Phụng Vụ - Mục Vụ
Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh 30/3/2018 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
02:37 29/03/2018
Bài Ðọc I: Is 52, 13-53, 12
"Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta".
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.
Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta.
Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài,
xin đừng để con muôn đời tủi hổ,
vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con!
Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa,
lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành,
xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù,
nên trò cười cho khách lân bang,
và mối lo sợ cho người quen biết;
gặp con ngoài đường, họ tránh xa con.
Con bị người ta quên, không để ý tới,
dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài,
con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con!
Vận mạng con ở trong tay Ngài,
xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền,
xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa.
Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo,
hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
"Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Phúc Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa lại:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây".
C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
C. Ông đáp:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
C. Ông chối và nói:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ đáp:
S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô bảo họ:
S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
C. Philatô đáp:
S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô hỏi lại:
S. "Vậy ông là Vua ư?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô bảo Người:
S. "Chân lý là cái gì?"
C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
C. Họ liền la lên:
S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu Vua Do-thái!"
C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này là Người".
C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!"
C. Philatô bảo họ:
S. "Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
C. Người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây là vua các ngươi".
C. Nhưng họ càng la to:
S. "Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô nói:
S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
C. Các thượng tế đáp:
S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
C. Philatô đáp:
S. "Ðiều ta đã viết là đã viết".
C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. "Hỡi Bà, này là con Bà".
C. Rồi Người lại nói với môn đệ:
J. "Này là Mẹ con".
C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. "Ta khát!"
C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
J. "Mọi sự đã hoàn tất".
C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
"Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta".
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.
Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta.
Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài,
xin đừng để con muôn đời tủi hổ,
vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con!
Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa,
lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành,
xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù,
nên trò cười cho khách lân bang,
và mối lo sợ cho người quen biết;
gặp con ngoài đường, họ tránh xa con.
Con bị người ta quên, không để ý tới,
dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài,
con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con!
Vận mạng con ở trong tay Ngài,
xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền,
xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa.
Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo,
hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
"Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Phúc Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa lại:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây".
C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
C. Ông đáp:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
C. Ông chối và nói:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ đáp:
S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô bảo họ:
S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
C. Philatô đáp:
S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô hỏi lại:
S. "Vậy ông là Vua ư?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô bảo Người:
S. "Chân lý là cái gì?"
C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
C. Họ liền la lên:
S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu Vua Do-thái!"
C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này là Người".
C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!"
C. Philatô bảo họ:
S. "Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
C. Người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây là vua các ngươi".
C. Nhưng họ càng la to:
S. "Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô nói:
S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
C. Các thượng tế đáp:
S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
C. Philatô đáp:
S. "Ðiều ta đã viết là đã viết".
C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. "Hỡi Bà, này là con Bà".
C. Rồi Người lại nói với môn đệ:
J. "Này là Mẹ con".
C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. "Ta khát!"
C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
J. "Mọi sự đã hoàn tất".
C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Niềm vui Phục Sinh
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
07:24 29/03/2018
Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Sách Công vụ kể lại rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (CVTĐ 2,42); “Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn” (CVTĐ 4,32-35). Đó là những công việc mà Giáo hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình. Sống niềm vui Phục Sinh bằng đời sống phục vụ và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục Sinh của Giáo hội và của chúng ta hôm nay.
Xin cho mỗi người Kitô hữu trở thành sứ giả đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, biết sống niềm vui Phục Sinh trong mọi mối tương quan, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Sách Công vụ kể lại rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (CVTĐ 2,42); “Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn” (CVTĐ 4,32-35). Đó là những công việc mà Giáo hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình. Sống niềm vui Phục Sinh bằng đời sống phục vụ và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục Sinh của Giáo hội và của chúng ta hôm nay.
Xin cho mỗi người Kitô hữu trở thành sứ giả đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, biết sống niềm vui Phục Sinh trong mọi mối tương quan, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.
Suy Niệm Chúa Phục Sinh
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
10:00 29/03/2018
Chúa Giêsu Đã Sống Lại Như Lời Kinh Thánh
(Ga 20, 1-9)
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : "Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ" (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc "lính canh khiếp đảm" (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói" (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Ga 20, 1-9)
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : "Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ" (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc "lính canh khiếp đảm" (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói" (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh – Năm B
Lm. Anthony Trung Thành
10:02 29/03/2018
Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh – Năm B
Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước Ngài sẽ chịu chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Ngài còn dùng sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày để nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực.
Trước hết, lời chứng của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ. Sau khi cho biết, Đức Giêsu đã chịu phép rửa bởi Thánh Gioan, được Thánh Thần xức dầu tấn phong, đi khắp nơi rao giảng, làm nhiều phép lạ, bị giết treo trên thập giá, thì Thánh Phêrô khẳng định rằng “ngày thứ ba Ngài đã sống lại.” Thật vậy, Thánh Phêrô khẳng định: “…Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết.” (Cv 10, 40-42). Các động từ như “hiện ra”, “ăn uống với các tông đồ” và “truyền cho các ông đi rao giảng” được Thánh Phêrô dùng để diễn tả hành động của Đức Giêsu sau khi sống lại. Thật vậy, chỉ có con người sống mới “hiện ra”, “ăn uống” và “truyền”, chứ người chết không bao giờ làm được như vậy.
Thứ đến, lời chứng của Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe: Ngài nhắc đến người phụ nữ được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, có tên là Maria Mađalêna. Sau khi táng xác Chúa trở về, bà nóng lòng chờ cho đến sáng để đi ra mồ viếng Chúa. Thế rồi, khi trời còn tờ mờ sáng, bà đã đi ra mồ Chúa. Khi đến nơi, trông thấy ngôi mồ trống, không thấy xác thầy đâu, bà liền chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết. Nghe thế, ông Phêrô và ông Gioan vội vàng chạy ra mồ. Đúng như bà Maria Mađalêna báo, hai ông không thấy xác Thầy đâu. Nhưng hai ông thấy “những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.” (Ga 20,6-7) Tin mừng cho biết về phản ứng của Thánh Gioan: “ông đã thấy và ông đã tin”. Tin mừng không cho biết phản ứng của Phêrô nhưng chắc chắn Phêrô cũng xác tín như Gioan, vì khi chứng kiến những sự việc trên ông không hoảng hốt nhưng rất bình tĩnh. Thực ra, ngôi mồ trống cũng không thể chứng minh được sự kiện Chúa sống lại nếu không có những bằng chứng khác. Vì thế, những người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng có ai đó đã lấy trộm xác Đức Giêsu. Chỉ có những người thân tín với Đức Giêsu mới có thể tin Ngài sống lại từ ngôi mồ trống. Vì từ ngôi mồ trống các ông đã nối kết với lời tiên báo của Đức Giêsu trong Kinh Thánh: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 9,22)
Như vậy, từ những bằng chứng trên đây, chúng ta xác tín sâu xa rằng, Đức Giêsu đã sống lại. Đó là đức tin làm nền tảng cho mọi hoạt động của chúng ta. Nói như Thánh Phaolô: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14).
Khi xác tín vào sự sống lại của Đức Giêsu, chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta phải sống mầu nhiệm đau khổ vì phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Chính Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh. Ngài mời gọi mọi người rằng: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”(Mt 16,24). Nơi khác Ngài nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,24). Ngài còn nói thêm: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12,25). Vì thế, khi chúng ta từ bỏ mình, vác thập giá, chết đi cho tội lỗi, liều mất mạng sống mình ở đời này…thì chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô.
Thứ đến, chúng ta hãy sống niềm tin vào Mầu nhiệm Phục sinh. Vì khi tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu và sự sống đời đời sẽ giúp chúng ta có động lực phấn đấu và vượt qua những rào cản trong cuộc sống đời này để được hạnh phúc đời sau. Trong bài đọc II hôm nay, trích thơ gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô mời gọi chúng ta là những người đã chịu phép Rửa tội, đã được tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”(Cl 3,1-2). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới chính là biết: tìm kiếm Chúa, yêu mến Chúa, yêu thương anh em như chính mình. Đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới chính là biết: tránh xa tội lỗi, tránh xa sự cám dỗ của ma quỷ, sự lôi kéo của thế gian và xác thịt.
Thứ ba, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin mừng phục sinh cho những người khác. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ bà Maria Mađalêna báo tin mà các Tông đồ mới biết Đức Kitô phục sinh. Tiếp đến, các Tông đồ đã loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người Do thái. Cứ như thế, nhờ các Tông đồ, các nhà truyền giáo và Giáo hội chúng ta mới nhận được Tin mừng Phục sinh như hôm nay. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người khác. Chúng ta có thể loan báo Tin mừng Phục sinh bằng lời nói, bằng chứng tá đời sống, thậm chí bằng cả chính cái chết của mình.
Nguyện xin Đức Kitô Phục sinh giúp chúng ta có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh của Ngài, để từ đó chúng ta biết sống Mầu nhiệm Phục sinh và loan báo cho những người xung quanh. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước Ngài sẽ chịu chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Ngài còn dùng sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày để nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực.
Trước hết, lời chứng của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ. Sau khi cho biết, Đức Giêsu đã chịu phép rửa bởi Thánh Gioan, được Thánh Thần xức dầu tấn phong, đi khắp nơi rao giảng, làm nhiều phép lạ, bị giết treo trên thập giá, thì Thánh Phêrô khẳng định rằng “ngày thứ ba Ngài đã sống lại.” Thật vậy, Thánh Phêrô khẳng định: “…Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết.” (Cv 10, 40-42). Các động từ như “hiện ra”, “ăn uống với các tông đồ” và “truyền cho các ông đi rao giảng” được Thánh Phêrô dùng để diễn tả hành động của Đức Giêsu sau khi sống lại. Thật vậy, chỉ có con người sống mới “hiện ra”, “ăn uống” và “truyền”, chứ người chết không bao giờ làm được như vậy.
Thứ đến, lời chứng của Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe: Ngài nhắc đến người phụ nữ được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, có tên là Maria Mađalêna. Sau khi táng xác Chúa trở về, bà nóng lòng chờ cho đến sáng để đi ra mồ viếng Chúa. Thế rồi, khi trời còn tờ mờ sáng, bà đã đi ra mồ Chúa. Khi đến nơi, trông thấy ngôi mồ trống, không thấy xác thầy đâu, bà liền chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết. Nghe thế, ông Phêrô và ông Gioan vội vàng chạy ra mồ. Đúng như bà Maria Mađalêna báo, hai ông không thấy xác Thầy đâu. Nhưng hai ông thấy “những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.” (Ga 20,6-7) Tin mừng cho biết về phản ứng của Thánh Gioan: “ông đã thấy và ông đã tin”. Tin mừng không cho biết phản ứng của Phêrô nhưng chắc chắn Phêrô cũng xác tín như Gioan, vì khi chứng kiến những sự việc trên ông không hoảng hốt nhưng rất bình tĩnh. Thực ra, ngôi mồ trống cũng không thể chứng minh được sự kiện Chúa sống lại nếu không có những bằng chứng khác. Vì thế, những người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng có ai đó đã lấy trộm xác Đức Giêsu. Chỉ có những người thân tín với Đức Giêsu mới có thể tin Ngài sống lại từ ngôi mồ trống. Vì từ ngôi mồ trống các ông đã nối kết với lời tiên báo của Đức Giêsu trong Kinh Thánh: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 9,22)
Như vậy, từ những bằng chứng trên đây, chúng ta xác tín sâu xa rằng, Đức Giêsu đã sống lại. Đó là đức tin làm nền tảng cho mọi hoạt động của chúng ta. Nói như Thánh Phaolô: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14).
Khi xác tín vào sự sống lại của Đức Giêsu, chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta phải sống mầu nhiệm đau khổ vì phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Chính Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh. Ngài mời gọi mọi người rằng: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”(Mt 16,24). Nơi khác Ngài nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,24). Ngài còn nói thêm: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12,25). Vì thế, khi chúng ta từ bỏ mình, vác thập giá, chết đi cho tội lỗi, liều mất mạng sống mình ở đời này…thì chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô.
Thứ đến, chúng ta hãy sống niềm tin vào Mầu nhiệm Phục sinh. Vì khi tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu và sự sống đời đời sẽ giúp chúng ta có động lực phấn đấu và vượt qua những rào cản trong cuộc sống đời này để được hạnh phúc đời sau. Trong bài đọc II hôm nay, trích thơ gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô mời gọi chúng ta là những người đã chịu phép Rửa tội, đã được tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”(Cl 3,1-2). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới chính là biết: tìm kiếm Chúa, yêu mến Chúa, yêu thương anh em như chính mình. Đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới chính là biết: tránh xa tội lỗi, tránh xa sự cám dỗ của ma quỷ, sự lôi kéo của thế gian và xác thịt.
Thứ ba, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin mừng phục sinh cho những người khác. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ bà Maria Mađalêna báo tin mà các Tông đồ mới biết Đức Kitô phục sinh. Tiếp đến, các Tông đồ đã loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người Do thái. Cứ như thế, nhờ các Tông đồ, các nhà truyền giáo và Giáo hội chúng ta mới nhận được Tin mừng Phục sinh như hôm nay. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người khác. Chúng ta có thể loan báo Tin mừng Phục sinh bằng lời nói, bằng chứng tá đời sống, thậm chí bằng cả chính cái chết của mình.
Nguyện xin Đức Kitô Phục sinh giúp chúng ta có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh của Ngài, để từ đó chúng ta biết sống Mầu nhiệm Phục sinh và loan báo cho những người xung quanh. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn từ của ĐTC với các linh mục Rôma và toàn thế giới trong lễ truyền dầu 29/03/2018
J.B. Đặng Minh An dịch
08:44 29/03/2018
Lúc 9h30 sáng thứ Năm 29 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã cử hành Lễ Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Một số đông đảo các vị Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc giáo triều Rôma và khoảng 1,600 linh mục thuộc giáo phận Rôma đã tham dự tham dự.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Anh em linh mục Giáo phận Rôma và các giáo phận khác trên khắp thế giới thân mến!
Khi đọc các bản văn phụng vụ ngày nay, tôi luôn liên tưởng đến một đoạn văn trong sách Đệ Nhị Luật: “Có dân tộc vĩ đại nào khác được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người hay không?”(4: 7). Tôi muốn đề cập đến sự gần gũi của Thiên Chúa. .. sự gần gũi tông đồ của chúng ta.
Trong bài đọc trích sách tiên tri Isaia, những Người Tôi Tớ chúng ta, “được xức dầu và sai đi” giữa dân của mình, gần gũi với người nghèo, người bệnh, các tù nhân. .. và Thánh Thần Chúa “ngự trên Người”, củng cố và đồng hành với Người trên hành trình của Người.
Trong Thánh Vịnh 88, Thiên Chúa gần gũi chúng ta biết chừng nào, Ngài là Đấng đã dẫn dắt Vua David tay trong tay khi Nhà Vua còn trẻ, và củng cố Người khi già yếu, vì lòng trung tín. Một sự gần gũi được duy trì xuyên suốt thời gian được gọi là lòng trung tín.
Sách Khải Huyền mang chúng ta đến gần với Chúa “Đấng” đích thân ngự đến - Erchómenos. Những lời này: “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người.” làm cho chúng ta nhận ra rằng những vết thương của Chúa Phục Sinh luôn luôn nhìn thấy được. Chúa luôn luôn đến với chúng ta, nếu chúng ta sẵn lòng đến gần, như “hàng xóm”, với thân xác của tất cả những người đau khổ, đặc biệt là trẻ em.
Tại trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn thấy Chúa qua những đôi mắt của dân riêng Người, là những đôi mắt luôn “dán chặt vào Người” (Lc 4:20). Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách Thánh trong hội đường Do thái ở Nagiarét. Ngài được trao cho cuộn da chép sách tiên tri Isaia. Ngài mở cuộn da ra và tìm đến gần cuối, đoạn văn về Người Tôi Tớ. Người đọc to: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu và sai tôi. ..” (Is 61: 1). Và Chúa Giêsu kết thúc bằng cách thách thức cử tọa nhận ra sự gần gũi trong những lời này: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).
Chúa Giêsu tìm thấy đoạn văn và đọc lên với sự thông thạo của một kinh sư. Ngài đã có thể trở thành một kinh sư hay một thầy thông luật, nhưng Chúa Giêsu muốn trở thành một nhà truyền giáo, một người rao giảng trên đường phố, “một người mang tin vui” đến cho dân Người, một nhà truyền giáo có đôi chân đẹp, như tiên tri Isaiah nói.
Đây là sự lựa chọn trọng đại của Thiên Chúa: Chúa đã chọn để được gần gũi với dân Người. Ba mươi năm sống cuộc sống ẩn dật! Chỉ sau đó Ngài mới bắt đầu rao giảng. Ở đây chúng ta thấy khoa sư phạm của Ngôi Lời Nhập thể, một phương pháp sư phạm hội nhập văn hoá, không chỉ trong các nền văn hoá nước ngoài mà còn trong các giáo xứ của chúng ta, trong nền văn hoá mới của những người trẻ. ..
Sự gần gũi không chỉ đơn thuần là cái tên của một nhân đức cụ thể; đó là một thái độ gắn kết toàn thể cá nhân chúng ta, cách liên hệ của chúng ta, cách chúng ta quan tâm đến chính chúng ta và những người khác. .. Khi người ta nói về một linh mục, “ngài gần gũi chúng ta”, họ thường muốn nói hai điều. Ý thứ nhất là “ngài luôn có mặt ở đó” (trái với việc không bao giờ thấy mặt mũi đâu: nếu xảy ra trường hợp như thế, họ luôn luôn bắt đầu cách thưa gởi như sau: “Thưa cha, con biết cha bận lắm. ..”). Ý thứ hai là ngài luôn có một lời nào đó cho tất cả mọi người. Họ nói, “Ngài chuyện vãn với mọi người”, người lớn cũng như trẻ em, với người nghèo, và với cả những người không tin. .. Những linh mục “gần gũi”, sẵn sàng, là những linh mục luôn có mặt khi người dân cần đến, những linh mục nói chuyện với mọi người. .. các linh mục đường phố.
Một trong những người đã học được từ Chúa Giêsu cách làm thế nào để trở thành nhà truyền giáo đường phố là ông Philipphê. Trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc rằng ông đã truyền bá Phúc âm trong tất cả các thành phố và họ tràn đầy niềm vui (xem 8: 4.5-8). Ông Philipphê là một trong những người mà Chúa Thánh Thần có thể “tóm lấy” bất cứ lúc nào và sai ông đi loan báo Tin Mừng, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, một người có thể làm phép rửa cho những người có đức tin tốt, như viên quan trong triều đình của Nữ hoàng Ethiopia, và thực hiện điều đó ngay bên vệ đường (xem Công-vụ 8: 5.36-40).
Sự gần gũi là rất quan trọng đối với một người rao giảng Phúc Âm vì đó là một thái độ chủ chốt trong Tin Mừng (Chúa đã sử dụng thái độ ấy để miêu tả Nước Thiên Chúa). Chúng ta có thể chắc chắn rằng sự gần gũi là chìa khóa của lòng thương xót, vì lòng thương xót sẽ không phải là lòng thương xót, trừ khi, như một người Samaritanô nhân lành, lòng thương xót ấy có thể rút ngắn được khoảng cách. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng chúng ta cần nhận ra rằng sự gần gũi cũng là chìa khóa của chân lý. Liệu những khoảng cách có thể được rút gọn không khi chúng ta đề cập đến chân lý? Vâng, chắc chắn là có thể. Sự thật là định nghĩa của các tình huống và các sự vật từ một khoảng cách nhất định, qua các lý luận trừu tượng và luận lý. Hơn thế nữa, chân lý cũng là sự trung tín (émeth). Nó khiến cho anh em gọi tên con người bằng danh xưng thật sự của họ, như Chúa đã gọi họ, trước khi phân loại họ hoặc định nghĩa các “tình huống của họ”.
Chúng ta phải cẩn thận đừng để rơi vào cám dỗ tạo ra các thần tượng về một số sự thật trừu tượng nhất định. Họ có thể là những thần tượng thoải mái, luôn ở trong tầm với; luôn mang đến một thứ uy tín và quyền lực nhất định và khó phân định nổi. Bởi vì cái “thần tượng chân lý” ấy bắt chước, khoác lên mình những lời của Tin Mừng, nhưng lại không để cho những lời đó chạm vào con tim. Tệ hơn nhiều, nó còn làm cho những người bình thường bị tách biệt khỏi sự gần gũi của lời nói và các bí tích của Chúa Giêsu.
