Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 24/03: Ơn Cứu Độ dành cho hết mọi người – Lm. Vinh-sơn Nguyễn Vặn Định, CS
Giáo Hội Năm Châu
00:46 23/03/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi đến Na-da-rét, Đức Giê-su nói với dân chúng trong hội đường rằng: “Tôi bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đó là lời Chúa
Khom mình
Lm Minh Anh
14:13 23/03/2025
KHOM MÌNH
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”.
“Cánh cửa cuộc đời thật nhiệm mầu; nó trở nên thấp hơn một chút so với người muốn đi qua. Chỉ ai biết khom mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng của nó!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay minh hoạ ý tưởng trên, “Chỉ ai biết khom mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng cửa cuộc đời!”. Thái độ biết ‘khom mình’ của tướng quân Naaman ngược hẳn thái độ “đầy phẫn nộ” của người Do Thái cùng thời Chúa Giêsu.
Naaman, một dũng tướng của vua Aram; tuy nhiên, cùng với danh vọng và quyền lực, ông phải vật lộn với bệnh phung hủi! Mã giáp của ông, trên thực tế, chỉ để che đậy một con người yếu đuối, tổn thương và tật nguyền! Naaman phải làm theo một đứa trẻ, tìm gặp người của Chúa; và ông phải khiêm tốn đến hai lần. Nghĩa là ông buộc phải nghe lời một bé gái ‘khác thường’, đi gặp một người xem ra ‘tầm thường’, làm theo một cách thức ‘lạ thường’; thế nhưng, nhờ hạ mình, ông được một phép lạ ‘phi thường’. Cuối cùng, ông đã bật lên một lời tuyên xưng không có ở đâu khác trong toàn bộ Thánh Kinh, “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel!”. Rõ ràng, biết ‘khom mình’ là một điều kiện để hứng nhận ân huệ của Thiên Chúa vậy!
Ngược lại, trong bài Tin Mừng, dân thành Nazareth không thể tin một chàng thanh niên - từng có tên là Giêsu - con của một bác thợ mộc nghèo hèn là vị Thiên Sai. Họ cay cú với Ngài, nhất là khi Ngài cho biết, trong lịch sử, Thiên Chúa từng tỏ ra ưu ái người ngoài chứ không chỉ với người Do Thái. Họ bất bình vì họ đặt sự bảo đảm vào di sản và lời hứa của Thiên Chúa qua các tổ phụ; họ nghĩ rằng, vì là Do Thái, nên cách nào đó, Thiên Chúa phải chiếu cố họ hơn những người khác. Thiếu khiêm tốn, họ đánh mất ân huệ Chúa Giêsu mang đến; tệ hơn, đầy phẫn nộ, họ những muốn xô Ngài xuống vực!
Như vậy, sẽ là một chướng ngại lớn cho những ai không biết ‘khom mình’. Đó cũng là cách thức Con Thiên Chúa cứu độ chúng ta! Vì thế, cần thiết biết bao, để bạn và tôi nhận ra rằng, khiêm tốn, một điều kiện để múc lấy ơn Chúa! Mùa Chay, mùa lắng đọng lòng mình để nghe Lời Chúa, ngắm nhìn cách thức hành động của Ngài, Đấng huỷ mình ra không để chuộc lại chúng ta. Mùa Chay, còn là mùa khát khao Chúa; “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!” - Thánh Vịnh đáp ca - Đấng ước mong chúng ta biết ‘khom mình’ như Ngài; qua đó, nhờ ơn Ngài, bạn và tôi cứu lấy mình, và cứu lấy những ai Chúa trao!
Anh Chị em,
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”. Cả chúng ta vốn cũng có thể mắc những sai lầm của những người đương thời với Chúa Giêsu khi quên rằng, biết ‘khom mình’ là điều kiện tiên quyết trước mọi phước huệ của Chúa! Phước huệ lớn nhất của Chúa mà chúng ta có thể lãnh nhận - đặc biệt trong Mùa Chay này - là nhận ra lòng thương xót, luôn tha thứ của Ngài; nhận ra mình ‘cùi hủi’, tội lỗi, dễ phẫn nộ và hay cay đắng! Để từ đó, thật lòng sám hối trở về; và với ơn thánh, mỗi người chúng ta được biến đổi. Đó là tất cả những gì đáng mong đợi nhất cho một đại lễ Phục Sinh vốn sẽ không hoài phí.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con coi thường một ai! Cho con biết cúi mình trước Chúa và ‘khom mình’ phục vụ Chúa trong anh chị em con!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”.
“Cánh cửa cuộc đời thật nhiệm mầu; nó trở nên thấp hơn một chút so với người muốn đi qua. Chỉ ai biết khom mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng của nó!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay minh hoạ ý tưởng trên, “Chỉ ai biết khom mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng cửa cuộc đời!”. Thái độ biết ‘khom mình’ của tướng quân Naaman ngược hẳn thái độ “đầy phẫn nộ” của người Do Thái cùng thời Chúa Giêsu.
Naaman, một dũng tướng của vua Aram; tuy nhiên, cùng với danh vọng và quyền lực, ông phải vật lộn với bệnh phung hủi! Mã giáp của ông, trên thực tế, chỉ để che đậy một con người yếu đuối, tổn thương và tật nguyền! Naaman phải làm theo một đứa trẻ, tìm gặp người của Chúa; và ông phải khiêm tốn đến hai lần. Nghĩa là ông buộc phải nghe lời một bé gái ‘khác thường’, đi gặp một người xem ra ‘tầm thường’, làm theo một cách thức ‘lạ thường’; thế nhưng, nhờ hạ mình, ông được một phép lạ ‘phi thường’. Cuối cùng, ông đã bật lên một lời tuyên xưng không có ở đâu khác trong toàn bộ Thánh Kinh, “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel!”. Rõ ràng, biết ‘khom mình’ là một điều kiện để hứng nhận ân huệ của Thiên Chúa vậy!
Ngược lại, trong bài Tin Mừng, dân thành Nazareth không thể tin một chàng thanh niên - từng có tên là Giêsu - con của một bác thợ mộc nghèo hèn là vị Thiên Sai. Họ cay cú với Ngài, nhất là khi Ngài cho biết, trong lịch sử, Thiên Chúa từng tỏ ra ưu ái người ngoài chứ không chỉ với người Do Thái. Họ bất bình vì họ đặt sự bảo đảm vào di sản và lời hứa của Thiên Chúa qua các tổ phụ; họ nghĩ rằng, vì là Do Thái, nên cách nào đó, Thiên Chúa phải chiếu cố họ hơn những người khác. Thiếu khiêm tốn, họ đánh mất ân huệ Chúa Giêsu mang đến; tệ hơn, đầy phẫn nộ, họ những muốn xô Ngài xuống vực!
Như vậy, sẽ là một chướng ngại lớn cho những ai không biết ‘khom mình’. Đó cũng là cách thức Con Thiên Chúa cứu độ chúng ta! Vì thế, cần thiết biết bao, để bạn và tôi nhận ra rằng, khiêm tốn, một điều kiện để múc lấy ơn Chúa! Mùa Chay, mùa lắng đọng lòng mình để nghe Lời Chúa, ngắm nhìn cách thức hành động của Ngài, Đấng huỷ mình ra không để chuộc lại chúng ta. Mùa Chay, còn là mùa khát khao Chúa; “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!” - Thánh Vịnh đáp ca - Đấng ước mong chúng ta biết ‘khom mình’ như Ngài; qua đó, nhờ ơn Ngài, bạn và tôi cứu lấy mình, và cứu lấy những ai Chúa trao!
Anh Chị em,
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”. Cả chúng ta vốn cũng có thể mắc những sai lầm của những người đương thời với Chúa Giêsu khi quên rằng, biết ‘khom mình’ là điều kiện tiên quyết trước mọi phước huệ của Chúa! Phước huệ lớn nhất của Chúa mà chúng ta có thể lãnh nhận - đặc biệt trong Mùa Chay này - là nhận ra lòng thương xót, luôn tha thứ của Ngài; nhận ra mình ‘cùi hủi’, tội lỗi, dễ phẫn nộ và hay cay đắng! Để từ đó, thật lòng sám hối trở về; và với ơn thánh, mỗi người chúng ta được biến đổi. Đó là tất cả những gì đáng mong đợi nhất cho một đại lễ Phục Sinh vốn sẽ không hoài phí.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con coi thường một ai! Cho con biết cúi mình trước Chúa và ‘khom mình’ phục vụ Chúa trong anh chị em con!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Phanxicô xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên sau nhiều tuần, trở về Vatican
Vũ Văn An
13:11 23/03/2025

AC Wimmer của CNA Newsroom, ngày 23 tháng 3 năm 2025 loan tin: Ngay trước khi trở về nhà riêng tại Vatican vào Chúa nhật, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xuất hiện thoáng qua từ ban công tầng năm của Phòng khám Gemelli ở Rome trước đám đông tín hữu tụ tập bên ngoài bệnh viện.
Khoảnh khắc này đánh dấu lần đầu tiên ngài xuất hiện trước công chúng sau nhiều tuần. Vẫy tay chào và giơ "ngón tay cái" trước khi ban phước cho các tín hữu tụ tập bên ngoài Bệnh viện Gemelli ở Rome, Đức Giáo Hoàng đã cảm ơn một người đã mang hoa đến chúc mừng nhân dịp này.

Sau cuộc tương tác ngắn ngủi, Đức Thánh Cha đã xuất viện và được đưa đến Vương cung thánh đường Santa Maria Maggiore, nơi ngài trao hoa để đặt trước biểu tượng Đức Trinh Nữ Salus Populi Romani.
Sau đó, ngài trở về Vatican, theo Tòa thánh.
Đức Giáo Hoàng đã chuẩn bị một thông điệp bằng văn bản do Vatican công bố trong khi xuất hiện chớp nhoáng vào khoảng trưa để chào đón các tín hữu và ban phước lành.
“Trong thời gian dài nằm viện này, tôi đã có cơ hội trải nghiệm sự kiên nhẫn của Chúa, điều mà tôi cũng thấy được phản ảnh trong sự chăm sóc không mệt mỏi của các bác sĩ và nhân viên y tế cũng như trong sự quan tâm và hy vọng của gia đình bệnh nhân”, Đức Phanxicô lưu ý.
“Sự kiên nhẫn đầy tin tưởng này, được neo giữ trong tình yêu của Chúa không bao giờ thất bại, thực sự cần thiết cho cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là khi phải đối diện với những tình huống khó khăn và đau đớn nhất”.
Trong bài phát biểu bằng văn bản, Đức Giáo Hoàng đã suy gẫm về bài đọc Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay về cây vả cằn cỗi, đồng thời so sánh giữa người nông dân kiên nhẫn trong dụ ngôn và cách tiếp cận nhân từ của Chúa đối với nhân loại.
Về tình hình ở Gaza, Đức Giáo Hoàng kêu gọi ngừng bắn và "phải ngừng bắn ngay lập tức; và phải có lòng can đảm để nối lại đối thoại, để tất cả các con tin có thể được giải thoát và đạt được lệnh ngừng bắn dứt khoát".
Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng tình hình nhân đạo ở Gaza "một lần nữa cực kỳ nghiêm trọng và đòi hỏi sự cam kết khẩn cấp của các bên tham chiến và cộng đồng quốc tế".
Ở một khía cạnh tích cực hơn, Đức Thánh Cha bày tỏ sự hài lòng với tiến trình ngoại giao ở khu vực Kavkaz.
"Tuy nhiên, tôi rất vui khi Armenia và Azerbaijan đã nhất trí về văn bản cuối cùng của thỏa thuận hòa bình", ngài nói. "Tôi hy vọng rằng thỏa thuận sẽ được ký kết càng sớm càng tốt và do đó có thể góp phần thiết lập nền hòa bình lâu dài ở Nam Kavkaz".
Dưỡng bệnh tại Casa Santa Marta
Trước khi xuất hiện tại cửa sổ và trở về Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có cuộc gặp ngắn với đội ngũ y tế và ban lãnh đạo bệnh viện để cảm ơn họ vì đã điều trị cho ngài.
Các viên chức bệnh viện cho biết vào thứ Bảy rằng Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp tục dưỡng bệnh tại căn hộ của mình ở Casa Santa Marta trong ít nhất hai tháng và sẽ cần liệu pháp oxy liên tục trong thời gian dưỡng bệnh.
Các bác sĩ cho biết tại một cuộc họp báo vào thứ Bảy rằng Đức Phanxicô sẽ trải qua "xuất viện được bảo vệ" và "vẫn phải thực hiện" điều trị "trong một thời gian dài".
Đức Giáo Hoàng Phanxicô không chậm lại, bất chấp các vấn đề sức khỏe của ngài
Vũ Văn An
13:36 23/03/2025

Charles Collins, giám đốc điều hành của Crux, ngày 23 tháng 3 năm 2025, nhận xét: Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường được gọi là "giáo hoàng của sự ngạc nhiên" - và ngài đã khiến mọi người ngạc nhiên vào cuối tuần này.
Vào tối thứ Sáu, Vatican cho biết rằng mặc dù "tình trạng của Đức Giáo Hoàng vẫn ổn định", các bác sĩ "vẫn chưa đưa ra dấu hiệu về thời điểm ngài sẽ xuất viện".
Sau đó vào sáng thứ Bảy, Vatican cho biết Đức Giáo Hoàng sẽ ban phước lành từ cửa sổ của mình tại Bệnh viện Gemelli của Rome.
Tuy nhiên, vào tối thứ Bảy, đội ngũ y tế cho biết Đức Phanxicô sẽ xuất viện vào Chúa Nhật và trở về nhà của mình tại Casa Santa Marta ở Vatican.
Bác sĩ người Ý Sergio Alfieri, giám đốc khoa phẫu thuật y khoa của bệnh viện, cho biết Đức Giáo Hoàng sẽ phải nghỉ ngơi trong hai tháng và phải tiếp tục chế độ dùng thuốc cũng như vật lý trị liệu vận động và hô hấp.
Đức Phanxicô được đưa vào Bệnh viện Gemelli vào ngày 14 tháng 2 với "suy hô hấp cấp tính" do nhiễm trùng đường hô hấp do nhiều loại vi khuẩn, nghĩa là có nhiều thành phần, bao gồm các yếu tố vi-rút và vi khuẩn, và "viêm phổi hai bên nghiêm trọng".
Alfieri nói với các nhà báo vào tối thứ Bảy rằng có hai lần "tính mạng của Đức Giáo Hoàng bị đe dọa" trong hơn một tháng ngài nằm viện, nhưng ngài đã khỏe hơn.
Bác sĩ cũng cho biết rằng mặc dù Đức Phanxicô không còn bị viêm phổi nữa, nhưng vẫn còn một số vi khuẩn trong phổi của ngài và có khả năng phải mất nhiều tháng mới biến mất.
Việc các nhà báo Vatican đau đầu có lẽ không phải do các quan chức Vatican lên kế hoạch. Đức Giáo Hoàng Phanxicô được biết đến là người có ý chí mạnh mẽ, và người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo 88 tuổi này rõ ràng nghĩ rằng mình vẫn còn nhiều việc phải làm.
Phát biểu với các nhà báo vào thứ sáu, Đức Hồng Y người Argentina Víctor Manuel Fernández – Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin và là cố vấn thân cận của Đức Giáo Hoàng – cho biết Đức Phanxicô muốn dành thời gian còn lại của mình – bất kể bao lâu – để làm việc, thay vì nghỉ ngơi.
“Ngài đang hồi phục rất tốt về mặt thể chất. Bây giờ ngài cần phục hồi chức năng, vì quá nhiều thời gian với oxy lưu lượng cao làm khô mọi thứ, và ngài gần như cần phải học lại cách nói chuyện”, ĐHY Fernández cho biết, lưu ý rằng các bác sĩ “muốn chắc chắn 100%, họ thích đợi một chút, vì ngài có cách sống của riêng mình, ngài muốn tự sống nó”.
ĐHY Fernández cho biết Đức Phanxicô chỉ đến bệnh viện vào tháng trước theo sự thúc giục mạnh mẽ của các cố vấn thân cận nhất của mình.
“Hãy tưởng tượng xem điều đó khó khăn như thế nào đối với ngài, nhưng ngài là một trong những tu sĩ Dòng Tên từ trước, từ những thời đại khác, những người có sức mạnh và khả năng hy sinh to lớn, để tìm ra ý nghĩa trong những khoảnh khắc đen tối này”, Đức Hồng Y cho biết.
Mặc dù đã lớn tuổi, Đức Giáo Hoàng vẫn có một lịch trình bận rộn trong lịch trình năm 2025 của mình. Chưa đầy hai tháng trước khi vào viện, ngài đã bắt đầu Năm Thánh, dựa trên chủ đề “Những người hành hương của Hy vọng”. Đây cũng là kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Ni-xê-a, nơi lên án tà thuyết Ariô, phủ nhận Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã hy vọng có một cuộc gặp với Đức Bartholomew I, Thượng phụ Chính thống giáo Đông phương của Constantinople, tại Ni-xê-a hiện đại, thành phố İznik ở phía tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, cách Istanbul khoảng 70 dặm. Cuộc khủng hoảng y tế của ngài đã đặt ra nghi ngờ về các kế hoạch này, vốn ban đầu được xem xét vào tháng 5.
Tất nhiên, vấn đề về Thượng hội đồng cũng nằm trong chương trình nghị sự của vị giáo hoàng này.
Vào ngày 15 tháng 3 – khi Đức Phanxicô đã nằm viện một tháng – Tổng thư ký Thượng hội đồng, Đức Hồng Y Mario Grech đã gửi một lá thư cho các giám mục trên thế giới thông báo về một bước tiến nữa trong hành trình của Thượng hội đồng, do chính Đức Giáo Hoàng chỉ định: Một giai đoạn kéo dài ba năm tập trung vào việc áp dụng các kết luận của Thượng hội đồng ở mọi bình diện của Giáo hội để giúp đưa tính công đồng vào đời sống hàng ngày của Giáo hội trước một “hội đồng giáo hội” tại Vatican vào năm 2028.
Bất cứ thời gian nằm viện dài nào cũng có thể nhắc nhở một người rằng thời gian là ngắn ngủi, ngay cả khi họ không ở độ tuổi 88.
Khi thông báo rằng Đức Giáo Hoàng sẽ rời bệnh viện, Alfieri cho biết Đức Phanxicô sẽ tiếp tục công việc của mình tại Vatican, chỉ ra rằng ngài đã làm việc trong thời gian nằm viện kéo dài 5 tuần.
Tuy nhiên, bác sĩ cho biết Đức Giáo Hoàng sẽ được yêu cầu kiêng họp nhóm và không tổ chức các cuộc họp và hoạt động đặc biệt căng thẳng trong thời gian nghỉ ngơi 2 tháng do đội ngũ nhân viên y tế chỉ định.
Người ta nghi ngờ rằng không ai đặt cuộc vào ý tưởng Đức Giáo Hoàng sẽ tuân theo các quy tắc của bác sĩ.
Sau chuyến công du Hoa Kỳ, Giáo chủ Công Giáo nhìn thấy 2 yếu tố thiết yếu cho hòa bình ở Ukraine
Vũ Văn An
14:28 23/03/2025

John Burger của Aleteia, ngày 22/03/25, có bài dài về triển vọng hòa bình tại Ukraine theo quan điểm của vị giáo chủ Công Giáo Ukraine.
Theo ông, Lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nói với Aleteia rằng quốc gia của ngài tìm thấy hy vọng nơi Thiên Chúa và khả năng phục hồi của chính mình; ngài suy tư về những thay đổi trong chính sách quốc tế hiện nay.
Thực vậy, khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump tiếp tục nỗ lực dẫn đầu một nền hòa bình được đàm phán ở Ukraine, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine, Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav Shevchuk, tiếp tục nhắc nhở mọi người rằng sẽ không có hòa bình lâu dài nếu không có hai yếu tố thiết yếu: sự thật và công lý.
Nếu không thừa nhận sự thật rằng Ukraine là một quốc gia có chủ quyền với ngôn ngữ, văn hóa và bản sắc riêng, chẳng hạn, chương trình nghị sự “Russkiy mir”, một “thế giới Nga” của Tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ tiến triển, gây tổn hại đến Ukraine và các quốc gia phương Tây khác. Và bằng cách phớt lờ luật pháp quốc tế và quyền con người của người Ukraine sống ở những nơi như Crimea và Donbas – những khu vực của Ukraine đã bị quân đội Nga chiếm đóng trong hơn một thập niên – bất cứ thỏa thuận hòa bình nào cũng chỉ là sự tạm dừng thù địch.
Khi thế giới kỷ niệm ba năm ngày Nga xâm lược Ukraine, Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav đã có chuyến thăm mục vụ đến các cộng đồng Công Giáo Ukraine tại Hoa Kỳ và Canada. Ngài đã cử hành Phụng vụ Thánh tại Nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ở Philadelphia và Đền thờ Quốc gia Ukraine Thánh Gia ở Washington, có bài phát biểu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, Viện Hudson và Viện Hòa bình ở Washington, và đã đến thăm một quan chức cấp cao trong Chính quyền Trump – chỉ cách Phòng Bầu dục vài bước chân.
Aleteia đã trò chuyện với ngài vào ngày 19 tháng 3, sau khi ngài trở về Ukraine.
Thưa Đức Tổng Gíam Mục, Đức Tổng Gíam Mục đánh giá thế nào về chuyến viếng thăm gần đây của ngài tới Hoa Kỳ và Canada? Đức Tổng Gíam Mục nghĩ rằng chuyến viếng thăm này sẽ đơm hoa kết trái gì?
Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav Shevchuk: Có thể chúng ta sẽ thấy hoa trái trong tương lai, vì chúng ta không bao giờ biết trước được. Là một người gieo hạt giống, họ không bao giờ biết Chúa sẽ làm cho những hạt giống đó nảy mầm như thế nào, những hạt giống đó sẽ gặp phải loại đất nào.
Cảm giác của tôi là Chúa chúng ta hiện đang trao cho Giáo hội của Người ở Ukraine, cũng như cho các Ki-tô hữu ở Hoa Kỳ, một vai trò và một ơn gọi đặc biệt.
Tôi đã cố gắng trở thành tiếng nói của những người Ukraine giản dị, tiếng nói của Giáo hội ở Ukraine, không chỉ là người Công Giáo, không chỉ là Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine, mà còn là tiếng nói thay mặt cho những người dân giản dị, xã hội dân sự Ukraine, đến trái tim của người Mỹ trong những hoàn cảnh mới này.
Đó là khoảnh khắc mà chúng ta, với tư cách là Giáo hội mẹ của Ukraine, có thể ôm trọn người dân của mình ở Hoa Kỳ. Chỉ cần ôm trọn.
Chúa nhật khi tôi cử hành Phụng vụ Thánh tại Philadelphia theo lịch Byzantine là Chúa nhật chuẩn bị cho Mùa Chay Lớn – “Chúa nhật của Người Con Hoang Đàng”, khi Lời Chúa suy gẫm về cái ôm của người cha dành cho đứa con đang trở về nhà. Thật cảm động vì hàng ngàn người Ukraine đã đến Nhà thờ chính tòa Metropolitan ở Philadelphia để hành hương Năm Thánh. Họ đến với những câu hỏi tâm linh lớn, nhưng họ cũng đã đi xưng tội suốt đêm. Hàng ngàn người đã xưng tội. Nhiều linh mục chỉ ngạc nhiên, nói với tôi rằng họ chưa bao giờ trải nghiệm điều gì như thế này trên đất Mỹ.
Vào cuối phụng vụ, tôi đã đề nghị mỗi người hành hương đến gần tôi và nhận được sự chạm vào cá nhân và phước lành cá nhân. Tôi đã đứng gần hai tiếng rưỡi để ban phước cho mọi người [ảnh trên]. Những người cùng con cái của họ đã đứng trong một giờ, xếp hàng để đến gần với vẻ mặt buồn bã như vậy. Nhưng họ đã trở về nhà với một hy vọng đặc biệt, bởi vì nhiệm vụ của tôi là làm chứng cho hy vọng của người Ukraine đối với cộng đồng người Ukraine tại Hoa Kỳ, mà còn đối với những người có đức tin, Ki-tô hữu và những người có thiện chí tại Hoa Kỳ. Đó là một điều gì đó sâu sắc về mặt tâm linh và biến đổi.
Ngoài ra, tôi đã có cơ hội thực hiện nhiều bài phát biểu và phỏng vấn, bao gồm cả tại Viện Hòa bình ở Washington. Toàn bộ vấn đề là làm thế nào chúng ta có thể đoàn kết những nỗ lực của mình để đạt được hòa bình ở Ukraine. Điều đó có nghĩa là gì – hòa bình – trong hoàn cảnh hiện nay? Và làm thế nào chúng ta có thể tiếp cận vấn đề rất phức tạp này để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine?
Nhưng ngoài ra, [các giám mục người Ukraine của Hoa Kỳ và tôi] là phái đoàn Ukraine đầu tiên đến thăm Nhà Trắng sau lễ nhậm chức của tổng thống mới. Đó cũng là một điều gì đó mang tính lịch sử. Chúng tôi đã được Văn phòng Đức tin Nhà Trắng mới thành lập trong Chính quyền Trump tiếp đón và chúng tôi đã gặp người đứng đầu văn phòng đó, Paula White-Cain. Và chính nơi chúng tôi được tiếp đón cũng rất mang tính biểu tượng. Đó là Phòng Roosevelt, ngay cạnh Phòng Bầu dục và Phòng Nội các của Tổng thống Trump.
Cuộc trò chuyện diễn ra như thế nào?
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav: Chúng tôi đã có thể nói về quyền tự do tôn giáo ở Ukraine, đặc biệt là quyền tự do ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Chúng tôi đã nói về toàn bộ quá trình giải phóng hai linh mục của chúng tôi [Cha Dòng Chúa Cứu Thế Ivan Levytsky và Bohdan Heleta] đã trải qua 18 tháng trong nhà tù Nga. Nhưng tôi cũng là tiếng nói của các mục sư Tin lành vẫn đang bị giam giữ [Đức Giám Mục từ chối tiết lộ tên của họ với Aleteia]. Và tôi đã có cơ hội bày tỏ và cầu bầu cho họ trước sự chứng kiến của Paula White, nhờ bà cầu bầu và có thể giải phóng những mục sư Tin lành đó.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng chuyến thăm Hoa Kỳ đó là thời điểm thích hợp để có mặt đúng nơi ở Washington với tư cách là người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Ukraine.
Trong cuộc họp đó, ngài đã nhận được phản hồi như thế nào từ Paula White-Cain? Phản ứng của bà ấy đối với những điều ngài nói là gì? Và bà ấy có đưa ra bất cứ cam kết nào không?
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav: Vâng, bà ấy rất cởi mở. Tôi đã có cơ hội nói về chính khái niệm tự do tôn giáo ở Ukraine. Tôi nhấn mạnh rằng đối với các Ki-tô hữu, Do Thái giáo và Hồi giáo, Ukraine có nghĩa là tự do, trong khi sự chiếm đóng của Nga có nghĩa là sự đàn áp. Và tôi đã đưa ra một ví dụ rõ ràng về sự hủy diệt và đàn áp các Ki-tô hữu thuộc các giáo phái khác nhau ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.
Và phản hồi của bà rất tích cực. Bà tuyên bố rằng có lẽ đây chỉ là khởi đầu cho mối quan hệ của chúng ta. Bà cùng với các nhân viên của mình muốn liên lạc với Đức Hồng Y Boris Gudziak của Philadelphia, với các giám mục của chúng tôi tại Hoa Kỳ, với Đại học Công Giáo Ukraine của chúng tôi tại Lviv, và muốn nhận thêm thông tin, được thông tin đầy đủ và được tư vấn kỹ lưỡng về cách tiến hành, đặc biệt là trong trường hợp tự do tôn giáo ở Ukraine.
Rất nhiều thứ đã thay đổi kể từ lễ nhậm chức của Tổng thống Trump vào ngày 20 tháng 1 liên quan đến lập trường của chính phủ Hoa Kỳ đối với Ukraine. Ngài nhìn nhận những diễn biến này như thế nào và ngài thấy điều gì nổi lên từ cách tiếp cận của Trump, bao gồm cả việc ông mở cửa với Nga trong nỗ lực mang lại hòa bình cho Ukraine?
Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav: Tôi xin chia sẻ với các bạn một số cân nhắc. Trước hết, tôi phải thú nhận rằng chúng ta thường không hiểu những hành động đó [của Chính quyền Trump], có thể là do những cách diễn giải khác nhau. Và có thể chúng ta không biết chính xác những gì đang diễn ra sau cánh cửa đóng kín. Có thể đây không phải là thời điểm thích hợp để diễn giải những cử chỉ và động thái đó của Chính quyền Trump.
Nhưng cân nhắc thứ hai là việc Chính quyền Trump nói về việc chấm dứt chiến tranh ở Ukraine là rất tích cực, vì chúng ta đang mong muốn hòa bình ở Ukraine. Chúng ta đã [đối phó với chiến tranh] trong hơn 11 năm [kể từ cuộc nổi loạn ly khai do Nga hậu thuẫn ở miền Đông Ukraine]. Và có lẽ, cuối cùng, có thể ngăn chặn được kẻ xâm lược. Vì vậy, mọi nỗ lực ở cấp độ quốc tế đều được hoan nghênh.
Nhưng có một mối quan tâm thứ ba. Có một nỗi sợ hãi và nghi ngờ lớn rằng có thể tìm ra một giải pháp nhanh chóng và đơn giản cho một số vấn đề khó khăn, đặc biệt là ngăn chặn quá trình đã diễn ra trong nhiều năm. Hãy để tôi giải thích lý do tại sao lại có một số mối quan tâm và thậm chí là sự hoài nghi trong số những người Ukraine bình thường. Đầu tiên, bởi vì có sự thiếu tin tưởng lớn đối với các hành động của Nga. Nhiều người Ukraine cho rằng Nga sẽ không chân thành với những nỗ lực của Mỹ, ngay cả khi có cách tiếp cận mới.
Bất cứ khi nào Nga thể hiện ý chí đàm phán hoặc sử dụng biện pháp ngoại giao để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine, những thỏa thuận đó đều không được tuân thủ. Thay vào đó, rất nhanh chóng, chúng đã bị phá vỡ hoàn toàn.
Chúng tôi đều nhớ vào năm 2014, [theo Điện Kremlin], việc nói về cuộc xâm lược quân sự và sáp nhập Crimea của Nga là một hành động khiêu khích. Bất cứ ai nói về điều này đều là kẻ thù của Nga. Nhưng [Nga] đã làm ngược lại. Chỉ trong vài tháng, họ đã chiếm đóng Crimea.
Vào tháng 1 năm 2022, cả thế giới đã nói về sự chuẩn bị rõ ràng cho cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine. Nhưng đại sứ Nga tại Tòa thánh đã đảm bảo với Đức Thánh Cha rằng bất cứ cuộc nói chuyện nào về các kế hoạch xâm lược của Nga đều là lời nói dối. "Nga không bao giờ bắt đầu chiến tranh. Nga là quốc gia hòa bình nhất thế giới." Nhưng chỉ trong vài tuần, họ đã bắt đầu một cuộc xâm lược toàn diện. Ngay cả đoàn ngoại giao của chính Nga cũng không được thông báo về quyết định xâm lược này.
Và bây giờ, cùng ngày phương tiện truyền thông đưa tin rằng Tổng thống Putin đã ra lệnh dừng các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự của Ukraine trong 30 ngày, vì cuộc gọi điện thoại của Tổng thống Trump, Ukraine đã bị máy bay không người lái và tên lửa của Nga tấn công dữ dội. Và họ đã tấn công chính xác vào cơ sở hạ tầng năng lượng quan trọng của Ukraine. Vì vậy, những gì đã xảy ra hoàn toàn trái ngược với những gì Nga tuyên bố.
Vì vậy, có một sự ngờ vực lớn. Nhưng hy vọng, một điều gì đó sẽ tiến triển.
Nhưng để đạt được một nền hòa bình bền vững và đích thực ở Ukraine -- không chỉ là lệnh ngừng bắn, một cuộc xung đột bị đóng băng, chúng ta phải nói về công lý và sự thật. Không có công lý và sự thật, sẽ không có hòa bình.
Ngài cảm thấy thế nào về thái độ dường như đang thịnh hành trong chính quyền Trump -- lần đầu tiên được Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth bày tỏ, rằng thật không thực tế khi mong đợi Ukraine giành lại khoảng 20% đất nước mà Nga hiện đang chiếm đóng?
Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav: Các đại diện nhà nước hoặc nhà ngoại giao hoặc thậm chí là tướng lĩnh Ukraine có thể đưa ra cho bạn những lập luận khác nhau, nhưng hãy để tôi bình luận với tư cách là một giám mục quan tâm đến người dân. Tôi phải nói rằng Ukraine và các quan chức và người dân Ukraine là những người thực tế. Nhưng chúng ta nhận thức những cách tiếp cận thực tế đó như thế nào?
Trước hết, chúng ta không nên tập trung vào các cuộc đàm phán về lãnh thổ. Tại sao? Bởi vì đó là một phần trong tuyên truyền của Nga -- rằng Ukraine không phải là một quốc gia, không phải là một quốc gia, không phải là một nhóm dân tộc có ngôn ngữ, lịch sử và Giáo hội riêng, mà Ukraine chỉ đơn giản là đất đai. Và đó là một phần trong tuyên truyền của Nga khi nói về các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng ở Ukraine mà họ sẽ đưa vào lãnh thổ nhà nước của họ.
Nhưng Ukraine là một dân tộc. Chúng tôi quan tâm đến người dân. Câu hỏi của tôi là, làm sao chúng ta có thể đàm phán về sự sống và cái chết của những người hiện đang bị bỏ lại ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, ngay cả khi có một số loại sự hiện diện khách quan của quân đội Nga trên lãnh thổ Ukraine? Ai sẽ bảo vệ quyền con người của những người còn lại ở những vùng lãnh thổ đó -- đặc biệt là trẻ em -- và quyền con người của những người tin Chúa? Làm sao chúng ta, với tư cách là một Giáo hội, có thể chăm sóc những người còn lại trên những vùng lãnh thổ đó?
Đề xuất của tôi là -- và tôi đã nói điều này với Paula White -- đưa toàn bộ vấn đề về quyền con người trở lại bàn đàm phán, không chỉ là lãnh thổ hay khoáng sản trên đất Ukraine.
Thứ hai, tôi muốn nhắc lại lời kêu gọi chung gần đây của các nhà lãnh đạo xã hội dân sự Ukraine -- trí thức, đại diện của các tổ chức phi chính phủ khác nhau, các giáo hội và tổ chức tôn giáo khác nhau. Lời kêu gọi đó được đưa ra trước các cuộc đàm phán hòa bình mà Tổng thống Trump bắt đầu. Lời kêu gọi có tiêu đề "Đừng xoa dịu cái ác". Và ý tưởng cốt lõi của lời kêu gọi này là Nga không chiến đấu để giành lại các vùng lãnh thổ mới ở Ukraine. Vấn đề lãnh thổ không phải là mục tiêu của cuộc chiến tranh của Nga chống lại Ukraine.
Nga đang chiến đấu vì điều gì ở Ukraine? Để có khả năng tác động đến các xã hội phương Tây và các quốc gia phương Tây, để có khả năng viết lại trật tự thế giới, để sửa đổi luật pháp quốc tế. Nga đang đấu tranh để có khả năng can thiệp vào công việc nội bộ của Hoa Kỳ, Canada và các nước châu Âu, can thiệp vào các cuộc bầu cử của các bạn, vào hệ thống kinh tế của các bạn, vào phương tiện truyền thông của các bạn. Toàn bộ vấn đề là khả năng can thiệp và thao túng thế giới phương Tây. Đó là toàn bộ đề xuất về cuộc chiến tranh của Nga.
