Phụng Vụ - Mục Vụ
Thông cảm với Chúa
Lm Giuse Đinh lập Liễm
05:06 24/03/2010
CHÚA NHẬT LỄ LÁ, A,B,C
+++
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: ”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo: ”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: ”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7)
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
+++
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: ”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo: ”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: ”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7)
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Bác ái và yêu thương
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10:39 24/03/2010
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Jn 13:34-35)
Vào một ngày, khi thầy khổ tu kia bắt đầu cầu nguyện, thầy thấy một bà mẹ nghèo tàn tật cõng trên lưng một đứa con thiếu dinh dưỡng, gầy gò ốm yếu, em là nạn nhân của sự ruồng bỏ và đánh đập. Nhìn thấy thế, thầy ngước mặt lên thân thưa với Chúa: Lạy Chúa chí ái, tại sao Chúa Sáng Tạo yêu thương có thể nhìn cảnh khổ đau và đáng thương như thế mà không làm chi và sao Chúa vẫn cứ lặng thinh? Và trong tận đáy sâu thẳm tâm hồn, thầy nghe tiếng Chúa trả lời: Cha đã làm một vài điều, Cha đã dựng nên con.
1. Yêu Thương
Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa. Chúa cho mỗi người chúng ta một số nén bạc khác nhau và hy vọng mỗi người tự sinh hoa kết quả. Chúng ta được sinh ra làm người, được dưỡng nuôi trong tình yêu thương của Chúa, của gia đình và đồng loại. Mỗi người đều có trách nhiệm chung được mời gọi chia sẻ và cùng nhau xây dựng cuộc sống xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Chúng ta cần phải nhận diện hình ảnh của Chúa nơi những người anh chị em chung quanh và mỗi người trở thành Kitô với người khác. Thánh Thần bên trong mỗi tâm hồn sẽ biến mọi sự thành sự thật và sự có thể. Trong xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống có rất nhiều người nghèo, người kém may mắn, họ rất cần sự giúp đỡ. Nếu chúng ta biết mở mắt tâm hồn trong tình yêu, chúng ta sẽ nhận ra chính Chúa Kitô đang hiện diện nơi những người cùng khốn nhất. Xã hội hiện nay vẫn có rất nhiều người tốt chung quanh. Truyện kể rằng: Trong cuộc đại khủng khoảng kinh tế tại Nước Mỹ, các cơ quan chính phủ đã phân tán khắp các vùng đồi núi để tìm kiếm các gia đình nghèo để họ có thể giúp cho chút vốn sửa sang nhà cửa và hạt giống để gieo trồng. Cơ quan từ thiện đến gặp một bà cụ già sống trong một mái nhà không sàn và nghèo nàn. Cửa sổ bị vỡ và được che đỡ bằng những miếng giấy cứng. Bà chỉ có những thứ đồ dùng căn bản và kiếm ăn từng ngày trên mảnh đất cằn khô. Một nhân viên nói với bà: Nếu chính phủ cho bà 200 đô, bà sẽ làm gì với số tiền này? Bà trả lời ngay: Tôi sẽ giúp cho người nghèo. Có rất nhiều người tốt thật giầu có nhưng lại ít tiền bạc.
2. Phúc Lộc Chan Hòa
Đôi khi chúng ta đòi hỏi phải có công bằng về phần mình, nhưng chúng ta quên đi việc bác ái chúng ta cần phải thực hiện. Thử suy nghĩ xem chúng ta đã góp được góp bao nhiêu cho xã hội nơi chúng ta đang sinh sống. Khi chúng ta được sinh ra hoặc chúng ta đến cư ngụ nơi đây, thì hầu như mọi cái đã có sẵn. Chúng ta chẳng có công lênh gì cả, nhưng đôi khi chúng ta đòi hỏi thật nhiều. Chúng ta biết rằng ngay cả những cái chúng ta đang dùng như quần áo mặc trên người, đồ trang sức, những phương tiện cuộc sống đều là do sự cống hiến của rất nhiều người khác và từ đời này qua đời khác. Chúng ta không thể sống sót hay phát triển được nếu chúng ta không biết nhận lãnh và cho đi.
Chia sẻ sẽ có niềm vui và cho đi thì không bao giờ cạn. Truyện kể về lòng tốt đã cảm hóa được người xấu trở về. Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là vị thánh hiền lành và có lòng tốt. Ngài có một người giúp việc rất nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn chủ nhà ra quán nhậu say. Anh ta về khuya gõ cửa và không ai mở cho. Anh ta nằm lăn ra trước cửa và ngủ. Nghe tiếng động, thánh Phanxicô ra mở cửa và thấy anh ta nằm đó, ngài liền nhẹ nhàng bồng anh ta lên phòng và đặt trên chính giường của ngài. Còn ngài đi ngủ chỗ khác. Giường êm, nệm ấm khiến chàng ngủ say một giấc tới sáng. Vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của chủ, anh ta hoảng hốt vội chạy đi tìm thánh nhân và sấp mình xin tha thứ và hứa cải thiện. Và anh đã giữ được lời hứa.
3. Yêu Là Cho Đi
Từng giây, từng phút trong đời sống là từng giây phút chúng ta đón nhận hồng ân của Chúa. Từ khi chúng ta hiện hữu và có hơi thở cho tới khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sống trong biển hồng ân. Truyện kể về việc bác ái: Có một người đàn ông giầu có, thắc mắc về lời giảng của Chúa Giêsu về việc bố thí. Ông cảm thấy rất buồn nản bởi lời dạy này. Ông cầu nguyện và cầu nguyện để có thể chấp nhận lời dạy của Chúa nhưng càng cầu nguyện, ông càng cảm thấy buồn hơn. Một ngày, khi ông gần thất vọng, Thiên thần hiện đến an ủi ông và hỏi: “Tại sao ông lại buồn thế? Ông trả lời: Tôi buồn vì rằng tôi cứ phải cho, phải cho mãi không ngừng. Thiên thần nói: Ô, không, không phải thế đâu! Thiên Thần tiếp: Ông chỉ phải cho, khi Chúa còn cho ông. Nếu Chúa ngừng cho ông, rồi ông sẽ không phải tiếp tục cho người khác nữa. Giờ đây, Chúa vẫn tiếp tục cho ông mà – Chúa cho ông một cách dồi dào hơn cả ông có thể cho người khác. Chúa ban cho chúng ta khả năng, thời gian và gia sản, không phải cho chính chúng ta mà chúng ta dùng các khả năng Chúa ban sinh lợi cho đồng loại.
Yêu thương không có giới hạn. Một trái tim biết rộng mở yêu thương là một trái tim vĩ đại. Vĩ đại như trái tim của Đức cha Jean Cassaign và cha Đamien, tông đồ người hủi, trái tim của mẹ Têrêxa thành Calcutta và trái tim của không biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đã chia sẻ cùng những kẻ nghèo nàn khốn khó. Hình ảnh mẹ Têrêxa, một nữ tu già nua tuổi tác, bệnh tật và yếu đuối. Làm sao mẹ có thể ôm ấp những thân xác ghẻ lở hôi thối, những vết thương rỉ máu và những quần áo dơ bẩn. Bởi đâu mẹ đã tiếp nhận những thây ma lạnh ngắt, mẹ ôm ẵm và mẹ chăm sóc. Người ta đâu phải là người thân hay ruột thịt của Mẹ. Mẹ đã đón nhận họ và yêu thương họ với một trái tim rộng mở và không so đo tính toán. Mẹ chỉ biết cho đi và cho đi. Thánh Matthew đã ghi lại lời Chúa Giêsu mời gọi cho đi: "Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."(Mt. 10:42).
Không phải chúng ta chỉ cho, khi chúng ta có dư hoặc cho đi cái chúng ta không dùng. Cho đi chính cái mình đang cần, đang quí và đang xài mới là đáng qúi. Mẹ Têrêxa kể câu truyện, ngày nọ có một thiếu phụ và 8 đứa con nhỏ đến gỗ cửa nhà dòng xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con không có được một hạt cơm trong bụng. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn mẹ rồi chia gạo ra làm hai phần. Ngạc nhiên về cử chỉ ấy. mẹ Têrêxa hỏi tại sao bà lại phải chia làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn. Sống tình bác ái là thế đó. Bà cho chính cái cần thiết để sống. Trong phúc âm, Chúa đã khen một bà góa cho hai đồng bạc vào thùng tiền. Bà cho chỉ có hai đồng xu nhưng đó là tất cả những cái bà có và bà cần dùng. Chúa đã khen lòng từ ái của bà.
4. Cho Đi Là Có Thêm.
Chúng ta nhận lãnh thì nhiều nhưng cho đi thì ít. Nhìn lại mình, tất cả những cái chúng ta đang có đều là nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh sự sống con người từ Thiên Chúa và sự cộng tác của cha mẹ. Chúng ta nhận lãnh sự hiểu biết và khôn ngoan nơi người khác. Chúng ta lãnh nhận của ăn, thức uống, đồ dùng và mọi phương tiện của cuộc sống từ nơi những người xung quanh. Hầu như cái gì chúng ta cũng nhận.Chúng ta đã cống hiến được gì cho gia đình, xã hội và con người? Nhận lãnh cần phải trao ban. Nếu chúng ta không biết trao ban, chúng ta sẽ trở thành ao tù. Giống như khi chúng ta thở ra hít vào, khi chúng ta hít vào khí Oxy và thở ra thán khí, giúp con người sống còn. Cho và nhận trở thành quy luật của cuộc sống. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Chúng ta biết cho thì không mất, mà còn được thêm và thêm dư giả. Thánh Luca nhắc nhở cho quý hơn là nhận:"Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận"(TĐCV 20:35).
Mỗi người có những nhận thức và hành xử khác nhau trong đời sống. Người ta nói rằng: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Chúng ta không biết những người tính tình hà tiện và sống keo kiệt ở đâu ra. Người ta thường chia ra ba hạng người làm phúc bố thí theo ba lối khác nhau. Nhóm người thứ nhất được ví như cục đá. Hễ muốn được gì, thì phải lấy búa mà đập. Song chỉ được đá vụn và tia lửa nẩy ra mà thôi. Nhóm người thứ hai ví như bọt biển. Nếu muốn được phải vắt và bóp. Nhóm người thứ ba ví như mật ong, không cần đập hay bóp, tự nhiên cũng được mật ngon chảy ra từ tàng ong. Chúng ta có thể hiểu được rằng: Nhóm thứ nhất là những kẻ cứng lòng và hà tiện, nếu không ép thì không chịu cho chút gì. Nhóm thứ hai là kẻ có lòng tốt, hễ ai quyên góp thì cho, càng quyên càng cho. Nhóm thứ ba là người vui lòng mà cho một cách ngọt ngào, chứ không đợi ai phải hỏi. Vậy chúng ta muốn gia nhập vào nhóm nào?
5. Cho Qúy Hơn Nhận
Cho đi thì quý hơn nhận nhưng hàng ngày chúng ta nhận quá nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu. Từ khi mở mắt thức dậy chào đón một ngày mới là chúng ta bắt đầu nhận ơn. Không biết bao nhiêu thứ chúng ta nhận trong một ngày, chúng ta không thể kể hết. Chúng ta đóng góp được bao nhiêu cho xã hội và con người. Thật là quá ít ỏi. Câu truyện của một thi sĩ nằm mơ thấy ông thợ giầy đến nói với chàng: Từ nay xin ông tự đóng giầy lấy mà đi. Rồi người bán bánh đến nói: Tôi nghĩ, ông hãy tự làm bánh lấy mà ăn. Bác hàng thịt cũng thế nói rằng: Ông hãy nuôi heo mà giết thịt. Cô giúp việc thưa rằng: Từ nay ông tự dọn bữa, quét nhà, giặt quần áo, em xin nghỉ. Anh thi sĩ toát mồ hôi hột thầm nói: Trời ơi, mọi người nghỉ việc thì tôi sẽ chết mất. Thức giấc, à đây là giấc chiêm bao, mừng biết mấy. Từ đó, anh nhận ra mọi người đều là ân nhân của mình. Đây là bài học cho hết mọi người chúng ta. Chúng ta chịu ơn quá nhiều, nếu không có tha nhân, chúng ta sống đơn côi hay đã chết từ lâu.
Người ta vẫn nói: Lòng tham không đáy. Chúng ta nói rằng chúng ta không tham, nhưng ước muốn của chúng ta cũng không có cùng. Muốn có rồi lại muốn có thêm nữa. Chúng ta chắt chiu, thu quén của cải tiền bạc càng nhiều càng tốt. Chúng ta ai cũng muốn có chút gì để phòng cơ tích trữ hay chút vốn dự tính cho ngày mai. Nó là công lao mồ hôi nước mắt làm ra chứ đâu phải nhặt không ngoài đường. Cái gì của mình cũng qúy, nhất là tiền bạc. Đồng tiền nối liền khúc ruột mà. Đâu ai nỡ cắt đứt ruột mình. Nói thế thôi nhưng trên thực tế chúng ta thấy có rất nhiều tấm lòng hảo tâm và quảng đại. Họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ và hy sinh cho đồng lọai. Có những người dám hy sinh cho đại nghĩa, lo việc chung trước và việc nhà sau. Nhìn xã hội chung quanh, chúng ta thấy sự cống hiến khả năng của biết bao nhiêu con người. Mỗi người được mời gọi góp phần của mình để xây dựng một xã hội và giáo hội tốt đẹp. Hãy cứ cho đi sẽ nhận lại gấp trăm. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6:38)
6. Đức Ái là Yêu Thương
Đức bác ái được thể hiện qua lời nói, cách cư xử và hành động giúp đỡ. Chúa Giêsu chú trọng đến những hành vi bác ái và cho đó chính là những hoa qủa để được lãnh phần thưởng quê trời. Người ta thường nói: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Câu truyện kể: Nơi góc hè phố, có một bác hành khất tê bại nằm co quắp, thấy một ông ăn diện bảnh bao đi qua, ông mở miệng xin bố thí. Người đó xỏ tay vào túi nhưng tìm mãi chẳng được gì. Rồi thành kính nói với bác ta: Này bác, tôi muốn biếu bác một chút, nhưng bất ngờ tôi chẳng có đồng nào trong túi mình cả. Xin lỗi. Người hành khất nói: Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng “Bác”, thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng của một ông lớn nào cả.
Thật là giật mình. Nhìn lại thái độ của chính mình, nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử thiếu lễ độ và có khi vô phép với những người kém may mắn. Chúng ta tìm cách tránh xa những người ăn xin và sợ bị phiền hà. Chúng ta khinh thường họ vì họ bị mù, bị què quặt, bị câm điếc và bị ngồi lê lết trên các vỉa hè. Đã biết bao lần chúng qua chỉ lướt nhìn qua rồi giả vờ như không trông thấy họ. Có khi nào chúng ta mở lời chào họ hay gọi họ là cô, chú, bác, hay ông bà chưa? Chúng ta thường thiếu xót trong việc bác ái này. Là con cái của Chúa, Chúa mời gọi chúng ta bước thêm một bước đến với tha nhân, thánh Matthew viết: Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt. 5:47-48).
7. Đón Nhận Anh Em
Ai là anh em của chúng ta. Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta một câu truyện ngụ ngôn: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết (Lc 10:30). Các thầy tư tế, thầy Lêvi đi qua, giả lơ và tìm đường khác. Có một người ngoại nhìn thấy, động lòng thương xót: Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc (Lc 10:34). Chúa Giêsu đã lấy gương của một người ngoại giáo để dạy cho các tông đồ và cho chúng ta bài học về bác ái chính thực. Không chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc thực hiện, dám xả thân cứu vớt anh em đồng loại. Có lẽ trái tim của chúng ta chưa mở rộng đủ để đón nhận anh chị em.
Ngày kia người ta kể câu truyện về Chúa giả làm bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, bác rảo qua các biệt thự, xin trú ngụ qua đêm. Kẻ thì bảo bác ra nhà sau ngủ, người thì nói bác xuống vựa lúa và kẻ khác thì cho một chỗ dưới gầm cầu thang. Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin trọ và được lối xóm tiếp đãi tử tế. Họ cho bác ăn và cho ngủ cùng phòng. Sáng hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất, nhưng chủ nhà thấy một bức thơ để lại, trong đó ghi câu: “Các con là bạn hữu của Đức Kitô”. Sau này, mấy kẻ nhà giầu nghe biết, lấy làm hổ thẹn. Thật vậy, càng có nhiều tiền của, càng có nhà cửa sang trọng càng khó đón tiếp khách nghèo hèn. Khi có của cải giầu sang, chúng ta lại muốn yên tĩnh, xây nhà lớn, tường cao, cổng kín và có chó giữ nhà. Chúng ta từ từ tránh xa những người hành khất sợ bị quấy rầy.
8. Sống Bác Ái.
Truyện thường xảy ra tại các nhà xứ. Chúng ta phải đối xử thế nào? Một chiều nọ, khi cha quản sở đóng cửa nhà thờ, cha gặp một đứa bé đang ngủ ở hàng ghế sau cùng. Cha đánh thức cậu bé dậy và xin lỗi vì cha phải đóng cửa nhà thờ. Cậu bé liền thố lộ: Đêm nay con không có chỗ nào để trú ngụ và mong được lưu lại trong nhà thờ này. Cha trả lời là cha hy vọng cậu bé hiểu dùm, vì ngủ trong nhà thờ là không thể được. Thế là cha mời cậu tạm vào phòng tiếp tân chờ gọi điện thoại cho mấy trung tâm cư trú trong thành phố cố gắng kiếm một chỗ cho cậu bé qua đêm. Rủi thay đêm đó không có trung tâm nào còn chỗ trống cả. Vị linh mục liền xin lỗi cậu. Cậu bé biết mình phải ra đi và đã lầm lũi bước vào bóng đêm lạnh lẽo.
Về nhà xứ, ngồi vào chiếc ghế bành êm ấm, cầm Thánh Kinh lên đọc đoạn dành riêng cho ngày. Đó là bài dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”. Bỗng dưng vị linh mục nhận thấy cậu bé giống hệt như người bị thương tích trong dụ ngôn, cậu đang cần sự giúp đỡ. Cha nhận ra mình giống như các thầy tư tế và Lêvi đã bước qua một bên mà chẳng giúp được gì. Nói đến đây, tôi lại nghĩ đến chính mình. Rất nhiều lần, tôi đã gặp cảnh này trong nhà thờ sau lễ chiều Chúa Nhật. Một ông homeless hay một ông say rượu đang nằm ngủ ghế cuối nhà thờ, tôi chỉ đánh thức ông ta dậy và nói nhà thờ chuẩn bị đóng cửa, hãy đi ra. Tôi cũng chẳng hỏi han hay giúp đỡ gì cả. Tôi nghĩ, còn nhiều sự cố xảy ra như vậy trong tương lai. Tôi sẽ làm gi?
Quyết Tâm
Lạy Chúa, Mùa Chay sắp qua, chúng con đã có nhiều cơ hội suy gẫm về bản thân và về cách sống đạo. Chúng con đã bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội để chia sẻ và giúp đỡ người khác. Chúng con dựa vào nhiều lý do để tránh khỏi phải giúp đỡ anh chị em kém may mắn hơn chúng con. Chúng con chẳng thiếu chi cả, chỉ thiếu tấm lòng bác ái và sự quảng đại. Chúa đã cho chúng con dư tràn phúc lộc, chúng con đã lãnh nhận quá nhiều. Đặc biệt trong Năm Thánh 2010 này, xin Chúa mở lòng chúng con để chúng con biết đón tiếp, chia sẻ và giúp đỡ những người anh chị em chung quanh chúng con. Chúa đã hứa Chúa chỉ chúc phúc cho những ai biết cho đi. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41).
Vào một ngày, khi thầy khổ tu kia bắt đầu cầu nguyện, thầy thấy một bà mẹ nghèo tàn tật cõng trên lưng một đứa con thiếu dinh dưỡng, gầy gò ốm yếu, em là nạn nhân của sự ruồng bỏ và đánh đập. Nhìn thấy thế, thầy ngước mặt lên thân thưa với Chúa: Lạy Chúa chí ái, tại sao Chúa Sáng Tạo yêu thương có thể nhìn cảnh khổ đau và đáng thương như thế mà không làm chi và sao Chúa vẫn cứ lặng thinh? Và trong tận đáy sâu thẳm tâm hồn, thầy nghe tiếng Chúa trả lời: Cha đã làm một vài điều, Cha đã dựng nên con.
1. Yêu Thương
Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa. Chúa cho mỗi người chúng ta một số nén bạc khác nhau và hy vọng mỗi người tự sinh hoa kết quả. Chúng ta được sinh ra làm người, được dưỡng nuôi trong tình yêu thương của Chúa, của gia đình và đồng loại. Mỗi người đều có trách nhiệm chung được mời gọi chia sẻ và cùng nhau xây dựng cuộc sống xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Chúng ta cần phải nhận diện hình ảnh của Chúa nơi những người anh chị em chung quanh và mỗi người trở thành Kitô với người khác. Thánh Thần bên trong mỗi tâm hồn sẽ biến mọi sự thành sự thật và sự có thể. Trong xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống có rất nhiều người nghèo, người kém may mắn, họ rất cần sự giúp đỡ. Nếu chúng ta biết mở mắt tâm hồn trong tình yêu, chúng ta sẽ nhận ra chính Chúa Kitô đang hiện diện nơi những người cùng khốn nhất. Xã hội hiện nay vẫn có rất nhiều người tốt chung quanh. Truyện kể rằng: Trong cuộc đại khủng khoảng kinh tế tại Nước Mỹ, các cơ quan chính phủ đã phân tán khắp các vùng đồi núi để tìm kiếm các gia đình nghèo để họ có thể giúp cho chút vốn sửa sang nhà cửa và hạt giống để gieo trồng. Cơ quan từ thiện đến gặp một bà cụ già sống trong một mái nhà không sàn và nghèo nàn. Cửa sổ bị vỡ và được che đỡ bằng những miếng giấy cứng. Bà chỉ có những thứ đồ dùng căn bản và kiếm ăn từng ngày trên mảnh đất cằn khô. Một nhân viên nói với bà: Nếu chính phủ cho bà 200 đô, bà sẽ làm gì với số tiền này? Bà trả lời ngay: Tôi sẽ giúp cho người nghèo. Có rất nhiều người tốt thật giầu có nhưng lại ít tiền bạc.
2. Phúc Lộc Chan Hòa
Đôi khi chúng ta đòi hỏi phải có công bằng về phần mình, nhưng chúng ta quên đi việc bác ái chúng ta cần phải thực hiện. Thử suy nghĩ xem chúng ta đã góp được góp bao nhiêu cho xã hội nơi chúng ta đang sinh sống. Khi chúng ta được sinh ra hoặc chúng ta đến cư ngụ nơi đây, thì hầu như mọi cái đã có sẵn. Chúng ta chẳng có công lênh gì cả, nhưng đôi khi chúng ta đòi hỏi thật nhiều. Chúng ta biết rằng ngay cả những cái chúng ta đang dùng như quần áo mặc trên người, đồ trang sức, những phương tiện cuộc sống đều là do sự cống hiến của rất nhiều người khác và từ đời này qua đời khác. Chúng ta không thể sống sót hay phát triển được nếu chúng ta không biết nhận lãnh và cho đi.
Chia sẻ sẽ có niềm vui và cho đi thì không bao giờ cạn. Truyện kể về lòng tốt đã cảm hóa được người xấu trở về. Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là vị thánh hiền lành và có lòng tốt. Ngài có một người giúp việc rất nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn chủ nhà ra quán nhậu say. Anh ta về khuya gõ cửa và không ai mở cho. Anh ta nằm lăn ra trước cửa và ngủ. Nghe tiếng động, thánh Phanxicô ra mở cửa và thấy anh ta nằm đó, ngài liền nhẹ nhàng bồng anh ta lên phòng và đặt trên chính giường của ngài. Còn ngài đi ngủ chỗ khác. Giường êm, nệm ấm khiến chàng ngủ say một giấc tới sáng. Vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của chủ, anh ta hoảng hốt vội chạy đi tìm thánh nhân và sấp mình xin tha thứ và hứa cải thiện. Và anh đã giữ được lời hứa.
3. Yêu Là Cho Đi
Từng giây, từng phút trong đời sống là từng giây phút chúng ta đón nhận hồng ân của Chúa. Từ khi chúng ta hiện hữu và có hơi thở cho tới khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sống trong biển hồng ân. Truyện kể về việc bác ái: Có một người đàn ông giầu có, thắc mắc về lời giảng của Chúa Giêsu về việc bố thí. Ông cảm thấy rất buồn nản bởi lời dạy này. Ông cầu nguyện và cầu nguyện để có thể chấp nhận lời dạy của Chúa nhưng càng cầu nguyện, ông càng cảm thấy buồn hơn. Một ngày, khi ông gần thất vọng, Thiên thần hiện đến an ủi ông và hỏi: “Tại sao ông lại buồn thế? Ông trả lời: Tôi buồn vì rằng tôi cứ phải cho, phải cho mãi không ngừng. Thiên thần nói: Ô, không, không phải thế đâu! Thiên Thần tiếp: Ông chỉ phải cho, khi Chúa còn cho ông. Nếu Chúa ngừng cho ông, rồi ông sẽ không phải tiếp tục cho người khác nữa. Giờ đây, Chúa vẫn tiếp tục cho ông mà – Chúa cho ông một cách dồi dào hơn cả ông có thể cho người khác. Chúa ban cho chúng ta khả năng, thời gian và gia sản, không phải cho chính chúng ta mà chúng ta dùng các khả năng Chúa ban sinh lợi cho đồng loại.
Yêu thương không có giới hạn. Một trái tim biết rộng mở yêu thương là một trái tim vĩ đại. Vĩ đại như trái tim của Đức cha Jean Cassaign và cha Đamien, tông đồ người hủi, trái tim của mẹ Têrêxa thành Calcutta và trái tim của không biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đã chia sẻ cùng những kẻ nghèo nàn khốn khó. Hình ảnh mẹ Têrêxa, một nữ tu già nua tuổi tác, bệnh tật và yếu đuối. Làm sao mẹ có thể ôm ấp những thân xác ghẻ lở hôi thối, những vết thương rỉ máu và những quần áo dơ bẩn. Bởi đâu mẹ đã tiếp nhận những thây ma lạnh ngắt, mẹ ôm ẵm và mẹ chăm sóc. Người ta đâu phải là người thân hay ruột thịt của Mẹ. Mẹ đã đón nhận họ và yêu thương họ với một trái tim rộng mở và không so đo tính toán. Mẹ chỉ biết cho đi và cho đi. Thánh Matthew đã ghi lại lời Chúa Giêsu mời gọi cho đi: "Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."(Mt. 10:42).
Không phải chúng ta chỉ cho, khi chúng ta có dư hoặc cho đi cái chúng ta không dùng. Cho đi chính cái mình đang cần, đang quí và đang xài mới là đáng qúi. Mẹ Têrêxa kể câu truyện, ngày nọ có một thiếu phụ và 8 đứa con nhỏ đến gỗ cửa nhà dòng xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con không có được một hạt cơm trong bụng. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn mẹ rồi chia gạo ra làm hai phần. Ngạc nhiên về cử chỉ ấy. mẹ Têrêxa hỏi tại sao bà lại phải chia làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn. Sống tình bác ái là thế đó. Bà cho chính cái cần thiết để sống. Trong phúc âm, Chúa đã khen một bà góa cho hai đồng bạc vào thùng tiền. Bà cho chỉ có hai đồng xu nhưng đó là tất cả những cái bà có và bà cần dùng. Chúa đã khen lòng từ ái của bà.
