể hiện sự tôn trọng đối với tính đặc thù tuyệt vời của đời sống tu trì. Chúng ta hãy cố gắng hết sức để xua đuổi sự cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân, của lợi ích đảng phái. Thật đáng buồn biết bao khi các mục tử của Giáo hội không có khả năng hiệp thông, khi họ không hợp tác và thậm chí phớt lờ nhau! Chúng ta hãy vun đắp sự tôn trọng lẫn nhau, gần gũi và hợp tác thiết thực. Nếu chính chúng ta không làm được điều này, làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác?

Bây giờ chúng ta hãy trở lại với Môsê và suy ngẫm về nghệ thuật cầu thay, chúng ta hãy nhìn vào đôi tay của ông. Kinh Thánh cống hiến cho chúng ta ba hình ảnh về vấn đề này: Môsê tay cầm gậy, Môsê dang tay, Môsê giơ tay lên trời.

Hình ảnh đầu tiên, Môsê với cây gậy trong tay, cho chúng ta biết rằng ông cầu thay bằng lời tiên tri. Với cây gậy đó, ông làm những điều kỳ diệu, những dấu hiệu về sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa; ông lên tiếng nhân danh Thiên Chúa, mạnh mẽ tố cáo sự áp bức mà người dân đang chịu đựng, và yêu cầu Pharaô để họ ra đi. Anh chị em thân mến, chúng ta cũng được mời gọi để chuyển cầu cho người dân của chúng ta, lên tiếng chống lại sự bất công và lạm dụng quyền lực áp bức và sử dụng bạo lực để đạt được mục đích của riêng họ giữa đám mây xung đột. Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không thể giữ thái độ trung lập trước những nỗi đau do những hành vi bất công và bạo lực gây ra. Vi phạm các quyền căn bản của bất cứ người nam hay người nữ nào là xúc phạm đến chính Chúa Kitô. Tôi rất vui khi nghe lời chứng của Cha Luka rằng Giáo hội không mệt mỏi thực hiện một sứ vụ vừa mang tính tiên tri vừa mang tính mục vụ. Cảm ơn cha! Cảm ơn cha vì nếu có một cám dỗ mà chúng ta phải đề phòng, thì đó là để mọi sự như hiện tại và không tham gia vào các tình huống vì sợ mất đặc quyền và đặc lợi.

Hình ảnh thứ hai là hình ảnh Môsê với đôi tay dang rộng. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng ông “đã giơ tay trên biển” (Xh 14:21). Đôi bàn tay mở rộng của ông là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa sắp thể hiện quyền năng của mình. Sau đó, ông Môsê sẽ cầm các bản Luật trong tay (x. Xh 34,29) và cho dân xem; bàn tay giơ cao của ông chứng tỏ sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng luôn tích cực đồng hành với dân của Người. Tự nó, lời tiên tri không đủ để giải thoát khỏi sự dữ: cần giang rộng vòng tay với anh chị em của chúng ta, để nâng đỡ họ trên hành trình của họ; vuốt ve đàn chiên của Chúa. Chúng ta có thể hình dung Môsê chỉ đường và nắm tay mọi người để khuyến khích họ kiên trì. Trong bốn mươi năm, ở tuổi già, ông vẫn ở bên cạnh họ: đó là ý nghĩa của sự gần gũi. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng: ông thường phải nâng đỡ tinh thần của những người đang chán nản và mệt mỏi, đói và khát, thậm chí đôi khi còn ương ngạnh và dễ càu nhàu và thờ ơ. Khi làm như vậy, Môsê cũng phải đấu tranh với chính mình, vì nhiều lúc, ông cũng trải qua những giây phút tăm tối và cô đơn, như khi ông thưa với Chúa: “Sao Chúa nỡ xử tệ với tôi tớ Chúa như vậy? Tại sao tôi không được ơn trước mặt Ngài, mà Ngài lại đặt gánh nặng của cả dân tộc này cho tôi? … Một mình tôi không thể gánh nổi cả dân tộc này, vì họ quá nặng đối với tôi” (Ds 11:11, 14). Hãy nhìn cách Môsê cầu nguyện: ông mệt mỏi. Tuy nhiên, ông không lùi bước: luôn gần gũi Chúa, ông không quay lưng lại với dân tộc của ông. Đây cũng là công việc của chúng ta: dang tay ra, đánh thức anh chị em của chúng ta, nhắc nhở họ rằng Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của Người, thúc giục họ tiến bước. Bàn tay của chúng ta được “xức dầu bằng Thần Khí” không chỉ để thực hiện các nghi thức thiêng liêng, mà còn để khuyến khích, giúp đỡ và đồng hành với mọi người bỏ lại phía sau bất cứ điều gì làm họ tê liệt, khép kín họ và khiến họ sợ hãi.

Cuối cùng – hình ảnh thứ ba – Môsê với hai tay giơ lên trời. Khi dân chúng sa vào tội lỗi và làm một con bò con bằng vàng cho mình, Môsê lại đi lên núi – hãy nghĩ xem ông phải có sự kiên nhẫn lớn biết bao! – và đọc một lời cầu nguyện, cho thấy ông vật lộn với Thiên Chúa, cầu xin Người đừng bỏ rơi Israel. Ông đi xa đến mức nói: “Dân này đã phạm một tội lớn; họ đã làm cho mình những vị thần bằng vàng. Nhưng bây giờ, xin Chúa tha tội cho họ, bằng không, xin xóa tên tôi khỏi cuốn sách Chúa đã viết” (Xh 32:31-32). Môsê đứng với dân chúng cho đến phút cuối cùng, giơ tay thay mặt họ. Ông không nghĩ đến việc tự cứu mình; ông không bán đứng nhân dân vì lợi ích của mình! Ông can thiệp, ông vật lộn với Thiên Chúa; ông vẫn giơ tay cầu nguyện trong khi các anh em ông chiến đấu trong thung lũng bên dưới (x. Xh 17,8-16). Mang những cuộc đấu tranh của người dân đến trước mặt Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, nhận được sự tha thứ cho họ, thực hiện sự hòa giải như những máng chuyển của lòng Thiên Chúa thương xót: đây là nhiệm vụ của chúng ta trong tư cách những người chuyển cầu.

Anh chị em thân mến, đôi bàn tay tiên tri này, vươn ra và giơ cao, đòi hỏi nỗ lực rất nhiều, điều này không dễ dàng chút nào. Để trở thành những ngôn sứ, những người bạn đồng hành và những người chuyển cầu, để thể hiện bằng cuộc sống của chúng ta mầu nhiệm về sự gần gũi của Thiên Chúa với dân của Người, chúng ta có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình. Nhiều linh mục và tu sĩ – như Nữ tu Regina đã nói với chúng ta về các chị em của mình – đã là nạn nhân của bạo lực và các cuộc tấn công khiến họ mất mạng. Một cách rất thực tế, họ đã hiến mạng sống mình vì Tin Mừng. Sự gần gũi của họ với các anh chị em của họ là một bằng chứng kỳ diệu mà họ để lại cho chúng ta, một di sản mời gọi chúng ta tiếp tục sứ mệnh của họ. Chúng ta hãy nghĩ đến Thánh Daniele Comboni, người đã cùng với các anh em thừa sai của mình thực hiện một công việc truyền giáo vĩ đại ở vùng đất này. Ngài thường nói rằng một nhà truyền giáo phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì Chúa Kitô và Tin Mừng. Chúng ta cần những tâm hồn can đảm và quảng đại sẵn sàng chịu đau khổ và chết vì Châu Phi.

Vì vậy, tôi muốn cảm ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em làm giữa rất nhiều thử thách và đau khổ. Thay mặt cho toàn thể Giáo hội, tôi xin cảm ơn anh chị em về sự cống hiến, lòng dũng cảm, sự hy sinh và sự kiên nhẫn của anh chị em. Cảm ơn anh chị em! Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện để anh chị em luôn là những mục tử và chứng nhân quảng đại, chỉ được trang bị bằng lời cầu nguyện và tình yêu; các mục tử và nhân chứng tự để bản thân mình, trong sự hiền lành nhu mì, không ngừng ngạc nhiên trước ân sủng của Thiên Chúa; và trở thành một phương tiện cứu rỗi cho những người khác, những mục tử và nhà tiên tri của sự gần gũi, những người đồng hành với mọi người, những người chuyển cầu với những cánh tay giơ cao. Xin Đức Trinh Nữ Maria bảo vệ anh chị em. Giờ phút này, chúng ta hãy thinh lặng nhớ lại những anh chị em của chúng ta, những người đã hy sinh mạng sống của họ trong thừa tác mục vụ ở đây, và chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Người luôn ở gần chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì sự “tử vì đạo” của họ đã đến gần. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng.

Cảm ơn vì sự chứng tá của anh chị em. Và, nếu anh chị em có chút thời gian, xin hãy cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em.
 
Bài nói chuyện của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các người di cư nội bộ của Nam Sudan
Vu Van An
21:39 04/02/2023

Theo tin Tòa Thánh, trong ngày thứ hai thăm viếng Cộng hòa Nam Sudan, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tới Hội trường Tự Do (Juba) với Đức Tổng Giám Mục Justin Welby và Tổng điều hợp Giáo hội Tô Cách Lan Iain Greenshields, để gặp gỡ đại diện các người di cư trong nước. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của ngài, theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.



Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em buổi chiều!

Cảm ơn anh chị em vì những lời cầu nguyện, chứng từ và ca hát của anh chị em! Tôi đã nghĩ đến anh chị em từ lâu, với một ước muốn ngày càng lớn là có được cuộc gặp gỡ này, được gặp anh chị em trực tiếp, được bắt tay anh chị em và ôm anh chị em. Giờ đây, cuối cùng, tôi ở đây, cùng với các anh em của tôi trong chuyến hành hương hòa bình này, để bày tỏ với anh chị em tất cả sự gần gũi, tất cả tình cảm của tôi. Tôi ở đây với anh chị em, và tôi đau khổ cho anh chị em và với anh chị em.

Joseph, con đã hỏi một câu hỏi quan trọng: “Tại sao chúng con phải chịu đựng trong trại dành cho những người tản cư?” Tại sao…? Tại sao rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên như con lại kết thúc ở đây, thay vì học ở trường hay vui chơi ở một nơi thoáng đãng? Con đã trả lời câu hỏi của chính con, khi con nói rằng đó là “vì những xung đột đang diễn ra trong nước”. Trước sự tàn phá do bạo lực của con người, cũng như do lũ lụt gây ra, hàng triệu anh chị em của chúng ta cũng như con, trong đó có nhiều bà mẹ có con, đã phải rời bỏ đất đai, bỏ làng mạc và nhà cửa của họ. Đáng buồn thay, ở đất nước bị chiến tranh tàn phá này, trở thành một người di tản hoặc một người tị nạn đã trở thành một trải nghiệm phổ biến và tập thể.

Đó là lý do tại sao tôi muốn lập lại lời kêu gọi mạnh mẽ và chân thành của mình để chấm dứt mọi xung đột và nối lại tiến trình hòa bình một cách nghiêm túc, để bạo lực có thể chấm dứt và mọi người có thể trở lại sống trong phẩm giá. Chỉ có hòa bình, ổn định và công bằng thì mới có phát triển và tái hòa nhập xã hội. Không có chỗ để chậm trễ hơn nữa: rất nhiều trẻ em được sinh ra trong những năm gần đây chỉ biết đến thực tế là các trại dành cho những người di tản. Các em không có ký ức về ý nghĩa của việc có một ngôi nhà; các em đang mất đi mối liên hệ với quê hương, cội nguồn và truyền thống của các em.

Tương lai không thể nằm trong các trại tị nạn. Johnson ạ, như con đã nói, tất cả trẻ em như con đều cần có cơ hội đến trường – và có sân để chơi bóng đá! Con cần phát triển như một xã hội cởi mở, các nhóm khác nhau cần hòa nhập và hình thành một dân tộc duy nhất bằng cách chấp nhận những thách thức của hội nhập, thậm chí học các ngôn ngữ được sử dụng trên khắp đất nước chứ không chỉ những ngôn ngữ trong nhóm dân tộc đặc thù của con. Điều này có nghĩa là chấp nhận rủi ro tuyệt vời khi biết và chấp nhận những người khác biệt, khám phá vẻ đẹp của tình huynh đệ được hòa giải và trải nghiệm thử thách đầy phấn khích trong việc tự do định hình tương lai của chính con cùng với tương lai của toàn thể cộng đồng. Điều tuyệt đối cần thiết là tránh tẩy chay các nhóm và cô lập hóa con người. Tuy nhiên, để giải quyết tất cả những thách thức này, cần phải có hòa bình. Và sự giúp đỡ của nhiều người, thực sự là của tất cả mọi người.

Tôi muốn cảm ơn Phó Đại diện Đặc biệt Sara Beysolow Nyanti [của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc] đã cho chúng ta hay rằng hôm nay là cơ hội để mọi người nhận ra những gì đã diễn ra trong nhiều năm ở đất nước này. Một quốc gia có cuộc khủng hoảng tị nạn kéo dài nhất trên lục địa: ít nhất bốn triệu trẻ em của vùng đất này đã phải di tản; mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến 2/3 dân số, và các dự báo dự đoán một thảm kịch nhân đạo có thể tồi tệ hơn trong năm nay. Vì vậy, tôi muốn cảm ơn bà, hơn hết là vì bà và nhiều người khác đã không ngồi phân tích tình hình mà đi thẳng vào công việc. Thưa bà, bà đã đi khắp đất nước; bà đã nhìn vào mắt của những bà mẹ và chứng kiến nỗi đau của họ đối với hoàn cảnh của con mình. Tôi đã rất xúc động khi bà nói rằng, bất chấp tất cả những gì họ đang phải chịu đựng, nụ cười và hy vọng chưa bao giờ phai nhạt trên khuôn mặt họ.

Tôi cũng đồng ý với những gì bà nói về họ: các bà mẹ, những người phụ nữ là chìa khóa để biến đổi đất nước. Nếu họ nhận được những cơ hội thích hợp, bằng sự cần cù và năng khiếu tự nhiên của họ trong việc bảo vệ sự sống, họ sẽ có khả năng thay đổi bộ mặt của Nam Sudan, mang lại cho nó một sự phát triển hòa bình và gắn kết! Tôi yêu cầu anh chị em, tôi yêu cầu tất cả người dân của những vùng đất này, hãy bảo đảm để phụ nữ được bảo vệ, tôn trọng, đánh giá cao và tôn vinh. Xin hãy bảo vệ, tôn trọng, đánh giá cao và tôn vinh mọi phụ nữ, mọi cô gái, thiếu nữ, mẹ và bà. Nếu không, sẽ không có tương lai.

Thưa anh chị em, một lần nữa tôi nhìn vào anh chị em. Tôi nhìn thấy đôi mắt anh chị em, mệt mỏi nhưng sáng ngời, đôi mắt không mất hy vọng. Tôi thấy miệng của anh chị em không mất đi sức mạnh để cầu nguyện và ca hát. Tôi thấy anh chị em với hai bàn tay trắng nhưng trái tim tràn đầy niềm tin. Anh chị em mang gánh nặng của một quá khứ đau buồn, nhưng anh chị em không bao giờ ngừng mơ ước về một tương lai tốt đẹp hơn. Trong buổi gặp mặt hôm nay, chúng tôi muốn chắp cánh cho niềm hy vọng của anh chị em. Chúng tôi hy vọng và tin rằng giờ đây, ngay cả trong các trại tị nạn dành cho những người di cư, nơi mà thật đáng buồn là anh chị em buộc phải sống vì hoàn cảnh của đất nước mình, một hạt giống mới có thể nảy mầm, giống như từ mảnh đất khô cằn và cằn cỗi: một hạt giống mới sẽ đơm hoa kết trái phong phú.

Đó là điều tôi muốn nói với anh chị em: rằng anh chị em là mầm mống của một thế hệ mới. Nam Sudan, hạt giống cho sự phát triển màu mỡ và tươi tốt của đất nước này. Anh chị em, từ tất cả các nhóm dân tộc khác nhau của anh chị em, anh chị em là những người đã đau khổ và vẫn đang đau khổ, anh chị em là những người không muốn đáp lại sự ác bằng sự ác hơn. Anh chị em, người chọn tình huynh đệ và sự tha thứ, thậm chí bây giờ đang vun đắp cho một ngày mai tốt đẹp hơn. Một ngày mai đang được sinh ra hôm nay, ở bất cứ nơi nào anh chị em sinh sống, từ khả năng hợp tác của anh chị em, để dệt nên những mạng lưới hiệp thông và những con đường hòa giải với những người, trong khi khác với bạn về sắc tộc và nguồn gốc, là những người hàng xóm của anh chị em. Thưa anh chị em, anh chị em hãy là những hạt giống hy vọng, giúp chúng ta có thể nhìn thấy thân cây mà một ngày nào đó, hy vọng trong tương lai gần, sẽ đơm hoa kết trái. Vâng, anh chị em sẽ là những thân cây hấp thụ ô nhiễm của nhiều năm bạo lực và khôi phục lại dưỡng khí của tình huynh đệ. Đúng vậy, ngay bây giờ anh chị em đang “được trồng” ở nơi mà anh chị em không muốn, nhưng chính từ hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh này, anh chị em có thể vươn tới những người xung quanh và cảm nghiệm được rằng tất cả anh chị em đều bắt nguồn từ một gia đình nhân loại. Từ đây, anh chị em phải bắt đầu lại, để nhận ra rằng tất cả anh chị em đều là anh chị em, là con cái dưới đất của Thiên Chúa trên trời, là Cha của tất cả chúng ta.

Anh chị em thân mến, nói đến rễ nhắc chúng ta rằng mọi cây cối đều mọc lên từ một hạt mầm. Một điều tốt đẹp là người dân ở đây quan tâm sâu sắc về cội nguồn của họ. Tôi nhớ đã đọc rằng ở những vùng đất này “không bao giờ được quên cội nguồn”, bởi vì “tổ tiên nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là ai và con đường của chúng ta phải như thế nào… Không có họ, chúng ta lạc lối, sợ hãi và không có kim chỉ nam. Không có tương lai nếu không có quá khứ” (C. Carlassare, La capanna di Padre Carlo. Comboniano tra i Nuer, 2020, 65). Ở Nam Sudan, những người trẻ tuổi lớn lên được hưởng lợi từ những câu chuyện của người già và, mặc dù chương của những năm gần đây là một chương bạo lực, nhưng có thể, và thực sự cần thiết, để bắt đầu một chương mới, bắt đầu từ chính anh chị em. Một chương mới của cuộc gặp gỡ, không quên những đau khổ trong quá khứ, nhưng chiếu tỏa ánh sáng vui tươi của tình huynh đệ; một chương không chỉ tập trung vào các báo cáo về thảm kịch, mà còn về khát vọng hòa bình mãnh liệt. Mong anh chị em, những người trẻ thuộc các dân tộc khác nhau, viết những trang đầu tiên của chương mới này! Mặc dù xung đột, bạo lực và hận thù đã thay thế những ký ức đẹp đẽ trên những trang đầu tiên của cuộc đời Cộng hòa này, nhưng bạn phải là người viết lại lịch sử của nó như một lịch sử hòa bình! Tôi cảm ơn anh chị em vì sức mạnh và sự kiên trì của anh chị em, và vì tất cả những điều tốt đẹp anh chị em làm, vốn làm hài lòng Thiên Chúa và làm phong phú thêm mỗi ngày trong cuộc sống của anh chị em.