Ở đây, chúng ta hãy quay về với Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục. Chúng ta có thể gọi Mẹ là “Đức Bà của sự gần gũi”. “Là một bà mẹ thật sự, Mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ cuộc chiến đấu của chúng ta và luôn luôn bao quanh chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa”, trong một cách thế mà không ai cảm thấy bị loại trừ (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 286).
Mẹ của chúng ta không chỉ gần gũi khi Mẹ “vội vã” lên đường phục vụ, đó là một phương cách gần gũi, nhưng bên cạnh đó, Mẹ còn gần gũi bằng cách diễn đạt bản thân mình (thượng dẫn, 288). Vào đúng thời điểm trong tiệc cưới Cana, giọng Mẹ nói với các người phục vụ trong bữa tiệc, “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho bạn”, sẽ làm cho những lời này trở thành mô hình từ mẫu cho tất cả ngôn ngữ giáo hội. Nhưng để nói những lời như Mẹ nói, chúng ta không chỉ phải xin Mẹ ân sủng làm điều đó mà còn phải xin ơn để có thể hiện diện ở bất cứ nơi nào những điều quan trọng đang được “chế biến”: những điều quan trọng của mỗi trái tim, mỗi gia đình, mỗi nền văn hoá. Chỉ nhờ vào sự gần gũi này, chúng ta mới có thể nhận ra rằng rượu đã hết, và loại rượu tốt nhất mà Chúa muốn cung cấp là gì.
Tôi đề nghị anh em suy gẫm về ba lĩnh vực gần gũi của linh mục, nơi mà những lời “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho với bạn”, cần được lắng nghe - qua một ngàn cách khác nhau nhưng với cùng một giọng điệu từ mẫu – trong những con tim của tất cả những người mà chúng ta nói chuyện. Ba từ này là “đồng hành tinh thần”, “xưng tội” và “rao giảng”.
Gần gũi trong cuộc đối thoại linh đạo. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ xứ Samaria. Trước tiên, Chúa dạy cô ấy phân định làm sao để thờ phượng, trong tinh thần và chân lý. Sau đó, Người nhẹ nhàng giúp cô thừa nhận tội lỗi của mình. Cuối cùng, Người lan truyền cho cô tinh thần truyền giáo của mình và đi cùng cô để truyền giáo cho cả làng của cô ấy. Chúa cho chúng ta một mô hình về đối thoại linh đạo; Người biết cách làm sao để đưa tội lỗi của người phụ nữ Samaritanô ra ánh sáng mà không tạo nên bóng đen trên kinh nguyện thờ lạy của cô và cũng không gieo nghi ngờ cho ơn gọi thừa sai của cô.
Sự gần gũi trong việc giải tội. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này bằng cách xem xét trình thuật về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Rõ ràng rằng trong trường hợp này sự gần gũi là tất cả mọi thứ. Chân lý của Chúa Giêsu luôn luôn tiếp cận và có thể được nói trực tiếp mặt đối mặt. Khi nhìn vào mắt người khác, giống như Chúa, Đấng sau khi đã quỳ bên cạnh người ngoại tình sắp bị ném đá, đã đứng dậy và nói với bà, “Tôi cũng không lên án bà” (Ga 8:11). Đây không phải là đi ngược lại lề luật. Chúng ta cũng có thể thêm vào, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, không phải với một giọng điệu hợp luật khi nói về chân lý như một định nghĩa – đó là giọng điệu của những người cảm thấy rằng họ phải xác định bằng được các tham số của lòng thương xót Chúa. Ngược lại, những lời đó cần phải được nói bằng giọng điệu theo đó sự thật là sự trung tín [của Chúa], cho phép tội nhân nhìn về phía trước chứ không phải phía sau. Giai điệu đúng của những lời “đừng phạm tội nữa” được thấy nơi vị giải tội là người nói lên những lời ấy và sẵn sàng lặp lại những lời này bảy mươi lần bảy.
Sau cùng là sự gần gũi khi thuyết giảng. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách nghĩ đến những người từ phương xa [đến Giêrusalem] và đang lắng nghe bài giảng đầu tiên của Phêrô, là một phần trong biến cố Hiện Xuống. Phêrô tuyên bố rằng đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho “tất cả những người ở xa” (Công-vụ 2:39), và ông rao giảng theo cách khiến họ “đau đớn trong lòng” trước những lời rao giảng của ông đến nỗi họ kêu lên “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Công vụ 2:37). Đó là một câu hỏi, như chúng ta đã nói, phải luôn luôn được nêu lên và trả lời theo một giai điệu Thánh Mẫu và Giáo hội học. Bài giảng là tiêu chuẩn “để đánh giá sự gần gũi của vị mục tử và khả năng giao tiếp với người dân của ngài” (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 135). Trong bài giảng, chúng ta có thể thấy chúng ta thân mật với Chúa đến đâu trong lời cầu nguyện; và gần gũi với người dân đến mức nào trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tin Mừng hiện diện khi hai hình thức gần gũi này nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu anh em cảm thấy xa cách Thiên Chúa, hãy gần gũi hơn với dân chúng, là những người sẽ chữa lành anh em khỏi những ý thức hệ đang làm nguội lạnh lòng nhiệt thành của anh em. Những người bé nhỏ nhất sẽ dạy anh em nhìn Chúa Giêsu một cách khác. Vì trong mắt họ, con người của Chúa Giêsu thật hấp dẫn, gương sáng của Ngài có thẩm quyền luân lý, những lời giáo huấn của Ngài rất hữu ích cho cách chúng ta sống cuộc đời của mình. Nếu anh em cảm thấy xa cách mọi người, hãy tiếp cận Chúa và lời Người: trong Tin Mừng, Chúa Giêsu sẽ dạy anh em cách nhìn dân chúng, và trong mắt Người mỗi một cá nhân quý biết chừng nào đến mức Người đã đổ máu cho họ trên cây thập tự. Trong sự gần gũi với Thiên Chúa, Lời sẽ trở nên xác thịt trong anh em và anh em sẽ trở thành một linh mục gần gũi với tất cả con người. Qua sự gần gũi của anh em với dân Chúa, thể xác đau đớn của họ sẽ nói với trái tim anh em và anh em sẽ xúc động để thân thưa cùng Chúa. Anh em sẽ lại một lần nữa trở thành một linh mục chuyển cầu cho họ.
Một linh mục gần gũi với dân mình đi giữa họ với sự gần gũi và sự dịu dàng của một người mục tử tốt lành; khi chăn dắt họ, lúc thì ngài đi trước họ, lúc khác thì đi giữa họ và đôi khi đi sau họ. Không những người ta đánh giá cao một linh mục như thế; thậm chí còn hơn thế nữa, họ cảm thấy rằng có một cái gì đó đặc biệt về ngài: một cái gì đó họ chỉ cảm thấy nơi sự hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao việc phân định sự gần gũi của chúng ta với họ không chỉ đơn giản là một điều nữa phải làm thêm. Trong chuyện đó, chúng ta hoặc là làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống của nhân loại hoặc là giữ Ngài ở mức độ chỉ là những ý tưởng, những từ ngữ trên giấy, thâm nhập được cùng lắm là trong một vài hành vi tốt, dần dần trở thành thói quen.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria là “Đức Bà của sự gần gũi” dẫn đưa chúng ta đến gần nhau hơn, và khi chúng ta cần nói với người dân “Hãy làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu bảo họ”, hãy nói với cùng một giọng, để trong sự đa dạng những ý kiến của chúng ta, sự gần gũi từ mẫu của Mẹ có thể hiện diện vì Mẹ là Đấng, nhờ lời “xin vâng”, đã đưa chúng ta đến gần Chúa Giêsu mãi mãi.
© Souece Libreria Editrice Vaticana - HOLY CHRISM MASS HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Holy Thursday, 29 March 2018
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Anh em linh mục Giáo phận Rôma và các giáo phận khác trên khắp thế giới thân mến!
Khi đọc các bản văn phụng vụ ngày nay, tôi luôn liên tưởng đến một đoạn văn trong sách Đệ Nhị Luật: “Có dân tộc vĩ đại nào khác được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người hay không?”(4: 7). Tôi muốn đề cập đến sự gần gũi của Thiên Chúa. .. sự gần gũi tông đồ của chúng ta.
Trong bài đọc trích sách tiên tri Isaia, những Người Tôi Tớ chúng ta, “được xức dầu và sai đi” giữa dân của mình, gần gũi với người nghèo, người bệnh, các tù nhân. .. và Thánh Thần Chúa “ngự trên Người”, củng cố và đồng hành với Người trên hành trình của Người.
Trong Thánh Vịnh 88, Thiên Chúa gần gũi chúng ta biết chừng nào, Ngài là Đấng đã dẫn dắt Vua David tay trong tay khi Nhà Vua còn trẻ, và củng cố Người khi già yếu, vì lòng trung tín. Một sự gần gũi được duy trì xuyên suốt thời gian được gọi là lòng trung tín.
Sách Khải Huyền mang chúng ta đến gần với Chúa “Đấng” đích thân ngự đến - Erchómenos. Những lời này: “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người.” làm cho chúng ta nhận ra rằng những vết thương của Chúa Phục Sinh luôn luôn nhìn thấy được. Chúa luôn luôn đến với chúng ta, nếu chúng ta sẵn lòng đến gần, như “hàng xóm”, với thân xác của tất cả những người đau khổ, đặc biệt là trẻ em.
Tại trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn thấy Chúa qua những đôi mắt của dân riêng Người, là những đôi mắt luôn “dán chặt vào Người” (Lc 4:20). Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách Thánh trong hội đường Do thái ở Nagiarét. Ngài được trao cho cuộn da chép sách tiên tri Isaia. Ngài mở cuộn da ra và tìm đến gần cuối, đoạn văn về Người Tôi Tớ. Người đọc to: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu và sai tôi. ..” (Is 61: 1). Và Chúa Giêsu kết thúc bằng cách thách thức cử tọa nhận ra sự gần gũi trong những lời này: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).
Chúa Giêsu tìm thấy đoạn văn và đọc lên với sự thông thạo của một kinh sư. Ngài đã có thể trở thành một kinh sư hay một thầy thông luật, nhưng Chúa Giêsu muốn trở thành một nhà truyền giáo, một người rao giảng trên đường phố, “một người mang tin vui” đến cho dân Người, một nhà truyền giáo có đôi chân đẹp, như tiên tri Isaiah nói.
Đây là sự lựa chọn trọng đại của Thiên Chúa: Chúa đã chọn để được gần gũi với dân Người. Ba mươi năm sống cuộc sống ẩn dật! Chỉ sau đó Ngài mới bắt đầu rao giảng. Ở đây chúng ta thấy khoa sư phạm của Ngôi Lời Nhập thể, một phương pháp sư phạm hội nhập văn hoá, không chỉ trong các nền văn hoá nước ngoài mà còn trong các giáo xứ của chúng ta, trong nền văn hoá mới của những người trẻ. ..
Sự gần gũi không chỉ đơn thuần là cái tên của một nhân đức cụ thể; đó là một thái độ gắn kết toàn thể cá nhân chúng ta, cách liên hệ của chúng ta, cách chúng ta quan tâm đến chính chúng ta và những người khác. .. Khi người ta nói về một linh mục, “ngài gần gũi chúng ta”, họ thường muốn nói hai điều. Ý thứ nhất là “ngài luôn có mặt ở đó” (trái với việc không bao giờ thấy mặt mũi đâu: nếu xảy ra trường hợp như thế, họ luôn luôn bắt đầu cách thưa gởi như sau: “Thưa cha, con biết cha bận lắm. ..”). Ý thứ hai là ngài luôn có một lời nào đó cho tất cả mọi người. Họ nói, “Ngài chuyện vãn với mọi người”, người lớn cũng như trẻ em, với người nghèo, và với cả những người không tin. .. Những linh mục “gần gũi”, sẵn sàng, là những linh mục luôn có mặt khi người dân cần đến, những linh mục nói chuyện với mọi người. .. các linh mục đường phố.
Một trong những người đã học được từ Chúa Giêsu cách làm thế nào để trở thành nhà truyền giáo đường phố là ông Philipphê. Trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc rằng ông đã truyền bá Phúc âm trong tất cả các thành phố và họ tràn đầy niềm vui (xem 8: 4.5-8). Ông Philipphê là một trong những người mà Chúa Thánh Thần có thể “tóm lấy” bất cứ lúc nào và sai ông đi loan báo Tin Mừng, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, một người có thể làm phép rửa cho những người có đức tin tốt, như viên quan trong triều đình của Nữ hoàng Ethiopia, và thực hiện điều đó ngay bên vệ đường (xem Công-vụ 8: 5.36-40).
Sự gần gũi là rất quan trọng đối với một người rao giảng Phúc Âm vì đó là một thái độ chủ chốt trong Tin Mừng (Chúa đã sử dụng thái độ ấy để miêu tả Nước Thiên Chúa). Chúng ta có thể chắc chắn rằng sự gần gũi là chìa khóa của lòng thương xót, vì lòng thương xót sẽ không phải là lòng thương xót, trừ khi, như một người Samaritanô nhân lành, lòng thương xót ấy có thể rút ngắn được khoảng cách. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng chúng ta cần nhận ra rằng sự gần gũi cũng là chìa khóa của chân lý. Liệu những khoảng cách có thể được rút gọn không khi chúng ta đề cập đến chân lý? Vâng, chắc chắn là có thể. Sự thật là định nghĩa của các tình huống và các sự vật từ một khoảng cách nhất định, qua các lý luận trừu tượng và luận lý. Hơn thế nữa, chân lý cũng là sự trung tín (émeth). Nó khiến cho anh em gọi tên con người bằng danh xưng thật sự của họ, như Chúa đã gọi họ, trước khi phân loại họ hoặc định nghĩa các “tình huống của họ”.
Chúng ta phải cẩn thận đừng để rơi vào cám dỗ tạo ra các thần tượng về một số sự thật trừu tượng nhất định. Họ có thể là những thần tượng thoải mái, luôn ở trong tầm với; luôn mang đến một thứ uy tín và quyền lực nhất định và khó phân định nổi. Bởi vì cái “thần tượng chân lý” ấy bắt chước, khoác lên mình những lời của Tin Mừng, nhưng lại không để cho những lời đó chạm vào con tim. Tệ hơn nhiều, nó còn làm cho những người bình thường bị tách biệt khỏi sự gần gũi của lời nói và các bí tích của Chúa Giêsu.
Ở đây, chúng ta hãy quay về với Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục. Chúng ta có thể gọi Mẹ là “Đức Bà của sự gần gũi”. “Là một bà mẹ thật sự, Mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ cuộc chiến đấu của chúng ta và luôn luôn bao quanh chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa”, trong một cách thế mà không ai cảm thấy bị loại trừ (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 286).
Mẹ của chúng ta không chỉ gần gũi khi Mẹ “vội vã” lên đường phục vụ, đó là một phương cách gần gũi, nhưng bên cạnh đó, Mẹ còn gần gũi bằng cách diễn đạt bản thân mình (thượng dẫn, 288). Vào đúng thời điểm trong tiệc cưới Cana, giọng Mẹ nói với các người phục vụ trong bữa tiệc, “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho bạn”, sẽ làm cho những lời này trở thành mô hình từ mẫu cho tất cả ngôn ngữ giáo hội. Nhưng để nói những lời như Mẹ nói, chúng ta không chỉ phải xin Mẹ ân sủng làm điều đó mà còn phải xin ơn để có thể hiện diện ở bất cứ nơi nào những điều quan trọng đang được “chế biến”: những điều quan trọng của mỗi trái tim, mỗi gia đình, mỗi nền văn hoá. Chỉ nhờ vào sự gần gũi này, chúng ta mới có thể nhận ra rằng rượu đã hết, và loại rượu tốt nhất mà Chúa muốn cung cấp là gì.
Tôi đề nghị anh em suy gẫm về ba lĩnh vực gần gũi của linh mục, nơi mà những lời “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho với bạn”, cần được lắng nghe - qua một ngàn cách khác nhau nhưng với cùng một giọng điệu từ mẫu – trong những con tim của tất cả những người mà chúng ta nói chuyện. Ba từ này là “đồng hành tinh thần”, “xưng tội” và “rao giảng”.
Gần gũi trong cuộc đối thoại linh đạo. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ xứ Samaria. Trước tiên, Chúa dạy cô ấy phân định làm sao để thờ phượng, trong tinh thần và chân lý. Sau đó, Người nhẹ nhàng giúp cô thừa nhận tội lỗi của mình. Cuối cùng, Người lan truyền cho cô tinh thần truyền giáo của mình và đi cùng cô để truyền giáo cho cả làng của cô ấy. Chúa cho chúng ta một mô hình về đối thoại linh đạo; Người biết cách làm sao để đưa tội lỗi của người phụ nữ Samaritanô ra ánh sáng mà không tạo nên bóng đen trên kinh nguyện thờ lạy của cô và cũng không gieo nghi ngờ cho ơn gọi thừa sai của cô.
Sự gần gũi trong việc giải tội. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này bằng cách xem xét trình thuật về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Rõ ràng rằng trong trường hợp này sự gần gũi là tất cả mọi thứ. Chân lý của Chúa Giêsu luôn luôn tiếp cận và có thể được nói trực tiếp mặt đối mặt. Khi nhìn vào mắt người khác, giống như Chúa, Đấng sau khi đã quỳ bên cạnh người ngoại tình sắp bị ném đá, đã đứng dậy và nói với bà, “Tôi cũng không lên án bà” (Ga 8:11). Đây không phải là đi ngược lại lề luật. Chúng ta cũng có thể thêm vào, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, không phải với một giọng điệu hợp luật khi nói về chân lý như một định nghĩa – đó là giọng điệu của những người cảm thấy rằng họ phải xác định bằng được các tham số của lòng thương xót Chúa. Ngược lại, những lời đó cần phải được nói bằng giọng điệu theo đó sự thật là sự trung tín [của Chúa], cho phép tội nhân nhìn về phía trước chứ không phải phía sau. Giai điệu đúng của những lời “đừng phạm tội nữa” được thấy nơi vị giải tội là người nói lên những lời ấy và sẵn sàng lặp lại những lời này bảy mươi lần bảy.
Sau cùng là sự gần gũi khi thuyết giảng. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách nghĩ đến những người từ phương xa [đến Giêrusalem] và đang lắng nghe bài giảng đầu tiên của Phêrô, là một phần trong biến cố Hiện Xuống. Phêrô tuyên bố rằng đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho “tất cả những người ở xa” (Công-vụ 2:39), và ông rao giảng theo cách khiến họ “đau đớn trong lòng” trước những lời rao giảng của ông đến nỗi họ kêu lên “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Công vụ 2:37). Đó là một câu hỏi, như chúng ta đã nói, phải luôn luôn được nêu lên và trả lời theo một giai điệu Thánh Mẫu và Giáo hội học. Bài giảng là tiêu chuẩn “để đánh giá sự gần gũi của vị mục tử và khả năng giao tiếp với người dân của ngài” (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 135). Trong bài giảng, chúng ta có thể thấy chúng ta thân mật với Chúa đến đâu trong lời cầu nguyện; và gần gũi với người dân đến mức nào trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tin Mừng hiện diện khi hai hình thức gần gũi này nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu anh em cảm thấy xa cách Thiên Chúa, hãy gần gũi hơn với dân chúng, là những người sẽ chữa lành anh em khỏi những ý thức hệ đang làm nguội lạnh lòng nhiệt thành của anh em. Những người bé nhỏ nhất sẽ dạy anh em nhìn Chúa Giêsu một cách khác. Vì trong mắt họ, con người của Chúa Giêsu thật hấp dẫn, gương sáng của Ngài có thẩm quyền luân lý, những lời giáo huấn của Ngài rất hữu ích cho cách chúng ta sống cuộc đời của mình. Nếu anh em cảm thấy xa cách mọi người, hãy tiếp cận Chúa và lời Người: trong Tin Mừng, Chúa Giêsu sẽ dạy anh em cách nhìn dân chúng, và trong mắt Người mỗi một cá nhân quý biết chừng nào đến mức Người đã đổ máu cho họ trên cây thập tự. Trong sự gần gũi với Thiên Chúa, Lời sẽ trở nên xác thịt trong anh em và anh em sẽ trở thành một linh mục gần gũi với tất cả con người. Qua sự gần gũi của anh em với dân Chúa, thể xác đau đớn của họ sẽ nói với trái tim anh em và anh em sẽ xúc động để thân thưa cùng Chúa. Anh em sẽ lại một lần nữa trở thành một linh mục chuyển cầu cho họ.