4. Cho Đi Là Có Thêm.
Chúng ta nhận lãnh thì nhiều nhưng cho đi thì ít. Nhìn lại mình, tất cả những cái chúng ta đang có đều là nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh sự sống con người từ Thiên Chúa và sự cộng tác của cha mẹ. Chúng ta nhận lãnh sự hiểu biết và khôn ngoan nơi người khác. Chúng ta lãnh nhận của ăn, thức uống, đồ dùng và mọi phương tiện của cuộc sống từ nơi những người xung quanh. Hầu như cái gì chúng ta cũng nhận.Chúng ta đã cống hiến được gì cho gia đình, xã hội và con người? Nhận lãnh cần phải trao ban. Nếu chúng ta không biết trao ban, chúng ta sẽ trở thành ao tù. Giống như khi chúng ta thở ra hít vào, khi chúng ta hít vào khí Oxy và thở ra thán khí, giúp con người sống còn. Cho và nhận trở thành quy luật của cuộc sống. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Chúng ta biết cho thì không mất, mà còn được thêm và thêm dư giả. Thánh Luca nhắc nhở cho quý hơn là nhận:"Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận"(TĐCV 20:35).
Mỗi người có những nhận thức và hành xử khác nhau trong đời sống. Người ta nói rằng: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Chúng ta không biết những người tính tình hà tiện và sống keo kiệt ở đâu ra. Người ta thường chia ra ba hạng người làm phúc bố thí theo ba lối khác nhau. Nhóm người thứ nhất được ví như cục đá. Hễ muốn được gì, thì phải lấy búa mà đập. Song chỉ được đá vụn và tia lửa nẩy ra mà thôi. Nhóm người thứ hai ví như bọt biển. Nếu muốn được phải vắt và bóp. Nhóm người thứ ba ví như mật ong, không cần đập hay bóp, tự nhiên cũng được mật ngon chảy ra từ tàng ong. Chúng ta có thể hiểu được rằng: Nhóm thứ nhất là những kẻ cứng lòng và hà tiện, nếu không ép thì không chịu cho chút gì. Nhóm thứ hai là kẻ có lòng tốt, hễ ai quyên góp thì cho, càng quyên càng cho. Nhóm thứ ba là người vui lòng mà cho một cách ngọt ngào, chứ không đợi ai phải hỏi. Vậy chúng ta muốn gia nhập vào nhóm nào?
5. Cho Qúy Hơn Nhận
Cho đi thì quý hơn nhận nhưng hàng ngày chúng ta nhận quá nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu. Từ khi mở mắt thức dậy chào đón một ngày mới là chúng ta bắt đầu nhận ơn. Không biết bao nhiêu thứ chúng ta nhận trong một ngày, chúng ta không thể kể hết. Chúng ta đóng góp được bao nhiêu cho xã hội và con người. Thật là quá ít ỏi. Câu truyện của một thi sĩ nằm mơ thấy ông thợ giầy đến nói với chàng: Từ nay xin ông tự đóng giầy lấy mà đi. Rồi người bán bánh đến nói: Tôi nghĩ, ông hãy tự làm bánh lấy mà ăn. Bác hàng thịt cũng thế nói rằng: Ông hãy nuôi heo mà giết thịt. Cô giúp việc thưa rằng: Từ nay ông tự dọn bữa, quét nhà, giặt quần áo, em xin nghỉ. Anh thi sĩ toát mồ hôi hột thầm nói: Trời ơi, mọi người nghỉ việc thì tôi sẽ chết mất. Thức giấc, à đây là giấc chiêm bao, mừng biết mấy. Từ đó, anh nhận ra mọi người đều là ân nhân của mình. Đây là bài học cho hết mọi người chúng ta. Chúng ta chịu ơn quá nhiều, nếu không có tha nhân, chúng ta sống đơn côi hay đã chết từ lâu.
Người ta vẫn nói: Lòng tham không đáy. Chúng ta nói rằng chúng ta không tham, nhưng ước muốn của chúng ta cũng không có cùng. Muốn có rồi lại muốn có thêm nữa. Chúng ta chắt chiu, thu quén của cải tiền bạc càng nhiều càng tốt. Chúng ta ai cũng muốn có chút gì để phòng cơ tích trữ hay chút vốn dự tính cho ngày mai. Nó là công lao mồ hôi nước mắt làm ra chứ đâu phải nhặt không ngoài đường. Cái gì của mình cũng qúy, nhất là tiền bạc. Đồng tiền nối liền khúc ruột mà. Đâu ai nỡ cắt đứt ruột mình. Nói thế thôi nhưng trên thực tế chúng ta thấy có rất nhiều tấm lòng hảo tâm và quảng đại. Họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ và hy sinh cho đồng lọai. Có những người dám hy sinh cho đại nghĩa, lo việc chung trước và việc nhà sau. Nhìn xã hội chung quanh, chúng ta thấy sự cống hiến khả năng của biết bao nhiêu con người. Mỗi người được mời gọi góp phần của mình để xây dựng một xã hội và giáo hội tốt đẹp. Hãy cứ cho đi sẽ nhận lại gấp trăm. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6:38)
6. Đức Ái là Yêu Thương
Đức bác ái được thể hiện qua lời nói, cách cư xử và hành động giúp đỡ. Chúa Giêsu chú trọng đến những hành vi bác ái và cho đó chính là những hoa qủa để được lãnh phần thưởng quê trời. Người ta thường nói: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Câu truyện kể: Nơi góc hè phố, có một bác hành khất tê bại nằm co quắp, thấy một ông ăn diện bảnh bao đi qua, ông mở miệng xin bố thí. Người đó xỏ tay vào túi nhưng tìm mãi chẳng được gì. Rồi thành kính nói với bác ta: Này bác, tôi muốn biếu bác một chút, nhưng bất ngờ tôi chẳng có đồng nào trong túi mình cả. Xin lỗi. Người hành khất nói: Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng “Bác”, thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng của một ông lớn nào cả.
Thật là giật mình. Nhìn lại thái độ của chính mình, nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử thiếu lễ độ và có khi vô phép với những người kém may mắn. Chúng ta tìm cách tránh xa những người ăn xin và sợ bị phiền hà. Chúng ta khinh thường họ vì họ bị mù, bị què quặt, bị câm điếc và bị ngồi lê lết trên các vỉa hè. Đã biết bao lần chúng qua chỉ lướt nhìn qua rồi giả vờ như không trông thấy họ. Có khi nào chúng ta mở lời chào họ hay gọi họ là cô, chú, bác, hay ông bà chưa? Chúng ta thường thiếu xót trong việc bác ái này. Là con cái của Chúa, Chúa mời gọi chúng ta bước thêm một bước đến với tha nhân, thánh Matthew viết: Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt. 5:47-48).
7. Đón Nhận Anh Em
Ai là anh em của chúng ta. Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta một câu truyện ngụ ngôn: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết (Lc 10:30). Các thầy tư tế, thầy Lêvi đi qua, giả lơ và tìm đường khác. Có một người ngoại nhìn thấy, động lòng thương xót: Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc (Lc 10:34). Chúa Giêsu đã lấy gương của một người ngoại giáo để dạy cho các tông đồ và cho chúng ta bài học về bác ái chính thực. Không chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc thực hiện, dám xả thân cứu vớt anh em đồng loại. Có lẽ trái tim của chúng ta chưa mở rộng đủ để đón nhận anh chị em.
Ngày kia người ta kể câu truyện về Chúa giả làm bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, bác rảo qua các biệt thự, xin trú ngụ qua đêm. Kẻ thì bảo bác ra nhà sau ngủ, người thì nói bác xuống vựa lúa và kẻ khác thì cho một chỗ dưới gầm cầu thang. Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin trọ và được lối xóm tiếp đãi tử tế. Họ cho bác ăn và cho ngủ cùng phòng. Sáng hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất, nhưng chủ nhà thấy một bức thơ để lại, trong đó ghi câu: “Các con là bạn hữu của Đức Kitô”. Sau này, mấy kẻ nhà giầu nghe biết, lấy làm hổ thẹn. Thật vậy, càng có nhiều tiền của, càng có nhà cửa sang trọng càng khó đón tiếp khách nghèo hèn. Khi có của cải giầu sang, chúng ta lại muốn yên tĩnh, xây nhà lớn, tường cao, cổng kín và có chó giữ nhà. Chúng ta từ từ tránh xa những người hành khất sợ bị quấy rầy.
8. Sống Bác Ái.
Truyện thường xảy ra tại các nhà xứ. Chúng ta phải đối xử thế nào? Một chiều nọ, khi cha quản sở đóng cửa nhà thờ, cha gặp một đứa bé đang ngủ ở hàng ghế sau cùng. Cha đánh thức cậu bé dậy và xin lỗi vì cha phải đóng cửa nhà thờ. Cậu bé liền thố lộ: Đêm nay con không có chỗ nào để trú ngụ và mong được lưu lại trong nhà thờ này. Cha trả lời là cha hy vọng cậu bé hiểu dùm, vì ngủ trong nhà thờ là không thể được. Thế là cha mời cậu tạm vào phòng tiếp tân chờ gọi điện thoại cho mấy trung tâm cư trú trong thành phố cố gắng kiếm một chỗ cho cậu bé qua đêm. Rủi thay đêm đó không có trung tâm nào còn chỗ trống cả. Vị linh mục liền xin lỗi cậu. Cậu bé biết mình phải ra đi và đã lầm lũi bước vào bóng đêm lạnh lẽo.
Về nhà xứ, ngồi vào chiếc ghế bành êm ấm, cầm Thánh Kinh lên đọc đoạn dành riêng cho ngày. Đó là bài dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”. Bỗng dưng vị linh mục nhận thấy cậu bé giống hệt như người bị thương tích trong dụ ngôn, cậu đang cần sự giúp đỡ. Cha nhận ra mình giống như các thầy tư tế và Lêvi đã bước qua một bên mà chẳng giúp được gì. Nói đến đây, tôi lại nghĩ đến chính mình. Rất nhiều lần, tôi đã gặp cảnh này trong nhà thờ sau lễ chiều Chúa Nhật. Một ông homeless hay một ông say rượu đang nằm ngủ ghế cuối nhà thờ, tôi chỉ đánh thức ông ta dậy và nói nhà thờ chuẩn bị đóng cửa, hãy đi ra. Tôi cũng chẳng hỏi han hay giúp đỡ gì cả. Tôi nghĩ, còn nhiều sự cố xảy ra như vậy trong tương lai. Tôi sẽ làm gi?
Quyết Tâm
Lạy Chúa, Mùa Chay sắp qua, chúng con đã có nhiều cơ hội suy gẫm về bản thân và về cách sống đạo. Chúng con đã bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội để chia sẻ và giúp đỡ người khác. Chúng con dựa vào nhiều lý do để tránh khỏi phải giúp đỡ anh chị em kém may mắn hơn chúng con. Chúng con chẳng thiếu chi cả, chỉ thiếu tấm lòng bác ái và sự quảng đại. Chúa đã cho chúng con dư tràn phúc lộc, chúng con đã lãnh nhận quá nhiều. Đặc biệt trong Năm Thánh 2010 này, xin Chúa mở lòng chúng con để chúng con biết đón tiếp, chia sẻ và giúp đỡ những người anh chị em chung quanh chúng con. Chúa đã hứa Chúa chỉ chúc phúc cho những ai biết cho đi. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41).
Tình yêu qua nhục thể
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:51 24/03/2010
Lễ Truyền Tin
Nhục thể, nhục dục là những hạn từ vốn đã bị gán ý nghĩa xấu. Khi nói về các hướng chiều hạ đẳng người ta thường gọi là theo tính xác thịt. Quan niệm nhị nguyên như đã chi phối cái nhìn của con người cách khó sửa đổi. Bên cạnh đó, các trào lưu cách mạng “giải phóng tính dục” cách lệch lạc hay thái quá đã khiến cho thân xác lại bị hạ giá cách bất công.
Mừng Lễ Truyền Tin. Hai từ Truyền tin dễ làm người ta liên tưởng đến vai trò chính đó là Đức Mẹ. Nhưng thực ra đây là ngày Lễ Mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa mà theo truyền thống là một trong ba mầu nhiệm chính của Kitô giáo. Thiên Chúa thể hiện tình yêu bằng việc mang lấy huyết nhục con người. Người đã chọn lấy thân xác làm con đường để yêu thương nhân loại.
Với một thân xác, Thiên Chúa ở cùng chúng ta – Emmanuel – chung chia mọi nỗi niềm của kiếp người, đặc biệt là kiếp nghèo hèn, mỏng manh, kém phận. Qua một thân xác, Thiên Chúa nói lời hằng sống là lời chân lý và là lời yêu thương, lời tha thứ. Qua một thân xác, Thiên Chúa tiếp xúc với người bệnh tật, cùng khổ để nâng đỡ, chữa lành. Và qua một thân xác Thiên Chúa đón nhận mọi hậu quả do tội lỗi của con người đồng thời trao ban sự sống thần linh cũng như ân tình tha thứ, giải hòa. Và để tiếp tục giáng phúc thi ân cho nhân loại đến tận thế, Thiên Chúa làm người đã ở lại với con người bằng một thân xác – Máu Thịt – cách huyền nhiệm gọi là Bí tích (Bí tích Thánh Thể).
Có thể nói không sợ sai lầm rằng một tình yêu đích thực thì luôn có sự tham gia của nhục thể là thân xác. Một tình yêu đích thật là một tình yêu có sự bồi hồi cả con tim, có sự hao mòn cả thân xác. Một tình yêu đích thật là một tình yêu sục sôi cả huyết quản và nhiều khi quặn đau cả ruột gan.
Một lôgich như tất yếu: Thiên Chúa đã đến với con người, yêu thương con người qua một thân xác thì để đáp trả lại tình yêu ấy, để đón nhận hồng ân tha thứ, con người cũng cần phải qua thân xác. Và Mẹ Maria là người đã thực hiện điều này cách hoàn hảo qua tiếng xin vâng (Lc 2,38). Mẹ đã hiến dâng thân xác mình để cho Tình Yêu hiện diện và trổ sinh hoa trái.
Không ai chối cải cái thân xác con người rất nhiều khi mang “tính xác thịt”, nghĩa là yếu đuối mỏng dòn, dễ nghiêng chiều các chước cám dỗ, đến độ không chỉ là nguyên cớ mà có khi còn là yếu tố của sự xấu hay sự tội. Thế thì làm sao sử dụng nó để yêu thương hay để làm trổ sinh hoa trái thánh thiện?
Con chiên vô tì tích của Cựu Ước là hình ảnh của tấm xác thân tinh tuyền không vướng tội nhơ của Đấng cứu độ. Đây chính là chìa khóa giúp ta nhận ra khi nào thì xác thân ta đóng đúng vai trò của nó trong tiến trình yêu thương, giải hòa, thi ân, giáng phúc. Đó là một thân xác thanh sạch, không tì ố bởi vết tội. Làm thế nào để có được một thân xác tinh tuyền khi phận người chúng ta vốn là kiếp “lực bất tòng tâm” như thánh Phaolô đã từng thú nhận? (x.Rm 7,14-24) Cũng chính thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?.. . Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6,19-20). Chúa Thánh Thần là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Có thể nói Ngài là Tình Yêu năng động, hướng tha. Khi xác thân ta chan chưa tình yêu vị tha, thì nó đang thanh sạch. Đâu có tình yêu là ở đấy có Thiên Chúa ngự. Ánh sáng vào thì bóng tối phải lùi xa.
Tôn trọng tấm thân xác mà chúng ta được ban tặng là một cách thế mừng mầu nhiệm Chúa Nhập Thể. Gìn giữ thân xác thanh sạch bằng con tim đầy tình vị tha cũng là mừng Chúa Nhập Thể. Và biết dùng thân xác mình để yêu thương, phục vụ tha nhân chính là tôn vinh mầu nhiệm Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể cách đẹp ý Chúa hơn cả vậy.
Nhục thể, nhục dục là những hạn từ vốn đã bị gán ý nghĩa xấu. Khi nói về các hướng chiều hạ đẳng người ta thường gọi là theo tính xác thịt. Quan niệm nhị nguyên như đã chi phối cái nhìn của con người cách khó sửa đổi. Bên cạnh đó, các trào lưu cách mạng “giải phóng tính dục” cách lệch lạc hay thái quá đã khiến cho thân xác lại bị hạ giá cách bất công.
Mừng Lễ Truyền Tin. Hai từ Truyền tin dễ làm người ta liên tưởng đến vai trò chính đó là Đức Mẹ. Nhưng thực ra đây là ngày Lễ Mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa mà theo truyền thống là một trong ba mầu nhiệm chính của Kitô giáo. Thiên Chúa thể hiện tình yêu bằng việc mang lấy huyết nhục con người. Người đã chọn lấy thân xác làm con đường để yêu thương nhân loại.
Với một thân xác, Thiên Chúa ở cùng chúng ta – Emmanuel – chung chia mọi nỗi niềm của kiếp người, đặc biệt là kiếp nghèo hèn, mỏng manh, kém phận. Qua một thân xác, Thiên Chúa nói lời hằng sống là lời chân lý và là lời yêu thương, lời tha thứ. Qua một thân xác, Thiên Chúa tiếp xúc với người bệnh tật, cùng khổ để nâng đỡ, chữa lành. Và qua một thân xác Thiên Chúa đón nhận mọi hậu quả do tội lỗi của con người đồng thời trao ban sự sống thần linh cũng như ân tình tha thứ, giải hòa. Và để tiếp tục giáng phúc thi ân cho nhân loại đến tận thế, Thiên Chúa làm người đã ở lại với con người bằng một thân xác – Máu Thịt – cách huyền nhiệm gọi là Bí tích (Bí tích Thánh Thể).
Có thể nói không sợ sai lầm rằng một tình yêu đích thực thì luôn có sự tham gia của nhục thể là thân xác. Một tình yêu đích thật là một tình yêu có sự bồi hồi cả con tim, có sự hao mòn cả thân xác. Một tình yêu đích thật là một tình yêu sục sôi cả huyết quản và nhiều khi quặn đau cả ruột gan.
Một lôgich như tất yếu: Thiên Chúa đã đến với con người, yêu thương con người qua một thân xác thì để đáp trả lại tình yêu ấy, để đón nhận hồng ân tha thứ, con người cũng cần phải qua thân xác. Và Mẹ Maria là người đã thực hiện điều này cách hoàn hảo qua tiếng xin vâng (Lc 2,38). Mẹ đã hiến dâng thân xác mình để cho Tình Yêu hiện diện và trổ sinh hoa trái.
Không ai chối cải cái thân xác con người rất nhiều khi mang “tính xác thịt”, nghĩa là yếu đuối mỏng dòn, dễ nghiêng chiều các chước cám dỗ, đến độ không chỉ là nguyên cớ mà có khi còn là yếu tố của sự xấu hay sự tội. Thế thì làm sao sử dụng nó để yêu thương hay để làm trổ sinh hoa trái thánh thiện?
Con chiên vô tì tích của Cựu Ước là hình ảnh của tấm xác thân tinh tuyền không vướng tội nhơ của Đấng cứu độ. Đây chính là chìa khóa giúp ta nhận ra khi nào thì xác thân ta đóng đúng vai trò của nó trong tiến trình yêu thương, giải hòa, thi ân, giáng phúc. Đó là một thân xác thanh sạch, không tì ố bởi vết tội. Làm thế nào để có được một thân xác tinh tuyền khi phận người chúng ta vốn là kiếp “lực bất tòng tâm” như thánh Phaolô đã từng thú nhận? (x.Rm 7,14-24) Cũng chính thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?.. . Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6,19-20). Chúa Thánh Thần là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Có thể nói Ngài là Tình Yêu năng động, hướng tha. Khi xác thân ta chan chưa tình yêu vị tha, thì nó đang thanh sạch. Đâu có tình yêu là ở đấy có Thiên Chúa ngự. Ánh sáng vào thì bóng tối phải lùi xa.
Tôn trọng tấm thân xác mà chúng ta được ban tặng là một cách thế mừng mầu nhiệm Chúa Nhập Thể. Gìn giữ thân xác thanh sạch bằng con tim đầy tình vị tha cũng là mừng Chúa Nhập Thể. Và biết dùng thân xác mình để yêu thương, phục vụ tha nhân chính là tôn vinh mầu nhiệm Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể cách đẹp ý Chúa hơn cả vậy.
Không chịu bó tay
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:58 24/03/2010
Đỉnh cao của Phụng Vụ Công Giáo khởi đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá, một Tuần Thánh và kết thúc bằng Chúa Nhật Phục Sinh. Người ta dễ nhận ra bầu không khí thánh thiêng, trầm lắng nơi các xứ đạo tạm gọi là truyền thống và toàn tòng. Tấp nập người đến tòa cáo giải. Rộn ràng chuyện nguyện ngắm cũng như chuẩn bị các nghi lễ của Tam Nhật Thánh. Dĩ nhiên các cây dừa, cây vạn tuế… đều chung số phận tả tơi cho một ngày Lễ mà hình như không ai chịu nỗi cảnh mình thiếu lá cầm tay. Nghi lễ nhiều, bài Thương Khó dài, thế là nhiều vị mục tử tự châm chước việc giảng giải Lời Chúa cách bình tâm như vại. Lễ dài, giảng nữa thì chỉ có dại. Lại có Đấng siêu nhiên hơn: Hãy để cho các nghi thức và chính các bản văn Lời Chúa trực tiếp nói với đoàn tín hữu.
Quả là những lập luận rất hữu lý. Thậm chí rất nhiều tín hữu còn vỗ tay hoan hô. Mới đây một đấng vị vọng ở Tòa Thánh đã khẳng định rằng một bài giảng ngày Chúa Nhật không nên qua tám phút! Bản thân thì nhận đây là một hình thức cường điệu (ngoa ngôn) để muốn nhắc nhở các mục tử quen thói giảng dài, giảng dai, giảng dại… Quy định con số tối đa mà là tám phút thì đúng là “nói quá”. Dù biết nghi thức dài, nhưng một vài chia sẻ ngắn gọn cũng không là vô ích hay phản tác dụng mà trái lại sẽ giúp tín hữu tham dự Thánh Lễ sốt sắng và ích lợi hơn.
Một vài tâm tình của Chúa nhật Lễ Lá:
1.Sáng nắng chiều mưa là chuyện bình thường của kiếp người. Vừa mới hồ hởi: “hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”, thì mấy ngày sau lại giơ cao nắm đấm hùng hỗ thét gào: “đóng đinh nó vào thập giá” là chuyện như không tưởng mà lại rất thật, đã xảy ra với đám đông dân chúng Do Thái ngày nào. Hãy cẩn trọng để giữ lòng mình khỏi sự đổi thay bất chợt kiểu nắng mưa. Không ai biết được tương lai và mọi sự đều là có thể. Chớ có thất vọng vì quá khứ đầy lỗi lầm và cũng đừng tự hào vì những công lao lẫy lừng của một thời hay sự đạo hạnh đang có.
2.Chiến thuật “cò mồi”: con dao hai lưỡi. Trước đây, khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ, thì dân chúng đã muốn tôn Người lên làm vua. Chẳng biết khi ấy các môn đệ của Người có làm “người cò mồi” không, nhưng trong chuyến khải hoàn vào Giêrusalem thì chính các môn đệ là những người đóng vai trò tác nhân chính khiến cho một vài Biệt phái tức tối thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!”(Lc 19,39).
Nếu cậy dựa vào “những người sống theo chiều gió” thì quả là nguy hiểm. Bởi chưng, gió đổi chiều nào thì họ sẽ ngã theo chiều ấy. Theo sự xúi giục của các Thượng tế và ký mục, đám đông dân chúng đã đổi ngược thái độ với Chúa Giêsu và “đồng thanh la to: Đóng đinh nó vào thập giá”(Mt 27,20-23). Một niềm tin, một đời sống đạo dựa trên phong trào hay lễ hội chắc chắn không bền.
3.Đã yêu thì không bao giờ chịu thúc thủ, chịu “bó tay”. Tình yêu đích thực đòi hỏi phải đến cùng. Chúa Kitô đã bày tỏ tình yêu đến cùng của Người bằng cái chết thập giá. Đôi tay Chúa Kitô giang ra, trái tim của Người mở ra đón nhận tất cả những gì là của nhân loại chúng ta. Người đón nhận sự hồ hởi, tán dương, mộ mến của dân chúng trước các lời dạy dỗ của Đấng có uy quyền, trước bao kỳ công Người thực hiện. Người đón nhận cả sự hận thù ghen ghét của nhiều người biệt phái, luật sĩ, của nhiều thượng tế và kỳ mục Do Thái giáo bấy giờ. Người còn nhận cả sự thay đổi thất thường kiểu nắng mưa của đám đông dân chúng, đón nhận cả sự phản bội bất trung của một Giuđa, của Phêrô và nhóm môn đệ thân tín. Chúa đón nhận tất cả để rồi lại trao ban điều tốt đẹp cho nhân trần.
Đôi tay Người giang ra, trái tim Người mở ra để trao ban tất cả những gì Người có và những gì Người là. Đó là lời chân lý từ miệng Người. Đó là các hành vi, cử chỉ yêu thương của Người xoa dịu nỗi đau thể lý và tâm linh cho nhiều người. Và cuối cùng đó chính là sự sống của Người. Khi trao ban chính sự sống thần linh của mình, thì Chúa Kitô đã đón nhận toàn thể nhân loại làm em của Người. Nhân loại được thứ tha. Con người được cứu sống.
Đã yêu thì không bao giờ chịu bó tay. Đã yêu thì quyết đi cho đến cùng và điểm đến cùng ấy chính là cái chết. Tình yêu mạnh hơn sự chết là thế đấy. Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Tình yêu Người dắt dìu ta vươn lên. Đã yêu là đi, đi mãi. Đã yêu là đi cho đến cùng.
Quả là những lập luận rất hữu lý. Thậm chí rất nhiều tín hữu còn vỗ tay hoan hô. Mới đây một đấng vị vọng ở Tòa Thánh đã khẳng định rằng một bài giảng ngày Chúa Nhật không nên qua tám phút! Bản thân thì nhận đây là một hình thức cường điệu (ngoa ngôn) để muốn nhắc nhở các mục tử quen thói giảng dài, giảng dai, giảng dại… Quy định con số tối đa mà là tám phút thì đúng là “nói quá”. Dù biết nghi thức dài, nhưng một vài chia sẻ ngắn gọn cũng không là vô ích hay phản tác dụng mà trái lại sẽ giúp tín hữu tham dự Thánh Lễ sốt sắng và ích lợi hơn.
Một vài tâm tình của Chúa nhật Lễ Lá:
1.Sáng nắng chiều mưa là chuyện bình thường của kiếp người. Vừa mới hồ hởi: “hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”, thì mấy ngày sau lại giơ cao nắm đấm hùng hỗ thét gào: “đóng đinh nó vào thập giá” là chuyện như không tưởng mà lại rất thật, đã xảy ra với đám đông dân chúng Do Thái ngày nào. Hãy cẩn trọng để giữ lòng mình khỏi sự đổi thay bất chợt kiểu nắng mưa. Không ai biết được tương lai và mọi sự đều là có thể. Chớ có thất vọng vì quá khứ đầy lỗi lầm và cũng đừng tự hào vì những công lao lẫy lừng của một thời hay sự đạo hạnh đang có.
2.Chiến thuật “cò mồi”: con dao hai lưỡi. Trước đây, khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ, thì dân chúng đã muốn tôn Người lên làm vua. Chẳng biết khi ấy các môn đệ của Người có làm “người cò mồi” không, nhưng trong chuyến khải hoàn vào Giêrusalem thì chính các môn đệ là những người đóng vai trò tác nhân chính khiến cho một vài Biệt phái tức tối thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!”(Lc 19,39).
Nếu cậy dựa vào “những người sống theo chiều gió” thì quả là nguy hiểm. Bởi chưng, gió đổi chiều nào thì họ sẽ ngã theo chiều ấy. Theo sự xúi giục của các Thượng tế và ký mục, đám đông dân chúng đã đổi ngược thái độ với Chúa Giêsu và “đồng thanh la to: Đóng đinh nó vào thập giá”(Mt 27,20-23). Một niềm tin, một đời sống đạo dựa trên phong trào hay lễ hội chắc chắn không bền.