Vấn đề là một số loại thỏa thuận sẽ trao cho Nga khả năng đầu độc trái tim và khối óc con người ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Bạn có đồng ý để Nga làm hỏng hệ thống chính trị của bạn, làm hỏng tư duy của người châu Âu, Canada và Mỹ không? Đó là một vấn đề hoàn cầu và là vấn đề cơ bản nhất. Chúng ta đã chứng kiến cách tuyên truyền của Nga đang đầu độc một số quy trình ra quyết định, ngay cả ở Hoa Kỳ. Có bao nhiêu quan chức trong chính quyền mới tán thành một số sáo ngữ trong tuyên truyền của Nga? Và tôi phải nói rằng loại sáo ngữ này về tình hình ở Ukraine, toàn bộ nguyên nhân của cuộc chiến, được các quan chức Hoa Kỳ sử dụng nhiều lần, gây ra nhiều vết thương trong trái tim người Ukraine hơn là bom Nga.
Vì vậy, nghĩ rằng bất cứ thỏa thuận nào xoa dịu kẻ xâm lược là cách đạt được hòa bình ổn định và bền vững ở Ukraine là một ảo tưởng. Đó là lý do tại sao, với tư cách là một phần của xã hội dân sự Ukraine, chúng tôi với tư cách là một Giáo hội nói về hai điều kiện cho thỏa thuận hòa bình đích thực: sự thật và công lý. Chúng không phải là những ý tưởng trừu tượng. Không, chúng là hai cánh sẽ tạo ra sự cân bằng để tìm ra con đường đích thực cho hòa bình, sự cân bằng để tiến hành ngay cả trong các cuộc đàm phán, bởi vì giải pháp thay thế cho xung đột quân sự là đàm phán. Đàm phán, đối thoại là tốt.
Nhưng chúng ta phải có hai cánh đó để mang lại cho chúng ta sự cân bằng trên con đường này. Khi chúng ta nói về sự thật, hãy nhớ ai là kẻ xâm lược và ai là nạn nhân. Chúng ta không thể đặt Ukraine và Nga - kẻ xâm lược và nạn nhân - ngang hàng và gây áp lực lên nạn nhân theo cùng cách chúng ta gây áp lực lên kẻ xâm lược. Đó là điều cơ bản. Nếu không có sự phân biệt đó, bất cứ tuyên bố nào cũng sẽ vô căn cứ. Và khi chúng ta nói về công lý trong tầm nhìn này, công lý có nghĩa là hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân và kiềm chế kẻ xâm lược.
Vì vậy, để đạt được lệnh ngừng bắn đơn giản, Nga chỉ cần ngừng giết người Ukraine. Khi Nga ngừng sử dụng sức mạnh quân sự, chiến tranh sẽ kết thúc. Nếu Ukraine ngừng tự vệ, Ukraine sẽ kết thúc. Rất đơn giản. Nếu không có hai khái niệm cơ bản đó về sự thật và công lý, chúng ta không thể nói về hòa bình đích thực. Tôi hy vọng rằng những nỗ lực của Tổng thống Trump sẽ thành công, nhưng lời khuyên của chúng tôi là hãy trung thực và thúc đẩy công lý.
Ngài có cảm thấy người Ukraine đang mất hy vọng vào thời điểm này không, vì quân đội chưa thể đạt được việc buộc Nga rời khỏi Ukraine, và tổng thống mới của Hoa Kỳ đã cắt giảm mạnh viện trợ quân sự? Người Ukraine tìm thấy hy vọng ở đâu ngày nay?
Đức Tổng Gíam Mục Sviatoslav: Đối với Ukraine, tự vệ, đấu tranh giành độc lập có nghĩa là sống sót. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi phải tự bảo vệ mình, có hoặc không có sự giúp đỡ của nước ngoài. Không quan trọng -- Mỹ, châu Âu, NATO -- chúng tôi phải bảo vệ quê hương và mạng sống của mình.
Người dân Ukraine không phải là không có hy vọng. Tôi là một nhân chứng cho thấy chúng tôi vẫn có hy vọng, bởi vì hy vọng của chúng tôi nằm ở Thiên Chúa và ở khả năng phục hồi của chính chúng tôi.
Tôi xin đưa ra ba ví dụ về thời điểm hy vọng của người Ukraine khiến nhiều người trên thế giới ngạc nhiên.
Đầu tiên là khi người Ukraine bỏ phiếu giành độc lập [khỏi Liên Xô] vào năm 1991. Ngay cả khi tổng thống Hoa Kỳ bảo chúng tôi ở lại với Nga, "đừng tách khỏi Moscow", người Ukraine vẫn bỏ phiếu giành độc lập -- không phải vì các chính trị gia và nhà lãnh đạo Ukraine, những người vào thời điểm đó chủ yếu là cộng sản, ủng hộ tự do, dân chủ hoặc phương Tây cho tương lai của Ukraine. Không, đó là ý chí của những người dân Ukraine giản dị, những người đã tuyên bố với thế giới rằng, “Chúng tôi sẽ không bao giờ trở thành nô lệ trong lãnh thổ của Nga nữa. Ukraine sẽ không bao giờ chỉ là một thuộc địa của Nga nữa.”
Ví dụ thứ hai là vào năm 2013, khi Maidan ở Kyiv nổ ra. Người dân Ukraine đã chết ở quảng trường trung tâm của thủ đô Ukraine vì các giá trị châu Âu, tuyên bố rằng dự án quốc gia của chúng tôi là trở về với gia đình các quốc gia châu Âu, không phải vì ở châu Âu có ai đó đang chờ đợi chúng tôi, không phải vì có ai đó đảm bảo rằng chúng tôi sẽ được tiếp nhận tại Liên minh châu Âu. Không, điều đó xảy ra sau đó, khi người dân châu Âu đột nhiên phát hiện ra rằng, khi nền tảng của Liên minh châu Âu đã bị lãng quên, người dân Ukraine đã chết vì những giá trị đó.
Và ví dụ thứ ba. Khi cuộc xâm lược toàn diện diễn ra, mọi người, kể cả chính phủ Hoa Kỳ, đã cho chúng tôi ba ngày -- có thể là ba tuần. Nhưng chúng tôi đã chịu đựng được ba năm rồi, không phải vì trước cuộc xâm lược, Hoa Kỳ đã đảm bảo với người dân Ukraine rằng họ sẽ cung cấp cho chúng tôi vũ khí. Không! Ngay cả Chính quyền Biden cũng nghĩ rằng người Ukraine sẽ thất bại, rằng chúng tôi sẽ [kết thúc bằng việc chiến đấu với người Nga như] các đơn vị du kích nhỏ đi qua lãnh thổ Ukraine, và chúng tôi sẽ chỉ được cung cấp vũ khí cho các nhóm du kích.
Nhưng khi người Ukraine cho thấy rằng chúng tôi không chỉ có khả năng ngăn chặn kẻ xâm lược Nga, mà người Ukraine còn có thể chiến thắng, vượt qua, kiên cường hơn kẻ xâm lược, thì khi đó chúng tôi mới nhận được sự hỗ trợ quân sự từ Hoa Kỳ như một dấu hiệu công nhận và tôn trọng.
Chủ quyền của Ukraine, nền độc lập, tự do của chúng tôi không phải là đối tượng của các cuộc đàm phán. Và điều đó đã được tuyên bố là ranh giới đỏ cho các thỏa thuận và giao kèo cho các thỏa thuận hòa bình trong tương lai, hy vọng sẽ được ký kết trong tương lai.
Vì vậy, hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Và hãy đến thăm chúng tôi tại Ukraine, và bạn sẽ thấy hy vọng của chúng tôi.
Đức Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt ném bom kinh hoàng ở giải Gaza
Thanh Quảng sdb
16:40 23/03/2025
Đức Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt 'ném bom kinh hoàng ở giải Gaza'

Chuẩn bị trở về Vatican sau khi nhập viện và điều trị bệnh viêm phổi, Đức Giáo Hoàng đã tái kêu gọi hòa bình, kêu gọi chấm dứt bạo lực ở Gaza và các khu vực xung đột khác và bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực toàn cầu hướng tới đối thoại, đặc biệt ở Nam Kavkaz.
(Tin Vatican - Francesca Merlo)
Đức Giáo Hoàng đã xuất hiện tại cửa sổ bệnh viện Gemelli của Rome vào Chủ Nhật (23/3/3035), lần đầu tiên, ngài xuất hiện trước công chúng sau năm tuần nằm viện. Ngài đã chào đón và ban phước cho hơn 3000 người chúc mừng Ngài có mặt tại sân bệnh viện, nhiều người trong số họ mang theo hoa tươi và biển ngữ "chào mừng ngài trở về nhà", trong khi bài suy niệm Chủ Nhật của ngài được các nhà bình luận truyền hình/phát thanh đọc và phân phát cho các nhà báo. Trong đó, ngài kêu gọi ngừng xử dụng vũ khí.
Kêu gọi hòa bình
Trong lời chào mừng đã được dọn sẵn, Đức Giáo Hoàng đã suy ngẫm về Phúc âm trong ngày và xử dụng nó để nêu bật nỗi đau khổ to lớn của người dân Gaza, cũng như tất cả những người khác trên khắp thế giới đang phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh.
Trong suốt thời gian nằm viện, Đức Giáo Hoàng không bao giờ mệt mỏi lên tiếng cho hòa bình trong các văn bản đã chuẩn bị được công bố trước buổi cầu nguyện Kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Lời kêu gọi hòa bình cho Gaza
Chủ Nhật tuần này, ngay trước khi trở về nhà trọ Santa Marta theo chương trình để bắt đầu hai tháng dưỡng bệnh, Đức Giáo Hoàng đã cầu nguyện cho người dân Palestine, ngài viết: “Tôi rất buồn khi Israel tiếp tục bị ném bom dữ dội vào Dải Gaza, gây ra nhiều thương vong. Tôi kêu gọi ngừng ngay lập tức các loại vũ khí; và can đảm nối lại đối thoại, để tất cả các con tin có thể được thả và đạt được lệnh ngừng bắn cuối cùng”.
Ngài tiếp tục nhấn mạnh đến tình hình nhân đạo “rất nghiêm trọng” ở giải Gaza, cảnh báo cần có những cam kết khẩn cấp từ các bên xung đột và cộng đồng quốc tế.
Lòng biết ơn đối với những bước tiến hướng tới hòa bình ở Armenia và Azerbaijan
Đồng thời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bày tỏ lòng biết ơn đối với những bước tiến hướng tới hòa bình ở Nam Kavkaz, nơi Armenia và Azerbaijan đang tiến tới một thỏa thuận hòa bình cuối cùng.
"Nguyện cho đây là dấu hiệu của hy vọng", ngài cầu nguyện, "rằng các cuộc xung đột khác cũng có thể tìm thấy con đường giải quyết thông qua đối thoại và thiện chí".
Phúc âm của sự kiên nhẫn
Phúc âm trong ngày Chúa nhật hôm nay nêu ra hình ảnh cây sung cằn cỗi, không bị chặt đi với hy vọng rằng nó vẫn có thể sinh trái. Đức Giáo Hoàng nói đây chính là cách Thiên Chúa nhìn nhận nhân loại: với lòng thương xót, với sự kiên trì và với tình yêu không bao giờ mệt mỏi. Trước mọi đau khổ, đều có hy vọng, "Chúng ta được kêu gọi vun đắp sự kiên nhẫn tương tự trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt trong thời điểm khó khăn và bất ổn hiện nay", Đức Giáo Hoàng nói.
Trước khi kết thúc, Đức Thánh Cha một lần nữa đặt niềm tin vào sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin Mẹ đồng hành cùng Giáo hội và thế giới trên con đường hòa bình. Ngài mời các tín hữu cùng cầu nguyện cho hòa bình, “đặc biệt cho Ukraine, Palestine, Israel, Lebanon, Myanmar, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo đang bị giày xéo”.
Lòng biết ơn
Khi chuẩn bị cho thời gian dưỡng bệnh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không quên những người đã cầu nguyện cho ngài. “Tôi cảm nhận được sự gần gũi của các bạn”, ngài nói một cách chân thành, cảm ơn anh chị em đã nhiệt thành và ngài đoan hứa, cũng sẽ cầu nguyện cho họ.

Chuẩn bị trở về Vatican sau khi nhập viện và điều trị bệnh viêm phổi, Đức Giáo Hoàng đã tái kêu gọi hòa bình, kêu gọi chấm dứt bạo lực ở Gaza và các khu vực xung đột khác và bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực toàn cầu hướng tới đối thoại, đặc biệt ở Nam Kavkaz.
(Tin Vatican - Francesca Merlo)
Đức Giáo Hoàng đã xuất hiện tại cửa sổ bệnh viện Gemelli của Rome vào Chủ Nhật (23/3/3035), lần đầu tiên, ngài xuất hiện trước công chúng sau năm tuần nằm viện. Ngài đã chào đón và ban phước cho hơn 3000 người chúc mừng Ngài có mặt tại sân bệnh viện, nhiều người trong số họ mang theo hoa tươi và biển ngữ "chào mừng ngài trở về nhà", trong khi bài suy niệm Chủ Nhật của ngài được các nhà bình luận truyền hình/phát thanh đọc và phân phát cho các nhà báo. Trong đó, ngài kêu gọi ngừng xử dụng vũ khí.
Kêu gọi hòa bình
Trong lời chào mừng đã được dọn sẵn, Đức Giáo Hoàng đã suy ngẫm về Phúc âm trong ngày và xử dụng nó để nêu bật nỗi đau khổ to lớn của người dân Gaza, cũng như tất cả những người khác trên khắp thế giới đang phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh.
Trong suốt thời gian nằm viện, Đức Giáo Hoàng không bao giờ mệt mỏi lên tiếng cho hòa bình trong các văn bản đã chuẩn bị được công bố trước buổi cầu nguyện Kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Lời kêu gọi hòa bình cho Gaza
Chủ Nhật tuần này, ngay trước khi trở về nhà trọ Santa Marta theo chương trình để bắt đầu hai tháng dưỡng bệnh, Đức Giáo Hoàng đã cầu nguyện cho người dân Palestine, ngài viết: “Tôi rất buồn khi Israel tiếp tục bị ném bom dữ dội vào Dải Gaza, gây ra nhiều thương vong. Tôi kêu gọi ngừng ngay lập tức các loại vũ khí; và can đảm nối lại đối thoại, để tất cả các con tin có thể được thả và đạt được lệnh ngừng bắn cuối cùng”.
Ngài tiếp tục nhấn mạnh đến tình hình nhân đạo “rất nghiêm trọng” ở giải Gaza, cảnh báo cần có những cam kết khẩn cấp từ các bên xung đột và cộng đồng quốc tế.
Lòng biết ơn đối với những bước tiến hướng tới hòa bình ở Armenia và Azerbaijan
Đồng thời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bày tỏ lòng biết ơn đối với những bước tiến hướng tới hòa bình ở Nam Kavkaz, nơi Armenia và Azerbaijan đang tiến tới một thỏa thuận hòa bình cuối cùng.
"Nguyện cho đây là dấu hiệu của hy vọng", ngài cầu nguyện, "rằng các cuộc xung đột khác cũng có thể tìm thấy con đường giải quyết thông qua đối thoại và thiện chí".
Phúc âm của sự kiên nhẫn
Phúc âm trong ngày Chúa nhật hôm nay nêu ra hình ảnh cây sung cằn cỗi, không bị chặt đi với hy vọng rằng nó vẫn có thể sinh trái. Đức Giáo Hoàng nói đây chính là cách Thiên Chúa nhìn nhận nhân loại: với lòng thương xót, với sự kiên trì và với tình yêu không bao giờ mệt mỏi. Trước mọi đau khổ, đều có hy vọng, "Chúng ta được kêu gọi vun đắp sự kiên nhẫn tương tự trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt trong thời điểm khó khăn và bất ổn hiện nay", Đức Giáo Hoàng nói.
Trước khi kết thúc, Đức Thánh Cha một lần nữa đặt niềm tin vào sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin Mẹ đồng hành cùng Giáo hội và thế giới trên con đường hòa bình. Ngài mời các tín hữu cùng cầu nguyện cho hòa bình, “đặc biệt cho Ukraine, Palestine, Israel, Lebanon, Myanmar, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo đang bị giày xéo”.
Lòng biết ơn
Khi chuẩn bị cho thời gian dưỡng bệnh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không quên những người đã cầu nguyện cho ngài. “Tôi cảm nhận được sự gần gũi của các bạn”, ngài nói một cách chân thành, cảm ơn anh chị em đã nhiệt thành và ngài đoan hứa, cũng sẽ cầu nguyện cho họ.
Cảnh sát bắt giữ nghi phạm vì tội xúc phạm nhà thờ Công Giáo Wichita; FBI hỗ trợ điều tra cáo buộc tội ác thù hận
Đặng Tự Do
17:07 23/03/2025
Chính quyền cho biết họ đã bắt giữ một người đàn ông 23 tuổi vào hôm Chúa Nhật 16 Tháng Ba, vì có liên quan đến hành vi phá hoại và trộm cắp đáng báo động tại Nhà thờ Công Giáo St. Patrick ở Wichita, Kansas, khiến cộng đồng giáo xứ bàng hoàng.
Vụ tấn công xảy ra vào sáng sớm thứ Bảy, bao gồm việc phá hủy đáng kể các bức tượng tôn giáo, đập vỡ kính và làm hỏng các không gian linh thiêng. Một lá cờ Mỹ cũng bị đốt bên trong nhà thờ.
Theo KWCH 12 News, Sở Cảnh sát Wichita và FBI đã tham gia vào cuộc điều tra.
“Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của tội ác này, các sĩ quan và điều tra viên của WPD — cùng với ATF — đã ngay lập tức tiến hành một cuộc điều tra toàn diện”, cảnh sát Wichita tuyên bố trên Facebook vào sáng Chúa Nhật. “Nhóm điều tra hiện trường vụ án tận tụy của chúng tôi đã làm việc chăm chỉ để phân tích bằng chứng, dẫn đến việc xác định nhanh chóng nghi phạm”.
Theo cảnh sát, nghi phạm bị buộc tội trộm cắp, phá hoại hình sự và phá hoại tài sản. Họ cũng cho biết vụ án sẽ được trình lên Biện lý Quận Sedgwick và các công tố viên liên bang để xem xét chính thức về cáo buộc.
“ Hành động phá hoại đáng chê trách này sẽ không được dung thứ,” Cảnh sát trưởng Wichita Joe Sullivan cho biết. “Các sĩ quan và điều tra viên của chúng tôi đã làm việc không biết mệt mỏi để đưa nghi phạm này ra trước công lý.”
Nhà thờ đã thông báo rằng tất cả các buổi lễ sẽ bị hủy cho đến khi có thông báo mới để đánh giá mức độ thiệt hại.
Hội đồng Công Giáo Kansas lên án hành động này và gọi đây là “tội ác thù hận”. Trong một tuyên bố đăng trên mạng xã hội, nhóm này đã mô tả sự phá hoại.
“Sau khi xông vào bên trong, các bức tượng đã bị phá hủy, kính bị đập vỡ và nhiều thiệt hại lớn khác đã xảy ra tại không gian linh thiêng này”, Hội nghị viết. “Nhà thờ St. Patrick là một giáo xứ chủ yếu là người La tinh nằm trong một khu phố lao động ở Bắc-Trung Wichita. …FBI đang điều tra. Một biểu tượng của Satan đã được viết nguệch ngoạc trên tường. Đây là bộ mặt của cái ác”.
CatholicVote cũng lên tiếng, chia sẻ chi tiết về vụ việc trên X và nêu lên mối lo ngại về tình cảm chống Công Giáo. Một số nhà lãnh đạo Công Giáo đã liên kết hành động phá hoại này với xu hướng thù địch rộng hơn đối với các tổ chức tôn giáo.
Vụ tấn công xảy ra trong bối cảnh tranh cãi ngày càng gia tăng về “nghi lễ thờ phượng” Satan tại Tòa nhà Quốc hội Kansas vào ngày 28 tháng 3, càng làm gia tăng thêm mối lo ngại về hoạt động chống lại Kitô giáo đang gia tăng.
Các nhà lãnh đạo Công Giáo địa phương đang kêu gọi cầu nguyện cho cộng đồng giáo xứ St. Patrick và kêu gọi lực lượng thực thi pháp luật đưa những kẻ chịu trách nhiệm ra trước công lý. Sự việc này nhấn mạnh nhu cầu ngày càng tăng về sự cảnh giác trong việc bảo vệ các địa điểm thờ phượng khỏi các hành vi thù hận và bạo lực.
Sự việc này tại Nhà thờ Công Giáo St. Patrick xảy ra vào thời điểm các nhà lãnh đạo Công Giáo ở Kansas đang nêu lên mối lo ngại về sự thù địch ngày càng tăng đối với đức tin. Gần đây, tranh cãi đã nổ ra về một “lễ đen” Satanic được lên kế hoạch tại Tòa nhà Quốc hội Tiểu bang Kansas.
Một báo cáo của CatholicVote ngày 12 tháng 3 đã nêu chi tiết cách các nhà hoạt động Công Giáo lên án sự kiện này, mô tả nó là “một nghi lễ thờ phượng Satan đê tiện và đáng khinh bỉ”. Các nhóm như Hiệp hội Bảo vệ Truyền thống, Gia đình và Tài sản Hoa Kỳ, gọi tắt là TFP đã phát động các bản kiến nghị kêu gọi Thống đốc Dân chủ của Kansas Laura Kelly hủy bỏ sự kiện này, tuyên bố rằng “phạm thánh KHÔNG phải là quyền tự do ngôn luận”.
Để ứng phó với sự kiện sắp tới, Bênêđíctô College đã thông báo vào ngày 14 tháng 3 rằng trường sẽ dành Giờ Thánh, Kinh Mân Côi và Kinh Cầu nguyện Memorare hàng tuần trong suốt tháng để cải đạo những người tổ chức nghi lễ. Các nhà lãnh đạo trường nhấn mạnh rằng “phản ứng của chúng ta phải mang tính tâm linh”, kêu gọi người Công Giáo tham gia vào việc cầu nguyện và đền tội thay vì tuyệt vọng.
Thống đốc Kelly đã ra lệnh vào ngày 15 tháng 3 rằng sự kiện thờ phượng Satan phải được chuyển ra bên ngoài Điện Capitol thay vì diễn ra bên trong. Người tổ chức sự kiện gọi nghi lễ này là một cuộc biểu tình ủng hộ phá thai chống lại ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo trong chính trường Kansas, đặc biệt là Hội nghị Công Giáo Kansas.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Công Giáo chỉ trích quyết định của thống đốc cho phép sự kiện này diễn ra trên cơ sở của tiểu bang, gọi đó là “một cuộc tấn công công khai vào đức tin Công Giáo và là sự báng bổ đối với điều thiêng liêng”.
Source:Catholic Vote
40 Bài Tĩnh Tâm Mùa Chay - Thứ Hai tuần thứ 3 Mùa Chay ngày 24-03-2025
J.B. Đặng Minh An dịch
17:08 23/03/2025
2 V 5:1-15
Tv 42:2, 3; 43:3, 4
Lc 4:24-30
“Không có một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4:24)
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, một nơi linh thiêng, cởi mở với chân lý, nhưng khi mọi người bị thách thức bởi lời của Chúa Giêsu, họ đã “nổi giận”.
Thật vậy, những người đang lắng nghe không thể chấp nhận thực tế về Chúa Giêsu hay sự hiện diện phi thường giữa họ. Trong thế giới của phương tiện truyền thông xã hội và chu kỳ tin tức 24 giờ ngày nay, có thể có xu hướng đổ lỗi và dán nhãn mọi người một cách nhanh chóng bằng những phán đoán có sẵn trước khi sự thật được xác lập. Điều này thường dẫn đến thái độ chia rẽ và định kiến. Chúng ta có nuôi dưỡng thái độ khắc nghiệt đối với người khác không, và chúng ta có nhanh chóng phân loại người khác trước khi hiểu được bức tranh toàn cảnh không?
Chúa Giêsu không chỉ là một tấm gương để chúng ta nhìn vào khi chúng ta bị phán xét hoặc hiểu lầm một cách bất công, mà còn là ánh sáng để chúng ta lấy sức mạnh khi cuộc sống trở nên quá sức. Có nhiều tấm gương giữa các thánh và những người bình thường trong cuộc sống của chúng ta, đưa ra một ví dụ tuyệt vời về việc vượt lên trên sự tiêu cực, bất công và hận thù.
Những người trong hội đường đã có cơ hội nhận ra Chúa Giêsu và nhận được sự khôn ngoan và hiện diện đầy yêu thương của Người. Tuy nhiên, trái tim và tâm trí của họ bị chặn lại và nhuốm màu thiên kiến trong việc hiểu và trân trọng khoảnh khắc được trao cho họ. Làm thế nào chúng ta có thể dừng lại để suy ngẫm về Chúa Giêsu trong những trải nghiệm hàng ngày của mình? Chúng ta có sẵn sàng thay đổi trái tim mình để định hướng lại bản thân bằng ân sủng của các mối quan hệ đúng đắn - quay trở lại con đường đúng đắn - và thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta không? Mỗi ngày là một cơ hội khác để nắm lấy mục đích sống tươi đẹp là tuân theo niềm vui của Phúc âm.
Phép lạ Thánh Thể ở AUGSBURG, ĐỨC, năm 1194
Đặng Tự Do
17:09 23/03/2025
Phép lạ Thánh Thể ở Augsburg, được biết đến tại địa phương là Wunderbarlichen Gutes – “Sự Thiện Kỳ Diệu”. Phép lạ này được mô tả trong nhiều cuốn sách và tài liệu lịch sử có thể được tham khảo tại thư viện công dân của Augsburg.
Một Bánh Thánh bị đánh cắp đã biến thành Thịt đang chảy máu. Trong suốt nhiều thế kỷ, một số phân tích đã được hoàn thành về biến cố này luôn xác nhận rằng Thịt và Máu của con người hiện diện. Ngày nay, Tu viện Heileg Kreuz, nghĩa là Thánh Giá, được các Cha dòng Đaminh chăm sóc.
Vào năm 1194, một người phụ nữ từ Augsburg đã đánh cắp một Mình Thánh Chúa đã được thánh hiến khi mọi người không chú ý. Vào thời đó, người ta không có nhà tạm để giữ an toàn các Bánh Thánh đã được thánh hiến, và để các tín hữu thờ phượng Thánh Thể. Chỉ đến năm 1264, với sự ra đời của Lễ Mình Thánh Chúa hay Corpus Christi, lòng sùng kính Thánh Thể mới trở nên phổ biến, và cùng với đó là yêu cầu nhà thờ nào cũng phải có nhà tạm.
Bà đã đặt Mình Thánh vào khăn tay, mang Mình Thánh về nhà và đặt Mình Thánh vào một hộp đựng bằng sáp bên trong tủ.
Năm năm trôi qua và vào ngày 11 tháng 5 năm 1199, người phụ nữ, bị giày vò bởi sự hối hận, đã thú nhận với bề trên của tu viện Heilig Kreuz, Cha Berthold, người đã yêu cầu bà mang Mình Thánh trở lại. Vị linh mục mở lớp phủ sáp ra và thấy rằng Thánh Thể đã biến thành Thịt chảy máu. Mình Thánh xuất hiện “được chia thành hai phần được kết nối với nhau bằng những sợi mỏng của Thịt chảy máu”. Cha Berthold đã ngay lập tức đến gặp giám mục của thành phố Udalskalk, người đã ra lệnh rằng Mình Thánh Phép Lạ phải được “chuyển đi, cùng với giáo sĩ và người dân vào nhà thờ chính tòa và được trưng bày trong một Mặt Nhật bằng pha lê để công chúng thờ phượng”.
Mình Thánh bắt đầu lớn lên và phồng lên, và hiện tượng này kéo dài trước mắt mọi người từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả. Sau đó, Đức Giám Mục Udalskalk đã cho mang Mình Thánh trở lại gần tu viện Heilig Kreuz
Vào năm 1200, Bá tước Rechber đã tặng cho các Cha dòng Augustinô một chiếc rương bạc hình chữ nhật có một cửa mở ở phía trước để đặt Mình Thánh của phép lạ. Nhiều người tin rằng đó là nhà tạm đầu tiên trước khi mô hình này lan rộng trên thế giới. Bên cạnh phép lạ Thánh Thể, những sự kiện phi thường khác đã diễn ra, chẳng hạn như sự xuất hiện của Mình Thánh cùng Chúa Hài Đồng Giêsu mặc đồ trắng với khuôn mặt rạng rỡ và trán của Người được bao quanh bởi một vương miện bằng vàng, hoặc trong một trường hợp khác là sự chảy máu của cây thánh giá của nhà thờ, hoặc sự xuất hiện của Chúa Giêsu ban phước cho cộng đồng tín hữu.
Gia đình và trẻ em đang gặp nguy hiểm - Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Trump tiếp tục hỗ trợ nước ngoài
Đặng Tự Do
17:10 23/03/2025
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã kêu gọi các tín hữu Công Giáo viết thư cho các đại diện dân cử thúc giục chính quyền Trump tái tục hỗ trợ nước ngoài, đặc biệt cho các quốc gia nghèo đói.
Các Giám Mục Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ cung cấp viện trợ ngay lập tức, quan trọng, cứu sống cho những người chị em và anh em của chúng ta đang phải đối mặt với nạn đói, đàn áp tôn giáo, xung đột và những sự xúc phạm khác đối với nhân phẩm của họ. Hầu như tất cả các chương trình viện trợ nước ngoài đã bị chấm dứt mà không có cảnh báo cho các cộng đồng trên toàn cầu.
Tình hình thật tồi tệ. Khi việc phân phối thực phẩm bị dừng lại, mọi người sẽ đói. Nếu không được điều trị suy dinh dưỡng cấp tính, trẻ em sẽ chết. Toàn bộ cộng đồng không có nơi trú ẩn và nước sạch. Nông dân không thể trồng trọt. Các bà mẹ và trẻ nhỏ đang mất đi quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe quan trọng. Tiếng nói của anh chị em rất cần thiết để chúng ta có thể tiếp tục làm việc vì một thế giới nơi tất cả mọi người có thể đạt được tiềm năng mà Chúa ban cho họ.
Hãy gửi email cho các thành viên Quốc hội của anh chị em, yêu cầu họ thúc giục Chính quyền dừng ngay và đảo ngược mọi sự chấm dứt hỗ trợ nhân đạo và phát triển cứu sống và khẳng định sự sống cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình. Ngoài ra, hãy yêu cầu các thành viên Quốc hội của anh chị em thúc giục Chính quyền giải ngân mọi khoản tiền hỗ trợ nước ngoài do Quốc hội phân bổ một cách kịp thời.
Ngay cả khi anh chị em đã gửi email, xin vui lòng gửi thêm một email nữa ngay hôm nay. Việc tiếp tục hỗ trợ cho công việc cứu người này là điều cần thiết.
Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ hỗ trợ công việc của Catholic Relief Services, gọi tắt là CRS để hợp tác với mọi người nhằm giúp họ xây dựng tương lai tốt đẹp hơn, cung cấp các nguồn lực và công cụ họ cần để vượt qua những thách thức và phát triển. CRS cung cấp loại hỗ trợ cứu sinh này trong thời kỳ khủng hoảng, giúp mọi người trở nên tự lực và sống có phẩm giá. Khi xã hội phát triển, họ đóng góp vào sự ổn định toàn cầu lớn hơn, giảm nguy cơ xung đột và tạo ra môi trường an toàn hơn, thịnh vượng hơn, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, bao gồm cả chúng ta; nói một cách đơn giản, viện trợ nhân đạo và phát triển quốc tế là vì lợi ích của đất nước chúng ta.
Nghiên cứu cho thấy tiếng nói của cử tri có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình ra quyết định của các thành viên quốc hội, đặc biệt là khi thông tin liên lạc được cá nhân hóa—như chia sẻ một câu chuyện hoặc chứng minh tác động của một vấn đề sẽ có trong quận hoặc tiểu bang. Đừng quên cá nhân hóa thông điệp của anh chị em!
Thông điệp của anh chị em có thể trình bày các nét chính sau đây:
Chúng tôi vô cùng lo ngại rằng chính quyền đã chấm dứt hàng ngàn chương trình viện trợ nước ngoài. Các chương trình này cung cấp viện trợ quan trọng, cứu sống cho những người chị em và anh em của chúng ta đang phải đối mặt với nạn đói, đàn áp tôn giáo, xung đột và những sự xúc phạm khác đối với phẩm giá con người của họ. Với tư cách là người đại diện của tôi, xin hãy thúc giục chính quyền dừng lại và đảo ngược mọi việc chấm dứt viện trợ nhân đạo và phát triển cứu sống và khẳng định sự sống cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình. Ngoài ra, hãy yêu cầu họ giải ngân tất cả các quỹ viện trợ nước ngoài do Quốc hội phân bổ một cách kịp thời, để công tác cứu sống có thể tiếp tục.
Viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ không phải là chính sách trừu tượng—nó có những hậu quả sống còn ảnh hưởng đến con người ngày nay. Khi việc phân phối thực phẩm ngừng lại, mọi người sẽ đói. Nếu không được điều trị suy dinh dưỡng cấp tính, trẻ em sẽ chết. Các bà mẹ và con nhỏ của họ đang mất quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các nhóm tôn giáo thiểu số, bao gồm cả thanh thiếu niên theo Kitô giáo, có nguy cơ bị cực đoan hóa cao hơn. Không hành động sẽ dẫn đến đau khổ và mất mát trên phạm vi toàn cầu. Mạng sống của những người chị em và anh em của chúng ta đang bị đe dọa. Một lần nữa, chúng tôi kêu gọi chính quyền dừng lại và đảo ngược mọi sự chấm dứt viện trợ nhân đạo và phát triển cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình.
Source:USCCB
Đức Tổng Giám Mục Gądecki của Ba Lan để lại di sản gì?
J.B. Đặng Minh An dịch
19:30 23/03/2025
Luke Coppen của Pillar Catholic có bài nhan đề nhan đề “What legacy does Poland’s Archbishop Gądecki leave?”, nghĩa là “Tổng giám mục Gądecki của Ba Lan để lại di sản gì?”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Vấn đề với việc trở thành một nhà lãnh đạo Giáo hội thế kỷ 21 ở Ba Lan là mọi người sẽ luôn so sánh bạn với những người khổng lồ của Công Giáo Ba Lan thế kỷ 20 — và thấy bạn còn nhiều thiếu sót.Thật hấp dẫn khi đánh giá tác động của các giáo sĩ Ba Lan đương đại theo các tiêu chuẩn do Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị và Chân phước Stefan Wyszyński đặt ra. Nhưng có lẽ công bằng hơn khi xem xét các ngài trong mối quan hệ với những người đồng cấp và những thách thức đặc biệt của thời đại các ngài.
Đức Tổng Giám Mục Stanisław Gądecki, một trong những người Công Giáo Ba Lan có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của ngài, hiện đang rời xa sự chú ý của công chúng.
Năm 2024, ngài từ chức chủ tịch hội đồng giám mục Ba Lan sau 10 năm tại vị. Và vào ngày 19 tháng 3, Lễ trọng kính Thánh Giuse, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức Tổng giám mục Poznań của ngài, chỉ năm tháng sau sinh nhật lần thứ 75 của ngài.
Đức Cha Gądecki sẽ phục vụ với tư cách là giám quản tông tòa của tổng giáo phận Poznań cho đến khi người kế nhiệm ngài, Đức Cha Zbigniew Zieliński của Koszalin-Kołobrzeg, được bổ nhiệm vào ngày 1 tháng 5.
Đức Tổng Giám Mục Gądecki là ai? Những khoảnh khắc quyết định của ngài là gì? Và ngài để lại di sản gì?
Đức Tổng Giám Mục Gądecki là ai?
Đức Cha Stanisław Gądecki sinh ra tại Strzelno, miền trung Ba Lan, vào năm 1949, tại một vùng đất từng bị Đức Quốc xã xâm lược và lúc đó đang bị chế độ cộng sản áp bức cai trị.
Sau khi hoàn thành khóa đào tạo tại chủng viện ở Tổng giáo phận Gniezno, ngài được Đức Hồng Y Wyszyński truyền chức linh mục vào năm 1973, ở tuổi 23. Đức Hồng Y Wyszyński, một nhân vật cao cả được biết đến là “Giám mục Thiên niên kỷ” của Ba Lan, đã gửi Cha Gądecki đi học Kinh thánh ở Rôma. Trong thời gian gắn bó với Viện Kinh thánh Giáo Hoàng, vị linh mục trẻ này cũng học tại Studium Biblicum Franciscanum ở Giêrusalem, cuối cùng lấy bằng tiến sĩ thần học Kinh thánh.
Cha Gądecki trở về Ba Lan vào năm 1982, không lâu sau khi chính phủ áp đặt thiết quân luật, trong nỗ lực dập tắt sự phản đối đang gia tăng do công đoàn Đoàn kết lãnh đạo. Ngài dạy nghiên cứu Kinh thánh tại chủng viện ở Gniezno, trong khi tham gia vào công tác mục vụ.
Sự nghiệp giám mục của Đức Cha Gądecki bắt đầu vào năm 1992, khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị bổ nhiệm ngài làm Giám Mục Phụ Tá của Gniezno. Năm 2002, Đức Giáo Hoàng Ba Lan bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục của Poznań, một trong những giáo phận quan trọng nhất của Ba Lan, ở độ tuổi tương đối trẻ là 52.
Hai năm sau, ngài được bầu làm phó chủ tịch hội đồng giám mục Ba Lan, một chức vụ ngài giữ trong một thập niên trước khi được bầu làm chủ tịch vào năm 2014.
Những khoảnh khắc quyết định của ngài là gì?
Nhiều giám mục thấy sự chuyển đổi từ thời Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị và Đức Bênêđíctô XVI sang thời Đức Thánh Cha Phanxicô là khó khăn. Điều đó đặc biệt đúng ở Ba Lan, nơi các giám mục tự coi mình là người bảo vệ di sản của Đức Giáo Hoàng Ba Lan.
Do đó, một trong những nhiệm vụ chính của Đức Cha Gądecki với tư cách là chủ tịch hội đồng giám mục là đóng vai trò là người đệm giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và có lẽ là phần lớn các giám mục Ba Lan đang lo lắng trước những dấu hiệu cho thấy Vị Giáo Hoàng người Á Căn Đình này muốn chấm dứt kỷ nguyên Gioan Phaolô II -Bênêđíctô XVI.
Thật may mắn khi vào đầu nhiệm kỳ của Đức Phanxicô, Ngày Giới trẻ Thế giới được tổ chức tại Kraków, giúp Đức Giáo Hoàng tận mắt chứng kiến sức sống vẫn còn in đậm trong Giáo hội tại Ba Lan, bất chấp sự phát triển của chủ nghĩa thế tục.
Nhưng các sự kiện bên kia biên giới ở Đức sẽ làm lu mờ mối quan hệ của Đức Cha Gądecki với Đức Thánh Cha Phanxicô. Vị Tổng giám mục kinh hoàng khi thấy “Tiến Trình Công Nghị” thúc đẩy các nữ phó tế, xem xét lại chế độ độc thân của linh mục, giáo dân giảng đạo trong các Thánh lễ, vai trò lớn hơn của giáo dân trong việc lựa chọn giám mục và sửa đổi Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về đồng tính luyến ái, với sự ủng hộ của đa số các giám mục Đức.
Vào năm 2022, Đức Cha Gądecki đã viết một lá thư mạnh mẽ gửi cho người đồng cấp Đức của mình là Giám mục Georg Bätzing. “Trung thành với giáo huấn của Giáo hội, chúng ta không nên khuất phục trước áp lực của thế gian hoặc các khuôn mẫu của nền văn hóa thống trị vì điều này có thể dẫn đến sự tha hóa về mặt đạo đức và tinh thần”, ngài nói.
Đức Cha Gądecki sau đó đã trình bày mối quan tâm của mình với Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Sau một cuộc tiếp kiến riêng vào tháng 3 năm đó, hội đồng giám mục Ba Lan đã nói rõ rằng Theo lời của Đức Giáo Hoàng, ngài đã được “tóm tắt về những khó khăn gây ra cho Giáo hội hoàn vũ do các vấn đề nêu ra bởi cái gọi là ‘Tiến Trình Công Nghị’ của Đức.”
“Đức Phanxicô đã tránh xa sáng kiến Tiến Trình Công Nghị này,” bài báo cho biết, mặc dù Đức Giáo Hoàng có vẻ còn mơ hồ về dự án của Đức trong một thời gian sau đó.
Xung đột giữa Đức Cha Gądecki và Giám Mục Bätzing bùng phát trở lại tại phiên họp đầu tiên của hội đồng về tính đồng nghị tại Rôma. Trong cuộc họp kéo dài một tháng, vị tổng giám mục người Ba Lan đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, bày tỏ sự lo ngại về viễn cảnh rằng cách thức Thượng Hội Đồng của Đức có thể định hình kết quả của quá trình Thượng Hội Đồng toàn cầu.
Đức Cha Gądecki cho biết ngài hy vọng Thượng Hội Đồng sẽ “không bị thao túng theo bất kỳ cách nào và được sử dụng để cho phép các luận đề của Đức công khai mâu thuẫn với giáo lý của Giáo Hội Công Giáo”.
Giám Mục Bätzing đáp trả bằng cách cáo buộc Đức Tổng Giám Mục Gądecki có “hành vi không có tính đồng đoàn và huynh đệ”.
“Tôi tự hỏi… dựa vào quyền gì mà chủ tịch hội đồng giám mục của một Giáo hội dám phán xét tính Công Giáo của một Giáo hội khác và chức giám mục của giáo hội đó?” Giám Mục Bätzing nói.
Đức Cha Gądecki cáo buộc những người tổ chức Thượng Hội Đồng về việc quản lý sân khấu phát biểu trong một cuộc phỏng vấn thẳng thắn được công bố sau phiên họp đầu tiên. Ngài lưu ý rằng trong các phiên họp toàn thể, một số người tham gia được gọi phát biểu ba hoặc bốn lần.
“Thật kỳ lạ, tôi không may mắn như vậy,” ngài nói. “Chúng tôi được khuyến khích gửi các quan điểm đến ban thư ký, nhưng cho đến nay có vẻ như không ai đọc chúng.”
Đức Cha Gądecki đã chọn không tham dự phiên họp thứ hai và cũng là phiên họp cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào năm 2024. Không có lý do nào được đưa ra, làm dấy lên suy đoán rằng ngài đã rút lui vì lý do tuổi tác, muốn trao cơ hội cho một giám mục khác tham dự hoặc tin rằng kết quả của sự kiện đã được định đoạt và ngài không thể làm gì được.
Trong khi đó, trở lại Ba Lan, Đức Cha Gądecki phải đối mặt với hai thách thức lớn: cuộc tiến công mạnh mẽ của chủ nghĩa thế tục và sự lạm dụng của hàng giáo sĩ.
Đức Cha Gądecki là chủ tịch hội đồng giám mục khi các nhà thờ ở Ba Lan bị phá hoại, các Thánh lễ bị phá vỡ và các bức tượng của Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị bị bôi sơn đỏ trong các cuộc biểu tình phản đối việc thắt chặt luật phá thai của nước này vào năm 2020. Vị tổng giám mục này dường như choáng váng trước sự bùng nổ của chủ nghĩa bài giáo sĩ vào thời kỳ đỉnh điểm của đại dịch COVID, bao gồm cả việc tấn công vào nhà thờ chính tòa của ngài ở Poznań.
Trong những tháng cuối cùng của Đức Cha Gądecki với tư cách là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục, một chính phủ liên minh mới đã lên nắm quyền ở Ba Lan sau tám năm cầm quyền của đảng Luật pháp và Công lý, một đảng được coi là rất gần gũi với Giáo hội. Chính quyền mới đang trên đường xung đột với Giáo hội, với các kế hoạch cắt giảm các lớp học tôn giáo trong các trường công, tự do hóa luật phá thai và cắt giảm trợ cấp cho các nhóm tôn giáo. Nhưng Đức Tổng Giám Mục đã từ chức chủ tịch hội đồng giám mục trước khi các vấn đề thực sự bùng nổ.
Đức Cha Gądecki là bộ mặt của Giáo hội Ba Lan khi cuộc khủng hoảng lạm dụng tàn khốc nổ ra vào năm 2019. Cùng năm đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công bố Vos estis lux mundi, một tông thư thiết lập cơ chế yêu cầu các giám mục chịu trách nhiệm về việc giải quyết sai các vụ lạm dụng.
Không nơi nào trên thế giới Vos estis được thực hiện mạnh mẽ hơn ở Ba Lan. Ít nhất 15 giám mục đã bị điều tra sau những cáo buộc giải quyết sai các vụ án, bao gồm cả Đức Cha Gądecki. Nhưng ngài đã được chứng minh không hành xử cẩu thả vào tháng 6 năm 2021 sau một cuộc điều tra.
Các nhà bình luận Công Giáo Ba Lan không coi Đức Cha Gądecki là động lực thúc đẩy việc dọn dẹp. Họ lưu ý rằng trong chuyến thăm ad limina năm 2021 tới Rôma, vị tổng giám mục đã phàn nàn rằng việc công khai hình phạt dành cho các giám mục Ba Lan giải quyết sai vụ lạm dụng đã gây ra một loại “cái chết dân sự” cho họ. Sau sự can thiệp của ngài, đã có sự giảm đáng kể trong thông tin được công bố vào cuối cuộc điều tra Vos estis ở Ba Lan.
Những người chỉ trích có thể cho rằng phản ứng của Gądecki trước cuộc khủng hoảng lạm dụng không đủ mạnh mẽ để khôi phục lại lòng tin sâu sắc của công chúng vào chính quyền Công Giáo Ba Lan.
Theo hướng tích cực hơn, Đức Cha Gądecki đã giúp thúc đẩy Giáo hội Ba Lan có phản ứng hào phóng đối với dòng người tị nạn Ukraine đổ vào sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào năm 2022. Ngài cũng đã đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ tới Thượng phụ Chính thống giáo Nga Kirill để gây áp lực với Tổng thống Putin nhằm chấm dứt chiến tranh.
Ngài để lại di sản gì?
Đức Tổng Giám Mục Gądecki rõ ràng được các giám mục anh em kính trọng, những người đã bầu ngài làm chủ tịch hội đồng giám mục hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ năm năm. Nhưng không rõ liệu Rôma có chia sẻ sự nhiệt tình của các Giám Mục Ba Lan hay không.
Chắc chắn, Đức Cha Gądecki đã không nhận được chiếc mũ đỏ. Tuy nhiên, điều đó không nhất thiết là một sự khinh miệt cá nhân. Người tiền nhiệm của ngài với tư cách là chủ tịch hội đồng giám mục, Đức Tổng Giám Mục Józef Michalik, cũng không nhận được. Và Poznań về mặt lịch sử không phải là một “giáo phận Hồng Y”.
Nhưng Đức Cha Gądecki có thể cảm thấy bị bỏ qua khi Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Đức Cha Grzegorz Ryś của Łódź - một người kém ngài 14 tuổi - làm Hồng Y vào năm 2023.
Điều khiến di sản của Đức Cha Gądecki khó xác định là ngài thiếu “năng lượng nhân vật chính” của những người đồng hương như Gioan Phaolô Đệ Nhị và Wyszyński. Tổng giám mục tận tụy giữ vững lập trường giữa những cuộc khủng hoảng của thời đại mình, nhưng ngài không định hình thời đại của mình như những người khổng lồ thời hậu chiến đó.
Có lẽ nên coi Đức Cha Gądecki là một nhân vật chuyển tiếp giữa các giám mục thời Đức Gioan Phaolô II, những người kiên quyết bảo vệ bản sắc Công Giáo của Ba Lan, và thế hệ lãnh đạo mới thoải mái hơn với các ưu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và niềm tin lớn hơn rằng tính đồng nghị chính là câu trả lời cho các vấn đề của Giáo hội.
Tuy nhiên, điều đó có thể không công bằng với các kỹ năng lãnh đạo của Đức Cha Gądecki, thể hiện rõ qua khả năng của ngài trong việc giữ vững một hội đồng giám mục chia rẽ trong bối cảnh khủng hoảng lạm dụng và bất ổn xã hội và giáo hội. Có lẽ chính khả năng cân bằng các lực lượng đối địch sẽ bị mai một nhiều nhất khi ngài rời khỏi sân khấu quốc gia.
Source:Pillar catholic
Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ bệnh viện, sau đó chuyển hướng giao thông để thăm Đền Thờ Đức Bà Cả
Đặng Tự Do
20:23 23/03/2025
Thông tín viên Elise Ann Allen của tờ Crux, thường trú tại Rôma, có bài tường trình nhan đề “Pope Francis appears at hospital window, then diverts traffic to visit Roman basilica” nghĩa là “Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ bệnh viện, sau đó chuyển hướng giao thông để thăm đền thờ Rôma”
Hôm Chúa Nhật, 23 Tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên sau năm tuần, đi đến ban công của Bệnh viện Gemelli ở Rôma để vẫy tay và ban phước lành cho các tín hữu tụ tập bên dưới.
Ngài bước lên ban công trên xe lăn trong khi đám đông bên dưới, ước tính khoảng 500 đến 600 người, hô vang tên ngài và cổ vũ.
Đức Thánh Cha Phanxicô rõ ràng là mệt mỏi vì nỗ lực, vẫy tay và giơ ngón tay cái lên. Khi ngài xin micro, ngài nói rằng ngài phát hiện một phụ nữ lớn tuổi trong đám đông đang cầm một bó hoa, nói bằng giọng khàn khàn, “Cảm ơn mọi người. Tôi thấy một người phụ nữ với những bông hoa màu vàng, bà ấy thật tuyệt!” Người phụ nữ trở nên xúc động.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban phước lành từ tầng hai của Bệnh viện Gemelli sau khi công bố bài huấn đức trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật thường lệ của mình, thường được đọc trực tiếp từ cửa sổ Điện Tông tòa Vatican, nhưng trong sáu Chúa Nhật vừa qua, ngài đã công bố mà không xuất hiện vì tình trạng sức khỏe của mình.
Trước khi ban phép lành, ngài đã chào hỏi ngắn gọn các nhân viên và ban quản lý của Đại học Công Giáo và Bệnh viện Gemelli.
Ngài được đưa vào Bệnh viện Gemelli vào ngày 14 tháng 2 để điều trị nhiễm trùng đường hô hấp phức tạp và viêm phổi kép.
Sau khi ban phước lành sau khi bài phát biểu được công bố, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xuất viện vào khoảng 12:15 trưa giờ địa phương.
Đoàn xe đưa ngài đến Vatican trên chiếc xe Ford Fiat 500 màu trắng, dừng lại và có vẻ bối rối trong giây lát, trước khi tiếp tục lên đường băng qua thành phố Rôma để đưa ngài đến Đền Thờ Đức Bà Cả, là nhà thờ Rôma mà ngài yêu thích nhất và là nơi có bức ảnh nổi tiếng, Maria Salus Populi Romani hay Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân thành Rôma.
Đức Phanxicô trước đây đã nói rằng ngài muốn được chôn cất tại đền thờ này, nơi ngài đã đến thăm trước và sau mỗi chuyến công du quốc tế và sau mỗi lần nằm bệnh viện kể từ khi được bầu vào năm 2013.
Trong cuộc họp báo ngày 22 tháng 3 thông báo về việc xuất viện, các bác sĩ cho biết ban đầu Đức Giáo Hoàng bị “suy hô hấp cấp tính” và đã hai lần lên cơn suy hô hấp khiến tính mạng bị đe dọa trong suốt 38 ngày nằm bệnh viện.
Tuy nhiên, Vị Giáo Hoàng 88 tuổi đã có sự hồi phục đáng kinh ngạc mặc dù đã thoát chết trong gang tấc. Dù thế, các bác sĩ đã yêu cầu ngài phải nghỉ ngơi trong hai tháng sau khi trở về nơi ở tại Vatican vào Chúa Nhật.
Trong bài huấn đức, Đức Giáo Hoàng tập trung vào khía cạnh kiên nhẫn của Chúa, mà ngài nhấn mạnh rằng đó là lời mời gọi các tín hữu biến cuộc sống của họ thành “thời gian hoán cải”.
“Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả cằn cỗi, chưa sinh trái như mong đợi, nhưng người nông dân không muốn chặt bỏ”, ngài nói, khi nhắc đến bài Tin Mừng hôm Chúa Nhật trích từ Phúc Âm Thánh Luca.
Thay vào đó, người nông dân nói rằng ông sẽ bón phân lại cho cây để xem liệu nó có ra trái trong tương lai không, “người nông dân kiên nhẫn này chính là Chúa, người cẩn thận cày xới mảnh đất cuộc đời chúng ta và tin tưởng chờ đợi chúng ta trở về với Người”.
Đức Phanxicô cho biết trong thời gian nằm bệnh viện, ngài đã có thể tự mình trải nghiệm sự kiên nhẫn của Chúa, là điều mà ngài cũng thấy rõ qua “sự chăm sóc không mệt mỏi” mà các bác sĩ và nhân viên y tế, cũng như gia đình người bệnh dành cho ngài và những bệnh nhân khác.
“Sự kiên nhẫn tin tưởng này, được neo chặt vào tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ suy yếu, thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là khi phải đối mặt với những tình huống khó khăn và đau đớn nhất”, ngài nói.
Ngài bày tỏ sự buồn bã trước việc “các cuộc ném bom dữ dội của Israel” tiếp tục diễn ra ở Dải Gaza sau một thỏa thuận ngừng bắn mong manh, đồng thời than thở về số người chết và bị thương ngày càng tăng.
“Tôi yêu cầu các vũ khí phải ngay lập tức ngừng tiếng”, ngài nói và bày tỏ hy vọng rằng tất cả các bên sẽ “có đủ can đảm để nối lại đối thoại, để tất cả các con tin được giải thoát và đạt được lệnh ngừng bắn chắc chắn”.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng than thở về cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Gaza và bày tỏ hy vọng rằng các bên tham chiến và cộng đồng quốc tế sẽ có “cam kết nghiêm chỉnh và cấp bách” để xoa dịu tình hình.
Ngài bày tỏ sự hài lòng về thỏa thuận về phép thử cuối cùng của hiệp định hòa bình giữa Armenia và Azerbaijan, đồng thời hy vọng rằng hiệp định sẽ được ký kết “sớm nhất có thể” và dẫn đến “một nền hòa bình lâu dài” ở Nam Kavkaz.
Đức Giáo Hoàng kết thúc bài phát biểu của mình bằng lời cảm ơn các tín hữu vì sự kiên nhẫn và bền bỉ cầu nguyện cho sức khỏe và sự phục hồi của ngài, đồng thời cho biết ngài cũng đang cầu nguyện cho đàn chiên của mình.
Ngài cũng đưa ra lời kêu gọi hòa bình cho các quốc gia đang có chiến tranh, bao gồm Ukraine, Israel, Palestine, Li Băng, Miến Điện, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Source:Crux
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại Lễ Acies Legiô Mariae Curia Nữ Vương Mân Côi - tại Panania, Sydney NSW
Khanh Lai
17:07 23/03/2025
Đại Lễ Acies Legiô Mariae Curia Nữ Vương Mân Côi - tại Panania, Sydney NSW
Xem hình ảnh:
Lễ Acies là một nghi thức quan trọng của Legio Mariae - Đạo Binh Đức Mẹ, tổ chức Công giáo hoạt động tông đồ dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria. Đây là một buổi tuyên thệ dâng mình và thể hiện lòng trung thành với Đức Mẹ, được tổ chức hàng năm vào khoảng thời gian gần lễ Truyền Tin, năm nay Legio Mariae Curia Nữ Vương Mân Côi tổng giáo phận Sydney được tổ chức vào ngày 22/3/2025 tại Thánh Đường St Christopher Panania. Lúc 9.30 sáng tới 2.30 chiều, với sự tham dự của 750 hội viên.
Acies trong tiếng Latinh có nghĩa là "Mặt trận". Nghi thức này tượng trưng cho việc các hội viên của Legio Mariae tái khẳng định sự phó thác trọn vẹn vào Đức Mẹ.
• Hội viên đến với Mẹ như một chiến sĩ đến với vị chỉ huy của mình, để được củng cố sức mạnh và hồng ân thiêng liêng.
• Đây cũng là dịp để các hội viên Legio thể hiện sự hiệp nhất và lòng trung thành với sứ mạng của mình.
Kinh khai mạc vào lúc 9giờ30 sáng tại sân trường, sau đó Cha Linh giám trình bày về ý nghĩa ngày lễ Acies là ngày lễ lớn và đầy đủ ý nghĩa nhất của Legio. Lm. Paul Văn Chi Linh Giám đã giải thích chữ Acies nghĩa là mặt trận, và các hiệu kỳ các đội mang hình quân đội La Mã xưa, hôm nay có hơn 750 hội viên quy tụ về đây tham dự, dù chúng ta có 1878 hội viên hoạt động cũng như tán trợ tất cả. hoạt động 164, tán trợ 1714, nghĩa sĩ 36, bảo trợ 68, Có 13 đội đã xếp hàng đôi theo đội của mình, 4 người đại diện khiêng kiệu Cung Nghinh Nữ Tướng Maria về Thánh Đường St Christopher. Đoàn rước theo thứ tự như sau:

Thánh Giá Nến Cao, Bình Hương.
Hiệu Kỳ Vexillum
Thừa Tác Viên Thánh Thể
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Sầu Bi
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Thiên Chúa
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Thăm Viếng
Hiệu Kỳ & Đội Đức Bà Là Ngôi Sao Sáng
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Truyền Giáo
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Hòa Bình
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo.
Hiệu Kỳ & Đội Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Truyền Tin
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Hiệu Kỳ & Đội Vương Các Thánh Nam Nữ
Kiệu Nữ Tướng Maria
Quý Tu Sĩ
Quý Cha Linh Giám
Cha Chủ Tế
Kiệu Đức Mẹ an vị bên trái cung thánh, một điều hợp viên lên chào mừng cha Linh giám, Quý cha, và toàn thể hội viên, và đọc thông qua chương trình Đại Lễ Acies. Điều hợp viên giới thiệu Anh Trưởng Curia. Anh Lý Ngọc Thuyên trưởng hội Legio giới thiệu các đơn vị rước Hiệu Kỳ từ cuối Thánh Đường lên Cung Thánh. Sau đó là huấn từ của Cha Linh Giám.
Tất cả hội viên trở lại nhà thờ sau giờ giải lao, để chuẩn bị cho Nghi Thức dâng mình cho Đức Mẹ. Tất cả 750 hội viên vào Nhà Thờ sốt sắng tham dự Nghi Thức dâng mình cho Đức Mẹ. Quý Cha Linh giám, Quý Trợ giám và mọi hội viên trước nhan Mẹ bắt đầu với tâm tình ca khúc “Tận Hiến cho Mẹ.”
Nghi thức chính của Lễ Acies
• Tâm điểm của buổi lễ là nghi thức "Tuyên Thệ Trung Thành" - Consecration to Our Lady.
• Mỗi hội viên lần lượt tiến đến trước tượng Đức Mẹ, đặt tay lên Vexillum, cờ hiệu của Legio Mariae, và đọc lời dâng mình tuyên thệ:
"Lạy Nữ Vương của con, toàn thân con thuộc về Mẹ, và mọi sự của con là của Mẹ."
• Sau đó, hội viên lùi lại một bước để nhường chỗ cho người kế tiếp.
• Thánh lễ đồng tế có 4 cha, được cử hành sau nghi thức dâng mình tuyên thệ.
Tất cả hội viên của Legio Mariae, bao gồm hội viên hoạt động và hội viên tán trợ, đều được mời gọi tham gia. Đây là bổn phận quan trọng, vì Legio xem Lễ Acies như một dịp đặc biệt để củng cố tinh thần và cam kết với Đức Mẹ.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ anh trưởng Curia có đôi lời cám ơn Quý cha, quý ân nhân, quan khách, và tất cả anh chị hội viên đã cộng tác trong dịp Đại Lễ Acies này của. Mọi người cùng đọc kinh Catena trước khi kết lễ.
Lễ Acies là một truyền thống thiêng liêng và ý nghĩa, giúp hội viên của Legio Mariae luôn nhớ rằng họ đang chiến đấu dưới sự dẫn dắt của Đức Mẹ Maria, với mục tiêu là phục vụ Thiên Chúa và Hội Thánh. Mọi người ra ngoài nhà thờ và nhận lãnh phần ăn trưa và nước uống trước khi ra về trong tinh thần Hành Hương Hy Vọng với Mẹ Maria.
Khanh Lai tường trình
Xem hình ảnh:
Lễ Acies là một nghi thức quan trọng của Legio Mariae - Đạo Binh Đức Mẹ, tổ chức Công giáo hoạt động tông đồ dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria. Đây là một buổi tuyên thệ dâng mình và thể hiện lòng trung thành với Đức Mẹ, được tổ chức hàng năm vào khoảng thời gian gần lễ Truyền Tin, năm nay Legio Mariae Curia Nữ Vương Mân Côi tổng giáo phận Sydney được tổ chức vào ngày 22/3/2025 tại Thánh Đường St Christopher Panania. Lúc 9.30 sáng tới 2.30 chiều, với sự tham dự của 750 hội viên.
Acies trong tiếng Latinh có nghĩa là "Mặt trận". Nghi thức này tượng trưng cho việc các hội viên của Legio Mariae tái khẳng định sự phó thác trọn vẹn vào Đức Mẹ.
• Hội viên đến với Mẹ như một chiến sĩ đến với vị chỉ huy của mình, để được củng cố sức mạnh và hồng ân thiêng liêng.
• Đây cũng là dịp để các hội viên Legio thể hiện sự hiệp nhất và lòng trung thành với sứ mạng của mình.
Kinh khai mạc vào lúc 9giờ30 sáng tại sân trường, sau đó Cha Linh giám trình bày về ý nghĩa ngày lễ Acies là ngày lễ lớn và đầy đủ ý nghĩa nhất của Legio. Lm. Paul Văn Chi Linh Giám đã giải thích chữ Acies nghĩa là mặt trận, và các hiệu kỳ các đội mang hình quân đội La Mã xưa, hôm nay có hơn 750 hội viên quy tụ về đây tham dự, dù chúng ta có 1878 hội viên hoạt động cũng như tán trợ tất cả. hoạt động 164, tán trợ 1714, nghĩa sĩ 36, bảo trợ 68, Có 13 đội đã xếp hàng đôi theo đội của mình, 4 người đại diện khiêng kiệu Cung Nghinh Nữ Tướng Maria về Thánh Đường St Christopher. Đoàn rước theo thứ tự như sau:

Thánh Giá Nến Cao, Bình Hương.
Hiệu Kỳ Vexillum
Thừa Tác Viên Thánh Thể
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Sầu Bi
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Thiên Chúa
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Thăm Viếng
Hiệu Kỳ & Đội Đức Bà Là Ngôi Sao Sáng
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Truyền Giáo
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Hòa Bình
Hiệu Kỳ & Đội Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo.
Hiệu Kỳ & Đội Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Truyền Tin
Hiệu Kỳ & Đội Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Hiệu Kỳ & Đội Vương Các Thánh Nam Nữ
Kiệu Nữ Tướng Maria
Quý Tu Sĩ
Quý Cha Linh Giám
Cha Chủ Tế
Kiệu Đức Mẹ an vị bên trái cung thánh, một điều hợp viên lên chào mừng cha Linh giám, Quý cha, và toàn thể hội viên, và đọc thông qua chương trình Đại Lễ Acies. Điều hợp viên giới thiệu Anh Trưởng Curia. Anh Lý Ngọc Thuyên trưởng hội Legio giới thiệu các đơn vị rước Hiệu Kỳ từ cuối Thánh Đường lên Cung Thánh. Sau đó là huấn từ của Cha Linh Giám.
Tất cả hội viên trở lại nhà thờ sau giờ giải lao, để chuẩn bị cho Nghi Thức dâng mình cho Đức Mẹ. Tất cả 750 hội viên vào Nhà Thờ sốt sắng tham dự Nghi Thức dâng mình cho Đức Mẹ. Quý Cha Linh giám, Quý Trợ giám và mọi hội viên trước nhan Mẹ bắt đầu với tâm tình ca khúc “Tận Hiến cho Mẹ.”
Nghi thức chính của Lễ Acies
• Tâm điểm của buổi lễ là nghi thức "Tuyên Thệ Trung Thành" - Consecration to Our Lady.
• Mỗi hội viên lần lượt tiến đến trước tượng Đức Mẹ, đặt tay lên Vexillum, cờ hiệu của Legio Mariae, và đọc lời dâng mình tuyên thệ:
"Lạy Nữ Vương của con, toàn thân con thuộc về Mẹ, và mọi sự của con là của Mẹ."
• Sau đó, hội viên lùi lại một bước để nhường chỗ cho người kế tiếp.
• Thánh lễ đồng tế có 4 cha, được cử hành sau nghi thức dâng mình tuyên thệ.
Tất cả hội viên của Legio Mariae, bao gồm hội viên hoạt động và hội viên tán trợ, đều được mời gọi tham gia. Đây là bổn phận quan trọng, vì Legio xem Lễ Acies như một dịp đặc biệt để củng cố tinh thần và cam kết với Đức Mẹ.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ anh trưởng Curia có đôi lời cám ơn Quý cha, quý ân nhân, quan khách, và tất cả anh chị hội viên đã cộng tác trong dịp Đại Lễ Acies này của. Mọi người cùng đọc kinh Catena trước khi kết lễ.
Lễ Acies là một truyền thống thiêng liêng và ý nghĩa, giúp hội viên của Legio Mariae luôn nhớ rằng họ đang chiến đấu dưới sự dẫn dắt của Đức Mẹ Maria, với mục tiêu là phục vụ Thiên Chúa và Hội Thánh. Mọi người ra ngoài nhà thờ và nhận lãnh phần ăn trưa và nước uống trước khi ra về trong tinh thần Hành Hương Hy Vọng với Mẹ Maria.
Khanh Lai tường trình
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt cuộc gặp gỡ đối thoại thành Nazareth
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
02:52 23/03/2025
Khuôn mặt cuộc gặp gỡ đối thoại thành Nazareth
Hằng năm Giáo Hội mừng ngày lễ Thiên Thần Gabriel truyền tin cho mẹ Maria ở thành Nazareth nước Do Thái vùng Galileo vào ngày 25. Tháng Ba dương lịch.
Tại sao lại mừng biến cố này vào ngày 25.Tháng Ba?
Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai mang tin chương trình của Ngài cho thiếu nữ Maria thành Nazareth, như phúc âm thuật lại.( Lc 1,26-38). Không có bút tích sử sách nào ghi chép lại ngày tháng Thiên Thần Thiên Chúa hiện đến truyền tin cho Maria.
Năm 313 sau Chúa giáng sinh, hoàng đế Constantino của đế quốc Roma ra chiếu chỉ cho tự do tôn giáo trong xã hội. Đạo Công giáo được công nhận, và những lễ nghi thờ kính Thiên Chúa theo Kitô giáo bắt đầu phát triển sống động trở lại, sau những năm tháng bị cấm cách bắt bớ phải sống lén lút trong nhà, trong hầm mộ!
Trong bầu không khí tự do đó, Giáo Hội Công giáo Roma đã chọn ngày 25. Tháng 12. là ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô trong toàn thể Giáo hội Công giáo, Đấng là Mặt trời công chính của Thần Thánh trời cao, thay thế cho lễ mừng Thần Mặt Trời của dân ngoại Roma thời lúc đó. Và theo bút tích sử sách, lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu ngày 25. Tháng 12. chính thức bắt đầu mừng rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội từ năm 336 sau Chúa giáng sinh.
Theo chu kỳ thiên nhiên đã khắc ghi ấn định, và khoa học y khoa đã khảo sát nghiên cứu đến kết luận xưa nay trong xã hội loài người: sự sống bào thai của một con người phát triển chín tháng dài trong cung lòng mẹ trước khi mở mắt chào đời. Đây là một mầu nhiệm thiên nhiên do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã ấn định nên như thế.
Vì thế thời gian chín tháng bào thai hài nhi Giêsu sống phát triển trong cung lòng mẹ Maria cho đến ngày 25.tháng 12., ngày sinh nhật Chúa Giêsu chào đời, phải là ngày 25.tháng Ba.
Thánh giáo phụ Augustino ( 364-430) trong thiên bàn luận về Thiên Chúa Ba Ngôi, đã nói đến truyền thống cũ trước đó về suy luận Chúa Giêsu Kitô đã thành hình là một bào thai trong cung lòng mẹ Maria tám ngày trước tháng Tư, như thế vào ngày 25. Tháng Ba.
Trong dòng thời gian thời Trung cổ, ngày lễ này dần trở thành một ngày chính trong lịch sử ơn cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngày lễ mừng 25.tháng Ba qua dòng thời gian nhiều thế hệ có danh hiệu là “ lễ truyền tin của mẹ Maria!”. Nhưng Giáo hội ngày nay cho là lễ của Thiên Chúa. Vì mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là trung tâm chính yếu của ngày lễ này. Vì thế lễ có danh hiệu là “ Lễ truyền tin của Thiên Chúa”.
Thiên Thần Chúa hiện đến với Maria truyền tin của Thiên Chúa cho Maria. Nhưng biến cố thần thánh này lại biến thành cuộc đối thoại giữa Maria và Thiên Thần Gabriel về khả năng giới hạn của con người và về quyền năng làm phép lạ tối cao của Thiến Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Cuộc đối thoại diễn xảy ra trong sự hoài nghi bối rối của thiếu nữ Maria miền làng quê Nazareth đối chất với Thiên Thần Gabriel “ Việc đó làm sao có thể được, làm sao tôi có thể mang thai có con. Vì theo lộ trình hóa học sinh lý thiên nhiên thông thường, tôi không có đời sống vợ chồng?”.
Thấu hiểu tâm trạng chao đảo bất an của Maria, nênThiên Thần trấn an lý giải với lời đoan hứa: Chị an tâm, đừng lo sợ gì. Đức Chúa Thánh Thần sẽ rợp bóng trên tâm hồn con người chị, làm phép lạ cho qúa trình thụ thai nơi cung lòng chị, mà không cần phải qua lộ trình sinh lý hóa học của đời sống vợ chồng. Phải, suy nghĩ như của chị, chỉ là của con người thôi. Nhưng với Thiên Chúa, đâu có gì là không có thể thực hiện được. Thiên Chúa là nguồn sự sống, nguồn năng lượng cho thành hình phát triển trong thiên nhiên.
Và thiếu nữ Maria sau cuộc đối thoại với Thiên Thần đã chập nhận để chương trình phép lạ ơn cứu chuộc thần thánh của Thiên Chúa được thực hiện nơi con người trần gian bắt đầu nơi mình: Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người trong cung lòng trinh nữ Maria.
Lời Thiên Chúa “ hãy có” ( St 1.1) từ khởi nguyên chiếu tỏa quyền uy sức mạnh thần thánh tạo dựng nên vũ trụ thiên nhiên cùng các loài sự sống trong đó.
Lời của mẹ Maria “ xin vâng như lời Thiên Chúa truyền” mở ra con đường cho ơn đức cứu chuộc thần thánh linh thiêng từ Thiên Chúa xuống cho con người trần gian. Thiên Chúa xuống trần gian làm người, để con người được cứu chuộc giữ được địa vị làm con Thiên Chúa.
Lễ mừng “ Truyền tin của Thiên Chúa” ngày 25.tháng ba còn mang đặc tính cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Hai yếu tố thiên tính và nhân tính gặp gỡ giao thương với nhau: Ý định chương trình của Thiên Chúa và lời xin vâng của con người.
Phép lạ của sự sống mới bắt đầu thành hình với cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa, Thiên Thần Chúa Gabriel, và con người, thiếu nữ Maria. Sự sống thành hình khởi đầu từ nơi Thiên Chúa trong ý muốn và trong Lời của Ngài.
Cuộc gặp gỡ Thiên Thần với thiếu nữ Maria thành Nazareth mang đến niềm vui thần thánh của trời cao cho nhân loại. Và niềm vui thần thánh đó còn được thể hiện nối tiếp sau đó trong cuộc gặp gỡ giữa Maria, người mẹ mang bào thai Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, đến thăm viếng chị Elisabeth, người mẹ đang mang trong cung lòng bào thai ông Thánh Gioan tẩy gỉa. ( Lc 1,31-56).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội mừng ngày lễ Thiên Thần Gabriel truyền tin cho mẹ Maria ở thành Nazareth nước Do Thái vùng Galileo vào ngày 25. Tháng Ba dương lịch.
Tại sao lại mừng biến cố này vào ngày 25.Tháng Ba?
Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai mang tin chương trình của Ngài cho thiếu nữ Maria thành Nazareth, như phúc âm thuật lại.( Lc 1,26-38). Không có bút tích sử sách nào ghi chép lại ngày tháng Thiên Thần Thiên Chúa hiện đến truyền tin cho Maria.
Năm 313 sau Chúa giáng sinh, hoàng đế Constantino của đế quốc Roma ra chiếu chỉ cho tự do tôn giáo trong xã hội. Đạo Công giáo được công nhận, và những lễ nghi thờ kính Thiên Chúa theo Kitô giáo bắt đầu phát triển sống động trở lại, sau những năm tháng bị cấm cách bắt bớ phải sống lén lút trong nhà, trong hầm mộ!
Trong bầu không khí tự do đó, Giáo Hội Công giáo Roma đã chọn ngày 25. Tháng 12. là ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô trong toàn thể Giáo hội Công giáo, Đấng là Mặt trời công chính của Thần Thánh trời cao, thay thế cho lễ mừng Thần Mặt Trời của dân ngoại Roma thời lúc đó. Và theo bút tích sử sách, lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu ngày 25. Tháng 12. chính thức bắt đầu mừng rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội từ năm 336 sau Chúa giáng sinh.
Theo chu kỳ thiên nhiên đã khắc ghi ấn định, và khoa học y khoa đã khảo sát nghiên cứu đến kết luận xưa nay trong xã hội loài người: sự sống bào thai của một con người phát triển chín tháng dài trong cung lòng mẹ trước khi mở mắt chào đời. Đây là một mầu nhiệm thiên nhiên do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã ấn định nên như thế.
Vì thế thời gian chín tháng bào thai hài nhi Giêsu sống phát triển trong cung lòng mẹ Maria cho đến ngày 25.tháng 12., ngày sinh nhật Chúa Giêsu chào đời, phải là ngày 25.tháng Ba.
Thánh giáo phụ Augustino ( 364-430) trong thiên bàn luận về Thiên Chúa Ba Ngôi, đã nói đến truyền thống cũ trước đó về suy luận Chúa Giêsu Kitô đã thành hình là một bào thai trong cung lòng mẹ Maria tám ngày trước tháng Tư, như thế vào ngày 25. Tháng Ba.
Trong dòng thời gian thời Trung cổ, ngày lễ này dần trở thành một ngày chính trong lịch sử ơn cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngày lễ mừng 25.tháng Ba qua dòng thời gian nhiều thế hệ có danh hiệu là “ lễ truyền tin của mẹ Maria!”. Nhưng Giáo hội ngày nay cho là lễ của Thiên Chúa. Vì mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là trung tâm chính yếu của ngày lễ này. Vì thế lễ có danh hiệu là “ Lễ truyền tin của Thiên Chúa”.
Thiên Thần Chúa hiện đến với Maria truyền tin của Thiên Chúa cho Maria. Nhưng biến cố thần thánh này lại biến thành cuộc đối thoại giữa Maria và Thiên Thần Gabriel về khả năng giới hạn của con người và về quyền năng làm phép lạ tối cao của Thiến Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Cuộc đối thoại diễn xảy ra trong sự hoài nghi bối rối của thiếu nữ Maria miền làng quê Nazareth đối chất với Thiên Thần Gabriel “ Việc đó làm sao có thể được, làm sao tôi có thể mang thai có con. Vì theo lộ trình hóa học sinh lý thiên nhiên thông thường, tôi không có đời sống vợ chồng?”.
Thấu hiểu tâm trạng chao đảo bất an của Maria, nênThiên Thần trấn an lý giải với lời đoan hứa: Chị an tâm, đừng lo sợ gì. Đức Chúa Thánh Thần sẽ rợp bóng trên tâm hồn con người chị, làm phép lạ cho qúa trình thụ thai nơi cung lòng chị, mà không cần phải qua lộ trình sinh lý hóa học của đời sống vợ chồng. Phải, suy nghĩ như của chị, chỉ là của con người thôi. Nhưng với Thiên Chúa, đâu có gì là không có thể thực hiện được. Thiên Chúa là nguồn sự sống, nguồn năng lượng cho thành hình phát triển trong thiên nhiên.
Và thiếu nữ Maria sau cuộc đối thoại với Thiên Thần đã chập nhận để chương trình phép lạ ơn cứu chuộc thần thánh của Thiên Chúa được thực hiện nơi con người trần gian bắt đầu nơi mình: Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người trong cung lòng trinh nữ Maria.
Lời Thiên Chúa “ hãy có” ( St 1.1) từ khởi nguyên chiếu tỏa quyền uy sức mạnh thần thánh tạo dựng nên vũ trụ thiên nhiên cùng các loài sự sống trong đó.
Lời của mẹ Maria “ xin vâng như lời Thiên Chúa truyền” mở ra con đường cho ơn đức cứu chuộc thần thánh linh thiêng từ Thiên Chúa xuống cho con người trần gian. Thiên Chúa xuống trần gian làm người, để con người được cứu chuộc giữ được địa vị làm con Thiên Chúa.
Lễ mừng “ Truyền tin của Thiên Chúa” ngày 25.tháng ba còn mang đặc tính cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Hai yếu tố thiên tính và nhân tính gặp gỡ giao thương với nhau: Ý định chương trình của Thiên Chúa và lời xin vâng của con người.
Phép lạ của sự sống mới bắt đầu thành hình với cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa, Thiên Thần Chúa Gabriel, và con người, thiếu nữ Maria. Sự sống thành hình khởi đầu từ nơi Thiên Chúa trong ý muốn và trong Lời của Ngài.
Cuộc gặp gỡ Thiên Thần với thiếu nữ Maria thành Nazareth mang đến niềm vui thần thánh của trời cao cho nhân loại. Và niềm vui thần thánh đó còn được thể hiện nối tiếp sau đó trong cuộc gặp gỡ giữa Maria, người mẹ mang bào thai Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, đến thăm viếng chị Elisabeth, người mẹ đang mang trong cung lòng bào thai ông Thánh Gioan tẩy gỉa. ( Lc 1,31-56).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Văn Hóa
Đọc Joseph Ratzinger, Nhà thần học của tính liên tục: Nguồn cứ liệu thần học của các phong trào giáo hội
Vũ Văn An
18:27 23/03/2025
Nguồn cứ liệu thần học của các phong trào giáo hội
Chỉ khi người ta được Chúa Kitô tác động và mở toang các chiều sâu thẳm nhất của họ, họ mới có thể làm người khác xúc động từ nội thẳm, mới có thể hòa giải trong Chúa Thánh Thần, mới làm cho cộng đồng phát triển thực sự.

Trong thông điệp vĩ đại về truyền giáo, Redemptoris missio, Đức Thánh Cha nói:
“Bên trong Giáo Hội, có nhiều loại phục vụ, chức năng, thừa tác vụ và những cách cổ vũ đời sống Kitô hữu. Tôi nghĩ tới sự phát triển mới xảy ra ở nhiều giáo hội trong thời gian gần đây, sự phát triển nhanh chóng của "các phong trào giáo hội" đầy tính năng động truyền giáo. Khi những phong trào này khiêm nhu tìm cách trở thành cuộc sống của các giáo hội địa phương và được chào đón bởi giám mục và linh mục trong các cơ cấu giáo phận và giáo xứ, họ đại diện cho một hồng phúc của Thiên Chúa ban cho cả việc tân Tin Mừng hóa và hoạt động truyền giáo được gọi đúng cách. Do đó, tôi tiến cử để chúng được lan truyền và được sử dụng để cung cấp năng lực tươi mới, đặc biệt là trong giới trẻ, cho đời sống Kitô hữu và việc rao giảng Tin Mừng, trong một quan điểm đa nguyên về những cách trong đó các Kitô hữu có thể liên kết và tự phát biểu” (1)
Quả là một biến cố tuyệt vời đối với bản thân tôi khi tôi đến tiếp xúc gần hơn với các phong trào như Neocatecumenate [Tân Dự Tòng], Hiệp thông và Giải phóng, và Focolare và cảm nghiệm năng lực và sự nhiệt tình mà với chúng, họ đã sống đức tin và được thúc đẩy bởi niềm vui của họ trong việc chia sẻ với người khác món quà mà họ đã nhận được. Đó là vào đầu những năm 1970, thời điểm mà Karl Rahner và những người khác đang nói về một mùa đông trong Giáo Hội. Và dường như, sau sự nở rộ của Công đồng, sương giá đã lẻn vào thay vì mùa xuân, và sự mệt mỏi đó đang thay thế tính năng động. Tính năng động bây giờ dường như ở một nơi khác hoàn toàn, nơi người ta, dựa vào sức mình chứ không nhờ đến Thiên Chúa, đang bắt đầu tạo ra một thế giới tốt hơn cho tương lai. Việc một thế giới không có Thiên Chúa thì không thể tốt đẹp được, chứ đừng nói đến một thế giới tốt đẹp hơn, là điều hiển nhiên đối với bất cứ ai có con mắt để nhìn. Nhưng Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này? Trên thực tế, há Giáo hội đã không trở nên mệt mỏi và chán nản sau rất nhiều cuộc tranh luận và vì vậy tìm kiếm nhiều cấu trúc mới đó sao? Điều Rahner đang nói là hoàn toàn có thể hiểu được. Nó nói thành lời một kinh nghiệm mà tất cả chúng ta đều có. Nhưng đột nhiên đây là một điều không được ai lên kế hoạch. Có thể nói, ở đây, chính Chúa Thánh Thần đã chiếm diễn đàn. Đức tin đã được đánh thức trở lại chính trong giới trẻ, những người ôm lấy nó mà không có những chữ nếu, và, hoặc nhưng, mà không tránh né những cửa sập và lỗ hổng, và là những người đã trải nghiệm nó một cách tổng thể như một món quà quý giá, mang lại sự sống. Chắc chắn, nhiều người cảm thấy rằng điều này can thiệp vào các cuộc thảo luận trí thức của họ hoặc các mô hình của họ để tái thiết kế một Giáo Hội hoàn toàn khác theo hình ảnh riêng của họ -làm thế nào có thể khác được? Mỗi sự can thiệp của Chúa Thánh Thần luôn làm đảo lộn các kế hoạch của con người. Nhưng trước đây và hiện vẫn còn nhiều khó khăn nghiêm trọng hơn nữa. Vì những phong trào này đều cùng có chung những căn bệnh thơ ấu. Người ta có thể cảm nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong chúng, nhưng Chúa Thánh Thần luôn hoạt động thông qua con người và không hề giải phóng họ khỏi những điểm yếu của họ. Đã có các xu hướng độc quyền và phiến diện khiến chúng không thể hòa mình vào đời sống của các giáo hội địa phương. Được đà lực tuổi trẻ nâng đỡ, họ tin chắc rằng giáo hội địa phương, có thể nói như thế, phải tự nâng mình lên bình diện của họ, trong khi họ muốn giữ bản thân khỏi bị kéo vào một cấu trúc mà chắc chắn đôi khi thực sự gây khó chịu. Các va chạm nẩy sinh trong đó cả hai bên đều có lỗi theo những cách khác nhau. Điều trở nên cần thiết là suy tư về việc làm cách nào để liên hệ đúng đắn hai thực tại, sự thức tỉnh mới [Aufbruch] trong bối cảnh tình hình hiện nay, một mặt, và, mặt khác, các cấu trúc vĩnh viễn của đời sống Giáo Hội, giáo xứ và giáo phận. Ở một qui mô lớn, các vấn đề đang bị đe dọa là những vấn đề rất thực tế mà nội dung lý thuyết của nó không nên bị thổi phồng quá mức. Mặt khác, chúng ta đang bàn tới một hiện tượng tái diễn định kỳ dưới nhiều hình thức khác nhau trong suốt lịch sử của Giáo Hội. Có cấu trúc căn bản vĩnh viễn của đời sống Giáo hội, mang lại sự liên tục cho việc tổ chức Giáo hội trong suốt lịch sử, và có những đột xuất luôn đổi mới của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng hồi sinh và làm mới cấu trúc này. Nhưng sự đổi mới này hầu như không bao giờ xảy ra hoàn toàn không có đau đớn và va chạm. Như thế, cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua câu hỏi căn bản về việc làm cách nào xác định chính xác vị trí thần học của những "phong trào" này trong tính liên tục về mặt cấu trúc của Giáo Hội.
I. Nỗ lực làm sáng tỏ vấn đề thông qua phép biện chứng của các nguyên tắc
A. Định chế và Đặc sủng
Nhị nguyên tính định chế và biến cố, hoặc định chế và đặc sủng, ngay lập tức tự gợi ý như là một mô hình căn bản để giải quyết vấn đề. Nhưng nếu chúng ta cố gắng phân tích hai thuật ngữ chặt chẽ hơn để đi đến các quy tắc hợp lệ để xác định mối liên hệ của chúng thì một điều bất ngờ xảy ra. Khái niệm "định chế" vỡ nát trong bàn tay chúng ta khi chúng ta cố gắng đưa ra một định nghĩa thần học chính xác. Dù sao, đâu là các nhân tố định chế căn bản trong Giáo hội, việc tổ chức vĩnh viễn mang lại cho Giáo hội khuôn dạng đặc biệt của nó? Dĩ nhiên, câu trả lời là chức vụ bí tích ở các mức độ khác nhau: giám mục, linh mục, phó tế. Một cách đáng lưu ý, bí tích mang tên ordo [chức thánh], cuối cùng, là cấu trúc ràng buộc và vĩnh viễn duy nhất có thể nói là mô hình tổ chức cố định của Giáo hội và biến Giáo hội thành một "định chế". Nhưng mãi cho đến thế kỷ này, do động cơ đại kết, việc chỉ danh bí tích ordo đơn giản như "chức vụ" [Amt], mới trở thành thông lệ. Cách sử dụng này đặt ordo hoàn toàn dưới ánh sáng định chế và có tính chất định chế. Nhưng "chức vụ" này là một "bí tích" và sự kiện này báo hiệu một sự xa rời lối hiểu xã hội học thông thường về các định chế. Việc yếu tố cấu trúc của Giáo hội này, vốn là yếu tố vĩnh viễn duy nhất, là một bí tích, có nghĩa là nó phải vĩnh viễn được tái tạo bởi Thiên Chúa. Nó không thuộc quyền sử dụng của Giáo hội, nó không chỉ đơn giản ở đó, và Giáo hội không thể thiết lập nó dựa vào sáng kiến riêng của mình. Nó chỉ hiện hữu đệ nhị đẳng qua một lời mời gọi về phần Giáo Hội. Nó được tạo ra chủ yếu bởi lời mời gọi của Thiên Chúa ngỏ với con người, nghĩa là về mặt đặc sủng – thần khí học. Vì vậy, thái độ duy nhất trong đó nó có thể được chấp nhận và sống là ta không ngừng được lên khuôn bởi tính mới mẻ của ơn gọi, bởi sự tự do không thể bị thao túng của pneuma. Lý do, thực sự là lý do duy nhất, tại sao có thể có việc thiếu linh mục là thế này. Giáo hội không thể tự mình bổ nhiệm các “viên chức”, nhưng phải chờ đợi lời mời gọi từ Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao ngay từ đầu đã có chủ trương cho rằng chức vụ này không thể được thành lập bởi định chế, nhưng phải được khẩn cầu nơi Thiên Chúa. Điều Chúa Giêsu nói trong các Tin Mừng luôn như sau: “mùa gặt thật dồi dào, nhưng thợ gặt thì ít; hãy cầu xin Chúa của vụ mùa gửi thợ gặt vào mùa gặt của Người” (Mt 9:37: XSV). Điều này cũng giải thích tại sao việc kêu gọi Nhóm Mười Hai là kết quả của một đêm Chúa Giêsu đã trải qua trong cầu nguyện (Lc 6:12ff).
Giáo Hội Latinh đã nhấn mạnh một cách rõ ràng tính chất hoàn toàn đặc sủng của thừa tác vụ linh mục bằng cách liên kết, một cách phù hợp với truyền thống Giáo hội cổ xưa, chức linh mục với đức đồng trinh, một nhân đức rõ ràng chỉ có thể hiểu được như một đặc sủng bản thân, không bao giờ đơn giản là bằng cấp chính thức. (2) Yêu cầu tách rời chúng cuối cùng dựa trên quan niệm cho rằng không nên xem xét chức linh mục về phương diện đặc sủng, mà phải xem xét nó như một chức vụ mà bản thân định chế có thể bổ nhiệm để bảo đảm sự an toàn của chính mình và việc thỏa mãn các nhu cầu của mình. Khi mưu toan được đưa ra để nắm quyền kiểm soát chức linh mục nhằm mục đích an toàn định chế, thì loại dây liên kết đặc sủng được ngụ ý bởi đòi hỏi độc thân là một điều tai tiếng cần được loại bỏ càng nhanh càng tốt. Nhưng khi điều đó xảy ra, Giáo hội trong tư cách một tổng thể cũng được hiểu là một tổ chức thuần túy của con người, và sự an toàn có được bằng những phương tiện này không cung cấp được chính những gì nó được định đạt tới. Việc Giáo Hội không phải là định chế của chúng ta, mà là sự đột xuất [irruption] của một điều gì đó khác, việc, từ trong yếu tính, nó vốn thuộc "iuris divini" [thần quyền] có nghĩa là chúng ta không bao giờ có thể tự tạo ra Giáo Hội. Nó có nghĩa là chúng ta không bao giờ có thể sử dụng hoàn toàn tiêu chuẩn định chế, có nghĩa là Giáo hội hoàn toàn là chính mình nơi nó phá vỡ các tiêu chuẩn và phương pháp của định chế con người.
Chắc chắn, bên cạnh bí tích, vốn thực sự là cấu trúc sắp xếp căn bản, cũng còn các định chế thuộc quyền con người thuần túy trong Giáo hội. Các định chế này phục vụ các hình thức cai quản, tổ chức và phối hợp khác nhau có thể và phải phát triển theo nhu cầu của thời đại. Nhưng phải nói rằng, trong khi Giáo Hội cần đến các tổ chức cây nhà lá vườn như thế, khi chúng trở nên quá nhiều và quá mạnh mẽ, chúng gây nguy hiểm cho trật tự và sức sống của yếu tính thiêng liêng của Giáo hội. Giáo Hội phải thường xuyên kiểm tra cơ cấu định chế của riêng mình để giữ cho nó không ôm lấy quá nhiều sức nặng - để ngăn nó khỏi cứng ngắc thành một bộ áo giáp bóp nghẹt đời sống thiêng liêng thực sự của nó. Không cần phải nói rằng, khi Giáo hội không nhận được ơn gọi linh mục trong một thời gian dài hơn, nó có thể rơi vào cơn cám dỗ muốn tạo cho mình điều người ta có thể gọi một hàng giáo sĩ thế phẩm thuần túy có tính nhân quyền. (3) Tất nhiên, Giáo hội phải cố gắng tổ chức các cơ cấu trần thế trong trường hợp cần thiết, và nó đã thực hiện thành công nhiều lần như thế nơi các xứ truyền giáo hoặc trong các tình huống giống như các xứ truyền giáo. Chúng ta chỉ có thể chân thành cảm ơn tất cả những người đã phục vụ và tiếp tục phục vụ Giáo hội trong tư cách những người hướng dẫn cầu nguyện và những người loan báo Tin Mừng trong những tình huống khẩn cấp như vậy. Tuy nhiên, nếu điều này trở thành một cách bỏ bê việc cầu nguyện cho lời mời gọi bí tích, nếu Giáo hội dần dần bắt đầu sử dụng những tình huống như vậy để có được khả năng tự lập và tự biến mình thành độc lập với hồng ân Thiên Chúa, nó sẽ hành động như vua Saolô, người, bị quân Philitinh ép buộc, đã đợi tiên tri Samuên rất lâu, nhưng, khi Samuên không xuất hiện và mọi người đang phá vỡ hàng ngũ, đã mất kiên nhẫn và đề nghị tự sát. Ông nghĩ rằng, do tình hình cấp bách, không có lựa chọn nào khác ngoài việc chính ông có thể và phải nắm lấy công việc của Thiên Chúa vào chính tay mình. Nhưng bây giờ ông được người ta nói cho hay bằng cách làm điều đó ông đã vứt bỏ mọi sự: Ta muốn sự vâng phục chứ không muốn hy lễ (x. 1 Sm 13:8-14; 15:22).
Chúng ta hãy quay trở lại câu hỏi của mình: Làm thế nào để chúng ta mô tả đặc điểm của mối quan hệ giữa khuôn mẫu vĩnh viễn của trật tự Giáo hội và các đột phá đặc sủng luôn luôn mới mẻ? Mô hình định chế- đặc sủng không trả lời được câu hỏi này, bởi vì phản đề [của hai thuật ngữ] không nắm bắt đầy đủ thực tại của Giáo hội.
Tuy nhiên, chúng ta có thể suy ra một vài quy tắc ban đầu từ những gì chúng ta đã nói cho đến nay:
a) Điều quan trọng là chức vụ thiêng liêng, chức linh mục, bản thân nó được hiểu và sống một cách đặc sủng. Bản thân linh mục phải là một người “có tích chất thần khí", một homo spiritualis, một người đàn ông được thức tỉnh và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần. Nhiệm vụ của Giáo hội là bảo đảm rằng đặc tính này của bí tích được nhìn thấy và chấp nhận. Giáo Hội không được đặt các con số ở phía trước và hạ thấp các tiêu chuẩn tâm linh vì nhiệt tình đối với việc phát triển các cấu trúc tổ chức của nó. Nếu làm như vậy, Giáo hội sẽ làm biến dạng ý nghĩa của chính chức linh mục. Một thừa tác vụ được thực hiện kém tạo nhiều hại hơn lợi. Nó trở thành chướng ngại vật trên đường tiến tới chức linh mục và đức tin. Giáo Hội phải giữ vững niềm tin và phải thừa nhận Chúa là người sáng tạo và duy trì nó. Và nó phải làm mọi điều có thể giúp những người được kêu gọi giữ lòng trung thành vượt ra ngoài sự thức tỉnh ban đầu, để tránh dần dần sự ngột ngạt trong thói quen, và ngày càng trở thành những người đàn ông thực sự tâm linh hơn.
b) Nơi chức vụ thiêng liêng được sống một cách theo thần khí và đặc sủng cách này, không có sự cứng ngắc định chế. Thay vào đó, có một sự cởi mở nội tại đối với các đặc sủng, một loại "mũi" hửi được Chúa Thánh Thần và hành động của Người, cũng vậy, đoàn sủng cũng có thể nhận ra nguồn gốc chính mình nơi người giữ chức vụ và tìm được các cách thức hợp tác hiệu quả trong việc biện phân các tinh thần.
c) Trong những tình huống khan hiếm, Giáo hội phải tạo ra những cấu trúc tạm thời. Nhưng những cấu trúc này phải được quan niệm như nội tại cởi mở với bí tích; chúng phải hướng tới nó, không dẫn người ta ra khỏi nó. Nói chung Giáo Hội phải giữ số lượng cấu trúc hành chính do mình tạo ra càng nhỏ càng tốt. Nó không được thể chế hóa quá mức chính nó, nhưng phải luôn luôn cởi mở với những lời mời gọi bất ngờ, không định trước của Chúa.
B. Kitô học và Thần khí học
Bây giờ, những gì đã được nói đặt ra một câu hỏi: nếu chỉ đúng một phần khi coi định chế và đặc sủng là đối lập nhau, đến nỗi cặp thuật ngữ này chỉ cung cấp một phần câu trả lời cho câu hỏi của chúng ta, có lẽ có chăng những quan điểm thần học khác có thể đối phó với nó một cách thỏa đáng hơn? Sự tương phản giữa phương thức Kitô học và thần khí học đối với Giáo Hội đang trở thành một chủ đề ngày càng nổi bật trong thần học đương thời. Tương phản này phát sinh ra chủ trương cho rằng bí tích thuộc về phía Kitô học và sự nhập thể, một điều vốn cần được bổ sung bằng viễn ảnh thần khí học – đặc sủng. Tất nhiên đúng là Chúa Kitô và Thần Khí [Pneuma] phải được phân biệt, nhưng: cũng như chúng ta không được coi ba ngôi trong Ba Ngôi như một sự hiệp thông của ba vị thần, chúng ta phân biệt đúng đắn Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần chỉ khi nào sự đa dạng của các vị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hợp nhất của các vị. Không thể hiểu đúng Chúa Thánh Thần nếu không có Chúa Kitô, nhưng cũng không thể hiểu được Chúa Kitô nếu không có Chúa Thánh Thần. “Chúa là Thần Khí” Thánh Phaolô nói với chúng ta trong thư 2 Côrintô 3:17 (RSV).
Điều này không có nghĩa cả hai vị đơn giản chỉ cùng là một điều hoặc một người. Nhưng điều đó có nghĩa là Chúa Kitô có thể ở giữa chúng ta và cho chúng ta trong tư cách Chúa chỉ khi nào việc nhập thể không phải là việc cuối cùng của Người. Sự nhập thể đạt đến đỉnh cao trong cái chết trên thập giá và trong sự sống lại. Điều này có nghĩa là Chúa Kitô có thể đến chỉ vì Người đã đi trước chúng ta vào trật tự sự sống của Chúa Thánh Thần và thông truyền chính Người qua và trong Chúa Thánh Thần này. Tôi nghĩ, Kitô học thần khí của Thánh Phaolô và các diễn từ từ biệt trong Tin Mừng Gioan chưa được kết hợp rõ ràng đủ cho tầm nhìn của chúng ta về Kitô học và thần khí học. Nhưng sự hiện diện mới của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần là điều kiện thiết yếu cho sự hiện hữu của bí tích và sự hiện diện bí tích của Chúa.
Điều này một lần nữa làm sáng tỏ chức vụ "thiêng liêng" [geistlich] trong Giáo hội và về vị trí thần học của nó, mà truyền thống vốn định nghĩa bằng thuật ngữ "successio apostolica". "Kế thừa tông đồ" có nghĩa hoàn toàn ngược lại với điều nó dường như muốn nói, tức là, thông qua chuỗi kế thừa liên tục chúng ta trở nên độc lập với Chúa Thánh Thần. Thực tế, việc liên kết với dòng thừa kế này có nghĩa là chức vụ bí tích không bao giờ tùy ý chúng ta sử dụng, nhưng mỗi lần đều phải được Chúa Thánh Thần ban cho, nó chính là bí tích- thần khí mà chúng ta không thể tự tạo ra cũng như không tự thiết lập ra. Năng quyền chức năng tự nó chưa đủ, cần phải có ân sủng của Chúa.
Trong bí tích, trong hành động đại diện và tượng trưng của Giáo Hội, Chúa dành cho mình định chế thường trực của thừa tác vụ linh mục. Sự kết hợp hoàn toàn chuyên biệt của đặc tính "một lần" và “luôn luôn” của mầu nhiệm Chúa Kitô xuất hiện rất đẹp ở đây. Tính “luôn luôn” của bí tích, sự hiện diện của nguồn gốc lịch sử trong mọi thời đại của Giáo Hội, bao hàm một mối liên hệ với ephapax [chỉ một lần], với biến cố nguồn gốc chỉ xảy ra một lần. Mối liên hệ với cội nguồn này, chiếc cọc này được cắm vào thửa đất của biến cố chỉ xảy ra một lần và không thể lặp lại, là không thể chuyển nhượng. Chúng ta không bao giờ có thể náu mình trong một nền thần khí học trôi nổi tự do, chúng ta không bao giờ có thể bỏ lại đằng sau cơ sở của sự nhập thể, của hành động Thiên Chúa trong lịch sử. Nhưng điều ngược lại cũng đúng. Biến cố không bao giờ được lặp lại này tự truyền đạt vào ơn phúc Chúa Thánh Thần, Đấng là Thần Khí của Chúa phục sinh. Nó không biến mất, giống như một điều đã chết và đã đi vào quá khứ vĩnh viễn không thể thu hồi được, nhưng có sức mạnh của hiện tại, bởi vì Chúa Kitô đã đi qua “bức màn, tức là qua xác thịt của mình" (Hr 10:20: RSV) và do đó đã giải phóng những gì tồn tại mãi mãi trong những gì chỉ diễn ra một lần. Việc nhập thể không dừng lại ở Chúa Giêsu lịch sử, với “sarx” [thể xác] của Người (2 Cor 5:16!). "Chúa Giêsu lịch sử" có ý nghĩa vĩnh cửu chính vì xác thịt của Người được biến đổi trong sự phục sinh, nên Người có thể hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, như diễn từ chia tay trong Thánh Gioan cho thấy một cách tuyệt vời (x. đặc biệt là Ga 14:28: “Thầy ra đi và đến cùng anh em": RSV). Với sự tổng hợp Kitô học-Thần khí học này, chúng ta có thể mong đợi rằng việc đào sâu khái niệm “kế thừa tông đồ" sẽ thực sự hữu ích giúp giải quyết vấn đề của chúng ta.
C. Phẩm trật và Lời Tiên Tri
Trước khi theo đuổi sâu hơn dòng suy nghĩ này, chúng ta cần phải đề cập ngắn gọn đề xuất thứ ba để giải thích tính nhị nguyên [Gegeniiber] giữa trật tự vĩnh viễn của đời sống giáo hội, một mặt và mặt khác là các phong trào thần khí. Ngày nay, có một xu hướng nào đó cho rằng, dựa trên sự giải thích Kinh thánh của Luther về mặt biện chứng của lề luật và Tin Mừng, phản đối khía cạnh linh mục- phụng tự và khía cạnh tiên tri của lịch sử cứu rỗi. Trong cách đọc này, các phong trào sẽ nằm ở phía tiên tri. Giống như các đề xuất khác mà chúng ta đã xem xét cho đến nay, điều này không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, nó cực kỳ không chính xác và vì lý do này không hữu ích như tình thế hiện nay. Vấn đề nêu ra trong mối liên hệ này quá lớn không thể giải quyết chi tiết ở đây.
Điều đầu tiên cần phải nói khi giải quyết điểm này là bản thân lề luật cũng có tính chất của một lời hứa. Chỉ vì luật pháp có tính chất này mà Chúa Kitô có thể chu toàn nó và, đồng thời “đình chỉ” [aufieben] nó trong hành vi chu toàn.
Thứ hai, các nhà tiên tri viết lách không bao giờ có ý định bãi bỏ Kinh Tôra, nhưng, trái lại, để chứng thực ý nghĩa thực sự của nó chống lại việc lạm dụng.
Cuối cùng, điều quan trọng là sứ mệnh của lời tiên tri đã luôn được giao phó cho những người đơn lẻ và không bao giờ trở thành một giai cấp ổn định [Stand]. Trong chừng mực tiên tri được cho là một “giai cấp”, nó bị phê phán bởi các nhà tiên viết lách cũng gay gắt như “giai cấp” tư tế của Cựu Ước. (4) Đơn giản là không có lệnh nào trong Kinh thánh phải phân chia Giáo hội thành tả và hữu, thành giai cấp tiên tri (được đại diện bởi mệnh lệnh hoặc phong trào), và phẩm trật. Ngược lại: đây là một công trình hoàn toàn xa lạ với Kinh thánh. Giáo Hội không được cấu trúc một cách biện chứng nhưng một cách hữu cơ. Như thế, chỉ chính xác khi có các chức năng khác nhau trong Giáo Hội, và Thiên Chúa liên tục khuấy động những con người tiên tri - họ có thể là giáo dân hoặc tu sĩ, nhưng cũng có thể là các giám mục và linh mục - những người công bố cho nó những chữ đúng vốn không được tuyên bố với đủ sức mạnh trong diễn trình bình thường của “định chế”. Tôi nghĩ, rõ ràng là chúng ta không thể giải thích bản chất và nhiệm vụ của các phong trào từ viễn ảnh này. Chắc chắn nó không nắm bắt được sự hiểu biết của chúng về chính chúng.
Do đó, những suy nghĩ ở trên mang lại kết quả khá ít ỏi cho vấn đề của chúng ta. Tuy nhiên, những kết quả này rất quan trọng. Sự lựa chọn phép biện chứng của các nguyên tắc làm điểm xuất phát của chúng ta không dẫn đến giải pháp mong muốn. Thay vì cố gắng giải quyết vấn đề sử dụng phép biện chứng của các nguyên tắc như vậy, theo ý kiến của tôi, chúng ta phải chọn cách tiếp cận lịch sử sao cho phù hợp với bản chất lịch sử của đức tin và Giáo hội.
II. Các viễn ảnh của Lịch sử: Kế tục Tông đồ và các Phong trào Tông đồ
A. Các Chức vụ Hoàn Cầu và Địa Phương
Vậy chúng ta hãy đặt câu hỏi: nguồn gốc này ra sao? Bất cứ ai có sự quen biết dù chỉ khiêm tốn với những cuộc tranh luận xung quanh Giáo hội mới phát sinh, mà khuôn mẫu của nó được mọi giáo hội và cộng đồng Kitô giáo nại tới để được hợp pháp hóa, đều biết rằng dường như có rất ít triển vọng đạt tới bất cứ điểm nào với loại câu hỏi lịch sử này. Bất chấp điều này, nếu tôi mạo hiểm đưa ra một giải pháp thăm dò từ góc độ này, thì tôi chỉ làm vậy dựa vào quan điểm Công Giáo về Giáo hội và nguồn gốc của nó. Quan điểm này, trong khi đưa ra một khuôn khổ cố định, cũng để ngỏ nhiều lĩnh vực để suy nghĩ thêm, những lãnh vực chưa hề được thăm dò trọn vẹn. Chắc chắn, từ Lễ Ngũ Tuần trở đi, những người trực tiếp gánh vác sứ mệnh của Chúa Kitô là mười hai vị, những người cũng sớm xuất hiện dưới danh xưng "tông đồ". Nhiệm vụ của họ là mang sứ điệp của Chúa Kitô “đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8:RSV), đi đến muôn dân và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (Mt 28:19). Lãnh thổ được giao cho họ thực hiện sứ mệnh này là thế giới.
Không bị giới hạn về nơi chốn, các ngài phục vụ việc xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô, dân tộc duy nhất của Thiên Chúa, Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô. Các tông đồ không phải là giám mục của các giáo hội địa phương đặc thù, mà chỉ là, "tông đồ", và như vậy các ngài chịu trách nhiệm về toàn thế giới và cho toàn thể Giáo hội cần được xây dựng: Giáo hội hoàn vũ đi trước các giáo hội địa phương, đi vào hiện hữu như là những hiện thực hóa cụ thể của nó.(5) Nói một cách rõ ràng hơn và không hàm hồ: Thánh Phaolô chưa bao giờ là giám mục của một nơi đặc thù nào mà ngài cũng không bao giờ có ý định đó. Chỉ có sự phân chia lao động lúc ban đầu, và Thánh Phaolô mô tả nó trong thư Galát 2:9: “Chúng tôi, Banaba và tôi, lo cho dân ngoại, họ, Phêrô, Giacôbê và Gioan, lo cho người Do Thái. Tuy nhiên, sự phân chia ban đầu này đã sớm bị thay thế. Phêrô và Gioan nhận ra rằng họ cũng được gửi đến dân ngoại và ngay lập tức vượt ra ngoài giới hạn của Israel. Gaicôbê, anh em họ của Chúa, người sau năm 42 đã trở thành một loại giáo chủ của Giáo hội Do Thái, chắc chắn không phải là một tông đồ.
Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta có thể nói như sau: chức vụ tông đồ là một chức vụ phổ quát có phạm vi toàn thể nhân loại và do đó là toàn thể Giáo hội duy nhất. Nó là hoạt động truyền giáo của các tông đồ làm phát sinh các giáo hội địa phương, hiện đang cần những người lãnh đạo có trách nhiệm. Đó là nhiệm vụ của những vị này để bảo đảm sự hiệp nhất đức tin với toàn thể Giáo hội, để hình thành đời sống trong giáo hội địa phương, và để giữ cho các cộng đồng cởi mở ngõ hầu khuyến khích việc tăng trưởng hơn nữa và để làm cho hồng ân Tin Mừng thành khả hữu cho những đồng bào chưa tin. Chức vụ giáo hội địa phương [ortskirchlich] này, ban đầu xuất hiện dưới nhiều danh xưng, dần dần mang một bộ dạng cố định, đồng nhất. Khi đó, điều khá rõ ràng là hai cấu trúc đã hiện hữu song song với nhau trong Giáo hội mới phát sinh. Tất nhiên là có một sự uyển chuyển nhất định giữa chúng, nhưng chúng có thể được phân biệt rõ ràng: một mặt, các thừa tác vụ giáo hội địa phương, dần dần phát triển thành hình thức vĩnh viễn; mặt khác, thừa tác vụ tông đồ, rất nhanh không còn bị giới hạn trong mười hai vị. Chúng ta có thể phân biệt rõ ràng hai ý niệm về tư cách tông đồ nơi Thánh Phaolô. Một mặt, ngài mạnh mẽ nhấn mạnh đến nét độc đáo trong hoạt động tông đồ của mình, dựa trên cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Phục sinh và do đó đặt ngài ngang hàng với nhóm mười hai. Mặt khác, ngài hiểu "tông đồ" như một chức vụ vượt xa nhóm này, như trong thư 1Cr 12:28: ý niệm rộng hơn này cũng có trong hậu cảnh khi ngài phong Andronikos và Junias làm tông đồ.
Chúng ta tìm thấy thuật ngữ tương tự trong Êphêsô 2:20, nơi nói về các tông đồ và tiên tri trong tư cách nền tảng của Giáo hội chắc chắn cũng có nghĩa là bao gồm nhiều hơn nhóm mười hai. Trong thế kỷ thứ hai, khi cuốn Didache nói về các nhà tiên tri, thì rõ ràng nó hiểu theo nghĩa một chức vụ truyền giáo, siêu địa phương. Điều đáng lưu ý hơn nữa là Didache nói về họ: "họ là các thượng tế của anh em” (13:3).
Như thế, chúng ta có thể giả định rằng hai loại chức vụ, phổ quát và địa phương, tiếp tục cùng hiện hữu cho đến tận thế kỷ thứ hai, nghĩa là vào thời điểm mà danh tính của người mang việc kế tục tông đồ khá chắc chắn đã trở thành một vấn đề nghiêm túc. Nhiều văn bản khác nhau gợi ý rằng sự cùng hiện hữu của hai cấu trúc không hoàn toàn không có xung đột. Bức thư thứ ba của Thánh Gioan cho chúng ta thấy một thí dụ rất rõ ràng về tình huống xung đột như vậy. Tuy nhiên, khi những "tận cùng trái đất" có thể tiếp cận được vào lúc đó càng đạt được thì việc duy trì một nơi có ý nghĩa cho những “người lữ hành” càng trở nên khó khăn hơn. Sự lạm dụng chức vụ của những người lữ hành này cũng có thể đã góp phần khiến họ biến mất dần dần. Lúc này, việc truyền bá đức tin trong lãnh thổ tương ứng của các giáo hội địa phương tùy thuộc các cộng đồng địa phương và các nhà lãnh đạo của họ, những vị, trong thời gian đó, đã có được một khuôn mạo rất rõ ràng trong tư cách giám mục, linh mục và phó tế. Việc vào thời của Hoàng đế Constantine, các Kitô hữu chiếm khoảng 8% dân số của Đế quốc, và việc thậm chí vào cuối thế kỷ thứ tư họ vẫn là thiểu số, cho thấy đây là một nhiệm vụ to lớn như thế nào. Trong tình huống này những người chủ trì các giáo hội địa phương, các giám mục, phải nhìn nhận rằng bây giờ họ là những người kế vị các tông đồ và nhiệm vụ tông đồ đặt hoàn toàn lên vai họ. Việc nhận ra rằng các giám mục, những người lãnh đạo có trách nhiệm của các giáo hội địa phương, là những người kế vị các tông đồ, đã được trình bày rất rõ ràng trong hậu bán thế kỷ thứ hai bởi thánh Irênê thành Lyon. Việc định nghĩa này về yếu tính của chức vụ giám mục bao hàm hai yếu tố nền tảng:
a) Việc kế tục tông đồ trước hết đòi hỏi ý niệm quen thuộc cho rằng các giám mục bảo đảm tính liên tục và hợp nhất đức tin, trong một tính liên tục mà chúng ta gọi là bí tích.
b) Nhưng việc kế tục tông đồ còn hàm ý một nhiệm vụ cụ thể hơn nữa, một nhiệm vụ vượt xa sự cai quản các giáo hội địa phương: giờ đây, các giám mục phải bảo đảm việc thực hiện sứ mạng của Chúa Giêsu để làm cho mọi quốc gia trở thành môn đệ của Người và mang Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Thánh Irênê nhấn mạnh họ phải chịu trách nhiệm giữ cho Giáo hội không trở thành một loại liên bang các giáo hội địa phương chỉ được đặt cạnh nhau và bảo đảm rằng nó vẫn giữ được tính phổ quát và hợp nhất của nó. Các giám mục phải duy trì tính năng động phổ quát của việc tông đồ.(6)
Lúc đầu, chúng ta đã nói về mối nguy hiểm mà chức vụ linh mục cuối cùng có thể được hiểu theo nghĩa định chế thuần tuý và các thuật ngữ bàn giấy, đến nỗi nó có thể quên đi chiều kích đặc sủng của nó. Giờ đây, mối nguy hiểm thứ hai xuất hiện: chức vụ kế tục tông đồ có thể hao mòn thành thừa tác vụ giáo hội đơn thuần địa phương, nó có thể đánh mất tầm nhìn và trái tim về tính phổ quát của sứ mệnh Chúa Kitô. Các sự bồn chồn thúc đẩy chúng ta mang hồng ân của Chúa Kitô đến cho người khác có thể chết yểu trong tình trạng trì trệ của một Giáo hội được thành lập vững chắc. Tôi xin đặt vấn đề rõ ràng như thế này: khái niệm kế tục tông đồ phóng chiếu vượt ra ngoài giáo hội đơn thuần địa phương, trong đó nó không bao giờ có thể bị cạn kiệt. Chiều kích phổ quát, yếu tố siêu việt các thừa tác vụ giáo hội địa phương vẫn là điều không thể thiếu.
B. Các Phong Trào Tông Đồ Trong Lịch Sử Giáo Hội
Bây giờ chúng ta phải thăm dò sâu hơn và đưa thêm các chất liệu lịch sử cụ thể vào luận đề này, vốn đã dự ứng kết luận cuối cùng của tôi, trong chừng mực nó đưa chúng ta trực tiếp vào vị trí giáo hội của các phong trào. Tôi đã nói trước đó rằng, vì nhiều lý do khác nhau, các thừa tác vụ phổ quát của giáo hội dần dần biến mất vào thế kỷ thứ hai và bị hấp thu vào chức vụ giám mục. Trong nhiều khía cạnh, việc phát triển này không đơn giản là không thể tránh khỏi về mặt lịch sử, nhưng cũng cần thiết về mặt thần học, vì nó mang ra ánh sáng sự hợp nhất giữa bí tích và sự hiệp nhất nội tại của thừa tác vụ tông đồ. Nhưng, như đã nói, nó cũng là một sự phát triển không phải là không có những nguy hiểm của nó. Vì lý do này, điều hoàn toàn hợp luận lý là ngay từ thế kỷ thứ ba, một yếu tố mới đã xuất hiện trong đời sống Giáo hội mà chúng ta có thể không cần bàn cãi gọi là một phong trào: phong trào đơn tu. Bây giờ, người ta có thể phản bác rằng phong trào đơn tu lúc ban đầu không có tính cách tông đồ và truyền giáo, ngược lại, đó là một trốn chạy thế gian để vào các ốc đảo thánh thiện. Chắc chắn, chúng ta có thể quan sát sự thiếu vắng xu hướng truyền giáo để truyền bá đức tin trên khắp thế giới ở thuở khởi đầu của phong trào đơn tu. Với thánh Antôn, người nổi bật như một nhân vật được xác định rõ ràng ở thuở ban đầu của phong trào đơn tu, động lực chủ đạo là ước muốn sống vita evangelica, mong muốn sống theo Tin Mừng một cách triệt để và trọn vẹn. (7) Câu chuyện hoán cải của ngài rất giống với câu chuyện của Thánh Phanxicô thành Assisi. Trong cả hai, chúng ta tìm thấy cùng một sự thúc đẩy hiểu Tin Mừng theo nghĩa đen, theo Chúa Kitô trong sự nghèo khó triệt để, và để Người một mình định hình toàn bộ cuộc sống của một con người. Việc Thánh Antôn khởi hành vào sa mạc là một việc ra khỏi cấu trúc giáo hội địa phương đã được thiết lập vững chắc, ra khỏi một Kitô giáo đã dần dần thích nghi với những đòi hỏi của cuộc sống trần tục, theo Chúa Kitô không có những chữ nếu, và, hoặc nhưng. Nhưng động thái này phát sinh ra một tình phụ tử thiêng liêng mới, một tình phụ tử, dù không có tính chất truyền giáo trực tiếp, dù sao vẫn bổ sung tình phụ tử của các giám mục và linh mục bằng sức mạnh của một cuộc sống hoàn toàn theo thần khí. (8)
Trong các tác phẩm của Thánh Basilêô, người đã cho phong trào đơn tu phương Đông hình thức cố định của nó, chúng ta thấy chính tập hợp các vấn đề mà nhiều phong trào phải đối mặt ngày nay. Thánh Basilêô hoàn toàn không có ý định tạo ra một định chế riêng biệt bên cạnh Giáo hội bình thường. Quy luật đầu tiên và, theo nghĩa chặt chẽ, duy nhất mà ngài soạn tác không được quan niệm - theo cách nói của Balthasar – như một quy luật của một dòng tu, mà là như một quy luật của giáo hội, như "cẩm nang dành cho những Kitô hữu dấn thân." (9) Tuy nhiên, điều này đúng với nguồn gốc của hầu hết mọi phong trào, nhất là những phong trào trong thế kỷ của chúng ta: trọng điểm là tìm kiếm, không phải một cộng đồng riêng biệt, nhưng Kitô giáo nói chung, một Giáo hội tuân theo Tin Mừng và sống bởi nó. Thánh Basilêô, người đầu tiên là một đan sĩ, đã chấp nhận chức vụ giám mục và do đó được minh họa một cách mạnh mẽ trong cuộc đời của chính ngài tính chất đặc sủng của chức vụ đó và tính hợp nhất nội bộ của Giáo Hội. Giống như các phong trào ngày nay, Thánh Basilêô buộc phải chấp nhận sự kiện này là phong trào đi theo Chúa Kitô một cách triệt để không thể sáp nhập hoàn toàn vào giáo hội địa phương. Trong dự thảo thứ hai của một quy luật mà Gribomont gọi là Asketikon nhỏ, Thánh Basilêô quan niệm phong trào như “hình thức chuyển tiếp giữa một nhóm các Kitô hữu dấn thân cởi mở với Giáo hội nói chung và một dòng tu tự tổ chức và tự định chế hóa.” (10) Cũng một Gribomont này coi cộng đồng đơn tu mà Thánh Basilêô thành lập là một "nhóm nhỏ mang lại sức sống cho toàn thể" và không ngần ngại "gọi [Thánh Basilêô] là thánh quan thầy không những của các dòng giảng dạy và các dòng bệnh viện, mà còn của các cộng đồng mới không có lời khấn nữa” (11).
Như thế điều rất rõ ràng là: phong trào đơn tu tạo ra một một trung tâm đời sống mới không xóa bỏ cơ cấu giáo hội địa phương của Giáo hội hậu tông đồ, nhưng không hoàn toàn trùng khớp với nó, nhưng hoạt động bên trong nó như một lực sinh động. Trung tâm này cũng hoạt động như một nguồn dự trữ mà từ đó giáo hội địa phương có thể rút tỉa được một hàng giáo sĩ thực sự thiêng liêng [geistliche-Geistliche] không ngừng đổi mới sự hợp nhất của định chế và đặc sủng. Một thước đo của điều này là sự kiện: Giáo hội Đông phương lựa chọn các giám mục trong số các đan sĩ, do đó định nghĩa chức vụ giám mục như một đặc sủng, vĩnh viễn canh tân nó, có thể nói như thế, từ nguồn tông đồ. Bây giờ nếu chúng ta nhìn vào lịch sử Giáo Hội một cách tổng thể, chúng ta thấy rằng giáo hội địa phương, trong tư cách một hình thức giáo hội mà dấu ấn xác định là chức vụ giám mục, chỉ có thể là cấu trúc hỗ trợ vĩnh viễn bảo vệ tòa nhà của Giáo hội qua mọi thời đại. Mặt khác, Giáo hội cũng có sự đan xen của những đợt sóng liên tiếp các phong trào mới, chúng lên sinh lực lại cho khía cạnh phổ quát của sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội và chính nhờ làm như vậy cũng phục vụ sức sống tinh thần và sự thật của các giáo hội địa phương. Tôi muốn đề cập ngắn gọn năm làn sóng như vậy theo phong trào đơn tu lúc ban đầu. Trong những làn sóng này, yếu tính thiêng liêng của điều mà chúng ta có thể gọi là “các phong trào” xuất hiện ngày càng rõ ràng hơn, cũng như định nghĩa về vị trí giáo hội học của họ.
1) Tôi gọi phong trào đơn tu truyền giáo từng nở rộ đặc biệt giữa thời Đức Grêgôriô Cả (590-604) và Đức Grêgôriô II (715-731) và Đức Grêgôriô III (731-741) như đợt sóng đầu tiên trong số này. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả thừa nhận tiềm năng truyền giáo của phong trào đơn tu, được ngài sử dụng bằng cách gửi Thánh Augustinô, người sẽ trở thành Tổng giám mục Canterbury, và những người bạn đồng hành của ngài tới các người ngoại đạo Angles trên quần đảo Anh. Thậm chí trước đó, Thánh Patrick, người, cũng bắt nguồn thiêng liêng từ phong trào đơn tu, đã tiến hành sứ mệnh tới Ái Nhĩ Lan. Theo cách này, phong trào đơn tu giờ đây đã trở thành phong trào truyền giáo vĩ đại dẫn dắt các dân tộc Đức đến với Giáo Hội Công Giáo và do đó đã xây dựng Châu Âu Kitô giáo mới. Nối liền Đông Tây trong thế kỷ thứ chín, anh em đơn tu Cyril và Methodius đã mang Tin Mừng đến thế giới Slav. Hai trong các yếu tố cấu thành thực tại "các phong trào" rõ ràng xuất phát từ tất cả những điều này:
a) Ngôi vị Giáo hoàng đã không tạo ra các phong trào, nhưng nó đã trở thành điểm quy chiếu chính của chúng trong cấu trúc của Giáo Hội, điểm nâng đỡ giáo hội của họ. Điều này dẫn đến quan điểm có lẽ có ý nghĩa sâu sắc nhất và yếu tính thực sự của chức vụ Phêrô đúng nghĩa: Giám mục Rôma không chỉ là giám mục của một giáo hội địa phương; chức vụ của ngài luôn liên quan đến Giáo hội hoàn vũ và do đó, theo một nghĩa cụ thể, có đặc điểm tông đồ. Nó phải tiếp tục giữ cho sống động tính năng động của sứ mệnh ad extra [đối ngoại] và ad intra [đối nội] của Giáo Hội. Bên trong Giáo hội Đông phương, thoạt đầu, Hoàng đế đã công bố một loại chức vụ có tính hợp nhất và phổ quát. Không phải ngẫu nhiên mà Constantine được gọi là “giám mục” ad extra và “ngang hàng với các tông đồ”. Nhưng điều đó, tốt nhất, có thể là một chức năng tạm thời, thay thế, một chức năng đầy rẫy những nguy hiểm rõ ràng. Cũng không phải là một tình cờ khi, từ thế kỷ thứ hai trở đi, các thừa tác vụ phổ quát đi đến chỗ chấm dứt, và cuối cùng, việc Đức Giáo Hoàng đòi quyền thực thi khía cạnh này của sứ mệnh tông đồ bắt đầu được nghe ngày càng rõ ràng hơn. Như thế, không phải là chuyện may rủi khi các phong trào, vốn vượt ra ngoài phạm vi và cấu trúc của giáo hội địa phương, luôn song hành với ngôi giáo hoàng.
b) Chủ đề quán xuyến của đời sống Tin Mừng, điều mà chúng ta đã tìm thấy ở buổi đầu của phong trào đơn tu với thánh Antôn của Ai Cập, vẫn mang tính quyết định. Nhưng bây giờ rõ ràng là vita evangelica bao gồm việc phục vụ [Dienst] truyền giảng Tin Mừng. Đức khó nghèo và sự tự do của đời sống Tin Mừng là những điều kiện cho việc phục vụ Tin Mừng vượt ra ngoài quê hương của mình và cộng đồng của nó. Đồng thời, việc phục vụ này là mục tiêu và lý do nội tại của vita evangelica, như chúng ta sẽ sớm thấy một cách chi tiết hơn.
2) Tôi muốn đề cập ngắn gọn về phong trào cải cách của Cluny, có tầm quan trọng quyết định như vậy trong thế kỷ thứ mười. Cũng được sự hỗ trợ của Đức Giáo Hoàng, phong trào này mang lại sự giải thoát vita religiosa [đời sống tu trì] khỏi chế độ phong kiến và khỏi sự thống trị của các lãnh chúa giám mục phong kiến. Bằng cách liên kết các đan viện riêng lẻ thành một giáo đoàn, nó đã trở thành phong trào vĩ đại của lòng đạo đức và đổi mới, trong đó ý tưởng về châu Âu đã hình thành.'' Tính năng động cải cách của Cluny sau đó đã làm phát sinh ra cuộc cải cách của Đức Grêgôriô thế kỷ thứ mười một. (13) Phong trào vừa kể đã giải cứu giáo hoàng khỏi vũng lầy xung đột giữa giới quý tộc La Mã và khỏi việc thế tục hóa của họ và, nói chung, đã tham gia cuộc chiến giành tự do của Giáo hội, vì bản chất thiêng liêng đầy khác biệt của nó, một trận chiến, tuy nhiên, sau đó thoái hóa thành một cuộc đấu tranh quyền lực giữa giáo hoàng và hoàng đế.
3) Sức mạnh thiêng liêng của phong trào truyền giáo bùng nổ vào thế kỷ thứ mười ba với Thánh Phanxicô thành Assisi và Thánh Đa Minh vẫn tiếp tục được cảm nhận cho đến ngày nay. Trong trường hợp của Thánh Phanxicô, điều khá rõ ràng là ngài không có ý định bắt đầu một dòng tu mới, một cộng đồng tách biệt. Ngài chỉ muốn kêu gọi Giáo hội quay trở lại với toàn bộ Tin Mừng, để tập hợp "một dân mới", để đổi mới Hội Thánh bằng Tin Mừng. Hai nghĩa của cụm từ "đời sống Tin Mừng" gắn bó chặt chẽ với nhau: bất cứ ai sống Tin Mừng trong khó nghèo, từ bỏ tài sản và con cháu, phải đồng thời loan báo Tin Mừng đó. Vào thời thánh Phanxicô người ta cần Tin Mừng, và ngài coi như nhiệm vụ thiết yếu của ngài, cùng với anh em của ngài, phải công bố cốt lõi đơn giản của sứ điệp Chúa Kitô cho con người. Ngài và những người theo ngài muốn trở thành những nhà truyền giảng Tin Mừng. Và chính sự kiện là những người truyền giảng Tin Mừng đã làm thành cần thiết việc vượt ra khỏi biên giới của thế giới Kitô giáo, để đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. (14)
Trong cuộc tranh luận với các linh mục triều của Đại học Paris, những người, trong tư cách đại diện của một cấu trúc giáo hội địa phương kín cổng cao tường, đấu tranh chống lại các phong trào truyền giảng Tin Mừng, Thánh Tôma Aquinô đã tóm tắt sự mới lạ và, đồng thời, sự trung thành với nguồn gốc được thực hiện trong hai phong trào và dưới hình thức đời sống tu trì mà chúng đã tạo khuôn. Các linh mục triều chỉ chấp nhận kiểu đơn tu của Cluny trong hình thức cứng ngắc sau này của nó: các đan viện tách biệt khỏi Giáo hội địa phương, sống trong những nhà kín nghiêm ngặt, và chỉ phục vụ một mình việc chiêm niệm. Những đan viện như vậy không thể làm xáo trộn trật tự của Giáo hội địa phương, trong khi xung đột chắc chắn nổ ra ở bất cứ nơi nào, các nhà truyền giáo mới xuất hiện. Ngược lại, Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh rằng chính Chúa Kitô là khuôn mẫu và, trên cơ sở của mô hình này, ngài bảo vệ tính ưu việt của đời sống tông đồ hơn hình thức sống chiêm niệm thuần túy. “Cuộc sống hoạt động mang lại cho những người khác những sự thật đạt được thông qua giảng dạy và chiêm niệm hoàn hảo hơn đời sống chỉ biết chiêm niệm..." (15)
Thánh Tôma biết rằng ngài là người thừa kế các cuộc phục hưng liên tiếp của lối sống đơn tu, tất cả đều kêu gọi vita apostolica [lối sống tông đồ]. (16) Nhưng trong cách giải thích của ngài về vita apostolica – điều mà ngài rút tỉa từ kinh nghiệm của các dòng khất sĩ - ngài đã thực hiện một bước mới quan trọng thực sự đã hiện diện trong thực hành của truyền thống đơn tu trước đó, nhưng vẫn chưa được suy tư nhiều một cách rõ ràng như vậy. Việc nại đến Giáo hội nguyên thủy như một biện minh cho vita apostolica vốn có tính phổ quát. Thánh Augustino, chẳng hạn, đã thiết kế toàn bộ quy tắc của ngài dựa trên cơ sở Công vụ 4:32: họ đồng lòng và cùng một linh hồn. (17) Tuy nhiên, Thánh Tôma Aquinô thêm Diễn từ truyền giáo của Chúa Giêsu với các Tông Đồ (Mt 10:5-15) vào khuôn mẫu này: Vita apostolica đích thực là đời sống tuân theo những lời dạy trong Công vụ 4 và Mt 10: “Đời sống tông đồ cốt ở sự kiện các tông đồ, sau khi bỏ lại mọi sự, đi khắp thế giới, công bố và rao giảng Tin Mừng. Điều này trở nên rõ ràng trong Mt 10, nơi các ngài được ban cho một quy tắc." (18) "Mátthêu 10 bây giờ dường như không hơn gì một quy luật tu trì, hay đúng hơn: quy luật sống và truyền giáo mà Chúa ban cho các Tông Đồ chính là quy luật vĩnh viễn của đời sống tông đồ, điều mà Giáo hội luôn cần đến. Chính quy luật này biện minh cho phong trào truyền giảng Tin Mừng mới.
Cuộc tranh cãi ở Paris giữa giáo sĩ triều và đại diện của các phong trào mới, trong đó các văn bản này được viết ra, có tầm ý nghĩa vĩnh viễn. Ý tưởng hạn chế và nghèo nàn về Giáo hội nhằm chuyên chế hóa cơ cấu giáo hội địa phương không thể dung thứ tầng lớp giảng thuyết mới. Về phần mình, những vị giảng thuyết này nhất thiết phải tìm kiếm sự ủng hộ nơi người mang một chức vụ liên quan đến Giáo hội phổ quát, nơi vị Giáo hoàng trong tư cách người bảo đảm việc truyền giáo và xây dựng Giáo hội duy nhất. Như thế, thật hợp lý khi tất cả những điều này mang lại động lực to lớn cho sự phát triển của học thuyết về tính ưu việt, một việc, vượt xa việc lên mầu sắc cho một giai đoạn lịch sử nào đó, giờ đây đã được hiểu theo cách mới trong ánh sáng cội nguồn tông truyền của nó. (19)
4) Vì câu hỏi liên quan đến chúng ta ở đây không có liên quan đến lịch sử Giáo hội, nhưng với sự hiểu biết về các hình thức đời sống của Giáo hội, tôi phải tự giới hạn vào việc vắn tắt nhắc đến các phong trào truyền giáo trong thế kỷ 16. Nổi bật trong số đó có các tu sĩ Dòng Tên, những người giờ đây cũng đảm nhận việc truyền giáo ở Châu Mỹ mới được phát hiện, ở Châu Phi và Châu Á, mặc dù các tu sĩ dòng Đa Minh và dòng Phanxicô, được lên sinh lực nhờ tác động liên tục của xung lực ban đầu của họ, không tụt hậu phía sau bao xa.
5) Cuối cùng, tất cả chúng ta đều quen thuộc với một loạt phong trào bắt đầu từ thế kỷ XIX. Thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện của các dòng truyền giáo đúng nghĩa, nghĩa là ngay từ đầu không nhằm mục đích đổi mới bên trong cho bằng việc truyền giáo trên những lục địa mà Kitô giáo hầu như không chạm tới. Về phương diện này, những dòng tu mới này phần lớn tránh xung đột với các cơ cấu giáo hội địa phương. Thậm chí còn phát sinh sự hợp tác hữu hiệu, mang lại sức mạnh mới không những cho các Giáo hội địa phương lâu đời, trong chừng mực đà thúc đẩy truyền bá Tin Mừng và phục vụ tình yêu sinh động họ từ bên trong. Một yếu tố, dù không hề vắng mặt trong các phong trào, nhưng rất dễ dàng bị làm ngơ, giờ đây trở nên mạnh mẽ ở tuyến đầu: phong trào tông đồ của thế kỷ XIX trước hết là một phong trào phụ nữ, trong đó có một sự nhấn mạnh mạnh mẽ vào caritas [đức ái], chăm sóc người đau khổ và người nghèo - chúng ta biết những gì cộng đồng phụ nữ mới có ý nghĩa và tiếp tục có ý nghĩa đối với các bệnh viện và việc chăm sóc người nghèo- và tập trung vào các trường học và giáo dục. Như thế, toàn bộ phạm vi phục vụ của Tin Mừng là hiện diện trong sự kết hợp giữa dạy dỗ, giáo dục và yêu thương.
Khi chúng ta nhìn lại từ thế kỷ XIX, chúng ta thấy rằng phụ nữ luôn đóng một vai trò quan trọng trong các phong trào tông đồ. Hãy nghĩ về những người phụ nữ táo bạo của thế kỷ XVI như Mary Ward hay, mặt khác, Teresa thành Avila, những nhân vật phụ nữ của thời Trung cổ như Hildegard thành Bingen và Catherine thành Siena, những phụ nữ trong quĩ đạo của Thánh Boniface, các chị em của các Giáo phụ và cuối cùng là các phụ nữ trong các bức thư của Thánh Phaolô và trong quĩ đạo xung quanh Chúa Giêsu. Những phụ nữ đã không bao giờ là giám mục hay linh mục, nhưng họ là những người đồng gánh vác đời sống tông đồ và nhiệm vụ phổ quát của nó.
C. Bề Rộng của Khái Niệm Kế Tục Tông Đồ
Sau cuộc khảo sát này về các phong trào tông đồ lớn trong lịch sử của Giáo hội, chúng ta trở lại luận điểm của chúng ta, mà tuyên bố về nó, tôi đã dự ứng sau khi phân tích ngắn gọn về các dữ kiện Kinh thánh: khái niệm kế tục tông đồ phải được dành một chiều rộng và chiều sâu lớn hơn nếu chúng ta muốn công bằng đối với tất cả những gì nó muốn nói. Điều đó có nghĩa gì? Trước hết, chúng ta phải giữ cấu trúc bí tích của Giáo hội như là cốt lõi vĩnh viễn của việc kế tục tông đồ. Chính trong cấu trúc này, Giáo hội luôn nhận được một lần nữa di sản của các tông đồ, di sản của Chúa Kitô. Nó là bí tích, trong đó Chúa Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần, phân biệt Giáo hội khỏi tất cả các định chế khác. Các bí tích có nghĩa là Giáo hội tiếp nhận sự sống của nó như một “tạo vật của Chúa Thánh Thần" từ Chúa và được Người tái tạo không ngừng. Khi nói điều này, chúng ta phải ghi nhớ hai thành tố không thể tách rời của các bí tích mà chúng ta đã đề cập trước đây: thứ nhất, yếu tố Kitô học-nhập thể, nghĩa là hữu thể của Giáo hội bị ràng buộc vào “một lần duy nhất” của các biến cố nhập thể và Phục sinh, mối liên hệ với hành động của Thiên Chúa trong lịch sử; thứ hai và đồng thời, việc làm cho biến cố này hiện diện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, do đó, là thành tố Kitô học-thần khí học, bảo đảm ngay lập tức tính mới mẻ và tính liên tục của Giáo hội sống động.
Trình thuật này tóm tắt những gì Giáo hội đã luôn dạy về yếu tính của việc kế tục tông đồ, cốt lõi thực sự của khái niệm bí tích về Giáo hội. Nhưng cốt lõi này nghèo nàn, đúng hơn, bị hao mòn, nếu, trong mối liên hệ này, chúng ta chỉ nghĩ tới hệ thống dựa trên Giáo hội địa phương. Chức vụ kế tục Phêrô đã đột nhiên mở toang mô hình giáo hội địa phương đơn thuần; người kế vị của Phêrô không chỉ là giám mục địa phương của Rôma, mà còn là giám mục cho toàn thể Giáo Hội và trong toàn thể Giáo Hội. Do đó, ngài hiện thân một khía cạnh thiết yếu của sứ vụ tông đồ, vốn không bao giờ được vắng mặt trong Giáo Hội. Nhưng chính chức vụ Phêrô, ngược lại, bị hiểu không chính xác và sẽ trở thành một con ngoại lệ quái gở, nếu chúng ta đặt lên vai người mang nó gánh nặng một mình thực hiện chiều kích phổ quát của việc kế tục tông đồ. (20) Trong Giáo Hội, cũng luôn phải có các thừa tác vụ và sứ mệnh không bị ràng buộc vào một mình Giáo hội địa phương, nhưng phục vụ sứ mệnh phổ quát và truyền bá Tin Mừng. Đức Giáo Hoàng phải dựa vào các thừa tác vụ này, các thừa tác vụ này phải dựa vào ngài, và sự hợp tác giữa hai loại thừa tác vụ hoàn tất bản giao hưởng của đời sống Giáo Hội. Thời đại tông đồ, vốn là chuẩn mực cho Giáo hội, cho thấy rõ ràng các thành tố này không thể thiếu đối với đời sống Giáo hội.
Bí tích truyền chức, bí tích kế tục [Nachfolge], nhất thiết phải được bao gồm trong hình thức cấu trúc này, nhưng, thậm chí còn hơn thế nữa ở các Giáo hội địa phương, được bao quanh bởi nhiều thừa tác vụ khác nhau, và ở đây, sự đóng góp của người phụ nữ vào hoạt động tông đồ của Giáo hội không thể bị coi thường. Thậm chí chúng ta có thể nói bằng cách tóm tắt toàn bộ cuộc thảo luận, rằng tính ưu việt của người kế tục Phêrô hiện hữu để bảo đảm các thành tố thiết yếu này của đời sống Giáo hội và để bảo đảm mối quan hệ có trật tự của chúng với các cấu trúc của giáo hội địa phương.
Để tránh hiểu lầm, tôi phải nói khá rõ ràng ở đây rằng các phong trào tông đồ xuất hiện trong những hình thức luôn mới mẻ trong suốt lịch sử, nhất thiết, bởi vì chúng là câu trả lời của Chúa Thánh Thần đối với những hoàn cảnh đang thay đổi trong đó Giáo hội sinh hoạt. Và cũng giống như ơn gọi làm linh mục không thể được tạo ra, không thể được thiết lập bằng giao thức hành chính, điều còn đúng hơn thế nữa là các phong trào không thể được tổ chức và lập kế hoạch bởi thẩm quyền. Chúng phải được ban tặng, và quả chúng đã được ban tặng. Chúng ta chỉ cần lưu ý đến chúng - chúng ta chỉ cần học, sử dụng hồng phúc biện phân, để chấp nhận những gì là đúng trong khi vượt qua những gì là vô ích. Nhìn lại lịch sử Giáo hội sẽ giúp ta quan sát với lòng biết ơn rằng nó đã liên tục lo liệu, bất chấp mọi khó khăn, dành chỗ cho sự thức tỉnh mới mẻ vĩ đại. Chắc chắn, người quan sát không thể bỏ qua sự kế tục của tất cả những phong trào đã thất bại hoặc dẫn đến các cuộc chia rẽ thường trực: Montanists, Cathari, Waldensians, Hussites, phong trào cải cách thế kỷ XVI. Và tôi nghĩ, chúng ta phải nói rằng cả hai bên cùng chia sẻ tội lỗi cho sự chia rẽ vĩnh viễn trong đó, cuối cùng đã dẫn đến những kết quả này.
III. Các biện phân và tiêu chuẩn
Như thế, nhiệm vụ cuối cùng của bài trình bày này phải đặt câu hỏi về tiêu chuẩn của sự biện phân. Để có thể trả lời tốt cho câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải định nghĩa chính xác hơn một chút thuật ngữ “phong trào”, thậm chí có thể viết một dự biểu học [typology] về các phong trào. Hiển nhiên, không thể làm tất cả những điều này ở đây. Chúng ta cũng nên cẩn thận với một định nghĩa quá khắt khe, vì Chúa Thánh Thần luôn có sẵn những điều ngạc nhiên, và chỉ khi nhìn lại, chúng ta mới nhận ra rằng các phong trào đều có một bản chất chung giữa sự đa dạng to lớn của chúng. Tuy nhiên, như một loại thử đầu tiên, tôi muốn làm rõ thuật ngữ, một cách rất ngắn gọn, để phân biệt ba loại khác nhau, dù sao cũng có thể quan sát trong lịch sử gần đây. Tôi sẽ gọi chúng là phong trào, trào lưu [current] và tiến hành [action]. Tôi không thể mô tả phong trào phụng vụ trong tiền bán thế kỷ này, hay phong trào Thánh Mẫu đang ngày càng nổi bật trong Giáo hội kể từ thế kỷ 19, như những phong trào, nhưng như những trào lưu. Những trào lưu này sau đó có thể củng cố vững chắc trong các phong trào cụ thể như Hiệp hội Thánh Mẫu hoặc các nhóm thanh niên Công Giáo, tuy nhiên chúng vẫn mở rộng ra ngoài những phong trào đó. Những loại kiến nghị thúc đẩy việc công bố một giáo điều hoặc những thay đổi trong Giáo hội đang trở thành thông lệ ngày nay, về phần chúng không phải là các phong trào, mà là các tiến hành. Sự thức tỉnh của dòng Phanxicô thế kỷ 13 có lẽ đưa ra minh họa rõ ràng nhất về thế nào là một phong trào: các phong trào thường xuất phát từ một nhà lãnh đạo có đặc sủng và chúng lên khuôn hình trong các cộng đồng cụ thể, sống toàn bộ Tin Mừng một lần nữa từ nguồn gốc này và không ngần ngại nhìn nhận Giáo hội như nền tảng cho cuộc sống của họ, nếu không có điều đó thì họ sẽ không thể hiện hữu. (21)
Dù cách tiếp cận này đối với một loại định nghĩa chắc chắn rất không thỏa đáng, nhưng nó quả đưa chúng ta đến những tiêu chuẩn, có thể nói như vậy, thay thế cho một định nghĩa. Tiêu chuẩn yếu tính vừa mới tự xuất hiện: việc bắt nguồn từ đức tin của Giáo hội. Bất cứ ai không chia sẻ đức tin tông đồ đều không thể tự cho là mình hoạt động tông đồ. Thật vậy, vì chỉ có một đức tin duy nhất cho toàn thể Giáo hội, vì đức tin này là nguyên nhân tạo nên sự hiệp nhất của Giáo hội, không thể có đức tin tông truyền nếu không có ý muốn hiệp nhất, đứng trong sự hiệp thông sống động của toàn thể Giáo Hội. Và điều này có nghĩa một cách cụ thể là ý chí đứng về phía những người kế tục các tông đồ và người kế tục Thánh Phêrô, những người chịu trách nhiệm về sự tương tác hài hòa giữa Giáo hội địa phương và hoàn vũ như dân duy nhất của Thiên Chúa. Nếu chiều kích “tông đồ” là địa cứ của các phong trào trong Giáo hội, thì ý chí vita apostolica phải là nền tảng cho họ ở mọi thời đại. Việc từ bỏ tài sản, con cháu, áp đặt hình ảnh riêng của mình về Giáo hội, nghĩa là vâng phục theo Chúa Kitô, luôn được coi là những yếu tố yếu tính của đời sống tông đồ. Chắc chắn rằng, những điều này không thể được áp dụng theo cùng một cách cho tất cả những người tham gia một phong trào, nhưng theo những cách khác nhau, chúng là những điểm quy chiếu cho cuộc đời của mỗi người. Ngược lại, đời sống tông đồ không phải là mục đích tự nó mà là tạo tự do để phục vụ.
Đời sống tông đồ đòi hỏi hoạt động tông đồ: vị trí vinh dự, theo nhiều cách khác nhau, được dành cho việc loan báo Tin Mừng như một yếu tố truyền giáo. Trong việc sequela Christi [bước chân theo Chúa Kitô], việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn là “evangelizare pauperibus”, là việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Nhưng việc loan báo này không bao giờ chỉ diễn ra bằng lời nói; tình yêu, vốn là trung tâm bên trong của nó, đồng thời là trung tâm của sự thật và hành động của nó, phải được sống và phải là sự loan báo theo cách này. Như vậy, việc phục vụ xã hội dưới hình thức này hay hình thức khác luôn được kết nối với việc truyền giáo. Tất cả những điều này giả định - và nguồn gốc thường là ngọn lửa của đặc sủng ban đầu - một cuộc gặp gỡ bản thân sâu sắc với Chúa Kitô. Việc hình thành và xây dựng cộng đồng không loại trừ yếu tố bản thân, nhưng đòi hỏi yếu tố bản thân. Chỉ khi người đó được Chúa Kitô đánh động và mở toang các chiều sâu thăm thẳm nhất của mình thì người khác mới có thể được đánh động từ nội tâm, thì mới có sự hòa giải trong Chúa Thánh Thần, cộng đồng đích thực mới có thể phát triển. Trong cấu trúc hiện sinh và Kitô học -thần khí học căn bản này, có thể có sự đa dạng lớn lao về các sắc thái và điểm nhấn mạnh, trong đó Kitô giáo là một biến cố luôn mới mẻ và Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới Giáo hội “như tuổi trẻ của chim đại bàng” (Tv 103:5).
Viễn cảnh này cũng cho phép chúng ta thấy những rủi ro mà các phong trào phải giáp mặt cũng như các phương tiện để khắc phục. Có nguy cơ phiến diện do nhấn mạnh quá mức vào nhiệm vụ cụ thể xuất hiện trong một thời kỳ hoặc thông qua một đặc sủng. Sự kiện việc thức tỉnh tâm linh không được trải nghiệm như hình thức duy nhất của hiện hữu Kitô giáo, mà như một hữu thể bị ảnh hưởng bởi toàn bộ thông điệp, có thể dẫn đến sự tuyệt đối hóa phong trào, vốn có thể tự hiểu đơn giản như Giáo hội, như cách cách duy nhất cho tất cả, trong khi cách duy nhất này có thể tự thông đạt ở những phương thức rất khác nhau. Vì vậy, hết lần này đến lần khác, sự mới mẻ và tính tổng thể của sự thức tỉnh cũng gần như chắc chắn dẫn đến xung đột với cộng đồng địa phương, một cuộc xung đột trong đó cả hai bên đều có lỗi và đem lại một thách thức tinh thần đối với cả hai. Các Giáo Hội địa phương có thể đã làm hòa với thế giới thông qua một chủ nghĩa tuân thủ [conformism]nào đó, muối có thể mất đi vị mặn của nó, một tình huống mà Kierkegaard đã mô tả một cách chua cay sắc bén trong bài phê bình Kitô giáo của ông. Tuy nhiên, ngay cả khi việc không tuân theo các yêu cầu triệt để của Tin Mừng chưa đến mức khiến Kierkegaard lên án, thì việc bộc phát của điều mới mẻ vẫn bị coi là một sự gián đoạn, đặc biệt khi nó xuất hiện với tất cả các loại bệnh ấu trĩ và những tuyệt đối hóa lầm lẫn, như vẫn thường xuyên xảy ra.
Ở đây cả hai bên phải cởi mở đón nhận một nền giáo dục của Chúa Thánh Thần và cả sự lãnh đạo của Giáo hội, cả hai phải thủ đắc lòng vị tha mà nếu không có nó, không thể có sự đồng ý nội tâm đối với tính đa dạng trong đó đức tin được đem ra sống. Cả hai phải học hỏi lẫn nhau, phải để cho nhau được thanh tẩy, chịu đựng lẫn nhau và khám phá cách đạt được những thái độ mà Thánh Phaolô đã nói trong bài thánh ca vĩ đại về tình yêu của ngài (1 Cor 13:4ff.). Vì vậy, cần phải nhắc nhở các phong trào rằng – mặc dù họ đã tìm thấy và truyền lại toàn bộ đức tin – theo cách riêng của họ – nhưng họ là một hồng ân cho và trong toàn thể Giáo hội và phải tuân phục các yêu cầu của tính tổng thể này để trở thành chân thực với yếu tính của chính họ. (22) Nhưng các giáo hội địa phương cũng thế, kể cả các giám mục, cũng phải được nhắc nhở tránh tạo ra thứ độc dạng [uniformity] có tính lý tưởng trong việc tổ chức và lập kế hoạch mục vụ. Họ không được lấy các kế hoạch mục vụ của riêng mình làm tiêu chuẩn cho những gì Chúa Thánh Thần được phép thực hiện: nỗi ám ảnh về việc lập kế hoạch có thể làm cho các giáo hội không được Thánh Thần Thiên Chúa, không được quyền lực mà nhờ đó họ sống, thấm nhập. (23) Phải coi là không đúng chủ trương cho rằng mọi diều phải phù hợp với một tổ chức đơn nhất, độc dạng.
Điều tốt hơn là ít tổ chức và nhiều tinh thần hơn! Trên hết, không được quan niệm việc hiệp thông như thể việc tránh xung đột là giá trị mục vụ cao nhất. Đức tin cũng luôn là một thanh gươm, và nó có thể đòi hỏi phải đấu tranh vì chân lý và tình yêu (x. Mt 10:34). Ý niệm hiệp nhất giáo hội trong đó các xung đột tiên thiên bị loại bỏ như là sự phân cực, và trong đó hòa bình nội bộ được mua bằng giá hy sinh toàn bộ chứng tá sẽ nhanh chóng chứng tỏ là ảo tưởng. Cuối cùng, chúng ta không được cho phép thiết lập một sự giác ngộ dửng dưng ngay lập tức coi lòng nhiệt thành của những người được Chúa Thánh Thần chiếm giữ và niềm tin ngây thơ của họ vào Lời Chúa như lời nguyền rủa của chủ nghĩa chính thống cực đoan và chỉ cho phép một đức tin mà với nó, những chữ nếu, và, và nhưng trở nên quan trọng hơn bản thể của điều được tin tưởng. Tất cả phải để mình được đo lường bằng tình yêu vì sự hiệp nhất của Giáo Hội duy nhất, vốn duy nhất trong mọi Giáo Hội địa phương và xuất hiện như vậy nhiều lần trong các phong trào tông đồ. Các giáo hội địa phương và các phong trào tông đồ phải liên tục nhìn nhận và chấp nhận sự thật đồng thời của hai mệnh đề: ubi Petrus, ibi ecclesia [ở đâu có Phêrô, ở đấy có Giáo Hội - ubi episcobus, ibi ecclesia [ở đâu có Giám Mục, ở đó có Giáo Hội] Quyền tối thượng và hàng giám mục, hệ thống giáo hội địa phương và các phong trào tông đồ, cần có nhau: quyền tối thượng chỉ có thể sống với và nhờ một hàng giám mục sống động, hàng giám mục chỉ có thể duy trì sự hiệp nhất năng động và tông đồ của mình khi được sắp xếp cho quyền tối thượng. Nơi nào một trong hai khía cạnh này bị suy yếu thì toàn thể Giáo hội phải chịu thiệt hại.
Những gì còn lại sau khi kết thúc tất cả những xem xét này trên hết là lòng biết ơn và niềm vui. Lòng biết ơn vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động rất rõ ràng trong Giáo hội và ban cho Giáo hội những hồng ân mới ngay cả ngày nay, những hồng ân qua đó Giáo hội sống lại niềm vui tuổi trẻ của mình (Tv 42:4, Bản Phổ thông). Tri ân nhiều người, già cũng như trẻ, đã đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa và vui vẻ bước vào việc phục vụ Tin Mừng mà không ngoái nhìn lại. Tri ân các giám mục đã mở ra những con đường mới, tạo chỗ đứng cho chúng trong các Giáo hội địa phương, và kiên nhẫn tranh đấu với chúng để khắc phục những khuynh hướng phiến diện của chúng và hướng dẫn chúng đi theo hình thức đúng đắn. Và trên hết, chúng ta hãy tạ ơn tại nơi này và vào lúc này Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người dẫn tất cả chúng ta tới Chúa Kitô - bằng khả năng nhiệt tình của ngài, bằng khả năng trẻ trung hóa nội tâm của ngài trong sức mạnh đức tin, bằng sự biện phân các tinh thần của ngài, bằng cuộc đấu tranh khiêm tốn và can đảm của ngài để có được sự trọn vẹn trong việc phục vụ Tin Mừng của ngài, bằng sự đoàn kết của ngài với các giám mục trên khắp thế giới, một sự thống nhất trong đó ngài vừa lắng nghe vừa hướng dẫn. Chúa Kitô hằng sống và Người sai Chúa Thánh Thần đến từ Chúa Cha – vốn là niềm vui và kinh nghiệm mang lại sự sống, những điều thuộc chúng ta chính trong cuộc gặp gỡ với các phong trào Giáo Hội.
Communio 25 (Mùa thu 1998). Bản tiếng Anh của Adrian Walker
* Bài diễn văn này được trình bầy tại Đại hội Thế giới về các Phong trào Giáo hội, được tài trợ bởi Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân, Rôma, ngày 27-29 tháng 5 năm 1998.
(1) Redemptoris mississio, 72.
(2) Việc luật độc thân linh mục không phải là một phát minh thời Trung cổ mà đã có từ thời kỳ đầu tiên của Giáo hội, được Đức Hồng Y A.M. Stickler trình bầy rõ ràng và thuyết phục trong The Case for Clerical Celibacy: Its Historical Development and Theological Foundations [Trường hợp độc thân giáo sĩ: Sự phát triển lịch sử và nền tảng thần học của nó] (San Francisco: Ignatius Press, 1995). Cũng nên Xem C. Cochini, Origines apostoliques du célibat sacerdotal [Ngồn gốc tông đồ của luật độc thân linh mục] (Paris-Nnmur, 1981); S. Heid, Zolibat in der friihen Kirche [Độc thân trong Giáo hội sơ khai] (Paderborn, 1997).
3 Huấn thị năm 1997 về thừa tác vụ giáo dân cuối cùng cũng đề cập đến vấn đề này.
4 Phản đề cổ điển giữa các nhà tiên tri được Thiên Chúa sai đến và các nhà tiên tri chuyên nghiệp được tìm thấy trong Amốt 7:10-17. Một tình huống tương tự xảy ra trong 1 Các Vua 22 về sự tương phản giữa 400 nhà tiên tri và Mikha; một lần nữa ở Giêrêmia, thí dụ: 37:19. Cũng nên xem J. Ratzinger, The Nature and mission of Theology: Its Role in the Light of Present Controversy [Bản chất và sứ mệnh của Thần học: Vai trò của nó dưới Ánh sáng của cuộc tranh cãi hiện tại] (San Francisco: Ignatius, 1995), 118ff.
(5) Xem Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Communionis notio [ý niệm hiệp thông] (Libreria Editrice Vaticana, 1994), 29, no. 9; xem phần giới thiệu của tôi cũng ở đó, 8ff. Tôi đã trình bày mối quan hệ giữa chúng một cách chi tiết hơn trong cuốn sách nhỏ của tôi: Called to Communion [Được kêu gọi hiệp thông] (SanFrancisco: Ignatius Press, 1996), đặc biệt. 43f. và 75-103. Sự kiện Giáo Hội duy nhất, hiền thê duy nhất của Chúa Kitô, mang trên mình di sản của dân Israel, của Xion, “con gái” và “nàng dâu”, có ưu tiên hơn việc cụ thể hóa dân Chúa có tính thực nghiệm trong các giáo hội địa phương, hiển nhiên trong kinh thánh và các Giáo phụ đến nỗi thật khó hiểu việc tranh luận thường xuyên lặp đi lặp lại về chủ trương này. Chỉ cần đọc cuốn Catholicisme [Đạo Công Giáo] (1938) hay Méditation sur I'Eglise [Suy niệm về Giáo Hội], 36 (1954) của de Lubac, hay những văn bản tuyệt vời mà H. Rahner sưu tầm trong cuốn Mater Ecclesiae [Mẹ (1944) của ông là đủ.
(6) Về phần này một lần nữa xem J. Ratzinger, Called to Communion [Được kêu gọi hiệp thông] (San Francisco: Ignatius Press, 1996), 83ff.
(7) Xem Athanase d’Alexandrie, Vie d’Antoine [hạnh thánh Antôn], G. Bartelink chủ biên, Sources Chrétiennes 400 (Paris, 1994); trong phần giới thiệu, đặc biệt là phần: "L'exemple de la vie evangelique et apostolique," 52f.
(8) về chủ đề tình phụ tử thiêng liêng tôi muốn đề cập đến cuốn sách nhỏ có những kiến thức sâu sắc của G. Bunge, Geistliche vaterschaft: Christliche Gnosis bei Evagrios Pontikos [Tình phụ tử thiêng liêng: Ngộ đạo Kitô giáo ở Evagrios Pontikos] (Regensburg, 1988).
(9) H.u. von Balthasar, Die Grofien Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], tái bản lần thứ 7. (Einsiedeln, 1994), 47.
(10) J. Gribomont, "Les Règles Morales de S. Basile et le Nouveau Testament," [Các quy luật luân lý của Thánh Basilêô và Tân Ước] trong Aland-Cross, ed., Studia Patristica [Nghiên cứu Giáo phụ], tập. 2 (1957), 416-426; Balthasar, Die Grofien Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], 48f.
(11) J. Gribomont, "Obéissance et Evangile selon S. Basile le Grand," [Vâng lời và Tin Mừng theo thánh Basilêô Cả] Vie Spir.Sppl. Nr. 21 (1952), 192-215, đặc biệt. 192; H.U. von Balthasar, Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], 57.
(12) B. Senger chỉ ra mối liên hệ giữa cuộc cải cách Cluny và việc hình thành ý tưởng về Châu Âu trong Lexikonfur Theology und Kirche [Từ điển Thần học và Giáo hội](=LThK), tập. 2, ấn bản 2, 1239. Ông cũng thu hút sự chú ý đến "tính độc lập về mặt pháp lý và sự giúp đỡ của các vị giáo hoàng."
(13) Mặc dù P. Engelbert có thể nói đúng rằng “không thể xác định được ảnh hưởng trực tiếp của cải cách Cluny đối với Cải cách Grêgôriô” (LThK, tập 2, ấn bản 3, 1236), nhận xét của B. Senger (LThK, tập 2, ấn bản, 1240) cho rằng cải cách Cluny, được giúp đỡ để chuẩn bị một môi trường thuận lợi cho cuộc cải cách Grêgôriô, dù sao vẫn còn giá trị.
(14) Ấn bản mẫu mực cuốn Fonti Francescane [Các nguồn Phanxicô] của nhà Movimento Francescano (Assisi, 1978), với những lời giới thiệu hữu ích và tài liệu thư mục, vẫn là tiêu chuẩn cho sự hiểu biết về Thánh Phanxicô. Người hướng dẫn việc tự hiểu biết của các tác giả khất sĩ là A. Jotischky, “Một số quan điểm khất sĩ về nguồn gốc của sự hoàn hảo đơn tu,” trong Cristianesimo nella storia [Kitô giáo trong lịch sử] 19, số 1 (tháng 2 năm 1998), 31-49. Tác giả cho thấy rằng các tác giả khất sĩ đã nại đến Giáo hội nguyên thủy, đặc biệt là các giáo phụ sa mạc, để giải thích về nguồn gốc và tầm quan trọng của họ trong Giáo hội.
(15) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae [tổng luận Thần học], 3.40.1.2. Cũng nên xem J.P. Torrell, O.P., St. Thomas Aquinas: The Person and His Work [Thánh Tôma Aquinô: Con người và Công trình của ngài], tập 1, Robert Royal phiên dịch (Washington, DC: The Catholic University of America Press, 1996) Xem ở đó cuộc thảo luận sôi nổi và rõ ràng về lập trường của Thánh Tôma trong cuộc tranh luận xung quanh các dòng khất thực, đặc biệt là 75-95.
(16) Torrell, St. Thomas Aquinas, 89-90.
(17) Xem A. Zumkeller, trong Balthasar, Die GroJen Ordensregen, 150-170. Về vị trí quy luật trong cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Augustinô, C. Vigini, Agostino d'Ippona:L'avventura della grazia e della carità [Thánh Augustine thành Hippo: Cuộc phiêu lưu của ân sủng và đức ái] (Cinisello Balsamo, 1998), 91-109.
(18) Thánh Tôma Aquinô, Contra impugnantes Dei Cultum et Religionem [chống lại những người chống lại việc Phụng tự Thiên Chúa và Tôn giáo] 4, được trích dẫn trong Torell, St. Thomas Aquinas, 90.
(19) Lần đầu tiên tôi trình bày mối liên hệ giữa cuộc tranh cãi khất sĩ và học thuyết về quyền ưu việt trong một nghiên cứu xuất hiện trong một số kỷ niệm dành cho M. Schmaus, Theologie in Geschichte und Gegenwart [Thần học xưa và nay], 1957), mà sau đó tôi đã đưa vào những phần bổ sung nhỏ trong cuốn sách Das neue Volk Gottes [Dân mới của Thiên Chúa] (Düsseldorf, 1969), 49- 71. Y. Congar tiếp tục công việc của tôi ở chỗ nó còn dang dở, mở rộng những gì đã được khai triển chủ yếu dựa trên Thánh Bonaventura và những người đối thoại với ngài đề cập đến toàn bộ lĩnh vực của các nguồn có liên quan: "Aspects ecclésiologiques de la querelle entre mendiants et seculiers dans la Seconde moitié du XIIIe siècle et le début du XIVe" [Các khía cạnh giáo hội học của cuộc tranh luận giữa các tu sĩ khất thực và giáo sĩ triều trong hậu bán thế kỷ 13 và đầu thế kỷ 14]: AHD 28 (1961 ): 35-151.
(20) Sự ác cảm đối với quyền tối thượng và sự biến mất của ý thức về Giáo hội hoàn vũ chắc chắn có liên quan đến sự kiện này là khái niệm về Giáo hội hoàn vũ được cho là chỉ gắn liền với ngôi vị giáo hoàng mà thôi. Ngôi vị giáo hoàng, bị cô lập và không có bất cứ mối liên hệ sống động nào với các thực tại giáo hội phổ quát, lúc đó xuất hiện như một nguyên khối đầy tai tiếng, làm đảo lộn hình ảnh một Giáo hội, bị giản lược vào các thừa tác vụ giáo hội thuần túy địa phương và sự cùng tồn tại của các cộng đồng đứng bên cạnh nhau mà thôi. Nhưng hình ảnh này không hề nắm bắt được thực tại của Giáo hội cổ xưa.
(21) Hữu ích cho việc định nghĩa yếu tính của các phong trào là bài “I movimenti ecclesiali: aspetti ecclesiologici” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] của A. Catteneo trong Annales Theologici 11, số 2 (1997): 401-427; xem đặc biệt 406-409.
(22) Xem Cattaneo, “I movimenti ecclesiali,” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] 423-425.
(23) Hãy xem những nhận xét mạnh mẽ về điểm này trong Cattaneo, “I movimenti ecclesiali” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] 413f. và 417.
VietCatholic TV
Kyiv ba lần tấn công căn cứ máy bay ném bom hạt nhân Nga. Long Neptune: Quân át chủ bài của Ukraine
VietCatholic Media
02:44 23/03/2025
1. Ukraine ba lần tấn công căn cứ máy bay ném bom Engels của Nga
Sau khi nhận được cuộc gọi từ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vào tuần này, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và Putin đều bày tỏ ý định ký lệnh ngừng bắn về “năng lượng và cơ sở hạ tầng” có thể giúp cả hai bên giảm bớt phần nào các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa vào các nhà máy điện và cơ sở dầu mỏ.
Nhưng lệnh ngừng bắn có thể vẫn chưa chính thức. Và bên cạnh đó, căn cứ máy bay ném bom của không quân Nga tại Engels, gần thành phố Saratov ở miền nam nước Nga, không phải là nhà máy điện hay nhà máy lọc dầu. Và vì vậy, vào sáng Thứ Năm, 20 Tháng Ba, lực lượng Ukraine đã tấn công vào Engels lần thứ ba trong 10 tuần.
Căn cứ không quân Engels là nơi đặt một số máy bay ném bom Tupolev Tu-95 và Tupolev Tu-160 của Nga, thường xuyên phóng hỏa tiễn vào các thành phố của Ukraine. Khi các vụ nổ rung chuyển căn cứ vào thứ Tư và khói bốc lên trời, Engels “hiện đang phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng”, Trung tâm Truyền thông Chiến lược Ukraine nói đùa.
Engels đã có một vài tháng khó khăn. Vào ngày 8 tháng Giêng, máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã bay ít nhất 400 dặm để tấn công Engels. Các vụ nổ đã gây ra một đám cháy tại một kho chứa rộng lớn chứa tới 800.000 tấn nhiên liệu—một đám cháy kéo dài trong nhiều ngày.
Ngọn lửa cuối cùng đã tự tắt, hoặc lính cứu hỏa đã dập tắt nó, sau sáu ngày. Vài giờ sau vào ngày 14 tháng Giêng, máy bay điều khiển từ xa đã tấn công lần thứ hai. “Sẽ không có sự nghỉ ngơi cho những kẻ độc ác”, Stratcom cảnh báo.
Cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào Tháng Giêng là một phần của làn sóng tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa rộng lớn hơn, được cho là lớn nhất trong cuộc chiến kéo dài 37 tháng của người Ukraine.
Rõ ràng là tại sao Ukraine lại nhắm vào dầu mỏ của Nga. “Mỗi kho đạn dược, nhà máy lọc dầu, kho chứa xe tăng hoặc nhà máy hóa chất bị hư hại đều làm suy yếu khả năng tiến hành chiến tranh chống lại Ukraine của Nga”, cơ quan an ninh Ukraine nói với Kyiv Post.
Nhưng các cuộc tấn công năng lượng có thể sớm bị loại khỏi bàn đàm phán nếu cả Tổng thống Zelenskiy và Putin đồng ý ngừng bắn. Thay vì tấn công các nhà máy lọc dầu, trạm bơm và bể chứa nhiên liệu để dần dần làm cạn kiệt nền kinh tế Nga, người Ukraine có thể nhắm vào các máy bay ném bom đang dần dần làm cạn kiệt nền kinh tế Ukraine bằng các cuộc tấn công gần như hàng tuần vào các nhà máy điện,
Người ta vẫn chưa rõ loại máy bay điều khiển từ xa nào tham gia vào các cuộc tấn công liên tiếp vào Engels vào tháng Giêng, nhưng tờ Kyiv Post đã đề cập đến PD-2, Beaver, Liutyi và UJ-22—tất cả đều dài từ 6 đến 10 feet và chạy bằng cánh quạt.
Ukraine đã phát triển một loạt máy bay điều khiển từ xa tầm xa chóng mặt, bao gồm một số dựa trên máy bay thể thao được cải tiến có thể bay xa 800 dặm với hàng trăm pound thuốc nổ. Nước này cũng đã phát triển một phiên bản hỏa tiễn hành trình Neptune mang tính biểu tượng của mình có tầm bắn 600 dặm—và gần đây đã điều động lần đầu tiên.
Một lệnh ngừng bắn có thể tạm thời hạn chế chiến dịch tấn công sâu của Ukraine bằng cách thu hẹp danh sách các mục tiêu. Nhưng có lẽ sẽ không ngăn chặn được. Nếu có, lực lượng Ukraine đã liên tục mở rộng khu vực của Nga mà họ có khả năng tấn công—và cũng đã xác định các mục tiêu quân sự bảo đảm các cuộc tấn công lặp lại.
[Forbes: Ukraine Triple Taps Russia’s Engels Bomber Base]
2. TỘI ‘KHỦNG BỐ’ Người Anh rà phá bom mìn ở Ukraine bị tòa án Nga tuyên án 14 năm tù
Một tình nguyện viên người Anh chuyên rà phá bom mìn ở Ukraine đã bị một tòa án Nga kết án vắng mặt về tội danh khủng bố do Nga bịa đặt ra.
Chris Garrett, 40 tuổi, bị kết án 14 năm rưỡi tù giam.
Anh coi nhẹ phán quyết này như là “một nỗ lực thảm hại nhằm bôi nhọ tôi của những kẻ đã giết hại, hãm hiếp và tra tấn hàng ngàn thường dân ở Ukraine”.
Anh đã bị xét xử tại một tòa án ở Donetsk, nơi do Nga kiểm soát.
Anh đã dành cả cuộc chiến để phá hủy các quả đạn pháo và đạn thật do quân đội rút lui của Vladimir Putin vứt lại.
Anh là một trong những người đầu tiên đến các thị trấn bị thảm sát là Bucha và Irpin và làm việc suốt ngày đêm sau Trận chiến phi trường Hostomel.
Giải thích lý do tình nguyện giúp người Ukraine, anh nói:
“Với một quả mìn hoặc chất nổ, nó hoặc là ổn định hoặc là phát nổ — không có sự trung gian nào cả.”
“Có vẻ như tôi giỏi làm nổ tung mọi thứ hơn là duy trì các mối quan hệ.”
Chris, còn được gọi là Swampy, đã phục vụ trong Quân đội một thời gian ngắn.
Anh được dạy cách rà phá bom mìn ở Đông Nam Á vào năm 2014.
Cuối năm đó, anh đến Ukraine sau khi Nga xâm nhập Crimea.
[The Sun: 'TERROR' CHARGE Brit clearing landmines in Ukraine sentenced to 14 years in jail by kangaroo Russian court]
3. Tại sao Tổng thống Zelenskiy không muốn mặc vest?
Lần cuối cùng Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy mặc vest là vào sáng ngày 24 tháng 2 năm 2022, khi ông đăng một video thông báo về thiết quân luật khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện.
Kể từ đó, Tổng thống Zelenskiy chủ yếu diện quần ống rộng màu đen, xám hoặc kaki kiểu chiến đấu, giày bốt, áo nỉ và áo polo được trang trí biểu tượng quốc gia Ukraine.
Điều đó khiến Tổng thống Ukraine ăn mặc trông rất kém so với những người mà ông gặp gỡ. Nhưng đó chính là vấn đề.
Elvira Gasanova, nhà thiết kế của thương hiệu Damirli, một trong những phong cách đặc trưng của Tổng thống Zelenskiy, chia sẻ với POLITICO: “Khi các nhà lãnh đạo thế giới nhìn thấy Tổng thống Zelenskiy trong phong cách quân đội, đó là một tín hiệu — 'Ukraine đang trong chiến tranh và tôi là một phần của cuộc chiến này'“.
Gasanova nói thêm: “Lời phê phán liên tục cách thức ăn mặc của Tổng thống Zelenskiy thực chất là yêu cầu quay lại hình thức đối thoại chính trị thông thường, có nghĩa là 'nói như thế về chiến tranh là đủ rồi, hãy ngồi vào bàn đàm phán'“.
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc họp thảm khốc tại Tòa Bạch Ốc vào tháng trước.
Cuộc gặp gỡ đó chắc chắn không mấy suôn sẻ vì mối quan hệ trong quá khứ giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Putin, nhưng trang phục lại là một dấu hiệu đáng ngờ đối với Tổng thống Trump, ông hiếm khi xuất hiện mà không mặc bộ vest Brioni rộng thùng thình và cà vạt dài màu đỏ, trừ khi ông đang ở trên sân golf.
Tổng thống Zelenskiy mặc chiếc áo polo do Gasanova sản xuất khi đến Tòa Bạch Ốc, khiến Tổng thống Trump phải chế giễu và chào nhà lãnh đạo Ukraine bằng câu: “Ông ăn mặc chỉnh tề quá!”
Tình hình còn tệ hơn ở Phòng Bầu dục, khi nhà báo cánh hữu Brian Glenn hỏi: “Tại sao ông không mặc vest? Ông là người đến văn phòng cao cấp nhất ở đất nước này, và ông từ chối mặc vest. Ông có áo vest không? Rất nhiều người Mỹ có vấn đề với việc ông không tôn trọng phẩm giá của văn phòng này.”
“Tôi sẽ mặc trang phục sau khi cuộc chiến này kết thúc”, Tổng thống Zelenskiy trả lời, sử dụng từ “trang phục”, trong tiếng Ukraine có nghĩa là “bộ đồ” nhưng có sắc thái hơn trong tiếng Anh. “Có thể là thứ gì đó giống như của anh, đúng vậy. Có thể là thứ gì đó tốt hơn, tôi không biết. Có thể là thứ gì đó rẻ hơn”, Tổng thống Zelenskiy đáp trả.
Điều đó đã khiến Tổng thống Trump và Phó Tổng thống Hoa Kỳ JD Vance thực hiện một loạt các cuộc tấn công vào Tổng thống Zelenskiy. Họ cáo buộc ông là người thiếu tôn trọng và không biết ơn đủ đối với sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Tổng thống Ukraine đã bị đuổi khỏi Tòa Bạch Ốc và Tổng thống Trump đã đóng băng việc chuyển giao vũ khí của Hoa Kỳ và dừng chia sẻ thông tin tình báo trong nỗ lực gây áp lực buộc Kyiv đồng ý đàm phán hòa bình với Nga.
Ban đầu, Ukraine phản ứng với sự kinh ngạc.
Bộ ngoại giao Ukraine thậm chí còn phát động một cuộc diễn hành chớp nhoáng gồm hàng trăm người Ukraine trình diễn trang phục của họ với Tổng thống Trump — những người lính, cảnh sát, người ứng cứu đầu tiên và bác sĩ, những người tuyên bố rằng quân phục thời chiến chính là bộ đồ quyền lực của họ.
Nhưng một thông điệp đã được gửi tới các nhân viên của Tổng thống Zelenskiy là tránh làm phiền người Mỹ về việc lựa chọn trang phục.
Trong cuộc hội đàm giữa Hoa Kỳ và Ukraine tại Ả Rập Xê Út hồi đầu tháng này, nhà lãnh đạo phái đoàn Ukraine, Andriy Yermak, đã mặc một bộ vest may đo cẩn thận thay vì trang phục thường ngày.
Tuy nhiên, Tổng thống Zelenskiy vẫn không từ bỏ phong cách chiến đấu của mình.
Zoya Zvynyatskivska, một nhà phê bình thời trang và sử gia người Ukraine, cho biết việc phê bình quần áo thường không chỉ liên quan đến thời trang.
“Việc thao túng các yêu cầu về trang phục là một hành động thống trị. Tổng thống Trump là một kẻ bắt nạt chính trị, người không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để làm nhục đối thủ của mình, để cho anh ta và những người còn lại thấy vị trí của mình trong hệ thống phân cấp,” Zvynyatskivska nói.
“Diễn giải theo Churchill, nếu người đàn ông của chúng ta đeo cà vạt để tránh bị làm nhục trước công chúng, anh ta cũng sẽ phải chịu sự làm nhục tương tự — nhưng lần này liên quan đến cà vạt. 'Ồ, tôi thấy cuối cùng anh cũng ăn mặc như một người đàn ông rồi,' Tổng thống Trump sẽ nói vậy,” nhà phê bình nói thêm và nhấn mạnh rằng những chuyện nhỏ mọn như thế không làm người Mỹ vĩ đại trở lại. Người ta vĩ đại nhờ có một tâm hồn quảng đại, một trí óc mở rộng với những viễn kiến. Người ta không trở nên vĩ đại chỉ nhờ vào bộ cánh bên ngoài lộng lẫy.
Sức mạnh năng động đó có thể được nhìn thấy bởi người đàn ông duy nhất trong nhóm của Tổng thống Trump, người không gặp rắc rối vì mặc áo phông và đội mũ bóng chày đến Phòng Bầu dục — Elon Musk.
Gasanova cho biết phong cách của Tổng thống Zelenskiy là một cam kết mà ông không thể phá vỡ đối với Tổng thống Trump — một biểu hiện đoàn kết với người dân thường Ukraine và quân đội đang chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của Nga.
“Trong chiến tranh, tổng thống không chỉ là một chính trị gia, mà còn là chỉ huy tối cao của quân đội và dân thường theo thiết quân luật. Bộ đồ cổ điển sẽ được coi là tách biệt khỏi thực tế của mặt trận,” Gasanova nói. “Và trang phục của ông giúp ông giữ sự chú ý của thế giới vào cuộc chiến ở Ukraine.”
Bộ vest là biểu tượng của sự bình thường, của nền ngoại giao ổn định và các cuộc đàm phán thông thường, trong khi tình hình của Ukraine lại rất đặc biệt.
Gasanova cho biết: “Tổng thống cho thấy rằng chiến tranh vẫn đang diễn ra, rằng đất nước vẫn đang trong cuộc đấu tranh”.
Tuy nhiên, bà thừa nhận rằng bằng cách từ chối tuân theo các quy ước về trang phục, Tổng thống Zelenskiy gây ra một số vấn đề cho các nhà lãnh đạo khác.
“Thế giới ngoại giao là thế giới của truyền thống. Và nhiều người ở Âu Châu và Hoa Kỳ muốn thấy Tổng thống Zelenskiy mặc vest để trông giống như mọi người khác. Điều này sẽ khiến Ukraine bớt độc đáo hơn trong không gian thông tin và sẽ biến tình hình chiến tranh thành một cuộc xung đột chính trị khác. Việc ông ấy từ chối mặc vest là từ chối chơi theo các quy tắc cũ”, Gasanova nói thêm.
Một số nhà lãnh đạo, như Emmanuel Macron của Pháp, đã thử mặc trang phục như Tổng thống Zelenskiy nhưng bị chế giễu dữ dội. Những người khác, như Tổng thống Trump, sẽ không bị bắt gặp đang mặc đồ chiến đấu.
Nhưng ví dụ về một nhà lãnh đạo ăn mặc như những người lính của mình thực sự rất mạnh mẽ.
Ngay cả Putin cũng bắt chước Tổng thống Zelenskiy, mặc quân phục trong tháng này khi đến thăm quân đội Nga khi họ đẩy lùi lực lượng Ukraine khỏi hầu hết các vị trí nhô ra ở Kursk mà họ đã chiếm được trong cuộc phản công bất ngờ vào mùa hè năm ngoái.
Tổng thống Zelenskiy cũng có thể phải gặp Tổng thống Trump một lần nữa để thảo luận về cuộc trò chuyện của tổng thống Hoa Kỳ với Putin. Không có thông tin gì về việc ông ấy sẽ mặc gì.
[Politico: Why Zelenskyy won’t wear a suit]
4. Anh sẽ tổ chức thêm các phiên họp lập kế hoạch quân sự về Ukraine
Thủ tướng Anh Keir Starmer nói Âu Châu phải “tăng cường” để đáp ứng thách thức của “một chương lịch sử khác” - khi ông tuyên bố sẽ tổ chức thêm ba ngày lập kế hoạch quân sự tại Luân Đôn vào tuần tới.
Đại diện của nhóm mà thủ tướng Anh gọi là “liên minh tự nguyện” sẽ lại họp tại Trụ sở Northwood, nơi các nhà hoạch định quân sự đã tổ chức các cuộc đàm phán ban đầu vào thứ năm này về cách huy động trong trường hợp ngừng bắn ở Ukraine.
Thủ tướng Starmer đã xác nhận kế hoạch trong cuộc điện đàm với Chủ tịch Hội đồng Âu Châu Antonio Costa, Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen và các nhà lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ, Na Uy và Iceland vào thứ sáu.
Thủ tướng cho biết cuộc họp tuần này “đã củng cố thêm cho ông tầm quan trọng của việc bảo đảm liên minh có các kế hoạch cần thiết cho mọi tình huống bất ngờ”.
Thủ tướng Anh đã chia sẻ thông tin chi tiết về các nhóm lập kế hoạch phụ mới bao gồm đất đai, biển, hàng không, tái thiết và tái thiết, sẽ họp lại trong ba ngày vào tuần tới.
Ông nhắc lại với các đối tác niềm tin của mình rằng Putin đang tìm cách cản trở và trì hoãn các đề xuất ngừng bắn.
Vương quốc Anh, cùng với Pháp, đã đi đầu trong các nỗ lực nhằm bảo đảm việc gìn giữ hòa bình trong trường hợp có bất kỳ lệnh ngừng bắn nào ở Ukraine, ngay cả khi Hoa Kỳ từ chối đưa ra bất kỳ lời hứa nào về việc hỗ trợ quân đội Âu Châu.
Phát ngôn nhân của thủ tướng trước đó đã hạ thấp các báo cáo rằng Vương quốc Anh — quốc gia đã tuyên bố sẽ điều động quân trên bộ ở Ukraine nếu cần — đang thay đổi suy nghĩ của mình để ưu tiên điều động trên không và trên biển hơn nhằm ủng hộ lệnh ngừng bắn. “Rõ ràng là sẽ cần hàng ngàn quân để hỗ trợ bất kỳ đợt điều động nào dù là trên biển, trên bộ hay trên không”, ông nói.
Giai đoạn tiếp theo của các cuộc đàm phán ngừng bắn giữa Nga và Hoa Kỳ dự kiến sẽ bắt đầu vào thứ Hai tại Saudi Arabia. Đại diện của Vương quốc Anh dự kiến sẽ tham dự cuộc họp cao cấp tiếp theo của “liên minh những người sẵn sàng” tại Pháp vào thứ Năm.
[Newsweek: UK to host further military planning sessions on Ukraine]
5. Nga đặt mục tiêu đạt được ‘một số tiến triển’ trong các cuộc đàm phán sắp tới tại Saudi Arabia
Một nhà đàm phán Nga nói với truyền thông nhà nước trước cuộc họp giữa các phái đoàn Hoa Kỳ, Ukraine và Nga vào thứ Hai rằng Mạc Tư Khoa hy vọng sẽ có “một số tiến triển” trong các cuộc đàm phán sắp tới tại Ả Rập Xê Út.
Hoa Kỳ đang tham gia vào hoạt động mà đặc phái viên Hoa Kỳ Keith Kellogg mô tả là “ngoại giao con thoi” để tìm kiếm giải pháp cho cuộc xâm lược toàn diện hiện đã bước sang năm thứ tư, nhưng Nga đã bác bỏ đề xuất ngừng bắn vô điều kiện trong 30 ngày, thay vào đó chỉ đề xuất dừng các cuộc không kích vào các cơ sở năng lượng.
Một cuộc tấn công của Nga vào Zaporizhzhia vào cuối ngày 21 tháng 3, chỉ vài ngày trước cuộc đàm phán sắp tới, đã giết chết một gia đình gồm ba người, khiến các quan chức Ukraine lên án gay gắt. Không quân Ukraine báo cáo rằng Nga đã bắn 179 máy bay điều khiển từ xa trong đợt tấn công qua đêm mới nhất của mình.
Thượng nghị sĩ Nga Grigory Karasin, người sẽ dẫn đầu phái đoàn của Mạc Tư Khoa, nói với đài truyền hình địa phương Zvezda rằng ông và cố vấn FSB Sergey Beseda sẽ tham gia đàm phán với đường lối “mang tính chiến đấu và xây dựng”. Ông không nêu rõ Nga hy vọng đạt được tiến triển nào.
Việc lựa chọn các nhà đàm phán đã gây ra nhiều câu hỏi, vì cả Karasin và Beseda đều không đến từ các tổ chức ngoại giao quan trọng của Nga như Điện Cẩm Linh, Bộ ngoại giao hoặc Bộ quốc phòng.
Ukraine cáo buộc Nga thiếu chân thành trong các nỗ lực hòa bình, chỉ ra các cuộc không kích liên tục mặc dù nhà độc tài Vladimir Putin gần đây tuyên bố ông đã ra lệnh ngừng các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine.
Trong khi đó, đặc phái viên Tòa Bạch Ốc Steve Witkoff, một đồng minh thân cận của Tổng thống Trump, đã ca ngợi Putin trong một cuộc phỏng vấn với Tucker Carlson vào ngày 22 tháng 3, gọi ông là một nhà lãnh đạo “vĩ đại” đang tìm cách chấm dứt chiến tranh. “Tôi không coi Putin là một kẻ xấu”, Witkoff nói. “Đó là một tình huống phức tạp, bao gồm cả chiến tranh và tất cả các yếu tố dẫn đến nó. Không bao giờ chỉ có một người.”
[Kyiv Independent: Russia aims to make 'some progress' during upcoming talks in Saudi Arabia]
6. Lithuania sẵn sàng điều động quân đội như một phần của nhiệm vụ hậu ngừng bắn tại Ukraine, Nauseda cho biết
Tổng thống Lithuania Gitanas Nauseda tuyên bố rằng quốc gia vùng Baltic này đã sẵn sàng gửi quân tới phái bộ hậu ngừng bắn ở Ukraine, Bloomberg Television đưa tin vào ngày 21 tháng 3.
Đề xuất về lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế đã thu hút sự chú ý gần đây, khi các quốc gia Âu Châu chuẩn bị đóng vai trò nổi bật hơn trong việc bảo vệ Ukraine trong bối cảnh sự hỗ trợ tiếp theo của Hoa Kỳ không thể đoán trước.
“Quốc gia của tôi sẵn sàng cung cấp sự hỗ trợ cần thiết”, Nauseda nói với Bloomberg Television.
“ Chúng tôi đang nói về số lượng quân cụ thể, nhưng cần phải có cam kết từ tất cả các quốc gia trong liên minh này về việc cung cấp sự hỗ trợ này”, Nauseda nói thêm.
Các nhà lãnh đạo Âu Châu đang có kế hoạch họp vào tuần tới tại Paris để thảo luận về việc hỗ trợ thêm cho Ukraine vì Âu Châu ngày càng lo ngại rằng nước này sẽ bị loại khỏi mọi cuộc đàm phán liên quan đến Điện Cẩm Linh và Hoa Kỳ về việc chấm dứt chiến tranh.
Tổng thống Lithuania ca ngợi “ý định thẳng thắn” của Ông Donald Trump về việc chấm dứt chiến tranh ở Ukraine nhưng lưu ý rằng Nga chỉ bắt chước cam kết đạt được hòa bình trong các cuộc đàm phán
“Cho đến nay, Nga đang bắt chước các cuộc đàm phán, nói về khả năng hòa bình và khả năng ngừng bắn, nhưng họ thậm chí còn chưa sẵn sàng giữ lệnh ngừng bắn như đã hứa là không tấn công, không tấn công vào cơ sở hạ tầng quan trọng”, Nauseda nói.
Kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, Lithuania đã trở thành một trong những nước ủng hộ mạnh mẽ nhất cho Ukraine.
Theo ước tính của NATO, quốc gia Baltic này nằm trong số những quốc gia chi tiêu quốc phòng hàng đầu Âu Châu, phân bổ 2,85% GDP cho quốc phòng vào năm 2024. Vilnius có kế hoạch tăng con số đó lên từ 5% đến 6% từ năm 2026 đến năm 2030.
[Kyiv Independent: Lithuania ready to deploy troops as part of post-ceasefire mission to Ukraine, Nauseda says]
7. Hỏa tiễn hành trình tầm xa Neptune của Ukraine là một quân át chủ bài tiềm năng
Nỗ lực của Ông Donald Trump nhằm thuyết phục Putin đồng ý ngừng bắn trong 30 ngày đã thất bại, nhưng Điện Cẩm Linh dường như quan tâm đến việc tạm dừng các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng — cùng lúc đó Ukraine đã phóng hỏa tiễn hành trình Neptune mới có sức tàn phá khủng khiếp.
Ukraine đã thử nghiệm thành công hỏa tiễn hành trình tầm xa đầu tiên vào đêm thứ sáu 14 Tháng Ba,, đánh trúng một nhà máy lọc dầu ở Tuapse, cách lãnh thổ do Ukraine kiểm soát ở vùng Krasnodarskiy Kray của Nga khoảng 1.000 km. Nó gây ra một đám cháy mất ba ngày mới dập tắt được.
“Sau cuộc tấn công của chế độ Kiev, vào đêm ngày 14 tháng 3, một bồn chứa khoảng 20.000 tấn xăng đã bốc cháy tại kho dầu. Trên bề mặt, đám cháy bao phủ một khu vực rộng lớn đến mức được xếp vào cấp độ nguy hiểm thứ tư”, Thống đốc Krasnodar Veniamin Kondratiev cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Hai. Nga gọi Thủ đô của Ukraine là Kiev thay vì Kyiv như chính người Ukraine và các nước phương Tây gọi.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã ra tuyên bố rằng: “Chúng tôi hài lòng với kết quả của Long Neptune.”
Cuộc tấn công nhà máy lọc dầu làm tăng thêm mối nguy hiểm cho ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga — một nguồn thu xuất khẩu quan trọng giúp duy trì nền kinh tế. Ukraine đã tấn công vào các nhà máy lọc dầu, đường ống và trạm bơm của Nga trong nhiều tháng bằng máy bay điều khiển từ xa — dẫn đến các báo cáo rằng họ đã phá hủy khoảng 10 phần trăm công suất lọc dầu của Nga.
“Về bản chất, Putin đã lặng lẽ xác nhận với Tổng thống Donald Trump rằng các cuộc tấn công sâu của chúng ta đang gây tổn hại đến ngành năng lượng của Nga như thế nào. Đây là con át chủ bài của chúng ta,” ông nói.
Hỏa tiễn hành trình hiệu quả hơn máy bay điều khiển từ xa, vốn là vũ khí mà Ukraine sử dụng để tấn công tầm xa vào Nga. Những máy bay điều khiển từ xa này bay chậm và dễ bị đánh chặn hơn, trong khi hỏa tiễn hành trình bay gần bằng tốc độ âm thanh và khó bị bắn hạ hơn nhiều.
Nhưng chúng không phải là vũ khí thần kỳ.
“Những hỏa tiễn hành trình này không thể thay đổi được cục diện của cuộc chiến, ngay cả khi chúng có nhiều hơn gấp nhiều lần so với hiện tại. Chúng tôi có kinh nghiệm của Nga, nước đã phóng nhiều hỏa tiễn khác nhau vào chúng tôi, và chúng tôi đang hoạt động”, Mykola Bielieskov, nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia và là nhà phân tích cao cấp của tổ chức phi chính phủ Come Back Alive Initiatives Center có trụ sở tại Kyiv cho biết.
“Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không cần phát triển tiềm năng tấn công — cả trong bối cảnh phòng thủ chiến lược hiện tại và từ góc độ răn đe trong tương lai,” Bielieskov nói thêm. “Hỏa tiễn cộng với máy bay điều khiển từ xa sẽ thực hiện các cuộc tấn công kết hợp.”
Long Neptune đưa Kyiv vào một câu lạc bộ rất chọn lọc các nhà sản xuất hỏa tiễn hành trình. Đây là những vũ khí có tầm bắn trên 500 km, mang đầu đạn mạnh có khả năng gây thiệt hại lớn cho mục tiêu.
Pháp và Vương quốc Anh có Storm Shadow/SCALP, đã được tặng cho Ukraine, trong khi Đức và Thụy Điển có Taurus, cho đến nay vẫn chưa được chuyển giao cho Kyiv. Hoa Kỳ đang nói về việc cung cấp hỏa tiễn hành trình JASSM của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào về việc chúng được chuyển đến Ukraine.
Neptune không phải là vũ khí duy nhất như vậy. Tháng trước, Tổng thống Zelenskiy đã giới thiệu máy bay điều khiển từ xa hỏa tiễn Peklo chạy bằng động cơ phản lực của Ukraine có tầm hoạt động 700 km.
Ukraine đã nỗ lực cải tiến Neptune thành hỏa tiễn tầm xa trong nhiều năm.
R-360 Neptune ban đầu được thiết kế là hỏa tiễn hành trình bờ-tàu mang đầu đạn nặng 150 kg và có tầm bắn lên tới 300 km; lần đầu tiên được Ukraine giới thiệu vào năm 2025. Thiết kế dựa trên hỏa tiễn chống hạm Kh-35 của Liên Xô nhưng có tầm bắn, khả năng tấn công và thiết bị điện tử được cải thiện.
Ngay sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga hơn ba năm trước, Ukraine đã sử dụng Neptune với hiệu quả tàn phá đối với Hạm đội Hắc Hải của Nga. Kyiv cho biết tàu chiến chủ lực của Nga, tàu tuần dương Moskva, đã bị đánh chìm vào năm 2022 sau khi bị trúng hai hỏa tiễn Neptune. Các hỏa tiễn này đã được sử dụng chống lại các mục tiêu hải quân khác, cũng như các hệ thống phòng không của Nga dọc theo Hắc Hải.
Ukraine đã nỗ lực mở rộng tầm bắn của Neptune và biến nó thành một hỏa tiễn phù hợp để sử dụng trong tấn công trên bộ. Kết quả là Neptune-MD, còn được gọi là Long Neptune. Nó sử dụng cùng một bệ phóng trên mặt đất như R-360, nhưng có hệ thống dẫn đường mới và sử dụng hệ thống dẫn đường hồng ngoại trong lần tiếp cận cuối cùng đến mục tiêu, trang web Militarnyi của Ukraine đưa tin.
Trong những tháng gần đây, nó đã được bắn vào các mục tiêu gần biên giới với Ukraine. Cuộc tấn công tuần trước là cuộc tấn công có tầm xa nhất của Neptune.
“Một hỏa tiễn mới của Ukraine, tấn công chính xác. Tầm bắn là một ngàn km. Cảm ơn các nhà phát triển, nhà sản xuất và quân đội Ukraine của chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục làm việc để bảo đảm an ninh cho Ukraine,” Tổng thống Zelenskiy cho biết trong một tuyên bố.
“Đối với tôi, những thông điệp về thành công của Long Neptune có vẻ đáng tin cậy”, Bielieskov cho biết. Theo ông, Ukraine đã thay đổi hệ thống điều khiển của Neptune, điều chỉnh nhu liệu dẫn đường ven biển để tấn công các mục tiêu trên bộ. “Và đồng thời, họ tăng tầm bắn — đây không phải là nhiệm vụ bất khả thi, chỉ là một hỏa tiễn lớn hơn và nhiều nhiên liệu hơn trong đó”.
Long Neptune là hỏa tiễn hành trình, với tất cả những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm là tốc độ sản xuất và ít phức tạp hơn so với hỏa tiễn đạn đạo. Nhược điểm là chúng bay chậm hơn nhiều so với hỏa tiễn đạn đạo, mang đầu đạn nhỏ hơn và dễ đánh chặn hơn, Bielieskov cho biết.
Ukraine hiện đang nỗ lực tăng cường sản xuất. Tổng thống Zelenskiy cho biết vào tháng 11 rằng khoảng 100 hỏa tiễn các loại đã được sản xuất.
Năm ngoái, Rumani đã thiết lập quan hệ đối tác với Ukraine để chế tạo hỏa tiễn và tàu phóng hỏa tiễn Neptunes.
Bielieskov cho biết: “Việc tài trợ từ Liên Hiệp Âu Châu sẽ giúp tăng sản lượng và mang lại cho Ukraine quyền tự do hành động lớn hơn — bất kể Hoa Kỳ”.
[Politico: Ukraine’s long-range Neptune cruise missile is a potential trump card]
8. Phóng viên Ukraine chuyển sang làm lính thiệt mạng trên tiền tuyến
Artur Shybalov, cựu quay phim và biên tập viên của kênh PTV UA, người đã gia nhập Quân đội Ukraine, đã hy sinh khi chiến đấu ở Tỉnh Kursk của Nga vào ngày 13 tháng 3.
Mẹ của anh, Tetiana Shybalova, đã thông báo về cái chết của anh vào ngày 20 tháng 3.
“Bạn đã có những kế hoạch khác cho cuộc sống của mình. Bạn muốn làm phim và viết sách,” Shybalova viết. “Bạn đã làm việc và học tập vì điều đó. Nhưng bạn thấy không thể trốn tránh và không chấp nhận thử thách.”
Shybalova cho biết thêm rằng con trai bà sống cùng vợ và các con.
Anh trai của Shybalov là Yevhen Shybalov, một nhà báo, cựu quân nhân trở về từ nơi giam cầm ở Nga vào năm 2022, đã viết trên trang Facebook của mình rằng Artur đã được huy động ngay sau khi bước sang tuổi hai mươi lăm.
“Tôi chưa bao giờ ngưỡng mộ và tự hào về em mình như trong những tháng ngắn ngủi đáng buồn khi em phục vụ trong lực lượng Dù, em không ngần ngại đặt máy ảnh xuống và cầm vũ khí. Bất kỳ hành vi nào khác đều không xứng đáng.”
Trên trang Facebook của mình, Shybalov đã viết vào năm 2024 rằng anh mơ ước trở thành một nhà văn từ khi còn nhỏ. Anh cũng đăng một ảnh chụp màn hình với “lời từ chối chính thức đầu tiên không xuất bản” văn bản của anh từ một nhà xuất bản Ukraine.
Trong bài đăng cuối cùng của mình vào ngày 6 tháng 2, Shybalov đã đăng tải hình ảnh những người lính ngồi dựa vào tường xi măng và viết: “Đối với tất cả những ai lo lắng cho tôi. Những chiến hào sâu và hầm ngầm đáng tin cậy bằng cách nào đó bảo vệ chúng tôi.”
Theo Viện Thông tin đại chúng, Sybalov là người thứ 101 trong danh sách những nhân viên truyền thông bị Nga sát hại.
[Kyiv Independent: Ukrainian reporter-turned-soldier killed on front lines]
9. Bộ Ngoại giao Ukraine cho biết sẽ không tương tác với Nga trong các cuộc đàm phán tại Saudi Arabia vào ngày 24 tháng 3
Hôm Thứ Bẩy, 22 Tháng Ba, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Heorhii Tykhyi cho biết trong một cuộc họp báo tại Kyiv rằng các phái đoàn Ukraine và Nga sẽ không tương tác trực tiếp trong cuộc hội đàm ngày 24 tháng 3 tại Saudi Arabia.
Tuyên bố của Tykhyi được đưa ra sau khi Đặc phái viên về Ukraine Keith Kellogg thông báo rằng Hoa Kỳ có kế hoạch tổ chức các cuộc đàm phán gián tiếp giữa Mạc Tư Khoa và Kyiv tại Saudi Arabia, với sự tham gia của đại diện Nga và Ukraine trong các phòng riêng biệt.
Tykhyi cho biết Ukraine không biết Hoa Kỳ sẽ sử dụng hình thức nào để đàm phán với Nga tại Riyadh.
“Đây là lựa chọn của họ. Nhưng chúng tôi đang chuẩn bị cho các cuộc đàm phán ở Saudi Arabia với tư cách là cuộc đàm phán song phương Ukraine-Mỹ”, phát ngôn nhân cho biết.
Theo Tykhyi, Ukraine đang chuẩn bị cho một vòng đàm phán kỹ thuật chứ không phải chính trị với Hoa Kỳ.
“Sẽ có một cuộc họp của những người chuyên nghiệp từ phía Ukraine và Hoa Kỳ, những người có thể tìm ra tất cả các chi tiết về cách (một lệnh ngừng bắn) nên như thế nào. Chúng ta cần hiểu nó sẽ hoạt động như thế nào, ai sẽ kiểm soát nó, nó sẽ được giám sát như thế nào”, ông nói.
Tykhyi nói thêm rằng Ngoại trưởng Andriy Sybiha sẽ không tham gia vòng đàm phán tiếp theo.
Các cuộc tham khảo ý kiến sắp tới giữa Nga và Hoa Kỳ tại Riyadh sẽ có sự tham gia của các quan chức Nga Grigory Karasin, chủ tịch Ủy ban các vấn đề quốc tế của Hội đồng Liên bang, và Sergei Beseda, cố vấn cho giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang Nga, gọi tắt là FSB.
Đại diện của Ukraine vẫn chưa được công bố chính thức.
Các phái đoàn Ukraine và Hoa Kỳ đã gặp nhau lần cuối tại Saudi Arabia vào ngày 11 tháng 3, nơi Ukraine đã đồng ý với đề xuất của Hoa Kỳ về lệnh ngừng bắn hoàn toàn. Nga không đồng ý với lệnh ngừng bắn hoàn toàn, và các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa của Nga vào Ukraine vẫn tiếp diễn.
[Kyiv Independent: Ukraine won't interact with Russia during talks in Saudi Arabia on March 24, Foreign Ministry says]
Nhà đàm phán Mỹ tiết lộ đáng kinh ngạc về Putin. Đình chiến, TQ đưa quân vào Ukraine: phước hay họa?
VietCatholic Media
15:07 23/03/2025
1. Tổng thống Trump gửi Hàng Không Mẫu Hạm thứ hai đến Trung Đông để tăng cường chống lại Houthis
Hoa Kỳ đang gửi Hàng Không Mẫu Hạm thứ hai đến Trung Đông, một động thái hiếm hoi và khiêu khích khi chính quyền Tổng thống Trump tăng cường chiến dịch ném bom nhằm vào các chiến binh Houthi ở Yemen.
Theo hai quan chức quốc phòng yêu cầu giấu tên để thảo luận về các hoạt động đang diễn ra, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã ra lệnh cho nhóm tác chiến Hàng Không Mẫu Hạm USS Harry S. Truman - hiện đang hoạt động ở Biển Đỏ - kéo dài thời gian điều động thêm ít nhất một tháng.
USS Carl Vinson và các tàu khu trục hộ tống sẽ tham gia cùng tàu với tư cách là tàu hộ tống trong những tuần tới. Vinson đã tiến hành tập trận ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản và Nam Hàn.
USNI News là đơn vị đầu tiên đưa tin về đợt điều động kéo dài này.
Sự xuất hiện của Vinson sẽ đánh dấu lần thứ hai trong sáu tháng qua Hoa Kỳ có hai nhóm tác chiến Hàng Không Mẫu Hạm đến Trung Đông, nhưng là lần đầu tiên dưới thời chính quyền Tổng thống Trump.
Hai Hàng Không Mẫu Hạm này báo hiệu sự phân bổ nguồn lực lớn cho Trung Đông vào thời điểm Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài khẳng định Á Châu là nơi tàu và máy bay của Hoa Kỳ nên trú ngụ. Việc gia hạn và điều động kép cũng sẽ có tác động lan tỏa đến việc sửa chữa tàu, vốn sẽ cần bảo dưỡng tại các xưởng đóng tàu của Hải quân vốn đã quá tải.
Kể từ khi chiến dịch mới chống lại Houthis bắt đầu vào tuần trước, Hoa Kỳ đã tấn công hàng chục địa điểm ở Yemen. Các quan chức quốc phòng cho biết họ đang tập trung vào các địa điểm phóng và lưu trữ hỏa tiễn, cũng như lãnh đạo Houthis.
Tổng thống Trump hôm thứ Tư cho biết trên tài khoản Truth Social của mình rằng lực lượng Houthi do Iran hậu thuẫn sẽ bị “tiêu diệt hoàn toàn” bởi các cuộc không kích của Hoa Kỳ và cảnh báo Tehran “ngay lập tức” ngừng cung cấp thiết bị quân sự cho lực lượng này.
[Politico: Tổng thống Trump sends second aircraft carrier to Middle East in ramp up against Houthis]
2. Tổng thống Zelenskiy thăm quân đội tiền tuyến, họp tại Kharkiv trong bối cảnh lo ngại về cuộc tấn công mới của Nga
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã đến thăm quân đội tiền tuyến gần Pokrovsk ở Tỉnh Donetsk và tổ chức cuộc họp chỉ huy quân sự tại Tỉnh Kharkiv vào ngày 22 tháng 3, khi Nga tiếp tục gây áp lực ở miền Đông Ukraine.
Tổng thống Zelenskiy trước đó đã nói rằng Nga đang cố gắng mở lại các cuộc tấn công ở nhiều nơi trên tiền tuyến, bao gồm cả ở Tỉnh Kharkiv.
Tổng thống đã đến thăm sở chỉ huy của nhóm chiến thuật “Pokrovsk” và được chỉ huy tạm quyền Yurii Madiar tóm tắt về diễn biến tiền tuyến. Thị trấn đang bị bao vây này là một trong những khu vực tranh chấp gay gắt nhất của mặt trận, mặc dù Tổng thống Zelenskiy đã báo cáo vào ngày 15 tháng 3 rằng tình hình gần Pokrovsk đã “ổn định”.
Cùng ngày, Tổng thống Zelenskiy đã đến thăm sở chỉ huy của nhóm chiến thuật “Kharkiv” và được Chỉ huy Viktor Solimchuk cập nhật về tình hình chiến trường ở Tỉnh Kharkiv.
Solimchuk cho biết quân đội Nga không ngừng nỗ lực mở rộng sự hiện diện ở các khu vực phía bắc của khu vực.
Tổng thống Zelenskiy đã trao tặng huy chương cho binh lính ở cả hai khu vực, bao gồm cả Huân chương Bohdan Khmelnytskyi.
“Tôi muốn cảm ơn các bạn vì đã thực sự đưa Ukraine đến gần hơn với một nền hòa bình lâu dài và công bằng, đến với chiến thắng. Tất cả chúng ta đều mong muốn điều này, và mỗi bước đi đều quan trọng”, ông nói.
Sau đó, Tổng thống Zelenskiy đã tổ chức một cuộc họp nội quân đội tại Kharkiv với các quan chức cao cấp trong quân đội và Văn phòng Tổng thống.
Văn phòng Tổng thống cho biết, tổng thống và nhóm của ông đã thảo luận về những diễn biến quan trọng ở tiền tuyến và chuẩn bị cho cuộc họp sắp tới giữa các quan chức Ukraine và Hoa Kỳ tại Saudi Arabia vào ngày 23 tháng 3.
Tổng thống Zelenskiy trước đó đã nói rằng phái đoàn sẽ họp vào ngày 24 tháng 3, cùng ngày Hoa Kỳ dự kiến sẽ tổ chức các cuộc họp riêng với các đại biểu Nga. Phóng viên Jennifer Jacobs của CBS News đã đưa tin vào ngày 21 tháng 3 rằng một nhóm kỹ thuật của Hoa Kỳ sẽ họp với các quan chức Ukraine một ngày trước đó.
Jacobs viết, trích dẫn nguồn tin thân cận với các cuộc đàm phán: “Nếu đạt được tiến triển tại Riyadh với nhóm Nga, nhóm kỹ thuật Hoa Kỳ có thể gặp lại nhóm Ukraine vào cuối ngày thứ Hai”.
Tổng thống Zelenskiy cũng có kế hoạch gặp các nhà lãnh đạo Âu Châu tại Paris vào ngày 27 tháng 3 trong một cuộc họp do Tổng thống Pháp Emmanuel Macron chủ trì để thảo luận về việc bảo đảm an ninh cho Ukraine.
[Kyiv Independent: Zelensky visits front-line troops, holds meeting in Kharkiv Oblast amid fears of renewed Russian offensive]
3. Putin đã cầu nguyện cho Tổng thống Trump sau vụ ám sát, đặc phái viên hàng đầu cho biết
Putin đã cầu nguyện cho Ông Donald Trump sau khi ứng cử viên tổng thống khi đó bị bắn vào năm ngoái, đặc phái viên cao cấp Steve Witkoff tiết lộ hôm thứ sáu.
Witkoff, người đã đến thăm Mạc Tư Khoa hai lần để đàm phán các điều khoản ngừng bắn với Ukraine, đã chia sẻ rằng trong cuộc gặp thứ hai với Putin, tổng thống Nga đã kể lại phản ứng của mình trước vụ ám sát hụt Tổng thống Trump tại một cuộc vận động tranh cử vào mùa hè năm ngoái.
Witkoff nói về Putin: “Khi tổng thống bị bắn, ông ấy đã đến nhà thờ địa phương, gặp linh mục và cầu nguyện cho tổng thống”.
Putin “có tình bạn với ông ấy và ông ấy đã cầu nguyện cho người bạn của mình”, Witkoff giải thích. Ông nói thêm rằng ông đã chuyển tiếp câu chuyện tình cảm này cho Tổng thống Trump, người “rõ ràng đã rất xúc động”.
Tháng 7 năm ngoái, Tổng thống Trump, khi đó là ứng cử viên sáng giá của Đảng Cộng hòa, đang phát biểu trước những người ủng hộ gần Butler, Pennsylvania thì bị một viên đạn do Thomas Matthew Crooks, 20 tuổi bắn sượt qua.
Phát ngôn nhân của Điện Cẩm Linh vào thời điểm đó đổ lỗi vụ nổ súng cho các đối thủ chính trị của Tổng thống Trump.
Witkoff cho biết Putin cũng có một “bức chân dung tuyệt đẹp” về Tổng thống Trump do một họa sĩ hàng đầu của Nga đặt vẽ và tặng cho Tổng thống Trump.
Tổng thống Trump từ lâu đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Putin, gọi ông là “thiên tài” và “một nhà lãnh đạo mạnh mẽ”, cùng nhiều từ ngữ cường điệu khác, khiến những người chỉ trích ông cáo buộc ông là mềm mỏng với Điện Cẩm Linh.
Đầu tuần này, hai nhà lãnh đạo đã nói chuyện qua điện thoại trong khoảng hai giờ để thảo luận về việc chấm dứt cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine, với việc Tổng thống Trump mô tả cuộc trò chuyện là “rất tốt và hiệu quả” bất kể Tổng thống Trump đã phải đợi Putin hơn một giờ.
Putin, nổi tiếng vì khiến các nhà lãnh đạo thế giới phải chờ đợi, một lần nữa đã làm đúng với danh tiếng của mình và trì hoãn cuộc gọi điện thoại với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Cuộc gọi theo lịch trình giữa ông và Tổng thống Trump được ấn định bắt đầu từ 4 giờ chiều đến 6 giờ chiều theo giờ Mạc Tư Khoa. Putin đang tham dự một hội nghị với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Nga tại Mạc Tư Khoa vào thời điểm đó và được cho là không tỏ ra vội vã rời khỏi sự kiện, khiến Tổng thống Hoa Kỳ phải chờ hơn một giờ.
Tại sự kiện ở Mạc Tư Khoa, Putin đã tham gia thảo luận với các nhà công nghiệp và ông trùm kinh doanh khi Alexander Shokhin, nhà lãnh đạo Liên minh các nhà công nghiệp và doanh nhân Nga nhắc ông đã quá giờ gọi điện thoại cho Tổng thống Trump.
Shokhin chỉ ra rằng phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov đã thông báo trước đó rằng lúc 4 giờ chiều giờ Mạc Tư Khoa Putin sẽ có cuộc gọi với Tổng thống Trump.
Trong đoạn video ghi lại sự kiện, Shokhin được nhìn thấy đang chỉ vào đồng hồ và hỏi Putin “Thưa ngài, đã đến giờ ngài hẹn nói điện thoại với Tổng thống Trump”
Thay vì vội vã cắt đứt cuộc hội thảo để đến Điện Cẩm Linh, Putin đã thản nhiên gạt bỏ mối lo ngại bằng một câu nói đùa, theo bản dịch của tờ Moscow Times, Putin nói, “Cứ tiếp tục đi. Chuyện Tổng thống Trump chỉ là chuyện nhỏ thôi mà”
Shokhin, cựu phó thủ tướng dưới thời Putin, trả lời: “Nhưng bây giờ, chúng ta cần xem Tổng thống Trump sẽ nói gì về vấn đề này”.
Putin đáp: “Đừng nghe ông ta! Đó là công việc của ông ta”, trong khi nhún vai, khiến khán giả bật cười.
Mặc dù cuộc điện đàm là một cuộc trao đổi ngoại giao được mong đợi cao, Putin đã không rời khỏi Nhà hát Âm nhạc Quốc tế Mạc Tư Khoa ngay lập tức. Thay vào đó, ông tiếp tục cuộc gặp gỡ của mình, cuối cùng rời khỏi địa điểm vào khoảng 5 giờ chiều theo giờ Nga, một giờ sau khi cuộc trò chuyện qua điện thoại với Tổng thống Trump theo lịch trình bắt đầu. Putin còn mất thời gian để đi từ Nhà hát Âm nhạc Quốc tế Mạc Tư Khoa đến Điện Cẩm Linh, cho nên, cuộc gọi điện thoại đã trễ từ 70 đến 80 phút.
[Politico: Putin prayed for Tổng thống Trump after assassination attempt, top envoy says]
4. Trung Quốc cân nhắc tham gia phái bộ gìn giữ hòa bình Ukraine, Die Welt đưa tin
Hãng truyền thông Đức Die Welt đưa tin hôm Chúa Nhật, 23 Tháng Ba, trích dẫn các nguồn tin ngoại giao giấu tên, rằng Trung Quốc đang cân nhắc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình như một phần của “liên minh những người tự nguyện” do Âu Châu đứng đầu nhằm bảo đảm lệnh ngừng bắn ở Ukraine.
Trung Quốc đã định vị mình là một bên trung lập trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine, nhưng vẫn là đồng minh chủ chốt của Nga trong suốt cuộc xâm lược toàn diện.
Một nguồn tin ngoại giao giấu tên của Liên Hiệp Âu Châu nói với Die Welt rằng: “Việc đưa Trung Quốc vào 'liên minh tự nguyện' có khả năng làm tăng sự chấp nhận của Nga đối với lực lượng gìn giữ hòa bình ở Ukraine”.
Nguồn tin mô tả tình hình là “nhạy cảm”.
Các nhà ngoại giao Trung Quốc đang tìm hiểu xem Âu Châu có cởi mở với sự tham gia của Bắc Kinh vào liên minh hay không, các nguồn tin ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu tuyên bố.
“Liên minh những người sẵn sàng” là một nhóm các quốc gia đồng minh do Thủ tướng Anh Keir Starmer và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đứng đầu. Liên minh này nhằm mục đích cung cấp bảo đảm an ninh cho Ukraine trong trường hợp ngừng bắn với Nga, có thể bao gồm một nhóm quân sẽ tăng cường cho quân đội Ukraine.
Mạc Tư Khoa đã nhiều lần bác bỏ ý tưởng đưa quân đội Âu Châu hoặc NATO vào Ukraine.
Các nhà lãnh đạo Âu Châu, bao gồm Tổng thống Volodymyr Zelenskiy, sẽ họp tại Paris vào ngày 27 tháng 3 để tiếp tục thảo luận về kế hoạch hòa bình và bảo đảm an ninh cho Ukraine.
Các nhà lãnh đạo liên minh chưa chia sẻ bất kỳ thông tin chi tiết nào về khả năng tham gia của Trung Quốc vào quá trình này.
Các quan chức Trung Quốc vào ngày 18 tháng 3 đã ra tín hiệu cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng tham gia vào công cuộc tái thiết Ukraine sau chiến tranh.
Đối tác kinh tế chính của Nga trong những năm gần đây là Trung Quốc do lệnh trừng phạt của phương Tây.
Nga và Trung Quốc tiếp tục tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung, cùng với các đồng minh khác như Belarus và Iran. Trung Quốc đã tham gia một cuộc tập trận quân sự với Nga và Iran vào ngày 11 tháng 3 tại Vịnh Oman.
[Kyiv Independent: China considering joining Ukraine peacekeeping mission, Die Welt reports]
5. Nga đổ lỗi cho ‘quốc gia thù địch’ về vụ tấn công khủng bố Crocus Hall năm 2024
Các quan chức Nga đã cáo buộc “các cơ quan đặc biệt của một quốc gia thù địch” đã lên kế hoạch và tổ chức vụ tấn công chết người vào năm ngoái tại Tòa thị chính Crocus ở Mạc Tư Khoa, nơi 145 người đã thiệt mạng.
Svetlana Petrenko, đại diện của Ủy ban điều tra Nga, tuyên bố vụ tấn công nhằm mục đích “làm mất ổn định tình hình ở Nga”. Bà không nêu rõ Nga đổ lỗi cho quốc gia nào nhưng cho biết thêm rằng chính quyền đã buộc tội vắng mặt “sáu người Trung Á” vì cáo buộc tuyển dụng và huấn luyện những kẻ tấn công.
Chính quyền đã đưa sáu cá nhân này vào danh sách truy nã của Nga trong khi giam giữ 19 nghi phạm có liên quan đến vụ tấn công.
Bốn nghi phạm chính, được giới truyền thông xác định là công dân Tajikistan, đã ra hầu tòa tại Mạc Tư Khoa vào tháng 3 năm ngoái với cáo buộc khủng bố, có dấu hiệu bị đánh đập nghiêm trọng. Một nghi phạm dường như gần như bất tỉnh trong phiên tòa.
Vụ tấn công vào Tòa thị chính Crocus ngày 22 tháng 3 năm 2024 là vụ tấn công chết chóc nhất ở Nga trong nhiều năm qua, khiến hàng trăm người bị thương.
Một phe phái của nhóm Nhà nước Hồi giáo đã nhận trách nhiệm, nói rằng những tay súng đã nổ súng vào những người tham dự buổi hòa nhạc trước khi đốt cháy tòa nhà. Mặc dù vậy, các quan chức Nga, bao gồm cả nhà độc tài Vladimir Putin, đã nhiều lần cáo buộc—mà không đưa ra bằng chứng—rằng Ukraine có liên quan. Kyiv đã mạnh mẽ phủ nhận mọi sự liên quan.
FSB của Nga 'vô hiệu hóa' vụ tấn công khủng bố bị cáo buộc ở Mạc Tư Khoa
[Kyiv Independent: Russia blames ‘unfriendly state’ for 2024 Crocus Hall terrorist attack]
6. Sergey Beseda là ai? Putin chọn trùm gián điệp bị mất uy tín cho các cuộc đàm phán với Tổng thống Trump
Putin đã chọn Sergey Beseda, người được cho là đã không còn được Điện Cẩm Linh ủng hộ trong quá khứ, để giúp đàm phán với Hoa Kỳ – Newsweek đã tổng hợp những gì chúng ta biết về ông.
Washington, Mạc Tư Khoa và Kyiv hiện đang tham gia vào các cuộc đàm phán về cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và các cuộc đàm phán này sẽ tiếp tục tại Riyadh, Ả Rập Xê Út, vào thứ Hai, với trọng tâm là bảo đảm an toàn hàng hải ở Hắc Hải.
Phái đoàn Nga tham gia các cuộc đàm phán này sẽ do Grigory Karasin, chủ tịch Ủy ban Hội đồng Liên bang về các vấn đề quốc tế, và Beseda, cố vấn của giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang, gọi tắt là FSB, trợ lý Tổng thống Nga về các vấn đề quốc tế Yury Ushakov cho biết.
“ Đây là những nhà đàm phán thực sự có kinh nghiệm và hiểu rõ các vấn đề quốc tế,” ông nói với các nhà báo.
Theo tờ The Moscow Times, Beseda là một sĩ quan tình báo được cho là đã bất đồng quan điểm với Putin về một số thông tin tình báo sai lệch trước cuộc xâm lược của Mạc Tư Khoa năm 2022.
Nhà báo người Nga Andrei Soldatov, một chuyên gia hàng đầu về các cơ quan an ninh của đất nước, đã đưa tin về hậu quả vào thời điểm đó, cho biết Beseda đã bị quản thúc tại gia.
Soldatov tuyên bố FSB đã cố gắng hạ thấp mức độ nghiêm trọng của vụ bắt giữ Beseda, “trình bày rằng đó chỉ là một cuộc thẩm vấn đơn thuần đối với vị tướng quyền lực”.
“Nhưng giờ đây, tôi đã biết được từ nguồn tin của mình rằng 'cuộc thẩm vấn đơn thuần' này đã không cứu được Beseda khỏi phòng giam ở Nhà tù Lefortovo,” ông viết trong một bài bình luận cho cơ quan truyền thông độc lập của Nga The Moscow Times.
Một cựu nhân viên của FSB và là người quen của Beseda đã kể với Important Stories rằng Beseda đã chính thức nghỉ hưu khỏi vị trí chỉ huy Cục 5 do tuổi tác và trở thành cố vấn riêng cho Alexander Bortnikov, giám đốc FSB.
Mark Galeotti, tác giả của cuốn Putin's Wars: From Chechnya to Ukraine, khi đó đã nói rằng ông không tin Beseda đã bị thay thế “vì những thất bại của ông vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh Ukraine”.
Galeotti viết: “Ông ấy đã đến tuổi nghỉ hưu bắt buộc là 70 và mặc dù ông ấy có thể tiếp tục giữ chức vụ theo sắc lệnh của tổng thống, nhưng điểm yếu của ông ấy là không có đủ nguồn lực chính trị để thực hiện điều đó, ngay cả khi ông ấy muốn”.
“Ngoài ra, ông ấy không bị bỏ rơi mà được bổ nhiệm làm cố vấn cho giám đốc FSB, một công việc nhàn hạ thường thấy”, Galeotti nói thêm, “Nếu [chính phủ] muốn tỏ ra không hài lòng, họ sẽ từ bỏ phép lịch sự này”.
Ushakov cho biết về các cuộc đàm phán hiện tại, sau cuộc gọi với Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Mike Waltz vào thứ Tư, “Ông Waltz và tôi đã đồng ý rằng các cuộc tham khảo ý kiến về vấn đề này theo hình thức song phương sẽ được tổ chức bởi các chuyên gia do các tổng thống chỉ định. Các cuộc tham khảo ý kiến này sẽ diễn ra tại Riyadh vào thứ Hai, ngày 24 tháng 3. Trưởng ban Ủy ban Đối ngoại Hội đồng Liên bang Grigory Karasin và cố vấn cho giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang Sergei Beseda sẽ tham gia vào các cuộc tham khảo ý kiến này về phía Nga.”
Ông nói thêm: “Chúng tôi đã thảo luận về việc sắp xếp một cuộc họp giữa các nhóm chuyên gia của hai nước để bắt đầu chủ yếu bằng việc tìm hiểu triển vọng có thể thực hiện sáng kiến nổi tiếng liên quan đến an toàn hàng hải ở Hắc Hải”.
Các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục vào thứ Hai, Ushakov cho biết ông hy vọng “sẽ có hiệu quả”.
[Newsweek: Who Is Sergey Beseda? Putin Taps Disgraced Spy Handler for Tổng thống Trump Talks]
7. Nga tiến hành cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa hàng loạt vào Kyiv, ít nhất 2 người thiệt mạng
Nga đã tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào Kyiv vào rạng sáng Chúa Nhật, 23 Tháng Ba, tấn công nhiều tòa nhà dân cư và giết chết ít nhất hai người, các nhà chức trách đưa tin vào sáng sớm ngày 23 tháng 3.
Cơ quan Tình trạng Khẩn cấp Nhà nước Ukraine cho biết có hai người đã thiệt mạng trong các vụ tấn công.
Trước đó, Thị trưởng Kyiv Vitali Klitschko đã báo cáo rằng có ít nhất bảy người bị thương. Một nạn nhân đã được đưa vào bệnh viện, trong khi những người khác được điều trị y tế tại chỗ, ông cho biết.
Theo các nhà chức trách, hai tòa nhà dân cư ở quận Dniprovskyi của thành phố đã bị hỏa hoạn. Một đám cháy bùng phát ở các tầng trên cùng của một tòa nhà 9 tầng, khiến một phụ nữ tử vong, Cơ quan khẩn cấp nhà nước cho biết. Hai mươi bảy cư dân đã được di tản.
Tầng sáu của tòa nhà chung cư 16 tầng cũng bị hư hại.
Phát ngôn nhân cảnh sát quốc gia Ukraine, Đại Úy Alyona Lyutnytska, cho biết các mảnh vỡ máy bay điều khiển từ xa đã tấn công một cơ sở phục vụ ăn uống trong cùng quận.
Tại quận Podilskyi, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra ở tầng 20 của một tòa nhà chung cư cao 25 tầng. Trước đó, Tkachenko đã báo cáo rằng có hai tòa nhà trong khu vực bị trúng bom, mặc dù sau đó ông cho biết vụ tấn công vào tòa nhà thứ hai vẫn chưa được xác minh.
Tại quận Holosiivskyi, vụ tấn công đã gây ra hỏa hoạn tại một tòa nhà văn phòng và nhà kho, cũng như một xe kéo dân dụng. Một người đã thiệt mạng, Cơ quan Khẩn cấp Nhà nước cho biết.
Các dịch vụ khẩn cấp đã được điều động đến các địa điểm bị tấn công. Thông tin về toàn bộ thương vong và thiệt hại vẫn đang được cập nhật.
Các mảnh vỡ từ máy bay điều khiển từ xa đã gây ra hỏa hoạn và thiệt hại tài sản trên khắp thành phố. Một đám cháy bùng phát ở khu vực rừng của quận Desnianskyi, trong khi hai casr ở quận Shevchenkivsky bị hư hại.
Đại Úy Alyona Lyutnytska một loạt vụ nổ đã làm rung chuyển thủ đô suốt đêm, khi các đơn vị phòng không vẫn hoạt động trong thành phố.
Cuộc tấn công diễn ra ít hơn một tuần sau lệnh “ngừng bắn” một phần kéo dài 30 ngày đối với các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng ở Nga và Ukraine. Lệnh ngừng bắn, được Điện Cẩm Linh công bố vào ngày 18 tháng 3 sau cuộc gọi giữa Putin và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, đã không làm gián đoạn các cuộc tấn công trên không của Mạc Tư Khoa vào các thành phố của Ukraine.
“Hôm nay, người Nga một lần nữa thể hiện 'mong muốn hòa bình' của họ”, Tkachenko nói.
“Trên thực tế, bọn khủng bố chỉ đơn giản là phóng vũ khí chết người vào các tòa nhà dân cư.”
[Kyiv Independent: Russia launches mass drone attack against Kyiv, kills at least 2]
8. Nga sử dụng các câu chuyện tuyên truyền để phá hoại các cuộc đàm phán hòa bình, đổ lỗi cho Ukraine, ISW cho biết
Các quan chức Nga đang khuếch đại những tuyên bố về các cuộc tấn công của Ukraine vào lãnh thổ Nga để biện minh cho việc từ chối đàm phán hòa bình và tiếp tục chiến tranh, Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW đưa tin vào ngày 21 tháng 3.
Viện lưu ý rằng phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov đã sử dụng việc Ukraine phủ nhận liên quan đến vụ hỏa hoạn tại trạm phân phối khí đốt Sudzha để gây nghi ngờ về uy tín của Kyiv. Trong khi đó, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova cáo buộc Ukraine vi phạm lệnh tạm dừng tấn công cơ sở hạ tầng năng lượng vẫn chưa được hoàn tất và cho rằng Hoa Kỳ chịu trách nhiệm kiểm soát các hành động của Ukraine.
Điện Cẩm Linh đã khơi lại những câu chuyện quen thuộc mô tả Ukraine là kẻ xâm lược và hành động dưới ảnh hưởng của phương Tây.
Chính quyền Nga cũng cáo buộc lực lượng Ukraine nhắm vào các nhà máy điện hạt nhân của Nga và phạm tội ác chiến tranh đối với thường dân Nga. Vào ngày 21 tháng 3, Ủy ban điều tra của Nga đã công bố bản tóm tắt các cuộc điều tra đang diễn ra về các cuộc tấn công bị cáo buộc của Ukraine vào Nhà máy điện hạt nhân Kursk và thường dân trong khu vực. Những tuyên bố này phù hợp với các nỗ lực trước đây của Điện Cẩm Linh nhằm làm mất uy tín của Ukraine và làm suy yếu sự ủng hộ của phương Tây.
Các quan chức Nga đã liên tục sử dụng những lời buộc tội như vậy để đánh lạc hướng sự chú ý khỏi các hành động của chính Mạc Tư Khoa. Các lực lượng Nga đã phạm nhiều tội ác chiến tranh ở Ukraine và đã quân sự hóa Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia bị tạm chiếm, gây nguy hiểm cho sự an toàn của nhà máy. Vào ngày 14 tháng 2, một máy bay điều khiển từ xa Shahed của Nga đã tấn công vào cấu trúc ngăn chặn của Lò phản ứng số 4 của Chornobyl, làm dấy lên thêm mối lo ngại về việc Mạc Tư Khoa coi thường an ninh hạt nhân.
Plokhy lập luận trong cuốn sách Xâm lược Chornobyl rằng hành động tống tiền hạt nhân của Nga là 'cảnh báo cho tương lai'
Những cáo buộc mới nhất của Điện Cẩm Linh xuất hiện trong bối cảnh các cuộc thảo luận giữa Ukraine và Hoa Kỳ về cơ sở hạ tầng năng lượng, bao gồm cả nhà máy điện bị Nga tạm chiếm. Mạc Tư Khoa có thể tìm cách khai thác những câu chuyện này để phá vỡ hoặc trì hoãn các cuộc đàm phán đó.
Mô hình đổ lỗi cho Ukraine gây nguy hiểm cho các cơ sở hạt nhân có thể được dùng như một chiến thuật để biện minh cho việc leo thang hơn nữa và gây áp lực lên các nhà lãnh đạo phương Tây.
Bằng cách tiếp tục coi Ukraine là một kẻ xâm lược liều lĩnh, Điện Cẩm Linh muốn củng cố sự ủng hộ trong nước đối với cuộc chiến và chuyển hướng sự chú ý của quốc tế khỏi các hành động quân sự của chính mình. Chiến lược này, được lặp lại trong suốt cuộc chiến toàn diện, nhằm mục đích làm xói mòn sự ủng hộ toàn cầu dành cho Kyiv trong khi vẫn duy trì quyền kiểm soát đối với nhận thức của công chúng Nga về cuộc chiến, ISW cho biết.
[Kyiv Independent: Russia uses propaganda narratives to undermine peace talks, shift blame to Ukraine, ISW says]
9. Bộ trưởng cho biết các cuộc đàm phán về Starlink của Ý đang ‘bị đình trệ’ vì Musk nổi giận
Bộ trưởng Quốc phòng Ý Guido Crosetto cho biết các cuộc thảo luận giữa chính phủ Ý và Space X của Elon Musk về một hệ thống liên lạc an toàn phục vụ mục đích quốc phòng và ngoại giao đã bị đình chỉ.
“Mọi thứ đã đi vào bế tắc,” Crosetto nói với tờ báo Ý La Repubblica trong một cuộc phỏng vấn được công bố vào thứ Bảy. Hiện tại “không có cuộc thảo luận kỹ thuật nào” về một thỏa thuận có thể có để sử dụng hệ thống vệ tinh Starlink, ông nói thêm.
Ông cho biết sự chậm trễ này có liên quan đến thực tế là các chi tiết kỹ thuật của thỏa thuận đã bị lu mờ bởi những tuyên bố của Musk và về Musk.
Nhân vật gây tranh cãi là tỷ phú công nghệ, cố vấn cao cấp của Tổng thống Hoa Kỳ Tổng thống Trump, đã trở thành tâm điểm của cuộc tranh luận chính trị xoay quanh các cuộc thảo luận về Starlink tại Ý.
Đầu tháng này, các đảng đối lập đã kêu gọi chính phủ dừng các cuộc đàm phán với Space X của Musk sau khi gã khổng lồ công nghệ này đe dọa sẽ tắt hệ thống liên lạc tại Ukraine, nơi Starlink cung cấp dịch vụ viễn thông thiết yếu cho lực lượng Kyiv khi họ cố gắng chống lại cuộc xâm lược toàn diện của Nga.
Tin tức về khả năng ký kết thỏa thuận với Starlink lần đầu tiên được công bố vào Tháng Giêng sau chuyến thăm của Thủ tướng Ý Giorgia Meloni tới dinh thự của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại Florida.
Meloni đã tìm cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp với chính quyền Tổng thống Trump, đồng thời phát triển mối quan hệ chặt chẽ với Musk.
Crosetto cho biết các cuộc thảo luận kỹ thuật sẽ được tiếp tục “khi những tranh cãi và tình hình lắng xuống”.
Bộ trưởng cho biết: “Câu hỏi đặt ra là điều gì hữu ích và an toàn nhất cho quốc gia”.
[Politico: Italy’s Starlink talks at ‘standstill’ amid Musk outrage, minister says]
10. Cuộc tấn công của Nga vào Zaporizhzhia khiến 3 người thiệt mạng, 16 người bị thương
Nga đã tấn công thành phố Zaporizhzhia vào tối ngày 21 tháng 3, khiến ba người thiệt mạng, trong đó có một cô gái 17 tuổi, thống đốc khu vực Ivan Fedorov đưa tin.
Các báo cáo trước đó cho biết đứa trẻ này mới 14 tuổi.
Ít nhất 16 người bị thương trong vụ tấn công, cũng làm hư hại một số tòa nhà chung cư trong thành phố. Một số tòa nhà cao tầng và nhà ở đã bốc cháy sau vụ tấn công.
Hoạt động cấp cứu kết thúc vào khoảng 1:00 sáng giờ địa phương. Đây là cuộc tấn công thứ hai vào Zaporizhzhia trong 24 giờ qua. Nga đã tấn công vùng ngoại ô của thành phố bằng bom dẫn đường trên không vào tối ngày 20 tháng 3, làm sáu người bị thương, bao gồm một bé trai bốn tuổi.
Zaporizhzhia, nơi sinh sống của khoảng 710.000 cư dân trước cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào năm 2022, thường xuyên là mục tiêu của lực lượng Nga.
Tỉnh Zaporizhzhia cũng là nơi có nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Âu Châu, nằm dưới sự xâm lược của Nga từ năm 2022 và đóng vai trò nổi bật trong các cuộc đàm phán hòa bình gần đây giữa Ukraine và Hoa Kỳ
Nga tấn công Odessa bằng máy bay điều khiển từ xa trong chuyến thăm của Tổng thống Tiệp Petr Pavel
[Kyiv Independent: Russian attack on Zaporizhzhia kills 3, injures 16]
Sự thiện kỳ diệu ở Augsburg. Cảnh sát bắt được kẻ tấn công nhà thờ Wichita với các biểu tượng Satan
VietCatholic Media
17:05 23/03/2025
1. Cảnh sát bắt giữ nghi phạm vì tội xúc phạm nhà thờ Công Giáo Wichita; FBI hỗ trợ điều tra cáo buộc 'tội ác thù hận'
Chính quyền cho biết họ đã bắt giữ một người đàn ông 23 tuổi vào hôm Chúa Nhật 16 Tháng Ba, vì có liên quan đến hành vi phá hoại và trộm cắp đáng báo động tại Nhà thờ Công Giáo St. Patrick ở Wichita, Kansas, khiến cộng đồng giáo xứ bàng hoàng.
Vụ tấn công xảy ra vào sáng sớm thứ Bảy, bao gồm việc phá hủy đáng kể các bức tượng tôn giáo, đập vỡ kính và làm hỏng các không gian linh thiêng. Một lá cờ Mỹ cũng bị đốt bên trong nhà thờ.
Theo KWCH 12 News, Sở Cảnh sát Wichita và FBI đã tham gia vào cuộc điều tra.
“Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của tội ác này, các sĩ quan và điều tra viên của WPD — cùng với ATF — đã ngay lập tức tiến hành một cuộc điều tra toàn diện”, cảnh sát Wichita tuyên bố trên Facebook vào sáng Chúa Nhật. “Nhóm điều tra hiện trường vụ án tận tụy của chúng tôi đã làm việc chăm chỉ để phân tích bằng chứng, dẫn đến việc xác định nhanh chóng nghi phạm”.
Theo cảnh sát, nghi phạm bị buộc tội trộm cắp, phá hoại hình sự và phá hoại tài sản. Họ cũng cho biết vụ án sẽ được trình lên Biện lý Quận Sedgwick và các công tố viên liên bang để xem xét chính thức về cáo buộc.
“ Hành động phá hoại đáng chê trách này sẽ không được dung thứ,” Cảnh sát trưởng Wichita Joe Sullivan cho biết. “Các sĩ quan và điều tra viên của chúng tôi đã làm việc không biết mệt mỏi để đưa nghi phạm này ra trước công lý.”
Nhà thờ đã thông báo rằng tất cả các buổi lễ sẽ bị hủy cho đến khi có thông báo mới để đánh giá mức độ thiệt hại.
Hội đồng Công Giáo Kansas lên án hành động này và gọi đây là “tội ác thù hận”. Trong một tuyên bố đăng trên mạng xã hội, nhóm này đã mô tả sự phá hoại.
“Sau khi xông vào bên trong, các bức tượng đã bị phá hủy, kính bị đập vỡ và nhiều thiệt hại lớn khác đã xảy ra tại không gian linh thiêng này”, Hội nghị viết. “Nhà thờ St. Patrick là một giáo xứ chủ yếu là người La tinh nằm trong một khu phố lao động ở Bắc-Trung Wichita. …FBI đang điều tra. Một biểu tượng của Satan đã được viết nguệch ngoạc trên tường. Đây là bộ mặt của cái ác”.
CatholicVote cũng lên tiếng, chia sẻ chi tiết về vụ việc trên X và nêu lên mối lo ngại về tình cảm chống Công Giáo. Một số nhà lãnh đạo Công Giáo đã liên kết hành động phá hoại này với xu hướng thù địch rộng hơn đối với các tổ chức tôn giáo.
Vụ tấn công xảy ra trong bối cảnh tranh cãi ngày càng gia tăng về “nghi lễ thờ phượng” Satan tại Tòa nhà Quốc hội Kansas vào ngày 28 tháng 3, càng làm gia tăng thêm mối lo ngại về hoạt động chống lại Kitô giáo đang gia tăng.
Các nhà lãnh đạo Công Giáo địa phương đang kêu gọi cầu nguyện cho cộng đồng giáo xứ St. Patrick và kêu gọi lực lượng thực thi pháp luật đưa những kẻ chịu trách nhiệm ra trước công lý. Sự việc này nhấn mạnh nhu cầu ngày càng tăng về sự cảnh giác trong việc bảo vệ các địa điểm thờ phượng khỏi các hành vi thù hận và bạo lực.
Sự việc này tại Nhà thờ Công Giáo St. Patrick xảy ra vào thời điểm các nhà lãnh đạo Công Giáo ở Kansas đang nêu lên mối lo ngại về sự thù địch ngày càng tăng đối với đức tin. Gần đây, tranh cãi đã nổ ra về một “lễ đen” Satanic được lên kế hoạch tại Tòa nhà Quốc hội Tiểu bang Kansas.
Một báo cáo của CatholicVote ngày 12 tháng 3 đã nêu chi tiết cách các nhà hoạt động Công Giáo lên án sự kiện này, mô tả nó là “một nghi lễ thờ phượng Satan đê tiện và đáng khinh bỉ”. Các nhóm như Hiệp hội Bảo vệ Truyền thống, Gia đình và Tài sản Hoa Kỳ, gọi tắt là TFP đã phát động các bản kiến nghị kêu gọi Thống đốc Dân chủ của Kansas Laura Kelly hủy bỏ sự kiện này, tuyên bố rằng “phạm thánh KHÔNG phải là quyền tự do ngôn luận”.
Để ứng phó với sự kiện sắp tới, Bênêđíctô College đã thông báo vào ngày 14 tháng 3 rằng trường sẽ dành Giờ Thánh, Kinh Mân Côi và Kinh Cầu nguyện Memorare hàng tuần trong suốt tháng để cải đạo những người tổ chức nghi lễ. Các nhà lãnh đạo trường nhấn mạnh rằng “phản ứng của chúng ta phải mang tính tâm linh”, kêu gọi người Công Giáo tham gia vào việc cầu nguyện và đền tội thay vì tuyệt vọng.
Thống đốc Kelly đã ra lệnh vào ngày 15 tháng 3 rằng sự kiện thờ phượng Satan phải được chuyển ra bên ngoài Điện Capitol thay vì diễn ra bên trong. Người tổ chức sự kiện gọi nghi lễ này là một cuộc biểu tình ủng hộ phá thai chống lại ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo trong chính trường Kansas, đặc biệt là Hội nghị Công Giáo Kansas.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Công Giáo chỉ trích quyết định của thống đốc cho phép sự kiện này diễn ra trên cơ sở của tiểu bang, gọi đó là “một cuộc tấn công công khai vào đức tin Công Giáo và là sự báng bổ đối với điều thiêng liêng”.
Source:Catholic Vote
2. 40 Bài Tĩnh Tâm Mùa Chay - Thứ Hai tuần thứ 3 Mùa Chay ngày 24-03-2025
2 V 5:1-15
Tv 42:2, 3; 43:3, 4
Lc 4:24-30
“Không có một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4:24)
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, một nơi linh thiêng, cởi mở với chân lý, nhưng khi mọi người bị thách thức bởi lời của Chúa Giêsu, họ đã “nổi giận”.
Thật vậy, những người đang lắng nghe không thể chấp nhận thực tế về Chúa Giêsu hay sự hiện diện phi thường giữa họ. Trong thế giới của phương tiện truyền thông xã hội và chu kỳ tin tức 24 giờ ngày nay, có thể có xu hướng đổ lỗi và dán nhãn mọi người một cách nhanh chóng bằng những phán đoán có sẵn trước khi sự thật được xác lập. Điều này thường dẫn đến thái độ chia rẽ và định kiến. Chúng ta có nuôi dưỡng thái độ khắc nghiệt đối với người khác không, và chúng ta có nhanh chóng phân loại người khác trước khi hiểu được bức tranh toàn cảnh không?
Chúa Giêsu không chỉ là một tấm gương để chúng ta nhìn vào khi chúng ta bị phán xét hoặc hiểu lầm một cách bất công, mà còn là ánh sáng để chúng ta lấy sức mạnh khi cuộc sống trở nên quá sức. Có nhiều tấm gương giữa các thánh và những người bình thường trong cuộc sống của chúng ta, đưa ra một ví dụ tuyệt vời về việc vượt lên trên sự tiêu cực, bất công và hận thù.
Những người trong hội đường đã có cơ hội nhận ra Chúa Giêsu và nhận được sự khôn ngoan và hiện diện đầy yêu thương của Người. Tuy nhiên, trái tim và tâm trí của họ bị chặn lại và nhuốm màu thiên kiến trong việc hiểu và trân trọng khoảnh khắc được trao cho họ. Làm thế nào chúng ta có thể dừng lại để suy ngẫm về Chúa Giêsu trong những trải nghiệm hàng ngày của mình? Chúng ta có sẵn sàng thay đổi trái tim mình để định hướng lại bản thân bằng ân sủng của các mối quan hệ đúng đắn - quay trở lại con đường đúng đắn - và thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta không? Mỗi ngày là một cơ hội khác để nắm lấy mục đích sống tươi đẹp là tuân theo niềm vui của Phúc âm.
3. Phép lạ Thánh Thể ở AUGSBURG, ĐỨC, năm 1194
Phép lạ Thánh Thể ở Augsburg, được biết đến tại địa phương là Wunderbarlichen Gutes – “Sự Thiện Kỳ Diệu”. Phép lạ này được mô tả trong nhiều cuốn sách và tài liệu lịch sử có thể được tham khảo tại thư viện công dân của Augsburg.
Một Bánh Thánh bị đánh cắp đã biến thành Thịt đang chảy máu. Trong suốt nhiều thế kỷ, một số phân tích đã được hoàn thành về biến cố này luôn xác nhận rằng Thịt và Máu của con người hiện diện. Ngày nay, Tu viện Heileg Kreuz, nghĩa là Thánh Giá, được các Cha dòng Đaminh chăm sóc.
Vào năm 1194, một người phụ nữ từ Augsburg đã đánh cắp một Mình Thánh Chúa đã được thánh hiến khi mọi người không chú ý. Vào thời đó, người ta không có nhà tạm để giữ an toàn các Bánh Thánh đã được thánh hiến, và để các tín hữu thờ phượng Thánh Thể. Chỉ đến năm 1264, với sự ra đời của Lễ Mình Thánh Chúa hay Corpus Christi, lòng sùng kính Thánh Thể mới trở nên phổ biến, và cùng với đó là yêu cầu nhà thờ nào cũng phải có nhà tạm.
Bà đã đặt Mình Thánh vào khăn tay, mang Mình Thánh về nhà và đặt Mình Thánh vào một hộp đựng bằng sáp bên trong tủ.
Năm năm trôi qua và vào ngày 11 tháng 5 năm 1199, người phụ nữ, bị giày vò bởi sự hối hận, đã thú nhận với bề trên của tu viện Heilig Kreuz, Cha Berthold, người đã yêu cầu bà mang Mình Thánh trở lại. Vị linh mục mở lớp phủ sáp ra và thấy rằng Thánh Thể đã biến thành Thịt chảy máu. Mình Thánh xuất hiện “được chia thành hai phần được kết nối với nhau bằng những sợi mỏng của Thịt chảy máu”. Cha Berthold đã ngay lập tức đến gặp giám mục của thành phố Udalskalk, người đã ra lệnh rằng Mình Thánh Phép Lạ phải được “chuyển đi, cùng với giáo sĩ và người dân vào nhà thờ chính tòa và được trưng bày trong một Mặt Nhật bằng pha lê để công chúng thờ phượng”.
Mình Thánh bắt đầu lớn lên và phồng lên, và hiện tượng này kéo dài trước mắt mọi người từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả. Sau đó, Đức Giám Mục Udalskalk đã cho mang Mình Thánh trở lại gần tu viện Heilig Kreuz
Vào năm 1200, Bá tước Rechber đã tặng cho các Cha dòng Augustinô một chiếc rương bạc hình chữ nhật có một cửa mở ở phía trước để đặt Mình Thánh của phép lạ. Nhiều người tin rằng đó là nhà tạm đầu tiên trước khi mô hình này lan rộng trên thế giới. Bên cạnh phép lạ Thánh Thể, những sự kiện phi thường khác đã diễn ra, chẳng hạn như sự xuất hiện của Mình Thánh cùng Chúa Hài Đồng Giêsu mặc đồ trắng với khuôn mặt rạng rỡ và trán của Người được bao quanh bởi một vương miện bằng vàng, hoặc trong một trường hợp khác là sự chảy máu của cây thánh giá của nhà thờ, hoặc sự xuất hiện của Chúa Giêsu ban phước cho cộng đồng tín hữu.
4. Gia đình và trẻ em đang gặp nguy hiểm - Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Trump tiếp tục hỗ trợ nước ngoài
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã kêu gọi các tín hữu Công Giáo viết thư cho các đại diện dân cử thúc giục chính quyền Trump tái tục hỗ trợ nước ngoài, đặc biệt cho các quốc gia nghèo đói.
Các Giám Mục Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ cung cấp viện trợ ngay lập tức, quan trọng, cứu sống cho những người chị em và anh em của chúng ta đang phải đối mặt với nạn đói, đàn áp tôn giáo, xung đột và những sự xúc phạm khác đối với nhân phẩm của họ. Hầu như tất cả các chương trình viện trợ nước ngoài đã bị chấm dứt mà không có cảnh báo cho các cộng đồng trên toàn cầu.
Tình hình thật tồi tệ. Khi việc phân phối thực phẩm bị dừng lại, mọi người sẽ đói. Nếu không được điều trị suy dinh dưỡng cấp tính, trẻ em sẽ chết. Toàn bộ cộng đồng không có nơi trú ẩn và nước sạch. Nông dân không thể trồng trọt. Các bà mẹ và trẻ nhỏ đang mất đi quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe quan trọng. Tiếng nói của anh chị em rất cần thiết để chúng ta có thể tiếp tục làm việc vì một thế giới nơi tất cả mọi người có thể đạt được tiềm năng mà Chúa ban cho họ.
Hãy gửi email cho các thành viên Quốc hội của anh chị em, yêu cầu họ thúc giục Chính quyền dừng ngay và đảo ngược mọi sự chấm dứt hỗ trợ nhân đạo và phát triển cứu sống và khẳng định sự sống cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình. Ngoài ra, hãy yêu cầu các thành viên Quốc hội của anh chị em thúc giục Chính quyền giải ngân mọi khoản tiền hỗ trợ nước ngoài do Quốc hội phân bổ một cách kịp thời.
Ngay cả khi anh chị em đã gửi email, xin vui lòng gửi thêm một email nữa ngay hôm nay. Việc tiếp tục hỗ trợ cho công việc cứu người này là điều cần thiết.
Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ hỗ trợ công việc của Catholic Relief Services, gọi tắt là CRS để hợp tác với mọi người nhằm giúp họ xây dựng tương lai tốt đẹp hơn, cung cấp các nguồn lực và công cụ họ cần để vượt qua những thách thức và phát triển. CRS cung cấp loại hỗ trợ cứu sinh này trong thời kỳ khủng hoảng, giúp mọi người trở nên tự lực và sống có phẩm giá. Khi xã hội phát triển, họ đóng góp vào sự ổn định toàn cầu lớn hơn, giảm nguy cơ xung đột và tạo ra môi trường an toàn hơn, thịnh vượng hơn, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, bao gồm cả chúng ta; nói một cách đơn giản, viện trợ nhân đạo và phát triển quốc tế là vì lợi ích của đất nước chúng ta.
Nghiên cứu cho thấy tiếng nói của cử tri có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình ra quyết định của các thành viên quốc hội, đặc biệt là khi thông tin liên lạc được cá nhân hóa—như chia sẻ một câu chuyện hoặc chứng minh tác động của một vấn đề sẽ có trong quận hoặc tiểu bang. Đừng quên cá nhân hóa thông điệp của anh chị em!
Thông điệp của anh chị em có thể trình bày các nét chính sau đây:
Chúng tôi vô cùng lo ngại rằng chính quyền đã chấm dứt hàng ngàn chương trình viện trợ nước ngoài. Các chương trình này cung cấp viện trợ quan trọng, cứu sống cho những người chị em và anh em của chúng ta đang phải đối mặt với nạn đói, đàn áp tôn giáo, xung đột và những sự xúc phạm khác đối với phẩm giá con người của họ. Với tư cách là người đại diện của tôi, xin hãy thúc giục chính quyền dừng lại và đảo ngược mọi việc chấm dứt viện trợ nhân đạo và phát triển cứu sống và khẳng định sự sống cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình. Ngoài ra, hãy yêu cầu họ giải ngân tất cả các quỹ viện trợ nước ngoài do Quốc hội phân bổ một cách kịp thời, để công tác cứu sống có thể tiếp tục.
Viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ không phải là chính sách trừu tượng—nó có những hậu quả sống còn ảnh hưởng đến con người ngày nay. Khi việc phân phối thực phẩm ngừng lại, mọi người sẽ đói. Nếu không được điều trị suy dinh dưỡng cấp tính, trẻ em sẽ chết. Các bà mẹ và con nhỏ của họ đang mất quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các nhóm tôn giáo thiểu số, bao gồm cả thanh thiếu niên theo Kitô giáo, có nguy cơ bị cực đoan hóa cao hơn. Không hành động sẽ dẫn đến đau khổ và mất mát trên phạm vi toàn cầu. Mạng sống của những người chị em và anh em của chúng ta đang bị đe dọa. Một lần nữa, chúng tôi kêu gọi chính quyền dừng lại và đảo ngược mọi sự chấm dứt viện trợ nhân đạo và phát triển cho đến khi tiến hành đánh giá toàn diện và minh bạch các chương trình.
Source:USCCB
Thánh Ca
Lễ Truyền Tin 23/3
Lm. Thái Nguyên
06:18 23/03/2025
Chúa nhật 4 Chay C
Lm. Thái Nguyên
06:20 23/03/2025