Ngoài ra, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả những người đã giúp đỡ anh chị em, thường là trong những điều kiện khó khăn, nhưng cũng có những trường hợp khẩn cấp. Tôi cảm ơn các cộng đồng giáo hội vì những nỗ lực của họ, những nỗ lực đáng được hỗ trợ. Tôi cũng cám ơn các nhà truyền giáo và các tổ chức nhân đạo và quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, vì công việc quan trọng mà họ làm. Chắc chắn là một quốc gia không thể tồn tại nhờ các phương tiện hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt nếu quốc gia đó sở hữu một lãnh thổ quá giàu tài nguyên! Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, những phương tiện hỗ trợ đó là rất cần thiết. Tôi cũng muốn vinh danh nhiều nhân viên nhân đạo đã thiệt mạng, và cầu xin sự tôn trọng đối với những người giúp đỡ và các cơ cấu hỗ trợ người dân; họ không nên trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công và phá hoại. Cùng với sự hỗ trợ cần thiết khẩn cấp, tôi tin rằng trong tương lai, điều rất quan trọng là đồng hành cùng người dân trên con đường phát triển, chẳng hạn bằng cách giúp họ học hỏi những thực hành cập nhật trong lĩnh vực quản lý nông nghiệp và chăn nuôi, để tạo điều kiện cho sự phát triển độc lập hơn. Từ tận đáy lòng, tôi cầu xin tất cả mọi người: chúng ta hãy giúp đỡ Nam Sudan; chúng ta đừng bỏ rơi dân số của nó. Họ đã đau khổ và họ tiếp tục đau khổ rất nhiều!

Để kết luận, tôi muốn đề cập đến nhiều người tị nạn Nam Sudan sống ở nước ngoài và những người không thể trở về vì lãnh thổ của họ đã bị chiếm đóng. Tôi gần gũi với họ và tôi tin tưởng rằng họ có thể một lần nữa đóng vai trò tích cực trong việc định hình tương lai của vùng đất của họ và đóng góp vào sự phát triển của nó một cách xây dựng và hòa bình. Nyakuor Rebecca ạ, con đã yêu cầu cha ban phước lành đặc biệt cho trẻ em Nam Sudan, chính xác là để tất cả anh chị em có thể lớn lên cùng nhau trong hòa bình. Cả ba chúng tôi, với tư cách là anh em, sẽ ban phép lành: cùng với hiền đệ Justin và hiền đệ Iain của tôi, chúng tôi sẽ chúc lành cho tất cả anh chị em. Cùng với nó là việc chúc lành cho rất nhiều anh chị em Kitô hữu của chúng ta trên thế giới, những người ôm ấp và khuyến khích anh chị em, biết rằng anh chị em, đức tin, sức mạnh nội tâm và ước mơ hòa bình của anh chị em, tỏa sáng tất cả vẻ đẹp của nhân tính chung của chúng ta.
 
Diễn từ của Đức Phanxicô tại Buổi Cầu Nguyện Đại Kết ở Nam Sudan
Vu Van An
23:57 04/02/2023

Theo tin Tòa Thánh, trong ngày thứ hai thăm viếng Cộng hòa Nam Sudan, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tới Lăng John Garang (Juba) với Đức Tổng Giám Mục Justin Welby và Tổng điều hợp viên Giáo hội Tô Cách Lan Iain Greenshields, để chủ tọa buổi cầu nguyện đại kết. Nhân dịp này, ngài đã đọc một diễn từ với những người hiện diện. Sau đây là nguyên văn diễn từ của ngài, theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.



Thưa Tổng thống,
Thưa các nhà chức trách tôn giáo và dân sự,
Anh chị em thân mến
,

Từ mảnh đất yêu dấu này, bị tàn phá bởi bạo lực, nhiều lời cầu nguyện giờ đây đã được dâng lên thiên đàng. Nhiều giọng nói khác nhau đã hợp nhất để tạo thành một giọng nói duy nhất. Cùng với nhau, với tư cách là dân thánh của Thiên Chúa, chúng ta đã cầu nguyện cho dân tộc này và những đau khổ của họ. Là Kitô hữu, cầu nguyện là điều đầu tiên và quan trọng nhất mà chúng ta được kêu gọi thực hiện để làm việc cho điều thiện và tìm được sức mạnh cần thiết để kiên trì trên hành trình của mình. Cầu nguyện, làm việc và hành trình: chúng ta hãy suy niệm về ba động từ này.

Đầu tiên, cầu nguyện. Sự dấn thân lớn lao của các cộng đoàn Kitô hữu đối với sự phát triển con người, tình đoàn kết và hòa bình sẽ không có kết quả nếu không có lời cầu nguyện. Thật vậy, chúng ta không thể cổ vũ hòa bình mà không khẩn cầu Chúa Giêsu là “Hoàng Tử Hòa Bình” trước (Is 9:5). Bất cứ điều gì chúng ta làm cho người khác và chia sẻ với họ trước hết là một hồng phúc được ban cho nhưng không mà chúng ta, trong sự trắng tay, đã nhận được từ Người: đó là ân sủng, ân sủng thuần túy. Chúng ta là Kitô hữu vì chúng ta đã được Chúa Giêsu Kitô yêu thương nhưng không.

Sáng nay, tôi đã nói về nhân vật Môsê, và giờ đây, chính vì liên quan đến việc cầu nguyện, tôi muốn nhắc lại một biến cố có tính chất quyết định đối với ông và với dân của ông. Nó diễn ra khi ông bắt đầu dẫn dắt dân đến tự do. Khi họ đến bờ Biển Đỏ, Môsê và toàn thể dân Israel thấy mình rơi vào tình thế bế tắc. Trước mặt họ, họ nhìn thấy một bức tường nước không thể vượt qua; phía sau họ, lực lượng kẻ thù đang áp sát họ bằng chiến xa và ngựa. Điều đó há không nhắc nhở chúng ta về những ngày đầu của đất nước này, bị kẹt giữa dòng nước chết chóc, lũ lụt thảm khốc ập đến đất nước và bạo lực tàn khốc của chiến tranh đó sao? Tuy nhiên, trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, Môsê đã nói với dân chúng: “Đừng sợ, hãy đứng vững, rồi các ngươi sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa” (Xh 14,13). Tôi tự hỏi, Môsê đã tìm thấy sự chắc chắn này ở đâu giữa những nỗi sợ hãi và than thở thường xuyên của dân tộc ông? Sức mạnh đó đến với ông nhờ việc lắng nghe Chúa (xem các câu 2-4), Đấng đã hứa với ông rằng Người sắp tỏ vinh hiển của Người. Kết hiệp với Thiên Chúa, tín thác vào Người, vun trồng bằng lời cầu nguyện: đây là bí quyết của sức mạnh đã giúp Môsê dẫn dắt dân chúng từ áp bức đến tự do.

Điều này cũng đúng với chúng ta. Cầu nguyện cho chúng ta sức mạnh để tiến tới, để vượt qua nỗi sợ hãi của chúng ta, để thoáng thấy, ngay cả trong bóng tối, ơn cứu độ mà Thiên Chúa đang chuẩn bị ngay bây giờ. Hơn nữa, lời cầu nguyện đem ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống trên dân chúng. Lời cầu nguyện chuyển cầu đánh dấu cuộc đời của Môsê (x. Xh 32,11-14) là kiểu cầu nguyện mà chúng ta, với tư cách là những mục tử của dân thánh Thiên Chúa, được kêu gọi đặc biệt thực hành. Cầu nguyện để Chúa hòa bình can thiệp vào những nơi con người nam nữ bất lực mang lại hòa bình: một lời cầu bầu kiên trì và liên lỉ. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nâng đỡ nhau trong nỗ lực này. Trong sự đa dạng của các tuyên tín, chúng ta hãy cảm thấy hiệp nhất với nhau, như một gia đình, có trách nhiệm cầu nguyện cho mọi người. Trong các giáo xứ, nhà thờ của chúng ta, nơi ca ngợi và thờ phượng của chúng ta, chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện (x. Cv 1,14) để Nam Sudan, giống như dân Chúa trong Kinh thánh, “có thể đến đất hứa”. Chúng ta hãy cầu nguyện, trong tinh thần thanh thản, để các điều khoản công bằng sẽ được thực hiện cho việc sử dụng vùng đất trù phú và màu mỡ của nó và đất nước sẽ được tặng thưởng nền hòa bình đã hứa mà, đáng buồn, là vẫn chưa đến.

Chính vì hòa bình mà chúng ta được kêu gọi làm việc. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những người kiến tạo hòa bình (x. Mt 5:9). Người muốn Giáo hội của Người không chỉ là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa mà còn là sự hiệp nhất của toàn thể gia đình nhân loại (x. Lumen Gentium, 1). Thật vậy, như Thánh Phaolô nói với chúng ta, Chúa Kitô “là hòa bình của chúng ta” chính vì Người phục hồi sự hiệp nhất. Chính Người là Đấng “đã hợp nhất hai nhóm thành một và phá bỏ bức tường ngăn cách, tức là sự thù địch giữa chúng ta” (x. Eph 2:14). Hòa bình của Thiên Chúa là như vậy: không chỉ là một thỏa thuận đình chiến giữa các cuộc xung đột, mà còn là một tình bằng hữu huynh đệ đến từ sự hiệp nhất chứ không hút hết; từ việc tha thứ chứ không chế ngự; từ việc hòa giải chứ không áp đặt. Khát vọng hòa bình của thiên đàng lớn lao đến nỗi nó đã được công bố ngay từ lúc Chúa Kitô giáng sinh: “bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2:14). Chúa Giêsu đau khổ trước việc bác bỏ hồng ân mà ngài đến để mang đến này, đến nỗi Người đã khóc cho Giêrusalem mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra s những gì đem lại hòa bình cho ngươi!” (Lc 19:42).

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy làm việc không mệt mỏi vì nền hòa bình mà Thần Khí của Chúa Giêsu và Chúa Cha thúc giục chúng ta xây dựng: một nền hòa bình hội nhập sự đa dạng và thúc đẩy sự hiệp nhất trong sự đa dạng. Sự bình an của Chúa Thánh Thần hòa hợp những khác biệt, trong khi tinh thần thù địch với Thiên Chúa và nhân loại sử dụng sự đa dạng như một phương tiện chia rẽ. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng “con cái của Thiên Chúa và con cái của ma quỷ được tiết lộ theo cách này: tất cả những ai không làm điều công chính đều không phát xuất từ Thiên Chúa, và những ai không yêu thương anh chị em mình cũng vậy” (1 Ga 3:10). Các bạn thân mến, những người tự gọi mình là Kitô hữu phải chọn đứng về phía nào. Những ai chọn Chúa Kitô, luôn luôn chọn bình an; những kẻ khơi mào chiến tranh và bạo lực phản bội Chúa và chối bỏ Tin Mừng của Người. Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta rất rõ ràng: chúng ta phải yêu thương mọi người, vì mọi người đều được yêu thương như con cái của Cha chung trên trời. Tình yêu của người Kitô hữu không chỉ dành cho những người thân cận với chúng ta, mà còn dành cho tất cả mọi người, vì trong Chúa Giêsu, mỗi người đều là người thân cận, anh chị em của chúng ta – thậm chí cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5:38-48). Điều này càng đúng hơn biết bao đối với những người là thành viên của cùng một dân tộc, mặc dù thuộc các nhóm dân tộc khác nhau. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12): đó là giới răn của Chúa Giêsu, và nó mâu thuẫn với mọi cách hiểu “bộ tộc” về tôn giáo. “Để tất cả chúng nên một” (Ga 17:21). Đó là lời cầu nguyện chân thành của Chúa Giêsu dâng lên Đức Chúa Cha cho tất cả chúng ta là những người tin.

Thưa anh chị em, chúng ta hãy cùng nhau làm việc để nuôi dưỡng tình đoàn kết huynh đệ này giữa chúng ta với tư cách là các Kitô hữu, và giúp mang thông điệp hòa bình đến xã hội bằng cách truyền bá đường lối bất bạo động của Chúa Giêsu. Những người tự xưng là tín hữu không nên liên quan gì đến một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù. Tin Mừng không phải chỉ là một triết lý tôn giáo đẹp đẽ, mà là một lời tiên tri trở thành hiện thực trong lịch sử. Chúng ta hãy làm việc vì hòa bình bằng cách dệt và may vá, không phải bằng cách cắt hoặc xé. Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu, và khi theo Người, chúng ta cùng nhau bước đi trên con đường dẫn đến hòa bình (x. Lc 1:79).

Sau động từ cầu nguyện và làm việc, bây giờ chúng ta đến với động từ thứ ba: hành trình. Ở đất nước này, các cộng đồng Kitô giáo đã cam kết sâu sắc trong việc cổ vũ các diễn trình hòa giải. Tôi cảm ơn anh chị em vì chứng tá đức tin rạng ngời này phát sinh từ việc nhận thức, không chỉ được thể hiện bằng lời nói mà còn bằng hành động, trước bất cứ sự phân chia lịch sử nào, vẫn có một sự thật không thay đổi, đó là chúng ta là Kitô hữu; chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thật là một điều tuyệt vời, giữa những tình huống xung đột lớn, những người tuyên xưng đức tin Kitô giáo đã không bao giờ chia rẽ người dân mà đã, đang và tiếp tục là một nhân tố của sự hiệp nhất. Truyền thống đại kết này của Nam Sudan là một kho tàng quý giá, một hành động ca ngợi danh Chúa Giêsu và một hành động yêu thương dành cho Giáo hội, hiền thê của Người, một tấm gương cho tất cả mọi người về sự thăng tiến hiệp nhất Kitô giáo. Đó là một truyền thống được nuôi dưỡng trong cùng một tinh thần đó. Sự chia rẽ giáo hội trong các thế kỷ qua không nên có bất cứ tác động nào đối với những người đang được truyền bá Tin mừng, và việc truyền bá Tin Mừng phải góp phần vào sự phát triển hiệp nhất lớn hơn. Mong rằng chủ nghĩa bộ lạc và tinh thần đảng phái từng thúc đẩy các hành động bạo lực ở đất nước này không làm phương hại đến mối quan hệ giữa các giáo phái khác nhau. Trái lại, ước gì chứng tá về sự hiệp nhất giữa các tín hữu tràn lan đến toàn dân.

Ở đây, để kết thúc, tôi muốn gợi ý hai hạn từ chủ chốt giúp chúng ta kiên trì trong hành trình của mình: ký ức cam kết. Ký ức. Các bước của anh chị em theo chân những người đã đi trước anh chị em. Đừng sợ rằng anh chị em sẽ không theo kịp gương sáng của họ, nhưng hãy cảm thấy mình được thúc đẩy bởi những người đã dọn đường cho anh chị em. Giống như trong một cuộc chạy tiếp sức, hãy nắm lấy và giữ chặt chứng từ của họ khi anh chị em chạy về phía mục tiêu hiệp thông trọn vẹn và hữu hình. Sau đó, cam kết. Chúng ta tiến tới sự hiệp nhất khi tình yêu có tính cụ thể, khi chúng ta tham gia giúp đỡ những người bị ruồng bỏ, những người bị thương và những người bị tước quyền. Anh chị em đã làm điều này trong bất cứ lĩnh vực nào. Tôi đặc biệt nghĩ đến các lĩnh vực y tế, giáo dục và hoạt động bác ái. Anh chị em cung cấp cho mọi người sự hỗ trợ cần thiết biết bao! Cảm ơn anh chị em vì điều này. Hãy tiếp tục hỗ trợ họ, không bao giờ đóng vai trò như đối thủ cạnh tranh nhưng với như thành viên của một gia đình, anh chị em, những người, bằng lòng cảm thương đối với sự đau khổ, người yêu dấu của Chúa Giêsu, tôn vinh Thiên Chúa và làm chứng cho mối hiệp công mà Người yêu mến.

Các bạn thân mến, các anh em của tôi và tôi đã cùng nhau đến đây với tư cách là những người hành hương để được ở với các bạn, dân thánh của Thiên Chúa, trong cuộc hành trình của các bạn. Ngay cả khi khoảng cách ngăn cách chúng ta về mặt thể lý, chúng tôi luôn ở gần các bạn. Chúng ta hãy lên đường mỗi ngày bằng cách cầu nguyện cho nhau, cùng nhau làm chứng nhân và trung gian cho bình an của Chúa Giêsu, và kiên trì trên cùng một hành trình bằng những hành động bác ái và hiệp nhất thiết thực của chúng ta. Trong mọi sự, chúng ta hãy yêu thương nhau liên lỉ và hết lòng (x. 1Pr 1:22).
 
VietCatholic TV
Bất ngờ: Đức có sẵn hàng trăm tăng Leopard cho Ukraine. Đánh lớn, 840 binh sĩ Nga tử trận, SU-25 rớt
VietCatholic Media
03:06 04/02/2023


1. Giao tranh dữ dội, 840 binh sĩ Nga bị loại khỏi vòng chiến. Quân Ukraine bắn hạ Su-25 của Nga

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv sáng thứ Bẩy mùng 4 tháng Hai, Thứ trưởng Quốc phòng Ukraine Hanna Maliar cho biết trong ngày qua, giao tranh đã diễn ra dữ dội tại các khu vực khu vực Donetsk và Luhansk.

Tại khu vực Donetsk, một số Lữ Đoàn Dù của Nga được điều động từ thành phố Sormovsky, trong vùng Sormovo của Nga đã bổ sung cho Tập Đoàn Quân xe tăng cận vệ số 1. Từ thành phố Soledar bị tạm chiếm vào ngày 16 Tháng Giêng, nhóm này đã tấn công vào làng Mykolaivka, ở phía Tây Bắc Soledar.

Trong khi đó, Lữ Đoàn Dù 108 của Nga đã quay lại tấn công Klishchiivka. Giao tranh vẫn đang diễn ra. Theo Thứ trưởng Hanna Maliar, hai chiếc máy bay của không quân Nga đã trợ chiến cho lính Dù Nga. Lữ Đoàn Tác Chiến số 3 của Vệ Binh Quốc Gia đã bắn cháy một chiến đấu cơ Su-25 của Nga. Chiếc còn lại bỏ chạy.

Theo quân phòng thủ Ukraine, các đợt tấn công biển người đã ít xảy ra hơn. Có lẽ vì quân Nga chết nhiều, không còn nhiều quân để áp dụng chiến thuật này.

Tại khu vực Luhansk, quân Nga được tăng viện hàng ngàn quân từ các lực lượng dự bị mới hoàn thành việc huấn luyện tại Belarus. Đây là những người được huấn luyện bài bản và được xe tăng T-90 yểm trợ. Chính vì thế, họ đẩy lùi được quân Ukraine đang áp sát thành phố Kreminna. Giao tranh vẫn còn đang diễn ra ác liệt.

Thống Đốc Luhansk là ông Serhiy Haidai cho biết trước đó, quân Ukraine đã tiến sát đến cửa ngõ thành phố và hầu hết các lực lượng dân sự của Nga đã bỏ chạy về Rubizhne. Tuy nhiên, quân trong thành Kreminna rất đông đảo. Một trở ngại đáng kể nữa là quân Nga gài mìn khắp nơi. Ông cho biết phía Hoa Kỳ đề nghị quân Ukraine chờ cho các xe rà phá mìn đến được trước khi tấn công giải phóng thành phố này. Tướng Mark Milley, Tổng Tham Mưu Trưởng liên quân Hoa Kỳ, đã đưa ra lập trường trên trong cuộc họp báo sau cuộc họp quốc phòng Ukraine tại Căn cứ Không quân Ramstein ở Đức.

Sau khi được tăng viện, quân Nga đang đánh ra để giải tỏa áp lực.

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã nói rằng Ukraine sẽ tiếp tục chiến đấu vì Bakhmut chừng nào còn có thể, đồng thời thề rằng “không ai sẽ từ bỏ” thành phố “pháo đài” phía đông.

Phát biểu tại một cuộc họp báo với các quan chức hàng đầu của Liên minh Âu Châu, Zelenskiy cho biết:

Không ai sẽ cho đi Bakhmut. Chúng ta sẽ chiến đấu lâu nhất có thể. Chúng ta coi Bakhmut là pháo đài của mình.

Ukraine sẽ có thể giữ Bakhmut và giải phóng Donbas bị xâm lược “nếu nhận được vũ khí tầm xa”, Zelenskiy nói thêm.