3.Đã yêu thì không bao giờ chịu thúc thủ, chịu “bó tay”. Tình yêu đích thực đòi hỏi phải đến cùng. Chúa Kitô đã bày tỏ tình yêu đến cùng của Người bằng cái chết thập giá. Đôi tay Chúa Kitô giang ra, trái tim của Người mở ra đón nhận tất cả những gì là của nhân loại chúng ta. Người đón nhận sự hồ hởi, tán dương, mộ mến của dân chúng trước các lời dạy dỗ của Đấng có uy quyền, trước bao kỳ công Người thực hiện. Người đón nhận cả sự hận thù ghen ghét của nhiều người biệt phái, luật sĩ, của nhiều thượng tế và kỳ mục Do Thái giáo bấy giờ. Người còn nhận cả sự thay đổi thất thường kiểu nắng mưa của đám đông dân chúng, đón nhận cả sự phản bội bất trung của một Giuđa, của Phêrô và nhóm môn đệ thân tín. Chúa đón nhận tất cả để rồi lại trao ban điều tốt đẹp cho nhân trần.
Đôi tay Người giang ra, trái tim Người mở ra để trao ban tất cả những gì Người có và những gì Người là. Đó là lời chân lý từ miệng Người. Đó là các hành vi, cử chỉ yêu thương của Người xoa dịu nỗi đau thể lý và tâm linh cho nhiều người. Và cuối cùng đó chính là sự sống của Người. Khi trao ban chính sự sống thần linh của mình, thì Chúa Kitô đã đón nhận toàn thể nhân loại làm em của Người. Nhân loại được thứ tha. Con người được cứu sống.
Đã yêu thì không bao giờ chịu bó tay. Đã yêu thì quyết đi cho đến cùng và điểm đến cùng ấy chính là cái chết. Tình yêu mạnh hơn sự chết là thế đấy. Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Tình yêu Người dắt dìu ta vươn lên. Đã yêu là đi, đi mãi. Đã yêu là đi cho đến cùng.
Vào thành với Chúa
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
11:43 24/03/2010
Hằng năm khi đến Lễ Lá, chúng ta long trọng kỷ niệm biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem vinh hiển. Không dừng lại ở đó, mỗi người chúng ta được mời gọi đồng hành với Đức Giêsu trong trong Cuộc Thương Khó của Ngài, để có thể hy vọng tiến vào thành đô vĩnh cửu của Thiên Chúa.
1. Từ cuộc vào thành lịch sử
Cuộc vào thành lịch sử của Đức Giêsu được nhắc đến trong Kinh Thánh (Lc 19, 35 – 40) là biến cố hé mở vai trò và chương trình tình thương của Thiên Chúa trong việc cứu độ con người. Vinh quang mà Đức KiTô đem đến cho nhân loại không hệ tại ở những động cơ mang tính chất trần thế, mà nó hướng con người tới hạnh phúc đích thực viên mãn. Sự kiện Đức Giêsu vào thành Giêrusalem toát lộ dung mạo của Đấng Thánh khiêm nhường, hiền từ, ngời sáng ánh vinh quang của “Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” trong tiếng tung hô nồng nhiệt của dân chúng và đoàn môn đệ.
“Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường..., tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ lớn tiếng hô lên: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !” (Lc 19, 36 – 38).
Trong đoàn lũ đông đảo lớn tiếng ca tụng Đức Giêsu, có “tất cả đoàn môn đệ”, những con người đã từng theo sát vị Tôn Sư của mình trong hành trình rao giảng. Mặc dù đã được Đức Giêsu báo trước về cuộc thương khó của Người, nhưng trong tầm hiểu, tầm cảm hữu hạn của họ vẫn ngỡ rằng, Thầy mình đang và sẽ là “Đức Vua” đến chinh phục và đem lại cho họ vinh hoa trần thế. Họ không thể ngờ được, rồi đây chính “Đấng ngự đến nhân danh Chúa” sẽ kinh qua con đường của người “Tôi Trung Đau Khổ”, để tiến vào vinh quang bất diệt trên trời. Do vậy, nhiều người trong số họ đã ngã lòng thất vọng, chán chường, đau khổ, phản bội khi tận mắt chứng kiến “Đức Vua” mà mình tôn vinh phải khốn cực khốc thảm dưới bàn tay phàm nhân.
Nhưng ý định và chương trình của Thiên Chúa nằm ngoài tầm nghĩ, tầm hiểu của con người. Vinh quang nơi Ngài không nhất thiết biểu hiện ở một vài lời ca tôn cảm tính, mà nó cần được gắn với cả một đời sống tận hiến cho vinh quang Thiên Chúa trong tình yêu xả kỷ. Mục tiêu cuộc vào thành của Đức Giêsu hệ tại ở giá trị này.
2. Đến cuộc vào thành vĩnh cửu
Cuộc vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Đức Giêsu. Nó khởi sự và dự báo cho vinh quang đích thực của Ngài, được biểu lộ trọn vẹn trong cuộc Phục Sinh vinh hiển và tiến vào Thành đô vĩnh cửu.
Hướng tới Cuộc Khải Hoàn Mới, Đức Giêsu đã bày tỏ cho thấy, con đường mà Ngài dẫn chúng ta vào vinh hiển tuyệt đối cần phải đi qua Thập giá, như dấu chứng của lời đáp trả. Như vậy, lời chúc vinh đẹp nhất của chúng ta dành cho Chúa hệ tại ở thái độ dấn thân, vui sống cuộc thương khó giữa đời thường.
Vinh quang của Đức Giêsu chính là Ngài đã dám chấp nhận đau khổ và đón nhận nó trong thân phận con người với tình yêu của Đấng được sai đến. Hành trình của Ngài tiến lên đỉnh đồi Can-vê hoàn toàn đối nghịch với cuộc nghinh rước trọng hậu khi Ngài tiến vào Giêrusalem. Chính những kẻ đã nồng nhiệt tung hô, chúc tụng Ngài đã quay mặt chối từ, đả kích và hô hào đòi giết Ngài: “Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập giá” (Lc 23, 21). Nhưng cũng từ bước ngoặt này, danh xưng “Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” được nghiệm sinh đúng nghĩa trong sáng Phục Sinh.
Nhiều người trong chúng ta hôm nay không chấp nhận vinh quang Thiên Chúa qua cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức KiTô. Chúng ta giống như những người Pha-ri-siêu xưa muốn chối từ vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài tiến vào Giêrusalem. Nhưng sự thực, Đức KiTô, Ngôi Hai Thiên Chúa đã được Chúa Cha vinh thăng dưới ngọn cờ Thánh giá, trong lời chúc khen của muôn thần thánh trên trời. Tất cả, Thiên Chúa đã hành động cho chúng ta, những người đang được mời gọi tiến vào Giêrusalem mới.
3. Lời chứng tôn vinh Chúa.
Trong ngày Lễ Lá, chúng ta thích được cầm những cành lá xanh tươi, hát vang lời ca: “Các trẻ Do thái, trên tay hoa lá reo mừng, hân hoa vang lời tụng ca….”; đó thật là một truyền thống ý nghĩa, đẹp đẽ, nói lên mối giao cảm của con người xưa-nay khi đặt mình trước vương quyền của Thiên Chúa.
Nhưng có một điều quan trọng hơn, đã bao giờ bạn và tôi nghĩ về thái độ và bổn phận cần thiết của mình khi sống cho vinh quang Thiên Chúa? Vinh quang mà Ngài ban tặng cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã làm theo ý Thiên Chúa, sẵn sàng tự hạ bằng lòng chịu chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa Ngài tới vinh quang thật. Vinh quang Thiên Chúa thể hiện trước hết nơi con người, chính là chúng ta vui nhận thánh ý và bằng lòng chịu đau khổ để sống cho con đường vinh quang đích thực mà Đức KiTô đã mở ra.
Chúng ta dễ nói, dễ cất lời tôn vinh Chúa trong Nhà thờ hay những nơi khác an bình, vô sự. Chúng ta cũng dễ nói những lời chứng về cái chết và cuộc Phục sinh của Đức Giêsu với những người đồng quan điểm với mình. Nhưng sẽ là một đòi hỏi, thách thức gay gắt, hoàn toàn không dễ dàng khi ta phải nói, phải sống những lời chứng ấy trước những đối tượng thù nghịch với ta về niềm tin, hay trước những hoàn cảnh bức bách đòi hỏi ta phải can đảm làm chứng cho vinh quang Thập giá.
Chúng ta quen chúc tụng, ca khen Chúa bằng lời kinh, tiếng hát ở Nhà thờ, nhưng đừng quên bênh vực, minh chứng cho Công Lý – Sự Thật – Tình Thương của Ngài. Đây là lời đáp trả ý nghĩa và thiết thực nhất của chúng ta trong hành trình cùng Đức KiTô tiến vào Thành Đô vĩnh cửu.
1. Từ cuộc vào thành lịch sử
Cuộc vào thành lịch sử của Đức Giêsu được nhắc đến trong Kinh Thánh (Lc 19, 35 – 40) là biến cố hé mở vai trò và chương trình tình thương của Thiên Chúa trong việc cứu độ con người. Vinh quang mà Đức KiTô đem đến cho nhân loại không hệ tại ở những động cơ mang tính chất trần thế, mà nó hướng con người tới hạnh phúc đích thực viên mãn. Sự kiện Đức Giêsu vào thành Giêrusalem toát lộ dung mạo của Đấng Thánh khiêm nhường, hiền từ, ngời sáng ánh vinh quang của “Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” trong tiếng tung hô nồng nhiệt của dân chúng và đoàn môn đệ.
“Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường..., tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ lớn tiếng hô lên: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !” (Lc 19, 36 – 38).
Trong đoàn lũ đông đảo lớn tiếng ca tụng Đức Giêsu, có “tất cả đoàn môn đệ”, những con người đã từng theo sát vị Tôn Sư của mình trong hành trình rao giảng. Mặc dù đã được Đức Giêsu báo trước về cuộc thương khó của Người, nhưng trong tầm hiểu, tầm cảm hữu hạn của họ vẫn ngỡ rằng, Thầy mình đang và sẽ là “Đức Vua” đến chinh phục và đem lại cho họ vinh hoa trần thế. Họ không thể ngờ được, rồi đây chính “Đấng ngự đến nhân danh Chúa” sẽ kinh qua con đường của người “Tôi Trung Đau Khổ”, để tiến vào vinh quang bất diệt trên trời. Do vậy, nhiều người trong số họ đã ngã lòng thất vọng, chán chường, đau khổ, phản bội khi tận mắt chứng kiến “Đức Vua” mà mình tôn vinh phải khốn cực khốc thảm dưới bàn tay phàm nhân.
Nhưng ý định và chương trình của Thiên Chúa nằm ngoài tầm nghĩ, tầm hiểu của con người. Vinh quang nơi Ngài không nhất thiết biểu hiện ở một vài lời ca tôn cảm tính, mà nó cần được gắn với cả một đời sống tận hiến cho vinh quang Thiên Chúa trong tình yêu xả kỷ. Mục tiêu cuộc vào thành của Đức Giêsu hệ tại ở giá trị này.
2. Đến cuộc vào thành vĩnh cửu
Cuộc vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Đức Giêsu. Nó khởi sự và dự báo cho vinh quang đích thực của Ngài, được biểu lộ trọn vẹn trong cuộc Phục Sinh vinh hiển và tiến vào Thành đô vĩnh cửu.
Hướng tới Cuộc Khải Hoàn Mới, Đức Giêsu đã bày tỏ cho thấy, con đường mà Ngài dẫn chúng ta vào vinh hiển tuyệt đối cần phải đi qua Thập giá, như dấu chứng của lời đáp trả. Như vậy, lời chúc vinh đẹp nhất của chúng ta dành cho Chúa hệ tại ở thái độ dấn thân, vui sống cuộc thương khó giữa đời thường.
Vinh quang của Đức Giêsu chính là Ngài đã dám chấp nhận đau khổ và đón nhận nó trong thân phận con người với tình yêu của Đấng được sai đến. Hành trình của Ngài tiến lên đỉnh đồi Can-vê hoàn toàn đối nghịch với cuộc nghinh rước trọng hậu khi Ngài tiến vào Giêrusalem. Chính những kẻ đã nồng nhiệt tung hô, chúc tụng Ngài đã quay mặt chối từ, đả kích và hô hào đòi giết Ngài: “Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập giá” (Lc 23, 21). Nhưng cũng từ bước ngoặt này, danh xưng “Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” được nghiệm sinh đúng nghĩa trong sáng Phục Sinh.
Nhiều người trong chúng ta hôm nay không chấp nhận vinh quang Thiên Chúa qua cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức KiTô. Chúng ta giống như những người Pha-ri-siêu xưa muốn chối từ vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài tiến vào Giêrusalem. Nhưng sự thực, Đức KiTô, Ngôi Hai Thiên Chúa đã được Chúa Cha vinh thăng dưới ngọn cờ Thánh giá, trong lời chúc khen của muôn thần thánh trên trời. Tất cả, Thiên Chúa đã hành động cho chúng ta, những người đang được mời gọi tiến vào Giêrusalem mới.
3. Lời chứng tôn vinh Chúa.
Trong ngày Lễ Lá, chúng ta thích được cầm những cành lá xanh tươi, hát vang lời ca: “Các trẻ Do thái, trên tay hoa lá reo mừng, hân hoa vang lời tụng ca….”; đó thật là một truyền thống ý nghĩa, đẹp đẽ, nói lên mối giao cảm của con người xưa-nay khi đặt mình trước vương quyền của Thiên Chúa.
Nhưng có một điều quan trọng hơn, đã bao giờ bạn và tôi nghĩ về thái độ và bổn phận cần thiết của mình khi sống cho vinh quang Thiên Chúa? Vinh quang mà Ngài ban tặng cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã làm theo ý Thiên Chúa, sẵn sàng tự hạ bằng lòng chịu chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa Ngài tới vinh quang thật. Vinh quang Thiên Chúa thể hiện trước hết nơi con người, chính là chúng ta vui nhận thánh ý và bằng lòng chịu đau khổ để sống cho con đường vinh quang đích thực mà Đức KiTô đã mở ra.
Chúng ta dễ nói, dễ cất lời tôn vinh Chúa trong Nhà thờ hay những nơi khác an bình, vô sự. Chúng ta cũng dễ nói những lời chứng về cái chết và cuộc Phục sinh của Đức Giêsu với những người đồng quan điểm với mình. Nhưng sẽ là một đòi hỏi, thách thức gay gắt, hoàn toàn không dễ dàng khi ta phải nói, phải sống những lời chứng ấy trước những đối tượng thù nghịch với ta về niềm tin, hay trước những hoàn cảnh bức bách đòi hỏi ta phải can đảm làm chứng cho vinh quang Thập giá.
Chúng ta quen chúc tụng, ca khen Chúa bằng lời kinh, tiếng hát ở Nhà thờ, nhưng đừng quên bênh vực, minh chứng cho Công Lý – Sự Thật – Tình Thương của Ngài. Đây là lời đáp trả ý nghĩa và thiết thực nhất của chúng ta trong hành trình cùng Đức KiTô tiến vào Thành Đô vĩnh cửu.
Thông cảm với Chúa
Lm Giuse Đinh lập Liễm
19:14 24/03/2010
Chúa Nhật Lễ Lá, Năm A,B,C.
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: ”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo: ”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: ”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7).
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66.
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: ”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo: ”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: ”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7).
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66.
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:15 24/03/2010
TỰ DỐI MÌNH
Động đất ập đến, sư phụ không chút sợ hãi, thấy các đệ tử đối với ông ta có ấn tượng sâu sắc, trong lòng rất là đắc ý.
Mấy ngày sau, các đệ tử xin thầy chỉ giáo cách khắc phụ sợ hãi, đại sư lấy mình làm gương cảnh cáo đệ tử: “Các con có chú ý không, khi mỗi người luống cuống chạy trốn khắp nơi, thì ta yên lặng tĩnh tọa, ta vẫn uống nước như không có chuyện gì xảy ra, trong các con có ai thấy ta cầm ly nước mà run tay không ?”
- “Vâng, không thấy ạ”, một đệ tử tiếp lời: “Nhưng, thưa thầy, thứ mà thầy uống đó không phải nước mà là xì dầu ạ.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Không ai là không sợ động đất, nhất là những người đã ở trong vùng bị động đất tàn phá, chỉ có những người không biết động đất là gì mới không sợ mà thôi, nhưng khi biết được là động đất thì mới khiếp sợ.
Sợ hãi thì ai cũng có, nhưng đáng sợ hãi nhất là phạm tội, bởi vì tội lỗi làm cho mình xa cách Thiên Chúa và bị phạt đời đời trong hỏa ngục, bởi vì tội lỗi chính là nguyên nhân làm cho con người mất tất cả ơn sủng của Chúa ban cho. Tội lỗi làm cho tâm hồn bất an, tinh thần tán loạn và lương tâm bị dày vò xâu xé, do đó mà chúng ta phải sợ hãi tội lỗi và không đùa giỡn với nó, bởi vì tội lỗi chính là sản phẩm của ma quỷ tạo ra, để làm cho con người trở thành đối nghịch với Thiên Chúa.
Sư phụ tuy không bày tỏ sự sợ hãi bên ngoài, vẫn ung dung tĩnh tọa, nhưng trong lòng thì hoảng loạn nên uống xì dầu mà cứ ngỡ là uống nước lọc.
Ha ha ha...đúng là tự dối mình và dối các đệ tử.
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Động đất ập đến, sư phụ không chút sợ hãi, thấy các đệ tử đối với ông ta có ấn tượng sâu sắc, trong lòng rất là đắc ý.
Mấy ngày sau, các đệ tử xin thầy chỉ giáo cách khắc phụ sợ hãi, đại sư lấy mình làm gương cảnh cáo đệ tử: “Các con có chú ý không, khi mỗi người luống cuống chạy trốn khắp nơi, thì ta yên lặng tĩnh tọa, ta vẫn uống nước như không có chuyện gì xảy ra, trong các con có ai thấy ta cầm ly nước mà run tay không ?”
- “Vâng, không thấy ạ”, một đệ tử tiếp lời: “Nhưng, thưa thầy, thứ mà thầy uống đó không phải nước mà là xì dầu ạ.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Không ai là không sợ động đất, nhất là những người đã ở trong vùng bị động đất tàn phá, chỉ có những người không biết động đất là gì mới không sợ mà thôi, nhưng khi biết được là động đất thì mới khiếp sợ.
Sợ hãi thì ai cũng có, nhưng đáng sợ hãi nhất là phạm tội, bởi vì tội lỗi làm cho mình xa cách Thiên Chúa và bị phạt đời đời trong hỏa ngục, bởi vì tội lỗi chính là nguyên nhân làm cho con người mất tất cả ơn sủng của Chúa ban cho. Tội lỗi làm cho tâm hồn bất an, tinh thần tán loạn và lương tâm bị dày vò xâu xé, do đó mà chúng ta phải sợ hãi tội lỗi và không đùa giỡn với nó, bởi vì tội lỗi chính là sản phẩm của ma quỷ tạo ra, để làm cho con người trở thành đối nghịch với Thiên Chúa.
Sư phụ tuy không bày tỏ sự sợ hãi bên ngoài, vẫn ung dung tĩnh tọa, nhưng trong lòng thì hoảng loạn nên uống xì dầu mà cứ ngỡ là uống nước lọc.
Ha ha ha...đúng là tự dối mình và dối các đệ tử.
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:23 24/03/2010
N2T |
8. Chúng ta cùng nhau đi lên núi Can-va-ri-ô, để Chúa Giê-su không mãi mãi cô đơn; chúng ta không chỉ đồng hành với Ngài nửa đường, nhưng hơn thế nữa, chúng ta cùng chịu đóng đinh vào thập giá với Ngài.
(Thánh nữ Gemma Galgani)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:25 24/03/2010
N2T |
398. Phát huy tiềm năng đến từ nơi sự phản kích của những khó khăn.
Vụ án tình người.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan
22:25 24/03/2010
Thánh Giá. Tình người trao nhau là như vậy đó, người muốn sống tình yêu đau khổ nhìn người vô tội chịu đóng đinh, tay chỉ biết cào cấu đất, miệng chỉ biết kêu than, người người sống với nhau, đối xử nhau như thế được sao?
Bản thương khó của Chúa Giêsu, có lẽ là bản án sầu thương nhất trong lịch sử loài người, được đọc đi viết lại với bao nhiêu dạng thức mà vẫn chưa kể hết nỗi lòng khổ đau: Nụ hôn trao nộp; bản án quyền lực; hành xử dã man; đóng đinh người vô tội.
Bằng đó sự việc kể thôi vẫn chưa đủ, vẫn còn ngẫm nghĩ vẫn còn nhiều suy tư.
Nụ hôn trao nộp:
Từ bữa ăn huynh đệ, người môn đệ ra đi lúc trời ập tối. Cơn mê Adam, cơn mê của dục vọng, những cơn mê vẩn đục làm lu mờ tất cả tình yêu. Có lẽ vào thời điểm ra đi đó, Giuđa đã được rửa chân mà lòng không chịu rửa, vẫn tham quyền bính cai trị bằng bạo lực, đàn áp để bắt tuân phục. Chẳng nhớ lời Thầy bảo: “quyền bính để phục vụ hết lòng cho tha nhân”, vẫn cố chấp “quyền bính để thống trị”. Ra bên ngoài cầu cứu kẻ có thể giúp mình giữ được vai tròng quyền bính để thống trị, với giá ba mươi đồng để nạp con người hòa bình. Giuđa trong bóng đêm nên chẳng nhận ra trong số đông cầm quân đi bắt một người phải bắt trong đêm. Mỗi con người đi bắt là một bóng đêm, nhiều con người đi bắt, nhiều bóng đêm cộng lại, mỗi người theo dự kiến bóng đêm của mình sẽ bao phủ, làm thành một đêm tai ương cho nhiều số phận.
Nụ hôn biểu hiện tình yêu trao nhau, nhưng vì là tình yêu của dục vọng nụ hôn trở thành trao nộp. Có biết bao người trao nhau nụ hôn, và trao nhau những mảnh đời nghiệt ngã cùng giết chết đời nhau: Phá thai, ly dị, dâm dục, lừa đảo, oán hận, bội phản… Nụ hôn của đêm tối lòng ở bờ ảo vọng, con người mang những nụ hôn tử thần trao nhau, để rồi tự vẫn, kết thúc đời nhau bằng những đau thương. Nụ hôn oan nghiệt cuộc đời của Giuđa nói đến bao điều bất hạnh trong cuộc đời đang xảy ra, người ta dùng nụ hôn làm tan nát bao cuộc đời con người, từ trẻ con đến thanh nam thiếu nữ. Nụ hôn tử thần vẫn còn trao nộp.
Cũng những nụ hôn trên chân của các môn đệ, nụ hôn của tình yêu tôn trọng sự sống của mỗi con người, dù đó là Giuđa đang âm mưu bán Chúa. Chúa hôn trên chân từng con người và con người tội lỗi trở về cũng đã hôn lên chân Chúa. Nụ hôn tình người trao đi, khi phẩm giá con người được nâng lên: “con người là chi mà Chúa thương đến, phàm nhân là gì Chúa lại bận tâm”. Vì yêu thương rất đơn giản vì Chúa yêu thương một cách tuyệt đối, không kể là ai, chỉ cần là những người sám hối về lại hôn chân Chúa để được tha thứ và được sống trong tình yêu.
Bản án của quyền lực.
Để tôn trọng luật pháp, không kết án một ai khi chưa xét xử. Nhưng luật pháp dưới quyền của con người làm ra nó, nên luật pháp xét xử ngay trong đêm, vào những giờ không công khai với mọi người. Luật giống như là thứ trang sức cho bản án bất công, mang chiếc áo đỏ khoác lên thân tội nhân đã bị đánh nhừ tử, màu máu được trang hoàng với màu áo đỏ như nghi thức phong vương quyền của con người. Vẫn được tôn trọng nhân quyền khi đem ra tòa án công khai, với chiếc áo trang phục của ngày công khai vào thành. Không thể dùng bộ luật của mình để tự tố cáo mình, cần có một quyết định của bộ luật khác, có khung hình phạt khác: thay vì ném đá thì đóng đinh. Vậy phải sửa lại bản án trong đêm đã làm vội vã, kết cấu một thứ tội khác để dùng bộ luật của Đế Quốc Roma, với khung hình phạt đóng đinh. Kỳ lão, thượng tế, kinh sư là những người đã quen đổi trắng ra đen, dùng nhóm côn đồ, kinh nghiệm quá nhiều vụ, chuyện này không khó. Họ đã rửa tay không vì thiếu trách nhiệm mà sợ trách nhiệm. Họ rửa tay, một bàn tay vẫn sạch để cầm quyền thống trị.
Philatô, người kết án, đóng triện cuối cùng để kết thúc vụ án. Thấy vấn đề “Chúa Giêsu bị vu khống” nhưng lại sợ vấn đề khác “náo loạn trong dân” do nhóm ngưới tố cáo xách động. Ứng nghiệm câu nói của Caipha, vị thượng tế năm ấy: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. (Ga 11, 50). Quá hoàn hảo cho một bản án, chẳng ai có thể nói thượng kế, kinh sư, kỳ lão, những kẻ ra tay sát hại vấy máu được. Philatô, một con người trong quyền cao chức trọng của mình lại bị lợi dụng. Xét ra, cũng chẳng phải vì ông dại khờ nhưng vì cái ghế, cương vị ông đang giữ và có thể thăng tiến. “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy! "” (Mt 27, 24).
Quyền lực có sức hút lạ kỳ, người chưa có thì tìm mọi cách để cho có, luồn cúi, mua chuộc, bán rẻ lương tâm, cái gì bán được để có nó thì cứ bán. Kẻ có nó rồi thì tìm cách lèo lái cách nào lấy lại những gì đã mất, bẩn thì đổ lỗi để sạch tay còn có cơ hội đi lên. Vô phương ngàn kế, cứ đổ tội hết cho dân hoặc cho cái gì đó chung chung là xong. Bản án oan trái và vẫn tuân thủ theo pháp luật, đó là nghệ thuật lãnh đạo bằng quyền lực, bạo hành.
Hành xử dã man.
Làm sao khuấy động được người vô tội này trở thành tên tội phạm nghiêm trọng, để cho họ xét xử. Như vậy, cần có quá trình lăng mạ, phỉ báng, khép mọi thứ tội dân ghét nhất. Nó là quá trình, nhốt giam kín đáo, nhưng cung cấp thông tin bên ngoài thì báng bổ. Giai đoạn chuẩn bị dư luận, giai đoạn công khai, khích lòng oán ghét của dân lên càng đông người hưởng ứng càng hay, như vết dầu loang, người chưa kịp hiểu chuyện ngọn ngành cũng ủng hộ, “tương kế tựu kế”. Đám dân reo hò “ đóng đinh nó vào thập giá” là sướng lòng nhà chức trách, ủng hộ như thế thì thành công đã gần kề, đó là thành quả của công việc dân vận.
Chỉ còn chờ quyết định, dân chúng sẽ hả dạ cùng với quân lính đánh đập dã man con người vác thập giá kia. Một người la lên “đánh chết nó đi” nhiều tiếng say máu cũng hô to lên “đánh chết nó đi” lao vào cứ thế mà đánh, đánh mãi một người, nên người vác thập tự đứng lên ngã xuống, bước đi không được. Đường đến núi sọ tuy gần mà xa, xa bởi vì con người lấy thù oán riêng mình, chẳng can chi đến người vô tội, cứ vậy nhân cơ hội trút bầu hờn giận.