Một linh mục gần gũi với dân mình đi giữa họ với sự gần gũi và sự dịu dàng của một người mục tử tốt lành; khi chăn dắt họ, lúc thì ngài đi trước họ, lúc khác thì đi giữa họ và đôi khi đi sau họ. Không những người ta đánh giá cao một linh mục như thế; thậm chí còn hơn thế nữa, họ cảm thấy rằng có một cái gì đó đặc biệt về ngài: một cái gì đó họ chỉ cảm thấy nơi sự hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao việc phân định sự gần gũi của chúng ta với họ không chỉ đơn giản là một điều nữa phải làm thêm. Trong chuyện đó, chúng ta hoặc là làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống của nhân loại hoặc là giữ Ngài ở mức độ chỉ là những ý tưởng, những từ ngữ trên giấy, thâm nhập được cùng lắm là trong một vài hành vi tốt, dần dần trở thành thói quen.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria là “Đức Bà của sự gần gũi” dẫn đưa chúng ta đến gần nhau hơn, và khi chúng ta cần nói với người dân “Hãy làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu bảo họ”, hãy nói với cùng một giọng, để trong sự đa dạng những ý kiến của chúng ta, sự gần gũi từ mẫu của Mẹ có thể hiện diện vì Mẹ là Đấng, nhờ lời “xin vâng”, đã đưa chúng ta đến gần Chúa Giêsu mãi mãi.
© Souece Libreria Editrice Vaticana - HOLY CHRISM MASS HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Holy Thursday, 29 March 2018
Thứ Năm Tuần Thánh tại Giêrusalem – Canh thức với Chúa Giêsu trong vườn Giệtsimani
VietCatholic Network
13:58 29/03/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Lúc 8h sáng thứ Năm 29 tháng Ba, tại nhà thờ Mộ Thánh, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa là Giám Quản Tòa Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ Giêrusalem đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh.
Cùng đồng tế với ngài có Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto là khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và hơn 200 linh mục.
Trong Thánh Lễ, Đức Thượng Phụ cũng lặp lại nghi thức rửa chân. Sau đó, ngài làm phép các loại dầu thánh cho các bệnh nhân và cho các tân tòng, và dầu thánh hiến.
Lễ kỷ niệm kết thúc với một cuộc rước dài với tất cả các vị đồng tế đi quanh mộ Chúa trong tiếng nhạc kawas và âm thanh trầm buồn của bình ca.
Theo thỏa ước Nguyên Trạng, hôm nay là ngày các linh mục tu sĩ dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa được giữ chìa khóa để mở cửa đền thờ Mộ Thánh cho buổi chầu Thánh Thể tổ chức lúc 2:45 chiều.
Lúc 9 giờ tối, cha Francesco Patton là Custos tức là trưởng đoàn hiệp sĩ Thánh Mộ đã chủ sự đêm canh thức cùng với Chúa Giêsu tại vườn Giệtsimani.
Lễ Dầu tại Vatican thứ Năm 29 tháng Ba, 2018 – Diễn từ của Đức Thánh Cha gởi các linh mục trên thế giới
VietCatholic Network
15:08 29/03/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong thánh lễ dầu các linh mục lặp lại những lời hứa các ngài đã tuyên thệ khi thụ phong linh mục. Sau đó, các loại dầu được làm phép để dùng trong suốt năm khi thực hiện các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức, Phong Chức Linh Mục, và Bí tích Xức Dầu.
BÀI ĐỌC I: Is 61, 1-3a. 6a. 8b-9
“Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, và cho họ dầu hoan lạc”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta; an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn.
Còn các ngươi, các ngươi sẽ được gọi là tư tế của Chúa, là thừa tác viên của Thiên Chúa chúng ta. Ta sẽ trung thành thưởng công cho chúng, sẽ thiết lập với chúng một giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi chúng sẽ được nổi danh giữa các dân tộc, miêu duệ chúng sẽ được biết đến giữa chư dân. Tất cả những ai thấy họ, đều nhận biết họ là dòng dõi được Chúa chúc phúc.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 21-22. 25 và 27
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
1) Ta đã gặp Đavit, tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh Người. – Đáp.
2) Thành tín và ân sủng của Ta, hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và là Đá Tảng cứu độ của con”. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 1, 5-8
“Người đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của người”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.
Kià, Người đến trong đám mây, mọi con mắt sẽ nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen.
Chúa là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Đấng Toàn Năng phán: “Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh”.
Đó là lời Chúa.
BÀI TIN MỪNG: Lc 4, 16-21
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Anh em linh mục Giáo phận Rôma và các giáo phận khác trên khắp thế giới thân mến!
Khi đọc các bản văn phụng vụ ngày nay, tôi luôn liên tưởng đến một đoạn văn trong sách Đệ Nhị Luật: “Có dân tộc vĩ đại nào khác được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người hay không?”(4: 7). Tôi muốn đề cập đến sự gần gũi của Thiên Chúa ... sự gần gũi tông đồ của chúng ta.
Trong bài đọc trích sách tiên tri Isaia, những Người Tôi Tớ chúng ta, “được xức dầu và sai đi” giữa dân của mình, gần gũi với người nghèo, người bệnh, các tù nhân ... và Thánh Thần Chúa “ngự trên Người”, củng cố và đồng hành với Người trên hành trình của Người.
Trong Thánh Vịnh 88, Thiên Chúa gần gũi chúng ta biết chừng nào, Ngài là Đấng đã dẫn dắt Vua David tay trong tay khi Nhà Vua còn trẻ, và củng cố Người khi già yếu, vì lòng trung tín. Một sự gần gũi được duy trì xuyên suốt thời gian được gọi là lòng trung tín.
Sách Khải Huyền mang chúng ta đến gần với Chúa “Đấng” đích thân ngự đến - Erchómenos. Những lời này: “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người.” làm cho chúng ta nhận ra rằng những vết thương của Chúa Phục Sinh luôn luôn nhìn thấy được. Chúa luôn luôn đến với chúng ta, nếu chúng ta sẵn lòng đến gần, như “hàng xóm”, với thân xác của tất cả những người đau khổ, đặc biệt là trẻ em.
Tại trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn thấy Chúa qua những đôi mắt của dân riêng Người, là những đôi mắt luôn “dán chặt vào Người” (Lc 4:20). Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách Thánh trong hội đường Do thái ở Nagiarét. Ngài được trao cho cuộn da chép sách tiên tri Isaia. Ngài mở cuộn da ra và tìm đến gần cuối, đoạn văn về Người Tôi Tớ. Người đọc to: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu và sai tôi ...” (Is 61: 1). Và Chúa Giêsu kết thúc bằng cách thách thức cử tọa nhận ra sự gần gũi trong những lời này: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).
Chúa Giêsu tìm thấy đoạn văn và đọc lên với sự thông thạo của một kinh sư. Ngài đã có thể trở thành một kinh sư hay một thầy thông luật, nhưng Chúa Giêsu muốn trở thành một nhà truyền giáo, một người rao giảng trên đường phố, “một người mang tin vui” đến cho dân Người, một nhà truyền giáo có đôi chân đẹp, như tiên tri Isaiah nói.
Đây là sự lựa chọn trọng đại của Thiên Chúa: Chúa đã chọn để được gần gũi với dân Người. Ba mươi năm sống cuộc sống ẩn dật! Chỉ sau đó Ngài mới bắt đầu rao giảng. Ở đây chúng ta thấy khoa sư phạm của Ngôi Lời Nhập thể, một phương pháp sư phạm hội nhập văn hoá, không chỉ trong các nền văn hoá nước ngoài mà còn trong các giáo xứ của chúng ta, trong nền văn hoá mới của những người trẻ ...
Sự gần gũi không chỉ đơn thuần là cái tên của một nhân đức cụ thể; đó là một thái độ gắn kết toàn thể cá nhân chúng ta, cách liên hệ của chúng ta, cách chúng ta quan tâm đến chính chúng ta và những người khác ... Khi người ta nói về một linh mục, “ngài gần gũi chúng ta”, họ thường muốn nói hai điều. Ý thứ nhất là “ngài luôn có mặt ở đó” (trái với việc không bao giờ thấy mặt mũi đâu: nếu xảy ra trường hợp như thế, họ luôn luôn bắt đầu cách thưa gởi như sau: “Thưa cha, con biết cha bận lắm ...”). Ý thứ hai là ngài luôn có một lời nào đó cho tất cả mọi người. Họ nói, “Ngài chuyện vãn với mọi người”, người lớn cũng như trẻ em, với người nghèo, và với cả những người không tin ... Những linh mục “gần gũi”, sẵn sàng, là những linh mục luôn có mặt khi người dân cần đến, những linh mục nói chuyện với mọi người ... các linh mục đường phố.
Một trong những người đã học được từ Chúa Giêsu cách làm thế nào để trở thành nhà truyền giáo đường phố là ông Philipphê. Trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc rằng ông đã truyền bá Phúc âm trong tất cả các thành phố và họ tràn đầy niềm vui (xem 8: 4.5-8). Ông Philipphê là một trong những người mà Chúa Thánh Thần có thể “tóm lấy” bất cứ lúc nào và sai ông đi loan báo Tin Mừng, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, một người có thể làm phép rửa cho những người có đức tin tốt, như viên quan trong triều đình của Nữ hoàng Ethiopia, và thực hiện điều đó ngay bên vệ đường (xem Công-vụ 8: 5.36-40).
Sự gần gũi là rất quan trọng đối với một người rao giảng Phúc Âm vì đó là một thái độ chủ chốt trong Tin Mừng (Chúa đã sử dụng thái độ ấy để miêu tả Nước Thiên Chúa). Chúng ta có thể chắc chắn rằng sự gần gũi là chìa khóa của lòng thương xót, vì lòng thương xót sẽ không phải là lòng thương xót, trừ khi, như một người Samaritanô nhân lành, lòng thương xót ấy có thể rút ngắn được khoảng cách. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng chúng ta cần nhận ra rằng sự gần gũi cũng là chìa khóa của chân lý. Liệu những khoảng cách có thể được rút gọn không khi chúng ta đề cập đến chân lý? Vâng, chắc chắn là có thể. Sự thật là định nghĩa của các tình huống và các sự vật từ một khoảng cách nhất định, qua các lý luận trừu tượng và luận lý. Hơn thế nữa, chân lý cũng là sự trung tín (émeth). Nó khiến cho anh em gọi tên con người bằng danh xưng thật sự của họ, như Chúa đã gọi họ, trước khi phân loại họ hoặc định nghĩa các “tình huống của họ”.
Chúng ta phải cẩn thận đừng để rơi vào cám dỗ tạo ra các thần tượng về một số sự thật trừu tượng nhất định. Họ có thể là những thần tượng thoải mái, luôn ở trong tầm với; luôn mang đến một thứ uy tín và quyền lực nhất định và khó phân định nổi. Bởi vì cái “thần tượng chân lý” ấy bắt chước, khoác lên mình những lời của Tin Mừng, nhưng lại không để cho những lời đó chạm vào con tim. Tệ hơn nhiều, nó còn làm cho những người bình thường bị tách biệt khỏi sự gần gũi của lời nói và các bí tích của Chúa Giêsu.
Ở đây, chúng ta hãy quay về với Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục. Chúng ta có thể gọi Mẹ là “Đức Bà của sự gần gũi”. “Là một bà mẹ thật sự, Mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ cuộc chiến đấu của chúng ta và luôn luôn bao quanh chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa”, trong một cách thế mà không ai cảm thấy bị loại trừ (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 286).
Mẹ của chúng ta không chỉ gần gũi khi Mẹ “vội vã” lên đường phục vụ, đó là một phương cách gần gũi, nhưng bên cạnh đó, Mẹ còn gần gũi bằng cách diễn đạt bản thân mình (thượng dẫn, 288). Vào đúng thời điểm trong tiệc cưới Cana, giọng Mẹ nói với các người phục vụ trong bữa tiệc, “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho bạn”, sẽ làm cho những lời này trở thành mô hình từ mẫu cho tất cả ngôn ngữ giáo hội. Nhưng để nói những lời như Mẹ nói, chúng ta không chỉ phải xin Mẹ ân sủng làm điều đó mà còn phải xin ơn để có thể hiện diện ở bất cứ nơi nào những điều quan trọng đang được “chế biến”: những điều quan trọng của mỗi trái tim, mỗi gia đình, mỗi nền văn hoá. Chỉ nhờ vào sự gần gũi này, chúng ta mới có thể nhận ra rằng rượu đã hết, và loại rượu tốt nhất mà Chúa muốn cung cấp là gì.
Tôi đề nghị anh em suy gẫm về ba lĩnh vực gần gũi của linh mục, nơi mà những lời “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho với bạn”, cần được lắng nghe - qua một ngàn cách khác nhau nhưng với cùng một giọng điệu từ mẫu – trong những con tim của tất cả những người mà chúng ta nói chuyện. Ba từ này là “đồng hành tinh thần”, “xưng tội” và “rao giảng”.
Gần gũi trong cuộc đối thoại linh đạo. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ xứ Samaria. Trước tiên, Chúa dạy cô ấy phân định làm sao để thờ phượng, trong tinh thần và chân lý. Sau đó, Người nhẹ nhàng giúp cô thừa nhận tội lỗi của mình. Cuối cùng, Người lan truyền cho cô tinh thần truyền giáo của mình và đi cùng cô để truyền giáo cho cả làng của cô ấy. Chúa cho chúng ta một mô hình về đối thoại linh đạo; Người biết cách làm sao để đưa tội lỗi của người phụ nữ Samaritanô ra ánh sáng mà không tạo nên bóng đen trên kinh nguyện thờ lạy của cô và cũng không gieo nghi ngờ cho ơn gọi thừa sai của cô.
Sự gần gũi trong việc giải tội. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này bằng cách xem xét trình thuật về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Rõ ràng rằng trong trường hợp này sự gần gũi là tất cả mọi thứ. Chân lý của Chúa Giêsu luôn luôn tiếp cận và có thể được nói trực tiếp mặt đối mặt. Khi nhìn vào mắt người khác, giống như Chúa, Đấng sau khi đã quỳ bên cạnh người ngoại tình sắp bị ném đá, đã đứng dậy và nói với bà, “Tôi cũng không lên án bà” (Ga 8:11). Đây không phải là đi ngược lại lề luật. Chúng ta cũng có thể thêm vào, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, không phải với một giọng điệu hợp luật khi nói về chân lý như một định nghĩa – đó là giọng điệu của những người cảm thấy rằng họ phải xác định bằng được các tham số của lòng thương xót Chúa. Ngược lại, những lời đó cần phải được nói bằng giọng điệu theo đó sự thật là sự trung tín [của Chúa], cho phép tội nhân nhìn về phía trước chứ không phải phía sau. Giai điệu đúng của những lời “đừng phạm tội nữa” được thấy nơi vị giải tội là người nói lên những lời ấy và sẵn sàng lặp lại những lời này bảy mươi lần bảy.
Sau cùng là sự gần gũi khi thuyết giảng. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách nghĩ đến những người từ phương xa [đến Giêrusalem] và đang lắng nghe bài giảng đầu tiên của Phêrô, là một phần trong biến cố Hiện Xuống. Phêrô tuyên bố rằng đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho “tất cả những người ở xa” (Công-vụ 2:39), và ông rao giảng theo cách khiến họ “đau đớn trong lòng” trước những lời rao giảng của ông đến nỗi họ kêu lên “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Công vụ 2:37). Đó là một câu hỏi, như chúng ta đã nói, phải luôn luôn được nêu lên và trả lời theo một giai điệu Thánh Mẫu và Giáo hội học. Bài giảng là tiêu chuẩn “để đánh giá sự gần gũi của vị mục tử và khả năng giao tiếp với người dân của ngài” (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 135). Trong bài giảng, chúng ta có thể thấy chúng ta thân mật với Chúa đến đâu trong lời cầu nguyện; và gần gũi với người dân đến mức nào trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tin Mừng hiện diện khi hai hình thức gần gũi này nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu anh em cảm thấy xa cách Thiên Chúa, hãy gần gũi hơn với dân chúng, là những người sẽ chữa lành anh em khỏi những ý thức hệ đang làm nguội lạnh lòng nhiệt thành của anh em. Những người bé nhỏ nhất sẽ dạy anh em nhìn Chúa Giêsu một cách khác. Vì trong mắt họ, con người của Chúa Giêsu thật hấp dẫn, gương sáng của Ngài có thẩm quyền luân lý, những lời giáo huấn của Ngài rất hữu ích cho cách chúng ta sống cuộc đời của mình. Nếu anh em cảm thấy xa cách mọi người, hãy tiếp cận Chúa và lời Người: trong Tin Mừng, Chúa Giêsu sẽ dạy anh em cách nhìn dân chúng, và trong mắt Người mỗi một cá nhân quý biết chừng nào đến mức Người đã đổ máu cho họ trên cây thập tự. Trong sự gần gũi với Thiên Chúa, Lời sẽ trở nên xác thịt trong anh em và anh em sẽ trở thành một linh mục gần gũi với tất cả con người. Qua sự gần gũi của anh em với dân Chúa, thể xác đau đớn của họ sẽ nói với trái tim anh em và anh em sẽ xúc động để thân thưa cùng Chúa. Anh em sẽ lại một lần nữa trở thành một linh mục chuyển cầu cho họ.
Một linh mục gần gũi với dân mình đi giữa họ với sự gần gũi và sự dịu dàng của một người mục tử tốt lành; khi chăn dắt họ, lúc thì ngài đi trước họ, lúc khác thì đi giữa họ và đôi khi đi sau họ. Không những người ta đánh giá cao một linh mục như thế; thậm chí còn hơn thế nữa, họ cảm thấy rằng có một cái gì đó đặc biệt về ngài: một cái gì đó họ chỉ cảm thấy nơi sự hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao việc phân định sự gần gũi của chúng ta với họ không chỉ đơn giản là một điều nữa phải làm thêm. Trong chuyện đó, chúng ta hoặc là làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống của nhân loại hoặc là giữ Ngài ở mức độ chỉ là những ý tưởng, những từ ngữ trên giấy, thâm nhập được cùng lắm là trong một vài hành vi tốt, dần dần trở thành thói quen.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria là “Đức Bà của sự gần gũi” dẫn đưa chúng ta đến gần nhau hơn, và khi chúng ta cần nói với người dân “Hãy làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu bảo họ”, hãy nói với cùng một giọng, để trong sự đa dạng những ý kiến của chúng ta, sự gần gũi từ mẫu của Mẹ có thể hiện diện vì Mẹ là Đấng, nhờ lời “xin vâng”, đã đưa chúng ta đến gần Chúa Giêsu mãi mãi.
Sau bài giảng, Đức Thánh Cha đã làm phép các loại dầu.
Dầu ôliu nguyên chất được Đức Giám Mục làm phép vào Thứ Năm Tuần Thánh được gọi là dầu thánh dùng vào việc thánh hiến các dụng cụ thánh và xức dầu trong một số bí tích. Có ba loại dầu khác nhau và phân biệt nhờ mầu sắc, mùi vị khác nhau. Mùi vị, mầu sắc có được là do dầu được pha trộn với một hợp chất tinh tuyền được lấy từ một số loại cây tuyển chọn, rồi dùng tinh dầu này pha với tinh dầu của trái ôliu.
Hàng năm trong Tuần Thánh linh mục địa phận quy tụ với giám mục địa phận trong lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh. Sau khi truyền phép linh mục chánh xứ nhận dầu mang về giáo xứ để dùng trong năm. Dầu này được cất cẩn thận trong tủ khoá.
Trong Cựu Ước có nhiều đoạn ghi lại việc xử dụng dầu trong các nghi thức đăng quang quan trọng trong xã hội cũng như trong phụng vụ Giáo Hội. Nghi thức xức dầu dùng trong các ngày lễ vua đăng quang hay linh mục thượng phẩm. Muốn biết thêm chi tiết xin xem các đoạn trong sách Xuất hành chương 30 và sách Lêvi chương 8.