Ông nói:

Nếu vũ khí tiếp tế được tăng nhanh, đặc biệt là vũ khí tầm xa, chúng tôi không những không rời Bakhmut mà còn bắt đầu giải phóng Donbas, vốn đã bị xâm lược từ năm 2014.

Thành phố Bakhmut ở vùng Donbas phía đông đã trở thành tâm điểm kháng cự của Ukraine và những nỗ lực mạnh mẽ của Mạc Tư Khoa nhằm giành lại động lực chiến trường.

Các quan chức Nga cho biết lực lượng của họ đang bao vây Bakhmut từ nhiều hướng và chiến đấu để giành quyền kiểm soát các con đường huyết mạch cũng là tuyến đường tiếp tế quan trọng cho lực lượng Ukraine.

Zelenskiy cho biết Nga sẽ tiếp tục đẩy mạnh các cuộc tấn công ở phía đông, nhưng các lực lượng Ukraine sẽ có thể cầm cự cho đến khi có thêm vũ khí phương Tây.

Trong 24 giờ qua, 840 binh sĩ Nga đã bị loại khỏi vòng chiến, cùng với 4 xe tăng, 6 xe thiết giáp, 3 hệ thống pháo, 2 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, một chiến đấu cơ Su-25, và 4 xe chuyển quân và nhiên liệu.

Tính chung từ ngày 24 tháng 2, 2022 đến 4 tháng Hai, Lực lượng Vũ trang Ukraine đã loại khỏi vòng chiến khoảng 129.870 binh sĩ Nga. Tổng thiệt hại chiến đấu của đối phương bao gồm 3.215 xe tăng, 6.388 xe bọc thép, 2.215 hệ thống pháo, 460 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, 222 hệ thống phòng không, 294 máy bay, 284 trực thăng, 1.952 máy bay không người lái, 796 hỏa tiễn hành trình, 18 tàu chiến, 5.068 xe chuyển quân và nhiên liệu,và 202 đơn vị thiết bị đặc biệt.

2. Bất ngờ cho Ukraine: Hàng trăm xe tăng từ Đức được đưa trao cho Kyiv

Chính phủ Đức đã đưa ra quyết định mang tính nguyên tắc cho phép các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng chuyển xe tăng Leopard 1 từ kho của họ sang Ukraine.

Phát ngôn viên chính phủ Đức Steffen Hebestreit cho biết điều này tại một cuộc họp báo ở Berlin hôm thứ Sáu, ngày 3 tháng 2.

“Tôi có thể xác nhận rằng giấy phép xuất khẩu đã được cấp,” Hebestreit nói.

Ông nói rằng đã có một thủ tục phê duyệt và nói thêm rằng các chi tiết sẽ sớm được đưa ra.

Ông nói rõ rằng các đại diện của ngành đã đưa ra một sáng kiến tương ứng với chính phủ: “Họ có những chiếc xe tăng như vậy và họ sẵn sàng bàn giao chúng. Nhưng điều này cần có sự chấp thuận.”

Leopard 1 là xe tăng chiến đấu chủ lực đầu tiên được sản xuất cho Quân đội Đức từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm 1980.

Một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Đức cho biết những chiếc xe tăng như vậy đã không còn phục vụ trong Bundeswehr kể từ năm 2003.

Hà Lan cho biết họ sẵn sàng bỏ tiền ra để mua những xe tăng này cho Ukraine. Leopard 1 được tin là vượt xa khả năng của loại xe tăng T-72 của Nga.

3. Ukraine cho rằng các trận đánh lớn sẽ diễn ra vào tháng 2 và tháng 3

Cường độ giao tranh ở miền đông Ukraine đang tiếp tục gia tăng trong nỗ lực của các lực lượng Nga nhằm thực hiện nhiệm vụ do tổng thống Nga ủy thác cho họ là đánh chiếm các khu vực miền đông Ukraine vào trước cuối tháng Ba.

Andrii Yusov, đại diện của Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng Ukraine, cho biết điều này trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv sáng thứ Bẩy 4 tháng Hai.

“Trong tháng 2 và tháng 3, chúng ta có thể phải chứng kiến các cuộc giao tranh rất tích cực. Nhiệm vụ của Putin là chiếm Donbas vào tháng Ba. Ông ta không được như ý đâu. Thời hạn chót cho việc chiếm Donbas đã bị hoãn lại nhiều lần. Cường độ mà chúng ta hiện đang quan sát ở Donbas là một nỗ lực để thực hiện các kế hoạch này. Không kể tổn thất về quân nhân và thiết bị, đối phương đang cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của nhà độc tài. Do đó, vâng, sẽ có những sự kiện tích cực trong tương lai gần,” ông nói.

Ông cũng nói thêm rằng “lực lượng quốc phòng Ukraine không chỉ chờ đợi mà không làm gì cả”.

4. Kẻ phản bội theo Nga thiệt mạng trong vụ nổ xe hơi ở Enerhodar

Yevhenii Kuzmin, một cựu nhân viên thực thi pháp luật Ukraine đã đào thoát sang đối phương, đã chết vì một vụ nổ xe hơi ở Enerhodar. Thị trấn vệ tinh này là nơi sinh sống của hầu hết công nhân của nhà máy điện hạt nhân Zaporizhia, nơi đã bị lực lượng xâm lược Nga xâm lược.

Ủy ban điều hành của Hội đồng thành phố Berdiansk đã thông báo tin này qua Telegram,

“Ở Enerhodar, cộng tác viên Yevhenii Kuzmin đã bị nổ tung. Trước khi bị xâm lược, anh ta là một sĩ quan thực thi pháp luật Ukraine, người sau đó đã chuyển sang phe địch. Hậu quả của vụ nổ là cộng tác viên đã thiệt mạng, một chiếc xe hơi khác bị hư hại và tất cả cửa sổ của một tòa nhà gần đó bị vỡ nát”.

Báo cáo đã được lực lượng xâm lược xác nhận trên mạng xã hội.

Trước đó, có thông tin cho rằng vào khoảng 7h sáng, một chiếc xe đã phát nổ tại thị trấn Enerhodar.

5. Bản tin tình báo của Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Vương Quốc Anh

Trong bản tin tình báo ngày 3 tháng Hai, Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Vương Quốc Anh cho biết như sau:

Quy mô chương trình tuyển dụng phạm nhân của Tập đoàn bán quân sự Wagner của Nga có lẽ đã giảm đáng kể so với mức cao nhất vào khoảng giữa mùa hè và mùa thu năm 2022.

Số liệu của Cơ quan Hình sự Liên bang Nga, gọi tắt là FSIN, công bố vào ngày 31 Tháng Giêng cho biết số tù nhân trên toàn quốc là 433.000 người, cho thấy số tù nhân đã giảm 6000 kể từ tháng 11 năm 2022. Trong khi đó, dữ liệu của FSIN cho thấy con số này giảm đến 23.000 người từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2022. Việc tuyển dụng của Wagner có thể là một yếu tố đóng góp chính cho sự sụt giảm này.

Trong một diễn biến khác, bằng chứng mang tính giai thoại từ các chiến binh Ukraine trong mười ngày qua cho thấy, trong các khu vực quan trọng, Nga đã giảm bớt sự phụ thuộc vào các cuộc tấn công kiểu biển người của các chiến binh Wagner là các cựu tù nhân. Căng thẳng đáng kể giữa Wagner và Bộ Quốc phòng Nga đang diễn ra trước mắt công chúng; sự cạnh tranh giữa các phe phái trong giới thượng lưu Nga có thể chịu trách nhiệm một phần cho việc giảm nguồn cung tù nhân.

6. Ukraine cho biết Nga gấp rút 'bổ sung' quân đội sau tổn thất lớn

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Russia Rushing to 'Replenish' Troops After Massive Losses: Ukraine”, nghĩa là “Ukraine cho biết Nga gấp rút 'bổ sung' quân đội sau tổn thất lớn.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ.

Theo Ukraine, để “bổ sung” những thiệt hại chiến tranh ước tính khá lớn, Nga đang tiếp tục tìm kiếm sự giúp đỡ từ các tù nhân bị kết án.

Nga hiện đã mất gần 130.000 nhân sự kể từ khi bắt đầu cuộc chiến vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, theo ước tính mới nhất từ Bộ Quốc phòng Ukraine. Theo Ukraine, Nga đã vượt mốc 100.000 ngay trước Giáng Sinh năm 2022, mặc dù những con số này không được Nga xác nhận.

Ngoài nhân sự, Ukraine báo cáo rằng Nga đã mất hơn 3.200 xe tăng, hơn 6.300 xe bọc thép chiến đấu và gần 300 máy bay quân sự.

Bộ Tổng tham mưu Lực lượng Vũ trang Ukraine đã viết trong một bản cập nhật hoạt động vào hôm thứ Sáu rằng Nga đang tiến hành một “chiến dịch tuyển mộ tù nhân” để “bổ sung” một số binh sĩ mà họ đã mất. Bộ Tổng tham mưu cho biết chỉ trong tuần trước, Nga đã tuyển dụng tới 1.000 lính đánh thuê từ các cơ sở cải huấn ở vùng Novosibirsk.

Newsweek không thể xác minh độc lập tuyên bố này và đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga để xác nhận và bình luận.

Các báo cáo khác trước đây đã đánh giá rằng Nga đang quay sang các tù nhân để củng cố lực lượng của mình.

Nhóm lính đánh thuê Wagner của Nga, từng tham gia vào cuộc chiến ở Ukraine, được cho là đã tuyển dụng một số lượng lớn tù nhân nam để chiến đấu trong cuộc chiến. Cơ quan tình báo quân sự của Ukraine cho biết vào tháng 10 năm ngoái rằng Tập đoàn Wagner đang tuyển dụng các tù nhân mắc các bệnh truyền nhiễm như HIV và viêm gan C.

Ngoài ra, người đứng đầu một nhóm bênh vực tù nhân đã nói với một hãng tin Nga vào tháng 10 năm 2022 rằng Tập đoàn Wagner đang tuyển hàng nghìn tù nhân từ các nhà tù hình sự của Nga ở các vùng xa xôi của đất nước. Để đổi lấy sự phục vụ của họ, Tập đoàn Wagner được cho là đã trao cho tù nhân tự do và tiền bồi thường, nhưng họ có thể phải đối mặt với một thực tế khắc nghiệt khi đến chiến trường.

Vào tháng 12, Bộ Quốc phòng Vương quốc Anh đã viết trong một bản cập nhật tình báo rằng trong cuộc chiến giành thị trấn Bakhmut bị bao vây từ lâu ở khu vực Donetsk phía đông Ukraine, Tập đoàn Wagner đã “phát triển các chiến thuật tấn công để sử dụng số lượng lớn tù nhân được đào tạo kém mà họ tuyển dụng được.”

Bộ Quốc Phòng Anh viết: “Ở cấp trung đội trở lên, các chỉ huy có thể vẫn ở trong các căn hầm kiên cố và ra lệnh qua radio, được thông báo bằng nguồn cấp dữ liệu video từ các phương tiện bay không người lái nhỏ”.

Trong khi đó, các đơn vị và đơn vị đặc nhiệm của Wagner được lệnh tiến hành các tuyến tấn công đã được lên kế hoạch trước, “thường có hỏa lực hỗ trợ, nhưng ít thường xuyên hơn cùng với các phương tiện bọc thép”

“Những chiến thuật tàn bạo này nhằm mục đích bảo tồn những tài sản quý hiếm của Wagner gồm các chỉ huy giàu kinh nghiệm và phương tiện bọc thép, với cái giá phải trả là những tân binh bị kết án, mà tổ chức đánh giá là có thể hoang phí”.

7. Mỹ và đồng minh công bố giá trần mới đối với các sản phẩm xăng dầu của Nga

Mỹ và các đồng minh đang cố gắng hạn chế hơn nữa khả năng kiếm tiền và tài trợ cho các nỗ lực chiến tranh của Nga với các giới hạn giá mới đối với các sản phẩm như xăng và dầu nhiên liệu.

Một quan chức cấp cao của Bộ Tài chính đã công bố các biện pháp trừng phạt bổ sung đối với việc bán năng lượng của Nga để đáp trả việc nước này xâm lược Ukraine.

“Ý định của chúng tôi không phải là làm sụp đổ nền kinh tế Nga,” quan chức này nói với các phóng viên vào ngày thứ Sáu. “Ý định của chúng tôi là khiến Điện Cẩm Linh không thể tiếp tục dùng kinh tế để phục vụ chiến tranh và cũng phải trả giá cho cuộc chiến của họ.”

Bộ Tài chính Mỹ thông báo thỏa thuận giữa Mỹ, G7, Liên minh Âu Châu và Australia đặt áp đặt giá đối với “các sản phẩm xăng dầu có nguồn gốc từ Nga vận chuyển bằng đường biển”. Có hai mức giá: một mức áp dụng cho các sản phẩm dầu mỏ “cao cấp so với dầu thô” như dầu diesel, dầu hỏa và xăng, sẽ được giới hạn ở mức 100 USD/thùng, và các sản phẩm dầu mỏ “giảm giá so với dầu thô” như dầu nhiên liệu, sẽ được giới hạn ở mức 45 USD mỗi thùng.

“Điều mà chúng ta tập trung vào là cắt giảm doanh thu,” quan chức này nói. “Chúng ta cũng đang theo đuổi chuỗi cung ứng và tổ hợp công nghiệp hóa quân sự của họ để họ không thể sử dụng số tiền họ có để mua vũ khí họ cần. Đường lối của chúng ta đối với vấn đề này thực sự là theo đuổi những điều cốt yếu đối với nỗ lực chiến tranh của Điện Cẩm Linh và khả năng hỗ trợ nền kinh tế của họ”.

Một số thông tin cơ bản: Vào tháng 12, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu đã thực hiện việc áp đặt giá đối với dầu thô - điều mà quan chức Bộ Tài chính cho biết đã cản trở khả năng tài trợ cho chiến tranh của Nga. Họ nói thêm rằng Nga đã “công khai thừa nhận” việc áp đặt giá đang gây tổn hại cho nền kinh tế của đất nước. Dữ liệu do Nga công bố cho thấy doanh thu thuế hàng tháng từ việc bán năng lượng đã giảm 46% so với tháng trước.

Các quan chức phớt lờ các báo cáo rằng bất chấp nhiều lệnh trừng phạt, nền kinh tế Nga vẫn được kỳ vọng sẽ phục hồi và thậm chí có thể vượt xa Đức và Anh. Quan chức cấp cao của Bộ Tài chính cho biết về mặt kinh tế, Nga “không còn hoạt động như một nền kinh tế bình thường nữa”.

“Họ đã đóng cửa phần lớn, nghĩa là nếu bạn có tiền của Nga, họ sẽ cho phép bạn tiếp tục gửi tiền vào Nga, nhưng bạn không thể rút tiền ra. Họ không còn cho phép vốn nước ngoài vào Nga nữa”, quan chức này nói. “Họ cần chi nhiều tiền hơn để hỗ trợ nền kinh tế của mình vì họ trở thành một nền kinh tế đóng cửa.”

8. Người đứng đầu Liên Hiệp Âu Châu cho biết vòng trừng phạt thứ 10 sẽ nhắm vào thương mại và công nghệ đằng sau cỗ máy chiến tranh của Nga

Người đứng đầu Liên minh Âu Châu Ursula von der Leyen cho biết đợt trừng phạt thứ 10 của khối đối với Nga sẽ nhắm vào hoạt động thương mại và công nghệ của Nga được Putin dùng để thúc đẩy cuộc chiến ở Ukraine.

“Chín gói trừng phạt của chúng ta đang có hiệu lực, và gói thứ 10 đang được triển khai,” von der Leyen cho biết như trên khi hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu-Ukraine kết thúc tại thủ đô Kyiv của Ukraine vào thứ Sáu.

Chủ tịch Ủy ban Âu Châu nhấn mạnh gói trừng phạt thứ 10 sẽ “đánh vào thương mại và công nghệ hỗ trợ cỗ máy chiến tranh của Nga”.

Phát biểu trong cuộc họp báo ở Kyiv trước đó vào hôm thứ Sáu, von der Leyen cho biết khối đặt mục tiêu công bố gói — sẽ có khối lượng 10,8 tỷ đô la (tương đương khoảng 10 tỷ euro) — vào ngày 24 tháng 2, kỷ niệm một năm Putin gây ra cuộc xâm lược vào Ukraine.

Cũng trong cuộc họp báo đó, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu sử dụng các biện pháp trừng phạt để ngăn Nga xây dựng lại năng lực quân sự.

9. Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ nói rằng các khoản tiền bị tịch thu từ tài phiệt Nga sẽ được chuyển cho viện trợ Ukraine

Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Merrick Garland đã công bố việc chuyển giao tài sản bị tịch thu đầu tiên từ các biện pháp trừng phạt chống lại một nhà tài phiệt Nga vào hôm thứ Sáu trong một lần xuất hiện với Tổng công tố Ukraine Andriy Kostin tại Bộ Tư pháp. Theo Garland, số tiền này sẽ được dùng để hỗ trợ Ukraine.

Ông Garland nói: “Hôm nay, tôi thông báo rằng tôi đã cho phép lần đầu tiên chuyển giao các tài sản bị tịch thu của Nga để sử dụng ở Ukraine. Những tài sản bị tịch thu này tuân theo thông báo mà tôi đã đưa ra vào tháng 4 năm ngoái về bản cáo trạng liên quan đến nhà tài phiệt Nga Konstantin Malofeyev, với tội danh trốn tránh lệnh trừng phạt.”

Vào tháng 6, hàng triệu đô la đã bị tịch thu từ tài khoản ngân hàng Hoa Kỳ thuộc về Malofeyev, người mà Hoa Kỳ đã tuyên bố trừng phạt vào tháng 4 “vì đã hành động hoặc có ý định hành động thay mặt, trực tiếp hoặc gián tiếp cho chính phủ Nga, Bộ Tài chính cho biết vào thời điểm đó.

“Với sự ủy quyền của tôi ngày hôm nay. Số tiền bị tịch thu tiếp theo sẽ được chuyển đến Bộ Ngoại giao để hỗ trợ người dân Ukraine,” tổng chưởng lý nói thêm. “Tội phạm chiến tranh Nga sẽ không tìm được nơi ẩn náu ở Hoa Kỳ.”

Kostin lặp lại tuyên bố của Garland hôm thứ Sáu, nói thêm rằng hai nước đang gửi một thông điệp rõ ràng: “Sẽ không có sự miễn trừ trong việc trừng phạt đối với các tội phạm quốc tế.”

“Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến việc ủy quyền chuyển giao tài sản bị tịch thu trị giá 5,4 triệu đô la Mỹ cho Bộ Ngoại giao nhằm mục đích tái thiết Ukraine bị chiến tranh tàn phá,” ông Kostin nói thêm.

“Chúng tôi rất biết ơn Hoa Kỳ vì những nỗ lực mạnh mẽ. Người Ukraine sẽ không bao giờ quên điều đó”, ông nói.
 
Phóng Sự Tông Du Congo: Đtc Gặp Gỡ Các Linh Mục, Tu Sĩ, Chủng Sinh
VietCatholic Media
05:22 04/02/2023


Thứ Năm 2 tháng 2, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem, người Việt Nam thường gọi là lễ Nến, tiếng Anh gọi là Candlemas. Đó cũng là Ngày Đời Sống Thánh Hiến.

Trong bối cảnh này, thật là xứng hợp khi Đức Thánh Cha Phanxicô có cuộc gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ và chủng sinh.

Chiều thứ Năm, ngày 02 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh Cha đã đến Nhà thờ chính tòa Đức Bà Congo, cách Tòa Sứ thần Tòa Thánh 3,6 cây số để gặp gỡ các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

Nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Kinshasa được xây cất hồi năm 1947, khi đất nước này còn là thuộc địa của Vương quốc Bỉ.