Đám đông bị khích động thật sự, bởi tiếng la hét của quân lính, bởi những người đã được kích thích bằng rượu hay bằng thuốc, bởi nhà chức trách khoanh tay đứng nhìn khích lệ, tưởng thưởng những người tự phát. Nhìn đám đông ấy, Chúa không khỏi ngậm ngùi, không phải vì vết thương trên thân xác Ngài mà vì những vết thương con người đang ung loét trong lòng họ. Đám đông càng điên cuồng, tâm thần Chúa càng thổn thức, không gì có thể đau hơn, chính những con người Chúa đang yêu thương cứu vớt lại đang hành hạ Ngài.
Chiều thập giá buồn, Chúa ơi, con người vẫn hành xử như thế với con người ở đâu đó trên trái đất. Con người của khổ nạn bởi những lòng tham chất ngất, con người đóng đinh con người.
Đóng đinh người vô tội.
Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá. Đây là giờ khắc, con người đi đến kết cục của lòng hận thù. Máu đã sôi, lửa lòng đã thiêu đốt, còn lại sự thinh lặng của con người chịu đóng đinh.
Chiều nắng vừa ngả, bóng cây thập giá treo Người Công Chính trải trên đất, ở gần đấy, nhiều người đấm ngực ăn năn trở về. Họ trở về vì biết rằng số phận người công chính là thế đó, nhìn lại mình, đón nhận bao ơn lành từ đôi tay đang bị treo trên thập giá kia. Lắng nghe bao nhiêu lời nhân lành từ Người trên kia. Khuôn mặt đầm đìa máu, máu đổ toàn thân, lòng người trở về nhói đau, cái đau khổ bởi tội lỗi mình và do đám đông say máu đang tụ tập được chia tiền, chia áo kia. Đấm ngực tội mình và cùng với tội con người.
Những người đang ở lại nhìn lên cây thập giá, tay bấu chặt vào đất đá, gục đầu khóc, khóc cho người vô tội mà phải chết và chính đôi tay của họ, sức lực của họ cũng chẳng làm gì được. Họ đã được dạy: “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bách hại họ”. Họ chỉ biết cầu nguyện bằng nước mắt, bằng nỗ lực hết sức thực hiện tha thứ. Khó quá, tay bấu chặt đất để xin tha thứ mà đón nhận, bài học đổi bằng nước mắt, đổi bằng tang thương, đổi bằng xâu xé ruột gan.
Mẹ Maria và người môn đệ dấu yêu, cận kề dưới chân thập giá, đứng đó, một tư thế xin vâng tất cả, không khóc than bởi lòng đã chết lặng cùng người con yêu dấu. Không thù hận, không lên án, đau cái đau của người đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, hiến tế tất cả, để chỉ một điều tốn tại: Tha thứ tất cả và yêu thương tất cả.
Viên sỹ quan, đội trưởng đội hành hình, quỳ gối, gỡ mũ, cúi đầu xin tha thứ và xác tín: “Người này là Con Thiên Chúa” (Lc 23, 47). Hiệu quả của tình yêu tha thứ đã tuôn chảy và từng người một sám hối trở về để xây lại tình người.
Sống lại tình người:
Trong cuộc khổ giá, Chúa Giêsu là nhân vật chịu nạn chính trong vụ án, Người đã đạt đến bậc tôn sư của các bậc hiền nhân bằng bốn điều cơ bản:
Tha thứ cho kẻ lên án, vu oan, sát hại mình: “ Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,34). Dù họ làm gì đến mình chăng nữa vẫn nuôi dưỡng tình yêu tha thứ cho họ, đó là đạt đến độ bậc thầy của “quán từ bi”.
Tha thứ cho tội nhân sám hối trở về “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Luca 23, 43). Luôn thương yêu đến những tội nhân và cầu nguyện cho họ.
Có một gia đình thánh và luôn nuôi dưỡng tình yêu gia đình trong thánh thiện dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là động lực để vượt qua mọi thử thách. “Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: thưa Bà, đây là con của Bà. Rồi Người nói với môn đệ: đây là Mẹ của anh”. (Gioan 19, 26-27).
Sau cùng mới nghĩ đến khát vọng của bản thân, một khát vọng hướng về chân, thiện, mỹ, bằng mọi nỗ lực thực hiện trên trần gian. Người nói: "Tôi khát! (Ga 19, 28).
Vụ án tình người sẽ không còn oan khiên, bất công, bạo loạn khi kết án. Sẽ là một chân trời bình an rộng mở đón nhận Chúa Phục Sinh.
Bản thương khó của Chúa Giêsu, có lẽ là bản án sầu thương nhất trong lịch sử loài người, được đọc đi viết lại với bao nhiêu dạng thức mà vẫn chưa kể hết nỗi lòng khổ đau: Nụ hôn trao nộp; bản án quyền lực; hành xử dã man; đóng đinh người vô tội.
Bằng đó sự việc kể thôi vẫn chưa đủ, vẫn còn ngẫm nghĩ vẫn còn nhiều suy tư.
Nụ hôn trao nộp:
Từ bữa ăn huynh đệ, người môn đệ ra đi lúc trời ập tối. Cơn mê Adam, cơn mê của dục vọng, những cơn mê vẩn đục làm lu mờ tất cả tình yêu. Có lẽ vào thời điểm ra đi đó, Giuđa đã được rửa chân mà lòng không chịu rửa, vẫn tham quyền bính cai trị bằng bạo lực, đàn áp để bắt tuân phục. Chẳng nhớ lời Thầy bảo: “quyền bính để phục vụ hết lòng cho tha nhân”, vẫn cố chấp “quyền bính để thống trị”. Ra bên ngoài cầu cứu kẻ có thể giúp mình giữ được vai tròng quyền bính để thống trị, với giá ba mươi đồng để nạp con người hòa bình. Giuđa trong bóng đêm nên chẳng nhận ra trong số đông cầm quân đi bắt một người phải bắt trong đêm. Mỗi con người đi bắt là một bóng đêm, nhiều con người đi bắt, nhiều bóng đêm cộng lại, mỗi người theo dự kiến bóng đêm của mình sẽ bao phủ, làm thành một đêm tai ương cho nhiều số phận.
Nụ hôn biểu hiện tình yêu trao nhau, nhưng vì là tình yêu của dục vọng nụ hôn trở thành trao nộp. Có biết bao người trao nhau nụ hôn, và trao nhau những mảnh đời nghiệt ngã cùng giết chết đời nhau: Phá thai, ly dị, dâm dục, lừa đảo, oán hận, bội phản… Nụ hôn của đêm tối lòng ở bờ ảo vọng, con người mang những nụ hôn tử thần trao nhau, để rồi tự vẫn, kết thúc đời nhau bằng những đau thương. Nụ hôn oan nghiệt cuộc đời của Giuđa nói đến bao điều bất hạnh trong cuộc đời đang xảy ra, người ta dùng nụ hôn làm tan nát bao cuộc đời con người, từ trẻ con đến thanh nam thiếu nữ. Nụ hôn tử thần vẫn còn trao nộp.
Cũng những nụ hôn trên chân của các môn đệ, nụ hôn của tình yêu tôn trọng sự sống của mỗi con người, dù đó là Giuđa đang âm mưu bán Chúa. Chúa hôn trên chân từng con người và con người tội lỗi trở về cũng đã hôn lên chân Chúa. Nụ hôn tình người trao đi, khi phẩm giá con người được nâng lên: “con người là chi mà Chúa thương đến, phàm nhân là gì Chúa lại bận tâm”. Vì yêu thương rất đơn giản vì Chúa yêu thương một cách tuyệt đối, không kể là ai, chỉ cần là những người sám hối về lại hôn chân Chúa để được tha thứ và được sống trong tình yêu.
Bản án của quyền lực.
Để tôn trọng luật pháp, không kết án một ai khi chưa xét xử. Nhưng luật pháp dưới quyền của con người làm ra nó, nên luật pháp xét xử ngay trong đêm, vào những giờ không công khai với mọi người. Luật giống như là thứ trang sức cho bản án bất công, mang chiếc áo đỏ khoác lên thân tội nhân đã bị đánh nhừ tử, màu máu được trang hoàng với màu áo đỏ như nghi thức phong vương quyền của con người. Vẫn được tôn trọng nhân quyền khi đem ra tòa án công khai, với chiếc áo trang phục của ngày công khai vào thành. Không thể dùng bộ luật của mình để tự tố cáo mình, cần có một quyết định của bộ luật khác, có khung hình phạt khác: thay vì ném đá thì đóng đinh. Vậy phải sửa lại bản án trong đêm đã làm vội vã, kết cấu một thứ tội khác để dùng bộ luật của Đế Quốc Roma, với khung hình phạt đóng đinh. Kỳ lão, thượng tế, kinh sư là những người đã quen đổi trắng ra đen, dùng nhóm côn đồ, kinh nghiệm quá nhiều vụ, chuyện này không khó. Họ đã rửa tay không vì thiếu trách nhiệm mà sợ trách nhiệm. Họ rửa tay, một bàn tay vẫn sạch để cầm quyền thống trị.
Philatô, người kết án, đóng triện cuối cùng để kết thúc vụ án. Thấy vấn đề “Chúa Giêsu bị vu khống” nhưng lại sợ vấn đề khác “náo loạn trong dân” do nhóm ngưới tố cáo xách động. Ứng nghiệm câu nói của Caipha, vị thượng tế năm ấy: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. (Ga 11, 50). Quá hoàn hảo cho một bản án, chẳng ai có thể nói thượng kế, kinh sư, kỳ lão, những kẻ ra tay sát hại vấy máu được. Philatô, một con người trong quyền cao chức trọng của mình lại bị lợi dụng. Xét ra, cũng chẳng phải vì ông dại khờ nhưng vì cái ghế, cương vị ông đang giữ và có thể thăng tiến. “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy! "” (Mt 27, 24).
Quyền lực có sức hút lạ kỳ, người chưa có thì tìm mọi cách để cho có, luồn cúi, mua chuộc, bán rẻ lương tâm, cái gì bán được để có nó thì cứ bán. Kẻ có nó rồi thì tìm cách lèo lái cách nào lấy lại những gì đã mất, bẩn thì đổ lỗi để sạch tay còn có cơ hội đi lên. Vô phương ngàn kế, cứ đổ tội hết cho dân hoặc cho cái gì đó chung chung là xong. Bản án oan trái và vẫn tuân thủ theo pháp luật, đó là nghệ thuật lãnh đạo bằng quyền lực, bạo hành.
Hành xử dã man.
Làm sao khuấy động được người vô tội này trở thành tên tội phạm nghiêm trọng, để cho họ xét xử. Như vậy, cần có quá trình lăng mạ, phỉ báng, khép mọi thứ tội dân ghét nhất. Nó là quá trình, nhốt giam kín đáo, nhưng cung cấp thông tin bên ngoài thì báng bổ. Giai đoạn chuẩn bị dư luận, giai đoạn công khai, khích lòng oán ghét của dân lên càng đông người hưởng ứng càng hay, như vết dầu loang, người chưa kịp hiểu chuyện ngọn ngành cũng ủng hộ, “tương kế tựu kế”. Đám dân reo hò “ đóng đinh nó vào thập giá” là sướng lòng nhà chức trách, ủng hộ như thế thì thành công đã gần kề, đó là thành quả của công việc dân vận.
Chỉ còn chờ quyết định, dân chúng sẽ hả dạ cùng với quân lính đánh đập dã man con người vác thập giá kia. Một người la lên “đánh chết nó đi” nhiều tiếng say máu cũng hô to lên “đánh chết nó đi” lao vào cứ thế mà đánh, đánh mãi một người, nên người vác thập tự đứng lên ngã xuống, bước đi không được. Đường đến núi sọ tuy gần mà xa, xa bởi vì con người lấy thù oán riêng mình, chẳng can chi đến người vô tội, cứ vậy nhân cơ hội trút bầu hờn giận.
Đám đông bị khích động thật sự, bởi tiếng la hét của quân lính, bởi những người đã được kích thích bằng rượu hay bằng thuốc, bởi nhà chức trách khoanh tay đứng nhìn khích lệ, tưởng thưởng những người tự phát. Nhìn đám đông ấy, Chúa không khỏi ngậm ngùi, không phải vì vết thương trên thân xác Ngài mà vì những vết thương con người đang ung loét trong lòng họ. Đám đông càng điên cuồng, tâm thần Chúa càng thổn thức, không gì có thể đau hơn, chính những con người Chúa đang yêu thương cứu vớt lại đang hành hạ Ngài.
Chiều thập giá buồn, Chúa ơi, con người vẫn hành xử như thế với con người ở đâu đó trên trái đất. Con người của khổ nạn bởi những lòng tham chất ngất, con người đóng đinh con người.
Đóng đinh người vô tội.
Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá. Đây là giờ khắc, con người đi đến kết cục của lòng hận thù. Máu đã sôi, lửa lòng đã thiêu đốt, còn lại sự thinh lặng của con người chịu đóng đinh.
Chiều nắng vừa ngả, bóng cây thập giá treo Người Công Chính trải trên đất, ở gần đấy, nhiều người đấm ngực ăn năn trở về. Họ trở về vì biết rằng số phận người công chính là thế đó, nhìn lại mình, đón nhận bao ơn lành từ đôi tay đang bị treo trên thập giá kia. Lắng nghe bao nhiêu lời nhân lành từ Người trên kia. Khuôn mặt đầm đìa máu, máu đổ toàn thân, lòng người trở về nhói đau, cái đau khổ bởi tội lỗi mình và do đám đông say máu đang tụ tập được chia tiền, chia áo kia. Đấm ngực tội mình và cùng với tội con người.
Những người đang ở lại nhìn lên cây thập giá, tay bấu chặt vào đất đá, gục đầu khóc, khóc cho người vô tội mà phải chết và chính đôi tay của họ, sức lực của họ cũng chẳng làm gì được. Họ đã được dạy: “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bách hại họ”. Họ chỉ biết cầu nguyện bằng nước mắt, bằng nỗ lực hết sức thực hiện tha thứ. Khó quá, tay bấu chặt đất để xin tha thứ mà đón nhận, bài học đổi bằng nước mắt, đổi bằng tang thương, đổi bằng xâu xé ruột gan.
Mẹ Maria và người môn đệ dấu yêu, cận kề dưới chân thập giá, đứng đó, một tư thế xin vâng tất cả, không khóc than bởi lòng đã chết lặng cùng người con yêu dấu. Không thù hận, không lên án, đau cái đau của người đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, hiến tế tất cả, để chỉ một điều tốn tại: Tha thứ tất cả và yêu thương tất cả.
Viên sỹ quan, đội trưởng đội hành hình, quỳ gối, gỡ mũ, cúi đầu xin tha thứ và xác tín: “Người này là Con Thiên Chúa” (Lc 23, 47). Hiệu quả của tình yêu tha thứ đã tuôn chảy và từng người một sám hối trở về để xây lại tình người.
Sống lại tình người:
Trong cuộc khổ giá, Chúa Giêsu là nhân vật chịu nạn chính trong vụ án, Người đã đạt đến bậc tôn sư của các bậc hiền nhân bằng bốn điều cơ bản:
Tha thứ cho kẻ lên án, vu oan, sát hại mình: “ Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,34). Dù họ làm gì đến mình chăng nữa vẫn nuôi dưỡng tình yêu tha thứ cho họ, đó là đạt đến độ bậc thầy của “quán từ bi”.
Tha thứ cho tội nhân sám hối trở về “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Luca 23, 43). Luôn thương yêu đến những tội nhân và cầu nguyện cho họ.
Có một gia đình thánh và luôn nuôi dưỡng tình yêu gia đình trong thánh thiện dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là động lực để vượt qua mọi thử thách. “Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: thưa Bà, đây là con của Bà. Rồi Người nói với môn đệ: đây là Mẹ của anh”. (Gioan 19, 26-27).
Sau cùng mới nghĩ đến khát vọng của bản thân, một khát vọng hướng về chân, thiện, mỹ, bằng mọi nỗ lực thực hiện trên trần gian. Người nói: "Tôi khát! (Ga 19, 28).
Vụ án tình người sẽ không còn oan khiên, bất công, bạo loạn khi kết án. Sẽ là một chân trời bình an rộng mở đón nhận Chúa Phục Sinh.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là để chúng ta thiện hảo
Jos. Tú Nạc, NMS
22:33 24/03/2010
Chúa Nhật Thương Khó – Năm C (Isaiah 50: 4-7; Psalm 22; Philippians 2: 6-11; Luke 22: 14, 23: 56)
Người chuyên bị bách hại hoặc nạn nhân là nhân vật được biết đến đối với tất cả chúng ta. Những cá nhân này tận hưởng hàng loạt sự tự thán, thảm trạng và quả quyết tin rằng “sự hành hạ” của họ là bởi vì họ chân chính còn những người khác là bất chính, bỉ ổi. Họ sẽ đứng ra đấu tranh cho những gì là lẽ phải trong khi người khác hành động trên lợi ích cá nhân hoặc tham nhũng thối nát. Nhưng không thường như thế, họ chịu đau khổ vì những ý kiến, những định kiến và cách ứng xử của chính họ đó là sự tự tin và không khoan nhượng.
Thời đại của chính chúng ta trôi nổi những tiên tri tự phong y như thế - vậy làm thế nào chúng ta nhận ra đâu là bài báo, điều mục chính thống? Chúng ta có thể quay lại đoạn trích từ Isaiah, vì “Người Tôi Tớ Khổ Đau” – với sự nhấn mạnh từ “tôi tớ” – là mô thức cho tất cả những ai nói về sự bảo hộ của Thiên Chúa. Trên hết tất cả, người tôi tớ ấy sẵn sàng từ bỏ bản ngã và những xét đoán cá nhân. Điều này cho phép người tôi tớ lắng nghe một cách thực tế tiếng nói của Thiên Chúa – thường bị nhầm lẫn với những xét đoán cá nhân và kết tội của con người. Trong thực tế thông điệp mà người tôi tớ nhận lãnh thì thường là sự chấn động hoặc thử thách. Và phương thức điển hình đó nó được biểu đạt thông qua những ngôn từ của hy vọng và khuyến khích động viên – cam chịu sự mệt mỏi với một từ. Nhận thức tiềm ẩn của sự sống đã hướng dẫn và giáo huấn từ mạch nguồn thiêng liêng trở thành một nguồn lực vô biên cần thiết để đối phó phe nhóm đối lập và tổ chức đối kháng mà chắc chắn sẽ đến.
Hai điều cần phải tránh bằng mọi giá. Điều thứ nhất là hèn hạ và nhu nhược khi đứng trước sự đối kháng mà gây cho người ta phải đầu hàng. Điều thứ hai là kiêu ngạo khẳng định mình là đúng có thể dẫn con người đến lăng mạ, công kích và hậu quả là từ bỏ những đường lối mà thế giới đang thực hiện. Người đầy tớ đau khổ chân chính là người đầy tớ cam chịu vì những lý do chính đáng và nhu cầu bản ngã không phải là một trong những lý do đó.
Nhiều người tin rằng sự khiêm hạ và loại trừ bản ngã là dấu hiệu của nhu nhược và là một lời mời cho sự thống trị và áp bức. Nhưng cuộc đời của Chúa Giê-su đã chứng tỏ sự đối lập: hãy từ bỏ địa vị, đặc ân, an toàn và quyền lực không chỉ là giải phóng mà còn là nâng cao vị thế một cách thiêng liêng. Thậm chí không gắn bó với địa vị thiêng liêng và cao cả của Người, Chúa Giê-su đã chấp nhận thân phận loài người – ngay cả thân phận của một người nô lệ - và chấp nhận con đường dẫn đến cái chết trên thập giá. Nhưng sự phó mặc này chính là ý định của Thiên Chúa và là sự tận tụy không nao núng đối với sự thiện hảo của tha nhân, và đó là khí cụ cao quý của Người. Và vì thế, nó ở cùng chúng ta: thường đó là lo sợ tổn thương và mất mát mà cản trở chúng ta khỏi cương vị môn đệ nhiệt thành và phục vụ tha nhân. Nhưng ở một nơi nào đó trong Tân Ước đã nói với chúng ta rằng tình yêu hoàn hảo xua tan sợ hãi.
Tất cả những điều này là bằng chứng hiển nhiên trong cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta có thể hỏi: tại sao Chúa giê-su đã phải chịu đau khổ và tại sao chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó này hàng năm? Cuộc thương khó và đóng đinh trên thập giá không phải là đối tượng thuộc sứ mệnh của Người cũng chẳng phải sự đau khổ thiện hảo tự thân. Sự đau khổ không nên thần thánh hóa hoặc thi vị hóa – điều này rất dễ có thể dẫn đến áp bức và bất công. Sứ vụ của Chúa Giê-su là chứng tá những đường lối của Thiên Chúa – bác ái, công lý và hiệp nhất – trong sự trung kiên và phương thức không dao động. Người phải chịu những xét đoán, truyền thống, định kiến của loài người thử thách cùng những sợ hãi trong niềm hy vọng bắt đầu hoàn toàn ló dạng và giải phóng tâm trí và tâm hồn của những ai mà Người đã bất ngờ gặp gỡ. Thậm chí tại bữa tiệc ly (cuối cùng) và hơn thế nữa Người sẽ phải thực hiện với những yếu đuối loài người điển hình trong những người xung quanh: mánh khóe lừa bịp và thừa nhận, phản bội, những hành động bạo lực cùng lời lẽ cũng như việc đối xử tàn ác của cong người.
Chúa Giê-su đã phải chịu đau đớn để nhận ra không nhiều những môn đệ của Người đã hiểu Người như thế nào và hấp thụ tấm gương cùng những lời giảng huấn của Người. Mà thậm chí trên thập giá Người khước từ để nhượng bộ trước những lối cư xử của con người: thay vì giận dữ và trả thù, Người tha thứ cho những ai chịu trách nhiệm về cái chết của Người – một điển hình cao cả về sự đầu hàng tuyệt vời của cái tôi trước Thiên Chúa. Lễ kỷ niệm của riêng chúng ta về sự thương khó của Đức Chúa không nên tập trung hoàn toàn vào sự đau khổ của Người. Lý do khổ nạn của Người – lòng trung thành trước sứ mệnh của Thiên Chúa – có tầm quan trọng cao cả hơn. Và đó là tiếng gọi tới tất cả mọi tín hữu đối với cương vị môn đồ - đừng đau khổ vì lợi ích riêng của mình mà phải gạt cái tôi sang một bên, an toàn và thư thái vì lợi ích, hạnh phúc của thế giới và những người đang hiện hữu.
(Nguồn: Regis College – The School of Theology)
Người chuyên bị bách hại hoặc nạn nhân là nhân vật được biết đến đối với tất cả chúng ta. Những cá nhân này tận hưởng hàng loạt sự tự thán, thảm trạng và quả quyết tin rằng “sự hành hạ” của họ là bởi vì họ chân chính còn những người khác là bất chính, bỉ ổi. Họ sẽ đứng ra đấu tranh cho những gì là lẽ phải trong khi người khác hành động trên lợi ích cá nhân hoặc tham nhũng thối nát. Nhưng không thường như thế, họ chịu đau khổ vì những ý kiến, những định kiến và cách ứng xử của chính họ đó là sự tự tin và không khoan nhượng.
Thời đại của chính chúng ta trôi nổi những tiên tri tự phong y như thế - vậy làm thế nào chúng ta nhận ra đâu là bài báo, điều mục chính thống? Chúng ta có thể quay lại đoạn trích từ Isaiah, vì “Người Tôi Tớ Khổ Đau” – với sự nhấn mạnh từ “tôi tớ” – là mô thức cho tất cả những ai nói về sự bảo hộ của Thiên Chúa. Trên hết tất cả, người tôi tớ ấy sẵn sàng từ bỏ bản ngã và những xét đoán cá nhân. Điều này cho phép người tôi tớ lắng nghe một cách thực tế tiếng nói của Thiên Chúa – thường bị nhầm lẫn với những xét đoán cá nhân và kết tội của con người. Trong thực tế thông điệp mà người tôi tớ nhận lãnh thì thường là sự chấn động hoặc thử thách. Và phương thức điển hình đó nó được biểu đạt thông qua những ngôn từ của hy vọng và khuyến khích động viên – cam chịu sự mệt mỏi với một từ. Nhận thức tiềm ẩn của sự sống đã hướng dẫn và giáo huấn từ mạch nguồn thiêng liêng trở thành một nguồn lực vô biên cần thiết để đối phó phe nhóm đối lập và tổ chức đối kháng mà chắc chắn sẽ đến.
Hai điều cần phải tránh bằng mọi giá. Điều thứ nhất là hèn hạ và nhu nhược khi đứng trước sự đối kháng mà gây cho người ta phải đầu hàng. Điều thứ hai là kiêu ngạo khẳng định mình là đúng có thể dẫn con người đến lăng mạ, công kích và hậu quả là từ bỏ những đường lối mà thế giới đang thực hiện. Người đầy tớ đau khổ chân chính là người đầy tớ cam chịu vì những lý do chính đáng và nhu cầu bản ngã không phải là một trong những lý do đó.
Nhiều người tin rằng sự khiêm hạ và loại trừ bản ngã là dấu hiệu của nhu nhược và là một lời mời cho sự thống trị và áp bức. Nhưng cuộc đời của Chúa Giê-su đã chứng tỏ sự đối lập: hãy từ bỏ địa vị, đặc ân, an toàn và quyền lực không chỉ là giải phóng mà còn là nâng cao vị thế một cách thiêng liêng. Thậm chí không gắn bó với địa vị thiêng liêng và cao cả của Người, Chúa Giê-su đã chấp nhận thân phận loài người – ngay cả thân phận của một người nô lệ - và chấp nhận con đường dẫn đến cái chết trên thập giá. Nhưng sự phó mặc này chính là ý định của Thiên Chúa và là sự tận tụy không nao núng đối với sự thiện hảo của tha nhân, và đó là khí cụ cao quý của Người. Và vì thế, nó ở cùng chúng ta: thường đó là lo sợ tổn thương và mất mát mà cản trở chúng ta khỏi cương vị môn đệ nhiệt thành và phục vụ tha nhân. Nhưng ở một nơi nào đó trong Tân Ước đã nói với chúng ta rằng tình yêu hoàn hảo xua tan sợ hãi.
Tất cả những điều này là bằng chứng hiển nhiên trong cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta có thể hỏi: tại sao Chúa giê-su đã phải chịu đau khổ và tại sao chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó này hàng năm? Cuộc thương khó và đóng đinh trên thập giá không phải là đối tượng thuộc sứ mệnh của Người cũng chẳng phải sự đau khổ thiện hảo tự thân. Sự đau khổ không nên thần thánh hóa hoặc thi vị hóa – điều này rất dễ có thể dẫn đến áp bức và bất công. Sứ vụ của Chúa Giê-su là chứng tá những đường lối của Thiên Chúa – bác ái, công lý và hiệp nhất – trong sự trung kiên và phương thức không dao động. Người phải chịu những xét đoán, truyền thống, định kiến của loài người thử thách cùng những sợ hãi trong niềm hy vọng bắt đầu hoàn toàn ló dạng và giải phóng tâm trí và tâm hồn của những ai mà Người đã bất ngờ gặp gỡ. Thậm chí tại bữa tiệc ly (cuối cùng) và hơn thế nữa Người sẽ phải thực hiện với những yếu đuối loài người điển hình trong những người xung quanh: mánh khóe lừa bịp và thừa nhận, phản bội, những hành động bạo lực cùng lời lẽ cũng như việc đối xử tàn ác của cong người.