Nguồn gốc chữ Chrism có lẽ cùng nguồn gốc với chữ Christ có nghĩa ‘Đấng được Xức Dầu tấn phong). Các thánh giáo phụ ghi nhận việc xức dầu là dấu chỉ bề ngoài xác định niềm tin bên trong mắt thường không thể nhìn thấy nhưng nói lên đức tin của tâm hồn. Thánh Ambrô kính viếng dầu thánh như là dấu chỉ của ân sủng. Các vị khác coi dầu thánh như là vật thánh ban ân thánh hoá cho các Kitô hữu. Đức Giáo Hoàng Bênidictô 16 xác định
Dầu thánh được dùng trong các trường hợp thánh hiến thánh đường, chuông và bàn thờ, chén thánh, dĩa thánh bởi những dụng cụ này được dùng trong việc cử hành thánh lễ. Dầu thánh dùng trong bí tích thanh tẩy. Có hai lần xức dầu. Xức dầu lần đầu mang ý nghĩa thanh tẩy và thánh hiến em bé đó cho Thiên Chúa. Xức dầu lần hai mang ý nghĩa ban ơn sức mạnh để trong tương lai chu toàn ba nhiệm vụ của Kitô hữu đó là sứ vụ linh mục, tiên tri và vương đế. Bí tích thêm sức người đó được xức dầu để nhờ ơn Thánh Thần Chúa hướng dẫn đồng thời ban sức mạnh chu toàn tốt đẹp ba sứ vụ nêu trên. Xức dầu bệnh nhân giúp người bệnh được mạnh nếu điều đó làm đẹp lòng Chúa đồng thời tăng sinh lực chống lại các cám dỗ và nếu có tội thì được tha. Khi truyền chức linh mục giám mục xức dầu hai tay linh mục. Khi truyền chứ giám mục thì giám mục chủ tế sức dầu trên đầu vị tâm giám mục với ý nghĩa thánh hiến và thánh hoá con người và công việc người đó sẽ đảm trách.
Dầu thánh được dùng trong phụng vụ mang ý nghĩa đặc biệt. Dầu ôliu được chọn làm dầu thánh vì tự bản chất của dầu vừa tốt cả về phẩm lẫn ít bị thái hoá do khí hậu và thời gian nên dầu được chọn biểu trưng cho sự giầu mạnh, bền bỉ và tốt lành của ân sủng Chúa. Hương thơm được pha trộn tượng trưng cho các đức tính cao quí, ngạt ngào hương thơm, tốt lành trong đạo. Dầu tượng trưng cho sức mạnh trong khi hương thơm tượng trưng cho sự bền bỉ.
Việc sức dầu tượng trưng cho việc lãnh nhận ân sủng Chúa và sức mạnh tinh thần cần thiết giúp người Kitô hữu sống đạo, chống lại tàn phá, huỷ diệt của cơn cám dỗ đồng thời toả hương thơm Lời Chúa cho tha nhân.
Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ Tiệc Ly tại nhà tù Regina Coeli
Đặng Tự Do
19:00 29/03/2018
Lúc 4h chiều ngày thứ Năm 29 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã đến thăm và cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly tại nhà tù Regina Coeli, nghĩa là Nữ Vương Thiên Đàng, của thành phố Rôma cách Vatican khoảng 1600m
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha đã được bà Giám Đốc trại giam và linh mục tuyên úy nhà tù đón tiếp khi ngài vừa xuống xe.
Nhà tù Regina Coeli là một tu viện cũ được xây dựng vào những năm 1600, và đã hoạt động liên tục cho đến nay từ những năm 1890. Mặc dù chính phủ cho biết sức chứa của nhà tù này không quá 600 tù nhân, nhưng các cuộc điều tra dân số hàng tháng kể từ tháng 3 năm 2017 đã cho thấy bình quân có tới hơn 900 người bị giam giữ nơi đây. Hơn một nửa số tù nhân không phải là người Ý.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với các tù nhân tại nhà tù Regina Coeli hiện diện trong Thánh Lễ Tiệc Ly rằng Chúa Giêsu liều mạng sống mình khi phục vụ những người khác vì Ngài yêu mến họ rất nhiều.
Đức Thánh Cha đã ứng khẩu giảng trong Thánh Lễ Tiệc Ly ở nhà tù Regina Coeli, và tập trung bài giảng của ngài vào bài Phúc Âm theo thánh Gioan, trong đó Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Người.
Chúa Giêsu làm công việc của một người nô lệ làm
Đức Thánh Cha giải thích rằng rửa chân cho người khác là một nhiệm vụ được thực hiện bởi những người nô lệ. “Khi chủ trở về nhà sau những bước chân trên những con đường bụi bặm, một người nô lệ sẽ phục dịch rửa chân cho chủ. Đức Giêsu muốn làm việc này để cho chúng ta một tấm gương về cách chúng ta phải phục vụ lẫn nhau”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
Sau đó, Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Phúc Âm khác, trong đó có hai môn đệ “muốn thăng quan tiến chức” đã yêu cầu Chúa Giêsu ban cho họ những vị trí quan trọng nhất. Sau khi nhìn họ một cách trìu mến như Ngài vẫn làm, Chúa Giêsu nói với họ rằng họ không biết họ đang xin điều gì. Ngài mô tả những gì những người có quyền có thế làm là: “ra lệnh và bắt người khác phục vụ họ.” Trong suy nghĩ của những thời đại trước đây, Đức Thánh Cha nói rằng có rất nhiều vị vua và những người độc ác khác đã bắt những người khác, đôi khi là cả một dân tộc, phải làm nô lệ cho mình. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng giữa anh em thì không được cư xử như thế với nhau. “Người chỉ huy phải phục vụ,” Đức Giáo Hoàng nhắc nhở thêm rằng: “Chúa Giêsu đã lật đổ các quán tính văn hoá lịch sử của thời đó, cũng như trong thời đại hôm nay của chúng ta.”. Đức Thánh Cha nhận xét rằng: nếu các vị vua và hoàng đế trong quá khứ hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu và đã phục vụ thay vì ra lệnh và chém giết thì “rất nhiều cuộc chiến tranh đã không bao giờ xảy ra,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phục vụ ngày hôm nay qua tôi
Trở lại với những người có mặt, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với họ rằng Chúa Giêsu đã phán cùng những người bị xã hội bỏ qua rằng họ là những người quan trọng. “Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phục vụ chúng ta ngày hôm nay đây, ở đây trong khám đường Regina Coeli này.” Chúa Giêsu tự mình mạo hiểm vì mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu không biết làm thế nào để rửa tay ngoảnh mặt làm ngơ, giả câm giả điếc trước những đau khổ của người khác. Ngài chỉ biết liều mình vì tên của Ngài là Giêsu, chứ không phải là Phongxiô Philatô. Khi đi tìm con chiên bị lạc, Chúa Giêsu có nguy cơ bị thương, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định.
“Tôi là một tội nhân như các bạn. Nhưng hôm nay tôi đại diện cho Chúa Giêsu,” Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích. Sau đó, ngài mời gọi các tù nhân suy nghĩ về sự thật này, trong khi ngài rửa chân cho họ, “Chúa Giêsu chấp nhận hiểm nguy để đến với người đàn ông này, một tội nhân, Ngài đến với tôi để nói với tôi rằng Ngài yêu thương tôi. Đây là sự phục vụ. Đây là Chúa Giêsu. Trước khi trao ban cho chúng ta chính Mình và Máu Ngài, Chúa Giêsu liều mình mạo hiểm vì mỗi người trong chúng ta – Ngài đã liều mình phục vụ - bởi vì Ngài yêu chúng ta rất nhiều.”
Trước Thánh lễ, Đức Giáo Hoàng đã thăm những người bị bệnh trong nhà tù. Sau thánh lễ ngài đã gặp một số tù nhân trong Khu 8 của trại giam. Khu này được thiết kế để làm nơi cư trú được bảo vệ cho các tù nhân bị kết án về tội phạm tình dục và các tù nhân khác là những người có thể bị nguy hiểm khi sống chung với các tù nhân phạm các tội khác.
Source Vatican News - Pope Francis at Mass of the Lord’s Supper: 'Jesus risks himself in service'
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha đã được bà Giám Đốc trại giam và linh mục tuyên úy nhà tù đón tiếp khi ngài vừa xuống xe.
Nhà tù Regina Coeli là một tu viện cũ được xây dựng vào những năm 1600, và đã hoạt động liên tục cho đến nay từ những năm 1890. Mặc dù chính phủ cho biết sức chứa của nhà tù này không quá 600 tù nhân, nhưng các cuộc điều tra dân số hàng tháng kể từ tháng 3 năm 2017 đã cho thấy bình quân có tới hơn 900 người bị giam giữ nơi đây. Hơn một nửa số tù nhân không phải là người Ý.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với các tù nhân tại nhà tù Regina Coeli hiện diện trong Thánh Lễ Tiệc Ly rằng Chúa Giêsu liều mạng sống mình khi phục vụ những người khác vì Ngài yêu mến họ rất nhiều.
Đức Thánh Cha đã ứng khẩu giảng trong Thánh Lễ Tiệc Ly ở nhà tù Regina Coeli, và tập trung bài giảng của ngài vào bài Phúc Âm theo thánh Gioan, trong đó Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Người.
Chúa Giêsu làm công việc của một người nô lệ làm
Đức Thánh Cha giải thích rằng rửa chân cho người khác là một nhiệm vụ được thực hiện bởi những người nô lệ. “Khi chủ trở về nhà sau những bước chân trên những con đường bụi bặm, một người nô lệ sẽ phục dịch rửa chân cho chủ. Đức Giêsu muốn làm việc này để cho chúng ta một tấm gương về cách chúng ta phải phục vụ lẫn nhau”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
Sau đó, Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Phúc Âm khác, trong đó có hai môn đệ “muốn thăng quan tiến chức” đã yêu cầu Chúa Giêsu ban cho họ những vị trí quan trọng nhất. Sau khi nhìn họ một cách trìu mến như Ngài vẫn làm, Chúa Giêsu nói với họ rằng họ không biết họ đang xin điều gì. Ngài mô tả những gì những người có quyền có thế làm là: “ra lệnh và bắt người khác phục vụ họ.” Trong suy nghĩ của những thời đại trước đây, Đức Thánh Cha nói rằng có rất nhiều vị vua và những người độc ác khác đã bắt những người khác, đôi khi là cả một dân tộc, phải làm nô lệ cho mình. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng giữa anh em thì không được cư xử như thế với nhau. “Người chỉ huy phải phục vụ,” Đức Giáo Hoàng nhắc nhở thêm rằng: “Chúa Giêsu đã lật đổ các quán tính văn hoá lịch sử của thời đó, cũng như trong thời đại hôm nay của chúng ta.”. Đức Thánh Cha nhận xét rằng: nếu các vị vua và hoàng đế trong quá khứ hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu và đã phục vụ thay vì ra lệnh và chém giết thì “rất nhiều cuộc chiến tranh đã không bao giờ xảy ra,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phục vụ ngày hôm nay qua tôi
Trở lại với những người có mặt, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với họ rằng Chúa Giêsu đã phán cùng những người bị xã hội bỏ qua rằng họ là những người quan trọng. “Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phục vụ chúng ta ngày hôm nay đây, ở đây trong khám đường Regina Coeli này.” Chúa Giêsu tự mình mạo hiểm vì mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu không biết làm thế nào để rửa tay ngoảnh mặt làm ngơ, giả câm giả điếc trước những đau khổ của người khác. Ngài chỉ biết liều mình vì tên của Ngài là Giêsu, chứ không phải là Phongxiô Philatô. Khi đi tìm con chiên bị lạc, Chúa Giêsu có nguy cơ bị thương, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định.
“Tôi là một tội nhân như các bạn. Nhưng hôm nay tôi đại diện cho Chúa Giêsu,” Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích. Sau đó, ngài mời gọi các tù nhân suy nghĩ về sự thật này, trong khi ngài rửa chân cho họ, “Chúa Giêsu chấp nhận hiểm nguy để đến với người đàn ông này, một tội nhân, Ngài đến với tôi để nói với tôi rằng Ngài yêu thương tôi. Đây là sự phục vụ. Đây là Chúa Giêsu. Trước khi trao ban cho chúng ta chính Mình và Máu Ngài, Chúa Giêsu liều mình mạo hiểm vì mỗi người trong chúng ta – Ngài đã liều mình phục vụ - bởi vì Ngài yêu chúng ta rất nhiều.”
Trước Thánh lễ, Đức Giáo Hoàng đã thăm những người bị bệnh trong nhà tù. Sau thánh lễ ngài đã gặp một số tù nhân trong Khu 8 của trại giam. Khu này được thiết kế để làm nơi cư trú được bảo vệ cho các tù nhân bị kết án về tội phạm tình dục và các tù nhân khác là những người có thể bị nguy hiểm khi sống chung với các tù nhân phạm các tội khác.
Source Vatican News - Pope Francis at Mass of the Lord’s Supper: 'Jesus risks himself in service'
Tòa Thánh bác bỏ tin đồn sắp ký thỏa thuận với Bắc Kinh
Đặng Tự Do
19:42 29/03/2018
Sáng thứ Năm 29 tháng Ba, Tòa Thánh đã bác bỏ một tuyên bố cho rằng một thỏa thuận với Bắc Kinh sắp xảy ra, sau khi một tờ báo do chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn tường thuật rằng một thỏa thuận như thế có thể được ký trong Tuần Thánh này.
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo trích dẫn lời “giám mục” Quách Kim Tài, Tổng thư ký Hội Đồng Giám mục Trung Quốc, rằng các cuộc đàm phán đang ở trong “giai đoạn cuối cùng”.
“Nếu mọi việc diễn ra theo dự trù, thoả thuận này có thể được ký kết ngay cả vào cuối tháng này”, vị “giám mục dỏm” nói. “Thời điểm phụ thuộc vào các chi tiết của thỏa thuận và các vấn đề kỹ thuật khác.”
Tuy nhiên, ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho biết hôm thứ Năm rằng chẳng có sự ký kết nào “sắp xảy ra”.
Ông nói với các ký giả:
“Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn tiếp tục liên lạc với các cộng tác viên của ngài về các vấn đề Trung Quốc và theo sát với các bước của cuộc đối thoại đang còn tiếp diễn”.
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo cũng tìm cách nói nước đôi khi trích dẫn bà Wang Meixiu, một nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, là người nói rằng vẫn còn những điều không chắc chắn.
“Một thoả thuận về các nguyên tắc chung về việc bổ nhiệm các giám mục sẽ không xảy ra nếu hai bên không công bố một văn bản hay một thỏa thuận riêng về việc liệu Tòa Thánh Vatican có công nhận bảy giám mục được chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn hay không”, bà nói.
Các “giám mục” này bao gồm một số người đã bị vạ tuyệt thông sau khi được phong chức mà không có sự chấp thuận của Vatican.
Tin đồn về một thỏa thuận sắp được ký kết đã bùng lên sau những lời phát biểu của Đức Hồng Y Gioan Thang Hán, nguyên Giám Mục Hương Cảng tại một hội nghị diễn ra trong hai ngày 22 và 23 tháng Ba tại Đại Học Giáo Hoàng Grêgôriô tại Rôma. Hội nghị có chủ đề là “Kitô giáo trong Xã hội Trung Quốc: Ảnh hưởng, Tương tác và Sự Hội Nhập Văn hoá”. Đức Hồng Y Gioan Thang Hán cho rằng thỏa thuận giữa Vatican và Bắc Kinh “sắp xảy ra” và “những ai chống lại thỏa thuận này đang hành động một cách vô lý”.
Lời phản bác của ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho thấy đây là lần thứ hai, Hồng Y Gioan Thang Hán đưa ra những tin đồn “thất thiệt” liên quan đến cuộc đối thoại với Trung quốc.
Trong một diễn biến trước đó, Đức Giám Mục Vincent Quách Tích Kim đã được thả ra sau khi bị chính quyền giam giữ qua đêm. Ngài bị an ninh bắt giữ vào tối ngày 26 tháng Ba, cùng với vị linh mục chưởng ấn.
Đức Giám Mục Quách Tích Kim, năm nay 59 tuổi, là vị giám mục thầm lặng của Mân Đông, được Tòa Thánh công nhận nhưng cộng sản không chấp nhận và hỗ trợ một giám mục bất hợp pháp là “giám mục” Chiêm Tư Lỗ, hiện nay vẫn còn mắc vạ tuyệt thông.
Đức Cha Quách Tích Kim đã bị yêu cầu bước sang một bên nhường chỗ cho Chiêm Tư Lỗ.
Theo nguồn tin cuả AsiaNews thì Đức Cha Quách Tích Kim đã từ chối không đồng tế với Chiêm Tư Lỗ trong thánh lễ Truyền Dầu tại nhà thờ chính tòa Mân Đông.
Source: Catholic Herald Vatican denies that China deal is ‘imminent’
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo trích dẫn lời “giám mục” Quách Kim Tài, Tổng thư ký Hội Đồng Giám mục Trung Quốc, rằng các cuộc đàm phán đang ở trong “giai đoạn cuối cùng”.
“Nếu mọi việc diễn ra theo dự trù, thoả thuận này có thể được ký kết ngay cả vào cuối tháng này”, vị “giám mục dỏm” nói. “Thời điểm phụ thuộc vào các chi tiết của thỏa thuận và các vấn đề kỹ thuật khác.”
Tuy nhiên, ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho biết hôm thứ Năm rằng chẳng có sự ký kết nào “sắp xảy ra”.
Ông nói với các ký giả:
“Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn tiếp tục liên lạc với các cộng tác viên của ngài về các vấn đề Trung Quốc và theo sát với các bước của cuộc đối thoại đang còn tiếp diễn”.
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo cũng tìm cách nói nước đôi khi trích dẫn bà Wang Meixiu, một nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, là người nói rằng vẫn còn những điều không chắc chắn.
“Một thoả thuận về các nguyên tắc chung về việc bổ nhiệm các giám mục sẽ không xảy ra nếu hai bên không công bố một văn bản hay một thỏa thuận riêng về việc liệu Tòa Thánh Vatican có công nhận bảy giám mục được chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn hay không”, bà nói.
Các “giám mục” này bao gồm một số người đã bị vạ tuyệt thông sau khi được phong chức mà không có sự chấp thuận của Vatican.
Tin đồn về một thỏa thuận sắp được ký kết đã bùng lên sau những lời phát biểu của Đức Hồng Y Gioan Thang Hán, nguyên Giám Mục Hương Cảng tại một hội nghị diễn ra trong hai ngày 22 và 23 tháng Ba tại Đại Học Giáo Hoàng Grêgôriô tại Rôma. Hội nghị có chủ đề là “Kitô giáo trong Xã hội Trung Quốc: Ảnh hưởng, Tương tác và Sự Hội Nhập Văn hoá”. Đức Hồng Y Gioan Thang Hán cho rằng thỏa thuận giữa Vatican và Bắc Kinh “sắp xảy ra” và “những ai chống lại thỏa thuận này đang hành động một cách vô lý”.
Lời phản bác của ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho thấy đây là lần thứ hai, Hồng Y Gioan Thang Hán đưa ra những tin đồn “thất thiệt” liên quan đến cuộc đối thoại với Trung quốc.
Trong một diễn biến trước đó, Đức Giám Mục Vincent Quách Tích Kim đã được thả ra sau khi bị chính quyền giam giữ qua đêm. Ngài bị an ninh bắt giữ vào tối ngày 26 tháng Ba, cùng với vị linh mục chưởng ấn.
Đức Giám Mục Quách Tích Kim, năm nay 59 tuổi, là vị giám mục thầm lặng của Mân Đông, được Tòa Thánh công nhận nhưng cộng sản không chấp nhận và hỗ trợ một giám mục bất hợp pháp là “giám mục” Chiêm Tư Lỗ, hiện nay vẫn còn mắc vạ tuyệt thông.
Đức Cha Quách Tích Kim đã bị yêu cầu bước sang một bên nhường chỗ cho Chiêm Tư Lỗ.
Theo nguồn tin cuả AsiaNews thì Đức Cha Quách Tích Kim đã từ chối không đồng tế với Chiêm Tư Lỗ trong thánh lễ Truyền Dầu tại nhà thờ chính tòa Mân Đông.
Source: Catholic Herald Vatican denies that China deal is ‘imminent’
Không chịu từ bỏ đức tin Kitô giáo, một nữ sinh Nigeria bị nhóm Boko Haram bắt giữ lại
Giuse Thẩm Nguyễn
20:15 29/03/2018
(Vatican News) Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Nigeria đã mô tả em Leah Sharibu như là biểu tượng của sự đau khổ và bách hại mà người Kitô giáo phải đối diện ngày nay ở trong nước.
Khi nhóm chiến binh Boko Haram ở Nigeria đồng ý thả các nữ sinh của trường Dapchi về cho gia đình tuần trước, thì chúng vẫn giữ em Leah Sharibu lại. Các em được thả về nói sở dĩ em Leah Sharibu bị giữ lại vì em đã không chịu từ bỏ đạo Kitô để theo đạo Hồi. Năm học sinh khác đã chết trong thời gian năm tuần bị nhóm Boko Haram giam giữ.
Giáo Hội Công Giáo Nigeria yêu cầu chính quyền can thiệp để thả em Leah.
Vào hôm thứ Tư, Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Nigeria (CBCN) kêu gọi chính quyền tăng cường nổ lực để em Leah được thả ra.
Tổng Thư Ký HĐGMCG Nigeria là cha Ralph Madu đã nói với hãng tin Vatican rằng “Chúng tôi dùng phương tiện này để kêu gọi chính quyền Liên Bang Nigeria cố gắng hơn nữa trong việc tái đàm phán để mau chóng thả em Leah ra vô điều kiện.”
Em Leah – một biểu tượng của sự bách hại.
Cha Madu nói thêm rằng vụ bắt cóc này, cái chết vô tội của năm em học sinh trường Dapchi và những oan khiên hiện tại của Leah là một nhắc nhở mạnh mẽ về bao khó khăn mà người tín hữu Nigeria đang phải chịu.
“ Em gái 15 tuổi Leah đã thực sự trở thành biểu tượng của đau khổ, bách hại, thách thức và đe dọa mà những Kitô hữu phải đối diện hằng ngày ở Nigeria khi bày tỏ đức tin của mình, nhất là ở những nơi công cộng.”
Giáo Hội Công Giáo Nigeria tiếp tục cầu nguyện cho em Leah và gia đình em.
Cha của em Leah là ông Nathaniel Sharibu, một cảnh sát và cũng là thành viên của “Hội Truyền Giáo” (Evangelical Church Winning All : ECWA) cũng thỉnh nguyện chính quyền can thiệp để con gái của mình được thả ra trước lễ Phục Sinh. Truyền thông Nigerian trích lời ông Sharibu rằng, “Tôi rất đau buồn, nhưng tôi cũng rất vui mừng vì con gái của tôi đã không từ bỏ niềm tin của mình.”
Hội Truyền Giáo (ECWA) là một Giáo Hội Tin Lành có số thành viên nhiều nhất ở Trung Phi hiện nay.
Bước theo những bước của Chúa Kitô.
Một số nhà bình luận truyền thông ở Nigeria đã cho rằng cách thế em Leah phải đối phó với nguy hiểm hiện nay là “không khôn ngoan”. Tuy nhiên,HĐGMCG Nigeria thì cho rằng Leah đang bước theo những bước chân của Chúa Giê-su trên con đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế, sự chết và sự sống lại mà các Kitô hữu kỷ niệm vào tuần này.
Giuse Thẩm Nguyễn
Khi nhóm chiến binh Boko Haram ở Nigeria đồng ý thả các nữ sinh của trường Dapchi về cho gia đình tuần trước, thì chúng vẫn giữ em Leah Sharibu lại. Các em được thả về nói sở dĩ em Leah Sharibu bị giữ lại vì em đã không chịu từ bỏ đạo Kitô để theo đạo Hồi. Năm học sinh khác đã chết trong thời gian năm tuần bị nhóm Boko Haram giam giữ.
Giáo Hội Công Giáo Nigeria yêu cầu chính quyền can thiệp để thả em Leah.
Vào hôm thứ Tư, Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Nigeria (CBCN) kêu gọi chính quyền tăng cường nổ lực để em Leah được thả ra.
Tổng Thư Ký HĐGMCG Nigeria là cha Ralph Madu đã nói với hãng tin Vatican rằng “Chúng tôi dùng phương tiện này để kêu gọi chính quyền Liên Bang Nigeria cố gắng hơn nữa trong việc tái đàm phán để mau chóng thả em Leah ra vô điều kiện.”
Em Leah – một biểu tượng của sự bách hại.
Cha Madu nói thêm rằng vụ bắt cóc này, cái chết vô tội của năm em học sinh trường Dapchi và những oan khiên hiện tại của Leah là một nhắc nhở mạnh mẽ về bao khó khăn mà người tín hữu Nigeria đang phải chịu.
“ Em gái 15 tuổi Leah đã thực sự trở thành biểu tượng của đau khổ, bách hại, thách thức và đe dọa mà những Kitô hữu phải đối diện hằng ngày ở Nigeria khi bày tỏ đức tin của mình, nhất là ở những nơi công cộng.”
Giáo Hội Công Giáo Nigeria tiếp tục cầu nguyện cho em Leah và gia đình em.
Cha của em Leah là ông Nathaniel Sharibu, một cảnh sát và cũng là thành viên của “Hội Truyền Giáo” (Evangelical Church Winning All : ECWA) cũng thỉnh nguyện chính quyền can thiệp để con gái của mình được thả ra trước lễ Phục Sinh. Truyền thông Nigerian trích lời ông Sharibu rằng, “Tôi rất đau buồn, nhưng tôi cũng rất vui mừng vì con gái của tôi đã không từ bỏ niềm tin của mình.”
Hội Truyền Giáo (ECWA) là một Giáo Hội Tin Lành có số thành viên nhiều nhất ở Trung Phi hiện nay.
Bước theo những bước của Chúa Kitô.
Một số nhà bình luận truyền thông ở Nigeria đã cho rằng cách thế em Leah phải đối phó với nguy hiểm hiện nay là “không khôn ngoan”. Tuy nhiên,HĐGMCG Nigeria thì cho rằng Leah đang bước theo những bước chân của Chúa Giê-su trên con đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế, sự chết và sự sống lại mà các Kitô hữu kỷ niệm vào tuần này.
Giuse Thẩm Nguyễn
Trong Thánh Lễ Tiệc Ly, ĐGH Phanxicô nói“Chúa Giê-su tự hiến mình để phục vụ”
Giuse Thẩm Nguyễn
20:17 29/03/2018
(Vatican News) ĐGH Phanxicô đã nói với các tù nhân hiện diện trong Thánh Lễ Tiệc Ly tại nhà tù Regina Coeli rằng Chúa Giê-su đã tự hiến mình để phục vụ tha nhân vì quá yêu con người , đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài như lời tường thuật trong bài Tin Mừng theo Thánh Gioan.
Chúa Giê-su làm công việc của một người nô lệ.
ĐGH giải thích rằng đây là công việc bổn phận của một người nô lệ. Người lữ hành bước vào nhà với đôi chân vướng đầy bụi đường, thế là người nô lệ có bổn phận “ phục vụ” bằng cách lấy nước mà rửa đôi chân ấy cho người chủ. “Chúa Giê-su muốn làm công việc phục vụ này để làm gương cho chúng ta về cách chúng ta phải phục vụ nhau.”
Người cầm quyền là người phải phục vụ.
ĐGH đưa ra đoạn văn kể về việc hai môn đệ “muốn trèo lên bậc thang chức quyền” và đã xin Chúa Giê-su ban cho họ những chức vị quan trọng nhất. Sau khi âu yếm nhìn họ như thường lệ, Đức Giê-su đã nói với họ rằng họ không biết họ đang xin gì. Rồi Ngài mô tả cho họ biết việc mà những người nắm giữ chức quyền làm là: “ra lệnh và bắt người khác phục vụ mình.” Hướng về thời gian trong quá khứ, ĐGH nói rằng có rất nhiều vua chúa và những kẻ tàn bạo bắt những người khác làm nô lệ cho mình. Nhưng Chúa Giê-su dạy rằng chúng ta không được làm như vậy. “Người cầm quyền phải là người phục vụ.” Chúa Giê-su đã lật ngược những thói quen văn hóa lịch sử hồi đó cũng như thời đại của chúng ta hiện nay. Giá mà những vua chúa và vương đế hồi xa xưa ấy hiểu được lời dạy của Chúa mà phục vụ nhân dân thay vì ra lệnh và giết chóc, thì “những cuộc chiến tranh điêu tàn có lẽ đã không bao giờ xảy ra.”
Chúa Giê-su phục vu trong tôi hôm nay.
Hướng về những người hiện diện, ĐGH Phanxicô nói với họ rằng Chúa nói những người bị xã hội loại bỏ là những người rất quan trọng. “Chúa Giê-su phục vụ chúng ta hôm nay, tại nhà tù Regina Coeli này.” Chúa đã tự hiến mình vì mỗi người chúng ta. Chúa Giê-su không biết làm thế nào để rửa tay của con người. Ngài biết làm thế nào để tự hiến tên của mình là Giê-su, chứ không phải tên tổng trấn Pontius Philatô. Khi đi theo những con chiên lạc, Chúa Giêsu chấp nhận nguy cơ có thể bị thương tích.
ĐGH thú nhận rằng “Cha cũng là một người tội lỗi như các con, nhưng cha đại diện cho Chúa Giê-su hôm nay.” Sau đó ngài mời những tù nhân suy nghĩ về sự kiện này khi ngài rửa chân cho họ, rằng “Chúa Giê-su đã liều mình với người này, một người tội lỗi, để đến với tôi và nói cho tôi biết là Ngài yêu tôi. Đây là sự phục vụ. Đây là Chúa Giê-su. Trước khi ban cho chúng ta chính thân mình và máu ngài, Chúa Giê-su đã tự hiến mình vì mỗi người chúng ta – tự hiến mình để phục vụ, vì Ngài yêu chúng ta vô ngần.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Chúa Giê-su làm công việc của một người nô lệ.
ĐGH giải thích rằng đây là công việc bổn phận của một người nô lệ. Người lữ hành bước vào nhà với đôi chân vướng đầy bụi đường, thế là người nô lệ có bổn phận “ phục vụ” bằng cách lấy nước mà rửa đôi chân ấy cho người chủ. “Chúa Giê-su muốn làm công việc phục vụ này để làm gương cho chúng ta về cách chúng ta phải phục vụ nhau.”
Người cầm quyền là người phải phục vụ.
ĐGH đưa ra đoạn văn kể về việc hai môn đệ “muốn trèo lên bậc thang chức quyền” và đã xin Chúa Giê-su ban cho họ những chức vị quan trọng nhất. Sau khi âu yếm nhìn họ như thường lệ, Đức Giê-su đã nói với họ rằng họ không biết họ đang xin gì. Rồi Ngài mô tả cho họ biết việc mà những người nắm giữ chức quyền làm là: “ra lệnh và bắt người khác phục vụ mình.” Hướng về thời gian trong quá khứ, ĐGH nói rằng có rất nhiều vua chúa và những kẻ tàn bạo bắt những người khác làm nô lệ cho mình. Nhưng Chúa Giê-su dạy rằng chúng ta không được làm như vậy. “Người cầm quyền phải là người phục vụ.” Chúa Giê-su đã lật ngược những thói quen văn hóa lịch sử hồi đó cũng như thời đại của chúng ta hiện nay. Giá mà những vua chúa và vương đế hồi xa xưa ấy hiểu được lời dạy của Chúa mà phục vụ nhân dân thay vì ra lệnh và giết chóc, thì “những cuộc chiến tranh điêu tàn có lẽ đã không bao giờ xảy ra.”
Chúa Giê-su phục vu trong tôi hôm nay.
Hướng về những người hiện diện, ĐGH Phanxicô nói với họ rằng Chúa nói những người bị xã hội loại bỏ là những người rất quan trọng. “Chúa Giê-su phục vụ chúng ta hôm nay, tại nhà tù Regina Coeli này.” Chúa đã tự hiến mình vì mỗi người chúng ta. Chúa Giê-su không biết làm thế nào để rửa tay của con người. Ngài biết làm thế nào để tự hiến tên của mình là Giê-su, chứ không phải tên tổng trấn Pontius Philatô. Khi đi theo những con chiên lạc, Chúa Giêsu chấp nhận nguy cơ có thể bị thương tích.
ĐGH thú nhận rằng “Cha cũng là một người tội lỗi như các con, nhưng cha đại diện cho Chúa Giê-su hôm nay.” Sau đó ngài mời những tù nhân suy nghĩ về sự kiện này khi ngài rửa chân cho họ, rằng “Chúa Giê-su đã liều mình với người này, một người tội lỗi, để đến với tôi và nói cho tôi biết là Ngài yêu tôi. Đây là sự phục vụ. Đây là Chúa Giê-su. Trước khi ban cho chúng ta chính thân mình và máu ngài, Chúa Giê-su đã tự hiến mình vì mỗi người chúng ta – tự hiến mình để phục vụ, vì Ngài yêu chúng ta vô ngần.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Thứ Sáu Tuần Thánh tại Giêrusalem - Đàng Thánh Giá cảm động trên đường Chúa lên đồi Golgotha
VietCatholic Network
21:28 29/03/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Vào lúc 11 giờ sáng, các hiệp sĩ Thánh Mộ và anh chị em tín hữu đã đi đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi để lên đồi Golgotha.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Được đi lại trên chính con đường thương khó Chúa đã đi qua là một kinh nghiệm sâu sắc thay đổi cuộc đời biết bao người hành hương đến Giêrusalem.
Tương truyền, sinh thời Đức Mẹ có thói quen hàng ngày đi viếng lại tất cả những nơi Chúa Con đã đi qua trong cuộc tử nạn. Sau khi hoàng đế Constantine công nhận Kitô giáo vào năm 313, địa điểm của một số chặng quan trọng trong đàng thánh giá này đã được xác định cụ thể. Trong một tác phẩm của mình Thánh Giêrônimô sinh năm 342 và qua đời năm 420 tại Bê-lem cho biết có nhiều đám đông hành hương từ nhiều nước khác nhau đến thăm các nơi thánh và đi đàng thánh giá tại Thánh Địa.
Năm 1342, các tu sĩ Phanxicô được chỉ định làm người canh giữ các di tích Thánh Địa. Các tín hữu sẽ nhận được ân xá khi cầu nguyện ở những chặng sau: Tại dinh tổng trấn Philatô, tại nơi Đức Mẹ gặp Đức Giêsu, tại nơi Chúa ngỏ lời với các người phụ nữ thành Giêrusalem, tại nơi Chúa gặp ông Simôn thành Kirênê, tại nơi lính tráng lột áo Chúa, tại nơi Chúa chịu đóng đinh, và tại hang đá nơi an táng Chúa.
Khi những người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ chặn đường sang Thánh Địa, việc cho tái dựng các chặng đàng thánh giá được thực hiện tại các trung tâm hành hương lớn trên thế giới,
Vào cuối thế kỷ thứ 17, việc cho dựng các chặng đàng thánh giá trong các nhà thờ ngày trở nên phổ biến. Năm 1686, Đức Innocent 11 nhận thấy hiếm người có thể tới được Thánh Địa vì sự cấm cản của Hồi giáo, ngài ban cho các tu sĩ dòng thánh Phanxicô đặc quyền được dựng chặng đàng thánh giá nơi tất cả các nhà thờ của mình. Năm 1731 Đức Clementê 12 mở rộng đặc quyền này hơn nữa và cho phép tất cả mọi nhà thờ được đặt các chặng đàng thánh giá.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đoàn Việt Nam dự lễ lá tại Giêrusalem do cha Nguyễn Tầm Thường hướng dẫn
Lm, Nguyễn Tầm Thường
04:11 29/03/2018
Thánh Lễ Truyền Dầu tại Giáo Phận Đà Nẵng- năm 2018
Tôma Trương văn Ân
12:12 29/03/2018
Lúc 5 giờ 30 sáng Thứ Năm Tuần Thánh (29.3.2018), tại sân nhà thờ Chính Tòa Đà Nẵng, Đức Cha Giuse– Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã Chủ sự Thánh lễ Truyền dầu, khai mạc Tam nhật Thánh. Chủ đề của Thánh lễ là lời trích trong sách Luca “ Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi “ ( Lc 4,18a )
Hôm nay là ngày hội lớn của Dân Thiên Chúa trong toàn Giáo phận , mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa tụ họp quanh Đức Giám Mục, một cuộc tụ họp mang đầy tính Thần học , Bí Tích , mục vụ và hiệp thông. Chúa Ki-tô mục tử hiện diện giữa cộng đoàn , giáo huấn , nuôi dưỡng và kết nối mọi người nên một trong Ngài.
Xem Hình
Trong Thánh lễ này , Đức Giám Mục giáo phận làm phép Thánh hiến Dầu Thánh , Dầu Dự Tòng và Dầu Bệnh Nhân. Các Dầu này qua tay các Thừa tác viên Linh mục , Sự sống của Chúa Ki-tô được chuyển đến từng Tín hữu là chi thể , trong nhiệm thể của Ngài.
Người Tín Hữu được mời gọi cầu nguyện và cộng tác với các Linh mục cách đặc biệt , để các Linh mục nên Thánh giữa đời , nhằm Thánh hóa dân Chúa.
Mỗi Tín hữu khi nhận Bí tích Rửa tội, đã được thông dự sứ vụ Tư tế, Vương đế và Ngôn sứ, mỗi người một phần vụ khác nhau. Chúa Thánh Thần sai chúng ta đến với anh chị em chưa nhận biết Chúa. Cộng đoàn dân Chúa là muối men , là hương thơm cho anh chị em nơi mình đang sống và làm việc.
Sau bài đọc Tin Mừng , Đức Giám Mục nêu các ý nghĩa củaThánh Lễ Truyền Dầu trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Cách đặc biệt Chúa Ki tô lập Bí Tích Thánh Thể và Thiên chức Linh mục. Đức Cha huấn dụ các Linh mục và các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận Chức Linh mục , về việc muốn gắn bó hơn với Chúa Giê-su và cố gắng noi gương Người mà từ bỏ bản thân và trung thành với các Mầu nhiệm của Thiên Chúa khi rao giảng Lời Chúa , cử hành các bí tích, thi hành chức vụ một cách nhiệt thành và vô vị lợi. Đức Cha thuật lại việc Đức Thánh Cha Phan-xi-cô tiếp đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam trong chuyến Ad Limina vừa qua. Đức Thánh Cha nhắc các Giám mục và Linh mục “ …mang mùi chiên..” mùi chiên không chỉ phảng phất trên áo , mà thấm đẩm vào da thịt… Linh mục phải hiện diện , săn sóc và bảo vệ đàn chiên…
Tiếp đó, Đức Giám Mục mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các Linh mục , cho Đức Cha Phao lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh ( đang hưu dưỡng) và cầu nguyện cho Ngài, để các Đức Giám Mục trung thành với sứ mạng Tông đồ Chúa đã giao phó và trở nên hình ảnh sống động và trung thực của Chúa Ki-tô , là Tư tế , mục tử, tôn sư và tôi tớ mọi người.
Sau bài huấn dụ , Đức Giám Mục tiếp nhận 3 loại dầu do 3 Thầy Phó tế tiến dâng : Dầu Thánh (SC), Dầu bệnh nhân (OI) và Dầu Dự tòng (OS). Đức Cha đã làm phép và Thánh hiến các loại dầu. Dầu Thánh còn được gọi là Dầu Chrisma , được dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín : Được xức cho các tân tòng trong Bí tích Rửa tội, cho các Kitô hữu trong Bí tích Thêm Sức, cho các Linh mục và một cách sung mãn cho các Giám mục trong Bí tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để xức khi cung hiến bàn thờ và nhà thờ. Dầu Dự Tòng được xức cho các dự tòng trước khi Rửa tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác để chuẩn bị gia nhập trọn vẹn vào Hội Thánh Chúa. Dầu Bệnh nhân dùng để xức cho những người yếu liệt, xin ơn thánh và sức mạnh, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong Đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn.
Cuối Thánh lễ, cha Phao-lô Phạm Thanh Thảo, Chánh Văn phòng đã công bố quyết định trao ban “ Thừa tác vụ ngoại thường trao mình Thánh Chúa” của Đức Giám Mục Giáo phận cho 300 giáo dân và Tu sĩ thuộc 50 giáo xứ, 6 giáo họ biệt lập và các Cộng đoàn Dòng tu, trong toàn giáo phận. Trong phần huấn dụ trước nghi thức, Đức Giám Mục chủ lễ mời gọi những anh chị em sắp nhận tác vụ cần xác tín bổn phận của mình là phải trở nên một với Chúa Ki-tô ; khi trao Mình Chúa cũng là cơ hội thể hiện đức ái huynh đệ ; đồng thời, mỗi ngày thêm thăng tiến trong đời sống tin cậy mến để thi hành sứ vụ ; vui lòng nhận lãnh trách vụ ; sẵn lòng phục vụ Bánh Hằng sống ; tôn kính, thận trọng, giữ gìn Thánh Thể
Trước lúc kết thúc Thánh lễ , trong tâm tình, Đức Giám Mục thông báo cho cộng đoàn biết và thi hành Sắc Lệnh về Thánh Lễ Tiệc ly (In Missa in Cena Domini) của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích do Đức Hồng Y Robert Sarah (Tổng Trưởng) và Đức Tổng Giám Mục Arthur Roche (Thư Ký) đã ấn ký Ngày 06/01/2016, Lễ trọng Hiển Linh, tại Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích.