Đến nơi vào lúc 4 giờ 30 chiều, Đức Thánh Cha được Đức Hồng Y Fridolin Ambongo và cha sở giáo xứ đón tiếp và cùng tiến vào thánh đường. Ngài dừng lại tại khu mộ của các vị Tổng giám mục trước đây, tại nhà nguyện bên hông nhà thờ, trước khi tiến lên bàn thờ trong khi ca đoàn hát thánh ca.

Hiện diện trong cuộc gặp gỡ, có hàng ngàn đại diện giáo sĩ và tu sĩ toàn quốc Congo, ngồi chật thánh đường, cùng với hàng chục giám mục.

Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, bắt đầu với lời chào phụng vụ và lời chào mừng, giới thiệu của Đức Hồng Y Tổng giám mục sở tại, lời nguyện của Đức Thánh Cha, và lần lượt một linh mục, một nữ tu và một chủng sinh trình bày chứng từ.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Anh em linh mục, phó tế và chủng sinh thân mến,

Các tu sĩ nam nữ thân mến, chào anh chị em buổi tối và chúc anh chị em một ngày lễ vui vẻ!

Cha vui mừng được hiện diện với anh chị em hôm nay, vào ngày lễ Dâng Chúa vào Đền thờ, một ngày mà chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho đời sống thánh hiến. Giống như Simêon, tất cả chúng ta đều chờ đợi ánh sáng của Chúa để soi sáng bóng tối của cuộc đời chúng ta. Hơn nữa, tất cả chúng ta đều mong muốn có được cùng một cảm nghiệm mà ông Simêon đã có trong Đền Thờ Giêrusalem: ôm Chúa Giêsu trong vòng tay của chúng ta. Để ôm Người trong vòng tay, để chúng ta có thể chiêm ngưỡng Người và ôm Người vào lòng. Khi chúng ta đặt Chúa Giêsu làm trung tâm cuộc đời mình, thì cách nhìn của chúng ta thay đổi, và bất chấp mọi nỗ lực và khó khăn, chúng ta cảm thấy được ánh sáng của Người bao bọc, được Thần Khí của Người an ủi, được khích lệ bởi lời của Người và được nâng đỡ bởi tình yêu của Người.

Khi nói điều này, cha nghĩ đến những lời chào mừng của Đức Hồng Y Ambongo, và cha cảm ơn ngài về điều đó. Ngài chỉ ra “những thách thức to lớn” mà những người sống cam kết với chức linh mục và đời sống thánh hiến ở vùng đất được đánh dấu bởi “những điều kiện khó khăn và thường nguy hiểm” và nhiều đau khổ phải đối đầu này. Tuy nhiên, như ngài lưu ý, cũng có niềm vui lớn lao trong việc phục vụ Tin Mừng, và ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến thì dồi dào. Điều này là do ân sủng dồi dào của Thiên Chúa, hoạt động chính xác trong sự yếu đuối (x. 2 Cr 12:9), và làm cho anh chị em, cùng với giáo dân, có khả năng khơi dậy niềm hy vọng trong những hoàn cảnh thường đau khổ mà dân tộc anh chị em đang sống.

Sự chắc chắn này của chúng ta, ngay cả giữa những khó khăn, là một hồng phúc phát sinh từ lòng trung thành của Thiên Chúa. Qua tiên tri Isaia, Người nói: “Ta sẽ làm một xa lộ trong hoang địa và làm những dòng sông trong sa mạc” (43:19). Cha nghĩ cha sẽ cống hiến cho các con một số suy tư bắt đầu từ chính những lời của ngôn sứ Isaia: Thiên Chúa mở ra những con đường mới giữa sa mạc của chúng ta, và chúng ta, với tư cách là những thừa tác viên được thụ phong và những người được thánh hiến, được kêu gọi trở thành dấu chỉ của lời hứa này và giúp đem nó đến chỗ nên trọn vẹn trong lịch sử của Dân thánh Thiên Chúa. Tuy nhiên, một cách cụ thể, chúng ta được mời gọi để làm gì, nếu không phải là phục vụ giáo dân với tư cách là chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa? Isaia giúp chúng ta hiểu phải làm ra sao.

Qua những lời của vị ngôn sứ, Chúa nói với dân Người vào thời điểm đầy bi kịch, vì dân Israel đã bị lưu đày sang Babylon và bị biến thành nô lệ. Động lòng cảm thương, Chúa tìm cách an ủi họ. Thật vậy, đoạn này của ngôn sứ Isaia được gọi là “Sách An Ủi”, bởi vì Chúa nói với dân Người những lời hy vọng và những lời hứa cứu độ. Đầu tiên, Người nhắc lại mối dây yêu thương ràng buộc Người với dân tộc của Người: “Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc các ngươi; Ta đã gọi các ngươi bằng tên, các ngươi là của Ta. Khi các ngươi vượt qua vùng nước, ta sẽ ở bên các ngươi; và qua các con sông, chúng sẽ không tràn ngập các ngươi; khi các ngươi bước qua lửa, các ngươi sẽ không bị thiêu đốt, và ngọn lửa sẽ không thiêu đốt các ngươi” (43:1-2). Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa của lòng cảm thương, và Người bảo đảm với chúng ta rằng Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Người sẽ luôn ở bên chúng ta, là nơi nương tựa, là sức mạnh trong khó khăn. Chúa giàu lòng thương xót. Ba danh xưng của Thiên Chúa, ba nét đặc trưng của Người là lòng thương xót, cảm thương và dịu dàng, vì chúng cho thấy sự gần gũi của Thiên Chúa: một Thiên Chúa gần gũi, cảm thương và dịu dàng.

Các linh mục và phó tế, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh thân mến: qua các con, Chúa cũng muốn xức dầu cho dân Người hôm nay bằng dầu an ủi và hy vọng. Các con được mời gọi để lặp lại lời hứa này của Thiên Chúa, để nhắc nhở người khác rằng Người đã tạo dựng chúng ta và chúng ta thuộc về Người, đồng thời khuyến khích và đồng hành với hành trình đức tin của cộng đoàn hướng về Đấng luôn đồng hành với chúng ta. Thiên Chúa không để nước tràn ngập chúng ta, Lửa cũng không thiêu đốt chúng ta. Chúng ta hãy nhận ra rằng chúng ta đã được mời gọi để loan báo sứ điệp này giữa những đau khổ của con người. Đó là ý nghĩa của việc trở thành tôi tớ của dân chúng: trở thành linh mục, nữ tu và nhà truyền giáo, những người đã biết niềm vui của cuộc gặp gỡ giải thoát với Chúa Giêsu và bây giờ mang lại niềm vui đó cho người khác. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chức linh mục và đời sống thánh hiến trở nên khô khan nếu chúng ta bắt đầu nghĩ rằng người ta ở đó để phục vụ chúng ta, hơn là chúng ta ở đây để phục vụ họ. Mục tiêu của chúng ta không phải là một nghề nghiệp, một địa vị xã hội, hay một phương tiện chu cấp cho gia đình chúng ta ở quê nhà. Thay vào đó, đó là một sứ mệnh hành động như những dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Kitô, tình yêu vô điều kiện, sự hòa giải và tha thứ của Người, và mối quan tâm đầy cảm thương của Người đối với nhu cầu của người nghèo. Chúng ta đã được kêu gọi hiến mạng sống mình cho anh chị em mình, và mang đến cho họ Chúa Giêsu, Đấng duy nhất chữa lành vết thương của mọi trái tim.

Nếu chúng ta cảm nghiệm ơn gọi của mình theo cách này, chúng ta sẽ luôn có những thách thức phải đối đầu và những cám dỗ phải vượt qua. Cha muốn tập trung ngắn gọn vào ba trong số này: sự tầm thường tâm linh, sự thoải mái của thế gian và sự hời hợt.

Trước hết, chúng ta cần vượt qua sự tầm thường tâm linh. Bằng cách nào? Việc Dâng Chúa vào Đền thờ, mà Kitô giáo Đông phương gọi là “lễ gặp gỡ”, nhắc nhở chúng ta rằng ưu tiên trong cuộc sống của chúng ta phải là cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa, đặc biệt là trong lời cầu nguyện bản thân, bởi vì mối quan hệ của chúng ta với Người là nền tảng của mọi sự chúng ta làm. Đừng bao giờ quên rằng bí quyết của mọi sự là cầu nguyện, vì thừa tác vụ và hoạt động tông đồ chủ yếu không phải là công việc của chúng ta và không chỉ phụ thuộc vào các phương tiện của con người. Các con sẽ nói với cha: vâng, đúng như vậy, nhưng những cam kết, ưu tiên mục vụ, lao động tông đồ, mệt mỏi, v.v. có nguy cơ khiến chúng con không còn nhiều thời gian và sức lực để cầu nguyện. Đó là lý do tại sao cha muốn chia sẻ một vài lời khuyên. Trước hết, chúng ta hãy trung thành với một số nhịp cầu nguyện phụng vụ đánh dấu ngày này, từ Thánh lễ đến kinh nhật tụng. Việc cử hành Thánh Thể hàng ngày là nhịp đập của đời sống linh mục và tu sĩ. Các Giờ Kinh Phụng Vụ cho phép chúng ta cầu nguyện với Giáo Hội và đều đặn: Ước mong sao chúng ta đừng bao giờ lơ là việc này! Vì vậy, chúng ta cũng đừng bỏ bê việc Xưng tội. Chúng ta luôn cần được tha thứ, để sau đó ban tặng lòng thương xót cho người khác.

Bây giờ, lời khuyên thứ hai. Như tất cả chúng ta đều biết, chúng ta không thể giới hạn mình trong việc đọc thuộc lòng những lời cầu nguyện, nhưng phải dành ra một thời gian để cầu nguyện sốt sắng mỗi ngày, để luôn “tâm đầu ý hợp” với Chúa. Đó có thể là một thời gian dài để thờ lạy, suy niệm Lời Chúa, hoặc lần hạt Mân Côi, nhưng là thời gian gần gũi với Đấng mà chúng ta yêu mến hơn hết mọi sự. Ngoài ra, ngay cả khi đang hoạt động, chúng ta luôn có thể nhờ đến lời cầu nguyện của trái tim, những “ước nguyện” ngắn gọn – vốn là một kho tàng thực sự – những lời chúc tụng, tạ ơn và khẩn cầu, để lặp lại với Chúa ở bất cứ nơi nào chúng ta sống. Cầu nguyện giúp chúng ta không còn tập trung vào bản thân, nó mở lòng chúng ta với Thiên Chúa, và nó giúp chúng ta đứng vững vì nó đặt chúng ta trong tay Người. Nó tạo ra trong chúng ta không gian để có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa, để lời của Người trở nên quen thuộc với chúng ta và qua chúng ta, với tất cả những người chúng ta gặp gỡ. Không cầu nguyện, chúng ta sẽ không tiến xa được. Cuối cùng, để vượt qua sự tầm thường tâm linh, chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi kêu cầu Đức Mẹ, Mẹ của chúng ta, học nơi Mẹ để chiêm ngắm và bước theo Chúa Giêsu.

Thách thức thứ hai là vượt qua cám dỗ của tiện nghi trần tục, của cuộc sống dễ dãi, trong đó chúng ta ít nhiều sắp xếp mọi thứ và lùi lại, tìm kiếm sự thoải mái cho riêng mình, bị lôi cuốn không chút nhiệt tình. Theo cách này, chúng ta đánh mất trọng tâm sứ mệnh của mình, đó là bỏ cái tôi của mình lại phía sau và hướng về anh chị em mình, thực hành “nghệ thuật của sự gần gũi” nhân danh Chúa. Thông thường, trong những hoàn cảnh nghèo khó và đau khổ, có nguy cơ lớn về tính thế gian: mong muốn lợi dụng địa vị của mình để thỏa mãn những nhu cầu và tiện nghi của chính mình. Thật đáng buồn khi chúng ta thu mình lại và trở thành những quan chức lạnh lùng trong tinh thần. Thay vì phục vụ Tin Mừng, chúng ta lại quan tâm đến việc quản lý tài chính và theo đuổi một số công việc kinh doanh sinh lời cho chính mình. Thưa anh chị em, thật tai tiếng khi điều này xảy ra trong đời sống của một linh mục hay tu sĩ, vì thay vào đó, họ nên là những mẫu mực về sự điều độ và tự do nội tâm. Mặt khác, thật đẹp biết bao khi minh bạch trong các ý định của chúng ta và không thỏa hiệp với tiền bạc, vui vẻ đón nhận sự khó nghèo của Tin Mừng và sát cánh với người nghèo! Và thật đẹp biết bao khi được rạng ngời trong cuộc sống độc thân như một dấu hiệu của sự sẵn sàng hoàn toàn cho vương quốc của Thiên Chúa! Xin đừng để chính những tật xấu mà chúng ta muốn nhổ bỏ nơi người khác, và trong toàn thể xã hội, cuối cùng lại bén rễ trong chúng ta. Làm ơn, chúng ta hãy coi chừng những tiện nghi trần tục.

Cuối cùng, thử thách thứ ba là vượt qua cám dỗ hời hợt. dân Chúa đang chờ đợi để được nghe và tìm thấy niềm an ủi nơi lời Chúa. Do đó, họ cần các linh mục và tu sĩ được giáo dục, đào tạo đàng hoàng và đam mê Tin Mừng. Một hồng phúc đã được trao vào tay chúng ta, và chúng ta sẽ tự phụ khi nghĩ rằng mình có thể thực hiện sứ mệnh mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta mà không cần phải tự rèn luyện bản thân mỗi ngày và không được đào tạo thần học và thiêng liêng đầy đủ. Người ta không cần những “thánh chức”, có học vị nhưng tách biệt với những người nam nữ bình thường. Chắc chắn, chúng ta buộc phải đi vào trung tâm của mầu nhiệm Kitô giáo, đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về giáo huấn của Giáo hội, nghiên cứu và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta phải tiếp tục cởi mở với những vấn đề của thời đại chúng ta và những câu hỏi ngày càng phức tạp của thời đại chúng ta, để hiểu cuộc sống và nhu cầu của mọi người, đồng thời nhận ra cách tốt nhất để nắm lấy tay họ và đồng hành với họ. Hệ luận là, việc đào tạo hàng giáo sĩ không phải là một sự bổ sung tuỳ ý. Tôi nói điều này với các chủng sinh, nhưng nó áp dụng cho tất cả mọi người. Việc đào tạo phải được tiếp tục; nó phải tiếp tục trong suốt cuộc đời của chúng ta. Nó được gọi là sự đào tạo liên tục: một sự đào tạo liên tục, suốt đời.

Chúng ta phải đương đầu với những thách thức này nếu chúng ta muốn phục vụ người ta trong tư cách nhân chứng của tình yêu Thiên Chúa, vì việc phục vụ chỉ có hiệu quả nếu nó đến qua nhân chứng. Đừng bao giờ quên hạn từ này: nhân chứng. Sau khi công bố những lời an ủi, Chúa nói qua ngôn sứ Isaia: “Ai trong họ đã tuyên bố điều này và báo trước cho chúng ta những điều trước đây? Các ngươi là nhân chứng của Ta” (43:9, 10). Nhân chứng. Để trở thành những linh mục, phó tế và những người thánh hiến tốt lành, lời nói và ý định là chưa đủ: chính cuộc sống của các con phải nói lớn hơn lời nói của các con. Anh chị em thân mến, khi nhìn anh chị em, tôi tạ ơn Chúa, vì anh chị em là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đi trên đường phố của đất nước này, Đấng chạm đến cuộc sống của mọi người và băng bó những vết thương của họ. Tuy nhiên, cần có thêm những người trẻ có thể thưa “xin vâng” với Chúa, cần thêm nhiều linh mục và tu sĩ có thể chiếu tỏa vẻ đẹp của Người bằng cuộc sống của họ.

Trong các chứng từ của mình, các con đã nhắc nhở cha rằng thật khó khăn biết bao khi thi hành sứ mệnh của mình ở một vùng đất giàu vẻ đẹp thiên nhiên và tài nguyên, nhưng lại bị tổn thương bởi nạn bóc lột, tham nhũng, bạo lực và bất công. Tuy nhiên, các con cũng đã nói về dụ ngôn Người Samari nhân hậu, và cách Chúa Giêsu đi trên đường phố của chúng ta và, đặc biệt là qua Giáo hội của Người, dừng lại và chăm sóc vết thương của những người bị áp bức. Thưa anh chị em, mục vụ mà anh chị em được kêu gọi chính là điều này: mang đến sự gần gũi và an ủi, giống như ánh sáng không ngừng chiếu sáng giữa bóng tối bao trùm. Chúng ta hãy học nơi Chúa, Đấng luôn gần gũi. Và trở thành anh chị em với mọi người, đặc biệt với nhau: chứng nhân của tình huynh đệ, không bao giờ có chiến tranh; nhân chứng của hòa bình, học cách chung sống với sự khác biệt giữa các nền văn hóa và sắc tộc khác nhau. Vì, như Đức Bênêđictô XVI đã lưu ý, khi nói chuyện với các linh mục ở Châu Phi, “chứng tá của anh chị em về việc chung sống hòa bình, bất chấp sắc tộc và chủng tộc, có thể đánh động các trái tim” (Africae Munus, 108).

Như một câu ngạn ngữ cổ đã nói: “Gió không làm gãy bất cứ thứ gì có thể uốn cong được.” Đáng buồn thay, lịch sử của nhiều dân tộc trên lục địa này đã phải uốn cong trước sức mạnh của đau khổ và bạo lực. Nếu trong lòng mỗi người đều có một ước muốn, thì đó là không bao giờ phải làm như vậy nữa, không bao giờ phải cúi mình trước sự kiêu ngạo của kẻ quyền thế, không bao giờ phải khuất phục trước ách bất công. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu câu tục ngữ chủ yếu theo nghĩa tích cực: có một kiểu uốn cong không đồng nghĩa với yếu đuối hay hèn nhát mà đồng nghĩa với sức mạnh. Do đó, uốn cong có thể là dấu hiệu của khả năng mềm dẻo, vượt qua sự cứng ngắc, và vun trồng một tinh thần ngoan ngoãn không khuất phục trước cay đắng và oán giận. Đó là dấu hiệu của khả năng thay đổi và không cố thủ trong ý tưởng và chủ trương của chính mình. Nếu chúng ta cúi đầu khiêm nhường trước Thiên Chúa, Người sẽ khiến chúng ta trở nên giống như Người, là những tác nhân của lòng thương xót. Nếu chúng ta mãi ngoan ngoãn trong tay Thiên Chúa, thì Người uốn nắn chúng ta trở thành một dân tộc hòa giải, có khả năng cởi mở và đối thoại, chấp nhận và tha thứ, những người làm cho những dòng sông hòa bình chảy qua những vùng đồng bằng khô cằn đầy bạo lực. Do đó, khi những cơn gió bão của sự xung đột và chia rẽ thổi qua, chúng ta không bị tan vỡ, vì chúng ta tràn đầy tình yêu thương của Thiên Chúa. Mong sao các con luôn ngoan ngoãn với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, không bao giờ bị sóng gió chia rẽ làm tan vỡ.

Thưa anh chị em, tôi chân thành cảm ơn anh chị em về con người của anh chị em và những gì anh chị em làm; Tôi cảm ơn anh chị em vì chứng tá của anh chị em cho Giáo hội và thế giới. Đừng nản lòng, vì chúng tôi cần anh chị em! Anh chị em là quý giá và quan trọng. Tôi nói điều này nhân danh toàn thể Giáo hội. Xin cho anh chị em luôn là những máng chuyển sự hiện diện đầy an ủi của Chúa, những chứng nhân vui tươi của Tin Mừng, những ngôn sứ của hòa bình giữa những cơn bão bạo lực, những môn đệ của tình yêu, luôn sẵn sàng chăm sóc những vết thương của người nghèo và người đau khổ. Tôi xin cám ơn anh chị một lần nữa; cảm ơn anh chị em vì sự phục vụ và lòng nhiệt thành mục vụ của anh chị em. Tôi ban phước cho anh chị em và mang anh chị em trong trái tim của tôi. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi! Cảm ơn anh chị em!