Chúa Giê-su đã phải chịu đau đớn để nhận ra không nhiều những môn đệ của Người đã hiểu Người như thế nào và hấp thụ tấm gương cùng những lời giảng huấn của Người. Mà thậm chí trên thập giá Người khước từ để nhượng bộ trước những lối cư xử của con người: thay vì giận dữ và trả thù, Người tha thứ cho những ai chịu trách nhiệm về cái chết của Người – một điển hình cao cả về sự đầu hàng tuyệt vời của cái tôi trước Thiên Chúa. Lễ kỷ niệm của riêng chúng ta về sự thương khó của Đức Chúa không nên tập trung hoàn toàn vào sự đau khổ của Người. Lý do khổ nạn của Người – lòng trung thành trước sứ mệnh của Thiên Chúa – có tầm quan trọng cao cả hơn. Và đó là tiếng gọi tới tất cả mọi tín hữu đối với cương vị môn đồ - đừng đau khổ vì lợi ích riêng của mình mà phải gạt cái tôi sang một bên, an toàn và thư thái vì lợi ích, hạnh phúc của thế giới và những người đang hiện hữu.
(Nguồn: Regis College – The School of Theology)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Pháp tham dự khóa họp thường niên tại Lộ Đức
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
10:45 24/03/2010
HĐGM Pháp - Khóa họp thường niên đợt này diễn ra từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 3 năm 2010 quy tụ gần 120 giám mục. Đây là khóa họp lần thứ 50 kể từ ngày thành lập Hội Đồng Giám Mục Pháp vào năm 1964 đến nay.
Được bổ nhiệm làm Khâm Sứ Toà Thánh tại Pháp vào năm 2009, lần đầu tiên Đức cha Luigi Ventura tham dự khóa họp cấp cao này cùng các vị Giám Chức của Giáo Hội Pháp.
Như thường lệ tại mỗi kỳ họp, các giám mục đề cập đến những vấn đề thời sự, diễn biến của từng địa phương cũng như sự tiến triển và những thách đố đặt tra trong xã hội Pháp. Về chủ đề này, các ngài cũng nghe Nhà Xã Hội Học Robert Rochefort, cựu giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu và Quan Sát về Những Điều Kiện Đời Sống trình bày về bài phân tích của mình.
Các Giám Chức cũng thảo luận về tương lai của các cộng đoàn Kitô hữu. Như Đức Hồng Y André Vint-trois, Tổng Giám Mục giáo phận Paris, Chủ Tịch HĐGM Pháp đã giải thích trong phiên khai mạc khóa họp vào tháng Mười Một năm ngoái, « Chúng tôi hẳn nhiên đang ở thời kỳ chìa khóa đối với công việc tổ chức Giáo Hội của mình ».
Sau công đồng Vatican II và tiếp theo các công nghị được triển khai bàn về sứ mạng của giáo dân (như tông huấn Christi Fideles Laici: Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân) và về tác vụ của các linh mục ( tông huấn Pastores dabo Vobis: Đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay), sự thay đổi cơ cấu xã hội, cùng với sự phát triển các hoạt động của giáo dân, cũng như sự tiến triển của tác vụ linh mục, mời gọi chúng tôi đào sâu những điều khoản về sứ mạng, về việc đảm nhiệm trọng trách, đồng thời lặp lại lời kêu mời về ơn gọi trong bậc sống linh mục và phó tế vĩnh viễn ».
Cũng trong dịp tháng Mười Một năm ngoái, có hai nhóm trong đó một làm việc về đề tài cộng đoàn dân Chúa ngày Chúa Nhật, và nhóm còn lại về môi trường đã được triển khai. Đây cũng là nội dung trao đổi đầu tiên trong kỳ họp này dưới sự chủ tọa của đức cha Jean-Christoph Lagleise, giám mục giáo phận Valence và đức cha Marc Stenger, giám mục giáo phận Troyes.
Đức Hồng Y Jean-Pierre Ricard, Tổng Giám Mục Bordeaux, chủ trì nhóm làm việc về giảng dạy Công Giáo bậc đại học, cũng trình bày những kết luận của mình. Cuối cùng, phiên họp quay trở lại vấn đề sinh học, với bài tham luận của đức cha Pierre d’Ornellas, Tổng Giám Mục giáo phận Rennes.
Được bổ nhiệm làm Khâm Sứ Toà Thánh tại Pháp vào năm 2009, lần đầu tiên Đức cha Luigi Ventura tham dự khóa họp cấp cao này cùng các vị Giám Chức của Giáo Hội Pháp.
Như thường lệ tại mỗi kỳ họp, các giám mục đề cập đến những vấn đề thời sự, diễn biến của từng địa phương cũng như sự tiến triển và những thách đố đặt tra trong xã hội Pháp. Về chủ đề này, các ngài cũng nghe Nhà Xã Hội Học Robert Rochefort, cựu giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu và Quan Sát về Những Điều Kiện Đời Sống trình bày về bài phân tích của mình.
Các Giám Chức cũng thảo luận về tương lai của các cộng đoàn Kitô hữu. Như Đức Hồng Y André Vint-trois, Tổng Giám Mục giáo phận Paris, Chủ Tịch HĐGM Pháp đã giải thích trong phiên khai mạc khóa họp vào tháng Mười Một năm ngoái, « Chúng tôi hẳn nhiên đang ở thời kỳ chìa khóa đối với công việc tổ chức Giáo Hội của mình ».
Sau công đồng Vatican II và tiếp theo các công nghị được triển khai bàn về sứ mạng của giáo dân (như tông huấn Christi Fideles Laici: Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân) và về tác vụ của các linh mục ( tông huấn Pastores dabo Vobis: Đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay), sự thay đổi cơ cấu xã hội, cùng với sự phát triển các hoạt động của giáo dân, cũng như sự tiến triển của tác vụ linh mục, mời gọi chúng tôi đào sâu những điều khoản về sứ mạng, về việc đảm nhiệm trọng trách, đồng thời lặp lại lời kêu mời về ơn gọi trong bậc sống linh mục và phó tế vĩnh viễn ».
Cũng trong dịp tháng Mười Một năm ngoái, có hai nhóm trong đó một làm việc về đề tài cộng đoàn dân Chúa ngày Chúa Nhật, và nhóm còn lại về môi trường đã được triển khai. Đây cũng là nội dung trao đổi đầu tiên trong kỳ họp này dưới sự chủ tọa của đức cha Jean-Christoph Lagleise, giám mục giáo phận Valence và đức cha Marc Stenger, giám mục giáo phận Troyes.
Đức Hồng Y Jean-Pierre Ricard, Tổng Giám Mục Bordeaux, chủ trì nhóm làm việc về giảng dạy Công Giáo bậc đại học, cũng trình bày những kết luận của mình. Cuối cùng, phiên họp quay trở lại vấn đề sinh học, với bài tham luận của đức cha Pierre d’Ornellas, Tổng Giám Mục giáo phận Rennes.
Oscar Romero: ‘Giám mục của người nghèo’
Đoàn Xuân Lộc tổng hợp
11:10 24/03/2010
Hôm nay (24/03) người dân El Salvador tưởng nhớ 30 năm ngày Đức cha Oscar Romero,Tổng giám mục (TGM) của San Salvador, bị sát hại. Ngài đã bị giết hại trong lúc cử hành Thánh lễ tại một bệnh viện ở San Salvador ngày 24/03/1980.
Không chỉ người dân El Salvador mà người Công giáo trên toàn thế giới cũng như tất cả những ai đấu tranh cho công lý, cho người nghèo, cho người thấp cổ bé miệng, hay cho những ai bị bách hại áp bức, đều biết đến Ngài và luôn dành cho Ngài một sự yêu mến, một sự cảm phục đặc biệt.
‘Đứng về phía người nghèo’
Oscar Romero (tên đầy đủ là Óscar Arnulfo Romero y Galdámez) sinh ngày 15/08/1917 trong một gia đình có 8 người con. Khi lên 14 tuổi, Oscar được nhận vào tiểu chủng viện, rồi sau đó được gửi đi học tại Roma và thụ phong linh mục tại đó vào ngày 04/04/1942.
Sau khi thụ phong linh mục cha Romero tiếp tục ở lại Roma để theo học chương trình tiến sĩ thần học. Nhưng vì cuộc nội chiến tại El Salvador và Giáo hội tại nước này thiếu linh mục, ngài được gọi về nước.
Và trong hơn 20 năm sau đó, ngài làm cha xứ và thư ký cho Tòa giám mục San Miguel. Năm 1970, cha Oscar Romero được tấn phong giám mục và làm phụ tá cho Đức cha Chavéz, TGM San Salvador và ngày 23/02/1977, ngài được bổ nhiệm làm TGM của San Salvador.
Việc ngài được chọn làm Giám mục phụ tá và TGM gây ngạc nhiên cho nhiều người. Trong khi một số linh mục, đặc biệt là những linh mục cấp tiến thất vọng thì giới cầm quyền cũng như người giàu có tại El Salvador lại vui mừng.
Vì mãi tới năm 1977, mặc dù được coi là một người đạo đức, nhưng ngài tỏ ra trầm lặng, bảo thủ, và có khuynh hướng cầu an, không dám lên tiếng chống lại những bất công, bạo quyền.
Nhưng chỉ một thời gian sau đó, khi chứng kiến những bất công, áp bức, bạo lực mà những người dân nghèo, những người thấp cổ bé miệng phải chịu, ngài đã thay đổi, không còn im lặng như trước.
Một biến cố quan trọng và quyết định thay đổi lập trường và cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ngài là việc một linh mục dòng Tên, cha Rutilio Grande – một trong những linh mục đầu tiên được ngài truyền chức và là một người can đảm đấu tranh cho những người nghèo – bị sát hại vào ngày 12/03/1977.
Chứng kiến cảnh một linh mục can đảm đấu tranh cho người nghèo bị giết hại như vậy, Ðức cha Romero đã hoàn toàn đứng về phía người nghèo, những người bị đàn áp.
‘Chống bất công, bạo quyền’
Ðể phản đối việc giới cầm quyền tham gia vào các cuộc mưu sát này, ngài đã ra lệnh đóng cửa trường học giáo xứ trong ba ngày và đình hoãn mọi thánh lễ trên toàn quốc trong tuần lễ kế tiếp, ngoại trừ một thánh lễ đặc biệt tại Nhà thờ Chính tòa.
Trong bài giảng tại Thánh lễ đặc biết đó cũng như trong các Thánh lễ Chúa nhật tiếp theo tại Nhà thờ Chính tòa, ngài đã lên tiếng tố cáo những tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên.
Không chỉ giới quân phiệt, tài phiệt mà cả linh mục, giáo dân cũng như người dân El Salvador đều kinh ngạc về thái độ cứng rắn đó của ngài vì từ trước tới giờ chưa một giám mục nào ở đây dám công khai tố cáo giới cầm quyền như vậy.
Những bài giảng đó vừa giáng những đòn chí tử vào giới cầm quyền, vừa thôi thúc những nghèo, những người bị áp bức và những ai bênh vực họ can đảm nói lên tiếng nói của mình. Đó cũng là lý do nhiều linh mục, tu sỹ, giáo dân bị đánh đập, bắt bớ, tra tấn và ám sát.
Điều đó càng làm cho Đức cha Oscar Romero càng cương quyết, mãnh liệt hơn trong việc đấu tranh chống lại bạo quyền.
Để phản đối việc chính phủ liên quan đến hay thinh lặng trước các vụ bắt bớ, giết hại, ngài đã không tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống của nước này. Ngài tuyên bố: “Giáo hội không được đo lường bằng sự hỗ trợ của chính phủ mà bằng chính tính trung thực, tinh thần cầu nguyện theo tinh thần Tin Mừng, lòng tin tưởng, sự chân thành và công lý, nhất là khi Giáo hội chống lại các lạm dụng”.
Một cử chỉ khác được coi là mạnh dạn là việc ngài quyết định cho mở cửa chủng viện tại trung tâm thủ đô San Salvador và ngày thứ hai Phục Sinh năm 1978 để đón tiếp bất cứ nạn nhân nào của các vụ bạo động. Hàng trăm người vô gia cư, đói rách và bị hành hung đã đến chủng viện.
Và một quyết định nữa nói lên việc ngài toàn tâm toàn lực đấu tranh cho công lý, cho người nghèo là việc ngài cho ngưng xây cất nhà thờ Chính tòa San Salvador. Ngài nói: “Khi nào chiến tranh chấm dứt, những người đói khổ được ăn uống đầy đủ và trẻ con được giáo dục, lúc đó chúng ta sẽ tiếp tục xây cất Nhà thờ Chính tòa”.
‘Và chết cho người nghèo’
Chính sự cương quyết và can đảm đó, ngài đã trở thành cái gai trong mắt những người có quyền, có thế lực tại El Salvador. Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Vì với ngài, “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”.
Và khi chấp nhận ‘ở lại’ với dân của mình, với đàn chiên của mình như vậy, ngài biết sớm hay muộn giờ định mệnh kia sẽ đến.
Chiều ngày 24/3/1980, Đức cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Và bài Phúc âm được chọn cho Thánh lễ đó là của Thánh Gioan, trong đó có đoạn: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. .. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải chịu, ngài chia sẽ với cộng đoàn: “Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. .. Bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, người ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài”.
Cũng trong bài chia sẽ cuối cùng ấy, ngài cũng xác tín: “Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi”. Kết thúc bài chia sẽ, ngài tới giữa bàn thờ chuẩn bị dâng bánh rượu thì tiếng súng nổ và ngài đã bị sát hại ngay tại đó.
‘Thách đố cho Giáo hội’?
Vì dám can đảm lên tiếng đấu tranh cho những nghèo, cho những người bị áp bức ở El Salvador ngài thường được ví như là ‘Giám mục của người nghèo’.
Không chỉ thế theo một bài viết của Christine Allen, được đăng trên trang mạng của tờ nhật báo Anh, The Guardian, ngày 20/03/2010, 30 năm sau ngày ngài bị giết hại Đức cha Oscar Romero vẫn còn là một niềm hy vọng cho người nghèo, người bị áp bức.
Theo bài viết đó, cuộc sống và cái chết của ngài ‘dạy cho chúng ta nhiều giá trị tốt đẹp của Kitô giáo. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta trở thành tin mừng cho người nghèo và người bị áp bức trong thế giới hôm nay’.
Nhưng theo Christine Allen cuộc sống và cái chết của Đức cha Oscar Romero cũng đặt ra cho Giáo hội cũng như tất cả các thành viên của mình một thách đố. Đó là liệu ‘chúng ta có dám can đảm lên tiếng và dấn thân phục vụ người khác, và đấu trành để đòi lại công lý cho những người nghèo, những người bị đẩy ra ngoài vòng xã hội cho dù phải đối diện với những mất mát, rủi ro cá nhân’?
Không chỉ người dân El Salvador mà người Công giáo trên toàn thế giới cũng như tất cả những ai đấu tranh cho công lý, cho người nghèo, cho người thấp cổ bé miệng, hay cho những ai bị bách hại áp bức, đều biết đến Ngài và luôn dành cho Ngài một sự yêu mến, một sự cảm phục đặc biệt.
‘Đứng về phía người nghèo’
Oscar Romero (tên đầy đủ là Óscar Arnulfo Romero y Galdámez) sinh ngày 15/08/1917 trong một gia đình có 8 người con. Khi lên 14 tuổi, Oscar được nhận vào tiểu chủng viện, rồi sau đó được gửi đi học tại Roma và thụ phong linh mục tại đó vào ngày 04/04/1942.
Sau khi thụ phong linh mục cha Romero tiếp tục ở lại Roma để theo học chương trình tiến sĩ thần học. Nhưng vì cuộc nội chiến tại El Salvador và Giáo hội tại nước này thiếu linh mục, ngài được gọi về nước.
Và trong hơn 20 năm sau đó, ngài làm cha xứ và thư ký cho Tòa giám mục San Miguel. Năm 1970, cha Oscar Romero được tấn phong giám mục và làm phụ tá cho Đức cha Chavéz, TGM San Salvador và ngày 23/02/1977, ngài được bổ nhiệm làm TGM của San Salvador.
Việc ngài được chọn làm Giám mục phụ tá và TGM gây ngạc nhiên cho nhiều người. Trong khi một số linh mục, đặc biệt là những linh mục cấp tiến thất vọng thì giới cầm quyền cũng như người giàu có tại El Salvador lại vui mừng.
Vì mãi tới năm 1977, mặc dù được coi là một người đạo đức, nhưng ngài tỏ ra trầm lặng, bảo thủ, và có khuynh hướng cầu an, không dám lên tiếng chống lại những bất công, bạo quyền.
Nhưng chỉ một thời gian sau đó, khi chứng kiến những bất công, áp bức, bạo lực mà những người dân nghèo, những người thấp cổ bé miệng phải chịu, ngài đã thay đổi, không còn im lặng như trước.
Một biến cố quan trọng và quyết định thay đổi lập trường và cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ngài là việc một linh mục dòng Tên, cha Rutilio Grande – một trong những linh mục đầu tiên được ngài truyền chức và là một người can đảm đấu tranh cho những người nghèo – bị sát hại vào ngày 12/03/1977.
Chứng kiến cảnh một linh mục can đảm đấu tranh cho người nghèo bị giết hại như vậy, Ðức cha Romero đã hoàn toàn đứng về phía người nghèo, những người bị đàn áp.
‘Chống bất công, bạo quyền’
Ðể phản đối việc giới cầm quyền tham gia vào các cuộc mưu sát này, ngài đã ra lệnh đóng cửa trường học giáo xứ trong ba ngày và đình hoãn mọi thánh lễ trên toàn quốc trong tuần lễ kế tiếp, ngoại trừ một thánh lễ đặc biệt tại Nhà thờ Chính tòa.
Trong bài giảng tại Thánh lễ đặc biết đó cũng như trong các Thánh lễ Chúa nhật tiếp theo tại Nhà thờ Chính tòa, ngài đã lên tiếng tố cáo những tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên.
Không chỉ giới quân phiệt, tài phiệt mà cả linh mục, giáo dân cũng như người dân El Salvador đều kinh ngạc về thái độ cứng rắn đó của ngài vì từ trước tới giờ chưa một giám mục nào ở đây dám công khai tố cáo giới cầm quyền như vậy.
Những bài giảng đó vừa giáng những đòn chí tử vào giới cầm quyền, vừa thôi thúc những nghèo, những người bị áp bức và những ai bênh vực họ can đảm nói lên tiếng nói của mình. Đó cũng là lý do nhiều linh mục, tu sỹ, giáo dân bị đánh đập, bắt bớ, tra tấn và ám sát.
Điều đó càng làm cho Đức cha Oscar Romero càng cương quyết, mãnh liệt hơn trong việc đấu tranh chống lại bạo quyền.
Để phản đối việc chính phủ liên quan đến hay thinh lặng trước các vụ bắt bớ, giết hại, ngài đã không tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống của nước này. Ngài tuyên bố: “Giáo hội không được đo lường bằng sự hỗ trợ của chính phủ mà bằng chính tính trung thực, tinh thần cầu nguyện theo tinh thần Tin Mừng, lòng tin tưởng, sự chân thành và công lý, nhất là khi Giáo hội chống lại các lạm dụng”.
Một cử chỉ khác được coi là mạnh dạn là việc ngài quyết định cho mở cửa chủng viện tại trung tâm thủ đô San Salvador và ngày thứ hai Phục Sinh năm 1978 để đón tiếp bất cứ nạn nhân nào của các vụ bạo động. Hàng trăm người vô gia cư, đói rách và bị hành hung đã đến chủng viện.
Và một quyết định nữa nói lên việc ngài toàn tâm toàn lực đấu tranh cho công lý, cho người nghèo là việc ngài cho ngưng xây cất nhà thờ Chính tòa San Salvador. Ngài nói: “Khi nào chiến tranh chấm dứt, những người đói khổ được ăn uống đầy đủ và trẻ con được giáo dục, lúc đó chúng ta sẽ tiếp tục xây cất Nhà thờ Chính tòa”.
‘Và chết cho người nghèo’
Chính sự cương quyết và can đảm đó, ngài đã trở thành cái gai trong mắt những người có quyền, có thế lực tại El Salvador. Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Vì với ngài, “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”.
Và khi chấp nhận ‘ở lại’ với dân của mình, với đàn chiên của mình như vậy, ngài biết sớm hay muộn giờ định mệnh kia sẽ đến.
Chiều ngày 24/3/1980, Đức cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Và bài Phúc âm được chọn cho Thánh lễ đó là của Thánh Gioan, trong đó có đoạn: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. .. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải chịu, ngài chia sẽ với cộng đoàn: “Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. .. Bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, người ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài”.
Cũng trong bài chia sẽ cuối cùng ấy, ngài cũng xác tín: “Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi”. Kết thúc bài chia sẽ, ngài tới giữa bàn thờ chuẩn bị dâng bánh rượu thì tiếng súng nổ và ngài đã bị sát hại ngay tại đó.
‘Thách đố cho Giáo hội’?
Vì dám can đảm lên tiếng đấu tranh cho những nghèo, cho những người bị áp bức ở El Salvador ngài thường được ví như là ‘Giám mục của người nghèo’.
Không chỉ thế theo một bài viết của Christine Allen, được đăng trên trang mạng của tờ nhật báo Anh, The Guardian, ngày 20/03/2010, 30 năm sau ngày ngài bị giết hại Đức cha Oscar Romero vẫn còn là một niềm hy vọng cho người nghèo, người bị áp bức.
Theo bài viết đó, cuộc sống và cái chết của ngài ‘dạy cho chúng ta nhiều giá trị tốt đẹp của Kitô giáo. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta trở thành tin mừng cho người nghèo và người bị áp bức trong thế giới hôm nay’.
Nhưng theo Christine Allen cuộc sống và cái chết của Đức cha Oscar Romero cũng đặt ra cho Giáo hội cũng như tất cả các thành viên của mình một thách đố. Đó là liệu ‘chúng ta có dám can đảm lên tiếng và dấn thân phục vụ người khác, và đấu trành để đòi lại công lý cho những người nghèo, những người bị đẩy ra ngoài vòng xã hội cho dù phải đối diện với những mất mát, rủi ro cá nhân’?
Suy tư về Năm Linh Mục
Lm Nguyễn Hữu Thy
13:19 24/03/2010
Suy tư về Năm Linh Mục
Từ Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009 cho tới Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2010 (11 tháng 6) đã được Giáo Hội chọn làm Năm Linh Mục để mọi con cái của Giáo Hội, Linh Mục cũng như giáo dân, có dịp nhìn lại và nhận chân được các giá trị chân chính và thánh thiêng của sứ vụ Linh Mục rập theo mẫu mực Đức Kitô, vị Linh Mục tối cao.
1. Đức Kitô muốn luôn có họ ở bên Người
Ngày nay người ta thường nghe các giáo dân thuộc nhiều xứ đạo ở khắp nơi trên thế giới nuối tiếc: „Giáo xứ chúng tôi đã khá lâu rồi không có cha Quản Xứ nữa“. Thực trạng các giáo xứ thiếu Linh Mục phụ trách công tác mục vụ là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của Giáo Hội. Vì thế, trong Giáo Hội đã có nhiều suy tư, nhiều đề nghị và nhiều chương trình canh tân, cải tổ và chỉnh đốn thế này thế kia, hầu mong cho đời sống giáo xứ nói chung và các sinh hoạt mục vụ trong giáo xứ nói riêng vẫn được xuôi chảy bình thường, chứ không bị mất mát, xáo trộn hay trì trệ.
Nhưng ở đây có lẽ người ta cũng cần tự hỏi: Điều gì là trọng tâm của sứ vụ Linh Mục? Hay: sứ vụ quan trọng nhất của người Linh Mục là gì?
Trước những câu hỏi như thế người ta thường trả lời: Sứ vụ chính yếu của Linh Mục là cử hành Thánh Lễ, ban phát các Bí tích, các lễ nghi phụng vụ, thăm viếng và an ủi các người bất hạnh, các người đau ốm bệnh tật hay các người nghèo đói túng thiếu, neo đơn, v.v...!
Những câu trả lời trên đây hay những câu trả lời khác tương tự như thế chắc chắn không sai. Nhưng người ta cũng không nên quên tự hỏi: Mục tiêu đầu tiên mà Đức Kitô nhằm tới khi Người kêu gọi các Tông đồ là gì? Hay: Đức Kitô đã kêu gọi các Tông đồ trước hết là để làm gì?
Tất nhiên câu trả lời phải là: Đức Kitô muốn luôn có họ bên Người, Người muốn cùng họ lập nên một cộng đồng huynh đệ hợp nhất và sống động, một gia đình đầy yêu thương trong tình yêu và sự hợp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dĩ nhiên, Người cũng đã sai họ đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho người khác.
Chúng ta có thể đưa ra một so sánh: Trước khi xuất hiện công khai với các tác phẩm xuất sắc của mình, thì nhà họa sĩ đã phải trau dồi năng khiếu của mình trong bao lâu? Hay: Trước khi xuất hiện trước công chúng, người nghệ sĩ đã phải miệt mài luyện tập nghề nghiệp sân khấu của mình trong bao lâu? Hay: Trước khi tham dự một cuộc thi thế vận hội, nhà thể thao đã phải khổ luyện và tập dượt lâu như thế nào?
Cũng tương tự như thế: Phải sống với Đức Kitô trong bao lâu thì người Linh Mục mới thấm nhuần được giáo huấn của Người và nhất là mới có thể biết rõ về Người và mới có thể yêu mến Người hết lòng và mới có thể nói chính xác về Người cho những người khác?
Dĩ nhiên, một thực tại quá hiển nhiên không thể phủ nhận được, đó là công tác mục vụ của các Linh Mục ngày nay trong các giáo xứ như vừa đề cập tới ở trên là nhiều khi vượt khả năng, nếu không nói là bất khả kham: một mình phải phụ trách nhiều giáo xứ, nên đặc biệt vào các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng phải dâng lễ hết nhà thờ này lại phải đến nhà thờ kia. Tất cả phải cấp tốc vội vàng, phải kịp giờ. Đó là chưa kể đến việc an táng, rửa tội, dạy giáo lý, v.v…
Nhưng kết quả sẽ ra sao, nếu một người nghệ sĩ không còn kiên trì trau dồi công việc nghệ thuật của mình? nếu một nhà thể thao không còn ham thích luyện tập môn thể thao chuyên biệt của mình? Và cũng thế, công tác mục vụ của một người Linh Mục sẽ mang lại được những gì, nếu người Linh Mục không còn sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc suy gẫm lời Chúa, qua các kinh nguyện hằng ngày, qua việc cử hành sốt sắng Bí tích Thánh Thể? Thử hỏi trong trường hợp như thế, thì người Linh Mục vẫn còn có thể san sẻ và thông ban cho những người khác được những gì? Phải chăng ngài vẫn có thể mang Đức Kitô đến cho người khác, trong khi chính ngài lại xa lìa Đức Kitô hay không có quan hệ mật thiết với Người?
Dĩ nhiên, vấn đề được nêu lên ở đây không phải là để chê trách hay phàn nàn, nhưng là để nêu lên những bức xúc và khắc khoải thực tiễn trong đời sống người Linh Mục hôm nay.
2. Sứ vụ Linh Mục là một ơn huệ Thiên Chúa ban nhưng không
Sứ vụ Linh Mục không phải là một „Job“, không phải là một nghề nghiệp, nhưng là một ơn huệ Thiên Chúa ban cho con người một cách nhưng không, chứ hoàn toàn không phải do công trạng hay sự xứng đáng về phía con người. Vì thế, không một ai có thể tự „làm“ cho mình trở thành Linh Mục được, nhưng tuyệt đối do chính Thiên Chúa kêu mời và tuyển chọn. Vâng, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục được lãnh nhận sứ vụ Linh Mục và những ơn huệ cần thiết để ngài thực thi sứ vụ đó một cách xứng đáng và đầy đủ. Một điều quan trọng ở đây là những gì người Linh Mục được lãnh nhận từ Thiên Chúa, là chỉ vì sứ vụ Linh Mục mà thôi, chứ không phải vì việc nên thánh của cá nhân ngài, nghĩa là chỉ cốt giúp cho người Linh Mục thực thi sứ vụ của mình mà thôi. Nói cách khác, những gì người Linh Mục được lãnh nhận, ngài phải tiếp tục thông ban ra cho người khác, chứ ngài không được giữ riêng cho mình.
