Ngày 21-02-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hoàn thiện trong tình yêu
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
00:38 21/02/2020


Chúa Nhật VII Thường Niên A
Lv 19,1-2.17-18; 1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48

Phụng vụ Lời Chúa của tuần này giới thiệu với chúng ta chủ đề để suy tư và áp dụng vào đời sống cụ thể hằng ngày đó là “hoàn thiện trong tình yêu đối với tha nhân.”

1- Vượt trên luật “mắt đền mắt”

Bản văn mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc I trích từ sách Lêvi, là một trong năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước. Trong đó, Thiên Chúa phán với Ítraen, dân riêng rằng: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2). Như thế, dân Chúa phải sống thánh thiện bởi vị họ thuộc về Thiên Chúa và bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh và sự thánh thiện này được diễn tả trong tình yêu nhưng không, một tình yêu không có sự căm thù đối với anh chị em dẫu chúng ta phải sửa lỗi, hoặc thẳng thắn góp ý cho những người anh chị em khi họ sai lỗi. Nó phải được thực hiện với lòng yêu mến, chứ không phải với một sự nóng nảy, tức tối, và càng không có chỗ cho những sự thù oán, hận thù trong trái tim chúng ta. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, anh chị em được nói tới trong sách Lêvi thì khá giới hạn. Theo họ, những anh chị em của mình chỉ là những thành viên của Ítraen, chỉ những ai thuộc về dân thánh mà thôi.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô rằng Giáo Hội là thánh thiện, bởi vì, Chúa Thánh Thần cư ngụ ở trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa là tình yêu và sự sống, làm cho cộng đoàn trở nên thánh thiện, chứ không phải nhờ vào công trạng, cũng không phải nhờ vào cố gắng luân lý của chúng ta, vì chúng ta là những tội nhân. Sự thánh thiện chính là sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần, chính Người ở trong Giáo Hội và làm cho Giáo Hội nên thánh thiện. Tuy nhiên, để nên thánh thiện, chúng ta có trách nhiệm đối với chính mình và với Giáo Hội nếu chúng ta muốn sống sự thánh thiện của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải sẵn sàng để trở nên giống những người “điên rồ” trong thế giới hôm nay vì sự khôn ngoan của Thánh Thần rất khác biệt với sự khôn ngoan của thế gian. Tình yêu của thế gian này thì rất khác biệt với tình yêu mà Chúa Thánh Thần ban tặng và ảnh hưởng trên chúng ta.

2- Yêu thương không oán thù

Điều này được minh chứng trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Đây là sự thay đổi của bài đọc thứ nhất: “Anh em hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh.” Sự hoàn thiện của Thiên Chúa ở trong sự thánh thiện. Và sự hoàn thiện của những môn đệ Chúa Kitô cũng ở trong sự thánh thiện. Nhưng một câu hỏi lại xuất hiện với chúng ta ở đây: Sự thánh thiện là gì? Chúng ta nghe âm hưởng từ bài đọc I, nhưng ở đây phạm vi và ý nghĩa được Chúa Giêsu mở rộng một cách tuyệt vời. Trong phần thứ nhất, Chúa Giêsu nói về châm ngôn, hay luật Cựu Ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Luật này được chấp nhận vào thời đại đó. Bạn móc mắt tôi, tôi sẽ móc mắt bạn ra; bạn bẻ răng tôi, tôi sẽ bẻ răng bạn. Luật công lý này dựa trên sự công bằng, và nó có những giới hạn, nó mang tính trả thù, anh móc mắt tôi nên tôi sẽ móc mắt lại anh. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu nói: Không, không được làm thế, vì đây không phải là cách hành xử của những người quảng đại và cao thượng đối với những ai đã làm bạn tổn thương và Chúa Giêsu muốn đi xa hơn, là không oán thù, bạo lực giống như người đã xúc phạm đến bạn. Không có dùng bạo lực, trả thù đối với bất cứ ai để trả lời cho những ai đã làm cho bạn bị tổn thương. Thay vào đó, thay vì bạo lực, chúng ta hãy trở nên nhân từ, quảng đại, hào hiệp đối với họ: “Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,39-42). Đây là luật mới của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người.

3- Yêu thương cả kẻ thù

Con người sẽ cho rằng đây là sự điên rồ, như được nói trong bài đọc II, nhưng đây là sự hoàn thiện của sự thánh thiện mà Thiên Chúa muốn các môn đệ Chúa Kitô phải sống. Nếu chúng ta bị xúc phạm, bị tổn thương, chúng ta không báo đáp lại bằng việc làm cho người khác bị xúc phạm và tổn thương một cách tương tự. Không có chỗ trong trái tim của người môn đệ Chúa để chứa đựng bạo lực, oán thù và giận hờn, chỉ có tình yêu làm cho bạn và tôi quảng đại đối với tha nhân.

Phần thứ hai của Tin Mừng làm rõ vấn đề này hơn và xem ra càng ngớ ngẩn hơn đối với thế gian và những lề luật liên quan đến những tội phạm. Bài đọc I, như chúng ta thấy, những nạn nhân được mời gọi hãy yêu thương anh chị em mình và có thể ghét kẻ thù. Các anh chị em là những thành viên của dân thánh. Ở đây, Chúa Giêsu không nói như thế: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Kẻ thù ở đây không chỉ là những người không thích chúng ta, nhưng là những người đang bách hại chúng ta, những kẻ đang tìm cách chống đối và hủy diệt chúng ta. Chúa muốn chúng ta đối xử với họ bằng tình yêu mà xem ra nó rất là ngớ ngẩn đối với thế gian, bởi vì đó không phải là cách thế của tình yêu của thế gian, nhưng là cách thế của tình yêu Chúa Cha trên trời. Nếu chúng ta đối xử với kẻ thù bằng bạo lực và thù oán, như người khác chờ đợi, Chúa Giêsu nói rằng đây là cách thế của những người đời, đó là cách thế của người tội lỗi, như thế, chúng ta không có sự khác biệt gì so với những người đó. Nhưng nếu chúng ta là con cái Thiên Chúa, thì đây là cách thế chúng ta phải sống nếu chúng ta yêu thương cách thế mà Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu hết mọi người, người tốt cũng như người xấu. Người cho mặt trời chiếu xuống trên cả hai. Như thế, nếu tình yêu của chúng ta hướng đến mọi người. Nếu người này là kẻ thù của bạn nhưng bạn nhìn họ như là anh chị em mình, bạn yêu họ. Nếu những người này làm bạn bị thương tổn, bạn đừng nhìn như là người đã làm tổn thương bạn, nhưng hãy nhìn họ như là người cần đến tình yêu của bạn. Bạn sẽ nói rằng điều đó quá vô lý và ngớ ngẩn, đúng thế, nhưng đây là cách thế mà những con cái Thiên Chúa hành xử theo Chúa Cha trên trời đã thực hiện với loài người.

Chúng ta có một mẫu gương về lòng nhân từ đối với kẻ thù, đó là Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, ngài bị bắt bớ, tù đày trong nhiều năm dưới chế độ Cộng Sản. Trong nhà tù, ngài sống yêu thương những người cai tù, nên có một số người đã trở lại. Sau này, khi giữ những chức vụ quan trọng ở giáo triều Rôma, nhiều người mong muốn ngài phải tỏ ra chống đối và lên án chế độ, nhưng thay vào đó, ngài nói về hòa bình, về hòa giải và tha thứ, nhất là bày tỏ lòng yêu thương đối với những con người đã gây đau khổ cho ngài. Đó là cách hành xử, là luật mới mà Chúa Giêsu hôm nay muốn chúng ta sống và áp dụng để trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô bằng việc sống một tình yêu vô vị lợi đối với tha nhân. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
 
Nhờ Chúa con yêu cả kẻ thù
Lm Nguyễn Xuân Trường
00:41 21/02/2020


Người Việt Nam có câu: “Lành với Bụt chứ không ai lành với ma.” Nghĩa là, người tốt với ta thì ta cũng tốt với họ, còn nếu là kẻ làm hại ta thì ta cũng phải cho nó biết tay! Nhưng Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài bảo phải yêu cả kẻ thù.

Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy: Lấy oán báo oán thì oán thù chồng chất. Lịch sử Việt Nam đã trải qua những kinh nghiệm cay đắng cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt chỉ vì người ta coi nhau là kẻ thù, muốn giết kẻ thù. Và rồi, người ta nghiệm ra rằng: Như ánh sáng mới xóa tan được bóng tối, chỉ có tình thương mới xóa tan được hận thù. Biết vậy nhưng tự sức con người dường như không thể làm nổi. Nhân loại cần một sức mạnh lớn hơn đến từ bên trên là Thiên Chúa như là động lực và mục đích của việc yêu kẻ thù.

1. Tình Chúa thứ tha. Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta như lời Đáp ca diễn tả: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Chúa tha thứ mọi điều ta sai lỗi. Tội ta phạm, Chúa ném thật xa.” Cảm nhận được tình Chúa thứ tha đó là động lực sâu nhất để ta có thể tha thứ cho kẻ thù.

2. Trở nên giống Chúa. Yêu kẻ thù không chỉ làm cho đời sống chúng ta được vui vẻ, tâm hồn được thanh thản, tình thân được hàn gắn, mà hơn thế nữa, nó giúp chúng ta đạt được mục đích cao cả nhất của đời người là trở nên giống Chúa là Đấng hoàn thiện ở trên trời.

Chúa Giêsu dạy chúng ta thực hành yêu kẻ thù bắt đầu bằng việc cầu nguyện cho người làm hại mình. Cầu nguyện cho người yêu mình thì ai chả làm được, cầu nguyện cho người ghét mình thì cần phải có trái tim giống Chúa mới làm nổi. Ngay giữa giây phút đau thương tột cùng vì bị kẻ thù đóng đinh vào thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu xin tha thứ cho kẻ thù: “Lạy Cha xin tha tội cho họ.”

Khi yêu cả kẻ thù là chúng ta đang sống một tình yêu không còn nghĩ đến mình nữa, mà chỉ còn nghĩ đến hạnh phúc của người khác mà thôi. Amen.
 
Tha thứ vì bản thân cần được tha thứ
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
06:11 21/02/2020


Chúa Nhật VII Thường Niên A

Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi… để gió cuốn đi…”. Gửi tấm lòng vào gió, vị tha với cuộc đời, bạn sẽ thấy cuộc sống đẹp vô cùng, đáng yêu vô cùng.

Ta thường nghĩ, tha thứ là món quà đối với người được tha thứ. Nhưng không. Tha thứ cho bất kỳ ai lại là món quà tự tặng chính bản thân.

Tha thứ luôn là cách giúp ta thể hiện sự trân quý đối với chính cuộc sống của mình. Nó còn giúp tránh muộn phiền và cảm nhận yêu thương.

Dù đã đi qua nhiều năm và Ngoại tôi đã ra người thiên cổ, tôi vẫn chưa bao giờ quên lời Ngoại dạy. Đó là cái thuở còn sinh viên, mỗi khi bực bội ai đó, tôi lại kể cho Ngoại nghe. Lúc nào nghe xong, Ngoại cũng nhẹ nhàng bảo: “Bỏ qua được thì bỏ qua đi con. Nghĩ hoài chỉ tội mệt óc”.

Dù biết Ngoại nói đúng, tôi vẫn chống chế: “Đời này không ai thực lòng bỏ qua cho nhau đâu Ngoại à. Ngoài mặt thì tha thứ, nhưng trong bụng lại ghim gút đợi ngày trả lại cả vốn lẫn lời đó Ngoại. Ai đâu lại hiền như Ngoại!”

Ngoại lại mắng: “Nói như mày chắc ở trên đời thiên hạ đều là kẻ thù của nhau?”...

Càng lớn lên, càng hiểu biết, càng thấm thía cuộc đời, tôi lại càng khắc ghi những lời Ngoại dạy. Bởi tôi biết, chỉ có tha thứ, tâm hồn mới thông thoáng, tầm nhìn phía trước mới không vướng víu bất cứ chướng ngại nào.

Tôi biết, những gì Ngoại dạy là chính sự hấp thu của một đời Kitô hữu mà Ngoại đã trải qua. Ngoại học nơi Chúa Kitô và lắng nghe lời Chúa dạy. Bởi chính Chúa đã chấp nhận làm người, sống, chết cho một tình yêu tha thứ đến vô cùng, đến không gì có thể sánh ví. Chúa tha thứ, để mọi con người nhờ ơn tha thứ của Chúa mà đạt đến sự trường tồn muôn đời trong Nước Chúa.

Và hôm nay, lời Chúa dạy hết sức rõ ràng để mọi người khắc ghi và sống: "Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành".

Chuyện kể rằng, có hai người đi trên sa mạc. Một lần, trong cuộc tranh cãi, một trong hai không giữ nổi bình tĩnh, tát vào mặt bạn mình. Người kia lặng lẽ ghi xuống cát: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát tôi".

Rồi cả hai cùng đi. Đến một đầm có nhiều nước, họ quyết định dừng chân. Người bạn vừa bị tát trượt chân ngã xuống bùn. Anh ta càng lúc càng lún sâu xuống. Rất may, người bạn còn lại kịp thời cứu. Ngay sau khi được cứu, anh khắc lên đá dòng chữ: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi".

Và anh giải thích: "Khi ai đó làm chúng ta đau, chúng ta nên viết điều đó lên cát, nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn. Nhưng khi chúng ta nhận được điều tốt từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi."

Hãy tha thứ cho những hành động lỗi phạm. Hãy buông bỏ những tư tưởng chấp nhất, hận thù, trả đũa. Chỉ có như thế lòng mới nhẹ, cuộc sống mới bình an, và từng ngày trôi qua sẽ đẹp, sẽ đáng sống.

Trong cuộc sống, lúc này lúc khác, ta sẽ khó tránh khỏi những tổn thương, thậm chí tổn thương tới mức sâu sắc.

Nếu bị tổn thương, ta đau khổ. Chính vì đau khổ, ta tưởng chừng khó có thể bỏ qua, khó có thể chôn vùi lỗi phạm của người khác trong quên lãng. Nhưng rồi mọi sự sẽ qua đi. Thời gian là liều thuốc cứu vãn tất cả.

Đàng khác, bao nhiêu lần ta đã gây tổn thương người bên cạnh. Ta buộc mình phải quên những tổn thương người khác gây ra, nhưng không được quên tổn thương mình gây cho người khác. Phải như thế, ta mới có thể nung đốt trong lòng mình một tình yêu tha thứ.

Hơn nữa, ơn Chúa ban, lời Chúa dạy, tấm gương tha thứ của Chúa, tuổi đời ngày càng cao cộng với những suy tư ngày càng chín chắn hơn của bản thân, đồng thời sức mạnh của những giờ phút cầu nguyện, những giờ phút lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa, sẽ cho ta một kinh nghiệm diệu kỳ. Đó là xem thường những lỗi phạm của người khác, không còn muốn nghĩ đến chúng, không còn muốn mang chúng theo bên đời của mình.

Lúc bấy giờ sự tha thứ sẽ ùa về như một ân ban mà bản thân không kềm chế nổi.

Tha thứ như một tất yếu phải đến sau những đổ vỡ cần chữa lành.

Tha thứ bởi quá nhiều lần, bản thân cũng cần được tha thứ, không chỉ từ Thiên Chúa mà còn từ đồng loại xung quanh...
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:15 21/02/2020

5. Con người ta nếu đem việc thiện quy về cho bản thân mình, thì nhất định cản trở ân sủng của Thiên Chúa đổ xuống trên họ.

(sách Gương Chúa Giê-su)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


--------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:20 21/02/2020
52. VẠN LÝ VỪA MỚI ĐẾN

Lúc người làm thơ nổi tiếng thời Nam Tống là Dương Vạn Lý làm giám tư (1) đi tuần sát đến một quận.

Thái thú quận ấy làm tiệc lấy lòng và sai ca kỹ đến hiện trường tiếp đãi, ca kỹ hát bài “chúc tân lang” để tiếp rượu, lúc hát đến chỗ “vạn lý vân buồm lúc nào đến” thì Vạn Lý xúc động thần kinh nhạy cảm, vội vàng đáp:

- “Vạn Lý vừa mới đến !”

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 52:

Người có tâm hồn thơ nhạc thì dù làm bất cứ chức vụ gì cũng đều có thể yêu nhạc làm thơ trong lúc rỗi rảnh, hoặc có thể xuất khẩu thành thơ thành nhạc khi có ngẫu hứng, cho nên có những lúc họ nghe được bài thơ đầy ý nghĩa hoặc những bài hát nội dung thấm đậm ý nghĩa thì lại thưởng thức mà lơ đãng đến chuyện chung quanh...

Có những bài hát để hát khi sinh hoạt vòng tròn, có những bài hát dùng để hát trong khi thờ phượng (thánh lễ, nghi thức phụng vụ), có những bài hát dành cho Đức Mẹ, có những bài hát theo mùa phụng vụ.v.v... đó là những quy định hợp lý của Giáo Hội để nâng tâm hồn người giáo hữu lên với Thiên Chúa khi họ tham dự thánh lễ hoặc các bí tích.

Thời nay có những người có cái tâm thích động nên đem những bài hát không ăn nhằm gì đến phụng vụ vào hát trong thánh lễ, không phải để ca tụng Thiên Chúa nhưng là để khoe cái tài điều khiển ca đoàn của mình; thời nay có những người được cha sở cho đi học các lớp nhạc để về giúp giáo xứ của mình, nhưng khi học được mấy bài nhạc thì tự tung tự tác thích chọn những bài hát theo ý mình không hợp với phụng vụ để hát, cha sở góp ý cho thì lại nói cha sở quê mùa không biết nhạc phụng vụ mới !

Nhà thi sĩ làm quan là Vạn Lý đã đắm mình trong bài hát lâm ly hay ho do các ca kỹ hát đến nỗi lầm tưởng là gọi tên mình. Cũng vậy, những bài hát trong phụng vụ thánh cần phải có tâm tinh siêu thoát để khi hát lên mọi người đều phải đắm mình trong hạnh phúc thiên đàng, ca ngợi và chúc tụng Chúa thì đó là bài hát hay vậy.

(1) Chức quan giám sát ở châu huyện.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)

------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 7 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:22 21/02/2020
Chúa Nhật VII THƯỜNG NIÊN

Tin mừng: Mt 5, 38-48

“Hãy yêu kẻ thù.”


Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giê-su đã dạy chúng ta là hãy yêu thương kẻ thù, yêu thương người ghét mình, yêu thương người bách hại mình, yêu thương người thường nói hành nói xấu mình.v.v.v…thật khó lắm thay !

1. Yêu thương kẻ thù khó lắm, nên phải nhìn lên thánh giá Chúa.

Người ta sẽ cho chúng ta là những người ngu dại khi đi yêu thương người đã từng vu khống nói xấu mình; người ta cũng sẽ cho chúng ta là đạo đức giả khi chúng ta đi tha thứ cho người giết hại cha mẹ mình; người ta cũng sẽ cho chúng ta là những người dở hơi khi chúng ta ôm hôn người đã hại mình tan gia bại sản. Họ nói đúng, bởi vì người đời không hiểu được lời dạy của Đức Chúa Giê-su là hãy yêu thương kẻ thù và hãy cầu nguyện cho những kẻ ghét mình.

Yêu thương kẻ thù không phải một sớm một chiều mà làm được, nhưng cần phải có thời gian suy ngắm đến tình yêu của Đức Chúa Giê-su dành cho nhân loại khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá, chính trong giờ phút hấp hối này, Ngài đã xin Đức Chúa Cha tha tội cho những kẻ giết mình. Đức Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta một gương mẫu, mà chính Ngài đã thực hành trước, đó là yêu thương và tha thứ cho những kẻ giết mình.

Không ai có thể yêu thương kẻ thù được nếu họ không ngắm nhìn Đức Chúa Giê-su trên thập giá; không ai có thể yêu thương kẻ thù được nếu họ không suy niệm đến tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho họ, bởi vì khi chúng ta đang còn thù nghịch với Ngài, thì Ngài đã tha thứ và yêu thương chúng ta trước.

2. Muốn yêu thương kẻ thù thì phải nhớ mình là người tội lỗi.

Một người tội lỗi khi được ơn Chúa cảm hóa thì họ sẽ trở nên người công chính, do đó mà họ dễ dàng thông cảm bỏ qua những khuyết điểm của người khác, dễ dàng yêu thương và bao dung những người đắc tội với họ, bởi vì chính họ đã là người tội lỗi được thứ tha bởi lòng nhân từ và yêu thương của Thiên Chúa.

“Hãy yêu kẻ thù” là một mệnh lệnh của Đức Chúa Giê-su trong giới luật yêu thương của Ngài, khi mà con người chỉ biết tỏ tình cảm yêu thương với những người mà họ quen biết, nhưng lại lạnh lùng và vô cảm với những người không thích mình, thì lời dạy của Đức Chúa Giê-su như là một “quả bom” làm chấn động tâm hồn những người nghe, trong đó có các tông đồ của Ngài. Mọi người nghe mà không tưởng tượng là phải yêu thương kẻ thù như thế nào, thì chính Ngài đã thực hiện trước là tha thứ cho những kẻ giết mình.

Khi chúng ta được Chúa thứ tha tội lỗi, nếu chúng ta cảm nghiệm được việc sống trong tội lỗi là gớm ghiếc như thế nào, thì chúng ta rất sẵn lòng tha thứ và yêu thương những kẻ ghét mình, bởi vì yêu thương không phải chỉ là nói lời xin lỗi, nhưng còn là bày tỏ ra nơi hành động khi có thể được.

Anh chị em thân mến,

Hãy yêu thương kẻ thù là lời của Đức Chúa Giê-su dạy chúng ta thực hiện trong cuộc sống, theo sức con người thì không thể làm được, bởi vì trái ngược với quan niệm yêu thương thông thường của con người “oán báo oán”, “mắt đền mắt”, “răng đền răng”. Nhưng với ơn của Chúa giúp và với sự cầu nguyện của mỗi người, mà chúng ta quyết tâm làm cho được điều ấy là hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Đó chính là cốt lõi của luật mới, luật yêu thương mới vậy.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

--------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thảm họa: Virus Tầu bùng phát tại Nam Hàn, dân chúng Daegu được yêu cầu đừng ra khỏi nhà
Đặng Tự Do
03:26 21/02/2020
Nam Hàn đã báo cáo một sự gia tăng rất lớn về các trường hợp nhiễm coronavirus hay COVID-19, phần lớn trong các trường hợp này là các tín hữu của một tà giáo thờ phượng người sáng lập như Chúa Giêsu đến lần thứ hai.

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Nam Hàn, gọi tắt là KCDC, đã báo cáo 52 trường hợp nhiễm virut mới vào hôm thứ Sáu 21 tháng Hai. Hôm thứ Năm, KCDC báo cáo có thêm 43 trường hợp, và trước đó một ngày, hôm thứ Tư có 20 trường hợp.

Nhu thế, tính đến ngày thứ Sáu, tổng số trường hợp nhiễm bệnh trên toàn quốc Nam Hàn đã lên đến 156 trường hợp trong đó có một trường hợp tử vong.

KCDC đã mô tả sự bùng phát này là một sự “siêu lây lan”.

Hầu hết các trường hợp nhiễm bệnh liên quan đến tà giáo Shincheonji tại thành phố Daegu, hay còn gọi là Đại Khâu - 大邱, cách thủ đô Hán Thành 237km về phía Đông Nam.

Theo chân những người Nam Hàn đến Việt Nam làm ăn, tà giáo Shincheonji /shin-chon-dzi/ cũng có mặt tại Việt Nam và được gọi là Hội Thánh Tin Lành Tân Thiên Địa. Hội Đồng Các Giáo Hội Kitô tại Hàn Quốc - Christian Council of Korea, gọi tắt là CCK, cho rằng Shincheonji là tà giáo, không thể coi là giáo phái Kitô vì họ không thờ phượng Chúa Kitô nhưng thờ phượng người sáng lập ra giáo phái này, là ông Lý Vạn Hy (Lee Man-hee -李萬熙).

Trong một trường hợp hết sức ngẫu nhiên, một người đàn bà thuộc tà giáo này bị tai nạn xe cộ và được đưa vào nhà thương. Trong lúc chữa chạy cho bà, các bác sĩ thấy bà có những triệu chứng nhiễm coronavirus nên yêu cầu bà thử máu. Ban đầu bà từ chối viện dẫn các lý do tôn giáo. Tuy nhiên, sau khi chạy CT scan, các bác sĩ buộc bà phải thử máu và các xét nghiệm khác.

Sau khi có kết quả dương tính, cảnh sát đã yêu cầu bà khai ra những nơi bà đã viếng thăm trong thời gian mấy tuần qua. Người đàn bà này, được biết với bí danh là “bệnh nhân 31” khai ra đến đâu, chỗ đó bị đóng cửa, bao gồm cả một thương xá lớn tại Hán Thành.

Trong cuộc họp báo hôm thứ Năm, thị trưởng Quyền Vịnh Trân (Kwon Young-jin-權泳臻) cho biết khi cảnh sát tiếp xúc với trung tâm sinh hoạt của tà giáo Shincheonji tại Daegu, nhiều tín hữu tỏ ra sẵn sàng hợp tác với cảnh sát và 90 người cho biết có những dấu hiệu như sốt cao, ho và viêm họng.

Tính cho đến ngày thứ Sáu, tất cả 90 người này đều đã được xác nhận là nhiễm bệnh.

Trước tình hình này, thị trưởng thành phố Daegu đã kêu gọi 2.5 triệu dân của thành phố kiềm chế đừng đi ra ngoài. Ông cầu xin sự giúp đỡ từ chính quyền trung ương, và khích lệ các cư dân đeo khẩu trang y tế ngay cả trong nhà.

Sau tuyên bố của ông thị trưởng, các trung tâm thương mại, nhà hàng và đường phố ở Daegu, thành phố lớn thứ tư tại Nam Hàn với dân số 2.5 triệu người, phần lớn trở nên hoang vắng trong một cảnh tượng mà người dân ví như một bộ phim về thảm họa chiến tranh.

“Ngay lập tức, giống như ai đó đã thả một quả bom vào giữa thành phố. Thành phố này hoang vu giống như ngày tận thế,” Kim Geun-woo, một cư dân 28 tuổi nói với Reuters qua điện thoại.

“Ngay cả đại lộ Dongseong-ro - trung tâm đông đúc nhất của thành phố - cũng vắng tanh,” anh cho biết như trên và nói thêm rằng anh đã cố gắng mua khẩu trang y tế nhưng các cửa hàng đã bán hết sạch.

Theo một tuyên bố từ giáo phái Shincheonji, các nhà lãnh đạo đã khuyên các tín đồ từ cuối tháng Giêng rằng họ nên ở nhà đừng đi họp nhóm nếu họ vừa mới đi du lịch nước ngoài hoặc gặp các triệu chứng giống như cảm, ho và viêm họng.

“Bệnh nhân 31” này, năm nay 61 tuổi, được cho là đã truyền bệnh cho hàng chục người tham gia các buổi gặp gỡ tại trung tâm sinh hoạt của giáo phái tại Daegu.

Bà cho rằng mình chỉ bị cảm lạnh thông thường và tiếp tục đến trung tâm sinh hoạt ở Daegu vì bà không hề đi du lịch nước ngoài.

Tuyên bố của chi nhánh Shincheonji tại Daegu cho biết họ đã ngừng hoạt động từ sáng thứ Năm và đang tiến hành các biện pháp phòng ngừa

“Chúng tôi nghĩ rằng thật là một nỗi buồn sâu sắc vì đã gây lo ngại cho cộng đồng địa phương.”

Sự bùng nổ của các bệnh nhiễm trùng ở Daegu và khu vực lân cận, cũng như một số trường hợp mới ở khu vực đô thị Hán Thành đã làm dấy lên mối lo ngại rằng các cơ quan y tế đang mất dấu vết của virus khi nó lan rộng hơn trong nước.

Shincheonji được thành lập bởi Lý Vạn Hy vào những năm 1980 và hiện đang có trên dưới 200,000 tín đồ tại Nam Hàn. Từ Shincheonji là một sự kết hợp của các thuật ngữ Hàn Quốc gồm “mới”, “thiên đàng” và “đất”. Nhóm này đã bị chỉ trích vì những giáo lý nông cạn, học thuật yếu kém, có một cái nhìn rất sơ sài và lệch lạc về các bản văn Kinh Thánh.

Hành động xuyên tạc Kinh Thánh của giáo phái này đã thúc đẩy một số nhóm nổi lên chống phái Tân Thiên Địa. Một số được lãnh đạo bởi các tổ chức Kitô Giáo, số khác bởi các tổ chức như báo chí và đài truyền hình. Chiến lược chung của Nam Hàn đối với phái Tân Thiên Địa là sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội và internet để ngăn cản mọi người tham gia.

Công bằng mà nói Shincheonji là một tà giáo rất lớn và thành công. Tà giáo này được lãnh đạo bởi một nhà lãnh đạo duy nhất là Lý Vạn Hy, người tuyên bố mình có một khả năng đặc biệt về khoa chú giải Kinh Thánh. Phái Tân Thiên Địa của Lý dạy rằng Kinh Thánh chủ yếu bao gồm những dụ ngôn, và chỉ có một mình ông ta mới có được ân sủng để giải thích chính xác Kinh Thánh.

Lý Vạn Hy tự cho mình là Chúa Giêsu xuống thế lần thứ hai.


Source:ABC News
 
Bài Giáo lý 4 của ĐTC Phanxico: Bài 4 - Phúc thay người hiền lành, vì họ sẽ được đất làm gia nghiệp
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ.
09:18 21/02/2020
Kể từ Thứ Tư 29 tháng 1, năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu loạt bài giáo lý về Bát Phúc hay Tám Mối Phúc Thật. Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ tư của Đức Thánh Cha được ban hành trong buổi Triều Yết Chung tại Rôma hôm Thứ Tư vừa qua, ngày 19 tháng 2 năm 2020. Trong bài này chúng tôi dịch Bài Tóm Tắt bằng Tiếng Anh ngắn để tiện cho các giáo xứ đăng trên các bản tin và bài Giáo Lý chính và dài từ bản tiếng Ý được đăng trong website của Toà Thánh (http://www.vatican.va).

Bài Tóm Tắt bằng Anh Ngữ

Anh chị em thân mến: Tiếp tục loạt bài giáo lý về các Bát Phúc, giờ đây chúng ta bàn đế Mối Phúc Thứ Ba: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất làm gia nghiệp” (Mt 5:5). Thánh Kinh sử dụng thuật ngữ “hiền lành” để chỉ những người nghèo và không có ruộng đất. Như thế việc Chúa Giêsu tuyên bố rằng người hiền lành sẽ được đất làm gia nghiệp có vẻ mâu thuẫn. Nhưng Chúa nói với chúng ta rằng người hiền lành sẽ được đất làm gia nghiệp. Bát Phúc chung cuộc chỉ đến quê hương trên trời đã được hứa cho con cái Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, người hiền lành là người đã học cách bảo vệ lãnh thổ của mối liên hệ của họ với Thiên Chúa và giữ gìn những món quà của Ngài là an bình, lòng thương xót và tình huynh đệ. Tội lỗi có thể phá hủy gia nghiệp này, vì hận thù và chia rẽ bắt nguồn từ tội lỗi có sức hủy diệt. Trái lại, sự hiền lành bảo tồn gia nghiệp này, giúp nó phát triển và chiếm được cảm tình của những người khác bằng tình yêu, lòng tốt và tình bằng hữu. Bằng cách noi gương sự hiền lành của Đức Kitô, chúng ta có thể giúp mở rộng vương quốc của Người và đến để lãnh nhận gia nghiệp được hứa cho chúng ta bởi Bát Phúc.

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Trong bài giáo lý hôm nay, chúng ta đề cập đến mối phúc thứ ba trong Tám Mối Phúc Thật của Tin Mừng Thánh Matthêu: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất làm gia nghiệp” (Mt 5: 5).

Thuật ngữ “hiền lành” được sử dụng ở đây theo nghĩa đen là ngọt ngào, hiền hậu, dịu dàng, không dùng bạo lực. Sự hiền lành tỏ lộ trong những lúc xung đột, bạn có thể thấy một người phản ứng với một tình cảnh thù nghịch thế nào. Bất cứ ai cũng có thể tỏ ra ôn hòa khi mọi sự đều bình thản, nhưng người ấy phản ứng thế nào “dưới áp lực” nếu bị tấn công, xúc phạm, hà hiếp?

Trong một đoạn thư, Thánh Phaolô nhắc lại “lòng nhân từ và hiền lành của Ðức Kitô” (2 Cor 10: 1). Và đến lượt Thánh Phêrô nhắc lại thái độ của Chúa Giêsu trong Cuộc Khổ Nạn: Người đã không trả lời và cũng không đe dọa, vì “Người đã phó mình cho Ðấng xét xử công minh” (1 Pr 2:23). Và sự hiền lành của Chúa Giêsu được thấy rõ trong Cuộc Khổ Nạn của Người.

Trong Thánh Kinh, từ “hiền lành” cũng ám chỉ một người không có đất đai tài sản; và do đó, chúng ta ngạc nhiên bởi sự thực là mối phúc thứ ba nói chính xác rằng người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”.

Thực ra, mối phúc này trích dẫn Thánh Vịnh 37, mà chúng ta đã nghe ở đầu bài giáo lý. Ở đó cũng vậy, sự hiền lành và việc sở hữu đất được nối kết với nhau. Hai điều này, khi chúng ta nghĩ về chúng, thì chúng có vẻ xung khắc. Thực ra, sở hữu đất đai là lãnh vực xung đột điển hình: người ta thường chiến đấu cho một lãnh thổ, để giành quyền bá chủ một khu vực nhất định. Trong các cuộc chiến tranh người mạnh nhất thắng thế và chinh phục các vùng đất khác.

Nhưng hãy xem xét kỹ động từ được sử dụng để chỉ sự sở hữu của những người hiền lành: họ không chinh phục đất đai; không nói “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ chinh phục trái đất”. Họ “thừa hưởng” nó. Phúc cho những người hiền lành vì họ sẽ “thừa hưởng” đất. Trong Thánh Kinh, động từ “thừa hưởng” thậm chí còn có ý nghĩa hơn nhiêu. Dân Thiên Chúa gọi vùng đất của Israel, là Đất Hứa, là “gia nghiệp”.

Đất ấy là một lời hứa và một món quà cho Dân Thiên Chúa, và trở thành một dấu chỉ của một điều lớn hơn nhiều so với một lãnh thổ đơn giản. Có “đất” - cho phép chơi chữ - đó là Thiên Đàng, nghĩa là đất mà chúng ta đang bước đến: Trời mới và đất mới mà chúng ta đang đi tới (x. Is 65:17; 66:22; 2 Pr 3:13; Kh 21:1).

Vậy thì người hiền lành là người “thừa hưởng” lãnh thổ siêu phàm nhất trong tất cả các lãnh thổ. Người ấy không phải là một kẻ hèn nhát, một “kẻ yếu đuối”, kẻ tìm một loại đạo đức co mình lại để tránh rắc rối. Khác xa! Người ấy là một người đã nhận được một gia sản và không muốn phung phí nó. Người hiền lành không phải là người thích nghi với hoàn cảnh nhưng là môn đệ của Đức Kitô, là người đã học cách bảo vệ một miền đất khác. Người ấy bảo vệ sự bình an của mình, bảo vệ mối liên hệ của mình với Thiên Chúa, bảo vệ những hồng ân của mình, những hồng ân của Thiên Chúa, bảo tồn lòng thương xót, tình huynh đệ, niềm tin, hy vọng. Bởi vì người hiền lành là người có lòng thương xót, tình huynh đệ, tin tưởng và là người có niềm hy vọng.

Ở đây chúng ta phải đề cập đến tội tức giận, một sự di chuyển vũ bão của điều mà tất cả chúng ta đều biết là cơn bốc đồng. Có ai đôi khi đã không tức giận không? Tất cả mọi người. Chúng ta phải lật ngược mối phúc và tự hỏi mình một câu: chúng ta đã phá hủy bao nhiêu thứ với sự tức giận? Chúng ta đã mất bao nhiêu thứ? Một giây phút tức giận có thể phá hủy nhiều thứ; bạn mất kiểm soát và không đánh giá điều gì thực sự quan trọng và có thể phá hỏng mối liên hệ với một người anh em, đôi khi không có thuốc chữa. Trong cơn giận dữ, nhiều anh em không còn nói chuyện với nhau, họ rời xa nhau. Đó là đối nghịch của hiền lành. Hiền lành tụ họp lại, giận dữ tách rời ra.

Sự hiền lành chinh phục được nhiều thứ. Sự hiền lành có khả năng chiến thắng con tim, cứu vãn tình bằng hữu và nhiều hơn nữa, bởi vì những người tức giận nhưng sau đó bình tĩnh lại, suy nghĩ lại và phục hồi, và vì thế có thể xây dựng lại được với sự hiền lành.

“Đất” được chinh phục bằng sự hiền lành là ơn cứu rỗi của anh em mà Tin Mừng Thánh Matthêu nói: “Nếu nó chịu nghe con, thì con đã chinh phục được người anh em.” (Mt 18:15). Không có vùng đất nào đẹp hơn con tim của những người khác, không có lãnh thổ nào đẹp để chiếm được hơn là sự bình an được tìm thấy với một người anh em. Và đó là đất được thừa hưởng với sự hiền lành!

(Nguồn: http://www.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2020/documents/papa-francesco_20200219_udienza-generale.html)
 
Hội Đồng Giáo Hoàng Giải Thích Các Bản Văn Luật Pháp
Vũ Văn An
17:15 21/02/2020
Theo tin Zenit ngày 21 tháng 2 năm 2020, Hội Đồng Giáo Hoàng phụ trách việc giải thích các bản văn luật pháp đã họp phiên toàn thể để khảo sát Sách thứ Sáu của Bộ Giáo luật, tức Sách nói về các chế tài trong Giáo Hội (de Sanctionibus in Ecclesia). Kết thúc phiên họp này, Hội Đồng đã được yết kiến Đức Phanxicô. Nhân dịp này, ngài đã ngỏ lời với Hội Đồng.

Đại cương, Đức Phanxicô nhắc lại nhiệm vụ của Hội Đồng là trợ giúp chức năng lập pháp của Đức Giáo Hoàng, Nhà Lập Pháp phổ quát, trong việc giải thích đúng đắn các luật lệ do ngài ban hành, trợ giúp các Bộ Sở trong vấn đề Giáo Luật, cũng như lo liệu để các bản văn có tính qui phạm do các nhà làm luật dưới thẩm quyền tối cao ban hành được hợp pháp.

Hội Đồng cũng cam kết trợ giúp các mục tử của các Giáo Hội đặc thù và các Hội Đồng Giám Mục trong việc giải thích và áp dụng đúng đắn các luật lệ. Trong khía cạnh này, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh: “điều cần thiết là tái thủ đắc và suy tư về ý nghĩa thực sự của luật lệ trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó, Lời Thiên Chúa và Các Bí Tích là ưu việt, trong khi qui phạm pháp lý có vai trò cần thiết nhưng phụ thuộc và để phục vụ sự hiệp thông”.

Ngài nói thêm: cần phải hiểu rõ chiều kích mục vụ của Giáo Luật nghĩa là tính dụng cụ của nó nhằm phần rỗi các linh hồn (salus animarum).

Nhân đây, ngài nhắc lại giáo huấn của Đức Bênêđíctô XVI trong Thư Gửi Các Chủng Sinh: một xã hội không có luật lệ là một xã hội không có quyền lợi. Luật lệ là điều kiện của tình yêu.

Cũng nhân dịp này, Đức Phanxicô nhắn nhủ các Giám Mục nói chung: vai trò thẩm phán giữa các tín hữu đã được ủy thác cho các ngài luôn có đặc tính mục vụ nghĩa là hướng tới việc hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa.

Cụ thể, khi vị bản quyền đã nắm chắc rằng dù đã hết cách, mà vẫn không thể có được đầy đủ sự sửa sai tai tiếng, tái lập công lý, tu sửa người vi phạm, thì chỉ khi ấy mới nên khởi sự thủ tục tư pháp hay hành chánh để ban hành và công bố các hình phạt thỏa đáng để đạt mục tiêu.

Suy diễn từ đó, ta thấy hình phạt tội hình luôn là lý do tối hậu (extrema ratio), phương thuốc tối hậu, cực chẳng đã mới áp dụng, sau khi mọi phương thế khác tỏ ra vô hiệu. Ngài nói: “trái với điều được nhà làm luật của Nhà Nước dự liệu, hình phạt theo giáo luật luôn có ý nghĩa mục vụ và không chỉ tuân theo chức năng tôn trọng trật tự mà còn cả việc sửa chữa và nhất là thiện ích của chính phạm nhân. Mục đích sửa chữa hướng tới việc phục hồi, bao nhiêu có thể, các điều kiện có trước việc vi phạm vốn làm đảo lộn sự hiệp thông”.

Đối với ngài, “mọi tội phạm, thực tế, đều liên quan đến toàn thể Giáo Hội, mà việc hiệp thông đã bị vi phạm bởi người cố ý vi phạm chống lại Giáo Hội bằng tác phong của họ. Cùng đích của việc phục hồi cá nhân nhấn mạnh điều này: hình phạt giáo luật không phải chỉ là phương thế cưỡng chế, mà nó có đặc tính chữa lành khác biệt”.

Trong đồng văn trên và cũng nhân dịp kỷ niệm một năm Hội Nghị Thượng đỉnh về việc bảo vệ các vị thành niên trong Giáo Hội, chúng tôi xin giới thiệu với qúy độc giả của VietCatholic một công trình giải thích của Hội Đồng Giáo Hoàng Giải Thích Các Bản Văn Luật Pháp về Phúc Nghị của Đức Phanxicô về việc hủy bỏ Bảo Mật Giáo Hoàng, công bố hồi tháng Sáu năm 2019.

Kỳ sau: Nhận định của Đức Cha Juan Ignacio Arrieta, Tổng thư ký Hội Đồng Giáo Hoàng Phụ trách Các Bản văn Luật Pháp về Phúc nghị của Đức Giáo Hoàng liên quan đến Tính Bảo mật của Các Thủ tục luật pháp
 
Coronavirus lan sang tới Ý đe dọa các nghi lễ trong Mùa Chay tại Tòa Thánh
Đặng Tự Do
20:41 21/02/2020
Tổ Chức Y Tế Thế Giới, gọi tắt là WHO, đã cảnh báo rằng cơ may ngăn chặn dịch coronavirus chết người này càng ngày càng nhạt nhòa dầnn trước sự gia tăng các trường hợp nhiễm bệnh của những người chưa từng một lần đặt chân đến Trung Quốc, kể cả những người ở Trung Đông, là những người có rất ít quan tâm đến quốc gia này.

Li Băng và Israel đã xác nhận các trường hợp nhiễm coronavirus đầu tiên vào hôm thứ Sáu, trong khi Bộ Y tế Iran báo cáo có thêm hai trường hợp tử vong trong số 13 trường hợp nhiễm coronavirus mới. Như thế, đến nay tại Iran có 4 trường hợp tử vong và số ca nhiễm bệnh lên đến 18 người.

Trong khi đó tại Ý, thông tấn xã Ansa đã báo cáo cái chết đầu tiên do coronavirus. Một bệnh nhân ở thành phố Padua phía bắc nước Ý đã chết vì nhiễm coronavirus. Ông trở thành nạn nhân đầu tiên của Ý chết vì căn bệnh này. Thông tấn xã Ansa cho biết thêm người đàn ông đã chết ở tuổi 78.

Các nhà chức trách ở miền bắc Italia đã ra lệnh đóng cửa các trường học, các nhà hàng, các quán bar và các không gian công cộng khác tại 10 thị trấn sau một loạt các trường hợp coronavirus mới.

Năm bác sĩ và chín người khác đã xét nghiệm dương tính với coronavirus tại Bologna, sau khi dường như thường xuyên có các cuộc gặp gỡ tại một quán bar. Hai trường hợp khác xảy ra ở Veneto. Nhà chức trách cho biết như trên trong một cuộc họp báo.

Hơn 50,000 người đã được yêu cầu ở trong nhà, hạn chế ra đường trong các khu vực liên quan. Các sự kiện thể thao đã bị cấm trong một tuần. Nhà chức trách đã yêu cầu tổng giáo phận Bologna và giáo phận Vittorio Veneto hủy bỏ thánh lễ cuối tuần này và cả ngày thứ Tư Lễ Tro.

Tại Trung Quốc đại lục, tính đến ngày thứ Bẩy 22 tháng Hai, số người chết đã lên đến 2,345 người trong khi số ca nhiễm bệnh lên tới 76,288. Như thế, trong ngày thứ Sáu đã có thêm 109 người chết. Riêng tại thành phố Vũ Hán, có 90 người thiệt mạng. Số trường hợp xác nhận nhiễm bệnh tăng 397 người.

Thêm một bác sĩ trẻ mới 29 tuổi đã chết tại Vũ Hán vì coronavirus. Trong khi đó, Bắc Kinh cho hay 500 tù nhân Trung Quốc bị nhiễm Covid-19, tại ba tỉnh. Trong số này có 230 tù nhân tại Nhà tù Phụ nữ Vũ Hán. Tân Hoa Xã cho biết giám đốc nhà tù này đã bị cách chức và bị bắt vào chiều thứ Sáu 21 tháng Hai vì tội tham ô các vật tư y tế phòng dịch. Tại Hồ Bắc còn một nhà tù khác có các tù nhân bị nhiễm coronavirus là nhà tù Sa Dương (Shayang - 沙洋) ở quân Hán Kim (Hanjin - 汉金) với 41 tù nhân nhiễm bệnh.

Tình trạng nhiễm bệnh trong tù là một khía cạnh đáng âu lo. Tuy nhiên, điều còn khiến các khoa học gia hoang mang hơn nữa là trường hợp một thiếu nữ 20 tuổi, không có bất cứ triệu chứng nhiễm bệnh nào đã lây bệnh cho 5 người thân của cô.

Thiếu nữ 20 tuổi này là người ở Vũ Hán, tâm chấn của sự bùng phát coronavirus. Cô đã đi 675 km về phía bắc đến thành phố An Dương (Anyang - 安阳) nơi cô lây bệnh cho 5 người thân, trong khi chính cô không có dấu hiệu nhiễm trùng nào. Các nhà khoa học Trung Quốc đã báo cáo như trên, như một bằng chứng mới về khả năng virus có thể lây lan từ những người không có bất cứ triệu chứng nào.

Theo báo cáo của bác sĩ Vương Mỹ Vận (Meiyun Wang - 王美韵) thuộc Bệnh viện Nhân dân Đại học Trịnh Châu (Zhengzhou - 郑州) và các đồng nghiệp của ông, các bác sĩ đã cách ly người thiếu nữ này và kiểm tra virus sau khi nhiều người thân của cô bắt đầu bị bệnh.

Ban đầu, người phụ nữ trẻ đã thử nghiệm âm tính với virus, nhưng xét nghiệm tiếp theo là dương tính.

Cả năm người thân của cô đều bị viêm phổi COVID-19, nhưng đến ngày 11 tháng Hai, cô gái trẻ vẫn không có bất kỳ triệu chứng nào, CT ngực của cô vẫn bình thường và cô không bị sốt, hoặc các triệu chứng hô hấp, như ho hoặc viêm họng.

Nghiên cứu về trường hợp này đã được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ.

Khoảng 35 hành khách người Anh đã trở về nhà vào hôm thứ Bảy sau khi bị mắc kẹt hai tuần trên một tàu du lịch Diamond Princess bị cách ly ở cảng Yokohama, Nhật Bản vì sự bùng phát của coronavirus.

Máy bay chở những người này đã hạ cánh xuống một sân bay của bộ quốc phòng ở Tây Nam nước Anh trên một chiếc máy bay do chính phủ Anh thuê từ Tokyo. Họ đã được đưa thẳng đến các cơ sở kiểm dịch.

Tàu Diamond Princess chở theo 3,700 người, trong đó có 78 người Anh, khi bị cách ly ở Yokohama vào ngày 5 tháng Hai. Hơn 620 hành khách trên tàu đã bị nhiễm coronavirus. Đây là con số nhiễm coronavirus lớn nhất bên ngoài Trung Quốc đại lục.

Tại Nam Hàn, số trường hợp được xác nhận nhiễm coronavirus đã đột ngột tăng lên đến 346 người cho đến 9 giờ sáng ngày thứ Bẩy 22 tháng Hai. Phần lớn những người nhiễm bệnh là các tín hữu của giáo phái Tân Thiên Địa, tiếng Hàn gọi là Shincheonji.


Source:Al Jazeera
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Phỏng vấn cha cựu tuyên úy về quá trình xây dựng và viễn kiến Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, Melbourne
Giáo Hội Năm Châu
03:22 21/02/2020
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Từ Trách Vụ Chống Cộng…
Hà Minh Thảo
16:20 21/02/2020
Người Việt tị nạn toàn cầu buồn cho Quê hương nhuộm đỏ và thương nhớ Ðồng bào khi nghe nhạc khúc ‘Ðêm Nguyện Cầu’ được viết bởi nhạc sĩ Lê Minh Bằng « … Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối… » và kết thúc bằng câu hỏi rướm máu « Nhà Việt Nam yêu dấu ơi bao giờ thanh bình? »

https://www.youtube.com/watch?v=Co4Hytf0VEE

Chuyện ‘nói dối’ và ‘lường gạt’ là nghề của cộng sản. Người Mỹ có thể thuê mướn kẻ giết ông Diệm và xóa nền Ðệ Nhất Cộng hòa, nhưng sự ‘dối gạt’ của chúng chỉ đáng là học trò của cộng sản mà thôi. Do đó, sau khi thua trận, dù có nói dối ‘ra đi trong danh dự’. Ngày nay, người Mỹ o bế Hà nội, hết Osius, đến Kritenbrink im lặng trước những vi phạm về nhân quyền để lại hy vọng sẽ bán vũ khí sát thương.

Chào đời năm 1944 tại Gò Công. Năm 1945, Việt Minh nổi loạn để cướp chính quyền, gia đình chúng tôi phải lánh nạn và định cư tại Chợ Lớn. Năm 1950, bắt đầu đi học tại trường Ðỗ Hữu Phương (sau đổi tên thành Hùng Vương, công lập, miễn mọi khoản phí đóng), và khi biết chữ, tôi đã đọc báo để rõ những điều cân biết, nhất là các tin tức chiến sự, đặc biệt các tin việt cộng khủng bố lính Tây và giết hại đồng bào vô tội. Ngay từ 1945, chúng đã giêÙt hại nhều thành viên các đảng phái không cộng trong liên minh chính trị Việt Minh*.

Năm 1956, tôi có hai dịp được Trường đưa đi tham dự biểu tình chống cộng :

i. Sau khi thống trị Miền Bắc với bàn tay sắt máu và một hệ thống tuyên truyền rất gian xảo học được từ tổ tiên là Cộng sản Nga Tàu, Hồ Chí Minh đã gặp phản ứng quyết liệt đầu tiên của nông dân chống lại chế độ độc tài, diệt Công Giáo. Do đo, cuộc khởi nghĩa bất khuất đã nổ ra tại huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) tháng 11/1956.

ii. Cuộc khởi nghĩa tại Hung Gia Lợi (Hungary) năm 1956 chống Nhà nước phò Stalin do Liên xô áp đặt từ ngày 23.10 đến 10.11.1956 và đã bị đàn áp dã man bởi hồng quân Liên xô với trên 150.000 quân và 2.500 xe tăng.

* Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, do đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19.05.1941 để ‘Liên hiệp các đảng phái và các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật và Pháp, hầu Việt Nam được độc lập, tạo nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’.

I.- ÐÔI DÒNG SỬ VIỆT.

A. Dân tộc Việt bao gồm những công dân nước Việt tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam, xem quyền lợi dân tộc Việt Nam là tối thượng, kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Tiền Nhân Việt Nam, khởi đi từ Thời Hồng Bàng do các Vua Hùng dựng nước Văn Lang (tên thời lập quốc Việt Nam), qua các triều đại độc lập tự chủ do các vua quan Việt Nam cai trị đất nước (Đinh, Lê, Lý, Trần…) hay những thời kỳ dài ngắn bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ (1.000 năm Bắc thuộc, non 100 năm Pháp thuộc), với các anh hùng hào kiệt đã lãnh đạo toàn dân chống ngọai xâm, giành và giữ độc lập, tự chủ cho dân tộc, viết nên những trang sử oai hùng và vẻ vang cho dân tộc Việt (như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Quang Trung, …). Trước khi bị chia đôi, Quốc Gia Việt Nam trải dài từ Aûi Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

B. Sứ mạng Chống cộng sản là Trách nhiệm Yêu nước phát sinh năm 1930 khi đảng cộng sản, tay sai của Quốc tế Cộng sản, theo chủ nghĩa Marx -Engels – Lenin hình thành. Cộng đảng Việt ra sức thuyết phục tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, tư sản và tư sản bậc trung về phía mình. Cách mạng Việt cộng còn là một bộ phận cách mạng thế giới.

II.- THỜI PHÁP THUỘC.

A. Cách mạng tháng Tám 1945.

Sáng ngày 19.08.1945, nhiều chục vạn người dân Hà Nội và các tỉnh lân cận kéo đến quảng trường Nhà Hát Lớn. Lúc 10 giờ 30, cuộc tập hợp quần chúng cách mạng được bảo vệ bởi Thanh niên tự vệ và tổ chức bởi Việt Minh để tuyên bố: Tổng khởi nghĩa!

Ngày 23.08.1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi nhờ sự đóng góp của lực lượng Thanh niên tiền tuyến, vốn là để bảo vệ trị an cho chính phủ Trần Trọng Kim đã quay sang ủng hộ Việt Minh. Trong những ngày cuối cùng, ông Trần Trọng Kim vẫn ra sức giữ ngôi báu cho nhà Nguyễn nhưng bất thành vì các thành viên nội các đều từ chức và ủng hộ Việt Minh. Ngày 25.08.1945, Việt Minh và Thanh niên Tiền phong tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gòn, đang chịu sự cai trị trực tiếp của Nhật. Đến ngày 28.08.1945, Việt Minh cướp được chính quyền toàn quốc.

Ngày 22.08, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã giành được chính quyền trên khắp cả nước. Vua chấp nhận thoái vị và trở thành công dân Vĩnh Thụy. Ngày 25.08.1945, nhiều ngàn dân tụ tập trước cửa Ngọ Môn xem Vua đọc Tuyên ngôn Thoái vị, ông tuyên bố ‘muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị’.

Ngày 02.09.1945, nhiều gia đình đã dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị đốt pháo để ăn mừng buổi lễ. Về đồng bào Công Giáo, vì hôm đó rơi đúng vào ngày ‘Lễ mừng kính các Á Thánh tử vì đạo Việt Nam’ (Phụng vụ lúc đó cử hành trọng thể Lễ vào Chúa Nhật đầu tháng 9), nên các nhà thờ ở Hà Nội sáng đó tràn ngập người tham dự Thánh Lễ. Việc chọn ngày này của Hồ Chí Minh còn nhằm gắn kết chính quyền mới với Giáo Hội Công Giáo? Các linh mục, sau khi cử hành tác vụ Ðức Kitô cho dân Chúa, đã cùng giáo dân hướng về Quảng trường Ba Đình để tham dự lễ ‘Tuyên bố Ðộc lập’, Bản Tuyên ngôn được chép từ bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu: ‘Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’. Suốt dòng lịch sử, điều đó chỉ được hưởng bởi những đảng viên cộng sản chóp bu. Bởi thế, bịnh tình của họ cũng là điều ‘bí mật quốc gia’.

B. Thực dân Pháp trao tặng Miền Bắc Quê hương cho cộng sản Việt.

Ngày 07.05.1954, Điện Biên Phủ thất thủ. Tin này làm thất vọng chánh phủ Pháp khiến họ quyết định phải chấm dứt chiến tranh Ðông Dương, gồm Việt-Miên-Lào, và có thể phải rút quân khỏi vùng đất này. Do đó, họ đã sớm kết thúc Hội nghị ‘Khôi phục Hòa bình Ðông Dương’ tại Geneva (Thụy Sĩ) đã được khai mạc từ ngày 26.04.1954.

Ngày 20.07.1954, Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam và Lào được ký bởi đại diện của hai lực lượng quân sự có liên quan, là Thiếu tướng Delteil (Pháp) và Tạ Quang Bửu (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nhằm chia đôi Quốc gia Việt Nam thành hai nước :

- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Miền Bắc cho tới vĩ tuyến 17;

- Quốc gia Việt Nam ở Miền Nam từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau.

Hôm sau, ngày 21.07.1954, ban thư ký hội nghị phổ biến bản Tuyên Ngôn Sau Cùng (Final Declaration) trong đó có ghi điều khoản đề cập việc tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất hai nước Việt Nam. Văn kiện này không mang chữ ký bất cứ đại biểu phái đoàn nào của 9 quốc gia tham dự Hội nghị. Đây chỉ là một bản tuyên ngôn ý định (Declaration of Intent) nói lên ý nguyện hay mong ước của Hội nghị. Về mặt pháp lý, tuyên ngôn không phải là hiệp ước, không có chử ký nên không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực chấp hành.

Ðồng thời, trong ngày 21.07.1954, Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đã ra tuyên cáo phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp định thuần túy quân sự như Hiệp định Đình chiến Geneva này, mà không có sự thỏa thuận và ký kết của phái đoàn Quốc gia Việt Nam. Vả lại, thật nực cười, Tạ Quang Bửu làm gì có tư cách đại diện cho nhân dân Miên và Lào để giải quyết những vấn đề chính trị của họ, chiếu nguyên tắc Dân tộc Tự quyết). Thật đúng, các ‘đỉnh cao trí tuệ’ quốc tế và việt cộng không cách xa nhau lắm. Cũng thế, những kẻ ký Hiệp định này và Hiệp định Paris 1973 đều vô trách nhiệm như nhau vì khi mực chưa khô, hai văn kiện đều bị việt cộng vi phạm, họ đứng đó nhìn. Danh dự còn đâu ! Cần gì danh dự, miễn có tiền là được… Do đó, hết Pháp 1954, rồi Mỹ 1973 và còn dài dài bị Việt cộng gạt.

Sau khi Quê Hương bị chúng và người Pháp chia đôi bởi Hiệp định Geneva 20.07.1954, Miền Bắc rơi vào tay chúng. Nhà nước cộng sản, qua các cuộc cải cách kinh tế, đấu tranh giai cấp, tiêu diệt tôn giáo và nhất là cướp ruộng đất, đã giết hại bao nhiêu người dân vô tội, kể cả cha mẹ chúng. Họ là bọn vô Tổ quốc vì phục vụ Quốc tế Cộng sản, vô gia đình vì giết cha mẹ, vô tôn giáo vì chúng nuôi cái đám công an tôn giáo đàn áp tín hữu sống đạo đúng giáo lý dạy. Do đó, sứ nhiệm tự nhiên của chúng ta là Chống Cộng và nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là cầu nguyện cho họ sớm tỉnh ngộ đừng nghe theo Tàu cộng khuyên giết đến người Việt cuối cùng, sau khi phải ‘đánh Mỹ là đánh cho liên xô, trung quốc’. Tuy nhiên, người Việt ‘chống cộng’ đã làm gì từ thời Quê hương bị chia đôi cho đến hôm nay, 44 năm sau ngày Miền Nam bị nhuộm đỏ.

III. THỜI KỲ QUỐC GIA VIỆT NAM ÐỘC LẬP.

A.- Quốc trưởng Bảo Ðại cử Thủ tướng toàn quyền Ngô Ðình Diệm.

Trong hồi ký ‘Le Dragon d’Annam’ (Con Rồng Việt Nam’, Quốc trưởng Bảo Đại cho thấy ông rất quý trọng ông Ngô Đình Diệm và đã mời ông này lập chính phủ tới 4 lần và ông chỉ nhận 2 lần :

1.- Lần đầu năm 1933, vì muốn thực hiện chương trình cải cách hầu khôi phục dần chủ quyền Việt Nam, tôi đã đặt ông Diệm vào chức vụ thượng thư bộ Lại, đứng đầu nội các kiêm tổng thư ký hội đồng hỗn hợp Việt Pháp về ‘Canh Tân’ do nhận thấy ông là một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhất, Tuần vũ tỉnh Phan Thiết, chỉ mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ…. Vì thấy người Pháp không đáp ứng những yêu cầu của ông về canh tân nên chỉ vài tháng sau, ông Diệm đã từ chức để phản đối, dù vua cố thuyết phục ông tiếp tục. Bất đắc dĩ, vua phải chấp thuận sự từ chức… Lúc đó, Bảo Đại đã chỉ kỳ vọng ở ông Diệm khi viết ‘Ngô Đình Diệm đi rồi, tôi hoàn toàn thất vọng’.

2.- Lần thứ tư và cũng là lần chót ngày 18.06.1954 khi hội nghị Genève đang khai diễn, Quân đội Pháp thất thủ Ðiện Biên Phủ gây viễn ảnh đen tối, nếu không nói là tuyệt vọng, cho giải pháp Bảo Đại và phe Quốc Gia, Quốc Trưởng lại một lần nữa tìm đến ‘người mà tôi tin cẩn’. Ông đã thuật lại đầu đuôi câu chuyện như sau:

« …Tôi cho vời Ngô Đình Diệm và bảo ông ta:

– Cứ mỗi khi tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.

– Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…

– Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.

Sau một hồi yên lặng cuối cùng ông ta đáp:

–Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.

Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây Thánh Giá. Trước Thánh Giá tôi bảo ông ta:

– Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó để chống lại bọn Cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.

Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên Thánh Giá, ông nói với giọng nghẹn ngào:

–Tôi xin thề. »

Như vậy, thật rõ ràng, Quốc trưởng đã ủy nhiệm cho ông Diệm chức vụ Thủ tướng toàn quyền vì sự thông minh liêm khiết của ông Diệm, môät Kitô hữu đạo đức, dự định đi tu. Nhưng, do lòng ái quốc, ông Diệm không có quyền từ chối trách nhiệm mình vì sự tồn vong của Việt Nam. Sự toàn quyền đó là để ông Diệm bảo vệ Quê hương và Dân tộc để chống lại bọn Cộng sản, tức ‘chống cộng’, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp, tức ‘chống thực dân’.

Ngoài những đức tính mà Vua Bảo Ðại kể ra để tiến cử vào sứ vụ Thủ tướng toàn quyền, ông Diệm đã có một quá trình học tập và lãnh đạo hành chính qua các chức vụ từ thấp đêÙn cao : Năm 1913, lúc 12 tuổi, ông thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp Việt-Pháp ngữ. Năm 1917, ông đỗ hạng nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Vì tuổi trẻ mà đạt thành tích cao, nên chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối.

Năm 1918, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình. Năm sau, ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, tương tự với Học viện Quốc gia Hành chánh. Trong ba năm học, ông luôn là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp và đã tốt nghiệp thủ khoa.

Sau khi tốt nghiệp trường Hậu Bổ, năm 1921, ông Diệm nhậm chức Tri huyện Hương Trà, Hương Thủy và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1926, ông được thăng Quản đạo Ninh Thuận. Năm 1930, vừa tròn 29 tuổi, với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết.

Trước khi trở thành Thủ tướng, ông Diệm đã có thời gian tìm hiểu hoạt động chính trị và nghị trường tại các nước dân chủ Aâu-Mỹ.

Ngày 16.06.1954, họp báo ở Paris, ông Diệm tuyên bố : « một nền hòa bình lâu dài và trù phú đặt trên một nền tảng Quốc gia Ðộc lập và Dân tộc Tự do. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ, mới có thể đưa đến mục đích đó ». Ngày 26.06.1954, khi đặt chân xuống Sài Gòn, ông Diệm nói ông về là để ‘cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự Thống nhất Lãnh thổ và Chủ quyền Quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong Tự do, trong sự tôn trọng Nhân phẩm và Gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng của đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội Công bình và Dân chủ’.

Trong bản Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa, công bố ngày 26.10.1956, ở Thiên Thứ Nhất, mục Điều Khoản Căn Bản, Điều 2 có ghi: « Chủ quyền thuộc về toàn dân ».

Sau đó, ông đi Hà nội để xem xét tình hình và tiếp xúc chánh khách miền Bắc hầu mời tham gia chính phủ và Nội các được trình diện quốc dân đồng bào ngày 07.07.1954, Thủ tướng Diệm tuyên bố : « Quốc dân mong mỏi công lý và an ninh. Quốc dân có thể tin cậy ở chính phủ tôi để tổ chức một nền hành chánh và tư pháp công minh và liêm chính. Quốc dân khát vọng những tự do và dân chủ. Chính phủ sẽ xây dựng một Quốc gia dân chủ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với dân chúng ». Sau đó, ông bắt tay làm việc :

a. Công cuộc chống cộng.

- Tổ chức Di cư 1954 là hành trình ‘bỏ phiếu bằng chân’ mà gần một triệu đồng bào Miền Bắc từ chối hế độ cộng sản, bỏ nhà cửa, chấp nhận khủng bố buộc ở lại để đi tìm tự do ở Miền Nam. Chính phủ Ngô Ðình Diệm nhanh chóng hoàn tất các công tác : Tiếp đón, Tạm cư, An cư và Công ăn Việc làm cho đồng bào di cư.

- Tố cộng và diệt cộng là quốc sách được ông Diệm lưu tâm ngay. Dù Hiệp định Genève buộc tất cả du kích quân việt cộng phải tập kết hết về Bắc, nhưng do ngoan cố và thiếu thức ăn ở đó, cộng đảng đã gài chúng ở lại để chờ lịnh khủng bố, phá hoại và giết người. Do đó, bắt đầu từ năm 1955, việc truy tìm và tiêu diệt các phần tử này được phát động.

Chiếu Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 ghi ‘những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp’, Luật 10/59 ngày 06.05.1959, về trị an, nhằm ‘trừng trị các hành động phá hoại an ninh quốc gia, tính mạng và tài sản của nhân dân, và quy định việc thiết lập các phiên tòa quân sự đặc biệt’.

- Ngoài ra, Ấp Chiến lược là một quốc sách khác được hình thành từ năm 1961 để bảo đảm an ninh cho đồng bào, chống khủng bố bởi du kích quân cộng sản.

C. ‘Biết mình, biết người. Trăm trận, trăm thắng’

Khi vào Trường Quốc học Huế, cậu Diệm có dịp quen biết với trò Nguyễn Sinh Cung, lớn hơn cậu mười tuổi và, sau này, đã đổi tên là Hồ Chí Minh. Định mệnh đã xui khiến hai đối thủ chính trị này sớm gặp gỡ nhau, người này biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đã từng giết anh của ông Diệm là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật giáo Hòa hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt.

Tháng 02/1946, Hồ Chí Minh cho bắt và đưa ông Diệm về gặp ông ở Bắc Bộ phủ. Ông Diệm đã tỏ khí phách can trường trong một cuộc đối thoại thẳng thắn giữa hai người, qua đó, ông Diệm đã từ chối đề nghị cộng tác với Hồ Chí Minh qua chức vụ Bộ trưởng Nội vụ:

- « Không thể được, ông có chính sách cứu nước của ông, và tôi có chính sách cứu nước của tôi. Ông có cam đoan rằng ông sẽ bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ ông đang thi hành thuyết đó. Họ giết hết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết cả anh em tôi ».

Hồ Chí Minh tìm lời chữa mình và nói:

- « Tôi không hay biết gì cả. Nước đang lâm cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp ».

- « Ông biết tôi là ai không? Tôi không phải hạng hèn nhát ».

- « Không, ông không hề hèn nhát ». Họ Hồ vội vàng nói đỡ

- « Vậy thì để cho tôi đi ». Và Hồ Chí Minh để ôngï Diệm ra đi. (Trích Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 118).

Đây là trận đấu cân não giữa một bên là Chủ Quyền Dân Tộc và một bên là chủ quyền của vô sản quốc tế. Ông Diệm biết rõ ông Hồ là tay sai của Cộng sản Quốc tế không hề có ý thức về chủ quyền mà chỉ làm việc theo lệnh Liên Xô và Trung Cộng nên ông Diệm đã không sợ chết một khi cần bảo vệ và công khai hóa lý tưởng và con đường đấu tranh mình đang theo.

Lý tưởng bênh vực Chủ Quyền Quốc gia luôn là điểm quy chiếu trong lịch trình hoạt động của chí sĩ Ngô Đình Diệm trong các giai đoạn tranh đấu trước khi nắm được chính quyền. Tháng 2/1948, ông Diệm và các nhân sĩ phe quốc gia gặp tại Sài Gòn để thảo ra một khung đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Sau đó, ông Diệm đến Hồng Kông để cố gắng thuyết phục Bảo Đại ủng hộ kế hoạch này; ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam…

2. Chính giới Hoa Kỳ biết gì về cộng sản mà đòi ‘chống’.

Tổng thống Kennedy đã phải đương đầu với N. Khrushchev trong cuộc khủng hoảng Tây Bá linh (Tây Đức) và thất bại trong vụ đổ bộ Vịnh Con heo (Cuba).

Một hội nghị Genève thứ hai được tổ chức năm 1961-62, quy định tính độc lập và trung lập của nước Lào, nhưng thoả thuận này lại bị cả Hoa Kỳ và Bắc Việt phá vỡ và chiến tranh lại nhanh chóng diễn ra. Lào bị kéo vào Chiến tranh Đông Dương lần hai (1954-1975). Việt cộng sử dụng vùng cán xoong của Lào làm đường vận chuyển hậu cần và chuyển quân từ miền Bắc Việt Nam vào miền Nam. Do bị thất bại này, Harriman trở thành diên và thù ghét ông Diệm vì vị Tổng thống thấu hiểu cộng sản và đã chống lại sự trung lập hóa này.

IV.- ÔNG NGÔ ÐÌNH DIỆM QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG NGƯỜI VIỆT.

A. Trường hợp Hà Minh Trí, sinh năm 1935 tại Nghệ An, với tên Phan Văn Điền, rồi đổi thành Đinh Văn Phú, khi lưu lạc Vũng Tàu và được nuôi bởi một cán bộ Việt Minh. Sau năm 1954, ông không tập kết ra Bắc mà bí mật ở lại miền Nam hoạt động với tư cách là một tín đồ và là thành viên của lực lượng vũ trang Cao Ðài ly khai.

Tháng 10/1956, ông dự định ám sát Tổng thống Diệm khi đến Tây Ninh nhưng do không nắm chính xác ngày kinh lý nên không thực hiện được. Sau đó, ông lại định ra tay vào đêm Chúa Giáng Sinh 1956 tại Nhà thờ Chính tòa Ðức Bà Sài Gòn, nhưng kế hoạch lại bất thành do lịch trình Tổng thống đột ngột thay đổi, chuyển sang đi dự Thánh Lễ ở khu trù mật Ðức Huệ.

Ngày 22.02.1957, Đinh Văn Phú, mang căn cước tên Hà Minh Trí, một thương gia Tây Ninh đếân dự ‘Hội chợ kinh tế Cao Nguyên’ tổ chức ở Ban Mê Thuột, do Tổng thống Ngô Đình Diệm đến dự khai mạc. Ông Phú, trong bộ trang phục cải trang, đã tiến gần hàng rào bảo vệ, chỉ cách vị trí Tổng thống đứng chưa đầy 20 thước. Khi tất cả chuẩn bị chào cờ, ông nổ súng vào mục tiêu đã định. Tuy nhiên, súng chỉ nổ 2 phát thì bị hóc chỉ trúng Bộ trưởng Cải cách Điền địa Đỗ Văn Công. Hắn nhanh chóng bị lực lượng an ninh bắt giữ.

Sau đó, ông bị giải về Sài Gòn để thẩm vấn. Nhưng, do tung tích tương đối kín, ông chỉ khai là người của Cao Ðài, muốn ám sát ông Diệm để trả thù vì chính phủ đã đàn áp đạo Cao Ðài. Do đó, hắn bị giam đặc biệt Sài Gòn với chế độ khá ưu đãi như một tù nhân chính trị đối lập. Tháng 10/1963 thì bị giải ra Côn Ðảo và được trả tự do ngày 10.03.1965. Năm 2005, ông được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

B.- Nghĩa cử cao thượng của vị Tổng thống Ðệ nhất Việt Nam :

Ông Cao xuân Vỹ, Thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa (một Tổ chức dân sự ủng hộ chế độ) có tường thuật :

« Khi đảo chính 01.11.1963 khởi diễn, Thiếu tá Nguyễn hữu Duệ (Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ) xin phép Tổng thống đem thiết giáp lên bộ Tổng Tham mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng thống không cho. Lúc đó, tôi nghe điện thoại và trình với Tổng thống. Ông la ‘Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ Tổ Quốc hả?’. Tôi thưa ‘Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?’. Ông quát lên ‘Chết thì đã sao’».

Đúng, đối với ông Diệm chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần dần của Miền Nam. Ông còn nói ‘Quân đội là để bảo vệ Tổ Quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng thống’. Tiếp đó, ông Diệm bảo ông Vỹ liên lạc với ông Trương vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc hội yêu cầu triệu tập Quốc hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Ông Vỹ gọi ông Lễ 4 lần nhưng không gặp. Ngoài ra, thật vậy, khi quân đội bị chia rẽ, khi chính nghĩa bị hy sinh, khi đất nước mất người lãnh đạo anh minh, tài đức, để giao tiền đồ Tổ Quốc vào tay những con người kém tài đức, phản loạn, thì trước sau gì cũng mất về tay cộng sản miền Bắc tháng 4/1975.

{Lúc đó, ngoài Lữ đoàn xin lên tấn công hành dinh phe đảo chính, còn có một đại đội biệt kích Lực lượng Đặc biệt vừa hành quân ở Tây ninh về đến Sài gòn báo cáo lực lượng phòng vệ các tướng đảo chính yếu, nên xin phối hợp với 2 tiểu đoàn Lữ đoàn Phòng vệ Tổng thống phủ đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tổng Thống không chấp thuận.}

C. Những lý do biện minh cho việc dàn xếp đôi bên Nam-Bắc:

1) Hai miền Nam-Bắc nội chiến. Miền Nam được khối Tự Do viện trợ; miền Bắc được các nước cộng sản chi giúpï. Bên này tăng viện thì bên kia cũng tăng viện; mức độ chiến tranh sẽ lớn dần, trở thành khốc liệt thì chỉ có nước Việt Nam và dân Việt Nam phải chịu thiệt hại, chứ các nước viện trợ có thiệt thòi gì đâu.

2) Ông Diệm không muốn lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, nhất là sự hiện diện quân tác chiến trên đất Việt độc lập. Sự kiện đó làm miền Nam mất Chính Nghĩa, tạo cho miền Bắc hô hào ‘đánh cho Mỹ cút’. Các chính sách Tố Cộng, Diệt Cộng và Chiêu Hồi từ thời 1955-1958, đã gây cho cộng sản thiệt hại nặng nề. Theo Văn Tiến Dũng, trong ‘Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước’ trang 16, thì trong vòng 3 năm từ 1955-1958, con số thiệt hại lên đến 90%, từ 60.000 cán binh công sản, xuống còn 5.000. Do đó, ông Diện rằng, với Quốc sách Ấp Chiến Lược, Việt Nam Cộïng hòa nắm chắc phần thắng mà không cần quân tác chiến Mỹ.

3) Năm 1956, Hồ Chí Minh kêu gọi Tôång Tuyển cử Thống nhất Ðất Nước, nhưng ông Diệm từ chối vì :

- không có qui định trong Hiệp định Gevèvre 20.07.1954;

- tuyển cử khi đó, còn hơn bây giờ, bị áp lực cộng đảng khắp nơi.

Những năm 1962-1963, các cơ sở nằm vùng hầu như là tê liệt hoàn toàn, người dân miền Bắc thiếu ăn nên chán ngán chế độ cộng sản rồi. Hồ Chí Minh là con người xảo quyệt; khi ở thế yếu, sẽ dùng chiêu bài hòa hợp, đoàn kết dân tộc để cứu vãn cộng đảng. Nhưng sau đó, ông sẽ tìm mọi cách để tiêu diệt đối thủ của ông.

D.- Tổng thống Ngô đình Diệm chủ trương để hiệp thương với Miền Bắc phải có 6 giai đoạn:

– Bắt đầu bằng việc cho dân hai Miền trao đổi thư tín tự do;

– Rồi cho dân đi lại tự do giữa hai Miền;

– Cho dân hai Miền được tự do chọn định cư sang bên kia, nếu muốn;

– Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn;

– Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương;

– Và sau cùng là tổng tuyển cử.

Ông Ngô đình Nhu dự tính : Nếu cho người dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của Miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở Miền Nam. Vì vậy ‘mình’ phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số Miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số Miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở Miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát Quốc tế thì chắc mình sẽ thắng.

Ð.- Dự kiến hiệp thương nẩy mầm.

Năm 1962, sau khi dự lễ đăng quang của Quốc vương Maroc, ông Ngô đình Nhu đã đến Paris gặp ông A. Pinay, đại diện Tổng thống Charles De Gaulle, để bàn chuyện hiệp thương với Hồ chí Minh, với sự hiện diện của Giáo sư Bửu Hội, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Rabat (Maroc), từng là cố vấn cho ông Hồ. Nên trong việc này, có thể nói ông Bửu Hội có vai trò cũng quan trọng không kém ông Nhu. Nhiều phiên họp đã diễn ra cả tháng vì Hồ chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng thống De Gaulle giúp. Ông biết ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập hóa Đông dương vì hận Mỹ đã ‘hất cẳng’ Pháp và xin Tổng thống Pháp can thiệp để tiếp xúc với Sài gòn. Tổng thống Pháp rất sốt sắng trong việc này.

Ð.- Tiến trình Hòa bình dự định bắt đầu.

Sự giao thiệp thương thảo bí mật giữa ông Ngô đình Nhu với Cộng sản Hà nội nhằm thúc đẩy hai miền Nam-Bắc Việt Nam để tránh một cuộc xung đột ý thức hệ ngu xuẩn chỉ có lợi cho Trung quốc. Chúng dạy bọn cộng sản Việt cứ giết nhau đến người Việt cuối cùng.

Để mở đầu cuộc thuơng thảo, Việt Nam Cộng hòa đồng ý viện trợ kinh tế bao gồm lúa gạo, sản phẩm gia dụng và y tế cho Cộng sản Hà nội nếu họ đồng ý tuyên bố đứng trung lập như miền Nam và đồng tham gia khối ‘Các Nước Không Liên Kết’ do Ấn độ đứng đầu. Qua sự trao đổi thuơng mại với miền Bắc, chính phủ Sài gòn cam kết sẽ cố gắng giúp đồng bào miền Bắc thoát khỏi tình trạng đói kém do đang phải sống bằng hiện vật chu cấp mọi thứ bởi Bắc kinh. Họ lưỡng lự trước đề nghị yêu nước, thương đồng bào, nhưng thật táo bạo này của ông Nhu vì biết rõ những cam kết mà Việt Nam Cộng Hòa đưa ra rất thật lòng dựa trên sự ổn định phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam trong suốt gần chín năm sau hiệp định Geneva 1954.

1. Với sự tiếp tay và bảo đảm bởi các vị thuộc ngoại giao đoàn.

Tháng 9/1962, Hồ chí Minh nói với Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Ấn độ là muốn bắt tay với Diệm được coi là một người ‘yêu nước theo kiểu ông ta’ (Il est, à sa manière, un patriote). Phạm văn Đồng gợi ý là Đại diệûn Pháp ở Hà nội Jean François de la Boissière nên viếng thăm Sài Gòn. Tổng thống Diệm, khi bàn cãi với Đại sứ Pháp, không dứt khoát bác triển vọng một giải pháp hoà bình. Những người cầm quyền Sài Gòn muốn Pháp đặt nhịp cầu đó, nhưng Á đông vụ Bộ Ngoại giao không muốn làm tăng thêm sự căng thẳng giữa Mỹ và ông Diệm hầu buộc Việt Nam Cộng hòa phải hoàn toàn phục vụ những mục tiêu của Washington.

Đại sứ Roger Lalouette là một nhà ngoại giao lão luyện, rất rành về những vấn đề Việt Nam. Ông biết một hành động quá lộ liễu sẽ làm ông Diệm bị thay thế rất nhanh để nhường chỗ cho một chính phủ hoàn toàn theo đường lối của Washinton. Nên ông quyết định trao sứ vụ cho Đại sứ Mieczyslaw Maneli, Trưởng phái đoàn Ba lan trong Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến tại Việt Nam, với một kế hoạch ba giai đoạn cho Việt Nam : mở cuộc đối thoại giữa Hà Nội và Sài Gòn; đặt những trao đổi kinh tế và văn hoá; tổ chức những cuộc hội đàm về chính trị. Maneli đã chuyển tin ra Hà Nội nơi mà ông đi và về.

Đầu tháng 7/1963, ông cho biết khi gặp Thủ tướng Phạm văn Đồng và Bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy : « Tôi hỏi nên làm gì nếu Ngô đình Nhu mời tôi tới nói chuyện ». Họ trả lời ‘nhận gặp và lắng nghe’. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói gì. Họ đáp ‘Tất cả những gì đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hóa. Một điều chắc chắn là Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể thương lượng bất cứ điều gì’. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính phủ liên hiệp ở miền Nam hay một hình thức liên bang Bắc Nam, ông Đồng trả lời ‘Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam, mọi điều đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đã đặt ra nền tảng pháp lý và chính trị : không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lãnh thổ đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với bất luận người Việt Nam nào ». Miền Bắc sẵn sàng cung cấp than đá không đặt điều kiện nào với giá rẻ để đổi lấy gạo, thực phẩm và cao su, để đối phó với một cơn hạn hán trầm trọng, đồng thời, có thể thoát khỏi viện trợ từ Trung cộng.

Ngày 01.06.1963, Roger Lalouette thông báo cho Tổng thống Diệm những điều mật mà Maneli thâu thập được. Điện Élysée (Tổng thống phủ Pháp) cũng được thông báo về thành quả này và họ không tỏ dấu hiệu chống Lalouette tiếp tục làm chuyện đó. Ngày 25.08.1963, trong cuộc tiếp tân của Quyền Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Trương Công Cừu, các Đại sứ Lalouette (Pháp, d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn độ) và Đức Khâm sứ Salvatore Asta (Tòa Thánh) đã giới thiệu ông Maneli với ông Nhu. Ông Nhu vui vẻ mời ông Maneli thu xếp để gặp nhau. Ngày hôm sau, văn phòng ông Nhu đã liên lạc và hẹn cuộc gặp vào sáng ngày 02.09.1963.

Sau cuộc gặp gỡ này tại dinh Độc Lập, ông Maneli cho biết ông Nhu đã nói, trong khoảng hai giờ, về chủ nghĩa Cần lao Nhân vị, chính sách Ấp chiến lược, thành quả của Việt Nam Cộng hoà v.v… Còn về vấn đề hiệp thương giữa hai Miền, ông Nhu có ý như sau: « Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đã đề nghị với tôi. Ngay trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu bắt đầu đối thoại trực tiếp, thì có thể tiến tới xích lại gần. Ủy hội quốc tế, cũng như bản thân ông, sẽ đóng vai trò tích cực ở đây… Trong tương lai gần, tôi không dự liệu điều gì dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có thể sẽ hé ra khả năng… ». Như vậy ông Nhu chưa có một ý để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo cộng sản Hà Nội.

Ngày 20.10.1963, khi tiếp đoàn Đại biểu Viện Kiểm soát Tối cao Liên xô, Hồ chí Minh tuyên bố: « Để hoà bình vãn hồi ở miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là Đế quốc Mỹ phải rút khỏi nơi đây, vấn đề miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự gỉai quyết, như hiệp định Geneva đã quy định ».

2. Ông Ngô đình Nhu gặp ông Phạm Hùng.

Ông Ngô đình Nhu là nhân vật rất thâm cứu về Trung quốc nên muốn thương thảo với Cộng sản Hà nội nhằm thúc đẩy hai miền Việt Nam tránh khỏi một cuộc xung đột ý thức hệ ngu xuẩn chỉ có lợi cho Trung quốc. Từ năm 1962, chính phủ Kennedy đã ép Tổng thống Diệm phải nhận lính tác chiến Mỹ vào nước Việt Nam. Sự hiện diện này khiến cộng sản Hà nội tuyên truyền ‘Miền Nam đang bị đế quốc Mỹ chiếm đóng, chúng ta phải hy sinh để giải phóng’. Sự lường gạt có hiệu lực rất mạnh trên trên các thiếu niên như chúng ta đã chứng kiến trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân 1968. Trái lại, những lính Mỹ, sinh viên vừa tốt nghiệp Đại học, bị buộc phải đi quân dịch và rời cha mẹ, bạn gái… để đến một nước xa lạ. Họ rất bất mãn.

Năm 2012, ông Cao xuân Vỹ, người đã tháp tùng ông Nhu bí mật gặp Phạm Hùng, đảng viên cao cấp cộng đảng, tại khu rừng Tánh linh (Bình tuy), đã kể : « Chúng tôi cùng đến Quận Tánh linh, nơi đây có một vùng do cộng quân kiểm soát. Khi đầu, tôi tưởng là đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi, ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét để gặp Phạm Hùng. Sau này, khi ông Vỹ hỏi, ông Nhu chỉ tiết lộ về Ấp Chiến lược. Họ rất sợ chương trình này. Ai chủ trương và để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59 ».

Có một điều trớ trêu là Mỹ đã có ý đồ tiếp xúc với Bắc Việt từ năm 1962. Trong quyển ‘Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1954-1963’, Tiến sĩ Sử học Phạm Văn Lưu cho biết : ‘Tháng 7/1962, ông Kennedy đã chỉ thị cho Harriman, trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Geneva về Lào, phải bí mật gặp ngoại trưởng Bắc Việt, Ung Văn Khiêm, để thảo luận về vấn đề Việt Nam, kể cả việc mở một hội nghị khác, bàn về trung lập hóa Việt Nam, để có lý do rút chân ra khỏi vùng đất này; nhưng Harriman đã hoàn toàn thất bại. Điều này cho thấy, Mỹ muốn đóng vai chính trong vấn đề thương thảo với Bắc Việt.

Sáng mùng một Tết Quí Mão (1963), những Đại sứ thành viên Ngoại giao đoàn có nhiệm sở tại Sài gòn khi đến Dinh Tổng thống để chúc Năm Mới, đã lưu ý đến một cành đào lớn có đính danh thiếp ghi ‘Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ chí Minh tặng Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô đình Diệm’. Cành đào này được gởi qua trung gian Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến và được nhận về bởi Đại úy Lê Châu Lộc, tùy viên quân sự Tổng thống. Tại sao Hồ chí Minh đã tỏ thiện chí như vậy?

V.- CÁO TRẠNG NGỤY BIỆN GIẾT NGƯỜI.

Mỹ và bọn tay sai đã tạo nên những lý do này để giết ông Ngô Ðình Diệm và tiêu diệt Ðệ nhất Việt Nam Cộng hòa khiến để Hồ Chí Minh mừng ‘hết lớn’ khi hay tin này và hét to ‘Bác cháu sẽ thắng’ và hắn phải công nhận ‘Ông Diệm là người yêu nước theo các của ông’, tức chẳng những không theo mà còn Chống Cộng. Vô phước cho Dân tộc Việt, ngày 30.04.1975, Sài Gòn phải mang tên kẻ chết. Ngày nay, người Mỹ gốc Việt nghĩ gì thưởng lãm Obama và Trump tay bắt mặt mừng với Nguyễn Phú Trọng…

A. Gia đình trị.

Trong thời gian chấp chánh, ông Diệm có 3 anh em :

- Ðức cha Ngô Ðình Thục, Tổng Giám mục Huế, do Ðức Thánh Cha bổ nhiệm;

- ông Ngô Đình Nhu, sát cánh với Tổng thống trong việc soạn thảo chính sách. Người ta gọi ông là Cố Vấn, dù không có văn thư bổ nhiệm. Ông là người uyên bác như mọi người biết. Do lòng yêu nước, ông giúp anh mình thành công là ưu điểm của gia đình Việt Nam;

- ông Ngô Đình Luyện là Ðại sứ Việt Nam tại Anh Quốc do Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm trước khi ông Diệm về chấp chánh;

- Ông Ngô Đình Cẩn ở nhà chăm sóc mẹ, người ta gắn cho ông danh ‘Cố vấn các đoàn thể Miền Trung’. Chức vị này không ai bổ nhiệm, không ăn lương và không văn phòng làm việc. Chính các tướng tá (Trần Văn Đôn, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Chuân… tự mình đến quỵ lụy khi nhận đơn vị mới, hay công chức cao cấp (Nguyễn Đôn Duyến, Hồ Đắc Khương) đặt ra để nhờ cậy, xin xỏ và, cuối cùng, để vui lòng Thích Trí Quang, chúng đã lên án tử hình và xử bắn ông. Chúng là tàn dư phong kiến do thực dân Pháp đào tạo và để lại.

[Trong khi bọn Mỹ chỉ trích ông Diệm gia đình trị mà không nhìn tại Hoa Kỳ, Kennedy đắc cử tổng thống, cử em là Robert làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, có ai nói là gia đình trị đâu.]

B. Độc tài, độc đoán,

Khi về nước chấp chính, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện ước muốn đoàn kết các đảng phái quốc gia chân chính, để xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ, đã mời lãnh đạo các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo tham chính. Với các đảng phái, ông Diệm trao cho Việt Nam Quốc Dân Đảng quyền quản trị hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi; còn đảng Đại Việt được trao quyền quản trị tỉnh Quảng Trị. Ngoài ra, các đảng phái miền Nam và các nhân vật kém tài đức, có quá khứ không tốt, phụ họa thêm, để đả kích ông Diệm không mời họ tham chính. Người Mỹ cũng lập luận như vậy để mưu toan gài tay sai của họ và đặt một lý do để lật đổ chính quyền. Những điều gian dối này được việt cộng hoan nghinh vì dân chúng quên đi việc ‘cộng sản độc đảng’. Việt Nam là một nước nhỏù, nhưng lại có quá nhiều đảng phái. Trong thế kỷ 20, chỉ tính các đảng lớn thì cũng có hàng chục đảng phái.

3) Kỳ thị tôn giáo.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm xác tín ‘Tôn giáo không thể nào đi đôi với cộng sản. Nơi nào Tôn giáo phát triển mạnh thì nơi đó cộng sản khó có đất sống’.

a. Ðối với Công Giáo : Vụ Chủng Viện.

Năm 1958, ông Diệm ban hành Qui chế Tư thục, các chủng viện đào tạo Linh mục, trước đó, được tự do sinh hoạt và giảng dạy theo chương trình ấn định bởi Giáo hội. Nay, bị xem như ngang hàng với trường tư thục và đặt dưới quyền kiểm soát và thanh tra của Nha Tư thục Bộ Quốc gia Giáo dục. Do đó, nhiều Linh mục các Ðịa phận (danh từ trước 1960, khi chưa thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam) họp nhau phản đối.

Trước hết, các cha đến gặp Ðức cha Ngô Ðình Thục, nhưng Ngài đồng ý với ông Diệm. Các cha lại kêu gọi giáo dân biểu tình, nhưng giáo dân không muốn phiền hà tới vị Tổng thống Công Giáo và đạo đức. Các cha cũng đến trình vấn đề với Tòa Khâm sứ, Ðức Khâm sứ có can thiệp, nhưng ông Diệm vẫn giữ lập trường.

Cuối cùng, các cha xin triều yết Tổng thống, ông Diệm chấp thuận. Phái đoàn do cha Joseph dẫn đầu. Trước khi gặp Nguyên thủ Quốc gia, các cha rất hăng hái biện luận. Khi gặp mặt, ông Diệm mời các cha phát biểu ý kiến trước, nhưng không có bao nhiêu lời. Ông Diệm vắn tắc ‘Giáo hội ở trong Quốc gia, chứ không phải Quốc gia trong Giáo hội’. Ông Diệm nhìn ông Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục và nói vu vơ : « Anh không hiểu luật lệ gì cả. Anh phải chỉ vẽ cho người ta. ». Nói đúng ra, thì ông nói xéo các Linh mục đang hiện diện trước mặt ông.

Kitô hữu Gioan Baotixita Ngô Ðình Diệm dư biết Giáo Hội Công Giáo nước Việt biết cách tự quản và tự túc. Người cũng thấu hiểu sự đồng tiến Công bằng giữa các Tôn giáo tạo Hòa bình cho ‘Quốc Dân đồng bào’. Tuy nhiên, lòng tham chúng sinh, dù ngụy danh ‘tu’, vẫn không giới hạn… cho đến khi nhà nước ‘đỏ’ cai trị… thì khóc than.

b. Vấn đề Quốc kỳ và đạo kỳ.

Trong một lần kinh lý, ông Diệm, từ trên phi cơ, nhìn xuống thấy treo cờ Tòa Thánh (trắng và vàng), đã không rời phi cơ cho đến khi vị Tỉnh trưởng phải thay tất cả các cờ đó bằng Quốc kỳ Việt Nam. Do đó, Bộ Nội vụ đã có Nghị định số 78/1957 và số 189/1958 qui định việc treo cờ các tôn giáo (nhắm vào Công Giáo nhiều hơn) đã được qui định bởi Nghị Định số 78 (năm 1957) và Nghị Định số 189 (năm 1958). Ngoài ra, ại thêm một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng Thống, nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc Kỳ.

Lần khác, ông Diệm thấy cờ Phật giáo được treo cao hơn Quốc kỳ. Một người chết vì Chính nghĩa Quốc gia làm sao có thể chấp nhận sự kiện đó, nên ông Diệm đã mời Ðức Khâm sứ, Ðại diện Ðức Thánh Cha cạnh các Giám mục Việt Nam, để trình bài ý kiến. Bên Phật giáo, ông Mai Thọ Truyền được mời đến với cùng lý do.

c. Phật giáo được đối đãi tốt thời Đệ I Cộng hòa. Học bổng được cấp dễ dãi cho các tăng sĩ du học, như Thích Quảng Liên, Thích Nhất Hạnh… Ông Mai Thọ Truyền nhận được hai triệu bạc của phủ Tổng Thống để xây cất các cơ sở Phật giáo như chùa Xá Lợi. Khu đất rộng rãi mà chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc hiện nay là do Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh cho Bộ Tài chánh bán cho Phật giáo với giá tượng trưng một đồng Việt Nam. Sự việc này đã được tác giả Nguyễn Văn Minh đưa ra bằng chứng và nhân chứng trong tác phẩm ‘Dòng Họ Ngô Đình: Giấc Mơ Chưa Đạt’.

Ông Đoàn Thêm, Phật tử, Phó Đổng lý Văn Phòng, viết trong ‘Việc Từng Ngày’, trang 350, và đã kể : « Hai Mươi Năm Qua, 1945-1964, thì từ 1954 đến đầu năm 1963, toàn quốc có 4.766 ngôi chùa mà trong đó có 1275 chùa mới xây cất và 1295 chùa được trùng tu. Con số này so với nhà thờ Thiên Chúa Giáo, thì nó lớn hơn rất nhiều. Lễ Phật Đản năm 1960, được tổ chức rất trọng thể, có xe hoa rước đuốc. Lễ Phật Thích Ca thành đạo, được tổ chức khắp nước năm 1961. Lễ Phật Đản được tổ chức trọng thể tại chùa Xá Lợi năm 1962. Trong các buổi lễ này Phật tử được tự do tham dự, cờ xí treo khắp nơi.

Chiều ngày 01.11.1963, trước khi rời Dinh Gia Long, giữa các Sĩ quan tùy viên, Tổng thống Diệm đã chọn (bằng cách đẩy chiếc cặp) Ðại úy Ðỗ Thọ, Phật tử, cháu Ðỗ Mậu, phe đảo chính. Lý do được cho là vì Ðại úy Thọ độc thân.

d. Như vậy, làm gì có sự Kỳ thị và Ðàn áp Phật giáo.

Thượng tọa Thích Trí Quang, tục danh Phạm Văn Bồng, một đảng viên cộng sản đội lốt tu sĩ, để hoạt động chống phá Chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông lợi dụng Phật giáo, hợp tác với Mỹ, mưu cầu quyền lợi cho riêng mình trong việc loại bỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tình báo Mỹ thừa biết hắn là cộng sản, nhưng đvẫn sát cánh với hắn hầu miệng thì nói ‘chống cộng’, nhưng hành động thì ‘giúp cộng’ bằng dùng Phật giáo để chống phá các chính quyền Ðệ I và Ðệ II Việt Nam Cộng hòa.

Nhân danh chống công điện số 9159, ngày 06.05.1963 (*) cấm treo cờ Phật giáo ngày Phật Ðản 08.05.1963, các Tu sĩ Phật giáo tụ họp phật tử trước Ðài Phát thanh Huế để đòi phát thanh bài thuyết pháp của Thượng tọa Thích Trí Quang. Giám đốc Đài từ chối vì đã có chương trình phát thanh mừng Lễ của Ðài. Lực lượng An ninh được lịnh giải tán. Ngay lúc đó, một tiếng nổ lớn làm cho 8 người chết, một phụ nữ và 7 trẻ em. Thượng tọa Thích Trí Quang cho rằng những người chết là do xe tăng cán hay lựu đạn của binh sĩ dưới quyền Thiếu tá Đặng Sĩ.

(*)Trong cuộc mạn đàm giữa hai ông Lâm Lễ Trinh và Quách Tòng Đức (năm 2005), ông Đức, Ðổng lý Văn phòng Tổng thống, người có nhiệm vụ phổ biến công điện này, nếu có, cho biết rằng ông hoàn toàn không biết gì về cái công điện số 9159 này. Vậy thì ai là người soạn thảo công điện? CIA (Central Intelligence Agency, Cơ quan Trung ương Tình báo)? Việt cộng? Ai mà biết được!

Tổng thống Richard M. Nixon, trong sách ‘No More Vietnams’, 1985, trang 10 và 65, đã viết: « Vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đăt… Trong đầu những kẻ đứng đằng sau khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo ».

Cựu hoàng Bảo Đại cũng viết trong cuốn Dragon d’Annam như sau: « Mọi sự đang tiến tốt thì chính phủ gặp phải sự chống đối của các nhà sư. Các nhà sư được cộng sản giật dây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại. Vô hình chung mang mặc cảm kỳ thị tôn giáo… Ai đã xúi giục họ gây loạn ai? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào, hay từ Bắc Kinh đến? ».

Ngày 17.02.1964, Nghị sĩ Thomas J. Dodd, Ủy ban Tư pháp Thượng nghị viện Hoa Kỳ, gởi Chủ tịch Ủy ban Nội vụ Thượng viện Hoa Kỳ xác nhận có những điểm đáng lưu ý trong Bản Phúc trình của Ủy ban Tìm hiểu Sự Thật của Liên Hiệp Quốc:

- Bảy đại diện của Liên Hiệp Quốc gồm những quốc gia lấy Phật Giáo làm quốc giáo, hoặc liên hệ mật thiết với Phật giáo.

- Bản phúc trình đã bị Hoa Kỳ ém nhẹm và chỉ phổ biến rất hạn chế.

- Sau khi đọc bản phúc trình, Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ đã đưa ra nhận xét "lời cáo buộc Phật giáo bị đàn áp", thật ra chỉ là sự thổi phồng đầy ác ý, và tuyên truyền man trá".

- Một hệ thống "vọng ngữ" và đầu độc tin tức giữa một số người mệnh danh là tăng sĩ Phật Giáo và báo chí Hoa Kỳ đã lừa gạt nhân dân Hoa Kỳ và thế giới.

- Cuộc đấu tranh gọi là chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm "đàn áp Phật giáo" chỉ là một cuộc đấu tranh chính trị có lợi cho Cộng Sản và Hoa Kỳ qua câu nói của Thượng Tọa Thích Trí Quang: "Chúng tôi chỉ có thể dàn xếp với miền Bắc sau khi đã lật đổ Diệm Nhu". Câu này chứng tỏ Phật Giáo đã bị Thích Trí Quang lợi dụng để làm chính trị. Làm chính trị với khuynh hưóng phục vụ Việt Cộng hay không, chúng ta sẽ thấy rất rõ khi Phái đoàn "Phật Giáo" tham dự hội nghị tại Nhật Bản đã hoàn toàn ủng hộ 6 điều kiện của Mặt trận Giải phóng Miền Nam.

Khi bầu cử Tổng thống năm 1971, ông Dương văn Minh tranh cử với ông Nguyễn văn Thiệu và vấn đề ông Diệm chết được đặt ra. Ông Minh nói ông Thiệu phải chịu trách nhiệm về cái chết của anh em ông Diệm : « Thiệu, lúc đó là một đại tá tham gia đảo chánh, đã không đem quân vào dinh Tổng thống đúng thời điểm để ngăn chận họ trốn thoát ». Nếu 2 ông bị bắt giữ ngay trong dinh Gia Long, họ đã không bị giết.

Đồng thời, một quyển sách tựa đề ‘Làm Thế nào để Giết một Tổng thống’ xuất hiện, giúp chúng ta có giải đáp cho những thắc mắc vụ nổ tại Đài Phát thanh Huế đêm 08.05.1963 :

1./ Tại phiên tòa xử Thiếu tá Đặng Sĩ ngày 02.06.1964, các chuyên viên quân cụ đã phân tích các loại chất nổ M26 và MK3. Giả thuyết M26 đã bị loại và MK3, dù các thẩm phán đặc biệt lưu ý, nhưng rồi cũng bị loại vì, tuy có thể làm chết người do áp lực của hơi nổ, nhưng tác dụng không thể nào gây con số thương vong cao như vậy nhất là ở nơi có khoảng trống.

Năm 1966, Đại úy Scott, cố vấn Tiểu đoàn 1/3 Sư đoàn I Bộ binh, cho biết sự thật. Năm 1965, miền Trung đang sôi động trong ngọn lửa Phật giáo đấu tranh. Nhân một cuộc trò chuyện tình cờ bắt qua chuyện Phật giáo lúc đó, ông Scott nói với Đại úy Bửu đại ý ‘Phật giáo miền Trung sẽ không thành công trong vụ này’ vì không tạo đủ yếu tố để thành công như năm 1963. Tuy có khí giới tinh thần, nhưng không được đồng minh ủng hộ : Hoa kỳ không giúp đỡ Phật giáo nữa. Vụ 1963 thì tôi biết rõ’. Đại úy Bửu hỏi : « Năm 1963, ông ở đâu? ». Scott nói: « Tôi hiểu rõ Phật giáo có thể còn hơn các anh. Tháng 05/63 tôi ở Đà nẵng và đến Huế một ngày trước khi xảy ra vụ nổ tại Đài Phát thanh Huế. Chỉ người ngây thơ tin Việt cộng gây ra vụ nổ đó. Tội nghiệp cho Thiếu tá Sĩ đang ở tù vì bị kết tội đã đàn áp Phật giáo và làm chết 8 Phật tử. Người ta tin đó là tiếng nổ của Plastic Việt cộng hay lựu đạn của chính quyền Việt Nam? Đó là một chất nổ đặc biệt của CIA…

Khi làm Thủ tướng, Tướng Nguyễn Khánh muốn làm hài lòng Thích Trí Quang, nên đã dùng ‘Tòa án Cách mạng’ để tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn cùng Trung úy Phan Quang Đông và cả hai bị xử bắn ngày 09.05.1964. Không thể để ‘bọn lợi dụng cách mạng để đàn áp Công Giáo’ đối với Thiếu tá Sĩ, ngày 07.06.1964, Khối Công dân Công Giáo đã tổ chức cuộc biểu tình lớn với cả 100.000 người tại Công trường Lam Sơn. Chiều hôm đó, ông Khánh sai Tướng Nguyễn Cao đến gặp Đức Cha Nguyễn văn Bình, Cha Trần tử Nhãn, Dòng Chúa Cứu Thế, và gia đình ông Đặng Sĩ cho biết : ‘Thiếu tá Đặng Sĩ sẽ không bị tuyên án tử hình và đừng quan tâm đến bản án tòa sẽ tuyên trong ngày mai. Tòa chỉ tuyên án để thỏa mãn những đòi hỏi của Phật giáo mà thôi. Trong một thời gian ngắn, khi tình hình lắng dịu, ông Sĩ sẽ được trả tự do’.

Ngoài ra, ngày 24.11.1963, Thiếu tá Đặng Sĩ bị bắt, giải vào Sài gòn giam tại Nha An ninh Quân đội. Buổi chiều, ông được đưa đến gặp Thiếu tướng Đỗ Mậu để vị tướng này nói ‘Anh khai cho ông Ngô đình Thục đã ra lệnh cho anh đàn áp Phật giáo ở Huế thì anh sẽ được trả tự do’. Ông Sĩ từ chối vì không đúng sự thật. Hôm sau, một Trung úy đã cho ông Sĩ biết ‘nếu đồng ý khai theo ý của Thiếu tướng thì sẽ được cho vào làm việc tại Sài Gòn, vẫn mang cấp bậc cũ và còn được cho một chiếc xe Peugeot 203 mới nữa’.

Ông Sĩ đề nghị ‘Nếu Thiếu tướng đã chỉ thị rõ ràng như vậy thì xin viết tay ra lệnh cho tôi thì tôi mới thi hành’. Đỗ Mậu viết trên một mảnh giấy nhỏ ‘Lưu ý Đặng Sĩ đừng khai dài dòng, chỉ nói mục đích chính cuộc đàn áp. Hỏi Ngô đình Thục đã ra lệnh cho y khi nào?’. Sau đó, một Đại úy nhắc lại ‘Theo ý của Thiếu tướng, Thiếu tá chỉ khai một lời duy nhất: Chính ông Ngô đình Thục đã ra lệnh cho Thiếu tá ngày nào, giờ nào, trực tiếp hay qua trung gian... Chỉ cần viết một trang, rồi ký tên là đủ, không cần dài dòng’. Viết xong, trở về phòng giam, ông Sĩ liên lạc nhờ một người quen ở Nha An ninh Quân đội để nhờ photocopy chỉ thị viết tay của Đỗ Mậu và đem đến trao cho bà vợ ông Sĩ để trao cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình gởi cho Hội đồng Giám mục Hoa kỳ hầu báo cho thẩm quyền Mỹ.

Nội vụ bị bại lộ, Tín hữu Công Giáo biểu tình, Hội đồng Quân nhân Cách mạng bắt Tướng Mậu rời khỏi Nha An ninh Quân đội.

VI.- CHẤM DỨT TRÁCH VỤ CHỐNG CỘNG

Sau ngày đảo chánh, các Sĩ quan Tùy viên phải trả lời những câu hỏi « Có thấy người đàn bà nào vào phòng riêng của Tổng thống Diệm? Tổng thống Diệm có ‘giao du’ với Bà Nhu không? ». Ðại úy Lê Công Hoàn, phục vụ cạnh Tổng thống Diệm 5 năm đã trả lời viết trên giấy: « Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy, nếu có mà tôi bảo là không, tôi xin chịu mất đầu ».

Vậy thì sự tương quan nếp sống gia đình hàng ngày giữa vợ chồng ông Nhu và Tổng thống Diệm ra sao?

Tổng thống Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm đi văng gỗ. Mỗi tối, ông già Ẩn chăng màn, sáng sớm lại tháo gỡ. Ông Diệm dùng bữa ăn ngay nơi này. Ông vẫn ăn một mình, trừ những buổi tiệc tùng. Đối với gia đình ông Nhu thì ông Diệm sống một thế giới riêng. Rất ít khi Tổng thống ăn cơm chung với gia đình ông Nhu, nhưng vẫn dùng món ăn riêng của ông. Đầu bếp của Tổng thống Diệm thì rất nhàn hạ. Sáng ông điểm tâm bằng cháo trắng với dưa chua hoặc cá thu kho. Trưa ông không mấy khi ăn cơm mà chỉ dùng trái cây hoặc rau xà lách trộn dầu hoặc súp lơ, cải bắp luộc. Bữa chính của ông là bữa tối. Thứ cơm mà ông dùng là gạo lứt đỏ. Thông lệ, mỗi sáng, Sĩ quan Tùy viên đem vào phòng một xấp báo đủ loại. Ông vừa đọc vừa ăn điểm tâm.

Vài hôm sau 01.11.1963, ông ông Võ Văn Hải lập biên bản trao cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng tướng Đôn số tiền của Tổng thống Diệm giao cho Hải cất giữ. Nơi hai trang cuối cùng hồi ký ‘Việt Nam Nhân Chứng’, Trần Văn Đôn có ghi rõ Hải đã trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6.297 Mỹ kim, Dương Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc Việt Nam được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn có nhận 24.500 đồng.

Khoảng giữa năm 1992, sau 37 năm im lặng, cựu vương Bảo Ðại đã lên tiếng trong một buổi nói chuyện tại một trường học ở Pháp. Nhân dịp này, người ta đã hỏi ông nhiều điều về thái độ của ông trong những năm cầm quyền trong đó có một câu về việc ông trao toàn quyền cho ông Diệm, được nhà báo Phan văn Trường ghi lại và dịch từ Pháp văn như sau:

- « Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô đình Diệm để rồi ông này lật đổ Ngài?”

Cựu vương trả lời :

- « Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía Cộng sản đã được Liên xô tích cực ủng hộ về mọi mặt nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để có thể ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản. Việc ông ta lật tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là NGƯỜI YÊU NƯỚC, lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, vì ông ấy rất mộ đạo, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả quyền lại cho tôi. Nhưng rồi ông ta đã CHẾT KHI THI HÀNH NHIỆM VỤ. Dù sao thì ông ta cũng cố giữ những lời cam kết ấy mà không được. » (trích Nguyệt san ‘Diễn Ðàn Phụ Nữ’ tháng 9 năm 1992).

Hà Minh Thảo
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ngôi đền thờ Thiên Chúa
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
11:11 21/02/2020
Ngôi đền thờ Thiên Chúa

Nơi thờ phượng kính thờ Thiên Chúa cử hành nghi lễ phụng vụ thường được gọi là thánh đường, nhà thờ, nhà nguyện. Nhưng một danh hiệu khác gợi lên khung cảnh bầu khí linh thiêng huyền bí khác thường hơn với tên gọị đền thờ.

Từ thời xa xưa trước Chúa giáng sinh danh hiệu đền thờ nơi các tôn giáo là nơi kính thờ các Thần Thánh ở các nên văn hóa, Hy lạp, Roma, Do Thái, Aicập, n độ giáo, Bahai, Hồi Giáo…đã thịnh hành. Những ngôi đền thờ thường được xây dựng khang trang nguy nga rộng lớn theo lối kiến trúc đặc thù văn hóa tôn giáo của mỗi nền văn minh.

Vua Salomon đã xây dựng bằng đá và gỗ qúi ngôi đền thờ thứ nhất kính thờ Giave ở trên núi Jerusalem vào khoảng năm 950 trước Chúa giáng sinh cho người Do Thái trong vòng bảy năm trời.( 1. Sách C´ac Vua 1-38). Đền thờ Jerusalem với họ là thánh địa linh thiêng, là trung tâm nơi thờ phượng tế lễ Giave duy nhất của họ. Vì thế hằng năm theo tập tục nếp sống, họ phải hành hương về đền thờ Jerusalem.

Đền thờ Jerusalem năm 586 trước Chúa giáng sinh bị quân của vua Nabukadnezar xâm chiếm phá hủy, và năm 515 trước Chúa giáng sinh được xây dựng lại lần thứ hai. Và đến thời vua Herodes đại đế đền thờ được trùng tu mở rộng, còn được gọi là đền thờ Jerusalem thứ hai. Nhưng đền thờ Jerusalem thứ hai trên núi đền thờ vào năm 70 sau Chúa giáng sinh bị quân đế quốc Roma thời hoàng đế Vespasian xâm chiếm phá hủy, như Chúa Giêsu đã có lần nói báo trước. Ngày này, trên nền đền thờ cũ ở núi đền thờ, người Hồi giáo xây đền thờ - Moschee- của họ có mái tròm vòm mầu vàng, và một ngôi đền thờ nữa có tên Al-Aqsa-Moschee.

Từ khi đền thờ Jerusalem bị xâm chiếm phá hủy năm 70., với người Do Thái giáo không chỉ trung tâm thờ phượng Giave theo đức tin của họ bị hủy diệt, mà cùng với trung tâm đức tin đó họ trở thành người lưu lạc không còn quê hương xứ sở sống tản mát khắp nơi. Những người Do Thái với lòng tin vững chãi sinh sống ở các nước trên thế giới là nhóm người thiểu số. Họ cùng chung sức tìm cách khôi phục lại niềm tin của mình thành lập cộng đoàn đức tin theo Do Thái giáo không có đền thờ, không có Hội Đường ngôi nhà Thiên Chúa, như trước nữa.

Nhưng khát vọng mong muốn có một ngôi đền thờ kính thờ Giave như trước luôn âm ỉ hun nóng trong lòng họ. Từ khi trở về quê hương lập quốc trở lại, năm 1948, người Do Thái đã có thể tậu mua khu sống riêng ở thành cổ Jerusalem như mong muốn xây đền thờ thứ ba cho riêng họ trên nơi này.

Dựa trên căn bản khung cảnh hậu trường này, Thánh Phaolo đã viết thư cho Giáo đòan Côrinthô: „ Anh chị em chẳng biết rằng anh chị em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh chị em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là thánh, mà chính là anh chị em là đền thờ ấy.“ (1 cor. 3,16).

Lời giáo huấn tâm tình này của Thánh Phaolô nói lên một hình ảnh hoàn toàn mới về đền thờ Thiên Chúa. Không cần phài xây dựng ngôi nhà đền thờ cho Thiên Chúa bằng gỗ, bằng đá cho nguy nga rộng lẫy đẹp sang trọng. Nhưng ngôi nhà đền thờ Thiên Chúa chính là tâm hồn thân xác con người. Mỗi người do Thiên Chúa tạo dựng ban cho sự sống hình hài thân xác cùng trí tuệ ý chí tâm hồn đặc thù cá biệt theo hình ảnh Thiên Chúa.

Sự sống hình hài thân xác tâm hồn con người là do Thiên Chúa tạo dựng ban cho tạo thành một liên kết duy nhất với nhau. Lẽ dĩ nhiên, nước Thiên Chúa ở trần gian cũng cần đến ngôi nhà thánh đường, các tổ chức, công việc sinh hoạt đoàn thể. Nhưng quan trọng góp phần quyết định vẫn luôn là đức tin sống động thể hiện nơi công việc truyền gíao, trong cung cách sống yêu thương bác ái giữa con người với nhau, và trong chung sống đức tin nơi cộng đoàn với nhau.

Vì thế Thánh Phaolo xác tín đời sống con người tự nó và đời sống tinh thần nơi cộng đoàn được đặt dưới sự che chở của Thiên Chúa :“ Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy.“.

Xưa nay, theo lời Chúa Giêsu truyền dạy, Giáo hội Chúa ở trần gian đi rao giảng mở mang nước Chúa cho mọi người trên khắp trần gian. Một mặt Giáo hội tìm phương tiện xây dựng những ngôi nhà thánh đường cho việc thờ phượng Chúa. Mặt khác Giáo hội trước hết cùng liên tục tìm cách xây dựng đời sống tinh thần tâm linh vào Thiên Chúa nơi con người.

Ngôi đền thờ tâm linh đức tin nơi con người đẹp, quan trọng và sống động hơn tất cả.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long












 
Văn Hóa
Tết xa!
Nữ tu Maria Ngô Phương
09:13 21/02/2020
Năm đầu tiên đón tết bên xứ người, trong tâm hồn tôi đã có rất nhiều cảm xúc; vui buồn, nhớ nhung cứ gọi là đan xen lẫn lộn.

Tôi đã nghĩ mình ở đây thì làm gì có cái gọi là Tết hay gọi là Xuân. Vì chung quanh tôi giờ giấc và nhịp sống ở nơi đây không khớp với quê nhà. Chẳng có Mai cũng chẳng có Đào và cũng chẳng thấy đâu bóng dáng của những con đường đông người qua lại để mua sắm đồ Tết... Ở đây, phải nói rằng, vắng bóng lắm “Ngày Tết Quê Em”. Tôi đã nhớ nhà, nhớ cảnh tưng bừng của ngày xuân bên gia đình. Vậy nên, cho dù bên cạnh tôi là một nhịp sống rất thường nhật nhưng trong đầu của tôi là cả một khung trời mùa xuân nơi quê nhà yêu dấu. Miệng tôi ngân nga bài thánh ca mà linh mục Quang Lâm đã sáng tác “Ngày đầu xuân bao người đi xa cũng về với gia đình, cũng về với ân tình, ngất ngây với nguồn yêu mến...” Tôi hát, cứ hát khi tôi nhớ về nhà, nhớ về những người tôi yêu dấu, và rồi tôi ước chi mình được đón mùa xuân của Đất Việt nơi đây, nơi mà tôi đang hiện diện.

Thiên Chúa quả là người Cha Nhân Lành vô bờ, Ngài yêu tôi và đã gửi cho tôi món quà tôi ước. Sáng Chúa Nhật 9/2/2020 Tôi đã được đón xuân Việt với đông đảo người Việt tại Giáo xứ Đức Mẹ Thăm Viếng ở thành phố Philadelphia. Tim tôi rộn ràng vì hạnh phúc. Tôi không về bên gia đình, bên những người thân yêu nhưng thật sự tôi có cảm giác mình như đang ở quê nhà. Thật hạnh phúc khi được tham dự thánh lễ Việt, được thả hồn trong những lời kinh, những bài thánh ca quen thuộc; được lắng nghe những chia sẻ và cầu chúc của vị mục tử bằng ngôn ngữ mẹ đẻ; được thưởng thức những món ăn Việt, và rồi hòa mình với mọi người, cười cười nói nói trao tặng cho nhau những lời chúc đầu năm tốt lành, chẳng khác gì như đang ở quê hương. Tạ ơn Chúa!

Tạ ơn Chúa về một mùa xuân mới đã đến với chúng con, xuân đến rồi xuân qua và con biết mùa xuân này chẳng thể theo chúng con mãi. Quả thật, chỉ có chính Ngài, vâng lạy Chúa chính Ngài mới là mùa xuân đích thật không bao giờ qua đi vì Ngài là nguồn hạnh phúc vô biên cho mỗi chúng con.

Ước chi mùa xuân mới này sẽ giúp tôi ý thức rằng, mùa xuân mới được trao tặng để tôi bắt đầu mọi thứ với công việc mới, trong một cái nhìn mới, một tư tưởng mới, và yêu thương mới... Tôi sẽ có thể khởi sự với một cánh cửa mới. Những thành công, thất bại của năm 2019 đã qua rồi và giờ đây tôi sẽ được cùng mọi người xây dựng một mùa xuân mới vĩnh cửu trên quê trời. Tôi nguyện thầm Thiên Chúa ghé mắt nhìn và quan phòng cho những công việc mà Ngài đã khởi sự nơi mọi người được hoàn thành trong bình an và ân sủng. Amen.
 
VietCatholic TV
Gương sáng thời coronavirus của một bác sĩ Công Giáo tại Hương Cảng.
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:05 21/02/2020
Tuần trước chúng tôi đã đưa tin về gương sáng của cô Maria Trần Chân Tử (Mako Chan - 陈真子), giáo dân giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ở quận Thái Phố (Tai Po - 大埔).

Khi nguồn cung cấp khẩu trang y tế giảm dần ở Hương Cảng, cô Chân Tử, là chủ một thẩm mỹ viện, đã làm việc trong bốn ngày để làm 2,100 chai nước diệt trùng để rửa tay trong kho của mình. Được sự giúp đỡ của các tình nguyện viên, cô cũng đã phát cho những người nghèo những chai nước này và tổng cộng gần mười nghìn khẩu trang y tế làm từ Indonesia.

Các đồng nghiệp Hương Cảng tại Trung Tâm Nghiên Cứu Thánh Linh, gọi tắt là HSSC, vừa cho chúng tôi biết thêm một tấm gương khác của bác sĩ Alfred Hoàng (Wong - 黄), 38 tuổi, là giáo dân giáo xứ Thánh Giá ở Sao Cơ Loan (Shau Kei Wan -筲箕灣).

Coronavirus mới, tên chính thức là COVID-19, rất dễ lây lan. Bác sĩ Bành Chí Dũng (Peng Zhiyong - 彭志勇), trưởng khoa cấp tính tại Bệnh viện Trung Nam ở Vũ Hán nói với tạp chí điều tra tin tức Tài Tân (Caixin - 财新) của Trung Quốc rằng ông đã phải phái phó giám đốc bệnh viện mình và một số nhân viên y tế khác tham gia chống trả với dịch bệnh tại bệnh viện số 7 Vũ Hán sau khi hai phần ba các y tá và bác sĩ tại bệnh viện này đã bị nhiễm virus.

Do đó, thật dễ hiểu khi thấy rằng đối diện với thứ virus kinh hoàng, rất dễ lây lan và hết thuốc chữa này, nhiều y tá và bác sĩ tìm mọi cách tránh né.

Tuy nhiên, đó không phải là trường hợp của bác sĩ Alfred Hoàng. Mặc dù vợ anh đang mang thai sắp sinh, nhưng anh vẫn tình nguyện gia nhập đội ngũ nhân viên y tế tại khu cách ly - được mệnh danh là “dirty ward” nghĩa là khoa dơ bẩn.

Anh cắt tóc ngắn và di chuyển đến một khách sạn gần bệnh viện, để tránh lây nhiễm cho người vợ đang mang thai của anh.

Sau những ca làm việc mệt mỏi với các bệnh nhân coronavirus, bác sĩ Alfred Hoàng sống cô đơn trong một phòng khách sạn.

Anh nói với thông tấn xã AFP: “Về cơ bản, chúng tôi tách ra khỏi phần còn lại của thế giới. Vì vậy tôi không về nhà sau giờ làm việc.

Tôi cố gắng không ăn bên trong nhà hàng. Tôi cố gắng ăn những thức ăn mua từ nhà hàng mang về nhà.”

An toàn cho người thân luôn là ưu tiên lớn nhất của anh, ngay cả trong ngày lễ Tình Nhân.

Anh cho biết: “Kế hoạch của chúng tôi là ăn tối cùng nhau trong cùng một nhà hàng nhưng không phải ở cùng một bàn. Có lẽ chúng tôi sẽ ăn uống cách nhau ba đến bốn mét.”

“Món quà tốt nhất cho vợ tôi là một người chồng còn sống sót sau kỳ này. Tôi nghĩ rằng không có gì tốt hơn thế cho vợ tôi.”

Cho đến nay đã có 53 trường hợp nhiễm virus được xác nhận tại Hương Cảng, trong đó có một người đã qua đời.

Hoàng là một trong nhiều nhân viên y tế đang ở tuyến đầu chống lại dịch bệnh tại các bệnh viện đầy chật người.

“Chúng tôi không muốn trở thành những anh hùng. Tôi chỉ muốn trở thành một bác sĩ bình thường. Tôi muốn trận dịch này chấm dứt cho sớm. Tôi muốn chuyện này kết liễu cho mau. Tôi muốn chúng tôi trở lại với công việc bình thường hàng ngày của mình.”

Trong một chuyện không tin cũng xảy ra. Một bọn cướp có vũ trang đã đánh cướp hàng trăm cuộn giấy vệ sinh của một siêu thị.

Cảnh sát Hương Cảng cho biết một tài xế xe tải đã bị bọn cướp gồm 3 tên dí dao bên ngoài một siêu thị tại khu Vượng Cốc (Mong Kok - 旺角) quận Cửu Long (Kowloon -九龍).

Trong những ngày này các cuộn giấy vệ sinh, lương thực, đặc biệt là các loại ngũ cốc đã trở thành các mặt hàng khan hiếm tại Hương Cảng từ khi dịch COVID-19 bùng phát.

Nhà cầm quyền Hương Cảng cho rằng những đồn đãi không đúng sự thật trên mạng khiến đã gây ra sự hoảng loạn mua sắm; và nói thêm rằng các nguồn cung cấp thực phẩm và đồ gia dụng vẫn ổn định.

Tờ New York Times cho biết khoảng 7,000 nhân viên y tế ở Hương Cảng đã đình công, yêu cầu nhà cầm quyền đóng cửa biên giới tức khắc và hoàn toàn với đại lục.
 
Bi kịch: Trung Quốc xin $100 triệu chống virus, phản ứng của Hoa Kỳ
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:08 21/02/2020
Tính đến 10 giờ sáng thứ Sáu 21 tháng Hai, số người chết vì coronavirus, hay COVID-19 tại Hoa Lục đã tăng vọt lên đến 2,236 người, và số người nhiễm bệnh lên đến 75,685 người. Như thế, trong ngày thứ Năm đã có thêm 118 người bị thiệt mạng, và thêm 1,109 người được xác nhận là đã nhiễm bệnh. Trung Quốc nhắc lại rằng trong số những người bị nhiễm bệnh 18% ở trong tình trạng nguy kịch.

Như chúng tôi đã đưa tin, hôm thứ Tư, Trung Quốc cho biết họ đã nhận được 16 tấn khẩu trang y tế và các thiết bị bảo vệ khác từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng (Geng Shuang - 耿爽) cho biết Trung Quốc hy vọng Hoa Kỳ sẽ cung cấp khoản quyên góp 100 triệu đô la để giúp ngăn chặn dịch bệnh.

Giải thích lý do Hoa Kỳ phải chi tiền, ông Cảnh Sảng nói: “Trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh, tất cả các quốc gia cần phải tham gia”.

Trong khi ngửa tay xin tiền của Mỹ, hôm thứ Tư 19 tháng Hai, bọn cầm quyền Trung Quốc đã thu hồi thị thực nhập cảnh và ra lệnh trục xuất 3 phóng viên của tờ Wall Street Journal để trả đũa cho một bài báo trên cột ý kiến về coronavirus mà Bắc Kinh cho là phân biệt chủng tộc. Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối bài báo có tựa đề “China Is the Real Sick Man of Asia.” Nghĩa là “Trung Quốc là kẻ bệnh hoạn thực sự của châu Á.”

Điều đáng nói là 3 ký giả này không phải là tác giả của bài này. Đó chỉ là ý kiến của một độc giả người Nam Hàn sống tại Mỹ.

Trong bài viết trên, vị độc giả, ký tên là Walter Russell Mead, dùng cụm từ “kẻ bệnh hoạn của châu Á” có ý đề cập đến các cuộc chiến xuất phát từ tham vọng bành trước theo chủ nghĩa Đại Hán của Trung Quốc từ nhiều thế kỷ trong quá khứ. Đối với người Trung Quốc, đó là một thuật ngữ rất xúc phạm.

Phản ứng trước việc vừa xin tiền vừa trục xuất ký giả của Trung Quốc, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đã ra một tuyên bố. Toàn văn như sau:

“Hoa Kỳ lên án việc Trung Quốc trục xuất ba phóng viên nước ngoài của tờ Wall Street Journal. Các quốc gia trưởng thành, và có trách nhiệm đều hiểu rằng một cơ quan báo chí tự do có quyền tường trình sự thật và bày tỏ ý kiến. Phản ứng đúng đắn phải là phải trình bày các lập luận phản bác, chứ không phải là bóp nghẹt tự do quyền tự do phát biểu. Hoa Kỳ hy vọng rằng người dân Trung Quốc sẽ được hưởng quyền truy cập thông tin chính xác và quyền tự do ngôn luận tương tự như người Mỹ được hưởng.”

Sau khi đã lên tiếng chê bai bọn cầm quyền Trung Quốc là chưa trưởng thành, và thiếu trách nhiệm, Ngoại trưởng Pompeo đã không hề nhắc gì đến số tiền 100 triệu mà người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng đã đòi Mỹ chi ra.

Thật ra trước đó, ông Stephen Biegun, phó Ngoại trưởng, thay mặt cho ông Pompeo, có hứa chi tới 100 triệu đô la nhưng không phải cho riêng Trung Quốc; và 17.8 tấn vật tư y tế tặng riêng cho người dân Trung Quốc, bao gồm khẩu trang y tế, áo choàng bảo hộ, mặt nạ phòng độc, và các vật liệu quan trọng khác.

Ông Stephen Biegun nói như sau:

Sự bùng phát coronavirus mới bắt đầu ở Trung Quốc hiện đã lan sang 27 quốc gia khác. Và hôm nay, theo chỉ đạo của Ngoại trưởng, tôi vui mừng thông báo chính phủ Hoa Kỳ đã sẵn sàng chi tới 100 triệu đô la trong các quỹ hiện có để hỗ trợ Trung Quốc và các quốc gia bị ảnh hưởng khác, cũng như cho Tổ chức Y tế Thế giới, để ngăn chặn và chiến đấu với coronavirus mới.

Ngoại trưởng Pompeo gọi là số vật liệu y tế này và số tiền viện trợ mà Washington hứa cho là “một bằng chứng cho sự quảng đại của người dân Mỹ”.

Ông nói: “Cam kết này - cùng với hàng trăm triệu Mỹ Kim tài trợ khác từ khu vực tư nhân tại Hoa Kỳ - cho thấy khả năng lãnh đạo mạnh mẽ của quốc gia chúng ta trong việc đáp ứng với sự bùng phát của dịch bệnh.”

Ngoại trưởng Pompeo cũng nói thêm rằng cam kết này sẽ được đáp ứng thông qua các quỹ hiện có và sẽ được “gởi trực tiếp cũng như thông qua các tổ chức đa phương”. Tưởng cũng nên biết thêm là thông thường, các khoản viện trợ lớn phải được Quốc Hội chuẩn chi. Số tiền được Ngoại trưởng Pompeo hứa không nằm trong trường hợp đó vì đã có sẵn trong các quỹ hiện có. Có vẻ dễ ăn quá!

Tuy nhiên, số tiền viện trợ này được hứa cho Tổ Chức Y Tế Thế Giới, chứ không phải chỉ cho Trung Quốc. Dịch bệnh đang bùng phát ở 30 nước chứ không riêng gì tại Trung Quốc.

Hơn thế nữa, Bộ trưởng Y tế và Dịch Vụ Nhân Sinh Alex Azar nói với các phóng viên tại Washington, rằng viện trợ của Hoa Kỳ là có điều kiện và yêu cầu Trung Quốc cần phải minh bạch và hợp tác hơn với thế giới.

Ông Alex Azar cho biết Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Chống Dịch Bệnh của Hoa Kỳ, gọi tắt là CDC, đã đề cử ra một danh sách gồm 13 chuyên gia nhằm hỗ trợ các chuyên gia Trung Quốc trong cố gắng kiểm soát dịch bệnh.

“Đây là những nhà virus học, các chuyên gia bào chế thuốc và dịch tễ học rất giỏi của Hoa Kỳ. Chúng tôi tiếp tục kỳ vọng hoàn toàn rằng chủ tịch Tập Cận Bình sẽ cho phép các thành viên CDC đến Hoa Lục.”

“Chúng tôi đã đưa ra đề nghị này cả tháng nay, và một lần nữa, chúng tôi lập lại rằng chúng ta đã sẵn sàng, và chúng tôi có khả năng,” ông nói thêm.

Tuy nhiên, trong một cuộc họp báo vào tuần qua, Tiến sĩ Robert Redfield, Giám Đốc Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Chống Dịch Bệnh của Hoa Kỳ, cho biết đề nghị của Hoa Kỳ “chưa được trả lời, và một lời mời chính thức từ phía Trung Quốc chưa được đưa ra. Chúng tôi tin rằng chúng tôi có những chuyên gia giỏi nhất trên thế giới trong lĩnh vực này và chúng tôi đã sẵn sàng để giúp đỡ và hỗ trợ họ, nhưng họ là một quốc gia độc lập và đã quyết định không mời chúng tôi.”

Trung Quốc không thể một mình chiếm đoạt hết số tiền viện trợ này trong khi cứ nhất mực bác bỏ các điều kiện do Hoa Kỳ đưa ra. Tổng thống Trump không phải là Obama – 100 triệu viện trợ chống virus chỉ là chuyện nằm mơ giữa ban ngày.