Bài có liên quan
 
Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Congo. Khí phách anh hùng của Giám Mục Trung Quốc
VietCatholic Media
05:25 04/02/2023

Sáng thứ Sáu, ngày 03 tháng Hai, sau khi dâng thánh lễ riêng tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Kinshasa, lúc 8g 30 sáng, Đức Thánh Cha đã đến trụ sở của Hội Đồng Giám Mục Cộng Hòa Dân chủ Congo để gặp gỡ các Giám Mục nước này, trước khi ra phi trường quốc tế của thủ đô Kinshasa để bay đi Nam Sudan.

Giáo Hội Công Giáo tại Cộng hòa Dân chủ Congo là một trong những Giáo Hội lâu đời nhất ở khu vực cận Sahara, có từ năm 1491. Vào năm đó, Vua Kongo Nzinga-a-Nkuwu và gia đình của ông đã được cải đạo và rửa tội bởi các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha. Ông được kế vị ngai vàng vào năm 1506 bởi con trai của mình, Nzinga Mbemba, người đã cố gắng chuyển Congo thành một quốc gia Công Giáo. Năm 1596, Giáo phận Sāo Salvador được thành lập. Tuy nhiên, Kitô giáo chỉ có thể bén rễ trong xã hội Congo ba thế kỷ sau đó.

Trong bài phát biểu của mình với các Giám Mục nước này, Đức Thánh Cha xin lỗi vì đã khiến các Giám mục phải chuẩn bị hai lần cho chuyến thăm của ngài, vì ngài dự kiến ban đầu sẽ đến thăm vào tháng 7 năm 2022.

Ngài cũng nói với các Giám Mục về sứ mệnh của họ là xây dựng đức tin của người dân Congo và bảo vệ “vẻ đẹp của Tạo hóa” trong khu rừng rộng lớn xanh tươi của Cộng Hòa Dân Chủ Congo.

Ngài nói thêm, Giáo hội địa phương cũng đau khổ với giáo dân của mình trong những thử thách của họ, cũng như vui mừng với niềm vui của họ.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ toàn văn diễn từ của Đức Thánh Cha qua phần trình bày của Túy Vân

Anh em Giám mục thân mến, chào anh em buổi sáng!

Tôi rất vui được gặp anh em và tôi gửi đến anh em lòng biết ơn chân thành vì sự chào đón nồng nhiệt của anh em. Tôi cảm ơn Đức Tổng Giám Mục Utembi Tapa vì những lời chúc tốt đẹp nhân danh anh em. Tôi biết ơn về cách mà anh em đã can đảm loan báo niềm an ủi của Chúa, đi giữa dân tộc của anh em và chia sẻ những gian khổ và hy vọng của họ.

Tôi rất vui khi được trải qua những ngày này tại đất nước của anh em, nơi có khu rừng rộng lớn, tượng trưng cho “trái tim xanh” của châu Phi, là lá phổi cho toàn thế giới. Tầm quan trọng của di sản thiên nhiên này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi bảo vệ vẻ đẹp của sáng thế và bảo vệ nó khỏi những vết thương gây ra bởi lòng tham và sự ích kỷ. Khoảng không bao la xanh tươi này là khu rừng của anh em cũng là một hình ảnh nói lên đời sống Kitô hữu của chúng ta. Là một Giáo hội, chúng ta cần hít thở bầu không khí trong lành của Tin Mừng, để xua tan bầu không khí nhơ nhớp của thế gian, để bảo vệ trái tim trẻ trung của đức tin. Đó là cách tôi hình dung về Giáo hội Châu Phi và đó là cách tôi nhìn Giáo hội Congo này: một Giáo hội trẻ trung, năng động và vui tươi, được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành truyền giáo, bởi tin mừng rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Chúa Giêsu là Chúa. Giáo Hội của anh em là một Giáo hội hiện diện trong lịch sử sống động của dân tộc này, bắt nguồn sâu xa trong cuộc sống hàng ngày của họ và đi đầu trong hoạt động bác ái. Đó là một cộng đồng có khả năng thu hút những người khác, tràn đầy lòng nhiệt tình dễ lây lan và do đó, giống như những khu rừng của anh em, có rất nhiều “oxy”. Cảm ơn anh em, vì anh em là lá phổi giúp Giáo hội hoàn vũ thở!

Mở đầu đoạn văn bằng hạn từ “buồn” là điều không tốt, nhưng tôi vẫn phải làm! Buồn thay, tôi biết rằng cộng đồng Kitô giáo của vùng đất này cũng có một bộ mặt khác. Thật vậy, khuôn mặt trẻ trung, sáng ngời và cao quý của anh em cũng lộ rõ sự đau đớn và mệt mỏi, đôi khi sợ hãi và nản lòng. Đó là khuôn mặt của một Giáo hội đau khổ vì dân tộc của mình, một trái tim trong đó cuộc sống của dân tộc, với những niềm vui và thử thách, đập một cách lo lắng. Một Giáo Hội là dấu chỉ hữu hình của Chúa Kitô, Đấng thậm chí ngày nay vẫn còn bị bác bỏ, lên án và sỉ nhục nơi nhiều người bị đóng đinh trên thế giới của chúng ta; một Giáo hội khóc bằng nước mắt của họ, và giống như Chúa Giêsu, cũng muốn lau khô những giọt nước mắt đó. Một Giáo hội quan tâm đến việc ôm lấy những vết thương vật chất và tinh thần của con người và làm cho nước hằng sống và chữa lành từ cạnh sườn Chúa Kitô chảy tràn trên họ.

Anh em thân mến, cùng với anh em, tôi thấy Chúa Giêsu đau khổ trong lịch sử của dân tộc này, một dân tộc bị đóng đinh và áp bức, bị tàn phá bởi bạo lực tàn nhẫn, bị hủy hoại bởi những đau khổ vô tội, buộc phải sống với dòng nước nhơ nhuốc của tham nhũng và bất công làm ô nhiễm xã hội, và để chịu cảnh nghèo đói ở rất nhiều con cái của nó. Tuy nhiên, đồng thời, tôi thấy một dân tộc không mất hy vọng, nhưng nhiệt thành đón nhận đức tin và hướng về các mục tử của mình. Tôi thấy một dân tộc có thể quay về với Chúa và phó thác trong tay Người, để nền hòa bình mà họ mong mỏi, mặc dù bị bóp nghẹt bởi sự bóc lột, ích kỷ đảng phái, nọc độc của xung đột và thao túng sự thật, cuối cùng cũng có thể đến như một hồng phúc từ trên cao.

Điều này nêu ra câu hỏi: làm thế nào chúng ta thi hành thừa tác vụ của mình trong hoàn cảnh này? Khi tôi nghĩ về anh em, những người chăn chiên của Dân thánh Thiên Chúa, tôi chợt nhớ đến câu chuyện của Giêrêmia. Giêrêmia là một ngôn sứ được kêu gọi thi hành sứ mệnh của chính mình vào một thời điểm đầy kịch tính trong lịch sử Israel, giữa những bất công, những tập tục ghê tởm và đau khổ. Ông đã dành cả cuộc đời để tuyên bố rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân tộc của Người và theo đuổi các kế hoạch hòa bình ngay cả trong những tình huống dường như mất mát và không thể cứu vãn được. Tuy nhiên, trước hết, chính Giêrêmia đích thân cảm nghiệm được lời công bố đức tin đầy an ủi này; ông là người đầu tiên cảm nghiệm được sự gần gũi Thiên Chúa. Chỉ bằng cách này, ông mới có thể mang đến cho người khác một lời tiên tri dũng cảm về hy vọng. Thừa tác vụ giám mục của anh em cũng được thực hiện giữa hai thực tại mà giờ đây tôi muốn nói đến: sự gần gũi Thiên Chúa và lời tiên tri cho dân chúng.

Điều đầu tiên tôi muốn nói là, hãy để cho mình được xúc động và an ủi bởi sự gần gũi của Thiên Chúa. Người ở gần chúng ta. Điều đầu tiên Chúa nói với Giêrêmia là: “Trước khi tạo nên con trong lòng mẹ, Ta đã biết con” (Grm 1:5). Đây là lời tỏ tình mà Thiên Chúa đã viết vào trái tim của mỗi người chúng ta, một lời tỏ tình không ai có thể xóa nhòa và, giữa những giông tố của cuộc đời, là nguồn an ủi. Điều quan trọng đối với chúng ta, những người đã được kêu gọi trở thành mục tử của dân Chúa, phải trông cậy vào sự gần gũi này của Chúa, “để hình thành con người của mình trong lời cầu nguyện”, và dành nhiều thời gian trước nhan Người. Chỉ bằng cách này, những người được ủy thác cho chúng ta mới đến gần Vị Mục Tử Nhân Lành hơn và chỉ bằng cách này, chính chúng ta mới trở thành mục tử, vì không có Người, chúng ta chẳng làm được gì (x. Ga 15:5). Nếu không, chúng ta sẽ là những doanh nhân, những “ông chủ”, nhưng không đi theo tiếng gọi của Chúa. Không có Người, chúng ta không thể làm gì được. Chớ gì chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình tự túc, càng không nên nhìn trong chức giám mục một cơ hội để thăng tiến trong xã hội và thi hành quyền lực của nó. Đó là tinh thần xấu xí của “chủ nghĩa nghề nghiệp”. Trên hết, mong sao chúng ta đừng bao giờ mở cửa cho tinh thần thế gian, vì điều này khiến chúng ta diễn giải chức vụ theo các tiêu chuẩn có lợi cho mình. Nó khiến chúng ta trở nên lạnh lùng và xa cách trong việc quản lý những gì được giao phó. Nó khiến chúng ta sử dụng vai trò của mình để phục vụ chính mình thay vì phục vụ người khác, và bỏ qua một mối quan hệ quan trọng, đó là việc cầu nguyện khiêm tốn và hàng ngày. Chúng ta hãy nhớ rằng tính thế gian là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với Giáo hội, điều tồi tệ nhất. Tôi luôn xúc động ở phần cuối cuốn sách của Đức Hồng Y De Lubac về Giáo Hội, ba hay bốn trang cuối, nơi ngài viết như thế này: tinh thần thế gian là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, thậm chí còn tồi tệ hơn cả thời các Giáo Hoàng trần tục và có vợ lẽ. Đó là điều tồi tệ nhất. Và tính trần tục luôn rình rập. Vì vậy, chúng ta hãy cẩn thận!

Anh em Giám mục thân mến, chúng ta hãy trân trọng sự gần gũi của chúng ta với Chúa, để trở nên những chứng nhân đáng tin cậy và hùng hồn cho Người và tình yêu của Người giữa dân tộc chúng ta. Chính nhờ chúng ta mà Người muốn xức dầu an ủi và hy vọng cho họ! Anh em là tiếng nói mà Thiên Chúa muốn nói với dân tộc Congo: “Các ngươi là một dân thánh đối với Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Đnl 7:6). Loan báo Tin Mừng, làm sống động đời sống mục vụ và thực thi vai trò lãnh đạo không thể trở thành những ý tưởng ít liên quan đến thực tại cuộc sống hàng ngày. Thay vào đó, chúng phải chạm đến những vết thương và truyền đạt sự gần gũi của Thiên Chúa, để mọi người có thể nhận ra phẩm giá của họ là những người con yêu dấu của Người và học cách ngẩng cao đầu bước đi, không bao giờ hạ thấp mình trước sự sỉ nhục và áp bức. Nhờ anh em, dân tộc này có ân sủng được nghe, bây giờ nói với họ, chính những lời mà Chúa đã nói với Giêrêmia: “Các ngươi là một dân tộc có phúc: trước khi tạo thành các ngươi trong lòng mẹ, Ta đã nghĩ đến các ngươi, biết các ngươi và yêu mến các ngươi”. Khi chúng ta trân trọng sự gần gũi với Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy bị thu hút bởi người dân của chúng ta và sẽ luôn cảm thấy thương xót những người được giao phó cho chúng ta chăm sóc. Thái độ cảm thương không phải là một cảm xúc; nó là đau khổ với họ. Được Chúa khuyến khích và củng cố, chúng ta hãy trở thành những máng chuyển an ủi và hòa giải cho người khác, chữa lành vết thương của những người đau khổ, xoa dịu nỗi đau của những người khóc lóc, nâng đỡ người nghèo và giải thoát mọi người khỏi các hình thức nô lệ và áp bức đa dạng. Tóm lại, sự gần gũi của chúng ta với Thiên Chúa khiến chúng ta trở thành những ngôn sứ cho dân chúng, những người gieo lời cứu độ của Người trong lịch sử đầy thương tích của đất nước họ.

Để xem xét điểm thứ hai, lời tiên tri cho dân chúng, một lần nữa chúng ta hãy nhìn vào kinh nghiệm của Giêrêmia. Sau khi nhận được lời yêu thương và an ủi của Thiên Chúa, ngài được mời gọi trở thành “ngôn sứ cho muôn dân” (x. Grm 1:5), được sai đi đem ánh sáng vào bóng tối, làm chứng nhân trong một môi trường bạo lực và băng hoại. Giêrêmia, người đã nghiền ngẫm lời Chúa, lời đã trở thành niềm vui và niềm hân hoan của tâm hồn ông (x. Grm 15:16), cho chúng ta biết rằng chính lời ấy đã khơi dậy trong ông một sự bồn chồn không thể kiềm chế và khiến ông vươn tới những người khác để họ cũng sẽ cảm động trước sự hiện diện của Chúa. Ông viết: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Grm 20:9). Chúng ta không thể giữ lời Chúa cho riêng mình, chúng ta không thể hạn chế sức mạnh của lời Chúa: đó là ngọn lửa đốt cháy sự thờ ơ của chúng ta và khơi dậy trong chúng ta ước muốn soi sáng những người ngồi trong bóng tối. Lời Chúa là ngọn lửa đốt cháy bên trong và thúc đẩy chúng ta tiến bước! Vì vậy, đây là những gì chúng ta là trong tư cách giám mục: những người được đốt cháy bởi lời Chúa, được sai đi với lòng nhiệt thành tông đồ hướng tới dân Chúa!

Tuy nhiên – chúng ta có thể tự hỏi – lời công bố mang tính tiên tri này, niềm đam mê cháy bỏng này, đòi hỏi điều gì? Chúa phán với tiên tri Giêrêmia: “Này, Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Hãy xem, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” (Grm 1:9-10). Đó là những động từ mạnh mẽ: nhổ lên và hủy bỏ, rồi xây dựng và trồng trọt. Chúng liên quan đến việc hợp tác trong một chương mới của lịch sử mà Thiên Chúa muốn thực hiện giữa một thế giới đầy đồi trụy và bất công. Anh em được mời gọi để tiếp tục làm cho tiếng nói tiên tri của anh em được lắng nghe, để lương tâm có thể cảm thấy bị thách thức và mỗi người có thể đóng một vai trò tích cực và có trách nhiệm trong việc xây dựng một tương lai khác. Do đó, chúng ta được kêu gọi nhổ bỏ những cây độc của hận thù và ích kỷ, tức giận, oán giận và bạo lực; để phá bỏ các bàn thờ được dựng lên cho tiền bạc và tham nhũng; để xây dựng một sự chung sống dựa trên công lý, sự thật và hòa bình; và cuối cùng là gieo mầm tái sinh, để Congo ngày mai thực sự là điều Chúa hằng mơ ước: một miền đất may mắn và hạnh phúc, không còn bị bóc lột, áp bức và đẫm máu.

Đồng thời, chúng ta hãy cẩn thận: chúng ta không nói về hoạt động chính trị. Lời tiên tri của Kitô giáo trở thành hiện thân trong rất nhiều hoạt động chính trị và xã hội, tuy nhiên điều đó nói chung không phải là trách vụ của các Giám mục và mục tử là rao giảng Lời Chúa, đánh thức lương tâm, tố cáo sự dữ và khích lệ những tâm hồn tan nát và thiếu hy vọng. “Hãy an ủi, an ủi dân của Ta”: chủ đề này xuất hiện lặp đi lặp lại là một lời mời từ Chúa: Hãy an ủi người dân. “Hãy an ủi, an ủi dân Ta”. Đó là một lời loan báo không chỉ bằng lời nói mà còn qua sự gần gũi và chứng tá bản thân. Trước hết là sự gần gũi với các linh mục, vì các linh mục là những người gần gũi nhất với Giám mục, quan tâm đến những người làm công tác mục vụ và khuyến khích cộng tác với nhau trong tinh thần đồng nghị. Và làm chứng, vì các mục tử của Giáo hội trước hết phải đáng tin cậy, nhất là trong công việc cổ vũ sự hiệp thông, trong đời sống luân lý và trong việc quản lý của cải. Về vấn đề này, điều cần thiết là tạo ra sự hòa hợp, không đứng trên bệ cao hoặc tỏ ra gay gắt, nhưng bằng cách nêu gương tốt trong việc hỗ trợ và tha thứ cho nhau, và cùng nhau làm việc như những mô hình của tình huynh đệ, hòa bình và sự đơn giản của Tin Mừng. Mong rằng đừng bao giờ xảy ra trường hợp, trong khi những người khác đang phải chịu đói, người ta có thể nói về anh em: “họ không quan tâm; kẻ thì ra đồng, kẻ thì lo việc riêng” (x. Mt 22:5). Không, làm ơn, chúng ta hãy bỏ công việc kinh doanh ra khỏi vườn nho của Chúa! Một người chăn chiên không thể là một doanh nhân, họ không thể như thế! Chúng ta hãy là những mục tử và tôi tớ của dân Thiên Chúa, không phải là người quản lý sự việc, không phải là doanh nhân mà là mục tử! Việc cai trị của Giám mục phải là của một mục tử; đi trước đoàn chiên, đi giữa đoàn chiên và đi sau đoàn chiên. Đi trước đoàn chiên để chỉ đường; ở giữa đoàn chiên để có mùi chiên và không để mất nó; đi sau đoàn chiên để giúp đỡ những con đi chậm hơn, và cũng để yên đoàn chiên một lúc để xem có thể tìm đồng cỏ tốt ở đâu cho chúng. Người chăn cừu phải di chuyển theo ba hướng này.

Anh em Giám mục thân mến, tôi đã chia sẻ với anh em những gì tôi cảm thấy trong lòng. Hãy nuôi dưỡng sự gần gũi của chính anh em với Chúa để anh em có thể trở thành những dấu chỉ tiên tri về lòng cảm thương của Người đối với dân tộc của anh em. Tôi kêu gọi anh em đừng sao nhãng việc đối thoại với Thiên Chúa hoặc để ngọn lửa tiên tri bị dập tắt bởi một mối quan hệ mơ hồ với các quyền lực hiện có, hoặc bởi một cuộc sống tự mãn và thường lệ. Trong những hoàn cảnh bất công và đau khổ, Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải lên tiếng. Chúng ta mạo hiểm khi lên tiếng đáp lại những gì Chúa yêu cầu chúng ta. Một trong những người anh em của anh em đã làm như vậy, Tôi Tớ Chúa là Đức Tổng Giám Mục Christophe Munzihirwa, một mục tử can đảm và có tiếng nói tiên tri, người đã bảo vệ dân của mình bằng cách hy sinh mạng sống của mình. Một ngày trước khi qua đời, ngài đã loan đi một thông điệp trên đài phát thanh tới mọi người rằng: “Những ngày này chúng ta còn có thể làm gì? Chúng ta hãy vững vàng trong đức tin. Chúng ta tin tưởng rằng Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta và một tia hy vọng nhỏ nhoi nào đó sẽ lóe lên cho chúng ta ở đâu đó. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta nếu chúng ta cam kết tôn trọng sự sống của những người thân cận, bất kể họ thuộc sắc tộc nào”. Ngày hôm sau ngài bị giết ở quảng trường thành phố, nhưng những hạt giống ngài gieo trên mảnh đất này, cùng với nhiều người khác, sẽ đơm hoa kết trái. Thật tốt để tưởng nhớ với lòng biết ơn các vị mục tử vĩ đại đã ghi dấu ấn trong lịch sử của đất nước và Giáo hội của anh em, những người đã rao giảng Tin Mừng cho anh em và đi trước anh em trong đức tin. Anh em thân mến, họ là những gốc rễ vững chắc củng cố anh em trong lòng nhiệt thành truyền giáo. Ở đây tôi nghĩ tới lợi ích đích thân tôi nhận được từ việc biết Đức Hồng Y Laurent Monsengwo Pasinya.

Anh em thân mến, đừng sợ trở thành những tiên tri của niềm hy vọng cho dân, là những tiếng nói đồng thanh an ủi của Chúa, là chứng nhân và là sứ giả vui mừng của Tin Mừng, là tông đồ của công lý, là người Samaria của tình liên đới. Anh em hãy là chứng nhân của lòng thương xót và hòa giải giữa bạo lực không chỉ do khai thác tài nguyên và xung đột sắc tộc, bộ lạc, mà còn do quyền lực đen tối của ma quỷ, kẻ thù của Thiên Chúa và nhân loại. Đồng thời, đừng bao giờ nản lòng: Chúa chịu đóng đinh đã sống lại, Chúa Giêsu đã chiến thắng và đã chiến thắng thế gian (x. Ga 16:33). Bây giờ Người muốn tỏa sáng trong anh em, trong công việc quý giá của anh em, trong việc gieo bình an hữu hiệu của anh em! Anh em thân mến, tôi muốn cảm ơn anh em vì thừa tác vụ, lòng nhiệt thành mục vụ và chứng tá của anh em.

Và bây giờ, khi kết thúc cuộc hành trình của mình, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới anh em và tất cả những người đã làm việc để chuẩn bị cho nó. Anh em đã đủ kiên nhẫn để chờ đợi một năm trời, anh em thật tốt! Cảm ơn vì điều này! Anh em đã phải làm việc chăm chỉ gấp đôi vì chuyến thăm đầu tiên đã bị hủy bỏ, nhưng tôi biết rằng anh em sẽ tha thứ cho Đức Giáo Hoàng! Cảm ơn anh em vì mọi thứ! Tháng Sáu tới, anh em sẽ cử hành Đại hội Thánh Thể Toàn quốc tại Lubumbashi. Chúa Giêsu thực sự hiện diện và hoạt động trong bí tích Thánh Thể; trong đó Người hòa giải và chữa lành, an ủi và hợp nhất, soi sáng và biến đổi; trong đó, Người truyền cảm hứng và duy trì thừa tác vụ của anh em và làm cho nó có hiệu quả. Xin sự hiện diện của Chúa Giêsu, Vị Mục Tử hiền lành và khiêm nhường trong lòng, Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết, biến đổi đất nước vĩ đại này và luôn là niềm vui và niềm hy vọng của anh em! Tôi ban phước lành cho anh em với tất cả trái tim của tôi.

Tôi xin nói thêm một điều nữa: tôi đã nói “hãy thương xót”. Thương xót. Luôn luôn tha thứ. Khi một tín hữu đến xưng tội, họ đến để xin ơn tha thứ, để tìm kiếm sự âu yếm của Chúa Cha. Và chúng ta, chỉ ngón tay buộc tội, nói: “Bao nhiêu lần? Và con đã làm điều đó như thế nào?...”. Không, không phải điều này. Tha thứ. Luôn luôn. “Nhưng con không biết…, vì giáo luật cho con biết…”. Chúng ta phải tuân thủ quy tắc, bởi vì nó quan trọng, nhưng trái tim của người chăn còn vượt xa hơn thế nữa! Mạo hiểm. Hãy mạo hiểm đứng về phía tha thứ. Luôn luôn. Luôn luôn tha thứ trong Bí Tích Hòa Giải. Bằng cách này, anh em sẽ gieo sự tha thứ cho toàn xã hội.

Tôi ban phước lành cho anh em với tất cả trái tim của tôi. Và xin anh em tiếp tục cầu nguyện cho tôi, vì công việc này hơi khó! Nhưng tôi phó thác bản thân mình cho những lời cầu nguyện của anh em. Cảm ơn anh em.
 
CIA: 6 tháng tới quyết định cuộc chiến. Mỹ tặng bom đặc biệt cho Ukraine, Ngoại trưởng Nga la làng.
VietCatholic Media
16:51 04/02/2023


1. Mỹ tặng bom thông minh cho Ukraine để tăng gấp đôi phạm vi tấn công Nga

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “U.S. Giving Ukraine Smart Bombs to Double Strike Range Against Russia”, nghĩa là “Mỹ tặng bom thông minh cho Ukraine để tăng gấp đôi phạm vi tấn công Nga.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ.

Theo báo cáo từ các phương tiện truyền thông, Hoa Kỳ đã thông báo vào hôm thứ Sáu rằng họ sẽ gửi cho Ukraine các quả bom có đường kính nhỏ phóng từ mặt đất, gọi tắt là GLSDB, cải thiện đáng kể khả năng của nước này trong việc tấn công các mục tiêu phía sau phòng tuyến của Nga

Ukraine đã vận động xin các hỏa tiễn tầm xa hơn, đặc biệt là Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật quân đội, gọi tắt là ATACMS, có tầm bắn 285 dặm hay 458km, nhằm phá vỡ các cơ sở chỉ huy và chuỗi cung ứng của Nga trước một cuộc tấn công dự kiến vào mùa xuân.

Washington đã từ chối bàn giao ATACMS cho Ukraine vì lo ngại điều này sẽ bị Mạc Tư Khoa coi là quá khiêu khích, vì chúng có thể được sử dụng để tấn công các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Nga.

Tuy nhiên, Financial Times đưa tin Kyiv sẽ được gửi bom thông minh, có tầm bắn 94 dặm hay 151km và có thể được bắn từ bệ phóng hỏa tiễn HIMARS của Ukraine.

Một gói hỗ trợ mới trị giá 2,2 tỷ đô la cho Ukraine đã được công bố vào cuối ngày thứ Sáu.

Những quả bom mới có tầm bắn gần gấp đôi Hệ thống phóng nhiều hỏa tiễn có hướng dẫn, có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 53 dặm hay 85km và cũng được phóng bởi HIMARS.

Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov đã phản ứng giận dữ trước thông tin Mỹ có thể gửi pháo tầm xa hơn cho Ukraine, cho rằng nước ông sẽ phải tiến sâu hơn vào Ukraine để đáp trả diễn biến này.

Phát biểu với RIA Novosti, ông nói: “Bây giờ chúng ta đang phải cố gắng đẩy lùi pháo binh Ukraine đến một khoảng cách không đe dọa lãnh thổ của chúng ta”.

“Phạm vi vũ khí do phương Tây cung cấp cho chế độ Kyiv càng dài thì chúng ta càng cần phải di chuyển chúng ra xa biên giới Nga.”

Ukraine đã sử dụng HIMARS để gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho Nga kể từ khi chúng được Mỹ cung cấp lần đầu tiên vào tháng 6.

Vào ngày đầu năm mới, các bệ phóng hỏa tiễn đã được sử dụng để tấn công các tòa nhà có quân đội Nga ở Makiivka, nằm ở khu vực Donetsk, miền đông Ukraine. Báo Ukraine Ukrainska Pravda cho biết cuộc tấn công đã giết chết 400 binh sĩ Nga, với hàng trăm người khác bị thương, mặc dù Mạc Tư Khoa đưa ra con số thấp hơn là 89 người thiệt mạng.

Trong một đòn giáng mạnh vào Nga vào tháng 1, chính phủ Đức cho biết họ sẽ cung cấp cho Ukraine xe tăng chiến đấu chủ lực Leopard 2, trong khi Mỹ đang gửi M1 Abrams và Anh 14 chiếc Challenger 2.

Phát biểu hôm thứ Tư với hãng truyền thông BFM TV của Pháp, Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Oleksii Reznikov gợi ý rằng người Nga có thể tiến hành một cuộc tấn công khác vào ngày 24 tháng 2, đánh dấu một năm ngày Nga xâm lược Ukraine.

Ông nói: “Chúng tôi nghĩ rằng, vì họ sống trong chủ nghĩa tượng trưng, họ sẽ cố gắng thử một cái gì đó vào khoảng ngày 24 tháng Hai.”

“Chúng tôi không đánh giá thấp đối phương của mình. Chính thức, họ công bố huy động 300.000 tân binh, nhưng khi chúng tôi thấy quân đội họ ở biên giới, theo đánh giá của chúng tôi, con số đó còn nhiều hơn thế”.

2. New York Times cho biết, số binh sĩ Nga thiệt mạng và bị thương ở Ukraine lên tới gần 200.000

Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, Nga đã mất khoảng 200.000 binh sĩ thiệt mạng và bị thương.

Chuyên mục phân tích các chiến thuật của Nga, tham khảo đánh giá từ các quan chức Mỹ và Âu Châu của tờ New York Times đã cho biết như trên.

“Con số đó, chỉ trong 11 tháng, cao gấp 8 lần so với thương vong của người Mỹ trong hai thập kỷ chiến tranh ở Afghanistan,” báo cáo viết.

Cần lưu ý rằng Nga đã chịu tổn thất lớn về nhân lực trong các trận chiến khốc liệt giành Bakhmut và Soledar.

Đồng thời, các chuyên gia cho rằng thiệt hại nhân mạng không có khả năng ngăn cản mục tiêu chiến tranh của Putin. “Putin có thể chịu đựng hàng trăm nghìn thương vong ở Ukraine, mặc dù con số cao hơn có thể làm giảm sự ủng hộ chính trị dành cho ông ta,” báo cáo viết.

Các chuyên gia cũng chỉ ra “vô số vấn đề về nguồn cung cấp quân sự và chiến thuật” để giải thích cho những thất bại của Nga. Quân đội Nga đang cạn kiệt pháo binh, đạn dược dự phòng. Bộ chỉ huy Nga đang thay thế những thiếu hụt này bằng cách gửi những người bị kết án theo làn sóng người ra tiền tuyến.

“Mạc Tư Khoa đã ném những người mà họ coi là có thể hy sinh vào các trận chiến trong nhiều thập kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ, đặc biệt là trong Thế chiến II,” báo cáo viết.

Như đã đưa tin, Lực lượng vũ trang Ukraine đã loại bỏ khoảng 129.870 binh sĩ Nga tại Ukraine từ ngày 24/2/2022 đến ngày 3 tháng Hai.

3. Ukraine cho biết xe tăng mới do NATO cung cấp sẽ đóng vai trò là “quả đấm sắt” trong cuộc phản công

Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Oleksiy Reznikov cho biết hôm thứ Sáu rằng các xe tăng mới do NATO cung cấp sẽ phục vụ như một “quả đấm sắt” trong cuộc phản công của Kyiv chống lại lực lượng Nga ở Ukraine.

“Chúng ta cần một 'liên minh xe tăng' với các xe tăng chủ lực của các nước NATO để phản công. Tức là chúng ta sẽ sử dụng họ như một “quả đấm thép” để chọc thủng tuyến phòng ngự của họ”, ông Reznikov nói trong cuộc họp báo chung với Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan.

Ông cho biết thêm, để ngăn chặn một cuộc tấn công mới có thể xảy ra của Nga ở phía nam và phía đông, Lực lượng Vũ trang Ukraine sẽ “chủ yếu sử dụng pháo 155 ly” cùng với các loại vũ khí khác. “Đó là lý do tại sao hôm nay chúng ta nói rằng ưu tiên trên chiến trường vẫn là pháo 155 ly và đạn pháo dành cho nó”.

Gần đây, Vadym Omelchenko, đại sứ Kyiv tại Pháp, nói rằng nhiều quốc gia đã xác nhận “thỏa thuận cung cấp 321 xe tăng hạng nặng cho Ukraine”.

Ông không nói rõ quốc gia nào sẽ cung cấp xe tăng hoặc cung cấp thông tin chi tiết về mẫu xe nào.

Mỹ đã cam kết cung cấp 31 xe tăng M1 Abrams và Đức đồng ý gửi 14 chiếc Leopard 2 A6. Trước đây, Vương quốc Anh đã cam kết cung cấp 14 xe tăng Challenger 2, trong khi Ba Lan đã yêu cầu Đức chấp thuận cho chuyển một số chiếc Leopard 2 do Đức sản xuất cho Ukraine.

4. Sáu tháng tới “quan trọng” đối với kết quả của cuộc chiến tranh Nga-Ukraine - giám đốc CIA

Giám đốc CIA Bill Burns hôm thứ Năm cho biết CIA đánh giá rằng sáu tháng tới sẽ “rất quan trọng” trong việc xác định kết quả cuối cùng của cuộc chiến ở Ukraine.

“Tôi đang nghĩ điều gì sẽ là chìa khóa – bởi vì chúng ta không coi trọng việc Tổng thống Nga Vladimir Putin có nghiêm túc trong các cuộc đàm phán hay không –đối với chúng tôi có vẻ như điều quan trọng nhất sẽ nằm trên chiến trường trong sáu tháng tới,” Burns nói, phát biểu trước khán giả tại Đại học Georgetown. Điều đó bao gồm việc “đâm thẳng vào sự ngạo mạn của Putin, nói rõ rằng ông ta không những không thể tiến xa hơn ở Ukraine, mà mỗi tháng trôi qua, ông ta có nguy cơ ngày càng lớn trong việc mất đi những lãnh thổ mà ông ta đã chiếm giữ bất hợp pháp cho đến nay”.

Burns nói: Nhà lãnh đạo Nga đang “đặt cược rằng ông ấy có thể dành thời gian cho mình”. Putin tin rằng ông ta có thể “nghiền nát” Ukraine, trong khi sự mệt mỏi chính trị sẽ đeo bám Âu Châu và Mỹ sẽ trở nên mất tập trung.

Nhưng Burns cho biết ông đã nói với một trong những người đồng cấp Nga của mình, ông Sergey Naryshkin, vào tháng 11 rằng “tính toán đó của Nga cũng sai lầm sâu sắc như quyết định ban đầu về việc tham chiến vào ngày 24 tháng 2 vừa qua”.

5. Bị đánh bại tơi bời hai lần ở Ukraine, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 tinh nhuệ của Nga sẵn sàng tấn công một lần nữa

Ký giả David Axe của tờ Forbes có trụ sở ở New Jersey, Hoa Kỳ có bài tường trình nhan đề “Beaten Twice In Ukraine, Russia’s Elite 1st Guards Tank Army Is Poised To Attack Yet Again”, nghĩa là “Bị đánh bại hai lần ở Ukraine, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 tinh nhuệ của Nga sẵn sàng tấn công một lần nữa.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ.

Quân đội Nga dường như đang tái bố trí các lực lượng hạng nặng trước một cuộc tấn công mùa đông được dự đoán rộng rãi ở tỉnh Luhansk thuộc khu vực Donbas, miền đông Ukraine.

Các lực lượng này bao gồm các thành phần của Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ số 1 tinh nhuệ, đã trải qua nhiều tháng ở Belarus, phục hồi sau khi bị các lữ đoàn Ukraine tiêu diệt gần như hoàn toàn trong hai chiến dịch quy mô lớn trước đó.

Một cuộc tấn công vào Luhansk sẽ là cơ hội thứ ba của Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 1 để chứng tỏ khả năng của mình ở Ukraine. Hoặc, là một cơ hội thứ ba để các lực lượng Ukraine tiêu diệt hoàn toàn đội hình này.

“Tình báo Ukraine lưu ý rằng các phần tử của Sư đoàn súng trường cơ giới số 2 thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 của Quân khu phía Tây đã rút khỏi Belarus và triển khai một phần tới tỉnh Luhansk,” Viện Nghiên cứu Chiến tranh có trụ sở tại Washington, DC lưu ý vào hôm Thứ Tư.

Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 giám sát hai sư đoàn tiền tuyến—là sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ số 2 và sư đoàn xe tăng cận vệ số 4—cùng với một số lữ đoàn riêng biệt. Có lẽ tổng cộng là 25.000 hoặc 30.000 quân.

Với hàng trăm xe tăng T-72, T-80 và T-90 cùng các phương tiện chiến đấu BMP-2 và BMP-3, tập đoàn quân có trụ sở tại Mạc Tư Khoa trên lý thuyết là một trong những lực lượng tác chiến bộ binh mạnh nhất thế giới.

Trên thực tế, nó đã phải chịu đựng sự lãnh đạo kém cỏi và thiếu hụt hậu cần giống như những gì đã làm phiền lòng tất cả các lực lượng Nga ở Ukraine.

Sự bối rối ban đầu của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 xảy ra trong vài tuần đầu tiên của cuộc chiến tranh rộng lớn hơn của Nga với Ukraine, khi quân đội Nga từ Belarus và miền nam nước Nga tràn về phía nam, nhằm chiếm Kyiv và kết thúc cuộc chiến nhanh chóng.

Đội quân xe tăng gặp phải sự kháng cự quyết liệt quanh Chernihiv, 60 dặm về phía bắc Kyiv. Lữ đoàn xe tăng số 1 của Ukraine đã triển khai 100 xe tăng T-64 của mình vào các khu rừng xung quanh Chernihiv và giao chiến với quân Nga đang đi qua ở phạm vi trống trải.

Người Nga đông hơn người Ukraine xung quanh Chernihiv. Nhưng người Ukraine đã chiến đấu kiên cường và thông minh hơn, các nhà phân tích Mykhaylo Zabrodskyi, Jack Watling, Oleksandr Danylyuk và Nick Reynolds giải thích trong một nghiên cứu của Viện Royal United Services ở London.

Zabrodskyi, Watling, Danylyuk và Reynolds viết: “Việc huấn luyện kíp lái tốt hơn kết hợp với các cuộc giao tranh tầm ngắn trong đó vũ khí của họ sắc sảo và bộ nạp tự động nhanh hơn trên T-64, cho phép các đội xe tăng Ukraine gây được thiệt hại đáng kể trước các đơn vị Nga bất ngờ”.

Trong sáu tuần, lữ đoàn Ukraine và các lãnh thổ hỗ trợ của nó đã tổ chức ở Chernihiv. Điều quan trọng là các tiểu đoàn Nga đi qua Chernihiv không bao giờ cắt đứt hoàn toàn thành phố này.

Vào cuối tháng 3, Điện Cẩm Linh đã ra lệnh cho các lực lượng xung quanh Kyiv rút lui. Đó là khi Lữ đoàn xe tăng 1, vẫn đang cầm cự ở Chernihiv, bắt đầu phản công.

Theo Bộ Quốc phòng Anh, vào thời điểm quân đội Nga rút lui về Belarus và miền nam nước Nga, Sư đoàn súng trường cơ giới số 2 của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 đã chịu “tổn thất lớn”.

Sư đoàn khác của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1, là Sư đoàn xe tăng cận vệ số 4, sáu tháng sau cũng hứng chịu thảm họa của riêng mình xung quanh Kharkiv, thành phố thứ hai của Ukraine, chỉ cách biên giới Nga ở đông bắc Ukraine 25 dặm.

Vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9, các lữ đoàn Ukraine đóng tại Kharkiv vừa được giải phóng đã phát động một cuộc phản công lớn, trong vài tuần giao tranh chớp nhoáng dữ dội, đã đánh tan quân Nga ở phía đông bắc—bao gồm cả Sư đoàn xe tăng cận vệ số 4.

Những chiếc T-72 và T-64 của Lữ đoàn xe tăng số 4 Ukraine đã tấn công mạnh vào Sư đoàn xe tăng cận vệ số 4 của Nga bên ngoài Izium.

Vào thời điểm sư đoàn Nga rút lui về phía bắc về phía biên giới Nga, họ đã mất khoảng 90 xe tăng T-80U mà các nhà phân tích độc lập có thể xác nhận. Đó là một nửa số xe tăng mà sư đoàn sở hữu khi sức mạnh của nó ở mức tối đa.

Bị đánh bại hai lần, Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 1 chuyển sang đóng quân ở Belarus để chuẩn bị cho mùa đông dài. Tuy nhiên, những tổn thất nặng nề đang diễn ra ở Ukraine đã ngăn cản Điện Cẩm Linh gửi cho Tập Đoàn Quân xe tăng những người và thiết bị tốt nhất.

Bộ Quốc phòng Anh cho biết Sư đoàn súng trường cơ giới số 2 của quân đội “hiện chủ yếu bao gồm các binh sĩ được huy động vận hành các thiết bị cũ lấy từ kho lưu trữ”. “Hiệu quả chiến đấu của nó có thể sẽ bị hạn chế mặc dù đã trải qua vài tuần huấn luyện.”

Sẵn sàng hay không, các đơn vị Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 đã tái triển khai tới Luhansk dường như đã sẵn sàng cho một cuộc tấn công lớn. ISW giải thích: “Việc bố trí các lực lượng thông thường trên chiến tuyến tỉnh Luhansk cho thấy các lực lượng Nga có thể đang chuẩn bị cho một nỗ lực quyết định trong khu vực này”.

Thời gian có lẽ không phải là ngẫu nhiên. Các đồng minh của Ukraine trong những tuần gần đây đã cam kết cung cấp hàng trăm xe tăng và phương tiện chiến đấu cao cấp cho nỗ lực chiến tranh của Ukraine. Chúng bao gồm xe tăng M-1 của Mỹ, xe tăng Leopard 2 của Đức, xe tăng Challenger 2 của Anh và một số phương tiện chiến đấu và pháo cơ động tốt nhất của Thụy Điển.

Quân đội Ukraine có thể hình thành xung quanh những phương tiện này một số lữ đoàn xe tăng và cơ giới mới mạnh mẽ. Nhưng cuộc tấn công Luhansk của Nga có thể bắt đầu trước khi các lực lượng mới đó sẵn sàng chiến đấu.

Bây giờ hoặc không bao giờ đối với Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1. Triển vọng của quân đội tốt nhất vẫn không chắc chắn về hoạt động lớn thứ ba có thể xảy ra ở Ukraine. Nhưng họ sẽ càng ít chắc chắn hơn một khi người Ukraine đã triển khai xe tăng mới của họ.

6. Các trường đại học Nga sẽ dạy về mục tiêu của “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine

Các trường đại học Nga sẽ giảng dạy các mục tiêu của cái gọi là “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga ở Ukraine bắt đầu từ ngày 1 tháng 9, hãng truyền thông nhà nước Nga TASS đưa tin hôm thứ Sáu, trích dẫn Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Nga.

Mạc Tư Khoa hầu như tránh mô tả cuộc xung đột là một cuộc xâm lược hay một cuộc chiến tranh, nhấn mạnh rằng đây là một “chiến dịch quân sự đặc biệt”.

Theo TASS, chương trình giảng dạy mới dành cho các trường đại học sẽ dạy nguồn gốc của “chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, lệnh trừng phạt, áp lực từ các nước phương Tây đối với Nga, nỗ lực cô lập nước này với phần còn lại của thế giới” cũng như “mục tiêu của hoạt động quân sự đặc biệt” là sáp nhập vào Nga Cộng hòa Nhân dân Donetsk, Cộng hòa Nhân dân Lugansk, vùng Zaporizhzhia, vùng Kherson”.

Tài liệu được đăng trên trang web của Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Nga, phác thảo các chủ đề như “việc Mỹ, NATO và Liên Hiệp Âu Châu từ chối thảo luận về các mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của Nga, các hành động khiêu khích vũ trang ở Donbas, các hành động khiêu khích và chuẩn bị vũ trang của Ukraine. đối với việc cưỡng chiếm các nước cộng hòa Donbas, việc công nhận chính thức Cộng hòa Nhân Dân Luhansk và Cộng hòa Nhân Dân Donetsk của Nga”.

7. Bộ Tài Chính Hoa Kỳ trừng phạt các quan chức cấp cao tại nhà sản xuất máy bay không người lái của Iran

Bộ Tài chính Hoa Kỳ hôm thứ Sáu đã áp đặt lệnh trừng phạt đối với tám quan chức cấp cao tại một nhà sản xuất máy bay không người lái của Iran. Đây là biện pháp trừng phạt mới nhất của họ nhằm đáp trả việc Tehran cung cấp máy bay không người lái cho Nga trong cuộc chiến chống lại Ukraine.

Nhà sản xuất, Công ty Paravar Pars, đã bị Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu trừng phạt vì sản xuất máy bay không người lái cho Lực lượng Hàng không Vũ trụ của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran. Bộ Tài chính vào hôm thứ Sáu đã tấn công vào ban giám đốc của công ty.

“Các thực thể của Iran tiếp tục sản xuất máy bay không người lái cho Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran và quân đội Iran. Nói rộng hơn, Iran đang cung cấp máy bay không người lái cho các hoạt động chiến đấu của Nga nhằm vào cơ sở hạ tầng quan trọng ở Ukraine,” Thứ trưởng Bộ Tài chính phụ trách Khủng bố và Tình báo Tài chính Brian Nelson cho biết trong một tuyên bố. “Mỹ sẽ tiếp tục tấn công mạnh mẽ vào tất cả các yếu tố trong chương trình máy bay không người lái của Iran.”

8. Nhân viên cứu trợ tình nguyện người Mỹ thiệt mạng ở Bakhmut khi đang giúp đỡ thường dân Ukraine

Một nhân viên cứu trợ tình nguyện người Mỹ, Pete Reed, đã bị giết ở Bakhmut, miền đông Ukraine vào hôm thứ Năm khi đang giúp đỡ dân thường, theo một tuyên bố từ Global Response Medicine, gọi tắt là GRM, là nhóm viện trợ nhân đạo do ông thành lập.

GRM cho biết trong một tuyên bố đăng trên mạng xã hội rằng Reed, một cựu chiến binh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, được liệt kê là “đã thiệt mạng trong khi cung cấp viện trợ” trong một nhiệm vụ với một tổ chức khác.

“Hôm qua, người sáng lập GRM Pete Reed đã bị giết ở Bakhmut, Ukraine. Pete là nền tảng của GRM, từng là Chủ tịch Hội đồng quản trị trong 4 năm. Vào Tháng Giêng, Pete đã rời khỏi GRM để làm việc với các Bác sĩ tiếp cận toàn cầu trong nhiệm vụ của họ ở Ukraine và đã bị giết khi đang cung cấp viện trợ,” theo một bài đăng được chia sẻ trên Instagram.

“Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng về những nguy hiểm mà các nhân viên cấp cứu và cứu trợ phải đối mặt trong các khu vực xung đột khi họ phục vụ những công dân bị kẹt giữa hai làn đạn. Pete mới 33 tuổi, nhưng đã sống một cuộc đời phục vụ người khác, đầu tiên là một Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và sau đó là viện trợ nhân đạo. GRM sẽ cố gắng tôn vinh di sản của anh ấy và sự phục vụ quên mình mà anh ấy đã thực hiện,” tuyên bố cho biết.

Reed cũng được liệt kê là giám đốc quốc gia Ukraine trên trang web của Global Outreach Doctors.

Phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã xác nhận “cái chết gần đây của một công dân Hoa Kỳ ở Ukraine” khi được yêu cầu bình luận.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết: “ Chúng ta đang liên lạc với gia đình và cung cấp mọi hỗ trợ lãnh sự có thể. Vì tôn trọng quyền riêng tư của gia đình trong thời điểm khó khăn này, chúng tôi không có gì để nói thêm.”

Vợ của Reed, Alex Kay Potter, đã viết trên Instagram rằng chồng cô ấy không chỉ sống vì nghĩa vụ của mình mà dường như đã hy sinh để cứu sống một thành viên khác trong nhóm.

“Anh ấy đang di tản thường dân và cấp cứu cho những người bị thương thì xe cứu thương của anh ấy bị trúng đạn. Anh ấy đã chết khi làm những gì anh ấy giỏi nhất, những gì đã mang lại cho anh ấy sự sống và những gì anh ấy yêu thích, và rõ ràng là bằng cách cứu một thành viên trong nhóm bằng chính cơ thể của mình,” bài viết cho biết như trên.

Reed bắt đầu sự nghiệp nhân đạo của mình sau khi Siêu bão Sandy tấn công bang New Jersey quê hương anh, theo các trang tiểu sử trên trang web Global Response Medicine và Global Outreach Doctors.

Reed đã lãnh đạo các đội y tế trong Trận chiến giành Mosul ở Iraq, điều trị cho hơn 10.000 bệnh nhân chấn thương.
 
Nghẹt thở: Bắt quả tang TQ thả 2 khinh khí cầu do thám Mỹ, 400 dàn phóng hỏa tiễn hướng về Bắc Kinh
VietCatholic Media
17:01 04/02/2023


1. Tình hình thế giới hết sức căng thẳng sau khi Trung Quốc thả khinh khí cầu do thám Hoa Kỳ

Trung Quốc kêu gọi bình tĩnh vụ khinh khí cầu 'do thám' vào không phận Mỹ

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là Mao Ninh đã kêu gọi Hoa Kỳ bình tĩnh trong vụ tranh chấp liên quan đến khinh khí cầu khổng lồ của Trung Quốc đang bay trên không phận Hoa Kỳ, hướng về miền đông của nước này.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken trước đó đã hủy chuyến thăm Bắc Kinh, nói rằng sự hiện diện của khinh khí cầu “giám sát” là “một hành động vô trách nhiệm”.

Sau đó, Mỹ báo cáo về một khinh khí cầu thứ hai của Trung Quốc trôi nổi trên bầu trời Mỹ Latinh.

Trung Quốc bày tỏ sự tiếc nuối về vụ khinh khí cầu bay qua Mỹ, nói rằng đó là do khí cầu thời tiết đã bị thổi bay lạc hướng. Nó được phát hiện lần cuối trên bầu trời Missouri.

Nó dự kiến sẽ đến bờ biển phía đông của Mỹ gần Carolinas vào cuối tuần này.

Phát ngôn nhân Ngũ Giác Đài, Chuẩn tướng Pat Ryder, cho biết Hoa Kỳ đã quyết định không bắn hạ khinh khí cầu do nguy cơ mảnh vỡ rơi xuống có thể gây chết người hay cháy nổ.

Vụ việc xảy ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc đang leo thang. Khinh khí cầu do thám này đánh dấu mức thấp mới cho quan hệ Mỹ-Trung

Trong một tuyên bố hôm thứ Bảy, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết Bắc Kinh “không bao giờ vi phạm lãnh thổ và không phận của bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào”.

Họ cho biết quan chức chính sách đối ngoại cấp cao Vương Nghị đã thảo luận về vụ việc với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Blinken qua điện thoại, nhấn mạnh rằng việc duy trì các kênh liên lạc ở tất cả các cấp là rất quan trọng, “đặc biệt là trong việc giải quyết một số tình huống bất ngờ một cách bình tĩnh và đáng tin cậy”.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói thêm rằng Bắc Kinh “sẽ không chấp nhận bất kỳ phỏng đoán hoặc cường điệu vô căn cứ nào” và cáo buộc “một số chính trị gia và phương tiện truyền thông ở Hoa Kỳ” sử dụng vụ việc “như một cái cớ để tấn công và bôi nhọ Trung Quốc.”

Theo các quan chức Mỹ, chiếc khinh khí cầu đã bay qua Alaska và Canada trước khi xuất hiện ở tiểu bang Montana của Mỹ, nơi có một số địa điểm hỏa tiễn hạt nhân đặc biệt nhạy cảm.

Vụ việc đã khiến các quan chức hàng đầu của Hoa Kỳ tức giận. Ông Blinken nói rằng ông đã nói với Bắc Kinh rằng sự hiện diện của khinh khí cầu là “sự vi phạm rõ ràng chủ quyền của Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế” và là “một hành động vô trách nhiệm”. Ông gọi đó là “không thể chấp nhận được” và “thậm chí còn vô trách nhiệm hơn khi xảy ra ngay trước một chuyến thăm đã được lên kế hoạch từ lâu”.

Nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ dự kiến thăm Bắc Kinh từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 2 để hội đàm về nhiều vấn đề, bao gồm an ninh, Đài Loan và Covid-19. Đây sẽ là cuộc gặp cấp cao Mỹ-Trung đầu tiên sau nhiều năm.

Nhưng hôm thứ Năm, các quan chức quốc phòng Mỹ tuyên bố họ đang theo dõi một khinh khí cầu giám sát khổng lồ trên khắp nước Mỹ.

Ngũ Giác Đài cho biết, “di chuyển ở độ cao cao hơn nhiều so với giao thông hàng không thương mại” và “không gây ra mối đe dọa quân sự hoặc thể chất nào đối với những người trên mặt đất”. Tuy nhiên, sự hiện diện của nó đã gây ra sự phẫn nộ.

Hôm thứ Sáu, Trung Quốc cuối cùng đã thừa nhận khinh khí cầu là tài sản của họ, nói rằng nó là khí cầu dân sự được sử dụng để nghiên cứu khí tượng, đã đi chệch khỏi lộ trình vì thời tiết xấu.

Tuy nhiên, vào cuối ngày thứ Sáu, Ngũ Giác Đài cho biết một khinh khí cầu gián điệp thứ hai của Trung Quốc đã được phát hiện - lần này là ở Mỹ Latinh.

“Chúng tôi đang xem các báo cáo về một khinh khí cầu đi qua Mỹ Latinh. Bây giờ chúng tôi đánh giá đó là một khinh khí cầu giám sát khác của Trung Quốc”, thư ký báo chí Ngũ Giác Đài, Chuẩn tướng Patrick Ryder cho biết. Ông không cung cấp thêm chi tiết về vị trí của nó.

Trung Quốc cho đến nay không đưa ra bình luận công khai nào về khinh khí cầu thứ hai được báo cáo.

2. Trường hợp được chữa lành của Cha John Hollowell có thể sẽ được công nhận là trường hợp chữa lành thứ 71 tại Lộ Đức

Bác sĩ Alessandro de Franciscis của Ủy ban Y khoa Lộ Đức nói có hàng trăm ngàn các trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được về mặt y khoa đã và đang diễn ra tại Lộ Đức. Ông cho biết có khoảng 7,400 trường hợp đã được báo cáo với văn phòng y tế chính thức tại Lộ Đức trong hơn 135 năm qua; và lưu ý rằng có rất nhiều trường hợp lành bệnh mà không được báo cáo vì các bệnh nhân chỉ biết mình đã được khỏi bệnh sau khi đã về đến quê nhà. Trong 7,400 trường hợp đã được báo cáo, chỉ có 70 trường hợp trong số đó được Giáo hội công nhận là những trường hợp chữa lành kỳ diệu đích thực vì Giáo Hội rất thận trọng trong các trường hợp công nhận là phép lạ.

Trường hợp mới nhất được công nhận là trường hợp của sơ Bernadette Moriau. Trong cuộc họp báo ngày 13 tháng Hai, 2018, Đức Cha Jacques Benoit-Gonin, là Giám mục Giáo phận Beauvais, nhấn mạnh đến các yếu tố “bất ngờ, tức khắc và hoàn toàn” trong sự kiện lành bệnh của sơ Bernadette Moriau. Phép lạ xảy đến với sơ Bernadette Moriau có những yếu tố giống như những phép lạ chính Chúa Giêsu đã thực hiện khi Ngài đến trong thế gian. Ngài bảo người mù sáng mắt, lập tức người ấy thoát cảnh đui mù. Ngài bảo người què đứng dậy đi, tức khắc người ấy đi được.

Được chẩn đoán mắc chứng đau lưng mãn tính vào năm 1966, khi mới 27 tuổi, sơ Bernadette từ lâu đã cảm nhận được ảnh hưởng của bệnh tật đối với cuộc sống của mình. Sơ bị đau dây thần kinh tọa cấp tính và các bệnh lý khác, khiến sơ phải ngừng hành nghề y tá vào năm 1975. Sau 40 năm chống chọi với bệnh tật, sơ yếu đến mức phải dùng nẹp chân, chống nạng và phải chích thuốc giảm đau.

Đến ngày 11 tháng 7 năm 2008, sau khi trở về từ Lộ Đức, sơ Bernadette đã trở về nhà trong tu viện của mình. Sơ cho biết trong khi cầu nguyện vào buổi tối hôm đó, một điều kỳ lạ đã xảy ra. “ Tôi cảm thấy cơ thể được thư giãn tuyệt vời, giống như một luồng hơi ấm từ trái tim tôi tràn ngập mọi thứ. Sự ấm áp đó tràn ngập trong tôi. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra với mình. Tôi đã tiếp tục cầu nguyện”.

Sau đó, sơ trở về phòng của mình. Sơ cho biết tiếp: “Và ở đó tôi nghe thấy một giọng nói bên trong nói với tôi: 'Hãy tháo nạng của con ra.' Tôi nghĩ ngay đến những lời của Chúa Giêsu Kitô nói trong Tin Mừng: 'Hãy đứng dậy, lấy chiếu lên và bước đi.' Không một chút do dự, không một chút suy nghĩ về những gì đang xảy ra với mình, tôi cởi bỏ tất cả đồ dùng của mình: nẹp chân, áo nịt quanh bụng, tất cả. Tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh.” Ngay lập tức, sơ ấy đã được chữa lành. Ngày hôm sau, sơ Bernadette đi bộ 5km thăm những nơi mà trước đây vì đau yếu không thể đi được. Những người quen biết sơ há hốc mồm trước sự kiện phi thường.

Trường hợp của Cha John Hollowell thuộc Tổng giáo phận Indianapolis chắc chắn sẽ được công nhận là trường hợp thứ 71. Ngài được chẩn đoán mắc bệnh u não vào ngày 11 tháng Hai, 2020 lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Tình hình càng ngày càng tệ. Đầu ngài đầy những vết sẹo chằng chịt từ các lần phẫu thuật loại bỏ các khối u. Nhưng nó vẫn tiếp tục lớn dần. Các bác sĩ đã tuyệt vọng. Mổ nữa chưa chắc ngài đã có sức chịu đựng. Trong lúc tuyệt vọng như thế, ngài đã hành hương đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức; và ở đó ngài cảm thấy được chữa lành.

Sau các khám nghiệm y khoa, ngày 30 Tháng Giêng, đích thân ngài tuyên bố đã được chữa khỏi bệnh u não khi đến thăm Lộ Đức, bên Pháp. Việc chữa lành cho ngài diễn ra tức khắc, hoàn toàn không còn dấu vết bệnh tật, và các bác sĩ nói họ không thể giải thích được về mặt y khoa.

Bác sĩ Alessandro de Franciscis của Ủy ban Y khoa Lộ Đức cho biết trường hợp của Cha John Hollowell khá tỏ tường. Ông tin rằng phép lạ chữa lành cho ngài sẽ được công nhận, nhưng cảnh báo mọi người rằng việc công nhận này có thể sẽ mất một số thời gian nhất định.

3. Vatican phát hành tem vinh danh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

Một tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Danh dự qua đời, các dịch vụ bưu chính của Vatican vinh danh ngài bằng một con tem nêu bật lòng sùng kính của ngài đối với Đức Trinh Nữ Maria

Chỉ những nhà sưu tập cuồng nhiệt nhất và những người đam mê tem mới có thể quen thuộc với Văn phòng Philatelic và Numismatic của Vatican. Được quản lý bởi dịch vụ bưu chính của Vatican, tổ chức này chịu trách nhiệm phát hành, quảng bá và bán tiền xu, huy chương và tem, được sưu tập bởi những người sành sỏi trên khắp thế giới.

Bổ sung mới nhất của họ là một con tem để tôn vinh Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Nó được phát hành vào ngày 31 Tháng Giêng, đúng một tháng sau khi ngài qua đời, và có một bức ảnh được chụp vào năm 2009, khi Giáo hoàng đang đi nghỉ ở Thung lũng Aosta ở miền Bắc nước Ý. Thông cáo báo chí về con tem nói rằng văn phòng muốn nhắc lại lòng sùng kính của vị Giáo hoàng người Đức đối với Đức Trinh Nữ Maria.

“Những ai – như Mẹ Maria – hoàn toàn mở lòng ra với Thiên Chúa, sẽ đón nhận thánh ý Chúa, cho dù vượt quá trí hiểu loài người, cho dù nó thường không phù hợp với ý muốn của mình, và là một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn họ, như cụ già Simêon nói tiên tri với Đức Maria khi Chúa Giêsu được dâng trong Đền thờ (x. Lc 2:35),” Đức Bênêđictô XVI nói trong buổi tiếp kiến chung ngày 19 tháng 12 năm 2012.

Con tem cũng muốn bày tỏ “hương thơm của lòng biết ơn” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến trong bài giảng lễ an táng Đức Bênêđictô XVI vào ngày 5 tháng Giêng.

“Các tín hữu của Thiên Chúa, quy tụ nơi đây, giờ đây đồng hành và phó thác cho Người cuộc đời của vị mục tử của họ. Giống như những người phụ nữ ở ngôi mộ, chúng ta cũng đã đến với hương thơm của lòng biết ơn và hương thơm của hy vọng, để một lần nữa cho Người thấy tình yêu bất diệt. Chúng ta muốn làm điều này với cùng sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã ban cho chúng ta trong những năm qua. Cùng nhau, chúng ta muốn nói: “Lạy Cha, chúng con xin phó thác linh hồn của người trong tay Cha”.

“Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!”

Con tem được in ở Bỉ, có giá 1,25 Euro (khoảng 1,36 USD) và chỉ có 105.000 bản được sản xuất.

Một Văn phòng ghi lại thời gian và lịch sử

Văn phòng Tem và Tiền xu của Vatican phát hành một số lượng nhất định tiền xu, huy chương và tem hàng năm để kỷ niệm các sự kiện cụ thể hoặc đơn giản là một năm trôi qua. Những thứ này sau đó được mua và bán bởi các nhà sưu tập trên khắp thế giới. Với mỗi đối tượng được tạo ra, một khoảng thời gian hoặc sự kiện nhất định được thể hiện và bất tử về mặt vật lý.

Ví dụ: vào tháng 6 năm 2022, Văn phòng đã phát hành một huy chương bạc dành riêng cho hòa bình ở Ukraine, số tiền thu được từ việc bán huy chương này sẽ được dùng để hỗ trợ những người chịu thiệt hại do chiến tranh. Huy chương trị giá 50 Euro (khoảng 54 đô la) có hình một bên là gia đình chạy trốn khỏi cuộc xung đột và bên kia là hình chim bồ câu và cành ô liu.

Văn phòng thậm chí còn có khu vực dành riêng trong Bảo tàng Vatican, nơi lưu giữ những con tem, đồng xu và huy chương quý hiếm từ triều đại giáo hoàng của Đức Giáo Hoàng Pius thứ 9 (1846-1878). Những ngày này có từ trước khi Nhà nước Thành phố Vatican chính thức ra đời, vào năm 1929 với việc ký kết Hiệp ước Lateran.


Source:Aleteia

4. 15.000 thanh niên, thiếu nữ Ba Lan sẽ tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Lisbon

Trong số hơn 400.000 người trẻ đã ghi danh tham dự Ngày Quốc tế Giới trẻ tại Lisbon, Bồ Đào Nha vào đầu tháng Tám năm nay, có 12.000 người trẻ Ba Lan.

Hôm 27 tháng Giêng vừa qua, Văn phòng toàn quốc Ba Lan về Ngày Quốc tế Giới trẻ cho biết về con số trên đây. Ông Marek Dziedzic, Tổng thư ký của Văn phòng này cho biết số tham dự viên người Ba Lan sẽ lên tới 15.000 người, và càng ngày càng có những nhóm thiện nguyện mới ghi danh tham gia. Ngoài ra, cũng có nhiều người trẻ Công Giáo Ba Lan sinh sống tại nước ngoài cũng đang chuẩn bị tham gia Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Lisbon.

Phí tổn tham gia hai tuần lễ tại Ba Lan, trước tiên tại các giáo phận và sau đó tại thủ đô Lisbon, từ ngày 01 đến ngày 06 tháng Tám, là 4.000 đồng Zloty Ba Lan, khoảng 850 Euro, tức là 920 Mỹ kim. Cha Tomasz Kaprianiuk, Giám đốc Văn phòng tại Ba Lan về Ngày Quốc tế Giới trẻ nhận xét rằng đối với người trẻ, số tiền này quả là lớn, trong khi Văn phòng không có khả năng đồng tài trợ chi phí cho chuyến đi. Tuy nhiên, cha khuyến khích các bạn trẻ hãy có những sáng kiến tổ chức quyên góp, gây quỹ trong các giáo xứ cho mục tiêu này. Cha cũng hy vọng các bạn trẻ từ Ukraine cũng có thể tham dự Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Lisbon. Vì thế, một chiến dịch lạc quyên dự kiến sẽ được phát động, với khẩu hiệu: “Vé cho Ukraine”, theo kiểu mẫu chiến dịch trước đây “Vé cho người anh em”, nhân dịp Ngày Quốc tế Giới trẻ năm 2016 ở Krakow, Ba Lan.
 
Không quân Mỹ đã bắn hạ khinh khí cầu TQ. Bắc Kinh thu thập những gì và thả xuống đất Mỹ những gì?
VietCatholic Media
21:20 04/02/2023


1. Quan chức Mỹ cho biết quân đội Mỹ đã bắn hạ khinh khí cầu do thám Trung Quốc ngoài khơi bờ biển phía Đông

Phát ngôn nhân Ngũ Giác Đài, Chuẩn tướng Pat Ryder, cho biết quân đội Mỹ đã bắn hạ khinh khí cầu do thám của Trung Quốc trên Đại Tây Dương. Tổng thống Joe Biden đã phê chuẩn việc bắn hạ khinh khí cầu này,

Khinh khí cầu lần đầu tiên được phát hiện trên bầu trời Montana vào đầu tuần này và đi qua miền trung của đất nước, tuân theo các kiểu thời tiết trước khi nó rời khỏi lục địa Hoa Kỳ vào hôm thứ Bảy.

Trước khi khinh khí cầu bị bắn rơi, Cục Hàng không Liên bang, gọi tắt là FAA, đã ra lệnh cấm cất cánh đối với các sân bay ở Wilmington, North Carolina; Charleston, Nam Carolina; và Myrtle Beach, Nam Carolina. FAA cũng hạn chế không phận gần Myrtle Beach “để hỗ trợ Bộ Quốc phòng trong nỗ lực bảo đảm an ninh quốc gia”.

Trước đó, các quan chức quân sự hàng đầu đã khuyên không nên bắn hạ khinh khí cầu khi bay qua lục địa Hoa Kỳ vì nguy cơ mảnh vỡ có thể gây ra cho dân thường và tài sản trên mặt đất. Hôm thứ Bảy, Biden đã nói với các phóng viên ở Syracuse, New York, rằng chính quyền của ông “sẽ chăm sóc” khinh khí cầu khi được các phóng viên báo chí hỏi liệu Hoa Kỳ có bắn hạ nó hay không. Ông Biden đã thảo luận về các lựa chọn với quân đội kể từ lần đầu tiên được thông báo về khinh khí cầu hôm thứ Ba.

Hôm thứ Sáu, Ngũ Giác Đài cho biết khinh khí cầu không gây ra mối đe dọa quân sự hay chính trị.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết khinh khí cầu đã vô tình đi vào không phận Mỹ. Nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết sự hiện diện của khinh khí cầu trên lãnh thổ Hoa Kỳ là “một sự vi phạm rõ ràng chủ quyền của chúng tôi cũng như luật pháp quốc tế và không thể chấp nhận được điều đã xảy ra”.

Việc phát hiện ra khinh khí cầu đã khiến Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken phải hoãn chuyến thăm ngoại giao rất được mong đợi của ông tới Trung Quốc, và nói rằng vụ việc “đã tạo ra những điều kiện làm suy yếu mục đích của chuyến đi.”

2. Biden nói rằng ông ấy muốn khinh khí cầu bị bắn hạ “càng sớm càng tốt”

Tổng thống Joe Biden cho biết nhiệm vụ bắn hạ một khinh khí cầu do thám của Trung Quốc ngoài khơi Bờ Biển phía Đông hôm thứ Bảy đã thành công và ông đã ra lệnh cho Ngũ Giác Đài hạ gục chiếc máy bay này ngay khi thấy an toàn.

“Hôm thứ Tư khi tôi được thông báo về khinh khí cầu, tôi đã ra lệnh cho Ngũ Giác Đài bắn hạ nó - vào hôm thứ Tư - càng sớm càng tốt,” tổng thống nói với các phóng viên ở Hagerstown, Maryland.

“Họ quyết định, không gây thiệt hại cho bất kỳ ai trên mặt đất, họ quyết định rằng thời điểm tốt nhất để làm điều đó là khi nó đi vào vùng biển... trong giới hạn 12 dặm. Họ đã hạ nó thành công và tôi muốn khen ngợi những phi công của chúng ta đã làm được điều đó,” tổng thống nói thêm.

Khi được hỏi liệu đó có phải là khuyến nghị từ đội an ninh quốc gia của mình hay không, Biden nhắc lại: “Tôi đã bảo họ bắn hạ nó. Họ nói với tôi, 'Hãy đợi nơi an toàn nhất để làm điều đó.'“

3. Các máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ đã bắn hạ khinh khí cầu do thám bằng một hỏa tiễn duy nhất

Khinh khí cầu do thám của Trung Quốc rơi xuống biển sau khi bị bắn rơi hôm thứ Bảy, 4 tháng Hai. Quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng các máy bay chiến đấu từ Căn cứ Không quân Langley ở Virginia để hạ gục khinh khí cầu do thám Trung Quốc bị nghi ngờ vào lúc 2:39 chiều ET ngày thứ Bảy,pPhát ngôn nhân Ngũ Giác Đài, Chuẩn tướng Pat Ryder, đã cho biết như trên.

Một hỏa tiễn duy nhất đã được sử dụng, quan chức này cho biết. Quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng máy bay F-22 và bắn hỏa tiễn AIM-9X.

4. Theo bộ trưởng quốc phòng: Chính phủ Trung Quốc đang sử dụng khinh khí cầu để “giám sát các địa điểm chiến lược” ở Mỹ

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin cho biết khinh khí cầu bị Hoa Kỳ bắn rơi trên Đại Tây Dương hôm thứ Bảy đang được chính phủ Trung Quốc sử dụng “để giám sát các địa điểm chiến lược ở lục địa Hoa Kỳ”.

Tổng thống Joe Biden đã ủy quyền cho Ngũ Giác Đài vào thứ Tư để hạ khinh khí cầu giám sát “ngay khi nhiệm vụ có thể hoàn thành mà không gây rủi ro quá mức đối với tính mạng người Mỹ dưới đường đi của khí cầu,” Austin cho biết trong một tuyên bố sau khi quân đội bắn rơi máy bay hôm thứ Bảy.

“Bộ Quốc phòng đã phát triển các phương án để hạ khinh khí cầu một cách an toàn trên lãnh hải của chúng ta, đồng thời giám sát chặt chẽ đường đi và các hoạt động thu thập thông tin tình báo của nó,” Austin cho biết, đồng thời nói thêm rằng các nhà lãnh đạo quân sự đã phối hợp với chính phủ Canada trong nhiệm vụ này.

“Hành động có chủ ý và hợp pháp trong ngày hôm nay chứng tỏ rằng Tổng thống Biden và đội ngũ an ninh quốc gia của ông sẽ luôn đặt sự an toàn và an ninh của người dân Mỹ lên hàng đầu đồng thời phản ứng hiệu quả trước hành vi vi phạm chủ quyền không thể chấp nhận được của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,” Austin nói.

5. Chính quyền địa phương khuyến cáo người dân không nhặt mảnh vỡ từ khinh khí cầu

Cư dân ven biển gần địa điểm nơi một khinh khí cầu giám sát bị nghi ngờ của Trung Quốc bị bắn hạ trên Đại Tây Dương hôm thứ Bảy đang được khuyên không nên cố gắng biến các mảnh vỡ thành đồ lưu niệm.

Theo chính quyền hạt Horry, Nam Carolina, nơi bao gồm Myrtle Beach, các mảnh vỡ của khinh khí cầu có thể trôi dạt vào bờ biển khi các thành viên quân đội Hoa Kỳ làm việc để nhặt các mảnh vỡ từ đại dương.

“Các mảnh vỡ không nên được chạm vào, di chuyển hoặc loại bỏ,” chính quyền Hạt Horry cho biết như trên.

“Những thứ như vậy là một phần của cuộc điều tra liên bang và việc chạm vào có thể can thiệp vào cuộc điều tra đó”

6. Mảnh vỡ khinh khí cầu Trung Quốc sẽ được đưa đến phòng thí nghiệm FBI Virginia để phân tích

Theo hai người được thông báo về vấn đề này, phần còn lại của khinh khí cầu do thám Trung Quốc bị nghi ngờ sẽ được đưa đến phòng thí nghiệm của FBI ở Quantico, Virginia, để các chuyên gia FBI và cơ quan tình báo phân tích.

Đầu giờ chiều nay, một quan chức quốc phòng cấp cao cho biết Bộ Quốc phòng đã triển khai nỗ lực hợp tác với FBI và các cơ quan phản gián để hỗ trợ “phân loại và đánh giá khinh khí cầu này”.

7. Nhân chứng ở Myrtle Beach kể chi tiết khoảnh khắc khinh khí cầu bị bắn rơi

Một nhân chứng đã quay video cảnh khinh khí cầu giám sát của Trung Quốc bị bắn hạ cho biết anh tình cờ nhìn thấy nó khi đang tận hưởng một ngày thứ Bảy ở Myrtle Beach.

“Chúng tôi đang ăn trưa, và chúng tôi đã đùa giỡn với nhau. Giống như, 'Nếu chúng ta nhìn thấy nó thì sao? Nếu nó ở ngay đây thì sao?'“, Joey Lopes, một giáo viên dạy môn xã hội đến từ thành phố ven biển Georgetown, Nam Carolina gần đó, nói.

Lopes nói với Jim Acosta của CNN vào chiều thứ Bảy rằng anh quyết định rút điện thoại ra và bắt đầu ghi lại cảnh tượng trên bầu trời ngay trước khi một quả hỏa tiễn bắn hạ khinh khí cầu.

“Chúng tôi thấy các máy bay chiến đấu bay vòng quanh. Có khoảng ba hoặc bốn chiếc,” Lopes nói. Và sau đó, chúng tôi nghe thấy một tiếng nổ, và khinh khí cầu biến mất.”

Lopes nói thêm rằng ông lo lắng về khả năng mảnh vỡ có thể rơi xuống nếu khinh khí cầu bị bắn vào đất liền, nhưng rất vui vì quân đội đã đợi cho đến khi nó ra biển.

“Tôi đã thấy rất nhiều thứ điên rồ ở Myrtle Beach trong ba năm qua. Đây là điều điên rồ nhất,” Lopes nói.

8. Các tàu của Hải quân và Cảnh sát biển Hoa Kỳ đang bảo vệ khu vực gần khinh khí cầu do thám bị bắn rơi

Theo một quan chức quân sự cấp cao của Mỹ cho biết, nhiều tàu của Hải quân và Cảnh sát biển Hoa Kỳ đang ở trong khu vực nơi chiếc khinh khí cầu do thám Trung Quốc bị nghi ngờ rơi xuống và đang bảo vệ vành đai.

Quan chức này nói với CNN rằng Hải quân đã lường trước việc phải thu hồi các mảnh vỡ ở vùng nước sâu hơn, nhưng nó đã hạ cánh ở độ sâu khoảng 47 feet, điều này “sẽ khiến việc này trở nên khá dễ dàng”.

Quan chức này cho biết “các thợ lặn có khả năng của Hải quân” sẽ xuống nước khi cần thiết để hỗ trợ hoạt động. Ngoài ra còn có “các tàu không người lái có thể đi xuống để lấy cấu trúc và nâng nó lên trở lại trên tàu thu hồi,” quan chức này nói thêm.

Quan chức này không biết các thủy thủ đoàn sẽ mất bao lâu để phục hồi bất kỳ thiết bị nào có thể trục vớt được từ chiếc máy bay bị bắn rơi nhưng lưu ý rằng việc phục hồi có thể mất “một thời gian tương đối ngắn”.

“Tôi không lường trước được hàng tháng và hàng tuần,” quan chức này nói.

9. Blinken nói rằng ông đã cảnh báo Trung Quốc rằng Hoa Kỳ sẽ thực hiện bất kỳ hành động nào “được coi là phù hợp để bảo vệ lợi ích của chúng tôi”

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken “đã nói rõ” trong cuộc trò chuyện với nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc Vương Nghị vào sáng thứ Sáu rằng Hoa Kỳ “bảo lưu quyền thực hiện bất kỳ hành động nào mà chúng tôi cho là phù hợp để bảo vệ lợi ích của mình “, một quan chức cấp cao của chính quyền Hoa Kỳ nói với CNN hôm thứ Bảy.

Blinken đã đưa ra lập trường trên khi trả lời câu hỏi về việc liệu chính phủ Hoa Kỳ có thông báo cho chính phủ Trung Quốc trước vụ thả khinh khí cầu giám sát hay không.

10. Lãnh đạo đa số Thượng viện lên án Trung Quốc “xâm nhập trắng trợn vào không phận Mỹ”

Lãnh đạo Đa số Thượng viện Chuck Schumer đã chỉ trích nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình về vụ khinh khí cầu gián điệp đi qua lục địa Hoa Kỳ.

“Tôi mạnh mẽ lên án hành vi xâm phạm không phận Mỹ một cách trắng trợn của Chủ tịch Tập và tôi khen ngợi sự lãnh đạo của Tổng thống Biden trong việc hạ khinh khí cầu Trung Quốc trên mặt nước để bảo đảm an toàn cho tất cả người Mỹ,” Schumer cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Bảy. “Bây giờ chúng tôi có thể thu thập thiết bị và phân tích công nghệ mà Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng.”

Hoa Kỳ đã bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc rằng khinh khí cầu đi vào không phận Hoa Kỳ một cách tình cờ, và biện minh rằng “khí cầu dân sự được sử dụng cho mục đích nghiên cứu, chủ yếu là khí tượng”.

11. Cục Hàng không Liên bang hủy bỏ lệnh cấm bay và mở lại không phận ở Carolinas

Trước khi khinh khí cầu Trung Quốc bị bắn hạ Cục Hàng không Liên bang, gọi tắt là FAA, đã ra lệnh cấm cất cánh từ các phi trường thuộc Carolinas, kéo dài đến 3:30 chiều giờ Miền Đông Hoa Kỳ khi các quan chức theo dõi một khinh khí cầu giám sát của Trung Quốc trong khu vực.

Các sân bay bị ảnh hưởng là ở Wilmington, North Carolina; Charleston, Nam Carolina; và Myrtle Beach, Nam Carolina.

Lệnh cấm bay đã có hiệu lực từ 12:45 chiều đến 3:30 chiều cho “không phận quốc phòng”.

Cục Hàng không Liên bang cho biết họ đã mở lại không phận trong khu vực. Lệnh dừng được dỡ bỏ ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ bắn hạ một khinh khí cầu do thám của Trung Quốc trên Đại Tây Dương.

“Các chuyến bay đến và đi từ các sân bay Wilmington, Myrtle Beach International và Charleston International đang được nối lại. Các không phận khác đã được mở lại. FAA cho biết trong một tuyên bố.