Để nắm bắt được điều đó, chúng ta có thể làm một ví dụ: Sứ vụ người Linh Mục cũng có thể so sánh với trách nhiệm một huấn luyện viên đối với đội banh của mình. Mà trách nhiệm của một huấn luyện viên là lo sao cho đội banh do ông phụ trách phải có khả năng chơi tốt và mang lại kết quả tốt. Cũng vậy, sứ vụ người Linh Mục là lo sao cho mọi thành phần giáo xứ của ngài thực sự sống đạo sốt sắng, thực sự sống đúng tinh thần Phúc Âm. Dĩ nhiên, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục đã được ban cho đặc sủng (Charisme) để ngài có thể chu toàn được sứ vụ thiêng liêng đó của mình kèm theo sự nổ lực trở nên hoàn thiện mỗi ngày của cá nhân.
3. Rao giảng Lời Chúa và cử hành các Bí tích là hai bổn phận chính yếu của người Linh Mục
Việc rao giảng lời Chúa trong việc cử hành lễ nghi thờ phượng cũng như trong việc cử hành các Bí tích và qua chính đời sống cá nhân là những bổn phận chính yếu của sứ vụ Linh Mục. Dĩ nhiên, ý niệm „lễ nghi thờ phượng„ không bị giới hạn trong việc rao giảng lời Chúa và việc cử hành các Bí tích. Vào thế kỷ IV, thánh Chrysostomus đã nói về điểm này rằng Bí tích Bàn Thờ (Bí tích Thánh Thể) và Bí tích người ghèo khổ (sự thực thi đức bác ái) là chính việc thờ phượng vậy. Bí tích Bàn Thờ phải được cụ thể hóa trong tình yêu đối với người khác. Nhờ thế, „hoa quả“ của Thánh Thể Chúa được trở nên đầy đủ trọn vẹn một cách cụ thể trong cuộc sống.
4. Đồng hành với các Linh Mục bằng kinh nguyện và cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục
Ngày nay, những đòi hỏi nơi các Linh Mục nhiều và đa dạng. Thật vậy, ngoài những bổn phận chính yếu trong sứ vụ tông đồ của mình, người Linh Mục còn phải là:
* một người có tâm hồn cầu nguyện,
* nắm vững các kiến thức thần học,
* đầy lòng thông cảm và nhân hậu của Đức Kitô khi ngồi tòa giải tội,
* hiểu biết và dẫn dắt tốt thanh thiếu niên,
* có lòng kính yêu các bậc lão thành,
* có lòng yêu mến, thông cảm và biết an ủi kẻ đau ốm bệnh tật cũng như người nghèo khổ một cách vô vị lợi,
* điều hành và quản trị tốt các tổ chức và đoàn thể trong giáo xứ.
Vì lý do các trách nhiệm đầy phức tạp, nặng nề và quá tải của đời sống Linh Mục hôm nay trong các giáo xứ, trong khi chính người Linh Mục cũng chỉ là một con người bình thường với các khiếm khuyết như bao người khác, nên các Linh Mục cần được nâng đỡ bằng kinh nguyện hầu các ngài có thể chu toàn được các bổn phận đa dạng của mình.
Bởi vậy, nhiều Dòng Tu và nhiều đoàn thể trong Giáo Hội có điều luật đặc biệt hay truyền thống thánh thiện, là dành một thời giờ nhất định nào đó trong ngày để chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho các Đức Giám Mục và các vị Linh Mục cũng như cho tất cả những ai có trách nhiệm trong Giáo Hội. Những giờ chầu Mình Thánh Chúa và những lời cầu nguyện sốt sắng như thế thực sự là một „dòng điện kinh nguyện“, như Đức Thánh Cha đòi hỏi, vụt bay lên tận Trời Cao, hầu không những làm cho Thiên Chúa củng cố các vị Linh Mục trong sứ vụ của họ mà Người còn tiếp tục kêu mời các thanh thiếu niên biết hăng hái hy sinh chọn lý tưởng sống Linh Mục.
Điều đó cũng muốn xác nhận rằng, cách thức đồng hành và nâng đỡ các Linh Mục cũng như cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục một cách đúng đắn và có hiệu quả nhất là việc tham dự sốt sắng các Thánh Lễ, các giờ chầu Thánh Thể và lần hạt Mân Côi. Vâng, chính những lời cầu nguyện đơn sơ, thành tâm và đầy lòng tin tưởng phó thác là cách thức „làm mủi lòng“ Thiên Chúa nhất, và đồng thời cũng được Người đáp trả lại một cách tương xứng.
5. Đòi hỏi sự can đảm hy sinh
Chính trong thời đại hôm nay, một thời đại thiếu vắng các Linh Mục một cách trầm trọng, người Linh Mục càng cần phải biết hy sinh và quên mình hơn bao giờ hết. Và sự hy sinh quên mình đó được cụ thể hóa không chỉ luôn sẵn sàng vui vẻ ban phát các Bí tích, nhưng còn luôn biết sẵn sàng sống cho người khác như một người bạn chân tình và trung thành nhất, một người bạn không quản ngại hy sinh các quyền lợi cá nhân để giúp đỡ, an ủi và mang lại niềm vui cho người khác khi họ cần đến mình. Bởi vậy, người ta thường so sánh sứ vụ người Linh Mục với bổn phận người lính cứu hỏa: hễ ở đâu và vào bất cứ lúc nào có hỏa hoạn là người lính cứu hỏa đều phải có mặt tại chỗ, vâng, vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu, hễ giáo dân có nhu cầu khẩn cấp và cần đến sự giúp đỡ của Linh Mục, cần được hưởng các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, thì ngài cần phải có mặt.
Ngày 16.6.2009, trong phần mở đầu Tông Thư của ngài, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã viết: „Các Linh Mục không bao giờ được phép chán nản thất vọng khi nhìn thấy tòa giải tội trống vắng hay rút lui khi thấy các tín hữu không còn thiện cảm với Bí tích này nữa“.
Chính trong trường hợp cụ thể ấy, đòi hỏi người Linh Mục phải biết nhẫn nhục hơn bao giờ hết. Nói cách khác, người Linh Mục luôn phải biết sẵn sàng ban phát Bí tích Hòa Giải, sẵn sàng ngồi tòa giải tội bất cứ lúc nào, ngay cả trước hay sau Thánh Lễ. Ngoài ra, ngài còn luôn sẵn sàng hy sinh thời giờ riêng tư cho các nguyện vọng chính đáng của giáo dân, như các dịp tang chế, các vấn đề gia đình, hoàn cảnh thất nghiệp, tản cư, v.v… Nhưng đồng thời người Linh Mục cũng không bao giờ quên sống điều ngài cầu nguyện trong Kinh Nhật Tụng: „Lạy Chúa Kitô, con luôn kết hiệp với Chúa hết cả sức lực và hết cả linh hồn con. Con chỉ yêu mến một mình Chúa, con chỉ tìm kiếm một mình Chúa và con chỉ bước theo một mình Chúa mà thôi“.
Từ Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009 cho tới Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2010 (11 tháng 6) đã được Giáo Hội chọn làm Năm Linh Mục để mọi con cái của Giáo Hội, Linh Mục cũng như giáo dân, có dịp nhìn lại và nhận chân được các giá trị chân chính và thánh thiêng của sứ vụ Linh Mục rập theo mẫu mực Đức Kitô, vị Linh Mục tối cao.
1. Đức Kitô muốn luôn có họ ở bên Người
Ngày nay người ta thường nghe các giáo dân thuộc nhiều xứ đạo ở khắp nơi trên thế giới nuối tiếc: „Giáo xứ chúng tôi đã khá lâu rồi không có cha Quản Xứ nữa“. Thực trạng các giáo xứ thiếu Linh Mục phụ trách công tác mục vụ là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của Giáo Hội. Vì thế, trong Giáo Hội đã có nhiều suy tư, nhiều đề nghị và nhiều chương trình canh tân, cải tổ và chỉnh đốn thế này thế kia, hầu mong cho đời sống giáo xứ nói chung và các sinh hoạt mục vụ trong giáo xứ nói riêng vẫn được xuôi chảy bình thường, chứ không bị mất mát, xáo trộn hay trì trệ.
Nhưng ở đây có lẽ người ta cũng cần tự hỏi: Điều gì là trọng tâm của sứ vụ Linh Mục? Hay: sứ vụ quan trọng nhất của người Linh Mục là gì?
Trước những câu hỏi như thế người ta thường trả lời: Sứ vụ chính yếu của Linh Mục là cử hành Thánh Lễ, ban phát các Bí tích, các lễ nghi phụng vụ, thăm viếng và an ủi các người bất hạnh, các người đau ốm bệnh tật hay các người nghèo đói túng thiếu, neo đơn, v.v...!
Những câu trả lời trên đây hay những câu trả lời khác tương tự như thế chắc chắn không sai. Nhưng người ta cũng không nên quên tự hỏi: Mục tiêu đầu tiên mà Đức Kitô nhằm tới khi Người kêu gọi các Tông đồ là gì? Hay: Đức Kitô đã kêu gọi các Tông đồ trước hết là để làm gì?
Tất nhiên câu trả lời phải là: Đức Kitô muốn luôn có họ bên Người, Người muốn cùng họ lập nên một cộng đồng huynh đệ hợp nhất và sống động, một gia đình đầy yêu thương trong tình yêu và sự hợp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dĩ nhiên, Người cũng đã sai họ đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho người khác.
Chúng ta có thể đưa ra một so sánh: Trước khi xuất hiện công khai với các tác phẩm xuất sắc của mình, thì nhà họa sĩ đã phải trau dồi năng khiếu của mình trong bao lâu? Hay: Trước khi xuất hiện trước công chúng, người nghệ sĩ đã phải miệt mài luyện tập nghề nghiệp sân khấu của mình trong bao lâu? Hay: Trước khi tham dự một cuộc thi thế vận hội, nhà thể thao đã phải khổ luyện và tập dượt lâu như thế nào?
Cũng tương tự như thế: Phải sống với Đức Kitô trong bao lâu thì người Linh Mục mới thấm nhuần được giáo huấn của Người và nhất là mới có thể biết rõ về Người và mới có thể yêu mến Người hết lòng và mới có thể nói chính xác về Người cho những người khác?
Dĩ nhiên, một thực tại quá hiển nhiên không thể phủ nhận được, đó là công tác mục vụ của các Linh Mục ngày nay trong các giáo xứ như vừa đề cập tới ở trên là nhiều khi vượt khả năng, nếu không nói là bất khả kham: một mình phải phụ trách nhiều giáo xứ, nên đặc biệt vào các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng phải dâng lễ hết nhà thờ này lại phải đến nhà thờ kia. Tất cả phải cấp tốc vội vàng, phải kịp giờ. Đó là chưa kể đến việc an táng, rửa tội, dạy giáo lý, v.v…
Nhưng kết quả sẽ ra sao, nếu một người nghệ sĩ không còn kiên trì trau dồi công việc nghệ thuật của mình? nếu một nhà thể thao không còn ham thích luyện tập môn thể thao chuyên biệt của mình? Và cũng thế, công tác mục vụ của một người Linh Mục sẽ mang lại được những gì, nếu người Linh Mục không còn sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc suy gẫm lời Chúa, qua các kinh nguyện hằng ngày, qua việc cử hành sốt sắng Bí tích Thánh Thể? Thử hỏi trong trường hợp như thế, thì người Linh Mục vẫn còn có thể san sẻ và thông ban cho những người khác được những gì? Phải chăng ngài vẫn có thể mang Đức Kitô đến cho người khác, trong khi chính ngài lại xa lìa Đức Kitô hay không có quan hệ mật thiết với Người?
Dĩ nhiên, vấn đề được nêu lên ở đây không phải là để chê trách hay phàn nàn, nhưng là để nêu lên những bức xúc và khắc khoải thực tiễn trong đời sống người Linh Mục hôm nay.
2. Sứ vụ Linh Mục là một ơn huệ Thiên Chúa ban nhưng không
Sứ vụ Linh Mục không phải là một „Job“, không phải là một nghề nghiệp, nhưng là một ơn huệ Thiên Chúa ban cho con người một cách nhưng không, chứ hoàn toàn không phải do công trạng hay sự xứng đáng về phía con người. Vì thế, không một ai có thể tự „làm“ cho mình trở thành Linh Mục được, nhưng tuyệt đối do chính Thiên Chúa kêu mời và tuyển chọn. Vâng, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục được lãnh nhận sứ vụ Linh Mục và những ơn huệ cần thiết để ngài thực thi sứ vụ đó một cách xứng đáng và đầy đủ. Một điều quan trọng ở đây là những gì người Linh Mục được lãnh nhận từ Thiên Chúa, là chỉ vì sứ vụ Linh Mục mà thôi, chứ không phải vì việc nên thánh của cá nhân ngài, nghĩa là chỉ cốt giúp cho người Linh Mục thực thi sứ vụ của mình mà thôi. Nói cách khác, những gì người Linh Mục được lãnh nhận, ngài phải tiếp tục thông ban ra cho người khác, chứ ngài không được giữ riêng cho mình.
Để nắm bắt được điều đó, chúng ta có thể làm một ví dụ: Sứ vụ người Linh Mục cũng có thể so sánh với trách nhiệm một huấn luyện viên đối với đội banh của mình. Mà trách nhiệm của một huấn luyện viên là lo sao cho đội banh do ông phụ trách phải có khả năng chơi tốt và mang lại kết quả tốt. Cũng vậy, sứ vụ người Linh Mục là lo sao cho mọi thành phần giáo xứ của ngài thực sự sống đạo sốt sắng, thực sự sống đúng tinh thần Phúc Âm. Dĩ nhiên, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục đã được ban cho đặc sủng (Charisme) để ngài có thể chu toàn được sứ vụ thiêng liêng đó của mình kèm theo sự nổ lực trở nên hoàn thiện mỗi ngày của cá nhân.
3. Rao giảng Lời Chúa và cử hành các Bí tích là hai bổn phận chính yếu của người Linh Mục
Việc rao giảng lời Chúa trong việc cử hành lễ nghi thờ phượng cũng như trong việc cử hành các Bí tích và qua chính đời sống cá nhân là những bổn phận chính yếu của sứ vụ Linh Mục. Dĩ nhiên, ý niệm „lễ nghi thờ phượng„ không bị giới hạn trong việc rao giảng lời Chúa và việc cử hành các Bí tích. Vào thế kỷ IV, thánh Chrysostomus đã nói về điểm này rằng Bí tích Bàn Thờ (Bí tích Thánh Thể) và Bí tích người ghèo khổ (sự thực thi đức bác ái) là chính việc thờ phượng vậy. Bí tích Bàn Thờ phải được cụ thể hóa trong tình yêu đối với người khác. Nhờ thế, „hoa quả“ của Thánh Thể Chúa được trở nên đầy đủ trọn vẹn một cách cụ thể trong cuộc sống.
4. Đồng hành với các Linh Mục bằng kinh nguyện và cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục
Ngày nay, những đòi hỏi nơi các Linh Mục nhiều và đa dạng. Thật vậy, ngoài những bổn phận chính yếu trong sứ vụ tông đồ của mình, người Linh Mục còn phải là:
* một người có tâm hồn cầu nguyện,
* nắm vững các kiến thức thần học,
* đầy lòng thông cảm và nhân hậu của Đức Kitô khi ngồi tòa giải tội,
* hiểu biết và dẫn dắt tốt thanh thiếu niên,
* có lòng kính yêu các bậc lão thành,
* có lòng yêu mến, thông cảm và biết an ủi kẻ đau ốm bệnh tật cũng như người nghèo khổ một cách vô vị lợi,
* điều hành và quản trị tốt các tổ chức và đoàn thể trong giáo xứ.
Vì lý do các trách nhiệm đầy phức tạp, nặng nề và quá tải của đời sống Linh Mục hôm nay trong các giáo xứ, trong khi chính người Linh Mục cũng chỉ là một con người bình thường với các khiếm khuyết như bao người khác, nên các Linh Mục cần được nâng đỡ bằng kinh nguyện hầu các ngài có thể chu toàn được các bổn phận đa dạng của mình.
Bởi vậy, nhiều Dòng Tu và nhiều đoàn thể trong Giáo Hội có điều luật đặc biệt hay truyền thống thánh thiện, là dành một thời giờ nhất định nào đó trong ngày để chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho các Đức Giám Mục và các vị Linh Mục cũng như cho tất cả những ai có trách nhiệm trong Giáo Hội. Những giờ chầu Mình Thánh Chúa và những lời cầu nguyện sốt sắng như thế thực sự là một „dòng điện kinh nguyện“, như Đức Thánh Cha đòi hỏi, vụt bay lên tận Trời Cao, hầu không những làm cho Thiên Chúa củng cố các vị Linh Mục trong sứ vụ của họ mà Người còn tiếp tục kêu mời các thanh thiếu niên biết hăng hái hy sinh chọn lý tưởng sống Linh Mục.
Điều đó cũng muốn xác nhận rằng, cách thức đồng hành và nâng đỡ các Linh Mục cũng như cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục một cách đúng đắn và có hiệu quả nhất là việc tham dự sốt sắng các Thánh Lễ, các giờ chầu Thánh Thể và lần hạt Mân Côi. Vâng, chính những lời cầu nguyện đơn sơ, thành tâm và đầy lòng tin tưởng phó thác là cách thức „làm mủi lòng“ Thiên Chúa nhất, và đồng thời cũng được Người đáp trả lại một cách tương xứng.
5. Đòi hỏi sự can đảm hy sinh
Chính trong thời đại hôm nay, một thời đại thiếu vắng các Linh Mục một cách trầm trọng, người Linh Mục càng cần phải biết hy sinh và quên mình hơn bao giờ hết. Và sự hy sinh quên mình đó được cụ thể hóa không chỉ luôn sẵn sàng vui vẻ ban phát các Bí tích, nhưng còn luôn biết sẵn sàng sống cho người khác như một người bạn chân tình và trung thành nhất, một người bạn không quản ngại hy sinh các quyền lợi cá nhân để giúp đỡ, an ủi và mang lại niềm vui cho người khác khi họ cần đến mình. Bởi vậy, người ta thường so sánh sứ vụ người Linh Mục với bổn phận người lính cứu hỏa: hễ ở đâu và vào bất cứ lúc nào có hỏa hoạn là người lính cứu hỏa đều phải có mặt tại chỗ, vâng, vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu, hễ giáo dân có nhu cầu khẩn cấp và cần đến sự giúp đỡ của Linh Mục, cần được hưởng các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, thì ngài cần phải có mặt.
Ngày 16.6.2009, trong phần mở đầu Tông Thư của ngài, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã viết: „Các Linh Mục không bao giờ được phép chán nản thất vọng khi nhìn thấy tòa giải tội trống vắng hay rút lui khi thấy các tín hữu không còn thiện cảm với Bí tích này nữa“.
Chính trong trường hợp cụ thể ấy, đòi hỏi người Linh Mục phải biết nhẫn nhục hơn bao giờ hết. Nói cách khác, người Linh Mục luôn phải biết sẵn sàng ban phát Bí tích Hòa Giải, sẵn sàng ngồi tòa giải tội bất cứ lúc nào, ngay cả trước hay sau Thánh Lễ. Ngoài ra, ngài còn luôn sẵn sàng hy sinh thời giờ riêng tư cho các nguyện vọng chính đáng của giáo dân, như các dịp tang chế, các vấn đề gia đình, hoàn cảnh thất nghiệp, tản cư, v.v… Nhưng đồng thời người Linh Mục cũng không bao giờ quên sống điều ngài cầu nguyện trong Kinh Nhật Tụng: „Lạy Chúa Kitô, con luôn kết hiệp với Chúa hết cả sức lực và hết cả linh hồn con. Con chỉ yêu mến một mình Chúa, con chỉ tìm kiếm một mình Chúa và con chỉ bước theo một mình Chúa mà thôi“.
Tự do Tôn giáo không yêu cầu phải thế tục hóa hoàn toàn
Dominic David Trần
14:40 24/03/2010
Tự do Tôn giáo không yêu cầu phải thế tục hóa hoàn toàn
Liên Hiệp Quốc, Geneva, Thụy Sĩ, ngày 24 tháng Ba, 2010 (CNA); theo tin Thông Tấn Xã Công giáo toàn cầu, Đức Tổng Giám mục Silvano M. Tomasi, Trưởng phái bộ Đại diện Tòa Thánh tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc, Geneva đã cổ động cho một dạng thức của Tự do Tôn giáo mà không đòi hỏi phải "Thế tục hóa hoàn toàn" nhưng nhìn nhận Tôn giáo như một "Chiếc Cầu" nối liền các Quyền của Con Người. Đức TGM Tomai cũng chỉ trích những luật lệ lập ra chống lại "Sự phỉ báng tôn giáo" là mập mờ-và vì không rõ ràng nên đã mở đường cho việc lạm dụng những luật lệ này để đàn áp và sách nhiễu những tôn giáo có ít tín đồ hay chiếm phần nhỏ trong dân số.
Đức Tổng Giám mục Silvano M. Tomasi,- Đại diện Thường Trực của Tòa Thánh Vatican tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và vớiTất cả Các Tổ chức Quốc tế khác có trụ sở tại Geneva- đã đọc diễn văn tại Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong ngày thứ Hai 22 tháng Ba. Bài nhận định của ngài trả lời cho việc thanh tra sự triển khai và thực thi bản Tuyên Bố Nhân quyền thế giới đã được lập ra tại Hội nghị ở Dubai.
Đức TGM Tomasi giải thích: " Đã có những thí dụ điển hình về việc chế giễu các tôn giáo, thiếu kính trọng các biểu tượng cũng như các đặc tính của các tôn giáo, phân biệt đối xử và giết chết những tín đồ tại những nơi mà họ chỉ là thiểu số, và nhận thức tiêu cực về tôn giáo trở thành phổ biến trong các vũ đài chính trị công cộng đã phá hoại sự cùng tồn tại trong hòa bình và làm thương tổn tình cảm của những thành phần chiếm vị trí quan trọng hơn trong gia đình nhân loại và cộng đồng thế giới."
Đức TGM Tomasi tiếp lời: " Tự do Tôn giáo bảo vệ việc thực thi Đức Tin và niềm tin của mỗi cá nhân và tập thể. Hơn thế nữa, " các giá trị của tôn giáo là chiếc cầu xây dựng cho tất cả các quyền của con người và vì tất cả các quyền của con người." bằng cách cho phép mỗi cá nhân con người dù là nam hay là nữ tự định hướng chính họ theo "những gì là Chân Lý và Thực Tại" hay sự thật và thực tế. Ngài bổ sung thêm;
"Nhân phẩm Con người là gốc rễ trong sự thống nhất giữa Thần tính và Vật tính, là sự hợp nhất giữa tính thánh thiêng và tính thế tục của con người. Việc tôn trọng Quyền Tự do Tôn giáo của mọi người không đòi buộc phải hoàn toàn thế tục hóa khung cảnh công cộng hay xóa bỏ tất cả các truyền thống tập tục văn hoá, cũng như không để quyền tự do phát biểu cảm tưởng cho phép hay cho quyền bày tỏ sự thiếu kính trọng những giá trị chung đã được chia xẻ bởi mội xã hội cá biệt nào đó. "
Đức TGM Tomasi phủ nhận việc cho rằng Nhà nước hay các chính phủ có thể trở thành "một trọng tài phân định về tính đúng đắn của tôn giáo" qua các quyết định các vấn đề thuộc Thần học hay Thuyết giáo. Đức TGM Tomasi tuyên bố rằng nếu Chính phủ hay Nhà nước trở thành Trọng tài Tôn giáo- điều này nếu có xảy ra- thì tự chính nó đã là sự chối bỏ và phủ nhận Tự do Tôn giáo rồi.
Đức TGM tuyên bố rằng các ý niệm mập mờ của sự phỉ báng tôn giáo" đã được dùng để chiến đấu với những thái độ công kích tôn giáo nhưng đã chọn con đường xa lìa tính phổ quát của nhân loại và vì thế ý niệm ấy không phải là một sự hỗ trợ cho một giải pháp hữu hiệu và thỏa đáng.
Ngài thận trọng lưu ý hội nghị rằng; " Hiện có thêm một cơ nguy thực sự nữa-đó là việc diễn dịch những gì mà sự phỉ báng tôn giáo đòi hỏi có thể thay đổi tùy theo thái độ của người hay cơ quan kiểm duyệt đối với các Tôn giáo hay tín ngưỡng, và giá thường phải trả cho sự thay đổi diễn dịch bi thảm ấy là bằng sinh mạng của những công dân tín đồ thuộc thành phần thiểu số. Đức TGM Tomasi tuyên bố rằng "điều này chính là hoàn cảnh bất hạnh đã xảy ra trong những quốc gia hay nhà nước đã lẫn lộn và không phân biệt rõ ràng giữa các vấn đề dân sự và tôn giáo."
Các Nhà nước hay quốc gia tự đồng nhất hay xác định với một tôn giáo hoặc theo một giáo phái nào đó sẽ diễn dịch sự phỉ báng tôn giáo theo sự kết luận và phán đoán của riêng họ và "không thể tránh khỏi được" việc họ đối xử phân biệt với những công dân đã không cùng chia xẻ cái lối diễn dịch và luận đoán của họ. Đức TGM Tomasi biện luận rằng, cái ý niệm " sự phỉ báng tôn giáo hay báng bổ đạo lý" này của họ chỉ dẫn đến những sự đàn áp và bách hại tín đồ thuộc về nhóm dân thiểu số ở trong nước họ mà thôi.
Đức Tổng Giám mục kết luận; "Tòa Thánh kêu gọi các quốc gia hội viên của Hội Đồng đáng kính này làm sao để chuyển hóa những biến cố bất hạnh về bất khoan dung trong tôn giáo và văn hoá và rằng để đưa đến một cơ hội cam kết mới trong đối thoại và dấn thân vì sự tái khẳng định các Quyền và các giá trị thuộc về một Cộng đoàn Đức Tin hay một cộng đồng tín ngưỡng."
Liên Hiệp Quốc, Geneva, Thụy Sĩ, ngày 24 tháng Ba, 2010 (CNA); theo tin Thông Tấn Xã Công giáo toàn cầu, Đức Tổng Giám mục Silvano M. Tomasi, Trưởng phái bộ Đại diện Tòa Thánh tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc, Geneva đã cổ động cho một dạng thức của Tự do Tôn giáo mà không đòi hỏi phải "Thế tục hóa hoàn toàn" nhưng nhìn nhận Tôn giáo như một "Chiếc Cầu" nối liền các Quyền của Con Người. Đức TGM Tomai cũng chỉ trích những luật lệ lập ra chống lại "Sự phỉ báng tôn giáo" là mập mờ-và vì không rõ ràng nên đã mở đường cho việc lạm dụng những luật lệ này để đàn áp và sách nhiễu những tôn giáo có ít tín đồ hay chiếm phần nhỏ trong dân số.
Đức TGM Silvano Tomasi |
Đức TGM Tomasi giải thích: " Đã có những thí dụ điển hình về việc chế giễu các tôn giáo, thiếu kính trọng các biểu tượng cũng như các đặc tính của các tôn giáo, phân biệt đối xử và giết chết những tín đồ tại những nơi mà họ chỉ là thiểu số, và nhận thức tiêu cực về tôn giáo trở thành phổ biến trong các vũ đài chính trị công cộng đã phá hoại sự cùng tồn tại trong hòa bình và làm thương tổn tình cảm của những thành phần chiếm vị trí quan trọng hơn trong gia đình nhân loại và cộng đồng thế giới."