Nội dung chính (1) ”. Theo quyết định mới của Đức Thánh Cha Phanxicô và của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, những người được rửa chân không còn giới hạn trong giới tính nam nữa. Trong Thư gửi Đức Hồng Y Robert Sarah, Đức Thánh Cha viết: “Kể từ nay, các vị mục tử của Giáo Hội có thể chọn những người được tham dự vào nghi thức rửa chân trong số tất cả các thành phần dân Chúa”. Thể theo quyết định của Đức Thánh Cha trong Sắc Lệnh In Missa in Cena Domini, Đức Hồng Y Robert Sarah triển khai quyết định của Đức Thánh Cha cách rõ ràng: “Các mục tử có thể chọn một nhóm nhỏ các tín hữu đại diện các thành phần dân Chúa. Nhóm nhỏ ấy có thể gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ, người trẻ, người già, người lành mạnh và bệnh nhân, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân”. Về con số 12 người được rửa chân, cũng mới được đưa vào quy định từ năm 1955, thời Đức Giáo Hoàng Piô XII. Trước năm 1955, số người được rửa chân không được xác định. Sách lễ Rôma 1970 tiếp tục duy trì giới tính nam cho những người được rửa chân, theo quy định của Đức Piô XII, nhưng không duy trì số lượng 12 người. Theo quy định hiện hành, số lượng người cũng không được xác định, chỉ nói “một nhóm nhỏ”. “Một nhóm nhỏ”, như vậy không có chuyện rửa chân cho tất cả những ai tham dự Thánh Lễ Tiệc Ly hay rửa chân cho cả trăm người. Một nhóm từ dăm bảy người tới dưới hai chục người vốn được coi là nhóm nhỏ. Về con số, có thể chọn một vài con số có ý nghĩa biểu tượng Kitô giáo, như số 7 – biểu thị sự viên mãn, 12 – các chi tộc dân Israel hoặc 12 Tông Đồ, 14 – hai lần con số 7…
Phép lành trên cộng đoàn và các Thừa tác viên kết thúc Thánh Lễ Truyền Dầu khi ánh mặt trời vừa tỏ rạng.
Tôma Trương văn Ân
(1) https://hddmvn.net/sac-lenh-va-giai-thich-ve-nghi-thuc-rua-chan-thu-nam-tuan-thanh/
Hôm nay là ngày hội lớn của Dân Thiên Chúa trong toàn Giáo phận , mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa tụ họp quanh Đức Giám Mục, một cuộc tụ họp mang đầy tính Thần học , Bí Tích , mục vụ và hiệp thông. Chúa Ki-tô mục tử hiện diện giữa cộng đoàn , giáo huấn , nuôi dưỡng và kết nối mọi người nên một trong Ngài.
Xem Hình
Trong Thánh lễ này , Đức Giám Mục giáo phận làm phép Thánh hiến Dầu Thánh , Dầu Dự Tòng và Dầu Bệnh Nhân. Các Dầu này qua tay các Thừa tác viên Linh mục , Sự sống của Chúa Ki-tô được chuyển đến từng Tín hữu là chi thể , trong nhiệm thể của Ngài.
Người Tín Hữu được mời gọi cầu nguyện và cộng tác với các Linh mục cách đặc biệt , để các Linh mục nên Thánh giữa đời , nhằm Thánh hóa dân Chúa.
Mỗi Tín hữu khi nhận Bí tích Rửa tội, đã được thông dự sứ vụ Tư tế, Vương đế và Ngôn sứ, mỗi người một phần vụ khác nhau. Chúa Thánh Thần sai chúng ta đến với anh chị em chưa nhận biết Chúa. Cộng đoàn dân Chúa là muối men , là hương thơm cho anh chị em nơi mình đang sống và làm việc.
Sau bài đọc Tin Mừng , Đức Giám Mục nêu các ý nghĩa củaThánh Lễ Truyền Dầu trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Cách đặc biệt Chúa Ki tô lập Bí Tích Thánh Thể và Thiên chức Linh mục. Đức Cha huấn dụ các Linh mục và các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận Chức Linh mục , về việc muốn gắn bó hơn với Chúa Giê-su và cố gắng noi gương Người mà từ bỏ bản thân và trung thành với các Mầu nhiệm của Thiên Chúa khi rao giảng Lời Chúa , cử hành các bí tích, thi hành chức vụ một cách nhiệt thành và vô vị lợi. Đức Cha thuật lại việc Đức Thánh Cha Phan-xi-cô tiếp đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam trong chuyến Ad Limina vừa qua. Đức Thánh Cha nhắc các Giám mục và Linh mục “ …mang mùi chiên..” mùi chiên không chỉ phảng phất trên áo , mà thấm đẩm vào da thịt… Linh mục phải hiện diện , săn sóc và bảo vệ đàn chiên…
Tiếp đó, Đức Giám Mục mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các Linh mục , cho Đức Cha Phao lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh ( đang hưu dưỡng) và cầu nguyện cho Ngài, để các Đức Giám Mục trung thành với sứ mạng Tông đồ Chúa đã giao phó và trở nên hình ảnh sống động và trung thực của Chúa Ki-tô , là Tư tế , mục tử, tôn sư và tôi tớ mọi người.
Sau bài huấn dụ , Đức Giám Mục tiếp nhận 3 loại dầu do 3 Thầy Phó tế tiến dâng : Dầu Thánh (SC), Dầu bệnh nhân (OI) và Dầu Dự tòng (OS). Đức Cha đã làm phép và Thánh hiến các loại dầu. Dầu Thánh còn được gọi là Dầu Chrisma , được dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín : Được xức cho các tân tòng trong Bí tích Rửa tội, cho các Kitô hữu trong Bí tích Thêm Sức, cho các Linh mục và một cách sung mãn cho các Giám mục trong Bí tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để xức khi cung hiến bàn thờ và nhà thờ. Dầu Dự Tòng được xức cho các dự tòng trước khi Rửa tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác để chuẩn bị gia nhập trọn vẹn vào Hội Thánh Chúa. Dầu Bệnh nhân dùng để xức cho những người yếu liệt, xin ơn thánh và sức mạnh, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong Đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn.
Cuối Thánh lễ, cha Phao-lô Phạm Thanh Thảo, Chánh Văn phòng đã công bố quyết định trao ban “ Thừa tác vụ ngoại thường trao mình Thánh Chúa” của Đức Giám Mục Giáo phận cho 300 giáo dân và Tu sĩ thuộc 50 giáo xứ, 6 giáo họ biệt lập và các Cộng đoàn Dòng tu, trong toàn giáo phận. Trong phần huấn dụ trước nghi thức, Đức Giám Mục chủ lễ mời gọi những anh chị em sắp nhận tác vụ cần xác tín bổn phận của mình là phải trở nên một với Chúa Ki-tô ; khi trao Mình Chúa cũng là cơ hội thể hiện đức ái huynh đệ ; đồng thời, mỗi ngày thêm thăng tiến trong đời sống tin cậy mến để thi hành sứ vụ ; vui lòng nhận lãnh trách vụ ; sẵn lòng phục vụ Bánh Hằng sống ; tôn kính, thận trọng, giữ gìn Thánh Thể
Trước lúc kết thúc Thánh lễ , trong tâm tình, Đức Giám Mục thông báo cho cộng đoàn biết và thi hành Sắc Lệnh về Thánh Lễ Tiệc ly (In Missa in Cena Domini) của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích do Đức Hồng Y Robert Sarah (Tổng Trưởng) và Đức Tổng Giám Mục Arthur Roche (Thư Ký) đã ấn ký Ngày 06/01/2016, Lễ trọng Hiển Linh, tại Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích.
Nội dung chính (1) ”. Theo quyết định mới của Đức Thánh Cha Phanxicô và của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, những người được rửa chân không còn giới hạn trong giới tính nam nữa. Trong Thư gửi Đức Hồng Y Robert Sarah, Đức Thánh Cha viết: “Kể từ nay, các vị mục tử của Giáo Hội có thể chọn những người được tham dự vào nghi thức rửa chân trong số tất cả các thành phần dân Chúa”. Thể theo quyết định của Đức Thánh Cha trong Sắc Lệnh In Missa in Cena Domini, Đức Hồng Y Robert Sarah triển khai quyết định của Đức Thánh Cha cách rõ ràng: “Các mục tử có thể chọn một nhóm nhỏ các tín hữu đại diện các thành phần dân Chúa. Nhóm nhỏ ấy có thể gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ, người trẻ, người già, người lành mạnh và bệnh nhân, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân”. Về con số 12 người được rửa chân, cũng mới được đưa vào quy định từ năm 1955, thời Đức Giáo Hoàng Piô XII. Trước năm 1955, số người được rửa chân không được xác định. Sách lễ Rôma 1970 tiếp tục duy trì giới tính nam cho những người được rửa chân, theo quy định của Đức Piô XII, nhưng không duy trì số lượng 12 người. Theo quy định hiện hành, số lượng người cũng không được xác định, chỉ nói “một nhóm nhỏ”. “Một nhóm nhỏ”, như vậy không có chuyện rửa chân cho tất cả những ai tham dự Thánh Lễ Tiệc Ly hay rửa chân cho cả trăm người. Một nhóm từ dăm bảy người tới dưới hai chục người vốn được coi là nhóm nhỏ. Về con số, có thể chọn một vài con số có ý nghĩa biểu tượng Kitô giáo, như số 7 – biểu thị sự viên mãn, 12 – các chi tộc dân Israel hoặc 12 Tông Đồ, 14 – hai lần con số 7…
Phép lành trên cộng đoàn và các Thừa tác viên kết thúc Thánh Lễ Truyền Dầu khi ánh mặt trời vừa tỏ rạng.
Tôma Trương văn Ân
(1) https://hddmvn.net/sac-lenh-va-giai-thich-ve-nghi-thuc-rua-chan-thu-nam-tuan-thanh/
Hình ảnh Thánh lễ Tiệc Ly tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Melbourne.
Trần Văn Minh
16:38 29/03/2018
Melbourne, vào lúc 20 giờ Thứ Năm Tuần Thánh 29/3/2018. Tại khuôn viên Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm. Thánh lễ Tiệc Ly đã được Linh mục Quản nhiệm Trần Ngọc Tân chủ tế với nghi thức rửa chân thật long trọng trên lễ đài trung tâm. Ca đoàn Vô Nhiễm xuất sắc trong các bài thánh ca, Tâm Như đọc lời dẫn, âm thanh Bằng Uyên và đông đảo giáo dân trong cộng đoàn về hiệp dâng Thánh lễ và dự giờ canh thức bên Thánh Thể Chúa trong nhà tạm phụ. Sau đó, mọi người được mời ăn thịt chiên (cơm nếp) trong lễ vượt qua.
Xem hình
Xem hình
Học viện Dòng Tên VN mừng lễ Bế giảng năm học và Trao bằng tốt nghiệp
Peter Nguyễn Văn Đương, S.J
16:50 29/03/2018
Chiều ngày 28.03.2018, Học viện Dòng Tên (HVDT) hân hoan mừng lễ Bế giảng năm học niên khóa 2017-2018. Đây cũng là dịp Học viện trao chứng chỉ tốt nghiệp triết và thần cho các tân khoa niên học 2017-2018. Đặc biệt hơn, đây là lần đầu tiên HVDT trao bằng STB (cử nhân thần học Giáo Hội) cho các thần sinh năm 4 sau khi Tòa Thánh chấp thuận sự liên kết giữa HVDT với trường thần học Loyola, Philippin (LST).
Cha Giuse Phạm Tuấn Nghĩa S.J, Viện trưởng HVDT đã chủ tế Thánh lễ Bế giảng. Cùng đồng tế và tham dự Thánh lễ có cha Giám tỉnh Dòng Tên Việt Nam, quý cha trong ban huấn luyện, quý ông bà cố, quý ân sư, các ân nhân, thân nhân và tất cả quý thầy đang học tập tại HVDT. Đây cũng là dịp cử hành nghi thức sai đi cho quý thầy Dòng Tên, những người sẽ lên đường thực tập tháng tông đồ hè.
Xem Hình
Cha Nguyễn Thái Sơn, S.J, Giám học khối Thần học phụ trách giảng lễ. Ngài chúc mừng các tân khoa vì sau 3 năm, 7 năm hay 10 năm miệt mài đèn sách, đào luyện bản thân và thao thức sứ mạng dưới mái nhà Học viện, giờ đây, các tân khoa có thể sẵn sàng dấn thân lên đường cho một hành trình dài tu trì và mục vụ. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của những cuộc gặp gỡ: gặp gỡ các vị ân sư, gặp gỡ những anh em cùng chung lý tưởng sống, gặp gỡ giữa tri thức và những thực tại thuộc về Thiên Chúa, và trên hết là cuộc gặp gỡ chính Đức Giê-su để trở thành người bạn đường đích thực của Ngài. Từ những kinh nghiệm quý giá của những cuộc gặp gỡ này, cha mời gọi các tân khoa cùng cộng đoàn cùng nghiệm lại lòng thương xót của Thiên Chúa để cùng sống tâm tình biết ơn. Hành động biết ơn được thể hiện như hành động của người phong cùi xứ Samari trong đoạn Tin Mừng Lc 17, 11-19. Anh đã không coi việc được chữa lành như lẽ đương nhiên, nhưng anh đã coi đó là một ân ban. Đức tin đã thúc đẩy anh quay lại cám ơn Đức Giêsu. Kết quả là, anh đã nhận thêm một ơn khác, đó là mối tương quan thân tình với Người – một ơn lớn hơn ơn chữa lành về thể lý. Cuối cùng, cha Thái Sơn chia sẻ, không phải lúc nào ngôn ngữ của triết-thần, hay kinh nghiệm của bản thân cũng có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến những hoàn cảnh và những con người. Nhiều khi, điều duy nhất mỗi người có thể làm là giữ thinh lặng, và ở bên những người đau khổ bằng một trái tim thinh lặng. Để có thái độ và trái tim ấy, cha mời gọi: “Xin đừng làm cái đầu to hơn con tim; chí ít, hãy huấn luyện con tim cũng to bằng cái đầu. Hãy cùng Đức Giê-su đến gặp và phục vụ con người hôm nay bằng cả khối óc lẫn con tim.” Đó là lòng biết ơn đẹp nhất mà mỗi học viên có thể mang đến cho cuộc đời, và cho Đức Giêsu chịu hiến tế.
Sau lời nguyện Hiệp lễ, cha Trương Thanh Tâm, S.J –Linh hướng khối Triết, cử hành nghi thức sai đi cho các thầy Dòng Tên. Năm nay, Ban huấn luyện HVDT đã gửi các thầy đi thực tập tông đồ ở 22 địa điểm, cả trong và ngoài nước. Việc sai đi giúp các thầy học viên “đốt nóng” lòng nhiệt thành tông đồ sau một năm miệt mài học tập lý thuyết trên lớp; đồng thời, giúp học viên có cơ hội gặp gỡ những con người cụ thể, nhằm thực hành sự bác ái và trải nghiệm sự đa dạng văn hóa ở các vùng miền khác nhau. Việc được sai đi cũng giúp các học viên ý thức ơn gọi tông đồ trong Dòng Tên như “nguyên lý và nền tảng” của việc thành lập Dòng: dưới lệnh truyền của Đức Thánh Cha trong sứ vụ, anh em Dòng Tên sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, vào bất cứ lúc nào Giáo Hội muốn, để vinh danh Thiên Chúa hơn.
Diễn ra tại Hội trường Học viện, ngay sau Thánh lễ Bế giảng là nghi thức trao bằng tốt nghiệp thần học và triết học. Nghi thức này gồm 5 phần chính: giới thiệu chương trình và tuyên bố lý do buổi lễ, cha đại diện của trường Thần học Loyola phát biểu, diễn văn công bố quyết định cấp văn bằng, các tân khoa lãnh văn bằng, một tân khoa đại diện tri ân.
Đại diện của cha Giám tỉnh Dòng Tên tỉnh Dòng Philippin, và cũng là đại diện cho cha Hiệu trưởng trường LST, cha Enrico Eusebio, S.J gửi lời chúc mừng việc Tòa Thánh phê chuẩn sự liên kết giữa HVDT và LST. Ngài cũng cho biết học viên Việt Nam là nhóm học viên đông nhất trong số các nhóm sinh viên quốc tế theo học tại trường LST, và học viên Việt Nam có nhiều đóng góp cho đời sống học thuật ở trường. Với chất lượng đào tạo và số học viên ngày một gia tăng, cha Enrico tin rằng không bao lâu nữa HVDT sẽ trở thành một phân khoa thần học, tức là trường thần học hoạt động độc lập. Cuối cùng, cha Enrico ước mong sự hợp tác và tình bạn giữa HVDT và LST sẽ giúp huấn luyện những người trẻ trở thành những khí cụ hữu hiện hơn trong vườn nho của Thiên Chúa.
Ngay sau lời chúc mừng và chia sẻ của cha Enrico, cha Giuse Phạm Tuấn Nghĩa, S.J đã đọc diễn văn và quyết định công bố cấp bằng cho các tân khoa. Cha coi đây là một ngày đáng ghi nhớ với HVDT vì một bước chuyển mình mới. Sau 5 năm tiến hành liên kết với LST, HVDT đã được Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo cho phép thử nghiệm việc liên kết 5 năm với LST. Cha nhắc nhớ mỗi thành viên cùng tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đặc biệt này. Trong bài diễn văn, cha Viện trưởng cũng gửi những lời tri ân và cầu nguyện đến cha Bề Trên Cả, cha Hiệu trưởng LST, quý cha trong Ban Điều Hành LST, cha Enrico Eusebio, quý cha Dòng Tên Việt Nam, quý cha Dòng Tên quốc tịch Việt Nam, với từng cái tên cụ thể, đã khích lệ, khởi xướng, và trực tiếp hay gián tiếp tiến hành quá trình liên kết này. Đồng thời, cha Tuấn Nghĩa cùng bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến quý giáo sư, quý ân nhân, thân nhân xa gần đã ân cần dạy dỗ, nâng đỡ và cầu nguyện để HVDT có thể chu toàn chức năng được Giáo Hội và Dòng trao phó.
Trong tâm tình ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, với lòng biết ơn quý giáo sư, quý ân nhân, phụ huynh, thân nhân; để công nhận những thành quả học tập mà các thầy học viên đã nỗ lực gặt hái trong thời gian qua, trong tư cách là Viện trưởng HVDT, cha Phạm Tuấn Nghĩa S.J đã công bố quyết định trao bằng tốt nghiệp cho các tân khoa Triết và Thần niên khóa 2017-2018.
Hòa trong niềm vui, niềm tri ân cảm tạ, thầy Phêrô Nguyễn Huy Hoàng, S.J đã đại diện các tân khoa đã bày tỏ lòng biết ơn đến Thiên Chúa vì Ngài đã mời gọi từng người đến ơn gọi tu sĩ, cùng dấn thân với Ngài trên con đường tri thức, và được cùng Ngài phục vụ tha nhân. Thầy cũng tỏ lòng tri ân đến cha Giám tỉnh, quý Bề trên các Dòng, quý cha huấn luyện HVDT, quý cha LST, quý vị giáo sư đã tạo điều kiện cho các thầy được đào luyện trong một môi trường học thuật vừa mang đậm tính chuyên môn, cũng vừa mang đậm tình thương là HVDT. Trong tâm tình biết ơn, thầy Hoàng không quên hướng đến gia đình, quý bạn hữu và ân nhân xa gần vì những gian lao, hy sinh cầu nguyện của mẹ cha, thân hữu và quý ân nhân. Cuối cùng, thật nghẹn ngào, thầy Hoàng đã chia sẻ tâm tình mang ơn đến tất cả anh em học viên vì tình bạn, tình hiệp thông, sự nâng đỡ, bao bọc của tất cả anh em đã dành cho nhau.
Thánh lễ Bế giảng năm học và Trao bằng đã kết thúc bằng một bữa tiệc huynh đệ, cùng các tiết mục văn nghệ đơn sơ của các thầy học viên đóng góp.
Peter Nguyễn Văn Đương, S.J
Cha Giuse Phạm Tuấn Nghĩa S.J, Viện trưởng HVDT đã chủ tế Thánh lễ Bế giảng. Cùng đồng tế và tham dự Thánh lễ có cha Giám tỉnh Dòng Tên Việt Nam, quý cha trong ban huấn luyện, quý ông bà cố, quý ân sư, các ân nhân, thân nhân và tất cả quý thầy đang học tập tại HVDT. Đây cũng là dịp cử hành nghi thức sai đi cho quý thầy Dòng Tên, những người sẽ lên đường thực tập tháng tông đồ hè.
Xem Hình
Cha Nguyễn Thái Sơn, S.J, Giám học khối Thần học phụ trách giảng lễ. Ngài chúc mừng các tân khoa vì sau 3 năm, 7 năm hay 10 năm miệt mài đèn sách, đào luyện bản thân và thao thức sứ mạng dưới mái nhà Học viện, giờ đây, các tân khoa có thể sẵn sàng dấn thân lên đường cho một hành trình dài tu trì và mục vụ. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của những cuộc gặp gỡ: gặp gỡ các vị ân sư, gặp gỡ những anh em cùng chung lý tưởng sống, gặp gỡ giữa tri thức và những thực tại thuộc về Thiên Chúa, và trên hết là cuộc gặp gỡ chính Đức Giê-su để trở thành người bạn đường đích thực của Ngài. Từ những kinh nghiệm quý giá của những cuộc gặp gỡ này, cha mời gọi các tân khoa cùng cộng đoàn cùng nghiệm lại lòng thương xót của Thiên Chúa để cùng sống tâm tình biết ơn. Hành động biết ơn được thể hiện như hành động của người phong cùi xứ Samari trong đoạn Tin Mừng Lc 17, 11-19. Anh đã không coi việc được chữa lành như lẽ đương nhiên, nhưng anh đã coi đó là một ân ban. Đức tin đã thúc đẩy anh quay lại cám ơn Đức Giêsu. Kết quả là, anh đã nhận thêm một ơn khác, đó là mối tương quan thân tình với Người – một ơn lớn hơn ơn chữa lành về thể lý. Cuối cùng, cha Thái Sơn chia sẻ, không phải lúc nào ngôn ngữ của triết-thần, hay kinh nghiệm của bản thân cũng có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến những hoàn cảnh và những con người. Nhiều khi, điều duy nhất mỗi người có thể làm là giữ thinh lặng, và ở bên những người đau khổ bằng một trái tim thinh lặng. Để có thái độ và trái tim ấy, cha mời gọi: “Xin đừng làm cái đầu to hơn con tim; chí ít, hãy huấn luyện con tim cũng to bằng cái đầu. Hãy cùng Đức Giê-su đến gặp và phục vụ con người hôm nay bằng cả khối óc lẫn con tim.” Đó là lòng biết ơn đẹp nhất mà mỗi học viên có thể mang đến cho cuộc đời, và cho Đức Giêsu chịu hiến tế.
Sau lời nguyện Hiệp lễ, cha Trương Thanh Tâm, S.J –Linh hướng khối Triết, cử hành nghi thức sai đi cho các thầy Dòng Tên. Năm nay, Ban huấn luyện HVDT đã gửi các thầy đi thực tập tông đồ ở 22 địa điểm, cả trong và ngoài nước. Việc sai đi giúp các thầy học viên “đốt nóng” lòng nhiệt thành tông đồ sau một năm miệt mài học tập lý thuyết trên lớp; đồng thời, giúp học viên có cơ hội gặp gỡ những con người cụ thể, nhằm thực hành sự bác ái và trải nghiệm sự đa dạng văn hóa ở các vùng miền khác nhau. Việc được sai đi cũng giúp các học viên ý thức ơn gọi tông đồ trong Dòng Tên như “nguyên lý và nền tảng” của việc thành lập Dòng: dưới lệnh truyền của Đức Thánh Cha trong sứ vụ, anh em Dòng Tên sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, vào bất cứ lúc nào Giáo Hội muốn, để vinh danh Thiên Chúa hơn.
Diễn ra tại Hội trường Học viện, ngay sau Thánh lễ Bế giảng là nghi thức trao bằng tốt nghiệp thần học và triết học. Nghi thức này gồm 5 phần chính: giới thiệu chương trình và tuyên bố lý do buổi lễ, cha đại diện của trường Thần học Loyola phát biểu, diễn văn công bố quyết định cấp văn bằng, các tân khoa lãnh văn bằng, một tân khoa đại diện tri ân.
Đại diện của cha Giám tỉnh Dòng Tên tỉnh Dòng Philippin, và cũng là đại diện cho cha Hiệu trưởng trường LST, cha Enrico Eusebio, S.J gửi lời chúc mừng việc Tòa Thánh phê chuẩn sự liên kết giữa HVDT và LST. Ngài cũng cho biết học viên Việt Nam là nhóm học viên đông nhất trong số các nhóm sinh viên quốc tế theo học tại trường LST, và học viên Việt Nam có nhiều đóng góp cho đời sống học thuật ở trường. Với chất lượng đào tạo và số học viên ngày một gia tăng, cha Enrico tin rằng không bao lâu nữa HVDT sẽ trở thành một phân khoa thần học, tức là trường thần học hoạt động độc lập. Cuối cùng, cha Enrico ước mong sự hợp tác và tình bạn giữa HVDT và LST sẽ giúp huấn luyện những người trẻ trở thành những khí cụ hữu hiện hơn trong vườn nho của Thiên Chúa.
Ngay sau lời chúc mừng và chia sẻ của cha Enrico, cha Giuse Phạm Tuấn Nghĩa, S.J đã đọc diễn văn và quyết định công bố cấp bằng cho các tân khoa. Cha coi đây là một ngày đáng ghi nhớ với HVDT vì một bước chuyển mình mới. Sau 5 năm tiến hành liên kết với LST, HVDT đã được Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo cho phép thử nghiệm việc liên kết 5 năm với LST. Cha nhắc nhớ mỗi thành viên cùng tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đặc biệt này. Trong bài diễn văn, cha Viện trưởng cũng gửi những lời tri ân và cầu nguyện đến cha Bề Trên Cả, cha Hiệu trưởng LST, quý cha trong Ban Điều Hành LST, cha Enrico Eusebio, quý cha Dòng Tên Việt Nam, quý cha Dòng Tên quốc tịch Việt Nam, với từng cái tên cụ thể, đã khích lệ, khởi xướng, và trực tiếp hay gián tiếp tiến hành quá trình liên kết này. Đồng thời, cha Tuấn Nghĩa cùng bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến quý giáo sư, quý ân nhân, thân nhân xa gần đã ân cần dạy dỗ, nâng đỡ và cầu nguyện để HVDT có thể chu toàn chức năng được Giáo Hội và Dòng trao phó.
Trong tâm tình ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, với lòng biết ơn quý giáo sư, quý ân nhân, phụ huynh, thân nhân; để công nhận những thành quả học tập mà các thầy học viên đã nỗ lực gặt hái trong thời gian qua, trong tư cách là Viện trưởng HVDT, cha Phạm Tuấn Nghĩa S.J đã công bố quyết định trao bằng tốt nghiệp cho các tân khoa Triết và Thần niên khóa 2017-2018.
Hòa trong niềm vui, niềm tri ân cảm tạ, thầy Phêrô Nguyễn Huy Hoàng, S.J đã đại diện các tân khoa đã bày tỏ lòng biết ơn đến Thiên Chúa vì Ngài đã mời gọi từng người đến ơn gọi tu sĩ, cùng dấn thân với Ngài trên con đường tri thức, và được cùng Ngài phục vụ tha nhân. Thầy cũng tỏ lòng tri ân đến cha Giám tỉnh, quý Bề trên các Dòng, quý cha huấn luyện HVDT, quý cha LST, quý vị giáo sư đã tạo điều kiện cho các thầy được đào luyện trong một môi trường học thuật vừa mang đậm tính chuyên môn, cũng vừa mang đậm tình thương là HVDT. Trong tâm tình biết ơn, thầy Hoàng không quên hướng đến gia đình, quý bạn hữu và ân nhân xa gần vì những gian lao, hy sinh cầu nguyện của mẹ cha, thân hữu và quý ân nhân. Cuối cùng, thật nghẹn ngào, thầy Hoàng đã chia sẻ tâm tình mang ơn đến tất cả anh em học viên vì tình bạn, tình hiệp thông, sự nâng đỡ, bao bọc của tất cả anh em đã dành cho nhau.
Thánh lễ Bế giảng năm học và Trao bằng đã kết thúc bằng một bữa tiệc huynh đệ, cùng các tiết mục văn nghệ đơn sơ của các thầy học viên đóng góp.
Peter Nguyễn Văn Đương, S.J
Lễ Tưởng niệm Bữa Tiệc Ly và Diễn nguyện Đàng Thánh Giá
Tô Tịnh
21:59 29/03/2018
Lễ Tưởng niệm Bữa Tiệc Ly (thứ Năm Tuần Thánh) và Diễn nguyện Đàng Thánh Giá (Thứ Sáu Tuần Thánh)
Tô Tịnh
Thánh lễ kỷ niệm Bữa Tiệc của Chúa tại Giáo xứ St Margaret Mary’s Brunswick được cử chung cho cả ba cộng đoàn Úc Ý và Việt để noái lên sự hiệp nhất của cộng đoàn giáo xứ. Lm Anthony chính xứ cũng là Giám đốc của cộng đoàn Don Bosco chủ tế. Trong phần đọc Phúc âm bằng ba thứ tiếng thì cha Anthony và cha Peter xuống rửa chân cha 12 người đại diện.
Coi hình (ảnh của Khắc Thái)
Sáng thứ Sáu Tuần thánh rất đông người tuôn về chật ních thánh đường để cùng nhau tham dự Đàng Thánh Giá năm 2018 với chủ đề “Cuộc Thương Khó và Chúa Thánh Thần”… Cộng đồng Việt Nam cùng với một số các diễn viên từ cộng đồng đã diễn suốt thật xuất sắc, sống động để lại những cảm nghiệm đạo đức sâu xa cho người tham dự…
Đặc trưng của Đàng Thánh Giá này gồm ba phần:
- Trình bày một vài biến cố đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm cứu độ
- Đàng Thánh giá phần đầu do một số các em thiếu nhi đoàn Salesian Don Bosco diễn xuất
- Cảnh đóng đanh và táng xác do người lớn tiếp tục…
Coi hình (ảnh của Bosco Hùng Nguyễn)
Toàn cảnh đã được diễn tiến tuần tự, ăn khớp nhau thật tuyệt vời… Những ai tham dự đã không khỏi ngấn lệ cảm thương Chúa nhưng cũng đầy xác tín một nghĩa cử biết ơn “cám ơn tình thương của Chúa”
Tô Tịnh
Thánh lễ kỷ niệm Bữa Tiệc của Chúa tại Giáo xứ St Margaret Mary’s Brunswick được cử chung cho cả ba cộng đoàn Úc Ý và Việt để noái lên sự hiệp nhất của cộng đoàn giáo xứ. Lm Anthony chính xứ cũng là Giám đốc của cộng đoàn Don Bosco chủ tế. Trong phần đọc Phúc âm bằng ba thứ tiếng thì cha Anthony và cha Peter xuống rửa chân cha 12 người đại diện.
Coi hình (ảnh của Khắc Thái)
Sáng thứ Sáu Tuần thánh rất đông người tuôn về chật ních thánh đường để cùng nhau tham dự Đàng Thánh Giá năm 2018 với chủ đề “Cuộc Thương Khó và Chúa Thánh Thần”… Cộng đồng Việt Nam cùng với một số các diễn viên từ cộng đồng đã diễn suốt thật xuất sắc, sống động để lại những cảm nghiệm đạo đức sâu xa cho người tham dự…
Đặc trưng của Đàng Thánh Giá này gồm ba phần:
- Trình bày một vài biến cố đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm cứu độ
- Đàng Thánh giá phần đầu do một số các em thiếu nhi đoàn Salesian Don Bosco diễn xuất
- Cảnh đóng đanh và táng xác do người lớn tiếp tục…
Coi hình (ảnh của Bosco Hùng Nguyễn)
Toàn cảnh đã được diễn tiến tuần tự, ăn khớp nhau thật tuyệt vời… Những ai tham dự đã không khỏi ngấn lệ cảm thương Chúa nhưng cũng đầy xác tín một nghĩa cử biết ơn “cám ơn tình thương của Chúa”
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Phải chăng hầu hết chúng ta đang quỳ?
Hồn Việt
22:00 29/03/2018
Bất bình phản ứng về cô giáo N.
Bị ông Thuận “láo” bắt quỳ,
Chỉ vì cô ấy phạt quỳ con ông,
Mà ông cho là bất công
Vì con ông chẳng làm chi tội tình.
Tự dưng tôi bỗng nghĩ rằng
Chỉ vì phạt học trò quỳ mà thôi
Mà cô bị một phụ huynh,
Bắt cô quỳ đến bốn mươi phút dài,
Dù chưa biết rõ cô này
Phạt con ông ấy đúng hay không nào.
Vậy thì kẻ bắt dân mình,
Phải quỳ trước bọn quỷ Tàu thì sao,
Vậy thì phải phạt làm sao,
Phạt sao cho xứng tội danh tày trời?
Thì ra đây là lý do
Mà ông ấy bị khai trừ đảng viên.
Một điều mà trước đến nay
Chưa từng nghe nói xảy ra bao giờ.
Quả ông xứng tội vô cùng,
Quả ông “xấc láo”, coi thường bề trên !
Nghe cô giáo nọ phải quỳ
Bà con phản ứng bất bình với cô
Nhưng bà con nghĩ kỹ đi…
Phải chăng hầu hết chúng ta đang quỳ?!!!
(Hồn Việt)
Lại nói về báo Công Giáo và Dân Tộc
P. Nguyễn Văn Phú
22:05 29/03/2018
Chuyện báo có cái tên Công Giáo và Dân tộc tại Việt nam là chuyện dài dòng. May mà đa số mục tử và dân Chúa nhận ra sự thật báo đó của ai và có mục đích gì nên càng ngày càng ít người dám đọc.
Tuy nhiên, vì sự quảng cáo bằng nhiều hình thức và vì họ “khôn khéo giấu mình” bằng cách cũng đăng các bài suy niệm và tin Công Giáo, nên một số người tưởng báo đó đã ăn năn sám hối sau cái chết của ông tổng biên tập cũ và sau khi ông tổng biên tập hiện nay bị dân chúng tố cáo đủ thứ chuyện và Tòa Tổng Giám Mục Sàigòn cho ông “thôi chức” chánh xứ Vườn Xoái để về ở trụ sở mặt trận Tổ quốc, nơi ông đã hết lòng phụng sự! (Hai ông là linh mục nhưng là linh mục quốc doanh, nên một số cha ở Sàigòn hay gọi đùa họ là hai ông lờ mờ quốc doanh).
Ở đây chúng tôi muốn nói ra vài sự thật để ai còn tưởng báo đó của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì hãy cẩn thận.
Trang bách khoa Wikipedia cho biết báo này chưa hề được Công Giáo VN công nhận: “Công Giáo và Dân tộc là một tờ tuần báo Công Giáo xuất bản tại Việt Nam, ra đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1975. Tờ báo này mặc dù mang nội dung Công Giáo nhưng chưa hề được Giáo Hội Công Giáo công nhận là cơ quan truyền thông của họ. Hiện nay, báo này không thuộc bất kỳ tổ chức nào của Giáo Hội Công Giáo mà nó thuộc sự quản lý của Ủy ban đoàn kết Công Giáo”.
Cũng xin ghi chú: Ủy ban đoàn kết Công Giáo ấy là một tổ chức của nhà nước, của đảng cộng sản, không có liên quan gì đến Giáo Hội. Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh có lần nói nhà cầm quyền có đặ vấn đề với ngài, cung cấp mỗi năm 2 tỷ đồng mỗi năm để tổ chức ủy ban này mà ngài từ chối. Lý do thì bấy giờ ai cũng biết rồi.
Riêng về việc Tòa Thánh tuyên Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam, báo Công Giáo và Dân tộc cũng có nhiều điều đáng nói. Năm 1988, họ hăng hái, hùng hổ chống đối Tòa Thánh, tổ chức viết bài chống phá Giáo Hội đến nỗi dùng những lời lẽ xúc phạm các đấng bậc trong Giáo Hội.
Nhưng vì đó là việc Chúa làm, dù ma quỷ hỏa ngục có dấy lên cũng không làm gì được , nên họ thất bại. Điều trớ trêu và ngược ngạo là bây giờ, sau 30 năm, chính báo Công Giáo Dân tộc này lại chuẩn bị kỷ niệm sự kiện trọng đại ấy. Đây là chiêu bài tráo trở. Tại sao họ mừng kỷ niệm 30 năm một sự kiện mà chính họ đã chỉ trích, chống đối dữ dội? Lý do là vì họ muốn che giấu quá khứ, che giấu bộ mặt thật của mình. Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn có những kẻ sống như thế đó. Họ quên là Internet ngày nay trình bày thông tin hoàn toàn đầy đủ, nên dân Chúa không còn bị họ lừa như trước.
Đức Cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trả lời cuộc phỏng vấn của tờ báo Eglises d'Asie vào năm 1990 cho rằng người Công Giáo “không tin tưởng vào Ủy Ban Đoàn Kết Thiên Chúa Giáo và tờ Công Giáo và Dân Tộc”.
Trong bài Hồ sơ báo CG&DT, tác giả Nguyễn văn Lục viết: ” Trong dịp viếng thăm của Hồng Y Roger Etchegaray, chủ tịch ủy ban “giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình”, hồi tháng 7, 1989, có đem theo một thông điệp của Đức Giáo Hoàng gửi cho Hồng Y Trịnh Văn Căn và Hội Đồng Giám mục VN. Trong buổi tiếp kiến với chính quyền VN, Hồng Y Căn đã tế nhị trao bức thư đó nhờ chính quyền chuyển lại và sau đó cũng tế nhị không nhắc tới thông điệp này. Báo Công Giáo và Dân Tộc của ông Cường chỉ tóm lại bức thông điệp và cho đăng vào tháng 8, 1989, ông Cường đã nhận được chỉ thị cắt xén những chữ, những từ nào Ban tôn giáo chính phủ gạch dưới đít, xét ra không lợi cho chính quyền. Chẳng hạn bỏ những từ: thử thách, thách đố của giáo hội hay những câu: Từ ngày xảy ra những biến cố trước đây, và những từ đề cao tinh thần giáo dân như: hiên ngang kiên cường, tuyên xưng đức tin, sức sống hùng mạnh của giáo dân; Việc phong thánh tử đạo không thể không nói nên ông chỉ tóm tắt vào một vài ý thôi... “
Tác giả Thúy Dung cũng đã tóm tắt chủ trương của cái báo CG&DT này: “Để thực hiện dã tâm này hai chủ trương nổi bật mà CGDT đã theo đuổi trong suốt 33 năm qua là: thứ nhất, không bỏ lỡ bất cứ dịp nào để đề cao đảng cầm quyền; thứ hai: không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào (đôi khi còn khiên cưỡng hay xuyên tạc hầu tạo ra cơ hội) để bôi nhọ cơ cấu Giáo Hội như một cơ chế lỗi thời, bảo thủ, mù quáng, và tội lỗi. Chính vì hai chủ trương này, tờ CGDT sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ làm cho người Công Giáo dễ thở hơn trong đất nước do người cộng sản lãnh đạo vì lẽ đơn giản là người cộng sản càng nghi kỵ người Công Giáo và ngược lại người Công Giáo cũng nghi ngờ lại họ.
Đây là những cáo buộc rất nặng nề mà nếu chúng tôi không đưa ra được bằng cớ, chúng tôi thật sự không dám nói”.
Tác giả Thúy Dung cũng kể lại: “Một linh mục ở Sàigòn nói với chúng tôi một nhận xét rất xác thực mà chúng tôi xin dùng thay lời kết: “Trò lưu manh của CGDT là nó dựng lên một Giáo Hội Công Giáo giả với tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi. Rồi nó đánh Giáo Hội đó để quảng cáo cho cái thiên đường mù xã hội chủ nghĩa với đầy dẫy những tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi rất thật”.
Bài viết này không có tham vọng phân tích hết những cái sai trái và giả trá của báo CG&DT ấy, chỉ xin như một tiếng chuông cảnh tinh: con sói vào nhà mình, giả làm bà nội nằm trên giường, nhìn giống bà lắm, nhưng lại gần thì nó cắn ngay thôi.
P. Nguyễn Văn Phú
Tuy nhiên, vì sự quảng cáo bằng nhiều hình thức và vì họ “khôn khéo giấu mình” bằng cách cũng đăng các bài suy niệm và tin Công Giáo, nên một số người tưởng báo đó đã ăn năn sám hối sau cái chết của ông tổng biên tập cũ và sau khi ông tổng biên tập hiện nay bị dân chúng tố cáo đủ thứ chuyện và Tòa Tổng Giám Mục Sàigòn cho ông “thôi chức” chánh xứ Vườn Xoái để về ở trụ sở mặt trận Tổ quốc, nơi ông đã hết lòng phụng sự! (Hai ông là linh mục nhưng là linh mục quốc doanh, nên một số cha ở Sàigòn hay gọi đùa họ là hai ông lờ mờ quốc doanh).
Ở đây chúng tôi muốn nói ra vài sự thật để ai còn tưởng báo đó của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì hãy cẩn thận.
Trang bách khoa Wikipedia cho biết báo này chưa hề được Công Giáo VN công nhận: “Công Giáo và Dân tộc là một tờ tuần báo Công Giáo xuất bản tại Việt Nam, ra đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1975. Tờ báo này mặc dù mang nội dung Công Giáo nhưng chưa hề được Giáo Hội Công Giáo công nhận là cơ quan truyền thông của họ. Hiện nay, báo này không thuộc bất kỳ tổ chức nào của Giáo Hội Công Giáo mà nó thuộc sự quản lý của Ủy ban đoàn kết Công Giáo”.
Cũng xin ghi chú: Ủy ban đoàn kết Công Giáo ấy là một tổ chức của nhà nước, của đảng cộng sản, không có liên quan gì đến Giáo Hội. Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh có lần nói nhà cầm quyền có đặ vấn đề với ngài, cung cấp mỗi năm 2 tỷ đồng mỗi năm để tổ chức ủy ban này mà ngài từ chối. Lý do thì bấy giờ ai cũng biết rồi.
Riêng về việc Tòa Thánh tuyên Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam, báo Công Giáo và Dân tộc cũng có nhiều điều đáng nói. Năm 1988, họ hăng hái, hùng hổ chống đối Tòa Thánh, tổ chức viết bài chống phá Giáo Hội đến nỗi dùng những lời lẽ xúc phạm các đấng bậc trong Giáo Hội.
Nhưng vì đó là việc Chúa làm, dù ma quỷ hỏa ngục có dấy lên cũng không làm gì được , nên họ thất bại. Điều trớ trêu và ngược ngạo là bây giờ, sau 30 năm, chính báo Công Giáo Dân tộc này lại chuẩn bị kỷ niệm sự kiện trọng đại ấy. Đây là chiêu bài tráo trở. Tại sao họ mừng kỷ niệm 30 năm một sự kiện mà chính họ đã chỉ trích, chống đối dữ dội? Lý do là vì họ muốn che giấu quá khứ, che giấu bộ mặt thật của mình. Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn có những kẻ sống như thế đó. Họ quên là Internet ngày nay trình bày thông tin hoàn toàn đầy đủ, nên dân Chúa không còn bị họ lừa như trước.
Đức Cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trả lời cuộc phỏng vấn của tờ báo Eglises d'Asie vào năm 1990 cho rằng người Công Giáo “không tin tưởng vào Ủy Ban Đoàn Kết Thiên Chúa Giáo và tờ Công Giáo và Dân Tộc”.
Trong bài Hồ sơ báo CG&DT, tác giả Nguyễn văn Lục viết: ” Trong dịp viếng thăm của Hồng Y Roger Etchegaray, chủ tịch ủy ban “giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình”, hồi tháng 7, 1989, có đem theo một thông điệp của Đức Giáo Hoàng gửi cho Hồng Y Trịnh Văn Căn và Hội Đồng Giám mục VN. Trong buổi tiếp kiến với chính quyền VN, Hồng Y Căn đã tế nhị trao bức thư đó nhờ chính quyền chuyển lại và sau đó cũng tế nhị không nhắc tới thông điệp này. Báo Công Giáo và Dân Tộc của ông Cường chỉ tóm lại bức thông điệp và cho đăng vào tháng 8, 1989, ông Cường đã nhận được chỉ thị cắt xén những chữ, những từ nào Ban tôn giáo chính phủ gạch dưới đít, xét ra không lợi cho chính quyền. Chẳng hạn bỏ những từ: thử thách, thách đố của giáo hội hay những câu: Từ ngày xảy ra những biến cố trước đây, và những từ đề cao tinh thần giáo dân như: hiên ngang kiên cường, tuyên xưng đức tin, sức sống hùng mạnh của giáo dân; Việc phong thánh tử đạo không thể không nói nên ông chỉ tóm tắt vào một vài ý thôi... “
Tác giả Thúy Dung cũng đã tóm tắt chủ trương của cái báo CG&DT này: “Để thực hiện dã tâm này hai chủ trương nổi bật mà CGDT đã theo đuổi trong suốt 33 năm qua là: thứ nhất, không bỏ lỡ bất cứ dịp nào để đề cao đảng cầm quyền; thứ hai: không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào (đôi khi còn khiên cưỡng hay xuyên tạc hầu tạo ra cơ hội) để bôi nhọ cơ cấu Giáo Hội như một cơ chế lỗi thời, bảo thủ, mù quáng, và tội lỗi. Chính vì hai chủ trương này, tờ CGDT sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ làm cho người Công Giáo dễ thở hơn trong đất nước do người cộng sản lãnh đạo vì lẽ đơn giản là người cộng sản càng nghi kỵ người Công Giáo và ngược lại người Công Giáo cũng nghi ngờ lại họ.
Đây là những cáo buộc rất nặng nề mà nếu chúng tôi không đưa ra được bằng cớ, chúng tôi thật sự không dám nói”.
Tác giả Thúy Dung cũng kể lại: “Một linh mục ở Sàigòn nói với chúng tôi một nhận xét rất xác thực mà chúng tôi xin dùng thay lời kết: “Trò lưu manh của CGDT là nó dựng lên một Giáo Hội Công Giáo giả với tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi. Rồi nó đánh Giáo Hội đó để quảng cáo cho cái thiên đường mù xã hội chủ nghĩa với đầy dẫy những tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi rất thật”.
Bài viết này không có tham vọng phân tích hết những cái sai trái và giả trá của báo CG&DT ấy, chỉ xin như một tiếng chuông cảnh tinh: con sói vào nhà mình, giả làm bà nội nằm trên giường, nhìn giống bà lắm, nhưng lại gần thì nó cắn ngay thôi.
P. Nguyễn Văn Phú
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tản mạn đời tha hương :Thiên Đàng Ở Đâu ?
Lm Giuse Nguyễn Văn Thư
12:29 29/03/2018
Giấc mơ ‘cõi phúc’ :
Ngày chạy tỵ nạn và đặt chân được tới Mỹ, chúng ta thầm nghĩ và thiên hạ cũng bảo chúng ta được may mắn vào chốn thiên đàng. Nhưng rồi qua thời gian, bà con ta mới nhận ra đây chỉ là ‘thiên đàng giả’. Nhiều gia đình thiếu may mắn còn ví nơi đây đang trở thành ‘hỏa ngục’ nữa !
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh ‘tượng trưng và hữu hình’ mong diễn tả chốn thiên đàng ‘thứ thiệt’ : Thánh kinh còn nói xa gần rằng ‘thiên đàng thật’ còn hơn cả một ‘nơi chốn’, nghĩa là một trạng thái ‘phi vật chất’ mà trí óc ta ngày nay chỉ ‘phỏng đoán’ ra phần nào cái hạnh phúc khi được bước vào. Dĩ nhiên hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên cạnh Chúa.
Còn nhà Phật thì nói về cõi niết bàn ta mong được vào thế này : người nào may mắn được sanh vào một trong các cõi phước, là nhờ vào thiện nghiệp của họ (được tích lũy trong những kiếp làm người trước đây). Chuyện tái sanh xảy ra trong những hình thức hiện hữu khác nhau, và tùy vào nghiệp lực của chính họ, mà không do sự ảnh hưởng của bất kỳ đấng siêu nhiên nào. Nhưng không ai có thể ở mãi trong những cảnh giới này, bởi vì năng lực thiện nghiệp của họ thì có hạn, và khi nó cạn kiệt họ phải xoay chuyển theo nghiệp tích lũy trước đó. Do đó Phật giáo nói rằng thiên giới và địa ngục không phải là những nơi chốn vĩnh hằng, mà chúng sanh có thể thọ hưởng hay gánh chịu mãi mãi.
Cõi vĩnh hằng thật mai sau :
Giáo huấn Công Giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo: "Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa sẽ được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời... Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng."
Sau khi chết, mỗi linh hồn phải đối diện với "sự phán xét riêng tư", để hoặc được vào Thiên đàng ngay, hoặc tạm phải thanh luyện nơi Luyện ngục (Purgatory), hoặc vô phước chịu phạt vào Hỏa ngục. Ý niệm này khác với "sự phán xét chung" hoặc "sự phán xét sau cùng" khi Chúa Giê Su trở lại để phán xét mọi kẻ sống và kẻ chết.
Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, nên người chết trong tội lỗi không được phép vào. ”Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ sẽ nhìn thấy Ngài mặt đối mặt”.
Thiên đàng chính là trạng thái hoàn toàn viên mãn tuyệt đối. Thuộc sở hữu của Thiên Chúa trong thị kiến vinh phúc, mà các Thánh được trải nghiệm những gì không thể diễn tả bằng lời; một sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, trổi vượt hơn bất cứ điều gì ta có thể hình dung. Chính vì sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong Đức Kitô, các Thánh cũng sẽ trải nghiệm sự hiệp thông với các chi thể khác thuộc Nhiệm Thể Đức Kitô.. Dựa vào hình dung của Thánh Phaolô, sự hiệp thông các chi thể thuộc Đức Kitô trọn vẹn hơn sự hiệp nhất giữa ngón tay với bàn tay, vì Đức Kitô, Đấng làm cho mọi chi thể của Ngài nên một.
Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô cũng giúp chúng ta có được ý niệm sự vinh quang Thiên Đàng : trí năng của chúng ta sẽ được Thiên Chúa soi sáng, để chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa bằng thị kiến vinh phúc, có khả năng hiểu được nhiều mầu nhiệm cao siêu khác.
Thiên đàng ở giữa chúng ta :
Thiên Đường là nơi không có sự xấu xa, không có sự bất công và ghét ghen, Thiên Đường là nơi tốt đẹp của những linh hồn đã được thanh tẩy bằng máu Chúa Giê-su : nơi có tràn đầy tiếng cười , niềm vui , bình an và hạnh phúc, nơi đó mọi người là anh chị em với nhau, nơi không còn tội lỗi, nơi tràn đầy tình yêu thương. Đó chính là mục đích phấn đấu của những ai có lòng thương yêu người xung quanh, và luôn Tin , Cậy và Mến Chúa.
Thế nghĩa là gì ? Ta có thể dựng xây Thiên đàng ngay khi còn ở trần gian. Điểm cốt cán là có sự diện diện của Chúa trong đời mình. Chính Chúa Giê-su từng nói “Nước Trời ở giữa các con”. Tập sách ‘Utopia của thánh Thomas More muốn nhắc chúng ta về cái khả năng tạo một thứ ‘thiên đàng hạ giới’ ngay bây giờ. Nếu như thiên đàng là nơi có Chúa, thì chung quanh ta với những va chạm hằng ngày, trong những sự kiện xảy đền, đâu đâu cũng lộ ra hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương hiện diện. Ngay cả trong những lúc con người thất vọng não nề, hay khổ đau cùng cực, thì lời Chúa, tức là sự hiện diện của Chúa cũng kề bên: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai đang mang ách nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”. Tình yêu đó không giới hạn trong một không gian nhỏ bé, sự hiện diện đó không ràng buộc trong một yếu tố vật lý, nhưng chan hòa trong từng ngóc ngách của kiếp nhân sinh, bởi Thiên Chúa vui thích ở giữa con cái loài người.
Thiên đàng đã ở trong ta, Thiên Chúa ở cùng ta. Cảm nghiệm được điều đó thì hạnh phúc cho cuộc sống hiện tại biết bao. Ta sẽ sống như Chúa sống, ta sẽ cư xử với nhau như với Chúa, ta sẽ làm việc cùng với Chúa, ta đón nhận buồn phiền đau khổ cùng với Chúa, ta thờ phượng và tin yêu cùng các thánh nhân, và ta biết mình không lạc lõng, khi gắn bó đời mình với một thiên đàng ngay tại trần thế.
Nói gọn nhẹ thế, nhưng đường vào thiên đàng chắc không phải đường cao tốc luôn êm ái dễ dàng. Đấng có kinh nghiệm nhiều nhất về ‘thiên đàng hạ giới’ đã tâm sự rằng phải đi qua cửa hẹp, phải vác thập giá, phải từ bỏ mình…nhưng rồi người ấy cũng bật mí rằng ai sắm cho mình cái căn cước có đóng dấu ‘Tình Yêu’ đỏ chót, kèm theo túi hành trang càng nhỏ càng tốt, trong có đựng đầy lòng tin, sự phó thác và tâm hồn thanh khiết…Lúc đó chẳng phải là mình phải tự đi vào thiên đàng, mà sẽ có đấng ‘cõng trên lưng’ hoặc chở vào trên cánh phượng hoàng.
Chúa muốn ở với chúng ta, nhưng chúng ta có chấp nhận để cho Chúa ở cùng, hay cứ tìm cách loại trừ Ngài, để bám víu vào một ‘thiên đàng không có Chúa’? Chúng ta đều nhớ lời Chúa dạy rõ ràng rằng cần phải tìm kiếm nước Đức Chúa Trời ngay bây giờ, trong đời trên đất này. Ngài ban lời hứa cho chúng ta, để khi tìm kiếm nước Trời, thì sẽ nếm trải được ơn phúc kỳ diệu, sự chu cấp ơn siêu nhiên từ Chúa. Điều này sinh ra những kết quả cao quý rất thực tế trong cuộc sống đời thường.
Hãy bắt đầu rủ nhau tìm kiếm nước Chúa và sự công chính Ngài ngay trong lòng mình và ngay bây giờ. Hãy quyết tâm tuân phục và làm theo ý chỉ của Chúa, thay đổi tâm tư mình cho hợp ý Ngài, từ những việc nhỏ bé nhất. Dần dần, chúng ta sẽ lớn lên trong nhận thức về Chúa và đường lối Ngài, khi đó ơn thiêng sẽ giúp biến đổi con người bên trong, để rồi ‘nước thiên đàng’ sẽ càng mở rộng trong lòng, và đời sống chúng ta sẽ đem lại kết quả thật bất ngờ. Một chi tiết cốt yếu : Hãy biết gặp Chúa qua việc cầu nguyện : Gặp Chúa qua hình thức cầu-nguyện, nhất là cầu nguyện mọi nơi mọi lúc, sẽ giúp ta có thể hình dung ra Thiên-đàng là thế nào. Cái chân-lý ‘Có Chúa là có Thiên-đàng’ phải được thể-hiện thực tế nhất ở việc ta liên kết mật thiết với Ngài qua lời kinh-nguyện.
Muốn được hưởng phúc thiên đàng mai sau, chúng ta phải liên tục chuẩn bị thiên đàng ngay từ trần gian này.
LM Giuse Nguyễn Văn Thư
Văn Hóa
Lặng trầm Thập Giá
Nữ Tu Kim Chung
20:20 29/03/2018
Mà nghe Thập Giá đổ dài lối đi
Buổi đầu hò hẹn từng khi
Cho trăng ngơ ngẩn cho vì sao rơi
Xe duyên đất, kết tình trời
Dệt hoa hoa thắm dệt lời lời ru
Tình Ngài bền vững thiên thu
Tình con nghiêng ngã phiêu du đi về....
Ôm trong tim mãi câu thề
Xin Ngài đưa dẫn mọi bề Ngài ơi!
Dù rằng lạc bước chơi vơi
Tim con tình Chúa ru hời tín trung...
Kim Chung
Bạn ơi, bạn có biết chăng…?
Hồn Việt
21:58 29/03/2018
Trong khi bạn hưởng nệm chăn êm mình,
Thả hồn vào khúc nhạc tình,
Chìm vào giấc ngủ yên bình mộng mơ,
Ngoài kia, có những trẻ thơ
Lang thang khắp xó kiếm cơm lót lòng,
Và bao bà mẹ lưng còng,
Dãi dầu sương gió, gánh gồng quằng vai,
Lo âu không biết ngày mai,
Có tìm kiếm được đồng nào hay không,
Để con mình khỏi lông bông,
Khỏi mang thân phận long đong suốt đời.
Ngẩn ngơ, ngước mắt nhìn trời,
Để lùng, để ngóng ông trời ở đâu,
Có nhìn thấy kiếp ngựa trâu
Cứ đeo bám mãi không buông tha mình,
Để xin trời đoái thương tình,
Cho mình có sức kiếm tiền nuôi con.
Biết bao người nướng bia lon,
Còn mình chỉ kiếm tiền con, bạc đầu.
Biết bao người khóc vì giàu,
Còn mình cười có xì dầu, mắm nêm.
Bao người hoan lạc thâu đêm,
Con mình ngủ gật, thót tim, giựt mình.
Người ta thưởng thức nhạc tình,
Còn mình nhấm nháp cuộc đời hẩm hiu.
(Nghĩ đến người nghèo nhân dịp Mùa Chay-Hồn Việt)
Chúa Phục Sinh với bà mẹ buôn gánh bán bưng
Sơn Ca Linh
22:32 29/03/2018
Kính tặng mẹ tôi và những chứng nhân phụ nữ âm thầm
Con thảnh thơi mừng Tam Nhật Vượt qua.
Nghỉ bán vài ngày cũng thấy xót xa,
Chúa biết “tay làm hàm nhai” mà, phận khổ !
Dự lễ Tiệc Ly mà chợt lòng tủi hổ,
Bực mấy Tông đồ được Chúa rửa chân !
Bài học nầy Chúa dạy suốt hai ngàn năm,
Nhưng được bao nhiêu “thuộc bài tới bến” ?
Phận đàn bà đâu được đồng bàn Tiệc Thánh,
“Xức chân Thầy” thì có,
Chứ làm gì mong được “Chúa rửa chân” !
Nhưng “đàng Thánh Giá” thì phụ nữ chúng con,
Lẽo đẽo theo Thầy đến cùng trên núi Sọ !
Có phải chăng vì những ân tình đó,
Mà hừng đông ngày “thứ nhất trong tuần”,
Phụ nữ như con, phận “buôn gánh bán bưng”,
Được chọn để mang Tin Mừng sống lại ?
Nhìn ánh nến Đêm Vọng trên tay bừng cháy,
Con chợt thấy đời bao nẻo đêm đen !
Nến đời con giữa gió bụi bon chen,
Không biết được bao lâu rồi lịm tắt ?
Phục sinh nầy,
Con chỉ xin Chúa lau khô dòng nước mắt,
Trên bao nhiêu gương mặt phụ nữ chúng con.
Nghèo khó, đắng cay, bị đối xử bạo tàn…
Bạo lực gia đình, rẻ khinh ngoài xã hội…!
Riêng phần con, phận “buôn gánh bán bưng” tăm tối,
Chỉ mong từng ngày, như cô Ma-đa-lê-na,
Cho dẫu ngập tràn khổ ải đắng cay,
Vẫn hát mãi trong tim lời “tôi đã thấy Chúa” !
Sơn Ca Linh
Phục sinh 2018
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ánh Quang Thập Giá
Tấn Đạt
21:39 29/03/2018
Ảnh của Tấn Đạt
Nhìn lên đồi Gôn-gô-ta,
Chúa trên Thập Giá giao hoà trần gian,
Cứu ta khỏi kiếp lầm than,
Đưa lên hưởng phúc Thiên Đàng vĩnh an.
(Trích thơ của Đinh Văn Tiến Hùng)