Ngày 02-03-2016
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Toà Thượng thẩm Louisiana: không thể đòi hỏi các linh mục phải vi phạm ấn tích giải tội
Trần Mạnh Trác
17:40 02/03/2016


Một phán quyết cuả toà thượng thẩm Tiểu Bang Louisiana đã tái khẳng định ấn tích giải tội cuả các linh mục Công Giáo. Tuy nhiên đây mới chỉ là bước thứ hai trong một vụ kiện. Bên "đương đơn" vẫn có thể kiện lên cao hơn, lên Tối Cao Pháp Viện.

"Luật Louisiana không thể ép buộc các linh mục Công Giáo vi phạm ấn tích giải tội," một thẩm phán toà thượng thẩm cuả tiểu bang tái khẳng định như vậy vào ngày thứ Sáu vừa qua.

Vị thẩm phán là Mike Caldwell đưa ra phán quyết vào ngày 26 tháng 2 rằng một đạo luật tiểu bang đòi hỏi các giáo sĩ phải báo cáo sự lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên (sau khi biết qua toà giải tội) là vi phạm đến tự do tôn giáo, vi phạm đến sự bảo vệ ấn tích giải tội của đạo Công Giáo.

Qua Bộ Giáo luật năm 1983, thì "Ðiều 984: Ấn tích giải tội là điều bất khả vi phạm; do đó, tuyệt đối cấm chỉ cha giải tội không được tiết lộ về hối nhân bằng lời nói hay bằng cách nào khác, và vì bất cứ lý do gì. Ðiều 984: Tuyệt đối cấm chỉ cha giải tội không được xử dụng những điều biết được trong tòa giải tội để làm hại hối nhân, cho dù không có nguy cơ tiết lộ."

Phán quyết liên quan đến một vụ kiện của cô Rebecca Mayeaux, bây giờ là 22 tuổi, chống lại cha Jeff Bayhi và Giáo phận Baton Rouge.

Cô Mayeaux khai rằng trong năm 2008, khi cô mới lên 14, cô đã đi xưng tội với vị linh mục rằng một giáo dân 64 tuổi đã lạm dụng cô. Vị linh mục lúc đó đang làm chánh xứ Our Lady of the Assumption Catholic Church ở thị xã Clinton, cách Baton Rouge 35 dặm.

Đương đơn tố cáo rằng vị linh mục đã cẩu thả trong việc báo cáo những lạm dụng và giáo phận cũng đã thất bại trong việc đào tạo các linh mục về nhiệm vụ phải báo cáo các lạm dụng cho đúng luật. Cô Mayeaux tuyên bố rằng vị linh mục đã khuyên bảo cô rằng "hãy cố bỏ qua việc đó đi" (“sweep it under the floor and get rid of it,” quét nó dưới sàn nhà và tống khứ nó đi".)

Còn Cha Bayhi thì từ chối không tiết lộ bất cứ điều gì trong cuộc xưng tội đó, vì ngài sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông.

"Nếu chúng tôi vi phạm ấn tích giải tội, thì là 'xong'. Là Chấm hết, " Ngài nói với tòa án, thêm rằng Ngài sẽ " không bao giờ "cố ý vi phạm ấn tích giải tội.

"Nếu bí tích giải tội không thiêng liêng như thế, thì không ai sẽ còn tin tưởng vào chúng tôi nữa."

Luật hiện hành cuả Louisiana đòi hỏi giáo sĩ phải báo cáo các lạm dụng tình dục. Nhưng cũng có 'điều' cho phép những ngoại lệ khi sự cáo buộc về lạm dụng đó được tiết lộ trong những giao tiếp bí mật có tính cách tôn giáo, ví dụ như lúc xưng tội.

Tuy nhiên, lại có một 'điều' khác đòi hỏi việc báo cáo là bắt buộc "cho dù dưới bất kỳ đặc quyền nào". Phán quyết của thẩm phán Caldwell đã bác bỏ yêu cầu cuả 'điều' này.

Đức Giám Mục Robert Muench cuả Baton Rouge đã đưa ra một tuyên bố như sau:

"Tôi xin được cảm thông nỗi đau buồn và dâng lời cầu nguyện cho nguyên đơn, là người có thể đã bị tổn thương bởi những hành động của một người đàn ông không phải là một nhân viên của nhà thờ, và hơn nữa, chia sẻ sự đau buồn cho tất cả những ai cũng đã bị lạm dụng như thế".

Đức Giám Mục bày tỏ sự tri ân với phán quyết và thêm rằng "phán quyết của tòa án nhằm duy trì Tu Chính Án Thứ Nhất là quyền tự do tôn giáo là điều cần thiết."

Nhắc lại, phán quyết trên vẫn có thể bị kháng cáo lên Tòa án tối cao cuả tiểu bang Louisiana.

Thẩm phán Caldwell còn ra nhiều quyết định khác liên quan đến vụ kiện, như rằng cô Mayeaux vẫn có thể trình bày cho bồi thẩm đoàn về những gì cô nói với linh mục vào năm 2008. Tuy nhiên, luật sư của cô không thể tranh luận với bồi thẩm đoàn rằng pháp luật đòi hỏi cha Bayhi phải báo cáo.

Vụ kiện đã từng bị đưa lên Tòa án tối cao Louisiana vào năm 2014, nhưng lúc đó Toà đã trả lại cho tòa cấp dưới để xác định thêm nhiều sự kiện khác.

Vụ kiện vẫn chưa được đưa ra xét xử. Người bị cáo buộc lạm dụng cô Mayeaux đã chết vào năm 2009.

Nếu đưa ra xét xử, vị luật sư của nguyên đơn (cô Mayeaux) cho biết ông không còn có ý định gọi Cha Bayhi ra làm chứng nữa.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gây qũi: Cùng đóng góp xây dựng và phát triển Hệ thống VietCatholic
LM Gioan Trần Công Nghị
11:11 02/03/2016
Gây qũi: Cùng đóng góp xây dựng và phát triển Hệ thống VietCatholic



Kính thưa quý Cha, quý tu sĩ, quý khán thính giả và độc giả trang VietCatholic

VietCatholic Network hoạt động từ ngày Lễ Các Thánh 1 tháng 11 năm 1996 cho đến nay là sắp kỷ niệm 20 năm thành lập. Trong suốt thời gian dài hiện diện, chúng tôi đã cố gắng mang đến cho quý vị món ăn tinh thần bổ ích: những tin tức từ Giáo đô Vatican, từ Giáo Hội Việt Nam và các sinh hoạt đa diện từ các Giáo xứ và Cộng đoàn CGVN từ khắp nơi trên thế giới.

Có thể nói qua những biến cố, tin tức và các sinh hoạt được trình bầy, chúng ta đã có thể tham phần tích cực vào nhịp sống của Giáo Hội, học hỏi về Giáo lý và sống đức tin, cùng đồng hành và cảm nghiệm những bước thăng trầm của Giáo Hội và Quê hương, và một kinh nghiệm đầy đủ hơn về cuộc sống đức tin làm phong phú đời sống đạo của chúng ta.

Các linh mục, tu sĩ cũng như các giáo dân cộng tác viên của VietCatholic đã và đang hy sinh thời giờ, tài năng, và công sức của riêng mình để thực thi sứ mạng truyền giáo qua phương tiện truyền thông mà ai nấy trong chúng tôi đều ý thức về tầm quan trọng và ơn gọi của mình đã nhận được qua phép Thánh Tẩy. Tất cả anh chị em đã và đang tiếp tục cộng tác với nhau trong tinh thần tự giác, tự nguyện, cảm thông và kính trọng lẫn nhau, chân thành chia sẻ, và dấn thân vì sự thúc đẩy của đức tin mà thôi. Không một ai nhận bất cứ thù lao nào ngoài niềm vui phục vụ vì thấy việc làm của mình có thể mang tới niềm vui và giúp ích cho Giáo Hội và anh chị em Kitô hữu khác.

Kỹ thuật truyền thông đang tiến rất nhanh, đem lại những phương thế truyền giảng Tin Mừng đa dạng và hiệu năng. Ngày nay, độc giả không chỉ vào internet để đọc tin tức, nhưng còn có thể lắng nghe tiếng nói và nhìn thấy hình ảnh của vị Cha Chung, các sinh hoạt và biến cố muôn mầu muôn sắc ở khắp nơi trên thế giới, không còn chỉ là đọc, nhưng có thể nhìn, nghe và được sống cái cảm nghiệm “đang hiện diện chính nơi đó”. Khả năng của các kỹ thuật truyền thông mới và số lượng khán thính giả đông đảo như vậy vượt quá trí tưởng tượng phong phú nhất của những người truyền giảng Tin Mừng đi trước chúng ta.

Nhận thức được những khả năng tích cực của Internet nhằm chuyển tải những thông tin tôn giáo và giáo huấn vượt mọi rào cản và biên giới, chúng tôi không ngừng cải tiến về kỹ thuật. Từ tháng 10 năm 2007, chúng tôi đã khởi sự những chương trình videos; và đã có khả năng truyền hình Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 tại Sydney. Bên cạnh những chương trình phóng sự đặc biệt, tháng Ba năm 2011, chúng tôi bắt đầu phát hình đều đặn hàng tuần chương trình “Thế giới nhìn từ Vatican”. Lần lượt chúng tôi cho ra đời các chương trình hàng tuần khác như “Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô”, “Giáo Hội Năm Châu”.

Mới đây chúng tôi đã thiết lập thêm được 2 phòng thu hình mới tại Los Angles và Orange County và thực hiện thêm 2 chương trình mới: “Buổi Triều Yết hằng tuần với Đức Thánh Cha” và “Kinh Truyền Tin Chúa Nhật với Đức Thánh Cha”.

Trong tương lai, chúng tôi sẽ tiến tới việc có Chương trình TV trực tuyến hàng ngày phát qua hệ thống satellite.

Ngày nay, bên cạnh các máy điện toán cá nhân, chúng ta còn có một loạt các thiết bị khác gọn nhẹ hơn như máy tính bảng, và những loại điện thoại thông minh, mà nhiều người, đặc biệt là giới trẻ luôn mang theo bên mình như người bạn bất khả phân ly. Những ứng dụng cho máy tính bảng, và điện thoại thông minh là điều chúng tôi rất muốn thực hiện nhưng cho đến nay chúng tôi chưa có khả năng tài chính để làm điều này.

Vì thế, chúng tôi cần sự đóng góp của quý ân nhân và toàn thể quý vị cho việc trang bị thêm các máy móc và các phương tiện cần thiết hầu thực hiện các ứng dụng cho máy tính bảng, và điện thoại thông minh; cũng như hoàn thành được ước mơ của nhiều người là chúng ta có được một Kênh Truyền Hình Công Giáo có nội dung và giá trị như món ăn tinh thần nuôi dưỡng đức tin và giúp trao đổi, chia sẻ và học hỏi giáo lý và sống đạo.

Ngoài ra chúng tôi cũng đã mời được rất đông các Ca sĩ Công Giáo Việt Nam tại Nam Cali hợp tác để VietCatholic thực hiện các DVD Nhạc và các Bài Thánh Ca giá trị (như qúi vị đã thưởng thức trên internet VietCatholic). Nhạc và tiếng hát dễ rung động con tim dẫn đến những cảm xúc mãnh liệt và có ảnh hưởng quân chúng sâu rông. Nhạc không chỉ ca ngợi tình yêu, nét đẹp chân thiện mỹ, tình tự... của con người và thiên nhiên, nhưng còn có thể "nâng tâm hồn lên tới Chúa" qua các bài thánh ca được chọn lọc, những ca khúc có giá trị nghệ thuật cao, có lời cầu nguyện sốt sắng "như hương trầm dâng lên tới Chúa".

Chúng tôi đã tự đóng góp tiền riêng để xây dựng các studios, nhưng khả năng tài chánh có hạn, còn cần đến sự góp sức thêm của nhiều người. Dự chi tối thiểu cần vào khoảng $20.000 Mỹ kim cho những thiết kế nêu trên. Chúng tôi kêu gọi sự đóng góp quảng đại của qúi Cha, qúi ân nhân và toàn thể qúi vị cho công tác quan trọng nêu trên, như một món quà hy sinh trong Mùa Chay để góp phần với chúng tôi trong việc Loan Truyền Tin Mừng.

Chúng tôi xin đề nghị một vài tiêu chuẩn nhau sau:

-Đóng góp tùy tâm và khả năng: $10, $20, $30, $50, $100...
-Ân nhân $1.000
-Ân nhân Danh Dự: $3.000
-Ân nhân Bảo Trợ $5.000

Để ghi ơn các vị ân nhân, mỗi tuần trong vòng một năm, Linh Mục Giám Đốc và một số các Linh Mục cộng tác viên sẽ dâng một thánh lễ cầu nguyện cho quý vị và gia đình quý vị.

Mọi đóng góp xin gửi vào Chương mục VietCatholic -- gửi tiền trực tiếp bằng PayPal hay dùng các loại thẻ tín dụng - Rất bảo đảm và tín nhiệm. Trên trang Nhà frontpage của VietCatholic, xin nhấn vào chữ "Donation"

Xin nhấn vào đây để gửi Quà tặng cho VietCatholic

Dùng các loại Thẻ Tín Dụng (credit cards) gửi qua Paypal dưới đây:



Hoặc viết gửi check về:
VietCatholic
P.O. Box 2068
Garden Grove, CA 92842


Xin chân thành cám ơn, và xin kính chúc qúi Cha, qúi Tu sĩ, qúi Ân Nhân và Anh Chị Em một Mùa Chay thánh đức trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria.

LM Gioan Trần Công Nghị
Giám đốc VietCatholic Network
 
Thông Báo
Giao diện của VietCatholic với các mạng xã hội
VietCatholic Network
01:10 02/03/2016
Kính thưa quý vị và anh chị em,

Ở cuối mỗi chương trình truyền hình, chúng tôi có một lời đề nghị như sau:

“Xin quý vị và anh chị em giúp phổ biến rộng rãi chương trình này đến với gia đình, thân quyến và bạn bè xa gần như một cách thức để truyền giáo.”

Từ ngày 1 tháng Ba, giao diện của VietCatholic có một tiện nghi mới dành cho các mạng xã hội.

Cụ thể là khi quý vị và anh chị em đọc một bài, xem một video thấy hay thì có thể nhấn vào các icons như Facebook, Twitter, Pinterest, G+, Linked … để lưu lại cho chính mình, tweet cho các bạn bè thân hữu hay gởi lên các mạng xã hội.

Nếu quý vị và anh chị em thấy những icons này không hiện ra, hay nằm không đúng vị trí như hình bên dưới đây, xin nhấn nút F5 để refresh.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã sửa lại tiện nghi in ra giấy để có thể chạy được trên các loại browsers và các loại thiết bị khác nhau.

 
Cáo Phó : LM Mat-thêu Vũ Khởi Phụng, C.Ss.R qua đời
DCCT Việt Nam
22:19 02/03/2016
 
Văn Hóa
Lý thuyết ba thời kỳ, các chủ nghĩa toàn trị, và Tây Phương
Vũ Văn An
17:49 02/03/2016
Cách nay 25 năm, một trong các thần học gia Công Giáo vĩ đại nhất của thế kỷ 20 đã qua đời tại Đường de Bretreuil ở Paris dưới sự săn sóc của Các Tiểu Muội Người Nghèo. Sinh năm 1896 giữa lúc Vụ Dreyfus đang xâu xé nước Pháp, và qua đời khi Liên Bang Xôviết sụp đổ năm 1991, Đức Hồng Y Henri de Lubac, Dòng Tên, đã tham dự một số các biến cố quan trọng nhất từng lên khuôn Giáo Hội Công Giáo giữa các triều giáo hoàng Lêô XIII và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Dù rất nổi tiếng vì công trình của ngài trong việc mở cửa gia tài trí thức phong phú của Giáo Hội và ảnh hưởng của ngài đối với các văn kiện chủ yếu của Vatican II, de Lubac không hề là một học giả trốn đời. Xuất thân từ một gia đình qúy tộc Pháp, rất sùng đạo Công Giáo, de Lubac không thể không ý thức các đứt đoạn sâu sắc giữa Giáo Hội và các lực lượng do Cách Mạng Pháp xổ lồng. Ngài cũng không sợ phải pha mình vào những tranh chấp có tính thời đại của thời ngài.

Khi phần lớn hàng giáo phẩm, hàng giáo sĩ và giáo dân ủng hộ chế độ Vichy sau cuộc bại trận nhục nhã của Pháp năm 1940, de Lubac nhanh chóng trở thành người hoạt động trong Phong Trào Kháng Chiến Pháp. Là một người chống Quốc Xã nhất quán trước và trong Thế Chiến II, de Lubac lớn tiếng chống chủ nghĩa Bài Do Thái vào một thời điểm khi tâm tình bài Do Thái khá phổ thông nơi nhiều người Công Giáo. Cũng thế, de Lubac chỉ trích lòng say mê chủ nghĩa Marx của một số người Công Giáo Pháp sau Thế Chiến II. Không như một số người cùng thời, de Lubac không bao giờ có bất cứ ảo tưởng nào đối với chủ nghĩa Cộng Sản.

Vượt lên trên các điểm đặc thù của một số phong trào, de Lubac hết sức ngỡ ngàng trước sự kiện: các ý thức hệ duy tục, từ chủ nghĩa Marx tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Phátxít, chủ nghĩa quốc gia, và các biểu thức đặc thù của chủ nghĩa duy tự do, tiếp tục kìm hãm trí tưởng tượng của người Tây Phương. De Lubac tự hỏi, tại sao quá nhiều người ở Tây Phương cứ tiếp tục bám lấy các ý tưởng từng dẫn tới hủy diệt và chết chóc suốt trong thế kỷ 20 nhân danh giai cấp vô sản, der Volk (nhân dân), hay tiến bộ? Ngài thắc mắc, làm thế nào những người hết sức thông minh lại có thể tin được rằng họ đang phát huy hạnh phúc của con người bằng việc ủng hộ các ý thức này?

Là một người miệt mài nghiên cứu lịch sử thần học, de Lubac hiểu rõ: các tiền thân của một số ý niệm qủy quyệt nhất của chính trị hiện đại ăn rễ rất sâu trong quá khứ. Thí dụ, năm 1942, ngay trước khi đi hầm trú tránh Gestapo, de Lubac đã đọc một diễn văn tại một thị trấn nhỏ là Pont-de-Claix về các gốc rễ tôn giáo của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Quốc Xã. De Lubac cũng nhìn nhận rằng nguồn gốc của những chủ nghĩa thay thế cho tôn giáo này đã có trước cả Phong Trào Ánh Sáng. Ngài biết rằng lạc giáo thời Trung Cổ thường tiên báo đường đi của những chế độ toàn trị hiện đại, hay bất cứ người nào định vị sự cứu rỗi trong tính viên mãn của nó ở đây và lúc này. Về phương diện này, de Lubac tin rằng một thần học gia Trung Cổ đã đóng một vai tuồng quan trọng.

Nhà huyền nhiệm, đan sĩ và thiên niên kỷ

Thời Trung Cổ không chỉ là thời các đại học đầu tiên của thế giới được thành lập, nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại được sản sinh, và các nền kinh tế có tính tư bản chủ nghĩa rõ ràng xuất hiện. Nó còn chứng kiến việc khai triển ra các phong trào thiên niên kỷ cực đoan chuyên giảng dậy ngày chung cục (apocalypses) và hừng đông của thời lịch sử mới. Đây là một lý do giải thích tại sao tư tưởng của thần học gia Trung Cổ Joachim de Fiore (c.1135-1202) đã gây tranh cãi trong hai thế kỷ 13 và 14.

Là một công chứng viên, một nhà ẩn tu, một người hành hương Đất Thánh, Joachim được nhiều người thời ông biết đến nhờ lòng đạo đức, đời sống khổ hạnh và dấn thân cho học thuật của ông. Là một cố vấn cho các nhà cai trị phần đời và được các vị giáo hoàng kính nể, Joachim cuối cùng đã thành lập một đan viện, đó là đan viện San Giovanni di Fiore, năm 1198, để cổ vũ một lối sống đơn tu còn nhiệm nhặt hơn Dòng Xitô. Dù ông viết về nhiều đề tài, Joachim được biết đến nhờ đã hệ thống hóa điều được gọi là lý thuyết Ba Thời Kỳ.

Từ thời các giáo phụ, nhiều thần học gia đã tìm cách liên kết mỗi Ngôi trong Ba Ngôi với một thời kỳ lịch sử khác nhau. Theo Joachim, thời kỳ thứ nhất, thời của Chúa Cha, là thời Cựu Ước trong đó con người sợ hãi ngoan ngoãn vâng theo lề luật của Thiên Chúa. Thời kỳ thứ hai, thời của Chúa Con, là thời thống trị của Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Thời kỳ thứ ba, thời của Chúa Thánh Thần được Joachim tiên đoán sẽ bắt đầu năm 1260. Thời này, thời được Joachim mô tả là tự do trong một xã hội hoàn hảo hơn là điều ông mô tả như triều đại công lý trong xã hội bất toàn trước đó, sẽ là thời trong đó các Giáo Hội phân ly của Tây và Đông sẽ tái hợp nhất, người Do Thái sẽ trở lại, và tinh thần Tin Mừng và hòa bình hoàn vũ sẽ thống trị. Joachim cho rằng Giáo Hội và trật tự bí tích của Giáo Hội chủ yếu sẽ biến mất và được thay thế bằng một loại trật tự đặc sủng dưới sự lãnh đạo của các đan sĩ.

Sau khi ông qua đời, một số đề xuất của Joachim liên quan tới Ba Ngôi bị Công Đồng Lateran thứ tư và Đức Giáo Hoàng Alexander IV kết án chính thức. Tuy nhiên, một số ý niệm khác của ông đã được một số phần tử quá khích trong các dòng khất thực, nhất là những người được gọi là thần khí (spiritual), mà phần đông thuộc Dòng Phanxicô. Một số các tu sĩ Phanxicô này, thường họp thành nhóm dưới danh xưng “Fraticelli,” coi Thánh Phanxicô Assidi và phong trào của ngài như là lực lượng đặc sủng mà Joachim từng tiên đoán. Vì lý do này và nhiều lý do khác, một số nhà thần khí tranh cãi nhau về thẩm quyền của Giáo Hội phẩm trật và, trong một số trường hợp, đã cổ vũ một thứ chủ nghĩa không tưởng vô chính phủ (anarchist utopianism). Đây rất có thể là lý do khiến Thánh Bonaventura, vốn là bề trên cả Dòng Phanxicô, cẩn trọng nghiên cứu và phê phán nền thần học lịch sử do các trước tác của Joachim phác thảo ra. Thánh Bonaventura còn đi xa hơn nữa bằng cách quả quyết rằng không có Giáo Hội nào bên ngoài Giáo Hội tông truyền có phẩm trật do Chúa Kitô mong muốn.

Hướng tới một thiên đường dưới thế

Phần lớn các phong trào thiên niên kỷ thời Trung Cổ đều tương đối chết yểu. Bị dẹp bỏ hoặc bởi Giáo Hội hoặc bởi thẩm quyền nhà nước, hay tự biến mất khi các lời tiên đoán của họ không được thể hiện. Nhưng như de Lubac minh tả trong bộ sách hai cuốn của ngài La Postérité spirituelle de Joachim de Fiore (1979-1981) (Hậu Duệ Thiêng Liêng của Joachim de Fiore), ý niệm Thời Chúa Thánh Thần của Joachim và viễn kiến lịch sử của nó đã tìm được đường đi vào toàn bộ nền văn hóa Tây Phương. Theo de Lubac, đóng góp có tính định mệnh tuy không cố ý của Joachim là mở cửa để ý niệm hy vọng vào Chúa Kitô của Kitô Giáo và tính viên mãn của sự sống được mạc khải dứt khoát nơi Người bị làm rỗng hoàn toàn và mô phỏng bởi các ý thức hệ có tính hầu như tôn giáo về tiến bộ và một thứ đức tin vào tương lai, bất luận tương lai này sẽ ra sao.

Theo de Lubac, các ý niệm trên không chỉ được phản ảnh trong viễn kiến kinh thành thiên giới của Phục Hưng. Theo nhận định của ngài, chủ thuyết Joachim giúp lên khuôn các phong trào từ chủ nghĩa lãng mạn Đức tới chủ nghĩa duy tâm của Hegel. De Lubac cho rằng trong các thế kỷ 17 và 18, các khuynh hướng theo Joachim tự biểu lộ qua việc một số nhà tư tưởng của Phong Trào Ánh Sáng hiểu dự án của họ như một cuộc ly khai khỏi đức tin nói chung và khỏi Giáo Hội Công Giáo nói riêng để đi theo một thời đại lịch sử mới của lý trí.

De Lubac cho rằng chủ nghĩa Joachim gây một ảnh hưởng lớn đối với suy nghĩ của những người như Henri de Saint-Simon, có thời duy tự do nhưng sau đó đã trở thành duy xã hội không tưởng, Alfred Rosenberg, nhà lý thuyết về sắc tộc của Quốc Xã, và trên hết, Karl Marx và các lý thuyết gia Mácxít như triết gia Đức Ernst Bloch. De Lubac cũng cho rằng bên dưới các ý niệm này, là một thứ chủ nghĩa duy thiên niên kỷ phi Giáo Hội vốn chở theo ý niệm này: một thời đại mới đang sắp sửa xuất hiện khi lịch sử tất yếu sẽ tiến về một thứ thế giới không tưởng ở đời này.

Tuy nhiên, có một cách biểu lộ nữa của viễn kiến Joachim: đó là ý tưởng cho rằng việc thế tục hóa không những là điều không thể tránh được mà nó còn tượng trưng cho một loại thành toàn của Kitô Giáo. De Lubac không hiểu chữ “thế tục” ở đây là lãnh vực trần gian hiện diện song song với lãnh vực đức tin. Sự phân biệt này luôn luôn là thành phần trong phương thức tiếp cận chính trị của Kitô Giáo, ngay trong các trường hợp tệ nhất của chủ trương coi quyền lực thế tục cao hơn quyền lực thiêng liêng của Giáo Hội (Caesaropapism). Thay vào đó, ngài coi việc thế tục hóa như là việc chuyển đổi ý niệm cứu rỗi của Kitô Giáo thành các ý thức hệ tiến bộ của con người xuyên qua lịch sử, một tiến bộ được hiểu như là sự tiến triển đều đặn của chủ nghĩa nhân đạo thế tục hậu Kitô Giáo nhằm chăm sóc các nhu cầu ở đây và ngay bây giờ của mọi người.

Bên trong Giáo Hội

Điều trên đem chúng ta tới một cách nữa trong đó, theo de Lubac, học thuyết của Joachim tiếp tục lên khuôn Tây Phương ngày nay. Trong cuốn Mémoires sur l’occasion de mes écrits (Các ký ức nhân dịp các trước tác của tôi), de Lubac viết:

“Dưới nhiều hình thức khác nhau của nó, tôi coi học thuyết của Joachim là một nguy cơ hiện nay vẫn còn và thậm chí thúc ép nữa. Tôi nhận ra nó trong diễn trình thế tục hóa, một diễn trình phản bội Tin Mừng, nhằm biến đổi việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa thành những không tưởng xã hội. Tôi thấy nó đang hành động trong điều có thể gọi một cách đúng đắn là “sự tự hủy của Giáo Hội” [sau Vatican II]. Tôi tin rằng nó chỉ có thể làm gia trọng nỗi thống khổ và tạo nên việc hạ giá nhân tính ta”.

Trên một bình diện, de Lubac thấy chủ thuyết của Joachim hiện diện trong cố gắng của một số người Công Giáo sau Vatican II nhằm để qua một bên điều họ gọi là Giáo Hội “định chế” và thay thế Giáo Hội này bằng một Giáo Hội của “Thần Khí”, một Thần Khí, một tinh thần, xem ra không hề khác chi với những lắng lo của hai thập niên 1960 và 1970 và là các lắng lo nhằm đúc kết Tin Mừng thành một với chủ thuyết tranh đấu chính trị, luôn tả khuynh. Điều cũng có thể là de Lubac chỉ lặp lại các quan tâm từng được một người cùng Dòng Tên và cùng tham gia Kháng Chiến phát biểu là Gaston Fessard, người nổi tiếng và đã công khai cảnh cáo người Công Giáo Pháp năm 1979 rằng tính toàn vẹn của Giáo Hội bị đe dọa bới việc ve vãn các ý tưởng Mácxít. Nói một cách rộng rãi hơn, các quan tâm của de Lubac cũng có thể bao gồm những người Công Giáo quan niệm công bằng xã hội không khác mấy so với quan niệm của phe tả thế tục nhưng vẫn phần nào gần gũi với phần đông các tín điều và học thuyết cót lõi của Giáo Hội.

Cũng khó mà không nghĩ tới những hình thức đặc thù của thần học giải phóng, nhất là những hình thức chịu ảnh hưởng Marx nhiều hơn cả, khi đánh giá tác động của học thuyết Joachim sau Vatican II. Huấn Thị về Một Số Khía Cạnh của “Thần Học Giải Phóng” năm 1984 của Bộ Giáo Lý Đức Tin, chẳng hạn, đã làm nổi bật xu hướng của nhiều nhà thần học giải phóng muốn giản lược đức tin Công Giáo thành “một chủ nghĩa xức dầu hoàn toàn trần tục” và “đồng hóa Nước Thiên Chúa và sự lớn mạnh của nó với phong trào giải phóng nhân bản”.

Thói quen phe Joachim hay tương đối hóa ý nghĩa của chính Giáo Hội và bắt nó phụ thuộc sự tiến bộ của lịch sử cũng khá hiển hiện trong một số bản văn của thần học giải phóng. Bộ Giáo Lý Đức Tin quả quyết rằng liên quan tới chính Giáo Hội, các trường phái đặc thù của tư tưởng thần học giải phóng “chỉ nhìn Giáo Hội như một thực tại thấp hơn lịch sử trong tính nội tại của nó”. Tương tự như thế, trong một số trước tác của thần học giải phóng, các bí tích cũng bị lột hết ý nghĩa bí tích và bị giản lược thành một “cử hành của nhân dân trong cuộc đấu tranh của họ”.

Chín năm sau khi phát hành cuốn thứ hai trong bộ sách của de Lubac viết về Joachim de Fiore, một số công trình lớn thiết lập bởi những người dấn thân cho giấc mơ Mácxít về một thời đại mới đã sụp đổ. Dù các hình thức triệt để của thần học giải phóng chưa mất dạng, chúng cũng đang lao đao để giữ vững tính khả tín. Như Đức Hồng Y Jorge Bergoglio từng viết trong lời nói đầu của một cuốn sách tựa là Una apuesta por America Latina (Một Dấn Thân Cho Mỹ Châu La Tinh) (2005), “Sau việc sụp đổ của ‘chủ nghĩa xã hội thực chất’, các trào lưu tư tưởng này đã lao đầu vào chỗ hỗn độn. Không có khả năng tái lên công thức triệt để cũng như tính sáng tạo mới, chúng sống còn nhờ tính trì trệ, dù cho có một số người ngày nay vẫn còn thích đề xuất nó một lần nữa, một cách lỗi thời”.

Nói thế rồi, ta vẫn thấy các khunh hướng theo Joachim khó có thể biến mất khỏi Tây Phương. Người ta vẫn có thể tìm thấy nó trong nhiều hình thức không tưởng kỹ thuật khác nhau; những hình thức này đang trình bầy cho ta viễn tượng đem tới một thứ niết bàn qua tiến bộ khoa học. Rồi lại còn các đề xuất nhằm biến đổi, theo nghĩa đen, chính bản chất con người, như phong trào biến đổi các điều kiện nhân bản (transhumanism) chủ trương. Một điển hình khác không lý thú bằng nhưng thông thường hơn là việc giản lược cứu rỗi vào chính trị. Hãy xem thói quen chán ngắt ở Tây Phương hay gán cho các chính trị gia những phẩm chất giống như Đấng Được Xức Dầu, hay niềm tin ngây thơ mà rất nhiều người thuộc giai cấp chính trị của Liên Hiệp Âu Châu đặt vào các định chế dân chủ xã hội siêu quốc gia sẽ đem lại một thứ gì đó giống như pacem in terris (hòa bình trên thế giới) theo nghĩa thế tục, những ảo tưởng liên tiếp đi ngược lại một số thực tại từng được Thánh Augustinô nhấn mạnh trong Kinh Thành Thiên Chúa của ngài, chưa kể các sự thật căn bản về thân phận con người từng được Kitô Giáo nêu bật.

Tuy nhiên, không điều gì như trên làm de Lubac ngạc nhiên, vì lý do đơn giản là ngài hiểu rằng người ta không thể loại trừ được sự thôi thúc của tôn giáo khỏi con người. Nó chỉ có thể bị làm cho trệch hướng, hoặc thành đồi trụy, khỏi mục tiêu tự nhiên của nó. Sự dai dẳng của vi khuẩn Joachim trong rất nhiều thế kỷ cho ta thấy, bất chấp họ tán dương chủ nghĩa duy tục ra sao, Tây Phương vẫn có đặc điểm tôn giáo sâu sắc của nó. Câu hỏi thực sự là tôn giáo nào cuối cùng sẽ thắng thế. Thiển nghĩ đó là sứ điệp chính trị của Cha de Lubac dành cho chúng ta ngày nay.

Viết theo Samuel Gregg, giám đốc nghiên cứu của Viện Acton.
 
Dầu cha mẹ có bỏ con ....
Đan Tâm
20:57 02/03/2016
DẦU CHA MẸ CÓ BỎ CON…

Bích Vân là con áp út của một cán bộ lão thành. Hồi 1954, cha Bích Vân, người miền Nam, được anh em Cách Mạng móc nối, tập kết ra Bắc, bỏ lại người phụ nữ Bắc di cư đã hai con với ông mà bé gái còn đang trong bụng.

Ông được bố trí làm ngành dệt. Hơn hai mươi năm phục vụ lý tưởng, chức vụ cao nhất tổ chức giao cho ông là Giám Đốc Nhà Máy Dệt Kim của một tỉnh vùng cực bắc. Mẹ Bích Vân là phụ nữ tỉnh này.

Chỉ vài ngày sau thống nhất, cha Bích Vân đã được phái vào Nam điều hành công tác tiếp thu toàn bộ Quận 1 TP. HCM, rồi sau đó làm Trưởng Ban Thương Nghiệp Phường Bến Nghé, Phường có Chợ Bến Thành.

Một trong những việc đầu tiên ông làm khi trở về miền Nam là tìm lại người vợ cũ. Lúc ấy, bà cũng đã có thêm năm mặt con với người chồng sau và ông này đã mất. Cha Bích Vân nhìn nhận hai người con đầu, nhưng tiếp tục sống với người vợ sau và các con của bà này.

Những năm còn cắp sách, Bích Vân cũng chỉ được gặp lại hai người anh chị cùng cha khác mẹ vào những dịp lễ tết, nhưng lần nào, Bích Vân cũng cảm nhận một nét đẹp tâm hồn thật dễ gần dễ mến nơi người chị có tên gần trùng : Ánh Vân.

Chị Ánh Vân càng dễ thương hơn nữa khi Bích Vân lập gia đình và gặp phải ông chồng nhậu. Chức vụ cũng là Quản lý Đường sắt Bắc Nam, nhưng vợ con hầu như chẳng được nhờ ! Chị Ánh Vân hồi ấy làm ăn chưa phát đạt lắm, nhưng tương đối đã có đồng ra đồng vào, tết nhất ghé, thấy hoàn cảnh, cũng giúi vào tay em những bao lì xì em không thể ngờ tới. Rồi từ đó, chẳng cứ ngày tết, chị còn tìm nhiều dịp đến thăm em và kín đáo chia sẻ.

Chịu đựng ông chồng được đến khi con trai hơn ba tuổi thì thấy đã đến ngưỡng, Bích Vân quyết định chia tay. Sau kinh nghiệm đau, Bích Vân cần kiệm nuôi con, đồng thời lao vào việc học hành cao hơn để tìm cách tiến thân.

Chăm chỉ và thông minh, Bích Vân được một thầy đại học dành cho nhiều quí mến. Vị giáo sư rất nổi tiếng, từng cống hiến nhiều công trình khoa học. Bích Vân hay tới nhà thầy, vừa xin thầy hướng dẫn thêm, vừa thăm gia đình thầy.

Bà vợ của thầy lâm trọng bệnh, Bích Vân càng có nhiều cơ hội bày tỏ lòng biết ơn với thầy và gia đình. Khi bà mất, Bích Vân đã thân thiết như người nhà. Mãn tang vợ, thầy ngỏ ý muốn cưới Bích Vân. Lúc ấy thì nhờ bằng cấp đậu đạt và cũng nhờ gia đình quen biết, Bích Vân đã được ngồi một chỗ tốt trong hệ thống Phân Phối Xăng Dầu, rồi cũng đã sáng lập và đang điều hành một công ty khá lớn sản xuất và xuất khẩu tranh thêu.

Tiếc một điều, từ đó, vì có chút tiền bạc và quyền hành, lại là vợ của một khoa học gia thế giá, và ̶ có lẽ lý do tự tiềm thức này là lực đẩy âm ỉ mà mạnh mẽ nhất ̶ vì nỗi ẩn ức tích chứa nhiều năm tháng cực nhục xưa trong cuộc hôn nhân đầu thất bại với ông chồng nhậu Bắc 75, nên lúc nào không hay, Bích Vân đã trở thành người đàn bà lên mặt hống hách và ghê gớm với mọi người, nhất là với các nhân viên dưới quyền.

Lại còn óc kỳ thị Bắc 75 ra mặt, mặc dầu mẹ và anh chị em Bích Vân cũng 75 rặt ! Ai đến xin việc mà chợt nghe giọng 75 là Bích Vân ‘cám ơn’ liền tức khắc, khỏi cần hỏi han thêm !

Thói kỳ thị đến cực đoan và kênh kiệu kiêu kỳ đến phát ghét ấy khiến hầu như không còn ai ưa nổi Bích Vân nữa, ngay cả cha mẹ và những người anh em ruột thịt. Thêm vào đó, gia đình lại rất nặng thành kiến với hạng ‘gái hai chồng’. Cha Bích Vân cứ chợt nghe ai nhắc đến Bích Vân là tức khắc nổi xung và xua như xua tà, rất cay độc : “Dẹp nó đi giùm ! Cái con quỷ ấy ma nó thương !”

Những người làm khoa học thường rất khiêm tốn, bởi càng đi vào chuyên môn thì càng thấy thiên nhiên mênh mông như vô tận và những khám phá của mình thật không bằng hạt cát bãi biển. Cho nên chẳng mấy ai ngạc nhiên khi cuộc hôn nhân thứ hai của Bích Vân lại cũng đổ vỡ. Nhưng Bích Vân rêu rao : “Ông ấy tiền như nước, nhưng giấu vợ. Có mà giấu đàng giời !...” Cũng chỉ là một cách để thanh minh, vuốt mặt. Cho đỡ bẽ bàng !

Chứ một mình trở lại với mình, Bích Vân thấy hụt hẫng nhiều khi bạn bè, quen biết lần lượt quay lưng. Hụt hẫng sâu khi cha mẹ, người thân cũng từ rẫy. Hụt hẫng đến chao đảo quay cuồng khi bao nhiêu quí trọng, mến thương, tự hào và cả kiêu hãnh nữa đặt hết vào người chồng thần tượng bỗng lao dốc không phanh và sụp đổ tan tành… !

Bích Vân tự thấy không cách chi sống ở thành phố này, đất nước này được nữa, cho dẫu có muốn làm lại từ đầu, từ suy nghĩ đến hành động…

Nhưng đi đâu bây giờ và làm sao đi được ???

Bé đến lớn, chưa bao giờ Bích Vân tơ tưởng ba cái chuyện gọi là tâm linh. Nhưng không hiểu sao tới bước đường cùng này thì cái tâm cứ bị réo gọi, tiếng gọi ở đâu vô thanh, người gọi từ đâu vô hình : “Đền Đức Mẹ! Đền Đức Mẹ đi !” Lòng chộn rộn, chân rảo bước. “38 Kỳ Đồng !”… Xuống taxi, Bích Vân tiến thẳng vào nơi trước đây đã nhiều lần tình cờ mắt chợt thấy người người lũ lượt kéo đến nhưng lòng chỉ thoáng một nỗi thương hại nhạt mờ cho đám đông khờ dại !

Hôm nay thì Bích Vân lại đang thương hại chính mình, nỗi thương hại thấm thía, da diết, xoắn vặn, não nề, chẳng thể kể cùng ai ! Bốn mươi mấy năm cuộc đời. Bao nhiêu mơ ước. Bao nhiêu đeo đuổi. Tự mình xây đắp. Tự mình đạp đổ. Cũng còn được nắm tiền. Nhưng cõi lòng và danh dự đã tan hoang ê chề bởi bằng ấy những dè bỉu, khinh khi, ruồng rẫy… ! Bích Vân giàn giụa nước mắt thương thân tủi phận tự bao giờ !

“Đức Mẹ ơi ! Đức Mẹ ơi !... Cha con nguyền rủa con. Mẹ con không buồn nhìn mặt… ! Chỉ còn Đức Mẹ. Chỉ còn Đức Mẹ, nếu như có Chúa… ! Mà không, phải có Chúa chứ !… Trời kia lồng lộng, biển kia mênh mông, thì lòng Chúa cũng phải bao dung vô bờ, phải khác xa lòng người trần thế…”

Cứ thế, Bích Vân miên man, miên man… Lần đầu tiên trong đời Bích Vân quì gối chắp tay gục đầu giữa hàng trăm những người tin thành khẩn. Cũng chẳng rõ Bích Vân thưa gì với Chúa. Cũng không hẳn Bích Vân dám khấn hứa gì với Đức Mẹ… Nhưng rõ ràng là lòng Bích Vân đã vơi nhẹ lạ kỳ. Rõ ràng là cuộc đời Bích Vân đã có nơi gửi gắm, bám víu, có chỗ náu nương, cậy nhờ…

Đầu óc Bích Vân từ hôm ấy cứ dần dần sáng ra… Cơ hội đến. Bích Vân chụp lấy. Tình cờ mà hẳn chẳng tình cờ, một mình Bích Vân thầm hiểu do đâu. Rồi giấy tờ xúc tiến. Khung trời Âu hiện rõ phía trước và ngày mỗi gần hơn.

Nơi Bích Vân chọn định cư sẽ rất lạ, rất mới, nhưng cũng sẽ giúp Bích Vân làm mới mọi sự, làm mới cuộc đời, làm mới cả nếp nghĩ và lối sống.

Khí hậu bên ấy dịu hiền. Xã hội người ta văn minh. Con người xứ họ trọng con người. Bích Vân rắp tâm sẽ tập tôn trọng yêu thương từng con người. Vì bản thân mình ngang ngược, phách lối, đủ thứ tội, đến nỗi cha mẹ, anh em cỏn ghét bỏ, tránh xa, thế mà Chúa trên cao chẳng chấp chẳng từ, vẫn yêu thương chiều chuộng, vẫn rộng lượng khoan dung, lại còn ban như ý mình mong, như lòng mình thầm ước, dầu miệng mình chẳng dám nguyện thành lời…

Bích Vân quyết định.

Lần đầu tiên tiếp xúc với một linh mục, nhưng gần gũi tấm lòng thì cứ như đã từ lâu lắm. Bích Vân kể hết đời mình như lý do tại sao mình tìm đến với ngài. Chẳng phải dè giữ, chẳng phải bao biện hay đậy điệm giấu giếm, dẫu nhiều chuyện nào có hay ho gì.

Sau khi tận tình và chú ý lắng nghe, người linh mục bộc bạch niềm xác tín rất bản thân cả đời hằng trân trọng và ôm ấp trong lòng. Bài giáo lý khai tâm tự phát ấy chỉ xoáy quanh một sứ điệp muốn truyền tải :

Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có CHÚA đón nhận con (Tv 27,10).

Bích Vân hạnh phúc vô cùng với những chia sẻ tiếp theo ngày càng như xuống tận gốc lên tận ngọn và soi vào nhiều ngóc ngách chi li của chân lý Tình Thương bao quát ấy.

Bích Vân tin vào ĐẠO, bởi nguồn cơn xô đẩy Bích Vân đến với ĐẠO là chính kinh nghiệm đau thương của bản thân mình và bởi những bài giáo lý vững vàng về ĐẠO Tình Thương giúp Bích Vân nhận ra và cảm nghiệm nơi chính mình rằng : ĐẠO, với cây thánh giá chiến thắng rỡ ràng của Đấng mở ĐẠO, đã và sẽ còn mở ra cho Bích Vân hết mọi đường cùng ngõ bí. Bởi ĐẠO chính là ĐƯỜNG !

Khi phải tìm người đỡ đầu rửa tội, chị Ánh Vân là người Bích Vân nghĩ tới liền tức khắc. Cũng đã hơi lâu, từ ngày Bích Vân ăn nên làm ra, chị không còn mấy lúc lui tới với Bích Vân nữa. Nhưng chị nhận lời Bích Vân ngay, rất cảm động và vui mừng vì được chứng nghiệm thật cụ thể về Lòng Thương Xót lạ lùng Thiên Chúa dành cho một con người. Theo mẹ, và cùng lượt với mẹ, hai cậu con trai cũng được đón nhận Lòng Thương Xót ấy.

Nay thì Bích Vân đã khá ổn định bên xứ người cạnh cậu con có với người chồng sau. Cậu con người chồng trước du học Tân Tây Lan về thì làm ngành du lịch, chứ không giúp được hai việc mẹ cần : bán cho hết số khá lớn những sản phẩm đắt tiền còn lại do xưởng tranh đóng cửa vội và quản lý toàn bộ nhiều khu nhà cho thuê tại những khu phố sang trọng. Cả hai việc quan trọng này, Bích Vân tín nhiệm nhờ hết chị Thu Mai, công nhân lâu năm của xưởng.

Chị Thu Mai người Công Giáo, biết chị Ánh Vân qua Bích Vân, thỉnh thoảng vẫn ghé và lần nào cũng nhắc như một điều thật cần thiết và lòng chị cũng rất thiết tha : “Thương lấy cô Bích Vân, chị Ánh Vân nhé, chứ bên này, ngoài thằng con non trẻ, chẳng ai buồn thương cô ấy nữa đâu !…”

Phải chăng con đường dài dẫn Bích Vân về với Lòng Thương Xót nhiệm mầu của Thiên Chúa đã có ẩn hiện bóng hình nhiều khi rất đậm của hai con người được hồng phúc tiếp cận và thấm nhuần Lòng Thương Xót thần thánh ấy từ những ngày còn trong thai mẹ : hai chị Ánh Vân và Thu Mai ???

Đan Tâm

(Cốt chuyện thật. Viết theo lời kể của một người trong cuộc. Đã thay đổi các tên riêng)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đôi Mình Bên Nhau
Đặng Đức Cương
19:39 02/03/2016
ĐÔI MÌNH BÊN NHAU
Ảnh của Đặng Đức Cương
Em ước tình ta được vĩnh hằng
Luôn ngời rực sáng như vầng trăng
Trăm năm hạnh phúc...lòng mong muốn
Điều này có thể được hay chăng?
(Trích thơ của Sương Anh)
 
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 25/02– 02/03/2016: Kitô hữu phải sống chân thực
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:56 02/03/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Người nghèo chính là Thiên Chúa đang gõ cửa tâm hồn chúng ta

“Lòng tin đích thật sẽ giúp chúng ta nhìn thấy những người nghèo khổ. Chính ở đó, Đức Giêsu đang gõ cửa tâm hồn chúng ta.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, ngày 25 tháng 02, tại nguyện đường thánh Marta.

Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu đã nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn về một ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình và ông không nhận ra có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọn đầy mình, đang nằm trước cổng nhà ông. Khởi đi từ bài Tin Mừng đó, Đức Thánh Cha mời gọi mỗi người hãy tự hỏi mình xem: “Tôi là một Kitô hữu đang bước đi trên con đường giả dối, chỉ biết nói suông, hay tôi là một Kitô hữu đang bước đi trên con đường sự sống, tức là con đường của hành động, của thực hành?’ Ông nhà giàu kia chắc chắn đã tuân giữa tất cả mọi giới răn, mỗi ngày sa-bát đều đến hội đường và mỗi năm một lần đều lên đền thờ. Chắc chắn ông là một tín hữu sùng đạo.

Nhưng ông lại là một người khép kín, tự khóa mình trong một thế giới nhỏ bé riêng tư – thế giới của những ngày yến tiệc linh đình, của lụa là gấm vóc, của những phù phiếm sa hoa – một con người khép kín trong những bong bóng phù vân. Ông không có khả năng nhìn thấy những điều khác nhưng chỉ bó hẹp trong thế giới riêng của mình. Ông không nhận thấy những gì đang diễn ra bên ngoài thế giới đóng kín của ông, không nghĩ đến nhu cầu của rất nhiều người và sự cần kíp của biết bao kẻ đang ốm đau, bệnh tật. Ông chỉ nghĩ đến mình, đến sự giàu sang và cuộc sống êm ấm của mình.

Đức Thánh Cha nói thêm:

Ông nhà giàu rõ ràng là một tín hữu mộ đạo, nhưng lại không nhìn thấy những con người khốn khổ xung quanh. Bởi vì ông đóng kín trong chính mình. Có những người đang ở ngay trước cổng nhà nhưng ông không hề nhìn thấy. Ông đã bước đi trên con đường dẫn đến sự giả dối, vì ông chỉ tin tưởng vào chính mình, vào của cải của mình chứ không hề đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Như thế, ông chẳng để lại cho đời được gia sản gì. Và một điều khiến chúng ta tò mò là ông không hề có tên tuổi. Tin Mừng chỉ đề cập đến ông bằng một tính từ chung chung: ‘ông nhà giàu kia’. Như thế, tên tuổi của chúng ta cũng sẽ tiêu tan đi, chỉ còn là một tính từ mô tả nếu chúng ta mất đi căn tính và sức mạnh nội tâm của mình.

Ông nhà giàu là hình ảnh tượng trưng cho những người giàu có, quyền lực, có thể làm được mọi chuyện. Ông cũng là hình ảnh của những linh mục chức nghiệp, của những giám mục chức nghiệp. Nhiều lần trong đời, có những người xuất hiện với chúng ta chỉ bằng những tính từ mô tả chứ không phải bằng tên, vì họ không còn căn tính nữa, giống như ông nhà giàu trong Tin Mừng. Nhưng tôi tự hỏi: ‘Thiên Chúa là Cha nhân từ có dủ lòng thương xót ông nhà giàu này không? Thiên Chúa có gõ cửa đánh động tâm hồn ông không?’ Tôi nghĩ là có. Ngay trước cửa nhà ông, Chúa đã gởi đến La-da-rô, một người có tên tuổi. Anh La-da-rô với những khó khăn, thiếu thốn và bệnh tật chính là Thiên Chúa đang gõ cửa nhà ông. Nếu ông biết mở cửa, lòng thương xót Chúa sẽ đi vào. Nhưng không! Ông đã không nhìn thấy anh La-da-rô khốn khổ này. Ông đã đóng kín mình lại. Đối với ông, bất cứ ai, bất cứ điều gì ở bên ngoài cánh cửa thì chẳng là gì hết.

Chúng ta đang ở trong Mùa Chay Thánh. Và thật là hữu ích nếu chúng ta cũng biết hỏi mình rằng: ‘Tôi đang bước đi trên con đường sự sống hay con đường dẫn tới giả dối? Đã bao nhiêu lần tôi đóng cửa tâm hồn mình lại? Đâu là niềm hoan lạc của tôi: nói suông hay hành động? Tôi có dám bước ra khỏi chính mình để gặp gỡ và giúp đỡ tha nhân không? Bởi vì đó chính là hành vi của lòng thương xót. Hay niềm vui của tôi là tất cả mọi sự đã được định sẵn rồi và tôi tự đóng kín trong chính mình?’

Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn được nhìn thấy những La-da-rô trong cuộc đời hiện tại của chúng ta, đang nằm trước cửa nhà chúng ta. Những anh La-da-rô ấy đang gõ cửa tâm hồn chúng ta. Và nếu chúng ta biết mở cửa và bước ra khỏi chính mình với lòng quả đại và thái độ cảm thương, thì lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ đi vào tràn ngập tâm hồn chúng ta.”

2. Câu chuyện: Vàng Bạc Trong Tro Bụi

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong kinh điển Phật giáo, có ghi lại câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Có một người giàu có và tham lam nọ bỗng thấy tiền bạc của cải của mình biến thành tro bụi. Người đó đau buồn đến độ không còn thiết gì đến ăn uống nữa. Hay tin ông đau liệt, một người bạn tìm đến thăm. Sau khi đã tìm ra nguyên nhân của căn bệnh, người bạn đã nói như sau: “Anh đã không biết sử dụng của cải của anh. Chính vì thế mà anh càng thu tích, thì của cải của anh càng trở thành tro bụi. Xin anh hãy nghe lời khuyên sau đây của tôi: anh hãy đưa cả đống tro bụi vào hiệu buôn của anh. Anh ngồi trên đó và rao bán cho mọi người”.

Người giàu có làm theo lời khuyên của người bạn. Ông ngồi trên đống tro và rao hàng. Có người hỏi tại sao ông bán tro, ông trả lời như sau: “Ðây là tất cả tài sản của tôi”.

Một ngày kia, có một em bé gái mồ côi đi qua trước cửa hiệu. Em nghèo nhưng trong lòng không hề vương vấn đối với của cải. Thấy người giàu có ngồi trên đống tro, em bé mới nói: “Thưa ngài, ngài không biết là ngài đang bán vàng và bạc đó sao?”. Ngạc nhiên trước lời nói chân thành của em bé, người đàn ông mới thành khẩn van xin: “Xin cháu hãy chỉ cho chú biết đâu là vàng, đâu là bạc trong đống tro này?”. Ðứa bé đưa tay bốc lên một nắm tro. Tức khắc vàmg hiện lên trên đôi tay em trước sự ngạc nhiên của người giàu có.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Sự vật luôn có hai mặt. Kẻ tham lam nhìn vào chỉ thấy tro bụi và những của cải chóng qua ở đời này, trái lại người có tâm hồn trong sạch sẽ nhìn thấy được những giá trị vĩnh cửu. Kẻ bi quan nhìn vào sự vật sẽ chỉ nhìn thấy bóng tối, nhưng người lạc quan lại nhìn thấy ánh sáng và vẻ cao đẹp của sự vật. “Hãy thử nghĩ đến những sự vật trên trời”: đó là lời khuyên vàng ngọc của Thánh Phaolô. Tưởng nghĩ đến những sự trên trời không có nghĩa là sống trong thế giới của mơ mộng, ảo tưởng mà trái lại là sống tích cực trong thế giới này, sống bằng đôi mắt luôn tỉnh thức để nhìn ra chiều kích vĩnh cửu của cuộc sống, sống bằng tâm hồn trong sạch để nhận ra được những giá trị cao đẹp của cuộc sống. “Ðầu đội trời nhưng chân đạp đất”: đó là thế đứng đích thực của con người. Cắm rễ trong lòng cuộc sống này, nhưng vẫn luôn hướng nhìn về trời cao. Sống một cách trọn hảo trong từng phút giây của cuộc sống. Sống với tất cả trân trọng từng sinh hoạt hằng ngày. Sống với cái thường nhật của tất cả tin yêu, cảm mến... Ðó chính là cách sống của người có niềm tin.

3. Thiên Chúa chân thực nhưng nhiều Kitô hữu lại giả dối

“Kitô giáo là một tôn giáo chân thực, thi hành những công việc tốt lành chứ không phải là một tôn giáo chỉ biết nói suông, làm những việc giả hình và tìm kiếm hư danh.” Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Ba, 23 tháng 02, tại nguyện đường thánh Marta.

Đời sống Kitô là một điều chân thực. Thiên Chúa cũng hết sức chân thực. Nhưng có nhiều Kitô hữu lại giả dối và ăn nói ba hoa chứ không hề dấn thân lãnh trách nhiệm; thích tìm kiếm hư danh chứ không khiêm nhường phục vụ những người nghèo hèn nhất.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Isaia và bài Tin Mừng theo thánh Mathêu, một lần nữa, Đức Thánh Cha giải thích về mối biện chứng Tin Mừng giữa lời nói và việc làm. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến những lời của Đức Giêsu khi Ngài vạch trần bộ mặt giả hình của các kinh sư và người Pha-ri-sêu, đồng thời mời gọi các môn đệ và đám đông dân chúng hãy làm tất cả những gì họ nói, còn những việc họ làm thì đừng có làm theo.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng:

“Thiên Chúa dạy cho chúng ta cách thức để hành động. Nhiều lần ta đã thấy người này người kia, và ngày cả chúng ta, nói rằng: ‘Ồ, tôi là người Công Giáo. Đạo gốc ấy!’ Nhưng thực tế họ đã làm gì? Họ đã đã sống như thế nào? Có nhiều bậc cha mẹ miệng thì nói mình là người Công Giáo nhưng thực tế lại chẳng có thời gian để trò chuyện với con cái, để chơi đùa với chúng và để lắng nghe những tâm tình của chúng. Có nhiều người con đã gởi gắm cha mẹ mình vào viện dưỡng lão, và bận rộn đến nỗi chẳng còn thời gian để có thể thăm viếng cha mẹ nữa. Họ bỏ mặc cha mẹ trong cô đơn buồn tủi. Trên môi miệng, họ có thể nói mình là người Công Giáo, và thuộc về Giáo Hội. Nhưng thực chất, thứ Giáo Hội mà họ thuộc về là một tổ chức chỉ biết nói suông mà thôi: ‘Tôi nói tôi là người Công Giáo như thế này như thế kia, nhưng thực tế tôi lại hành xử theo tinh thần thế gian.’

Nói mà không làm là dối trá. Những lời của tiên tri Isaia đã chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thích điều gì: ‘Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện. Sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ.’ Những lời này cũng đồng thời diễn tả lòng thương xót vô cùng vô tận của Thiên Chúa, vì quả thực Ngài đã nói với con người rằng: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết.’

Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ tuôn trào ra với những ai có can đảm để tranh luận với Chúa, nhưng tranh luận phải dựa trên sự thật, dựa trên những gì mà tôi đã làm hoặc không làm, để nhờ đó mà tôi được sửa đổi. Và đây cũng chính là lòng yêu thương hải hà của Thiên Chúa, trong mối tương quan biện chứng giữa lời nói và việc làm. Là một Kitô hữu có nghĩa là làm, là thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Trong ngày cuối cùng – tất cả chúng ta đều sẽ có ngày đó – ngày mà chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa, Ngài không hỏi chúng ta đã nói với người khác điều gì về Ngài hay giảng dạy điều gì nhưng là hỏi chúng ta đã làm gì.

Lúc ấy Thiên Chúa sẽ hỏi từng người về những gì họ đã làm hoặc không làm cho những người đói khát, bị cầm tù, đau yếu và bị bỏ rơi. Đời sống Kitô là biết làm những điều cụ thể nho nhỏ nhưng tốt lành. Trái lại, lời nói suông chỉ mang lại hư danh, phù phiếm và đó là một thứ Kitô hữu nửa vời, giả bộ; chứ không phải một Kitô hữu đích thật.

Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để có thể hiểu đâu là sự khác biệt giữa nói và làm, và cũng xin Chúa dạy cho chúng ta cũng biết làm, biết thi hành, vì lời nói suông sẽ biến chúng ta thành những kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình thích ngồi trên tòa cao, đeo những hộp kinh thật lớn và mang những tua áo thật dài. Họ nói thật nhiều, giảng thật hay nhưng lại không buồn động ngón tay vào lay thử. Thái độ đó không am hợp với Tin Mừng. Xin Chúa dạy mỗi người chúng ta hãy biết làm, biết thực thi thánh ý Chúa.”
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 25/02 – 02/03/2016: 10 năm Thông Điệp Deus Caritas Est
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:05 02/03/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Thượng viện Ý đã thông qua luật hợp thức hóa “hôn nhân đồng tính” với tỷ số áp đảo

Trong một cuộc bỏ phiếu với tỷ số áp đảo 173-71, Thượng viện Ý đã thông qua luật hợp thức hóa “hôn nhân đồng tính”.

Dự luật được thông qua sau khi những người bảo trợ cho dự luật loại bỏ một điều khoản theo đó các cặp đồng tính được nhận con nuôi hợp pháp.

2. Các nhà ngoại giao Vatican đối diện với những thách đố chưa từng có

Các nhà ngoại giao Vatican sẽ phải “thực hiện những nỗ lực chưa từng có” để đạt được hòa bình trong những điều kiện mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã mô tả như là một “thế chiến thứ ba từng mảnh”, Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher cho biết như trên trong một cuộc phỏng vấn với Catholic News Service.

Vị Tổng Giám Mục người Anh, là Tổng Trưởng Bộ Quan Hệ Với Các Dân Nước, đã nói về vai trò của các sứ thần Tòa Thánh, và sự tham gia của Vatican trong các cuộc khủng hoảng trên thế giới. Phát biểu đặc biệt về cuộc chiến tại Syria và Iraq, ngài bày tỏ hy vọng một thỏa thuận ngừng bắn mong manh ở Syria có thể được thực hiện, “và trong những ngày sắp tới sẽ có một cuộc ngưng bắn để tạo ra các hành lang nhân đạo” cho phép cứu trợ dân thường.

Các thỏa thuận ngừng bắn ở Syria không ảnh hưởng đến cuộc chiến chống lại quân khủng bố Hồi Giáo IS. “Chúng ta không đàm phán với Daesh,” Đức Tổng Giám Mục nói. Daesh là từ Ả rập chỉ quân khủng bố Hồi Giáo IS.

Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng các nhà ngoại giao Vatican là những người lo lắng thúc đẩy đối thoại giữa các tôn giáo với các bên có trách nhiệm, để giúp họ tránh “sự diệt vong và hủy diệt quê hương mình.”

3. Đức Thánh Cha tiếp Đức Thượng Phụ Chính Thống Etiopi

Đức Thánh Cha đề cao chứng tá tử đạo của Giáo Hội Chính Thống Etiopi và kêu gọi các nhà cầm quyền chính trị thăng tiến sự sống chung hòa bình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 29 tháng Hai, dành cho Đức Thượng Phụ Chính Thống Etiopi, Abuna Matthias I, và phái đoàn đến viếng thăm Tòa Thánh.

Sau khi nhắc đến bao nhiêu yếu tố chung giữa Công Giáo và Chính Thống Etiopi trong đức tin, truyền thống đan tu và phụng vụ, Đức Thánha Cha nói rằng:

“Giáo Hội anh chị em là một Giáo Hội của các vị tử đạo ngay từ đầu, và ngày nay anh chị em vẫn còn chứng kiến bạo lực tàn phá chống các tín hữu Kitô và các nhóm thiểu số khác tại Trung Đông và một số miền ở Phi châu. Một lần nữa chúng ta không thể không yêu cầu những người nắm vận mạng chính trị và kinh tế thế giới thăng tiến một sự sống chung hòa bình dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và hòa giải, trên sự tha thứ và liên đới”.

Đức Thánh Cha ca ngợi nỗ lực của đất nước Etiopi đang thực hiện để cải tiến cuộc sống của dân chúng và xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn, dựa trên chế độ Nhà nước pháp quyền, và trên sự tôn trọng vai trò của phụ nữ. Ngài đặc biệt nhắc đến vấn đề thiếu nước với những hậu quả trầm trọng về mặt xã hội và kinh tế.

Sau cùng Đức Thánh Cha nói thêm: “Chúng ta ý thức rằng lịch sử đã để lại một gánh nặng với những hiểu lầm đau thương và nghi kỵ, chúng ta xin Chúa tha thứ và chữa lành. Chúng ta cầu nguyện cho nhau, cầu xin sự phù hộ của các vị tử đạo và của các thánh trên tất cả những tín hữu được ủy thác cho sự chăm sóc mục vụ của chúng ta”

Giáo Hội Chính Thống Etiopi hiện có khoảng 35 triệu tín hữu, và giao hảo với Giáo Hội Công Giáo từ lâu.

4. Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về bác ái

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu và các tổ chức từ thiện bác ái của Giáo Hội ngày càng biểu lộ chân lý Thiên Chúa yêu thương con người!

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26 tháng 2, dành cho 200 tham dự viên Hội nghị quốc tế do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, nghĩa là Đồng Tâm, tổ chức tại Vatican, với chủ đề “Đức bác ái không bao giờ tàn. Các viễn tượng 10 năm sau Thông điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa là tình thương), của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16.

Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Thông điệp 'Thiên Chúa là Tình Thương' nhắc nhở chúng ta rằng đức bác ái muốn được phản ánh ngày càng nhiều hơn trong đời sống của Giáo Hội. Tôi mong ước sao cho mỗi người trong Giáo Hội, mỗi tổ chức, mỗi hoạt động đều biểu lộ sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người! Sứ mạng mà các tổ chức bác ái chúng ta thi hành là điều quan trọng, vì giúp đưa bao nhiêu người nghèo tiến tới một cuộc sống xứng đáng hơn, nhân bản hơn, đó là điều rất cần thiết, nhưng sứ mạng này cũng đặc biệt quan trọng, vì không phải bằng lời nói, nhưng bằng tình thương cụ thể, làm cho mỗi người cảm thấy mình được Thiên Chúa Cha, Chúa Con yêu thương, và vận mạng của họ là được sự sống đời đời cùng với Thiên Chúa”.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng “Mỗi hình thức yêu thương, liên đới, chia sẻ của chúng ta chỉ là một phản ánh tình thương là chính Thiên Chúa. Chúa không bao giờ mệt mỏi đổ trong việc tràn tình thương của Người trong chúng ta và chúng ta được kêu gọi trở thành chứng nhân về tình thương ấy trên thế giới. Vì thế chúng ta phải nhìn tình thương của Thiên Chúa như địa bàn hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, trước khi dấn thân trong mỗi hành động. Tại đó chúng ta tìm được phương hướng, từ đó chúng ta học cách phải nhìn anh chị em và thế giới như thế nào”.

Hội nghị diễn ra trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót với mục đích cứu xét và đào sâu những viễn tượng thần học và mục vụ của Thông điệp đối với thế giới ngày nay, đặc biệt trong tương quan với công việc của những người hoạt động trong lãnh vực từ thiện bác ái của Giáo Hội. Tham dự Hội nghị này có đại diện của các Hội Đồng Giám Mục và các tổ chức bác ái Công Giáo quốc tế. Từ Việt Nam có Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, Giám Mục Phụ tá giáo phận Long Xuyên.

Lúc 9 giờ sáng 25 tháng 2, trong buổi khai mạc, sau lời chào của Đức Ông Giampietro Dal Toso, Tổng thư ký Hội đồng Cor Unum, Đức Hồng Y Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, đã thuyết trình mở đầu về đề tài: “Thông điệp Thiên Chúa là Tình Thương: đọc dưới khía cạnh thần học”. Tiếp theo đó là các bài tham luận của một số nhân vật như ông Michel Thio, Chủ tịch Liên hiệp quốc tế các Hội bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô. Ban chiều có những bài tham luận của các vị đại diện các tôn giáo độc thần như Do thái giáo, Hồi giáo, v.v.

Ngày 26 tháng 2, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila, Chủ tịch Caritas quốc tế, nói về đề tài: “Tầm quan trọng của Thông điệp “Thiên Chúa là tình thương” đối với việc phục vụ bác ái của Giáo Hội ngày nay”. Sau đó là phần trình bày chứng từ.

Ban chiều ngày 26 tháng 2, có một số bài tham luận khác, trước khi có thánh lễ tại nhà nguyện Học viện Đức quốc ở Nội thành Vatican do Đức Hồng Y Paul Cordes, nguyên chủ tịch Hội đồng Cor Unum chủ sự.

5. Dòng Anh Em Hèn Mọn tại Ấn Độ tìm cách xin trả tự do cho tối thiểu 1,000 tù nhân trong Năm Thánh Lòng Thương Xót

Như một cử chỉ cụ thể trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Tỉnh Dòng Anh Em Hèn Mọn Ấn đã thông qua một dự án tìm cách bảo lãnh cho tối thiểu 1,000 tù nhân được trả tự do trong năm 2016 này.

Trong các cuộc đàm phán với các quan chức dân sự, các tu sĩ Phanxicô sẽ tập trung vào những “người sống mòn mỏi trong các nhà tù trong nhiều năm qua vì những tội không nghiêm trọng như tội trộm cắp”. Trang tin tức trực tuyến MattersIndia.com đã cho biết như trên.

6. Đức Thánh Cha viếng thăm Trung Tâm cai nghiện “Thánh Carlo”

Chiều thứ Sáu 26 tháng 2, Đức Thánh Cha đã đến viếng thăm một trung tâm cai nghiện ma túy và nói chuyện trong 2 tiếng đồng hồ với 60 người gồm các bạn trẻ đang cai nghiện, các nhân viên và những người thiện nguyện.

Cuộc viếng thăm không được thông báo trước cho báo chí và nằm trong khuôn khổ một việc bác ái Đức Thánh Cha thực hiện mỗi tháng 1 lần vào ngày thứ 6 trong Năm Thánh Lòng thương xót.

Trung tâm cai nghiện mang tên thánh Carlo và tọa lạc gần Castel Gandofo, cách Roma khoảng 25 cây số và thuộc tổ chức “Trung tâm Italia Liên đới”, gọi tắt là CES, của cha Mario Picchi. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cũng đã viếng thăm tại đây.

Tháp tùng Đức Thánh Cha trong cuộc viếng thăm có Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng là cơ quan đặc trách về Năm Thánh Lòng thương xót.

Cuối cuộc viếng thăm, Đức Thánh Cha đã tặng cho mỗi người hiện diện tấm ảnh Đức Mẹ Lujan bổn mạng Á Căn Đình. Biến cố này gây ngạc nhiên và vui mừng rất lớn cho mọi người ở Trung Tâm.

Một tham dự viên kể với phái viên đài Vatican: “Đức Giáo Hoàng bước vào cổng Trung Tâm mà không ai biết gì. Đó thực là một cuộc gặp gỡ rất cảm động, cùng với những tiếng cười vui, những câu hỏi của các bạn trẻ và những câu trả lời sâu xa của Ngài về đức tin, về Tin Mừng, sự đau khổ. Ngài đã thực sự mang lại lòng từ bi thương xót, lòng can đảm và khích lệ vào Trung tâm này, từ nhiều năm vẫn hoạt động để giúp các bạn trẻ nghiện ngập cai nghiện và tái hội nhập vào xã hội.”

Đức Thánh Cha khuyến khích các bạn trẻ đừng để “ung thư ma túy” chiếm đoạt và làm tiêu hao. Ngài nhắc nhở họ rằng con đường họ đã bắt đầu ở trung tâm này là một cơ hội đích thực để bắt đầu lại một cuộc sống đáng sống.

Trong cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha cũng ăn pizza với mọi người.

7. Giáo Hội Chính thống Nga muốn mở cửa các địa điểm hành hương cho người Công Giáo.

Người ta thường chỉ nhận định cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Ðức Thượng phụ Kirill hôm 12 tháng Hai vừa qua tại La Havana, Cuba theo góc độ địa chính trị, nhưng cuộc gặp gỡ lịch sử này có thể có những hệ quả khác về mặt thiêng liêng. Cụ thể là các Ðền thánh của Giáo Hội Chính thống Nga sẽ được mở cửa vào cuối năm nay cho khách hành hương Công Giáo kính viếng.

Ðài phát thanh Vatican đã trích lại tuyên bố trên của Tổng giám mục Hilarion trong một cuộc phỏng vấn. Tổng giám mục Hilarion hiện đang là Trưởng ban Ðối ngoại của Toà Thượng Phụ Mạc Tư Khoa, trách vụ do chính Ðức Thượng phụ Kirill đảm nhiệm từ năm 1989 đến năm 2009.

Theo gương của Bari ở miền Nam Italia, nơi lưu giữ thánh tích của Thánh Nicôla được nhiều người Chính thống đến kính viếng, Tổng giám mục Hilarion cũng mong muốn có thêm nhiều cuộc hành hương qua lại giữa Chính thống giáo và Công Giáo. “Chúng ta cần phải đẩy mạnh các làn sóng hành hương này, ngài nhấn mạnh, bởi vì điều quan trọng là các tín hữu của hai Giáo Hội gặp gỡ nhau và đến viếng các Ðền thánh của nhau”.

Các Giáo Hội Ðông phương rất có lòng sùng kính Thánh Nicôla. Nhiều bàn thờ của các nhà thờ tại Nga đã được dâng kính Thánh Nicôla. Thánh Nicôla từng là giám mục Myra trên bờ biển phía Tây Nam của Anatolia vào thế kỷ IV. Khi Thổ Nhĩ Kỳ bị người Seljuk Hồi giáo xâm chiếm, các cư dân thành phố Bari của Italia quyết định đưa thánh tích của Thánh Nicôla về Bari để bảo đảm an toàn.

Ngày nay, thành phố Bari thu hút rất nhiều khách hành hương Chính thống giáo, đặc biệt là từ Nga. Mỗi năm, có nhiều phái đoàn của Giáo Hội Chính thống cùng tham gia hành hương với người Công Giáo Roma trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ đại kết; điều này đóng vai trò thúc đẩy việc xây dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính thống Nga.

8. Cha Raniero Cantalamessa trình bày bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ hai cho các thành viên của Giáo triều Rôma

Sáng thứ Sáu 26 tháng Hai, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng là Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchin Phanxicô đã trình bày bài giảng Mùa Chay thứ hai cho các thành viên của Giáo triều Rôma tại nhà nguyện Redemptoris Mater.

Tiếp tục những suy tư của ngài về các tài liệu quan trọng của Công đồng Vatican II, Cha Cantalamessa nói về ý nghĩa của Lời Chúa qua các văn bản của Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa có tựa đề là “Dei Verbum”.

Thứ Sáu tuần trước, cha Raniero Cantalamessa, đã dành bài giảng tĩnh tâm tuần thứ Nhất Mùa Chay của ngài cho chủ đề “Thờ phượng trong thần khí và trong sự thật: Những suy tư về Hiến Chế Sacrosanctum Concilium,” nghĩa là Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh của Công đồng Vatican II.

Dei Verbum là một trong bốn Hiến Chế của Công Đồng Vatican II, bàn về Mặc Khải, được bỏ phiếu ngày 8 tháng Chín, 1965 và được Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục long trọng công bố ngày 18 tháng 11 năm 1965. Hiến Chế gồm sáu chương bàn về : Bản tính Mặc Khải, Truyền thông Mặc Khải, Linh hứng và chú giải Kinh Thánh, Cựu Ước, Tân Ước, Kinh thánh trong đời sống Giáo Hội.

Bắt đầu với việc tìm hiểu cách thế Thiên Chúa đã phán qua các tiên tri trong Cựu Ước, Cha Raniero Cantalamessa đã đi dần đến cách thức Lời đã trở nên nhục thể nơi Chúa Giêsu Kitô.

Ngài đã tập trung những suy tư của ngài về việc đọc Kinh Thánh như một con đường để thánh hóa cá nhân, đặc biệt là thông qua việc thực hành “lectio divina” – nghĩa là “đọc sách thánh trong tinh thần cầu nguyện” vừa đọc vừa suy gẫm Thánh Kinh và đưa Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của chúng ta.

9. Một nhà lãnh đạo phò sinh Mễ Tây Cơ bị bắt ngay sau khi Đức Thánh Cha kết thúc chuyến tông du nước này

Một trong những nhà lãnh đạo phò sinh nổi bật nhất của Mễ Tây Cơ đã bị bắt giữ vì bị cáo buộc tội tham ô tiền từ tổ chức phò sự sống của mình.

Jorge Serrano Limon bị cáo buộc biển thủ quỹ của Ủy ban Pro-Life quốc gia. Đây là lần thứ ba ông bị cáo buộc tôi danh này. Hai lần đầu là vào năm 2003 và 2012. Cà hai lần trước ông đều được trắng án.

Lời buộc tội của chính phủ chống lại ông Serrano xuất phát từ một đơn khiếu nại rằng nhà lãnh đạo phò sự sống đã sử dụng kinh phí cho các hình thức ủng hộ sự sống chưa có giấy phép hoạt động của chính phủ. Đơn này được nộp vào tháng 10 năm 2015. Tuy nhiên, ông đã không bị bắt cho đến hôm 17 tháng 2 là ngày cuối cùng trong chuyến tông du Mễ Tây Cơ của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Sau khi trải qua ba ngày trong tù, ông Serrano đã được tại ngoại.

10. Các Giám Mục Công Giáo Canada âu lo về dự luật cho phép trợ tử

“Tự tử không phải là một phần của chăm sóc sức khỏe,” các giám mục Công Giáo Canada nói như trên trong một phản ứng trước một báo cáo của chính phủ đề xuất việc hợp pháp hóa trợ tự.

Bản báo cáo của một ủy ban liên ngành, đưa ra vào ngày 25 tháng Hai đã kêu gọi một hệ thống mới cho phép các bác sĩ hỗ trợ tự tử cho những bệnh nhân đang phải chịu những đau khổ về thể lý hay tâm lý. Ủy ban đề nghị cả việc mở rộng trợ tử cho các thanh thiếu niên được đánh giá là “còn vị thành niên chưa trưởng thành.” Cuối cùng, trong cố gắng tấn công các bệnh viện Công Giáo tại Canada; cũng như các nhân viên y tế có niềm tin tôn giáo chống lại việc trợ tử, báo cáo cho rằng tất cả các nhân viên y tế phải bị bắt buộc đề xuất với bệnh nhân lựa chọn được trợ tử, và tất cả các bệnh viện được chính phủ tài trợ phải cung cấp việc hỗ trợ tự tử.

Đức Giám Mục Douglas Crosby của giáo phận Hamilton, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Canada, đã đưa ra một câu trả lời thay cho hàng giáo phẩm nước này. Tuyên bố của ngài cho rằng bất cứ chính sách quốc gia nào cũng đều phải dựa trên sự bảo vệ cuộc sống con người và tôn trọng lương tâm cá nhân. Bản tuyên bố nhận thấy rằng ủy ban liên ngành đã không đánh giá đúng mức hiệu quả của việc chăm sóc làm giảm nhẹ những đau đớn và việc chăm sóc tại gia trong việc cung cấp sự thoải mái cho những người bị bệnh nan y.

Các giám mục kêu gọi một nỗ lực toàn quốc để ngăn ngừa tự tử. Trong khi lưu ý rằng vấn đề chủng tộc có một tương quan rất lớn với tỷ lệ tự tử, các Giám Mục nhận xét rằng: “Tỷ lệ tự sát là 5 đến 7 lần cao hơn trong số những thanh niên thổ dân so với các sắc dân khác, trong khi tỷ lệ tự tử trong giới trẻ thổ dân Inuit là một trong những tỷ lệ cao nhất trên thế giới, và ở mức 11 lần cao hơn so với mức trung bình tại Canada.”

11. Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn doanh nhân Italia

Đức Thánh Cha kêu gọi các doanh nhân và chủ xí nghiệp đặt con người ở trọng tâm các hoạt động của mình và cổ võ sự can dự của nhiều người vào công trình chung, kể cả những người yếu thế.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 27 tháng 2, tại Đại thính đường Phaolô 6 dành cho 7 ngàn doanh nhân và chủ xí nghiệp Italia. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử từ khi thành lập Liên hiệp các công nghệ Italia (Confindustria), một vị Giáo Hoàng tiếp kiến các thành viên tổ chức này.

Chiều thứ sáu 26-2 trước đó, cách doanh nhân đã tham dự một hội nghị tại Học viện Augustinianum cạnh Vatican về chủ đề “cùng nhau hành động”, do Liên hiệp các công nghệ Italia tổ chức, bàn về tương quan giữa luân lý đạo đức và lao công.

Đi từ chủ đề đó, Đức Thánh Cha nói: “cùng nhau hành động”, có nghĩa là đầu tư vào những dự án biết làm cho cả những người nhiều khi bị lãng quên hoặc lơ là được tham gia. Trong số những người ấy có các gia đình, và những thành phần yếu thế nhất và bị gạt ra ngoài lề, như những người già vẫn còn có thể diễn tả tài năng và nghị lực để cộng tác tích cực, nhưng nhiều khi họ bị gạt bỏ như những người vô ích và không sản xuất được... Và phải nói gì về tất cả những công nhân trong tiềm năng, nhất là những người trẻ, nhiều khi phải chịu tình trạng công ăn việc làm bấp bênh, hoặc bị thất nghiệp dài.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng: “Tất cả những lực lượng ấy có thể tạo nên sự khác biệt đối với một xí nghiệp đặt con người ở nơi trung tâm hoạt động của mình, đặt chất lượng tương quan của mình, sự dấn thân chân thành trong việc xây dựng một thế giới công bằng hơn, cho tất cả mọi người. Thực vậy, “Cùng nhau hành động” có nghĩa là bố trí công việc không phải trên một thiên tài đơn độc của một cá nhân, nhưng trên sự cộng tác của nhiều người, nói khác đi, đó là liên kết với nhau để đề cao những năng khiếu của tất cả mọi người, không bỏ qua đặc tính có một không hai của mỗi người. Nơi trung tâm của mọi xí nghiệp của anh chị em, cần có con người, không phải con người trừu tượng, lý thuyết, nhưng con người cụ thể với những ước mơ, những nhu cầu, hy vọng và cơ cực của họ”.

Cũng trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Đứng trước bao nhiêu hàng rào bất công, cô đơn, nghi kỵ và ngờ vực vẫn còn được người ta dựng lên thời nay, thế giới lao động, nơi mà anh chị em chiếm vị thế hàng đầu, được kêu gọi thực hiện những bước can đảm, để khẩu hiệu “họp nhau và cùng nhau hành động” không phải chỉ là một khẩu hiệu, nhưng là một chương trình cho hiện tại và tương lai.

“Ước gì con đường chủ yếu của anh chị em luôn luôn là công lý, từ bỏ mọi những lối đi tắt với những thứ tiến cử và thiên vị, những lệch lạc nguy hiểm do sự bất lương và thái độ thỏa hiệp dễ dàng. Ước gì qui luật tối thượng trong mọi sự là quan tâm đến phẩm giá của tha nhân, là giá trị tuyệt đối và không thể tùy tiện sử dụng. Ước gì chân trời vị tha này là đặc điểm trong sự dấn thân của anh chị em: nó sẽ làm cho anh chị em quyết liệt không để phẩm giá con người bị chà đạp nhân danh những đòi hỏi của việc sản xuất, che đậy sự thiển cận cá nhân chủ nghĩa, sự ích kỷ buồn thảm và sự khao khát lợi lộc. Ước gì xí nghiệp mà anh chị em đại diện luôn cởi mở đối với ý nghĩa bao quát của cuộc sống, giúp nó thực sự phục vụ công ích, với nỗ lực làm gia tăng và làm cho mọi người được hưởng những thiện ích của thế giới này”

12. Nhận định của cha Federico Lombardi, Phát ngôn viên Toà Thánh, về chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Mễ Tây Cơ

Trong phần sau chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một vài nhận định của Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Mễ Tây Cơ

Hỏi: Thưa cha, ngày 16 tháng 2 Đức Thánh Cha đã viếng thăm giáo phận Morelia là vùng đất đang sống thảm cảnh của bạo lực và tệ nạn buôn bán ma tuý. Cha có nhận xét gì về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha?

Đáp: Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đã là một cuộc gặp gỡ lớn của ngài với nhân dân Mễ Tây Cơ, không phải chỉ trong các biến cố lớn, nhưng cả dọc các đường phố và qua các phương tiện truyền thông xã hội đã theo dõi chuyến viếng thăm với rất nhiều chú ý tới tất cả những gì Đức Thánh Cha làm, từng phút một. Khẩu hiệu mà Đức Thánh Cha đã chọn cho chuyến công du này là “thừa sai của lòng thương xót và của hoà bình” tương xứng hoàn toàn với điều Đức Thánh Cha đang làm, bởi vì đây thực sự là một việc phục vụ tinh thần, mục vụ lớn lao, bao gồm cả các thực tại thê thảm mà người dân Mễ Tây Cơ đang sống trong xã hội hiện nay. Đó cũng là các vấn đề chúng ta đã nhắc tới nhiều lần và Đức Thánh Cha cũng liên tục đề cập tới: chúng liên hệ tới các cuộc di cư, tệ nạn buôn bán ma túy, buôn người, bạo lực… Nhưng Đức Thánh Cha nhắc tới chúng trong một viễn tượng của một mục tử. Đức Thánh Cha đã đưa ra một sứ điệp rất là trung thực với sứ mệnh của ngài, chú ý tới sự cụ thể của các vấn đề, và ngài phó thác giải pháp cho các giới chức trách nhiệm, mỗi người tuỳ theo chỗ đứng và nhiệm vụ của mình.

Hỏi: Thưa cha, trong buổi gặp gỡ giới trẻ Đức Thánh Cha đã định nghĩa họ là “niềm hy vọng và sự giầu có” của đất nước Mễ Tây Cơ. Đề tại này được lập đi lập lại nhiều lần trong chuyến viếng thăm. Đức Thánh Cha đặc biệt nghĩ tới giới trẻ cả trong việc rao giảng Tin Mừng một cách tốt đẹp hơn cho xã hội Mễ Tây Cơ. Riêng cha thì cha nghĩ sao?

Đáp: Tại Mễ Tây Cơ có các sinh hoạt mục vụ rất sinh động cho giới trẻ, nhưng cũng sinh động cho trẻ em nữa, với các dụng cụ, các phụ đới, các phương pháp tông đồ thích hợp. Và cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các trẻ em trong nhà thờ chính toà đã mang ý nghĩa này. Giới trẻ nằm trong viễn tượng của đức tin và cuộc sống kitô, của việc tham dự vào Giáo Hội, hay ngày mai Giáo Hội không còn nữa. Vì thế dấn thân và sự hiện diện của người trẻ cũng quan trọng cả trên bình diện Giáo Hội nữa, cũng như nó quan trọng trên bình diện xã hội.

Hỏi: Trong thánh lễ cử hành với các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh Đức Thánh Cha khuyến khích các vị “đừng chịu trận”. Các vị đã tiếp nhận sứ điệp này của Đức Thánh Cha như thế nào? Thưa Cha.

Đáp: Cũng rất giống như diễn văn Đức Thánh Cha đã nói với giới trẻ, nghĩa là vấn đề trong một xã hội có các khó khăn lớn, đó là phải tránh nản lòng và để cho mình bị thống trị bởi các sức mạnh đang tàn phá xã hội, đang khiến cho nó trở thành thối nát, người ta đang kiếm lời trên cái chết, trên bạo lực và việc sử dụng sai quyền lực. Vì thế với đề tài cầu nguyện, nhớ lại quá khứ tích cực và ơn gọi phục vụ tha nhân, Đức Thánh Cha khích lệ các tu sĩ: cả hai diễn văn cũng ít nhiều giống nhau.

13. Nhận định của Đức Cha Filipe Arizmendi Esquivel, Giám Mục giáo phận San Cristobal de las Casas về chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Mễ Tây Cơ

Chúng tôi cũng xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một vài nhận định của Đức Cha Filipe Arizmendi Esquivel, Giám Mục giáo phận San Cristobal de las Casas nơi Đức Thánh Cha đã viếng thăm hôm 15 tháng Hai.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha nghĩ gì về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha?

Đáp: Đây thật là một món quà Chúa ban. Một sự tế nhị của lòng thương xót Chúa đối với các dân tộc bị khinh miệt, lãng quên và gạt bỏ ngoài lề xã hội này. Họ đã tiếp nhận sứ điệp của Đức Thánh Cha với sức mạnh của con tim. Chính họ đã nói: “Chúng con cảm thấy được khích lệ tiến bước. Cám ơn Đức Thánh Cha đã nói rằng chúng con quan trọng, chúng con có giá trị, chúng con không phải là các đồ vật”. Chính Đức Thánh Cha đã nói rằng cần phải xin lỗi các thổ dân, bởi vì quá thường khi nền văn hóa của họ bị khinh rẻ. Các anh chị em thổ dân của chúng tôi đã đánh giá rất cao sự hiện diện của Đức Thánh Cha, các cử chỉ của ngài, kiểu ngài tiếp xúc với họ. Đã là sự kiện rất rất quan trọng các bài đọc, các văn bản và thánh ca đã được đọc và hát bằng các thứ tiếng của thổ dân. Đây là điều đã được các anh chị em thổ dân đánh giá rất cao. Chúng tôi cảm tạ Chúa vì chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha.

Hỏi: Giáo Hội Mễ Tây Cơ có được chuẩn bị để đương đầu với các thách đố Đức Thánh Cha đã đề nghị hay không, thưa Đức Cha?

Đáp:: Trong chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ Đức Thánh Cha đã đưa ra rất nhiều đề nghị, khích lệ và thách đố khác nhau. Đặc biệt là việc hội nhập văn hóa của Giáo Hội trong các cộng đoàn thổ dân; thách đố bảo vệ các quyền của các dân tộc thổ dân và bảo vệ quyền của Mẹ Đất. Đó là các thách đố mà chúng tôi sẵn sàng đương đầu. Chúng tôi đang làm việc… nhưng tôi có thể khẳng định rằng chúng tôi là một Giáo Hội dáp trả lại một cách toàn vẹn các thách đố mà Đức Thánh Cha để lại cho chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng để đương đầu với chúng như việc sống gần gũi với thổ dân. Chúng tôi sống với họ. Đó là cuộc sống thường ngày của chúng tôi. Và Đức Thánh Cha đã tới khích lệ chúng tôi tiến bước, bởi vì ngài biết là chúng tôi đang thực hiện điều này. Không phải chỉ trong giáo phận San Cristobal de las Casas mà thôi, nhưng trong rất nhiều vùng đất của châu Mỹ Latinh đều có nỗ lực lớn để đáp ứng mục vụ cho các thổ dân. Còn hơn thế nữa, Đức Thánh Cha cũng đã khích lệ chúng tôi bằng cách nói với chúng tôi rằng, từ nay trở đi việc chấp nhận bản văn phụng vụ sẽ không còn tuỳ thuộc giới chức của Bộ Phụng Tự nữa, nhưng tuỳ thuộc Hội Đồng Giám Mục chắc chắn là gần gũi hơn và sống các thực tại của các thổ dân. Điều này khích lệ chúng tôi rất nhiều. Đức Thánh Cha đã tới để trao một sắc lệnh chấp thuận tiếng nói Nahuatl là ngôn ngữ được nhiều ngưởi sử dụng nhất tại Mễ Tây Cơ như là tiếng mẹ đẻ. Sự kiện này khích lệ chúng tôi tất cả! Vì thế, chúng tôi sẽ tiếp tục con đường sống gần gũi với các cộng đoàn thổ dân có một nền văn hóa ngàn đời, trong đó có sự khôn ngoan lớn và một sự hiện diện lớn của Thiên Chúa.

14. Đức Thánh Cha tiếp tân tổng thống Á Căn Đình

Hôm thứ Bẩy 27 tháng Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp tân tổng thống Á Căn Đình là ông Mauricio Macri.

Một tuyên bố từ văn phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết các cuộc thảo luận của hai vị đã diễn ra thân mật. Tổng thống Macri nhậm chức vào tháng Mười Hai năm ngoái, và trước đây là Trưởng phòng chính phủ của thành phố tự trị Buenos Aires từ năm 2007 đến năm 2015. Trước đó, ông đại diện cho thành phố Buenos Aires trong Hạ Viện Á Căn Đình từ năm 2005 đến năm 2007. Đức Thánh Cha Phanxicô từng là Tổng Giám mục Buenos Aires từ năm 1998 cho đến khi được bầu vào ngôi Giáo Hoàng tháng Ba năm 2013.

Các vấn đề quan tâm chung như bảo vệ sự sống con người, giáo dục và an toàn xã hội đã được đề cập. Hai vị đã nhấn mạnh đến vai trò và sự đóng góp tích cực của các tổ chức và hàng giáo phẩm Công Giáo trong xã hội Á Căn Đình, đặc biệt là liên quan đến việc thăng tiến con người, giáo dục và giúp đỡ cho những người cần được trợ giúp.

Hai vị cũng đã trao đổi một cái nhìn tổng quan về tình hình ở châu Mỹ Latinh, với một tham chiếu đặc biệt tới những thách thức khác nhau đang ảnh hưởng đến châu lục này.

Trong cuộc gặp gỡ, Tổng thống Macri tặng Đức Thánh Cha Phanxicô một số quà tặng, bao gồm một poncho, một CD với âm nhạc truyền thống của Á Căn Đình và nhạc tango, một thánh giá gỗ từ vùng Matara biểu tượng của việc truyền giáo ở Mỹ Latinh.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng tổng thống một huy chương Hòa Bình, với biểu tượng là một cây ô liu.

Sau cuộc tiếp kiến với Đức Thánh Cha, tổng thống đã gặp Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao.

15. Thay đổi trong Ban Lãnh Đạo Radio Vatican

Từ ngày 29 tháng 2 vừa qua, cha Federico Lombardi đã thôi giữ chức giám đốc Radio Vatican. Ông Giacomo Ghisani, một giáo dân người Ý và hiện là phó giám đốc đã giữ chức giám đốc hành chính và đại diện hợp pháp “lâm thời” của Radio Vatican bắt đầu từ ngày 1 tháng 3 vừa qua. Được biết, ông Ghisani đã từng giữ chức trưởng ban quan hệ quốc tế và các vấn đề pháp lý của Radio Vatican trong nhiều năm qua.

Cha Federico Lombardi là Linh mục Dòng Tên, năm nay 73 tuổi vẫn tiếp tục giữ chức vụ Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh và đồng thời là phát ngôn viên của Tòa Thánh. Những thay đổi về nhân sự này đã được Vatican công bố hôm Thứ Hai 22 tháng 02.

Sinh năm 1942 ở miền bắc nước Ý gần Turino, Cha Lombardi được bổ nhiệm làm giám đốc chương trình của Đài Phát Thanh Vatican vào năm 1990. Sau đó vào năm 2001, ngài được bổ nhiệm thêm chức tổng giám đốc Trung Tâm Truyền Hình Vatican gọi tắt là CTV.

Khi tổ chức lại các cơ quan của Vatican, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm Cha Lombardi làm tổng giám đốc của đài phát thanh Vatican vào năm 2005 và Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh thay cho tiến sĩ Joaquín Navarro-Valls vào năm 2006, trong khi vẫn tiếp tục lãnh đạo CTV. Trước khi nghỉ hưu hồi năm 2013, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm Đức Ông Dario Viganò giám đốc mới cho CTV.

Trong một nỗ lực cải cách để làm cho truyền thông của Vatican hoạt động hiệu quả hơn, tromg năm 2015 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thành lập Quốc vụ viện Truyền thông với mục đích hợp nhất và điều phối nhiều cơ quan truyền thông của Tòa Thánh. Đức Ông Viganò làm trưởng ban thư ký của Quốc vụ viện Truyền thông đồng thời vẫn lãnh đạo CTV.