Đức TGM Tomasi tiếp lời: " Tự do Tôn giáo bảo vệ việc thực thi Đức Tin và niềm tin của mỗi cá nhân và tập thể. Hơn thế nữa, " các giá trị của tôn giáo là chiếc cầu xây dựng cho tất cả các quyền của con người và vì tất cả các quyền của con người." bằng cách cho phép mỗi cá nhân con người dù là nam hay là nữ tự định hướng chính họ theo "những gì là Chân Lý và Thực Tại" hay sự thật và thực tế. Ngài bổ sung thêm;
"Nhân phẩm Con người là gốc rễ trong sự thống nhất giữa Thần tính và Vật tính, là sự hợp nhất giữa tính thánh thiêng và tính thế tục của con người. Việc tôn trọng Quyền Tự do Tôn giáo của mọi người không đòi buộc phải hoàn toàn thế tục hóa khung cảnh công cộng hay xóa bỏ tất cả các truyền thống tập tục văn hoá, cũng như không để quyền tự do phát biểu cảm tưởng cho phép hay cho quyền bày tỏ sự thiếu kính trọng những giá trị chung đã được chia xẻ bởi mội xã hội cá biệt nào đó. "
Đức TGM Tomasi phủ nhận việc cho rằng Nhà nước hay các chính phủ có thể trở thành "một trọng tài phân định về tính đúng đắn của tôn giáo" qua các quyết định các vấn đề thuộc Thần học hay Thuyết giáo. Đức TGM Tomasi tuyên bố rằng nếu Chính phủ hay Nhà nước trở thành Trọng tài Tôn giáo- điều này nếu có xảy ra- thì tự chính nó đã là sự chối bỏ và phủ nhận Tự do Tôn giáo rồi.
Đức TGM tuyên bố rằng các ý niệm mập mờ của sự phỉ báng tôn giáo" đã được dùng để chiến đấu với những thái độ công kích tôn giáo nhưng đã chọn con đường xa lìa tính phổ quát của nhân loại và vì thế ý niệm ấy không phải là một sự hỗ trợ cho một giải pháp hữu hiệu và thỏa đáng.
Ngài thận trọng lưu ý hội nghị rằng; " Hiện có thêm một cơ nguy thực sự nữa-đó là việc diễn dịch những gì mà sự phỉ báng tôn giáo đòi hỏi có thể thay đổi tùy theo thái độ của người hay cơ quan kiểm duyệt đối với các Tôn giáo hay tín ngưỡng, và giá thường phải trả cho sự thay đổi diễn dịch bi thảm ấy là bằng sinh mạng của những công dân tín đồ thuộc thành phần thiểu số. Đức TGM Tomasi tuyên bố rằng "điều này chính là hoàn cảnh bất hạnh đã xảy ra trong những quốc gia hay nhà nước đã lẫn lộn và không phân biệt rõ ràng giữa các vấn đề dân sự và tôn giáo."
Các Nhà nước hay quốc gia tự đồng nhất hay xác định với một tôn giáo hoặc theo một giáo phái nào đó sẽ diễn dịch sự phỉ báng tôn giáo theo sự kết luận và phán đoán của riêng họ và "không thể tránh khỏi được" việc họ đối xử phân biệt với những công dân đã không cùng chia xẻ cái lối diễn dịch và luận đoán của họ. Đức TGM Tomasi biện luận rằng, cái ý niệm " sự phỉ báng tôn giáo hay báng bổ đạo lý" này của họ chỉ dẫn đến những sự đàn áp và bách hại tín đồ thuộc về nhóm dân thiểu số ở trong nước họ mà thôi.
Đức Tổng Giám mục kết luận; "Tòa Thánh kêu gọi các quốc gia hội viên của Hội Đồng đáng kính này làm sao để chuyển hóa những biến cố bất hạnh về bất khoan dung trong tôn giáo và văn hoá và rằng để đưa đến một cơ hội cam kết mới trong đối thoại và dấn thân vì sự tái khẳng định các Quyền và các giá trị thuộc về một Cộng đoàn Đức Tin hay một cộng đồng tín ngưỡng."
Học để biết Yêu thương là điểm trung tâm của Đức Tin và Đời sống Kitô hữu
Dominic David Trần
17:52 24/03/2010
Học để biết Yêu thương là điểm trung tâm của Đức Tin và Đời sống Kitô hữu
VATICAN, ngày 24 tháng Ba năm 2010 theo Thông Tấn Xã toàn cầu (CWN) trong một điện văn gởi đến Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đang được tổ chức trong tuần này tại Thành phố Rocca di Papa, nước Ý, Đức Thánh Cha Benedicto thứ 16 nói rằng Học tập để biết Ý nghĩa Chân thực của Tình Yêu là " Trung tâm điểm của Đức Tin và Đời sống Kitô hữu."
Trong điện văn gởi đến Đức Hồng Y Stanislaw Rylko, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân của Tòa Thánh- người điều hợp Đại hội trong tuần này- Đức Thánh Cha đặc biệt khuyến khích các thanh niên trẻ suy nghĩ đến việc trở thành Linh Mục. Đức Thánh Cha nói rõ rằng cha Thánh Gioan Mary Vianney, Cha Sở họ Ars, đã có nói rằng, " Việc trở thành Linh Mục chính là Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu."
Công nhận rằng phần lớn các thanh niên tham dự diễn đàn Đại hội này sẽ theo đuổi ơn gọi hôn nhân gia đình, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở giới trẻ rằng đời sống hôn nhân Thiên Chúa Giáo đòi hỏi một cam kết bền vững và chắc chắn, cho dù xã hội hôm nay thường xuyên không ủng hộ và cũng chẳng công nhận hôn nhân là điều cam kết bền vững.
Đức Thánh Cha nói rõ thêm rằng; " Trong một khung cảnh xã hội mà trong đó có nhiều người coi việc đời sống hôn nhân như là một hợp đồng chung sống tạm thời nên đã có thể bị xé bỏ. Vì vậy điều quan trọng có tính sống còn là phải học để hiểu biết rằng Tình Yêu chân chính là sự trung thành, và thủy chung trong hôn nhân tự nó thực sự là một qùa tặng chắc chắn, một hồng ân. "
VATICAN, ngày 24 tháng Ba năm 2010 theo Thông Tấn Xã toàn cầu (CWN) trong một điện văn gởi đến Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đang được tổ chức trong tuần này tại Thành phố Rocca di Papa, nước Ý, Đức Thánh Cha Benedicto thứ 16 nói rằng Học tập để biết Ý nghĩa Chân thực của Tình Yêu là " Trung tâm điểm của Đức Tin và Đời sống Kitô hữu."
Trong điện văn gởi đến Đức Hồng Y Stanislaw Rylko, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân của Tòa Thánh- người điều hợp Đại hội trong tuần này- Đức Thánh Cha đặc biệt khuyến khích các thanh niên trẻ suy nghĩ đến việc trở thành Linh Mục. Đức Thánh Cha nói rõ rằng cha Thánh Gioan Mary Vianney, Cha Sở họ Ars, đã có nói rằng, " Việc trở thành Linh Mục chính là Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu."
Công nhận rằng phần lớn các thanh niên tham dự diễn đàn Đại hội này sẽ theo đuổi ơn gọi hôn nhân gia đình, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở giới trẻ rằng đời sống hôn nhân Thiên Chúa Giáo đòi hỏi một cam kết bền vững và chắc chắn, cho dù xã hội hôm nay thường xuyên không ủng hộ và cũng chẳng công nhận hôn nhân là điều cam kết bền vững.
Đức Thánh Cha nói rõ thêm rằng; " Trong một khung cảnh xã hội mà trong đó có nhiều người coi việc đời sống hôn nhân như là một hợp đồng chung sống tạm thời nên đã có thể bị xé bỏ. Vì vậy điều quan trọng có tính sống còn là phải học để hiểu biết rằng Tình Yêu chân chính là sự trung thành, và thủy chung trong hôn nhân tự nó thực sự là một qùa tặng chắc chắn, một hồng ân. "
Các gia đình được mời gọi theo gương Mẹ Maria
Bùi Hữu Thư
20:43 24/03/2010
VATICAN, ngày 24 tháng 3, 2010 (Zenit.org).- Ghi nhận là ngày Thứ Năm là ngày Lễ Truyền Tin, Đức Thánh Cha Benedict XVI khuyến khích các cặp vợ chồng trẻ hãy noi gương Mẹ Maria để xây dựng gia đình trên nền tảng tình yêu và các giá trị Kitô giáo.
Đức Thánh Cha nói như vậy ngày hôm nay vào cuối buổi triều kiến chung, trong khi ngài chào mừng theo thông lệ, giới trẻ, người bệnh và các cặp tân hôn.
Ngài nói: "Xin cho Lễ Truyền Tin chúng ta cử hành ngày mai sẽ là lời mời gọi cho tất cả mọi người theo gương Mẹ Maria Cực Thánh.”
Đức Thánh Cha nói: "Đối với các bạn trẻ, xin cho điều này được diễn giải thành việc đáp trả nhanh chóng lời mời gọi của Chúa Cha, để cho các bạn có thể trở thành men Phúc Âm cho xã hội chúng ta.”
Ngài mời các bệnh nhân coi ngày lễ trọng này như “một sự thúc đẩy để canh tân sự chấp nhận bình thản và tin tưởng vào Thánh Ý Chúa và biến cải những đau khổ thành phương tiện để cho toàn thể nhân loại được cứu rỗi.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói với các cặp vợ chồng mới cưới, với một số đang mặc áo cưới: “Hỡi các cặp tân hôn! Chớ gì lời “Xin Vâng” của Mẹ Maria thôi thúc các bạn, để các bạn ngày càng thêm cam kết đại lượng cho việc xây dựng một gia đình dựa trên nền tảng của tình yêu lứa đôi và các giá trị vịnh cửu của Kitô giáo.”
Đức Thánh Cha nói như vậy ngày hôm nay vào cuối buổi triều kiến chung, trong khi ngài chào mừng theo thông lệ, giới trẻ, người bệnh và các cặp tân hôn.
Ngài nói: "Xin cho Lễ Truyền Tin chúng ta cử hành ngày mai sẽ là lời mời gọi cho tất cả mọi người theo gương Mẹ Maria Cực Thánh.”
Đức Thánh Cha nói: "Đối với các bạn trẻ, xin cho điều này được diễn giải thành việc đáp trả nhanh chóng lời mời gọi của Chúa Cha, để cho các bạn có thể trở thành men Phúc Âm cho xã hội chúng ta.”
Ngài mời các bệnh nhân coi ngày lễ trọng này như “một sự thúc đẩy để canh tân sự chấp nhận bình thản và tin tưởng vào Thánh Ý Chúa và biến cải những đau khổ thành phương tiện để cho toàn thể nhân loại được cứu rỗi.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói với các cặp vợ chồng mới cưới, với một số đang mặc áo cưới: “Hỡi các cặp tân hôn! Chớ gì lời “Xin Vâng” của Mẹ Maria thôi thúc các bạn, để các bạn ngày càng thêm cam kết đại lượng cho việc xây dựng một gia đình dựa trên nền tảng của tình yêu lứa đôi và các giá trị vịnh cửu của Kitô giáo.”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ đặt viên đá đầu tiên nhà thờ Gia Huynh
Hồng Hương
11:34 24/03/2010
Sáng ngày 23.3.2010, Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã đến cử hành Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây mới nhà thờ giáo họ Gia Huynh, hạt Tánh Linh, GP Phan Thiết. Cùng đồng tế với Đức Cha có Quý cha Hạt trưởng, 35 linh mục. Giáo họ Gia Huynh cũng vui mừng đón tiếp quý tu sĩ, chủng sinh, quan khách và ân nhân xa gần đến hiệp dâng Thánh lễ.
Trước khi thánh lễ bắt đầu, vị đại diện đọc vài nét sơ lược hình thành giáo họ Gia Huynh (xem chi tiết bài sơ lược kèm theo). Đức Cha Giuse có lời chào mừng quý quan khách, tiếp đến là chúc mừng niềm vui mới của anh chị em giáo họ Gia Huynh. Ngài rất xúc động vì chỉ hơn 1 tháng trước đây, nơi này còn là những ụ đất và cây cối ngổn ngang, nhưng với sự đồng tâm hiệp sức của cha xứ Tánh Linh FX Nguyễn Quang Minh (kiêm giáo họ Gia Huynh) và anh chị em giáo dân đã biến bãi đất bừa bộn đó thành một nơi rộng rãi với khán đài khang trang cho thánh lễ hôm nay. Những cố gắng và lời cầu nguyện của cộng đoàn đã được Thiên Chúa chúc lành.Trong bài giảng, Đức Cha nhấn mạnh đến việc đặt viên đá đầu tiên bao gồm nhiều ý nghĩa mà cộng đoàn cần ý thức để sống: Viên đá đầu tiên xây dựng ngôi nhà thờ chính là xây dựng một công trình biểu thị Thiên Chúa ở giữa dân Người và nhà thờ là điểm hẹn của Thiên Chúa với dân Người; Nhà thờ là dấu chỉ dấu hiệu Giáo hội địa phương sống động tại nơi đây thể hiện qua các sinh hoạt nội tâm và cộng đồng và Nhà thờ còn là điểm quy chiếu vật chất và tinh thần cho người dân nơi đây.
Đức Cha Giuse rất tâm lý vì ngài biết cha sở và giáo dân mừng đó nhưng nỗi lo cũng nặng trĩu đó vì theo cách ví von của ngài “viên đá đầu tiên” cũng là “viên đá tiền đâu”. Nhưng với châm ngôn “1 cây làm chẳng nên non, 3 cây chụm lại ….”, ba cây đó là: cây tự lực của chính từng người giáo dân trong giáo họ, cây trợ lực của các giáo xứ-giáo họ xung quanh, và cây vạn lực là chính sự quảng đại chia sẻ đóng góp của quý ân nhân xa gần. Đức Cha còn nhắn nhủ mọi người trong giáo họ sống ý nghĩa tên gọi giáo họ mình: Gia Huynh có nghĩa là tình huynh đệ liên kết nồng ấm trong gia đình. Ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ chúc lành và cho công trình nhà thờ này sớm được hoàn công.
Kết thúc Thánh lễ, cha Minh đại diện bà con giáo dân tri ân Đức Cha, Quý Cha, Quý ân nhân đã đến hiệp dâng thánh lễ và xin tiếp tục cầu nguyện cùng quảng đại giúp đỡ để công trình sớm hoàn tất mang lại niềm vui cho bà con giáo dân nơi vùng sâu xa xôi
Trước khi thánh lễ bắt đầu, vị đại diện đọc vài nét sơ lược hình thành giáo họ Gia Huynh (xem chi tiết bài sơ lược kèm theo). Đức Cha Giuse có lời chào mừng quý quan khách, tiếp đến là chúc mừng niềm vui mới của anh chị em giáo họ Gia Huynh. Ngài rất xúc động vì chỉ hơn 1 tháng trước đây, nơi này còn là những ụ đất và cây cối ngổn ngang, nhưng với sự đồng tâm hiệp sức của cha xứ Tánh Linh FX Nguyễn Quang Minh (kiêm giáo họ Gia Huynh) và anh chị em giáo dân đã biến bãi đất bừa bộn đó thành một nơi rộng rãi với khán đài khang trang cho thánh lễ hôm nay. Những cố gắng và lời cầu nguyện của cộng đoàn đã được Thiên Chúa chúc lành.Trong bài giảng, Đức Cha nhấn mạnh đến việc đặt viên đá đầu tiên bao gồm nhiều ý nghĩa mà cộng đoàn cần ý thức để sống: Viên đá đầu tiên xây dựng ngôi nhà thờ chính là xây dựng một công trình biểu thị Thiên Chúa ở giữa dân Người và nhà thờ là điểm hẹn của Thiên Chúa với dân Người; Nhà thờ là dấu chỉ dấu hiệu Giáo hội địa phương sống động tại nơi đây thể hiện qua các sinh hoạt nội tâm và cộng đồng và Nhà thờ còn là điểm quy chiếu vật chất và tinh thần cho người dân nơi đây.
Đức Cha Giuse rất tâm lý vì ngài biết cha sở và giáo dân mừng đó nhưng nỗi lo cũng nặng trĩu đó vì theo cách ví von của ngài “viên đá đầu tiên” cũng là “viên đá tiền đâu”. Nhưng với châm ngôn “1 cây làm chẳng nên non, 3 cây chụm lại ….”, ba cây đó là: cây tự lực của chính từng người giáo dân trong giáo họ, cây trợ lực của các giáo xứ-giáo họ xung quanh, và cây vạn lực là chính sự quảng đại chia sẻ đóng góp của quý ân nhân xa gần. Đức Cha còn nhắn nhủ mọi người trong giáo họ sống ý nghĩa tên gọi giáo họ mình: Gia Huynh có nghĩa là tình huynh đệ liên kết nồng ấm trong gia đình. Ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ chúc lành và cho công trình nhà thờ này sớm được hoàn công.
Kết thúc Thánh lễ, cha Minh đại diện bà con giáo dân tri ân Đức Cha, Quý Cha, Quý ân nhân đã đến hiệp dâng thánh lễ và xin tiếp tục cầu nguyện cùng quảng đại giúp đỡ để công trình sớm hoàn tất mang lại niềm vui cho bà con giáo dân nơi vùng sâu xa xôi
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hạ viện Hoa Kỳ điều trần về nhân quyền Việt Nam
Thanh Quang / RFA
21:37 24/03/2010
Hạ viện Hoa Kỳ điều trần về nhân quyền Việt Nam
Hôm 23-3, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thuộc Hạ viện Hoa Kỳ tổ chức buổi điều trần với sự tham dự của một số dân biểu Mỹ nổi tiếng như Chris Smith, Frank Wolf, Cao Quang Ánh cùng những nhà đấu tranh cho nhân quyền, tôn giáo tại Việt Nam.
Buổi điều trần tại Hạ viện Hoa kỳ mở đầu bằng những phát biểu của các dân biểu hàng đầu là Chris Smith thuộc tiểu bang New Jersey chủ trì cuộc điều trần, và dân biểu Frank Wolf, đồng chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos.
Ngày càng sa sút
Nói chung hai dân biểu này lưu ý đến tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ngày càng sa sút tại Việt Nam, và nhắc lại việc Bộ ngoại giao Mỹ đưa VN ra khỏi danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo, thì những tưởng rằng tình hình sẽ khá hơn, nhưng trên thực tế, Hà Nội hiện ngày càng đàn áp nhân quyền, tôn giáo trầm trọng hơn.
Sau khi được dân biểu Chris Smith giới thiệu, dân biểu Cao Quang Ánh thuộc tiểu bang Louisiana điều trần chi tiết về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ở VN.
Ông Cao Quang Ánh cho biết rằng nhà cầm quyền CSVN mở đầu chiến dịch bạo tàn của họ bằng cuộc cải cách ruồng đất hồi đầu thập niên 50, khi hàng ngàn người có đất bị hành quyết. Nhiều tu sĩ hàng đầu, lãnh đạo giáo hội bị mất tích, và tình trạng này kéo dài cho tới ngày nay khi những nhà dân chủ, những người đấu tranh cho tự do tôn giáo thường xuyên bị sách nhiễu, bị bắt bớ, bị bỏ tù, bị tra tấn.
Theo dân biểu Cao Quang Ánh, ưu tiên của Hà Nội sau khi chiếm được miền nam hồi 30 tháng 4 năm 1975 là phải bảo đảm rằng mọi hoạt đông tôn giáo đều bị theo dõi và kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước nhanh chóng tịch thu tài sản, đất đai của các giáo hội và giam giữ những lãnh tụ tôn giáo.
Nói chung, Dân biểu Cao Quang Ánh cho biết: “Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh là trong mấy năm vừa qua Việt Nam càng ngày càng thụt lùi về tự do tôn giáo và nhân quyền, nhất là hành động của nhà cầm quyền Việt Nam trong những vụ như Đồng Chiêm, Bát Nhã, cùng nhiều nơi khác. Và những điểm chính mà tôi điều trần tại Hạ viện Mỹ hôm nay bao gồm việc thúc đẩy Tổng thống Barack Obama cùng ngoại trưởng Hillary Clinton đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo, hay là xếp Việt Nam vào hạng 3 trong chương trình TIP (Trafficking in persons), tức buôn người.”
Chủ trì buổi điều trần, dân biểu Chris Smith nhận xét rằng ông cảm ơn một điều quan trọng là dân biểu Cao Quang Ánh nêu lên vấn đề đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo. Dân biểu Chris Smith nhắc lại rằng kể từ khi Việt Nam được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hồi năm 2007, Việt Nam thụt lùi nhanh chóng so với những nước khác mà ông từng chứng kiến.
Sau khi có quan hệ song phương Mỹ-Việt, dân biểu Chris Smith cho biết tiếp, người ta hy vọng tình hình nhân quyền VN được cải thiện, nhưng nó không xảy ra. Về tự do tôn giáo, Việt Nam đã thụt lùi với nhiều vụ đàn áp tôn giáo.
Hiện diện tại buổi điều trần có dân biểu James P. McGovern, đồng chủ tịch Ủy ban nhân quyền Tom Lantos. Một trong những nhận xét của ông là điều trần của dân biểu Cao Quang Ánh là một khuyến cáo thiết thực, và ông hy vọng chính phủ Việt Nam sẽ lắng nghe.
Dân biểu McGovern thiết tha hy vọng rằng Việt Nam sẽ chấm dứt tình trạng khủng bố tôn giáo vốn đang tiếp diễn, để quay sang tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Tham dự điều trần có ông Michael Cromartie, Phó chủ tịch ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ. Ông Michael mở đầu bài điều trần rằng cách nay 9 tháng ông đã trình bày trước ủy ban nhân quyền Tom Lantos này về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Nhưng buồn thay, ông nhấn mạnh là ông không thể nói rằng tình hình đã được cải thiện ở Việt Nam.
Theo ông thì Việt Nam tiếp tục thụt lùi về nhân quyền. Vẫn còn nhiều vụ vi phạm tự do tôn giáo. Còn rất nhiều người bị giam giữ vì hành đạo độc lập hay bảo vệ tự do tôn giáo trong ôn hòa. Còn quá nhiều trường hợp kỳ thị và cưỡng bức tín đồ Tin Lành bỏ đạo. Có quá nhiều trường hợp giới cầm quyền cho phép sử dụng bạo lực hành hung các tín đồ Phật Giáo, Công Giáo.
Ông Michael Cromartie lưu ý rằng những hành động lạm quyền như vậy tiếp diễn dù đi ngược lại hiến pháp Việt Nam, dù Việt Nam có nghĩa vụ quốc tế trong khuôn khổ Bản tuyên ngôn nhân quyền LHQ hay Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
Vai trò của Hoa Kỳ
Theo đề nghị của ông Michael thì vấn đề Việt Nam phải là một ưu tiên của hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ. Đó là chính phủ Obama có thể bảo đảm tự do tôn giáo cho người dân Việt Nam bằng cách đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC. Và thứ hai là chính phủ Obama cũng có thể có tiếng nói về nhân quyền mạnh hơn tại Việt Nam bằng cách ủng hộ việc thông qua Đạo luật Nhân quyền Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Scott Flipse thuộc Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ cũng có mặt tại buổi điều trần, thì điều quan trọng là phải đưa ra ánh sáng mọi điều tốt xấu đang diễn ra trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Mặc dù có những điều tốt, nhưng cũng có rất nhiều vấn đề trong mối quan hệ này, đặc biệt là nhân quyền bị đàn áp.
Việt Nam đi ngược lại lời hứa với cộng đồng thế giới và cả người dân của chính họ. Do đó, theo TS Scott Flipse, cuộc điều trần nầy chú trọng tới những gì mà Hoa Kỳ có thể giúp, Hoa Kỳ có thể lên tiếng như thế nào, áp lực ra sao để Việt Nam tôn trọng nghĩa vụ của họ.
Lên tiếng với người dân Việt Nam, TS. Scott khẳng định rằng Hoa Kỳ luôn bên cạnh họ, Hoa Kỳ sẽ nói lên không những với những ai muốn mở rộng thương mại, mà còn với những ai muốn có tự do nhiều hơn và những quyền căn bản được bảo đảm.
Ông Scott Flipse, giám đốc các chương trình Đông Á, thuộc Ủy ban USCIRF. RFA PHOTO Đó là điều mà TS Scott hứa cho tới hơi thở cuối cùng, khi nào ông vẫn còn làm cho chính phủ Hoa Kỳ. TS Scott tin chắc rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ lên tiếng cho những ai muốn có tự do.
Tại buổi điều trần, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành ủy ban cứu người vượt biển trụ sở tại Virginia, Hoa Kỳ, lưu ý về khía cạnh lao động.
Ông cho biết: “Chúng tôi tập trung vào vấn đề buôn bán lao động mà trong đó chính quyền Việt Nam có can dự vào trong đó qua những chính sách của nhà nước như xóa đói giảm nghèo và đặc biệt là Bộ Lao Động-Thương Binh-Xã Hội là cơ quan chính quyền trực tiếp điều hành và thực hiện chính sách đó.
Chúng tôi có những chứng cớ cho thấy rằng những giới chức rất là cao cấp ở trong Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội có can dự vào vấn đề buôn người hoặc là bao che cho những kẻ buôn người. Tôi đề nghị Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào và liệt kê vào hạng 3, thứ hạng thấp nhất trong vấn đề buôn người có lẽ trầm trọng nhất.
Việt Nam xứng đáng nằm trong hạng 3 cho tới khi Việt Nam thực sự thay đổi về luật pháp và bảo vệ cho nạn nhân cũng như truy tố những thủ phạm kể cả những giới chức chính quyền cao cấp mà có vấn đề hối lộ tham nhũng và liên đới đến tình trạng buôn bán người lao động.”
Trong số những nhân vật điều trần tại Hạ Viện Mỹ vừa rồi có BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch hội đồng điều hợp của tổ chức quốc tế yểm trợ cao trào nhân bản, trụ sở tại Washington.
BS Nguyễn Quốc Quân nhận xét: “Trong thời gian gần đây đã có vài dấu hiệu tương đối khả quan hơn là những ngày đầu năm. Người ta thấy là LM Nguyễn Văn Lý đã được trả tự do, mặc dầu là tự do tạm vì lý do sức khỏe, cũng như là LS Lê Thị Công Nhân cũng đã mãn hạn tù ra về.
Đồng thời tôi nghĩ rằng tình trạng nhân quyền sẽ được cải thiện trong những ngày sắp tới đây, vì theo như chỗ chúng tôi được biết là ông phụ tá Tổng trưởng ngoại giao, ông Campbell, đã sang Việt Nam và đã mang một thông điệp rất rõ rệt là nhà cầm quyền cộng sản phải chấm dứt, phải giảm bớt sự đàn áp các phong trào tranh đấu cho dân chủ cũng như là các nhân vật tranh đấu cho Việt Nam, nếu không thì nó sẽ ảnh hưởng đến vấn đề bang giao, và đặc biệt là vấn đề giao thương.”
Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Phó chủ tịch Hội đồng điều hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ thì kêu gọi mọi người cầu nguyện để các đấng thiêng liêng sớm giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi cảnh đàn áp của giới cầm quyền trong nước.
Hòa thượng Thích Nguyên Trí, phó chủ tịch hội đồng điều hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ. Photo courtesy of thuvienhoasen.org Hòa thượng nói: “Sở dĩ chúng tôi ngày hôm nay có mặt là vì vấn đề nhân quyền - tôn giáo ở Việt Nam càng ngày càng quá ư trì trệ, vì vậy chúng tôi kỳ này lên là cũng muốn rằng làm sao chính phủ Hoa Kỳ phải dùng những biện pháp nào để cho chế độ cộng sản Việt Nam cần phải thay đổi đường lối cho tốt đẹp hơn vì trên 30 năm mà nhân dân Việt Nam hoàn toàn mất tất cả quyền tự do, nhất là quyền tự do làm người.
Chúng tôi là người tôn giáo thì luôn luôn nghĩ đến vấn đề thiêng liêng, ơn trên của tất cả các vị Chúa hay là Phật hoặc tất cả các vị thiêng liêng của tổ tông ông bà.
Ngoài vấn đề nhân lực của mình vận động, tuy nhiên tất cả trong và ngoài nước chúng ta hướng về những đấng thiêng liêng chúng ta cầu nguyện để chúng ta tấn công một nước Việt Nam từ ngàn xưa tới giờ luôn luôn lệ thuộc tất cả các cường quốc mà kỳ này cộng sản họ nắm chính quyền quá lâu làm cho nhân dân Việt Nam chúng ta càng ngày càng đau khổ, nhất là quyền làm người.
Vì vậy chúng tôi kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam trong nước cũng như là ở ngoài nước, ngoài vấn đề nhân lực để chúng ta vận động, chúng ta còn phải cầu nguyện đến đấng thiêng liêng, nhờ cái tha lực và nội lực của chúng ta thì mới có thể qua khỏi ách thống trị của người cộng sản cầm quyền trong mấy chục năm qua.”
Hôm 23-3, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thuộc Hạ viện Hoa Kỳ tổ chức buổi điều trần với sự tham dự của một số dân biểu Mỹ nổi tiếng như Chris Smith, Frank Wolf, Cao Quang Ánh cùng những nhà đấu tranh cho nhân quyền, tôn giáo tại Việt Nam.
Buổi điều trần tại Hạ viện Hoa kỳ mở đầu bằng những phát biểu của các dân biểu hàng đầu là Chris Smith thuộc tiểu bang New Jersey chủ trì cuộc điều trần, và dân biểu Frank Wolf, đồng chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos.
Ngày càng sa sút
Nói chung hai dân biểu này lưu ý đến tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ngày càng sa sút tại Việt Nam, và nhắc lại việc Bộ ngoại giao Mỹ đưa VN ra khỏi danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo, thì những tưởng rằng tình hình sẽ khá hơn, nhưng trên thực tế, Hà Nội hiện ngày càng đàn áp nhân quyền, tôn giáo trầm trọng hơn.
Sau khi được dân biểu Chris Smith giới thiệu, dân biểu Cao Quang Ánh thuộc tiểu bang Louisiana điều trần chi tiết về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ở VN.
Ông Cao Quang Ánh cho biết rằng nhà cầm quyền CSVN mở đầu chiến dịch bạo tàn của họ bằng cuộc cải cách ruồng đất hồi đầu thập niên 50, khi hàng ngàn người có đất bị hành quyết. Nhiều tu sĩ hàng đầu, lãnh đạo giáo hội bị mất tích, và tình trạng này kéo dài cho tới ngày nay khi những nhà dân chủ, những người đấu tranh cho tự do tôn giáo thường xuyên bị sách nhiễu, bị bắt bớ, bị bỏ tù, bị tra tấn.
Theo dân biểu Cao Quang Ánh, ưu tiên của Hà Nội sau khi chiếm được miền nam hồi 30 tháng 4 năm 1975 là phải bảo đảm rằng mọi hoạt đông tôn giáo đều bị theo dõi và kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước nhanh chóng tịch thu tài sản, đất đai của các giáo hội và giam giữ những lãnh tụ tôn giáo.
Nói chung, Dân biểu Cao Quang Ánh cho biết: “Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh là trong mấy năm vừa qua Việt Nam càng ngày càng thụt lùi về tự do tôn giáo và nhân quyền, nhất là hành động của nhà cầm quyền Việt Nam trong những vụ như Đồng Chiêm, Bát Nhã, cùng nhiều nơi khác. Và những điểm chính mà tôi điều trần tại Hạ viện Mỹ hôm nay bao gồm việc thúc đẩy Tổng thống Barack Obama cùng ngoại trưởng Hillary Clinton đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo, hay là xếp Việt Nam vào hạng 3 trong chương trình TIP (Trafficking in persons), tức buôn người.”
Chủ trì buổi điều trần, dân biểu Chris Smith nhận xét rằng ông cảm ơn một điều quan trọng là dân biểu Cao Quang Ánh nêu lên vấn đề đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo. Dân biểu Chris Smith nhắc lại rằng kể từ khi Việt Nam được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hồi năm 2007, Việt Nam thụt lùi nhanh chóng so với những nước khác mà ông từng chứng kiến.
Sau khi có quan hệ song phương Mỹ-Việt, dân biểu Chris Smith cho biết tiếp, người ta hy vọng tình hình nhân quyền VN được cải thiện, nhưng nó không xảy ra. Về tự do tôn giáo, Việt Nam đã thụt lùi với nhiều vụ đàn áp tôn giáo.
Hiện diện tại buổi điều trần có dân biểu James P. McGovern, đồng chủ tịch Ủy ban nhân quyền Tom Lantos. Một trong những nhận xét của ông là điều trần của dân biểu Cao Quang Ánh là một khuyến cáo thiết thực, và ông hy vọng chính phủ Việt Nam sẽ lắng nghe.
Dân biểu McGovern thiết tha hy vọng rằng Việt Nam sẽ chấm dứt tình trạng khủng bố tôn giáo vốn đang tiếp diễn, để quay sang tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Tham dự điều trần có ông Michael Cromartie, Phó chủ tịch ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ. Ông Michael mở đầu bài điều trần rằng cách nay 9 tháng ông đã trình bày trước ủy ban nhân quyền Tom Lantos này về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Nhưng buồn thay, ông nhấn mạnh là ông không thể nói rằng tình hình đã được cải thiện ở Việt Nam.
Theo ông thì Việt Nam tiếp tục thụt lùi về nhân quyền. Vẫn còn nhiều vụ vi phạm tự do tôn giáo. Còn rất nhiều người bị giam giữ vì hành đạo độc lập hay bảo vệ tự do tôn giáo trong ôn hòa. Còn quá nhiều trường hợp kỳ thị và cưỡng bức tín đồ Tin Lành bỏ đạo. Có quá nhiều trường hợp giới cầm quyền cho phép sử dụng bạo lực hành hung các tín đồ Phật Giáo, Công Giáo.
Ông Michael Cromartie lưu ý rằng những hành động lạm quyền như vậy tiếp diễn dù đi ngược lại hiến pháp Việt Nam, dù Việt Nam có nghĩa vụ quốc tế trong khuôn khổ Bản tuyên ngôn nhân quyền LHQ hay Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
Vai trò của Hoa Kỳ
Theo đề nghị của ông Michael thì vấn đề Việt Nam phải là một ưu tiên của hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ. Đó là chính phủ Obama có thể bảo đảm tự do tôn giáo cho người dân Việt Nam bằng cách đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC. Và thứ hai là chính phủ Obama cũng có thể có tiếng nói về nhân quyền mạnh hơn tại Việt Nam bằng cách ủng hộ việc thông qua Đạo luật Nhân quyền Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Scott Flipse thuộc Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ cũng có mặt tại buổi điều trần, thì điều quan trọng là phải đưa ra ánh sáng mọi điều tốt xấu đang diễn ra trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Mặc dù có những điều tốt, nhưng cũng có rất nhiều vấn đề trong mối quan hệ này, đặc biệt là nhân quyền bị đàn áp.
Việt Nam đi ngược lại lời hứa với cộng đồng thế giới và cả người dân của chính họ. Do đó, theo TS Scott Flipse, cuộc điều trần nầy chú trọng tới những gì mà Hoa Kỳ có thể giúp, Hoa Kỳ có thể lên tiếng như thế nào, áp lực ra sao để Việt Nam tôn trọng nghĩa vụ của họ.
Lên tiếng với người dân Việt Nam, TS. Scott khẳng định rằng Hoa Kỳ luôn bên cạnh họ, Hoa Kỳ sẽ nói lên không những với những ai muốn mở rộng thương mại, mà còn với những ai muốn có tự do nhiều hơn và những quyền căn bản được bảo đảm.
Ông Scott Flipse, giám đốc các chương trình Đông Á, thuộc Ủy ban USCIRF. RFA PHOTO Đó là điều mà TS Scott hứa cho tới hơi thở cuối cùng, khi nào ông vẫn còn làm cho chính phủ Hoa Kỳ. TS Scott tin chắc rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ lên tiếng cho những ai muốn có tự do.
Tại buổi điều trần, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành ủy ban cứu người vượt biển trụ sở tại Virginia, Hoa Kỳ, lưu ý về khía cạnh lao động.
Ông cho biết: “Chúng tôi tập trung vào vấn đề buôn bán lao động mà trong đó chính quyền Việt Nam có can dự vào trong đó qua những chính sách của nhà nước như xóa đói giảm nghèo và đặc biệt là Bộ Lao Động-Thương Binh-Xã Hội là cơ quan chính quyền trực tiếp điều hành và thực hiện chính sách đó.
Chúng tôi có những chứng cớ cho thấy rằng những giới chức rất là cao cấp ở trong Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội có can dự vào vấn đề buôn người hoặc là bao che cho những kẻ buôn người. Tôi đề nghị Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào và liệt kê vào hạng 3, thứ hạng thấp nhất trong vấn đề buôn người có lẽ trầm trọng nhất.
Việt Nam xứng đáng nằm trong hạng 3 cho tới khi Việt Nam thực sự thay đổi về luật pháp và bảo vệ cho nạn nhân cũng như truy tố những thủ phạm kể cả những giới chức chính quyền cao cấp mà có vấn đề hối lộ tham nhũng và liên đới đến tình trạng buôn bán người lao động.”
Trong số những nhân vật điều trần tại Hạ Viện Mỹ vừa rồi có BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch hội đồng điều hợp của tổ chức quốc tế yểm trợ cao trào nhân bản, trụ sở tại Washington.
BS Nguyễn Quốc Quân nhận xét: “Trong thời gian gần đây đã có vài dấu hiệu tương đối khả quan hơn là những ngày đầu năm. Người ta thấy là LM Nguyễn Văn Lý đã được trả tự do, mặc dầu là tự do tạm vì lý do sức khỏe, cũng như là LS Lê Thị Công Nhân cũng đã mãn hạn tù ra về.
Đồng thời tôi nghĩ rằng tình trạng nhân quyền sẽ được cải thiện trong những ngày sắp tới đây, vì theo như chỗ chúng tôi được biết là ông phụ tá Tổng trưởng ngoại giao, ông Campbell, đã sang Việt Nam và đã mang một thông điệp rất rõ rệt là nhà cầm quyền cộng sản phải chấm dứt, phải giảm bớt sự đàn áp các phong trào tranh đấu cho dân chủ cũng như là các nhân vật tranh đấu cho Việt Nam, nếu không thì nó sẽ ảnh hưởng đến vấn đề bang giao, và đặc biệt là vấn đề giao thương.”
Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Phó chủ tịch Hội đồng điều hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ thì kêu gọi mọi người cầu nguyện để các đấng thiêng liêng sớm giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi cảnh đàn áp của giới cầm quyền trong nước.
Hòa thượng Thích Nguyên Trí, phó chủ tịch hội đồng điều hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ. Photo courtesy of thuvienhoasen.org Hòa thượng nói: “Sở dĩ chúng tôi ngày hôm nay có mặt là vì vấn đề nhân quyền - tôn giáo ở Việt Nam càng ngày càng quá ư trì trệ, vì vậy chúng tôi kỳ này lên là cũng muốn rằng làm sao chính phủ Hoa Kỳ phải dùng những biện pháp nào để cho chế độ cộng sản Việt Nam cần phải thay đổi đường lối cho tốt đẹp hơn vì trên 30 năm mà nhân dân Việt Nam hoàn toàn mất tất cả quyền tự do, nhất là quyền tự do làm người.
Chúng tôi là người tôn giáo thì luôn luôn nghĩ đến vấn đề thiêng liêng, ơn trên của tất cả các vị Chúa hay là Phật hoặc tất cả các vị thiêng liêng của tổ tông ông bà.
Ngoài vấn đề nhân lực của mình vận động, tuy nhiên tất cả trong và ngoài nước chúng ta hướng về những đấng thiêng liêng chúng ta cầu nguyện để chúng ta tấn công một nước Việt Nam từ ngàn xưa tới giờ luôn luôn lệ thuộc tất cả các cường quốc mà kỳ này cộng sản họ nắm chính quyền quá lâu làm cho nhân dân Việt Nam chúng ta càng ngày càng đau khổ, nhất là quyền làm người.
Vì vậy chúng tôi kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam trong nước cũng như là ở ngoài nước, ngoài vấn đề nhân lực để chúng ta vận động, chúng ta còn phải cầu nguyện đến đấng thiêng liêng, nhờ cái tha lực và nội lực của chúng ta thì mới có thể qua khỏi ách thống trị của người cộng sản cầm quyền trong mấy chục năm qua.”
Văn Hóa
Nhìn lại cuộc chơi xướng họa "SEN GIỮA LẦY"
PM Cao Huy Hoàng
10:27 24/03/2010
Điều kỳ diệu thứ nhất: Sáng kiến của Chúa Thánh Thần:
Tôi vẫn cho rằng ý hướng ấy không phải của Lm. Trăng Thập Tự mà là sự thúc đẩy huyền diệu của Chúa Thánh Thần bên trong tâm hồn một Thi Sĩ Công Giáo luôn trăn trở về việc phục hồi và thăng tiến việc loan báo Tin Mừng qua Văn Học. Tin Mừng trong “Sen Giữa Lầy” lại là một Tin Mừng cấp bách phải được gửi đến ngay cho toàn thế giới, mà nhất là cho một thế hệ trẻ đang lao mình vào trào lưu tự giảm nhẹ giá trị nhân phẩm khi tình nguyện đánh mất vẻ đẹp nguyên tuyền của một thọ tạo thượng đẳng của Thiên Chúa, tạo vật giống hình ảnh Thiên Chúa.
Cùng với sáng kiến do Thánh Thần Tình Yêu Đích Thực chỉ dẫn, chiếu soi, đã được Lm. Lê Quang Uy phát động trong cuộc vận động người trẻ Đoan Hứa Khiết Tịnh, cuộc xướng họa bỗng mang đầy tính thời sự của Tin Mừng Cho Người Trẻ Hôm Nay. Tính thời sự của Tin Mừng nhắm vào một hiện tượng hay một trào lưu “sống thử” hiện hành đến nỗi báo động về một sự suy đồi tận gốc rễ của một nền luân lý có từ lâu đời, không chỉ của Kitô Giáo mà còn là của dân tộc Việt Nam nổi tiếng về thuần phong mỹ tục.
Điều kỳ diệu thứ hai: Cộng tác với Chúa Thánh Thần:
Tôi không tin rằng 116 tác giả tham gia cuộc xướng họa là để tìm vui với thơ, với câu chữ, với mỹ từ hay mỹ ý, hoặc để tìm một giải thưởng văn học Công Giáo, một danh dự thi sĩ, văn sĩ, hay một chút tự hào về vốn liếng nghệ thuật thi ca của mình được khẳng định. Ngược lại, tôi tin là các tác giả bị cuốn hút một cách huyền bí bởi một quyền năng vừa rất mạnh mẽ lại vừa hết sức dịu dàng của Thánh Thần, nguồn phát tác hơn 500 tác phẩm no đầy ơn linh hứng.
Qua đó, không có tác giả nào không lắng mình trong dòng chảy của những kết hiệp xuyên suốt từ trên cõi thiêng cao vượt hơn hẳn trí tuệ, xuống đến tận những cảm nghiệm đời thường. Không có tác giả nào không chắt chiu từng con chữ để gói gọn thông điệp của lòng yêu mến sự tinh tuyền nơi Đức Maria nên xứng đáng là cung lòng cho Thiên Chúa ngự trị. Không có tác giả nào xây dựng tác phẩm của mình trong lúc bất nhất với Chúa Thánh Thần, trong lúc bất nhất với tình yêu chân chính, hoặc bất nhất với thao thức chuyển đổi thế hệ duy vật chất hư phù nên thánh thiêng vĩnh cửu. Có thể nói, tất cả đã khiêm tốn cộng tác với Chúa Thánh Thần để Chúa Thánh Thần cầm tay và tuôn trào qua nét bút thành những dòng thơ tinh tuyền của Lòng Mến. Họ đã làm thơ với Chúa, cùng xướng họa với Chúa Thánh Thần.
Điều kỳ diệu thứ ba: Gặp gỡ trong Chúa Thánh Thần:
Nếu trước ngày có cuộc xướng họa, mỗi người đã từng làm thơ ở mỗi góc đời riêng lẻ, thì chính cuộc xướng họa đã tạo một cơ hội kỳ diệu cho những góc riêng lẻ ấy hội tụ về thành một Lễ Hội Thơ. Nếu ở những góc riêng lẻ, những người Công Giáo đã từng làm thơ nhưng có thể là những bài thơ chưa có thi vị của Tin Mừng, thì Thánh Thần, tác giả của cuộc xướng họa đã mời gọi họ gặp gỡ chính Ngài khi cầm bút và gặp gỡ nhau trong Ngài ngay trên các tác phẩm được giới thiệu chung nhau ở cùng một trang, một kỳ xướng họa.
Quả vậy, không chỉ họ gặp nhau qua tên tuổi, qua bút hiệu, qua địa chỉ email mà còn gặp gỡ nhau thật sự trong cùng một khu vườn muôn hoa muôn sắc. Ở đó, mỗi người tìm đến nhau, hiểu nhau và quí mến nhau hơn qua những tâm tình bộc bạch trên mỗi tác phẩm mình. Cuộc gặp gỡ trong Chúa Thánh Thần nẩy sinh chan chứa niềm Tin, niềm Trông Cậy và lòng Mến với cả Thiên Chúa và với nhau. Và chúng ta có quyền hy vọng, từ cuộc gặp gỡ chung với nhau trên thi đàn xướng họa, chắc chắn rồi đây sẽ có những cuộc gặp gỡ trực diện tay bắt mặt mừng để cùng nhau tái hiện và phát huy một nền Văn Học Công Giáo Việt Nam trên khắp đất nước và toàn cầu.
Điều kỳ diệu thứ tư: Hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần:
Không phân biệt là già hay trẻ, nam hay nữ, trong nước hay ngoài nước… tất cả đã nên một trong Chúa Thánh Thần. Nên một vì Chúa Thánh Thần có một. Một Chúa Thánh Thần sáng soi cho nhiều người cùng một lúc, cùng một đề tài. Một sự hiệp thông hiếm có bởi chỉ những từ buộc phải họa: “đen, sen, khen, hèn, chen”. Trong sự hiệp thông ấy, mỗi người phát huy tối đa cái sáng kiến riêng tư của mình nhưng vẫn đi vào trong cái chung tuyệt đối: Thơ Đường Luật cổ xúy việc Đoan Hứa Khiết Tịnh.
Điểm hiệp nhất lý thú nhất, không phải là có những bài thơ Đường đúng cách Đường thi tuyệt đối, nhưng là tất cả các tác phẩm, cách này hay cách khác, đều đã mang một Tin Mừng Tuyệt Đối cho mọi người: Hãy Noi Gương Mẹ, sống Trinh Khiết.
Nhìn lại hơn 500 tác phẩm, tôi không đánh giá tác phẩm nào kém về nội dung cả. Đồng ý là có một số tác phẩm nội dung sâu sắc hơn, nhưng nhìn chung, tác phẩm nào cũng đã rút hết ruột hết lòng của các tác giả, để chuyển tải thông điệp về Đức Khiết Tịnh quí giá đến cho mọi người. Chúa Thánh Thần, nguồn mạch sự Hiệp Nhất của người xa lẫn người gần, của người già lẫn người trẻ, của người mới viết lẫn người đã chuyên nghiệp lâu năm. Qua điểm hiệp nhất ban đầu này của một cuộc xướng họa, mở ra cho chúng ta một kỳ vọng sẽ còn nhiều điểm hiệp nhất nữa về sau trong cùng một đường hướng Văn Học Công Giáo Việt Nam
Điều kỳ diệu thứ năm: Phát triển trong Chúa Thánh Thần:
Nhìn lại những tác phẩm, từ những tác phấm sớm nhất trong cuộc xướng họa, có thể thấy, ở những tác phẩm càng về sau, càng có những nỗ lực phát triển của từng tác giả, càng chuẩn chỉnh hơn nhiều về kỹ thuật Đường thi cũng như nội dung. Rất vui mừng là, nếu không có động lực của Chúa Thánh Thần, người làm thơ sẽ không đủ khiêm tốn để bỏ đi một tác phẩm, hay để tìm mọi cách để canh tân tác phẩm ấy cho hợp với tiêu chuẩn.
Tôi vẫn không tin rằng các tác giả canh tân bài thơ của mình là để đoạt giải, nhưng là vì muốn hoàn thiện nơi chính mình một khả năng viết cho đúng cách văn học và đúng ý Chúa. Thật đáng trân quí biết bao những giờ trằn trọc thao thức của các tác giả về những đứa con tinh thần của mình, những miệt mài tìm kiếm cái đẹp tuyệt đối trong một bài thơ chỉ 8 câu, 56 chữ, những tra cứu khổ công để tìm vần, điệu, đối sao cho trọn vẹn một bài thơ ưng ý của mình mà cũng làm vừa ý mọi người. Mỗi người đã tự phát triển rõ rệt trong suốt hành trình của cuộc xướng họa. Và hơn thế nữa, nhiều bước bức phá ngoạn mục tôi đã thấy xuất hiện trên Đồng Xanh Thơ những bài thất ngôn bát cú khởi đi từ cuộc xướng họa này.
Điều kỳ diệu thứ sáu: Ra đi trong Thánh Thần:
Được bao nhiêu bạn trẻ tham gia xướng họa ? Bao nhiêu bạn trẻ đào sâu thông điệp Tin Mừng ẩn chứa trong chỉ có 8 câu, 56 từ ngắn ngủi ? Bao nhiêu bạn trẻ thức giấc trong đêm duy vật khi nghe tiếng chuông “sen giữa lầy” gõ những nhịp thơ nhẹ nhàng mà quyến rũ ? Hay cuộc xướng họa chỉ nhận sự tham gia của những người đã đi qua cái thuở bồng bột, rồi ngộ ra cái bồng bột ấy là một sự dại dột đáng tiếc nhất trong đời người ?
Vấn đề còn lại, là làm sao không chỉ những bài thơ được chọn mà tất cả tâm tình, lời nhắn gửi, chút sẻ chia quí báu rút ruột của từng tác giả qua toàn bộ hơn 500 tác phẩm được chuyển đến tất cả những bạn trẻ đang vào đời.
Thơ “Xướng Họa cổ vũ Đoan Hứa Khiết Tịnh” đã ra đi trong Chúa Thánh Thần. Thơ đi trên mạng suốt 21 kỳ. Và nay Thơ sẽ đi vào đời bằng những tập sách sẽ phát hành nay mai. Thơ sẽ vào trường Đại Học để đồng hành với các em sinh viên. Thơ sẽ về đến các Giáo Xứ để trải lòng mình ra cùng giới trẻ. Thơ sẽ vào tận công ty, nhà máy, xưởng may, tận khu tập thể để chuyền tay nhau thông điệp của Tin Mừng. Thơ sẽ đi tận hang cùng ngõ hẻm để khơi dậy một thế hệ tinh tuyền cho đất nước và Giáo Hội. Thơ ra đi trong Chúa Thánh Thần.
Điều kỳ diệu thứ bảy: Vui Mừng Tạ Ơn Trong Chúa Thánh Thần:
Ngày 25.3.2010, Lễ Truyền Tin, Ngày Thai Nhi Thế Giới, cuộc chơi Xướng Họa “Sen Giữa Lầy” dừng lại bước nhận bài, nhưng lại mở ra cho chúng ta niềm vui mừng tạ ơn trong Chúa Thánh Thần. Vui mừng vì mỗi tác giả, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đã đón nhận “thời gian thuận tiện” để tìm “ơn cứu độ” cho chính mình và cho nhiều người, đặc biệt là cho những người trẻ. Tạ ơn trong Chúa Thánh Thần vì cũng nhờ Ngài, mà chúng ta được đóng góp phần mình vào công cuộc loan Tin Mừng qua văn học, được gặp gỡ nhau, quen biết nhau, rồi sẽ nối kết với nhau, nên một trong cùng một sứ vụ.
Niềm vui và lời tạ ơn thánh thiện của những người cùng chí hướng, cùng tâm nguyện Bảo Vệ Sự Sống quí giá khởi đầu từ Sự Sống của Con Người Giêsu, trong cung lòng Trinh Nữ Maria qua việc cổ xúy cho thế hệ trẻ biết quí trọng Đức Trinh Khiết, noi gương Đức Mẹ. Nhờ đó, họ dứt khoát nói “không” với cách sống buông thả, cách sống thử, mầm mống mọi sự dữ hiện hành và hiện hoành hành một nền đạo đức tuột dốc.
Dù mỗi tác phẩm cũng chỉ là một phần bé nhỏ trong một công cuộc vĩ đại, nhưng cũng là quá đủ để mỗi tác giả vui mừng và tạ ơn trong Chúa Thánh Thần. Cùng nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cầm tay mỗi tác giả và tuôn ra thành dòng thơ đẹp ý Chúa.
Cuối cùng, cùng chúc mừng nhau, cùng tri ân nhau, vì đã cùng nhau thực hiện điều Chúa Thánh Thần mong muốn.
Nước và Thần Khí
Ngô xuân Tịnh
15:23 24/03/2010
Vào thời lịch sử hồng hoang
Đất trời ở thể hỗn mang ban đầu
Đất còn trống rỗng xuyên thâu
Không hình không dạng sắc mầu vẫn chưa
Vực sâu thăm thẳm bao la
Bao trùm bóng tối quỷ ma rợn rùng
Làn nước xuất hiện mông lung
Rồi Thấn Khí Chúa lượn vòng ở trên
khi cơn hồng thủy dâng lên
Xóa đi tất cả mọi miền thế gian
Dòng sông chảy xiết Gióc Đan
Rửa dìm cho những hối nhân thủa nào
Xin quyền năng Chuá dạt dào
Ban cho nước được dùng vào những khi
Bí tích thánh tẩy huyền vi
Xóa đi tất cả vết tì tội nhơ
Chết cho người cũ tội đồ
Thành con người mới sống cho nước Trời
Thánh Thần và lửa đổi đời
Được làm con của Chuá Trời tình yêu
Phúc vinh sung mãn dạt dào.
Đất trời ở thể hỗn mang ban đầu
Đất còn trống rỗng xuyên thâu
Không hình không dạng sắc mầu vẫn chưa
Vực sâu thăm thẳm bao la
Bao trùm bóng tối quỷ ma rợn rùng
Làn nước xuất hiện mông lung
Rồi Thấn Khí Chúa lượn vòng ở trên
khi cơn hồng thủy dâng lên
Xóa đi tất cả mọi miền thế gian
Dòng sông chảy xiết Gióc Đan
Rửa dìm cho những hối nhân thủa nào
Xin quyền năng Chuá dạt dào
Ban cho nước được dùng vào những khi
Bí tích thánh tẩy huyền vi
Xóa đi tất cả vết tì tội nhơ
Chết cho người cũ tội đồ
Thành con người mới sống cho nước Trời
Thánh Thần và lửa đổi đời
Được làm con của Chuá Trời tình yêu
Phúc vinh sung mãn dạt dào.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Phút Tịnh Tâm
Lm. Trần Cao Tường
23:05 24/03/2010
PHÚT TỊNH TÂM
Ảnh của Cao Tường
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Linh hồn tôi mới nghỉ ngơi yên hàn.
(Thánh ca, Lm. Ngô Duy Linh)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền