Ngày 04-04-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (80)
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
00:34 04/04/2009
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (80)

801. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cầu nguyện tại Nhà Thờ Mồ Thánh Chúa Giêsu dịp hành hương Thánh Địa ngày 05-01-1964

Lạy Chúa Giêsu, nơi đây, Chúa vô tội mà bị xét xử, thánh thiện mà bị lên án.

Nơi đây, Chúa là Con Người và đã bị hành hung, đánh đập, đóng đinh và chịu chết.

Nơi đây, Chúa là Con Thiên Chúa mà đã phải người ta khinh mạn, nhạo cười, chối bỏ; là ánh sáng mà đã phải gặp những tối tăm; là Vua mà phải treo lên thập giá; là Sự Sống mà phải đành chịu chết, nhưng chết để mà sống lại!

Nơi đây, chúng con nhớ đến Chúa, Ớ Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con kêu cầu lên Chúa.

Nơi đây, lạy Chúa Giêsu, sự Thương Khó Chúa đã là lễ dâng được dọn sẵn, được nhận lãnh, được đồng ý trước; sự Tử nạn của Chúa đã là một hiến tế; Chúa là Của Lễ, là Thầy Tế Lễ.

Nơi đây, sự chết của Chúa đã là cái thước đo tội lỗi người đời, là của lễ toàn thiêu vượt trổi lên tất cả các cử chỉ anh hùng, là giá chuộc dâng lên cho Thiên Chúa chí công và là tang chứng của một tình yêu cao quý nhất.

Ớ Chúa Kitô,

nơi đây, sống và chết tương tranh;

nơi đây, Chúa đã vinh thắng khởi hoàn;

nơi đây, Chúa chết vì chúng con và sống lại cũng cho chúng con.

Lạy Chúa Thánh,

Lạy Chúa Uy Quyền,

Lạy Chúa Thánh và Muôn Đời, xin thương xót chúng con.

802. Cây thập giá Chúa Giêsu phải vác

Thập giá mà Chúa Giêsu phải vác và chịu đóng đinh vào đó, là hai lẻ gỗ to, đóng hình chữ thập, một lẻ dài 4 mét 50, một lẻ dài 02 mét. Hai lẻ nầy cân nặng chừng 100 cân.

Thập giá được làm ra nặng như thế, là cố ý cho tội nhân kiệt sức để dễ bị hành tội và đóng đinh.

Trước khi bị đóng đinh vào thập giá, tội nhân phải vác nó mà đi.

803. Thờ lạy Chúa Giêsu chịu đóng đinh chết trên thập giá

Chúng ta biết rằng trước khi Chúa Giêsu vác thập giá, thì theo lệnh các nhà cầm quyền Do Thái và Rôma, ngài đã bị quân lính đánh đòn nhiều trận chí tử. Riêng những trận đòn như thế cũng đủ làm cho Chúa phải chết rồi, hoặc ít ra cũng phải thoi thóp hấp hối vì roi đánh làm bằng da thú rất bền, lại có gắn thêm nhiều tua bọc móc sắt như lưỡi câu, nên mỗi lần quất roi vào, là tước ra một miếng thịt.

Thân hình Chúa Giêsu tiều tụy, bầm dập, đầy máu vì những trận đòn quá tàn bạo độc ác, giờ đây, còn mang nặng thêm hai lẻ gỗ một trăm cân, phải vác đi lối một cây số và trèo lên đồi cao lởm chởm gồ ghề sỏi đá, trong tiếng hò hét rủa nộp của tức giận và hận thù, với những làn roi tiếp tục thúc vào mình Chúa, cho nên Chúa đã ngã quỵ nhiều lần trên đường lên đồi Gôngôta.

Đến nơi xử tử là đỉnh đồi Gôngôta, Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá.

Bị xử tử bằng đóng đinh vào thập giá là một cách chết tủi nhục nặng nề nhất, dành cho các phạm nhân tử tội cở tướng cướp ác ôn hay phản loạn ghê gớm. Nạn nhân sẽ hết máu và sẽ chết khát.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thờ lạy Chúa bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá!

Chúng thờ lạy Thánh Giá Chúa!

804. Cuốn sách Thánh Giá

Thánh Giá là cuốn sách ta phải học và phải đọc luôn trong suốt cuộc hành trình đức tin trên đường dương thế nầy.

Những trang sách là Thân Thể của Chúa Giêsu.

Những chữ là những Thương Tích của Chúa Giêsu.

Mực là Máu của Chúa Giêsu.

Ngòi viết là sự công bình và sự nhân từ vô biên của Đức Chúa Cha.

Tước hiệu cuốn sách là: Giêsu Nadarét, Vua Dân Do Thái.

805. Chúng ta là những ông Ximong.

Khi vác thập giá lên Núi Sọ, Chúa Giêsu được ông Ximong giúp vác.

Khi được ông Ximong giúp vác, Chúa Giêsu nghĩ đến tất cả chúng ta sau nầy sẽ giúp Chúa vác thánh giá của Ngài bằng cách vác thánh giá hằng ngày của mình.

Vì thế, lúc đó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mỗi một người chúng ta được những ơn lớn lao để chúng ta được mạnh mẽ, chịu đựng và phó thác, hầu chúng ta được nói như Chúa xưa: “Lạy Cha, xin theo ý Cha, chứ đừng theo ý con.”

806. Tin tưởng vào ai thì được người đó dành cho tình bạn.

Có một nhà quảng cáo nổi tiếng người Mỹ, tự nhiên cảm thấy một người bạn cũ của mình cứ lạnh nhạt dần với mình.

Cảm giác như vậy, ông liền đi nhờ người bạn nầy giúp mình thẩm tra một bản thiết kế một ống nước mới, đồng thời tỏ ra là bạn mình có thể cho ý kiến.

Người bạn, là kiến trúc sư đó, khi nhận được bản thiết kế ống nước, ngoài dự liệu của nhà quảng cáo nọ, người bạn nầy còn đưa ra rất nhiều ý kiến đóng góp quý báu. Hơn nữa, tình bạn lâu nay của hai người, từ ngày đó, cũng tốt đẹp trở lại. (Cuộc Sống Tươi Đẹp – Dale Carnegie)

807. Lo buồn là vô ích.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi (Dadi Janki) không có gì phải lo buồn.

Cho dù ngày mai không còn gì để ăn, tôi cũng không lo lắng. Tôi cảm nhận rằng dù ngày mai có xảy ra việc gì đi nữa, thì đến ngày mai, chúng ta sẽ xem xét. Còn hôm nay, chúng ta còn cái gì đó để ăn.

Nếu có 50 hay 100 người đến nơi tôi ở, và tôi không có gì để đãi họ ăn, thì không bao giờ tôi có ý nghĩ: “Ta không có gì để đãi họ cả.” Ít nhất tôi cũng có thể đón chào họ nồng nhiệt với nụ cười, và mời họ cốc nước.

Nhưng nếu vẻ mặt tôi lộ vẻ buồn phiền, thì ngay cả việc đón chào và mời họ một cốc nước, tôi cũng không làm nổi. (Từ Nội Tâm Hướng Ra Bên Ngoài – Dadi Janki)

808. Hợp tác giữa người làm vườn và thiên nhiên

Bạn có biết công việc của người làm vườn diễn ra như thế nào không?

Đầu tiên là chọn đất, chọn giống theo mùa vụ thích hợp. Sau đó sẽ là việc cày xới đất, gieo hạt rồi tưới nước. Tiếp theo, anh ta phải đảm bảo luôn có đủ nước cho khu vườn, ngăn ngừa côn trùng tấn công.

Nhưng vẫn chưa đủ, khu vườn của anh ta tươi tốt hay lụi tàn còn phụ thuộc rất nhiều vào việc thiên nhiên có ban tặng điều kiện sống thich hợp cho nó hay không.

Anh ta hợp tác và giúp đỡ khu vườn, nhưng không thể can thiệp được vào các quy luật của tự nhiên: bão tuyết. giông tố, ngập úng, nắng hạn,...

Khu vườn đẹp là sản phẩm của sự hợp tác giữa anh ta và thiên nhiên. Anh ta cần biết đặt mình vào những quy luật của thiên nhiên, hiểu được rằng khi nào thì nên xen vào và khi nào thì phải chờ đợi. (Tư Duy Tích Cực – Trish Summerfield, Frederic Labarthe – Anthony Strano)

809. Bài học về cách cúi đầu

Một thanh niên tìm được việc làm trong một cửa hàng tạp hoá.

Ngay ngày đầu tiên đi làm, người chủ đưa cho anh ta một cây chổi và nói: “Anh quét nhà đi nhé!”

Quá ngạc nhiên, người thanh niên trả lời: “Nhưng tôi là người có bằng đại học mà!”

- “Ồ, xin lỗi,” ông chủ nói, “Tôi không biết là trường đại học không dạy anh việc đó. Đưa chổi đây, tôi sẽ chỉ cho anh làm.”

Một trong những bài học đặc biệt của cuộc sống là thỉnh thoảng, khi cúi đầu xuống, ta sẽ thấy hài lòng thật sự.

Có khi chúng ta tin rằng nếu chúng ta có thể vươn lên đến một mức sống nào đó, hoặc nếu chúng ta đạt đến một mức sống nào đó, hoặc nếu chúng ta đạt đến một mức thu nhập nào đó, hoặc có được một mức học vấn nào đó, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ nếm trải được hương vị ngọt ngào của hạnh phúc thật sự nếu chúng ta không học được những giá trị của sự đơn giản và tinh thần phục vụ. Đó là bài học về tính khiêm tốn – bài học về cách cúi đầu! (1 Phút Có Thể Thay Đổi Cuộc Đời – Steve Goodier)

810. Những chia sẻ thật lòng trong lúc khó khăn đã được đền đáp xứng đáng.

Tháng 12 năm 1995, xưởng dệt Malden bị thiêu rụi.

Chủ xưởng Aaron Feuerstein vô cùng thất vọng bởi anh đã đầu tư hết công sức và tiền của để phát triển nhà máy trước sức ép cạnh tranh gay gắt của các công ty nước ngoài.

Aaron lo lắng không biết xưởng dệt có tiếp tục hoạt động được không.

Càng nghĩ về công việc, anh càng nặng lòng với hơn 2000 công nhân – những người ngày ngày làm việc cật lực để cho ra sản phẩm có chất lượng.

Aaron quyết định không chỉ bắt đầu lại, mà vẫn tiếp tục trả lương cho họ trong suốt quá trình nhà máy được xây dựng lại.

Giọt nước mắt đau khổ trên mặt công nhân chuyển thành giọt lệ vui sướng.

Nhà máy xây dựng xong và đi vào hoạt động.

Năng xuất, trách nhiệm và tinh thần làm việc của công nhân trở nên khác hẳn.

Khi được hỏi những suy nghĩ về công nhân của mình, Aaron cho rằng: “Họ là những người chăm chỉ và trung thành nhất mà tôi biết được.”

Rõ ràng những chia sẻ thật lòng của anh trong lúc khó khăn với những người công nhân, đã được đền đáp xứng đáng. (Bí Quyết Của Thành Công – David Niven, Ph.D.)
 
Như làn trầm hương ban chiều
Gioan Lê Quang Vinh
00:42 04/04/2009
NHƯ LÀN TRẦM HƯƠNG BAN CHIỀU

Ngày trước tôi học trong chủng viện nên… không thuộc kinh! Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, ở nhà Chúa thì chỉ có hai việc là đọc kinh cầu nguyện và học hành chứ có làm gì nữa đâu. Thế nhưng điều tôi nói là thật, vì chúng tôi đi lễ, đọc sách thiêng liêng, nguyện ngắm chứ có bao giờ đọc kinh như giáo dân. Vậy mà sau này đi dạy giáo lý, tôi lại phải xướng kinh cho các em đọc, rồi lại bảo các em học kinh, cho các em thi kinh nữa. Việc đọc kinh có giá trị như thế nào trong đời sống người Kytô hữu, và phải chăng lời kinh soạn sẵn không còn được sử dụng nữa?

Có một dạo tôi phụ trách xướng kinh cho các em trong nhà thờ trước lễ thiếu nhi. Một kinh mà tôi đọc hoài với các em mà vẫn không nhớ hết, là kinh “Ngày Chúa Nhật hôm nay…”, nên tôi phải để cuốn sách kinh dưới chân Thánh Giuse trong nhà thờ để cầm đọc cho các em đọc theo. Một lần nọ, tôi bắt lên “Ngày Chúa nhật hôm nay chúng con họp nhau…”, tôi vừa đọc vừa với tay đến chân Thánh Giuse lấy sách. Không ngờ hôm đó chẳng biết ai lấy cuốn sách đem đi đâu từ lúc nào! Tôi hoảng hốt, bèn dùng kế thứ ba mươi sáu, để micro xuống và… bước ra khỏi nhà thờ. Dĩ nhiên là các em không nhớ nên tiếng đọc kinh cứ nhỏ dần, nhỏ dần và im hẳn. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ việc tôi làm như thế hình như có cái gì không ổn, nhưng tôi cũng chẳng biết cách gì hơn là đi ra khỏi nhà thờ lúc ấy. Nếu tôi đứng đó mà cho các em thấy mình không thuộc kinh thì quả là một gương xấu. Sau này dạy giáo lý nhiều hơn, tôi nhờ các em mà cũng thuộc kha khá kinh bổn. Nhưng tôi cứ nghĩ, không biết đúng hay sai, là các cha, các thầy và các chị nữ tu chắc cũng ít thuộc kinh. Vấn đề là có cần thuộc lòng nhiều kinh không?

Một lần đọc báo điện tử Công giáo thấy có tác giả viết là tình cờ đọc được bài viết nhăng cuội trong báo Công giáo và Dân tộc nhờ có ai đó dùng báo ấy lót ngồi trên xe. Tôi thì tình cờ đọc vài bài báo chửi bới Giáo Hội trên báo này vào dịp khác. Thời sinh viên, tôi ở trọ nhà ông quan bác anh Đức Cha Phaolô Tĩnh. Ông bà cụ nhặt báo dán vách nhà, trong đó tình cờ có mấy trang báo CGvDT. Ngay chỗ giường tôi nằm có hai bài báo, một bài chê Đức Thánh Cha vì chuyện gì đó, một bài chê các bà cụ già miền Bắc ê a đọc kinh làm tác giả phát chán. Bài thứ hai này về sau tôi biết do ông lm quốc doanh T.C. viết. Tôi nghĩ: các bà cụ đọc kinh làm cho ông lm này chán, nhưng chắc là Chúa Giêsu vui lòng, bởi vì các bà có học cao và có suy niệm suốt ngày như ông lm ấy đâu mà dâng lên Chúa những lời cầu nguyện cao siêu cỡ CGvDT! Trong các thứ báo chí, thì đó là một trong những tờ báo tôi chưa bao giờ mua, cho nên cũng không biết cách cầu nguyện mà coi thường việc đọc kinh của các bà cụ như họ.

Cha Dương văn Thạnh, giám đốc chủng viện Vĩnh Long và sau này chủng viện Cần thơ, hay nói rằng ngài thích Kinh Truyền Tin, còn gọi là kinh nhật một, với hình ảnh những người nông dân khi chiều xuống vác nông cụ về nhà. Khi nghe tiếng chuông nhật một vang lên trên những cánh đồng, họ đặt cuốc cày xuống đất, hướng về giáo đường và nguyện kinh. Từ khi nghe Cha Thạnh diễn tả, tôi thấy kinh Truyền Tin có thêm một ý nghĩa mới diệu kỳ. Chưa chắc gì các nhà thần học cảm nghiệm được việc Chúa Trời phút chốc hoá thân vào kiếp người như những người nông dân chất phác kia.

Vẫn biết là lời cầu nguyện phát xuất từ đáy lòng quí hơn mọi câu kinh soạn sẵn. Vẫn biết là đọc kinh, có khi người ta để đầu óc đi đâu, cho nên lời kinh thành máy móc. Thế nhưng Chúa Giêsu cũng đã dạy những lời kinh Lạy Cha cho các Tông đồ. Và có lời nguyện nào ý nghĩa và đẹp lòng Chúa cho bằng kinh Lạy Cha? Đọc kinh là cách cầu nguyện, cũng rất đáng quí nếu người ta chú ý và sốt sắng gửi lòng mình vào các câu kinh.

Có một khía cạnh mà lời kinh soạn sẵn hơn hẳn lời cầu nguyện. Ấy là lời kinh là lời cầu nguyện của cả cộng đoàn. Thật đẹp và thật dễ thương khi cả cộng đoàn hiệp ý dâng lên Thiên Chúa lời kinh nguyện dù đơn sơ mộc mạc đến mấy. Hồi còn ở Hố nai, sáng nào trước Thánh Lễ chúng tôi vẫn đọc chung với cộng đoàn kinh “con xin dâng các lễ Misa các thầy cả ở khắp trong thiên hạ làm trong ngày hôm nay…”. Lời mộc mạc là thế mà sao cuốn hút lòng người vào Thánh Lễ một cách lạ lùng. Sau này khi đi lễ ở Sàigòn, nhiều nhà thờ không đọc kinh, nhưng trước mỗi Thánh Lễ trong lòng tôi lại vang lên lời kinh của ngày xưa. Có những kinh nguyện đã đi vào lòng người, nhưng lại có nguy cơ bỏ quên mất. Kinh phạt tạ Thánh Tâm chẳng hạn. “Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc…” Lời kinh cứ như thấm sâu, thấm sâu vào lòng người, ai đã từng đọc thì chẳng hề quên cảm giác được Chúa Giêsu dịu dàng nhìn mình. Không biết bao nhiều người chú ý là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, năm 1967 đã ban ơn đại xá cho những ai đọc kinh ấy vào ngày Lễ Kính Thánh Tâm. Hay là kinh khấn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng yêu mến cho bao thế hệ tín hữu Việt nam. Đọc lời kinh ấy, lòng người cứ nao nao hướng về Mẹ và Con yêu dấu của Mẹ. Trong Mùa Chay, việc ngắm đứng giúp con người thông hiệp vào các nỗi thống khổ của Đức Giêsu. Như vậy, lời kinh dù được soạn sẵn, vẫn mang tính cá nhân và đầy tâm tình, nếu chúng ta đọc với cả tâm hồn của mình. Trên hết, lời kinh Phụng vụ chính là lời kinh của toàn thể Hội Thánh lữ hành dâng lên Thiên Chúa. Bây giờ ngoài giáo sĩ và tu sĩ, giáo dân các đoàn thể cũng đọc kinh Phụng vụ để cùng Giáo Hội ca ngợi Thiên Chúa trong ngày sống của mình.

Đời sống người Kytô hữu, cành nho, chỉ được nuôi sống và phát triển khi được liên kết với cây nho Giêsu bằng lời cầu nguyện không ngừng. Lời cầu nguyện ấy có thể là những lời kinh quen thuộc. Thời đại mới với nhịp sống hối hả không cho phép người ta ngồi lại lâu giờ để đọc hết kinh này đến kinh kia. Nhưng cũng đừng vì vậy mà loại bỏ hết mọi kinh nguyện ra khỏi đời sống. Cũng đừng chê lời kinh ê a buồn ngủ của các bà cụ thôn quê. Tất cả những lời kinh ấy là “làn trầm hương ban chiều” dâng lên Thiên Chúa. Nếu những lời cầu nguyện sốt sắng đầy tâm tình tự đáy lòng là làn trầm hương toả cao, thì lời kinh mộc mạc cũng nương theo làn hương ấy mà bay lên, bay lên… Bạn có bao giờ hoà vào đoàn dân Chúa trong những buổi thắp nến cầu nguyện cho công lý chưa? Nếu có thì bạn cảm thấy được sức mạnh của lời kinh chung, kinh Hoà Bình, được hát lên, tuyệt vời biết bao.

Viết bài này vào dịp cuối năm học giáo lý, chúng tôi ước ao cho các em, và cả người lớn chúng ta, đừng bỏ quên những lời kinh đã đồng hành cùng Hội Thánh Việt nam qua nhiều trăm năm lịch sử. Chính các tiền nhân anh hùng Tử đạo Việt nam nhờ các lời kinh ấy mà nuôi dưỡng đức tin và đời sống chứng nhân. Có những nhà thờ cứ đúng giờ lễ là ca đoàn hát vang, rồi Thánh Lễ bắt đầu ngay, không hề có tiếng đọc kinh quen thuộc. Chắc chắn người ta cũng thân tình với Đức Giêsu, nhưng cũng không thiếu những tâm hồn thấy hụt hẫng, chẳng đủ tâm ý mà cầu nguyện. Rồi giờ kinh tối, giờ đẹp nhất của gia đình, cũng dần dần bọ quên đi, do ảnh hưởng của TV, của trò chơi, của máy tính… Tôi chợt nghĩ đến các vị “anh hùng lá vạn tuế” ở Hà nội. Những người chất phác thế kia thì có thể không suy ngắm lâu giờ, nhưng tại sao họ vững tin và can trường làm chứng nhân đến thế. Chắc là sẽ có dịp tôi xin được hỏi bố Phụng và các cha DCCT. Nhưng tôi trộm nghĩ, chính lời kinh qua bao đời đã nuôi dưỡng họ.

Xin Mẹ là thầy dạy cho chúng con biết nhờ lời kinh đẹp mà dâng lên Chúa những gì chúng con không biết diễn tả bằng ngôn ngữ riêng của mình.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:53 04/04/2009
CẦU NGUYỆN

N2T


Sư phụ vẫn thích phản bác loại người tiếp thụ khái niệm về Thiên Chúa.

- “Khi Thiên Chúa đem con ra khỏi từ nơi đau khổ, con mới biết nghĩ đến chuyện tìm kiếm Thiên Chúa chân thật.”

Đệ tử yêu cầu sư phụ giải thích ý của lời ấy, sư phụ kể câu chuyện sau đây:

Có một người lên phố sắm đồ đạc, đem chiếc xe đạp mới toanh dừng bên chợ. Cho đến ngày hôm sau thì anh ta mới nghĩ đến chiếc xe đạp của mình, khi đến chợ thì anh ta nghĩ rằng chiếc xe đạp nhất định bị người khác lấy mất rồi, nhưng chiếc xe đạp vẫn an toàn nơi chỗ cũ.

Anh ta vui mừng chạy vào nhà thờ bên cạnh cảm tạ ơn Chúa đã gìn giữ chiếc xe đạp của anh ta, nhưng khi anh ta ra khỏi nhà thờ thì không thấy chiếc xe đạp đâu cả !?”


(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Thiên Chúa luôn gìn giữ chúng ta trên mọi nẻo đường đời ta đi, và con người ta chỉ biết cảm tạ ơn Thiên Chúa khi được bằng an, nhưng lại oán trách Thiên Chúa những khi gặp khó khăn đau khổ.

Thiên Chúa gìn giữ chiếc xe đạp để mình đến lấy về, nhưng lại không lấy về mà còn vào nhà thờ để cảm tạ ơn Chúa !

Chúa không muốn chúng ta hành động như thế, không phải chỉ vào nhà thờ cám ơn khi được ơn phúc, mà còn phải vào nhà thờ mỗi ngày khi có thể được trong cuộc sống của mình; không phải chỉ ngợi khen khi không mất chiếc xe đạp, những cần phải ngợi khen khi chiếc xe đạp bị mất, đó mới chính là việc cầu nguyện chân chính của người Ki-tô hữu.

Người có đức tin thì cám ơn Thiên Chúa trong mọi sự dù buồn hay vui, dù hạnh phúc hay đau khổ; người không có đức tin thì chỉ biết cám ơn trời khi mình được nhiều may mắn, và sẽ oán trách trời đất khi mình gặp chuyện không may.

Có đức tin và không có đức tin thì khác nhau xa vô cùng...
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:54 04/04/2009
CHỦ NHẬT LỄ LÁ (B)

Tin mừng: Mc 14, 1-15, 47.

“Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”


Bạn thân mến,

Hôm nay chủ nhật Lễ Lá, là ngày Giáo Hội kỷ niệm dân Do Thái ngày xưa đã đón Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem cách long trọng, và để mở đầu cho cuộc thương khó của Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại mà phải chịu chết trên thánh giá. Ý nghĩa của ngày lễ Lá là như thế, nhưng tâm tình của bạn và tôi cũng như của những người Ki-tô hữu khác trong thánh lễ này lại mang tâm trạng khác, tôi xin chia sẻ với bạn những tâm tình này:

1. Tình cảm của con người.

Bạn có thấy tình cảm của con người không, cụ thể là người Do Thái đối với Chúa Giê-su đó, hôm nay tình cảm họ dành cho Ngài thật dạt dào trân trọng, họ tôn sùng Ngài cách cuồng nhiệt, và nếu giờ phút ấy Chúa Giê-su xách động quần chúng đứng lên lật đổ nhà vua, đuổi quân Rô-ma ra khỏi đất nước, thì chắc quần chúng vẫn nghe theo, nhưng Chúa Giê-su không làm như thế, bởi vì Ngài biết lòng dạ của người dân, tình cảm của con người hay thay đổi, nay trắng mai đen, nay hoan hô mai đả đảo.

Tình cảm của dân Do Thái hôm qua cũng là tình cảm của bạn và tôi hôm nay, giống nhau như đúc ở sự hay thay đổi: thích thì hoan hô, không thích thì đả đảo, dù cho đối tượng là người tốt hay người vô tội.

2. Sự khiêm hạ và hiền hòa của Chúa Giê-su.

Trước một đám người cuồng nhiệt hoan hô mình, Chúa Giê-su biết đó chỉ là sự phấn chấn nhất thời của họ, và ngày mai chính họ sẽ lên án mình cách bất công, nhưng Ngài vẫn cứ đón nhận lời tung hô của họ mà không cau có, dỗi hờn hay chỉ trích. Thái độ hiền hòa ngồi trên mình lừa mẹ tiến vào thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su đã nói lên tất cả sự khiêm cung của Ngài, chính những lời tung hô “vạn tuế con Vua Đa-vít” “Đấng ngự đến nhân danh Chúa” của người Do Thái như một lời tiên tri ứng nghiệm nơi Ngài, Đấng Thiên Chúa làm người.

Sự khiêm cung và hiền hòa của Chúa Giê-su là một bài học cho chúng ta, khi chúng ta biết bạn bè chơi khăm mình thì nhất định sẽ nổi giận và không thèm tham gia với họ, khi chúng ta biết những lời khen ngợi của mọi người chỉ là lời khen giả tạo và hàm ý chê bai, thì chúng ta đùng đùng nổi giận...

Bạn thân mến,

Giáo Hội cho chúng ta nghe tường thuật bài Thương Khó của Chúa Giê-su trong ngày Lễ Lá, là để cho bạn và tôi cùng chia sẻ với những đau khổ của Ngài đã chịu vì yêu thương bạn và tôi, cũng như yêu thương nhân loại. Và cũng để cho bạn và tôi học được bài học khiêm tốn và hiền hòa nơi Chúa Giê-su, Đấng từng tuyên bố mình là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Bắt đầu Tuần Thánh với ngày lễ Lá, hy vọng bạn và tôi mỗi ngày đều suy niệm những đau khổ Chúa Giê-su phải chịu, để nhờ đó đổi mới cuộc sống của mình, chết cho tội lỗi, và được sống lại với Chúa Giê-su trong ngày phục sinh của Ngài.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

-----------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://360.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:56 04/04/2009
N2T


129. Tôi càng hiểu sự cao quý của tôi, và cho đến nay cuộc sống của tôi không giống như thế, càng làm cho tôi cảm thấy kinh hoàng và hổ nhục.

(Thánh Bernardus)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:58 04/04/2009
N2T


74. Không có tăng gia sự cần mẫn, thì không có tài năng, cũng không có thiên tài.

 
14 Chặng Đàng Thánh Giá Online (Multimedia)
J.B. Đặng Minh An
03:03 04/04/2009
Suốt dòng lịch sử, sự phản bội và cái hôn Giuđa đã trở thành biểu tượng của cơ man những bất trung, bội giáo, và lường gạt. Và vì thế Chúa Kitô đang phải đối diện với một thử thách khác: sự phản bội và hệ quả của nó là cảm giác bị bỏ rơi và cô đơn. Đó không phải là trạng thái cô tịch Ngài yêu thích khi lui vào trong chốn hoang vắng để cầu nguyện, đó không phải là trạng thái cô tịch là nguồn mạch của bình an và yên hàn mà nhờ đó chúng ta cảm nghiệm được mầu nhiệm của tâm hồn và của Thiên Chúa. Trái lại, đó là một kinh nghiệm cay đắng của tất cả những ai, chính trong giây phút chúng ta đang tụ họp nơi đây, cũng như tại những thời khắc khác trong ngày, đang thấy họ cô đơn trong một căn phòng, đối diện với một bức tường trơ trụi hay trước một chiếc điện thoại im bặt, bị mọi người bỏ rơi vì họ là người già yếu, là ngoại kiều hay khách lạ. Cùng với họ, Chúa Giêsu đang phải uống từ trong chén chứa đựng nọc độc của sự bỏ rơi, cô đơn và thù nghịch.
 
Qua đau khổ thánh giá tới vinh quang phục sinh
Lm Trần Bình Trọng
04:39 04/04/2009
Chúa Nhật Lễ Lá tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa, Năm B (Is 50:4-7; Pl 2:6-11; Mc 14:1 – 15:47)

Vào những ngày cuối đời tại thế, Ðức Giêsu bị Giuđa phản bội, nộp Thầy mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:15). Nghĩ đến viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Ðức Giêsu đi ra Núi Cây Dầu cầu nguyện. Cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán vệ binh Đền thờ đến bắt Ðức Giêsu bằng một dấu hiệu là nụ hôn. Ðể bảo vệ Thầy mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai phải tên đầy tớ của thượng tế (Mc 14:46). Phúc âm Nhất lãm không nêu danh người chém. May thay, Phúc âm thánh Gioan có xác định là ông Phêrô chủ động và nêu danh cả viên đầy tớ bị chém là Man-khô nữa (Ga 18:10).

Nói đến việc chém đứt tai tên đầy tớ, thì có linh mục kia từ khi vào chủng viện trung học cứ thắc mắc: Sao thánh Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Hay phải dịch là xẻo tai? Mà xẻo tai thì lại không thực tế trong trường hợp này. Ðể xẻo, thì một tay cần phải cầm tai của tên đầy tớ, còn tay kia cầm gươm để xẻo thì mới có điểm tựa. Nếu vậy, đối phương thấy đau sẽ vùng vẫy để tẩu thoát. Còn nếu nhờ các tông đồ khác kìm kẹp hắn lại để thực hiện việc xẻo, thì cũng không giúp được gì, bởi vì vệ binh Đền thờ đi bắt Ðức Giêsu thế nào cũng phải đông hơn và có khí giới lợi hại hơn để áp đảo nhóm Mười Một.

Trở lại việc chém đứt tai thì linh muc đó lý luận: Nếu thánh Phêrô bổ thẳng từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của tên đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả đầu hay cổ nữa. Nếu tai cụp gần vào đầu thì lại càng khó chém. Có lẽ tên đầy tớ có tai vảnh ra như tai lừa nên mới dễ chém như vậy. Dầu sao đi nữa, linh mục đó cũng kết luận rằng thánh Phêrô phải có võ thuật, nhất là làm nghề chài lưới ở biển hồ Tibêria thì càng phải biết võ mà đề phòng hải tặc, nếu có. Như vậy khi chém tên đầy tớ, thánh Phêrô đã phải dùng thiên giác để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đầy tớ. Nói cách khác, thánh Phêrô phải dùng trí óc để điều khiển thần kinh, rồi thần kinh phối trí với nhãn quan và bắp thịt cánh tay để điều khiển hướng đi của thanh gươm, cho gươm dừng lại ngay trước vai. Như thế thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo nhóm người đến bắt Thầy mình như là ngụ ý nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thầy của chúng ta nghe không, kẻo phải ăn đòn như thế này. May thay, Phúc âm thánh Luca có ghi lại việc Chúa chữa tên đầy tớ: Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22:51).

Như vậy đường lối của Ðức Giêsu khác với đường lối loài người. Ðường lối của Ðức Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Người bảo Phêrô dừng lại và xỏ gươm vào bao (Mt 26:52). Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một nụ hôn, tông đồ khác chối Thầy. Số còn lại thì lẩn trốn như trạch, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Có một chàng trai đi theo Đức Giêsu, thấy nguy cơ, liền trút tấm vải che thân, tẩu thoát, mình trần như nhộng (Mc 14:51-52). Những nhà chú giải Thánh kinh đưa ra nhận định: chàng trai đó chính là thánh sử Mác-cô. Nếu theo nhận định của những nhà chú giải Thánh kinh về căn tính của chàng thanh niên tẩu thoát, mình trần trụi, thì tình tiết trần truồng có thể được giải thích như sau. Đức Giêsu và các tông đồ có lẽ ăn bữa Vượt qua tại nhà thân mẫu ông Mác-cô, trong một căn lầu, rộng rãi, có trường kỉ như Người đã chỉ bảo (c. 12). Khi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống lầu đi ra vườn Gét-sê-ma-ni, Mác-cô ở dưới lầu nghe hay nhìn thấy – có lẽ vữa tắm xong - cũng đi theo, vội lấy khăn bằng vải gai khoác vào người cho đỡ lạnh - lạnh vì ông Phêrô phải ngồi gần lửa mà sưởi (c. 54).

Philatô thấy Ðức Giêsu không làm chi đáng tội cho nên muốn tha cho Người, nhưng lại nể dân. Còn dân chúng thì nhạo báng, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa.

Trên thập giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thập giá, và không có bệ đỡ chân Chúa đâu. Ða số những cây thập giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc bốn mươi lăm độ như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Ðóng đinh ai trên thập giá là một hình phạt của tội nhân. Với hình phạt xưa kia khi chưa có phong trào nhân quyền bảo vệ phạm nhân, người ta đâu có quan tâm đến việc làm cho tội nhân đỡ đau đớn bằng cách đặt bệ chân đâu? Cho nên thân xác kéo ghì xuống, làm vết thương ở hai cổ tay và hai chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Ðau đớn, nhức nhối, kiệt sức và ngộp thở mà chết!

Ðừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Người là Thiên Chúa. Không phải vậy đâu. Chúa Giêsu cũng là người. Và Chúa chịu đau khổ và chịu chết với tư cách là người. Ðức Giêsu không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Nơi Ðức Giêsu có 100% Chúa và 100% người. Ai chủ trương nơi Ðức Giêsu chỉ có 50% thiên tính và 50% nhân tính cộng lại là rối đạo. Ðức Giêsu là Chúa hoàn toàn và trọn vẹn. Ðức Giêsu cũng là người hoàn toàn và trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi. Với tư cách là Chúa, Ðức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết được. Còn với tư cách là người, Ðức Giêsu cũng sợ đau khổ và sợ chết. Vì thế mà Ðức Giêsu đã xin với Thiên Chúa Cha - nếu có thể được - cho Người khỏi uống chén đắng, nghĩa là khỏi chịu đau khổ và chịu chết, nhưng Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (Mc 14:36). Và Ðức Giêsu đã chịu đau khổ tột bậc.

Phúc âm hôm nay ghi lại, vào giờ sầu khổ trong vườn cây dầu: Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến (Mc 14:33). Rồi Người nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Mc 14:34). Phúc âm thánh Luca ghi thêm: Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Sầu khổ hay khổ nạn theo nguyên tự Hy ngữ mà La ngữ gọi là agonia. Theo Ronald Rolheiser thì vào thời Đức Giêsu, agonia là từ ngữ mà giới thể tháo gia dùng để làm ấm hay làm nóng thân thể cho ra mồ hôi để tranh giải ô lim pích. Theo nghĩa này thì thánh sử Luca muốn nói trong giờ khổ nạn Chúa cũng cầu nguyện, chiến đấu với nội tâm đến toát mồ hôi ra để sửa soạn cho bản án đóng đinh trên thập gía (1).

Ðức Giêsu xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ðức Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn thánh Phaolô thì ghi lại về Ðức Giêsu như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).

Nếu việc suy niệm về cuộc thương khó và khổ hình của Ðức Giêsu không khơi dậy được tâm tình sám hối về tội lỗi mình và khóc thương Chúa, thì nên đi coi phim: The Passion of the Christ của Mel Gibson. Những học giả Thánh kinh cho rằng đó là cảnh diễn tả khá trung thực việc quân lính đánh đòn Chúa. Ðó là hình phạt mà các thể chế có pháp lý thời Chúa Giêsu tại miền Trung Đông dùng để phạt phạm nhân. Hình phạt phạm nhân của những thể chế chịu ảnh hưởng Hồi giáo đời nay, xuất phát từ Trung Ðông, vẫn dùng roi da để cho lí hình có vai u thịt bắp quật vào phạm nhân.

Trong rạp coi phim The Passion of the Christ, mà nhậy cảm, ta sẽ thấy nước mắt mình tuôn trào ra làm ướt đẵm hai gò má. Ta sẽ nhận ra chính tội lỗi mình đã khiến Chúa bị đóng đinh. Rồi sẽ thấy mình ngậm ngùi khóc thương Chúa trên đường ra về. Kín đáo hơn thì có thể khóc thầm từ rạp hát tới lúc mở cửa vào xe. Rồi cũng sẽ thấy mình bớt phạm tội.

Chúa Giêsu đã chịu chết không phải chỉ cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Vậy thì trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đóng thêm gai nhọn và đinh sắt vào đầu và mình Chúa? Ta đã làm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu số là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp? Hay ta chỉ phàn nàn, than thân trách phận và còn kêu trách Chúa?

Lời cầu nguyện của kẻ sám hối:

Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người!
Vì tội lỗi nhân loại và cả tội riêng con,
mà Chúa phải chịu khổ hình và chịu chết,
đau đớn và ô nhục trên thập giá.
Con xin sám hối ăn năn tội lỗi con:
những tội con đã xúc phạm đến Chúa,
và những tội xúc phạm đến anh chị em
là thân thể Mầu nhiệm của Chúa.
Xin Chúa thương xót thứ tha
để con được sống lại về phần linh hồn.
Với Chúa PHỤC SINH. Amen
.

1. Dựa theo Ronald Rolheiser trong Catholic Update. Cincinnati, Ohio: St Anthony Messenger Press, February 2008
 
Sống Tnh Thức # 81 - Ý Nghĩa Về Su65 Chịu Chết Chuộc Tội
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
09:48 04/04/2009
Cảm nghiệm Sống # 81: Chúa nhật Lễ lá

Ý NGHĨA VỀ SỰ CHỊU CHẾT CHUỘC TỘI

Trong 15 ngắm về sự thương khó Chúa Giêsu, tôi nhớ tới câu ở đầu nhắm thứ nhất như sau: “Khi Đức Chúa Đức Chúa Giêsu đã đến ngày dọn chịu nạn, mà chuộc tội cho thiên hạ.”

Thế nào là chuộc tội? – Một câu chuyện rất cảm động sau đây: Có một cụ già kia làm nghề nuôi suc vật, được chở vào nhà thương. Ông bị đau ốm mù loà và sắp chết. Khi ông ở đó, đứa cháu gái tới thăm mỗi ngày và đọc sách cho ông nghe.. Một hôm cô bé thấy quyển Thánh Kinh ở trong phòng, cô mở đúng thư 1 Gioan và bắt đầu đọc. Cụ rất chú ý lắng tai nghe. Khi nghe câu: “…và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta hết mọi tội lỗi. (1 Ga 1, 7), thì cụ nói cô bé ngừng lại.

Cụ hỏi: “Cháu ơi! Câu đó có ở đó thật sao? – Cháu đáp: “Vâng câu đó ở đây nè”. - Cụ già: “Cháu có thể đọc lại câu ấy cho ông nghe được không?”. – Cháu gái đọc: “và máu Đức Giêsu, Con của Người thanh tẩy chúng ta hết mọi tội lỗi.”.

Có sự yên lặng trong giây lát, rồi cụ hỏi: - Cháu có chắc là câu này ở đó chăng, trong quyển sách Kinh Thánh này”. – Cháu chắc chứ, thưa nội.” – Cháu ơi! Cháu hãy cầm tay ông và đặt ngón tay ông trên câu đó và đọc lại cho ông nghe.” – Cô bé làm theo lời ông, những giọt lệ tuôn từ đôi mắt mù loà. Với giọng chậm rãi và cương quyết, ông thốt lên: “Cháu yêu của ông ơi, xin mời Lm đến làm các phép cho ông nhé! Nếu có ai hỏi ông đã chết thế nào? Xin cháu nói với họ rằng ông đã được chết lành.”

Câu chuyện này cho ta thấy Giáo lý về sự chuộc tội không phải là một giấc mơ trống rỗng về sự cứu rỗi. Nhưng đó là quyền năng của Thiên Chúa trong đời sống của những ai đã sa ngã vì tội.

• Sự chuộc tội là cất bỏ đi bất cứ điều gì ngăn cản mối tương giao với Thiên Chúa. Nói cách khác, sự chuộc tội nghiã là phục hồi lại sự tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời, cũng có nghiã là cắt bỏ đi những chướng ngại vật giữa Thiên Chúa và con người là bạn, là tôi. Sự đau khổ và chịu chết của Chúa Giêsu đã trả nợ đầy đủ cho tội lỗi chúng ta, giúp bạn và tôi làm hoà, giao hoà với Thiên Chúa. (x. Rom 5, 12-17)

Vậy chuộc tội là căn bản của Giáo lý Kinh Thánh, là trọng tâm của sự sống, sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô như sau:

1- Chúa Giêsu Kitô là Thầy Tề lễ Thương Phẩm: sẽ trở lại phán xét bạn và tôi. Sự chuộc tội cũng kêu gọi bạn chú ý đến nhu cầu lớn lao của mình về sự sống, sự cứu rỗi và việc làm đầy thương xót của Chúa Cha qua Đức Giêsu Kitô: “Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1, 4)

2- Tình yêu và lòng thương xót của Chúa: là nền tảng của sự chuộc tội: Những chuyện xảy ra sau, Ta đã báo trước từ đầu, những gì chưa thể hiện, Ta đã báo trước từ lâu. Ta phán: Điều Ta dự tính sẽ thành tựu, Ta sẽ thi hành điều Ta ưa thích. (Is 46, 10)

3- Công việc cứu rỗi của Thiên Chúa: đến từ chính Ngài. Sự cứu rỗi không đòi hỏi các tội nhân phải kêu xin Chúa Cha yêu thương họ. Chính Ngài đã thương họ trước: “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. (Rom 5, 5). Nên Ngài mới sai Chúa cứu Thế đến làm người để chết cho chúng ta. Đây là một sự mầu nhiệm về Thiên Chúa mà sức người ta không thể hiểu được.

4- Nhưng tình yêu về Ngài mà ta có thể hiểu được: đó là tình yêu thương của Ngài qua Con Một là Chúa Cứu Thế: “Qủa thế, khi chúng ta không có sức làm được gì, vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng hạn kỳ, Đức Kitô đã chết cho chúng ta. (Rom 5,7). Tình yêu thương của Thiên Chúa thúc gịuc Ngài đem ta trở về, để hiệp nhất cùng Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần.

5- Giáo lý Kinh Thánh về sự chuộc tội: đặt trên nền tảng trên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại phản nghịch Ngài: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. (Rm 5, 8). Sự cứu chuộc được ban cho những ai tiếp nhận sự cứu rỗi của Chúa Cha, trong Đức Giêsu với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.

6- Lòng các Tín hữu sẽ được chan chứa tình yêu Chúa: tự hào và biết ơn sự hy sinh cao cả vô cùng của Đức Giêsu, Chúa chúng ta: “Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết để cho chúng ta được hoà giải với Người… hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. (Rom 5, 10)

Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
 
Giải đáp Phụng Vụ: Thêm những Tên trong các Kinh Nguyện Thánh thể
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
10:38 04/04/2009
Và nói thêm về sự xông hương Cộng đồng

Rome (zenit.org).-Giải đáp của Cha đạo Binh Chúa Kitô, Cha Edward McNamara, giáo sư phụng vụ tại đạii học Regina Apostolorum.

Ba Kinh Nguyện Thánh Thể đầu, mỗi kinh bao hàm một cơ hội nhắc tới những tên đặc biệt hoặc của tín hữu hay là những kẻ đã qua đời, tức là lúc đọc Kinh Memento (“Lạy chúa, xin hãy nhớ…”). Khi nào linh mục được thi hành những cơ hội này? Ta Có được phép bỏ các tên đó trong Nghi lễ Roman? Cũng vậy, những Kinh Thánh Thể nhắc tới sự sống các thánh trên trời. Thỉnh thoảng, một linh mục muôn thêm tên vị thánh mà chúng ta có thể đang cử hành lễ và/hay là tên những vị thánh sáng lập các dòng tu mà linh mục thuộc về (nếu ngài là tu sĩ). Tuy điều nay xem ra thích hợp, điều này có đúng chăng (cách riêng khi Kinh Thánh Thể III minh nhiên cho lựa chọn thêm tên “vị thánh của ngày hay là thánh quan thầy” tuy không Kinh Thánh Thể nào khác cho sự lựa chọn này)? J.G., Lewisville, Texas

Như một nguyên tắc chung tên những người qua đời, cùng với những công thức riêng bao hàm, được nhớ trong những kinh nguyện Thánh Thể chỉ khi có một lý do đặc biệt để làm vậy. Điều này thích hợp hơn hết là trong Thánh Lễ an táng hay là lễ giỗ.

Trong những trường hợp khác, nếu Thánh Lễ được dâng cho linh hồn một kẻ qua đời, tên được nhắc tới tốt hơn ở đầu Thánh lễ hay là trong kinh nguyện giáo dân. Những tên riêng của những kẻ qua đời không nên thường nhắc tới trong Kinh Thánh Thể.

Một tiêu chuẩn tương tự áp dụng cho người còn sống. Trừ giáo hoàng và giám mục, những người còn sống chỉ được nhắc tới trong những dịp hoạ hiếm. Ví dụ, trong diệp một phép rửa tội cha mẹ đỡ đầu được nhắc tới trong kinh Memento (“Lạy Chúa xin nhớ tới…” đang khi những tân tòng trưởng thành được nhắc tới lúc đọc kinh Hanc igitur (“Lạy Cha, xin khoan hồng chấp nhận lễ vật…”. Những tân tòng thường được nhắc tới cách tập thể tại lúc này trong tuần bát nhật Lễ Phục Sinh.

Những đôi tân hôn cũng được kêu tên trong kinh Hanc Igitur riêng biệt và có những công thức tương tự cho những dịp khác như thêm sức hay truyền chức, mặc dầu không phải tất cả mọi người có khả năng được nhắc tên riêng. Những công thức này thường được găp trong nghi lễ mỗi bí tích hơn là trong nghi lễ Thánh Lễ.

Một số hội đồng giám mục cũng đã soạn những can thiệp tương tự cho những Kinh Thánh Thể khác.

Về sự nhớ các thánh, mỗi Kinh Thánh Thể có những đặc điểm riêng và phải được tôn trọng. Trước khi Dức Giáo Hoàng Gioan XXIII thêm Thánh Giuse, Nghi lễ Roman theo truyền thông lên danh sách 24 thánh (12 Tông đồ và 12 vị tử đạo) thành hai nhóm riêng. Danh sách này bây giờ có thể ngắn tới bảy bằng cách bỏ các thánh theo sau thánh Anrê trong nhóm thứ nhất và sau Thánh Barnabas trong nhóm thư hai.

Danh sách đầy đủ là:

Một là: Phêrô và Phaolô, Anrê, (Giacobê, Gioan, Thomas, Giacobê, Philip, Bartholomew, Matthew, Simon và Jude [tông đồ], Linus, Cletus, Clement, Sixtus, Cornelius, [5 giáo hoàng] Cyprian [giám mục thành Cathage]. Lawrence [phó tế], Chrysogonus, Gioan và Paul, Cosmas và Damian [5 giáo dân thường]

Hai là: Gioan tẩy Giả, Stephanô [phó tế tử đạo tiên khởi], Matthias, Barnabas (tông đồ), (Ignatius [giám mục thành Antioche], Alexander [Giáo Hoàng] Marcellinus [ linh mục, Peter [trừ quỉ], Felicity, Perpetua [hai giáo dân có chồng thành Carthage], Agatha, Lucy, Anê, Cecilia [4 trinh nữ], Anastasia (giáo dân nữ thành Sirmium]}.

Những danh sách này diễn lại toàn thể Giáo Hội được kết hợp trong sự dâng hy lễ chí Thánh trên bàn thờ theo mức độ các kitô hữu từ tất cả các tình thế đã được phán đoán xứng với việc tử đạo, sự hy sinh cuối cùng cho Chúa Kitô. Bằng cách này việc sử dụng danh sách đầy đủ, ít nhất đôi khi, có thể rất hữu ích, giữa những sứ điệp khác, trong việc soi sáng tiếng kêu phổ quát đến sự thánh thiện.

Trong những kinh khác, chỉ Kinh Thánh Thể III và những kinh Thánh Thể theo những nhu cầu khác biệt có khả năng thêm tên thánh quan thầy nhà thờ hay là thánh của ngày. Trong trường hợp này có lẽ đó một tập quán hợp pháp cho một linh mục tu sĩ nhắc tên đấng sáng lập của mình, cách riêng nếu cử hành trong một nhà thờ do cộng đoàn mình quản lý.

Tuy nhiên, điều không hợp pháp cho bất cứ một linh mục nào là thêm những tên của những vị thánh nếu khả năng nầy không được tiên liệu tong chính kinh nguyện. Điều này có nghĩa là một linh mục sử dụng Nghi lễ Roma có thể kêu cầu danh sách bảy vị thánh hay là tất cả 24 nhưng không thể thêm những tên nào khác không có trong danh sách. Tương tự, ngài không thể xen vào những tên của bất cứ vị thánh nào trong những Kinh Thánh thể II hay là IV, hay là những Kinh Thánh Thể cho cuộc hoà giải.

Nói tóm, nều ngài muốn nhắc tên một thánh quan thầy, lúc đó ngài phải chọn kinh Thượng Tiến (ANAPHORA) thứ ba, hay là, nếu có dịp cần phải làm vậy thì, chọn một trong những kinh vì nhu cầu khác nhau.

* * *

Xông Hương Cộng Đoàn

Một độc giả California đã hỏi: ”Có được dùng hương trong cuộc kiệu sau Thánh Lễ không? Con không gặp được sự đồng thuận nào về câu hỏi này. Tuy Qui Chế Tông Quát Sách Lễ Roma, Số 276, không nói có thể sử dụng hương trong cuộc kiệu cuối Thánh Lễ, một số người ( bao hàm những thầy lễ nhạc của giám Mục) đã biện luận rằng GIRM No. 193 phải được hiểu có nói là nếu một người xông hương dẫn đầu cuộc kiều vào, thì cũng dẫn đầu cuộc kiệu cuối Thánh Lễ. Lập trường này có đúng không?

Tôi muốn nói rằng điểm tranh cãi không phải là hương sẽ được sử dụng lúc này, nhưng đúng hơn là người cầm bình hương được hay là không được hướng dẫn cuộc kiệu ra về.

Trong hai qui chiếu, GIRM số 193 là một chỉ dẫn về những nguyên tắc chung đang khi Số 276 cho những huấn thị chính xác. Chúng ta phải giả thiết rằng không có sự mâu thuẩn hữu ý trong hai qui tắc.

Vì Số 276 kê khai những lúc được sử dụng hương, bấy giờ có thể chắc chắn là không được sử dụng bình hương cho cuộc kiệu đi ra. Quá trình bình thường trong những Thánh Lễ long trọng nhất là, lúc kết thúc Kinh Thánh Thể, người cầm bình hương và những kẻ cầm đèn đi ra một nơi thích hợp ngoài cung thánh. Tắt đèn và cất bình hương. Trong vài trường hợp người giúp phòng thánh lấy than ra khỏi bình hương không để cho nó cháy trong bình hương, điều này có thể làm vì khó mà chùi sạch bình hương. Sau khi cất đèn và bình hương, các người giúp lễ trở về chỗ mình.

Sau khi nói rõ hương không được sử dụng, chúng ta phải bàn cãi vị trí người xông hương trong cuộc kiệu cuối Thánh Lễ.

Về điểm này tôi theo sự diễn tả của Giám Mục Peter Elliott cung cấp trong quyển sách của ngài “Ceremonies of the Modern Roman Rite.” (Những Nghi Thức của nghi Lễ Roma hiện đại). Trong số 412, ngài nói:

“Sau phép lành, phó tế (hay là phó tế Lời) giải tán dân chúng. Đối mặt dân chúng, thầy chấp tay hát câu giải tán, sử dụng một trong nhưng câu dự bị sẵn. Sau khi cộng đoàn đáp trả, chủ lễ và phó tế đi tới bàn thờ. Các ngài hôn bàn thờ và đi tới khoảng trước bàn thờ, nơi cuộc kiệu cuối cùng xếp hàng. Thầy M.C. (Thầy Lễ nghi) hay là một người gíup lễ có thể đem Sách Tin Mừng tới cho phó tế (hay là phó tế Lời), để thầy có thể cầm Sách trong cuộc kiệu.

Theo một dấu hiệu từ M.C., tất cả những người không bận cầm thứ gì, bái sâu bàn thờ hay là bái gối nếu có nhà tạm đặt trong cung thánh. Cuộc kiệu ra theo thứ tự nhứ lúc vào, trừ ngưòi xông hương (và cầm tàu hương) không bình hương (và tàu hương) theo sau người cầm thánh giá và người cầm đèn. Trong lúc kiệu, có thể hát một thánh thi hay là đánh một bản nhạc, theo cơ hội hay theo tập quán.”

Tác giả cống hiến những chỉ dẫn hơn nữa trong phần chú thích cuối trang: “Các tác nhân được chấp nhận được chia về việc một người xông hương mà không cầm bình hương thì sẽ dẫn đầu kiệu. Trong điểm nhỏ này điều xem ra logic là, khi thôi phận sự, người xông hương sẽ đi theo với những người giúp khác đi sau thánh giá.”

Tuy qui chiếu của Giám Mục Elliott, một độc giả Swedish đã hỏi về một số chi tiết cuốn sách này với qui chiếu về sự xông hương:

“1. Trong ‘Những nghi thức của Nghi Lễ Roman Tân Thời’ (CMMR) con có đọc người xông hương tới gần bàn thờ từ bàn nhỏ bên cạnh. Tuy nhiên, một trong những kẻ giúp bàn thờ lâu nhất yêu sách rằng dầu cho CMMR cho huấn thị này, đó không phài là phần của những huấn thị chính thức, cho nên đó là một cái gì thuộc nhiệm vụ của M.C. địa phương. Ngài có đúng không? Nếu không, con có thể qui chiếu văn bản nào?

“2. Nếu có một phó tế hiện diện trong Thánh Lễ, và có xông hương, thầy có thể (và thầy sẽ) ủy việc xông hương cho những kẻ giúp bàn thờ, và nếu vậy: khi nào, và dưới những hoàn cảnh nào?”

Điều phải nhận xét là Monsignor Elliott lúc đó không bao giờ đòi một tình trạng chính thức cho những công trình của ngài, mặc dầu những công trình lấp đầy một lỗ trống rõ rệt giữa những nguồn phụng vụ. Một số chi tiết của tác phẩm ngài không còn đáp ứng với GIRM mới nữa, và điều nên hy vọng là một kỳ xuất bản mới có thể được phát hành.

Trong tác phẩm vô giá này, tác giả cố gắng so chiếu những diễn tả của ngài với những nguồn chính thức, nhưng những nguồn này không luôn luôn cung cấp chi tiết cần trong một thủ bản lễ nhạc. Như vậy ngài phải thêm nhiều văn bản chính thức và sử dụng những tác giả được phê chuẩn từ những thời xa xưa, tập quán lâu đời, ý kiến chung, và sự quan sát sắc sảo những lễ nghi long trọng tại Rome. Như vậy ngài là một kẻ hướng dẫn có thể tin cậy nhưng không chính thức.

Do đó, tuy thật sự việc chỉ dẫn người xông hương đi tới gần từ một bàn nhỏ bên cạnh (thường phía phải chủ tế) không phải được chính thức ra lệnh, điều đó không có nghĩa là để tự do và bất cứ thầy lễ nhạc nào có thể thay đổi nó. Kiểu tới gần này là tập quán lâu đời và cũng là vị trí thực tế nhất hầu bỏ hương trong bình hương vì hầu hết người ta dùng tay phải. Dầu sao đi nữa, có thể có những hoàn cảnh hay là những chấn song kiến trúc có thể đòi hỏi những phương tiện khác để tới gần chủ tế--và luật không cấm điều này.

Về câu hỏi thứ hai tôi muốn nói không phải phó tế uỷ quyền nhưng đúng hơn chủ tế, với M.C. và trước khi Thánh Lễ bắt đầu, lấy quyết định sau cùng phó tế hay người giúp lễ sẽ xông hương hay là nếu phải phân công. Dưới những hoàn cảnh bình thường, khi chỉ có một phó tế, thầy phải xông hương bài Tin Mừng trước lúc công bố và sau đó xông hương linh mục và dân chúng sau khi linh mục đã xông hương lễ phẩm và bàn thờ lúc dâng lễ phẩm.

Trong hai người này, thầy giúp lễ chỉ có thể thay thế phó tế trong việc xông hương linh mục và dân chúng lúc dâng lễ phẩm (offertory) (phó tế không được xông hương cách riêng rẽ). Việc thay thế này có thể thực hiện bất cứ vì nguyên nhân nào; ví dụ, nếu kiến trúc cung thánh không cho phép phó tế mau trở lại bàn thờ sau khi xông hương xong dân chúng, vì như vậy ngăn trở việc thầy phục vụ cho linh mục.

Phó tế có thể bỏ bàn thờ để xông hương những bình thánh trong lúc truyền phép. Nhưng sự này không phải là sự thực hành chung và, trừ khi có hơn một phó tế, điều này thường được trao phó cho người xông hương.
 
Xin cho con được như Bà Verônica
Phaolô Phạm Xuân Khôi
13:42 04/04/2009
Khi còn bé, mỗi lần viếng Đàng Thánh Giá, tôi thường mơ ước được gặp Chúa trên đường Thập Giá để lấy khăn lau mặt Chúa như bà Veronica. Tôi nghĩ rằng làm như thế thì chắc chắn được lên Thiên Đàng. Tôi cảm thấy có một chút nào ghen tức với bà Veronica vì bà ấy may mắn hơn tôi. Bà ấy được gặp Chúa, còn tôi thì không được cái may mắn ấy. Bây giờ muốn được lên Thiên Đàng thì khó quá. Nào là phải giữ đủ mọi thứ điều răn, nào phải đi thờ, đi lễ, đi xưng tội,…, mà chưa chắc đã được rỗi linh hồn!

Nhưng tôi đâu có ngờ là tôi đã gặp Chúa rất nhiều lần trong đời mà tôi đã quay mặt đi vì Chúa bẩn thỉu quá, hôi thối quá, hèn hạ quá và ngu quá, không đáng cho tôi nhìn, chứ đừng nói là cúi xuống mà lấy khăn lau mặt Người.

Chúa ở trong những người cùi mà tôi gặp trên bãi biển Qui Hoà mấy chục năm về trước. Mỗi lần thấy họ lảng vảng đến gần là tôi lượm giọng bỏ đi vì sợ lây bệnh. Chúa ở trong những em bé rên siết trong các trại tỵ nạn ở Sàigòn năm nào, chỉ mong được miếng bánh thừa tôi vất đi, chỉ mong tôi đưa bàn tay ra chạm đến, nhưng tôi đã sợ bàn tay các em nhơ bẩn. Chúa ở trong em bé ngày nào thọc tay vào tô phở Hiền Vương nóng hổi của tôi chỉ vì quá đói, mà tôi nỡ la mắng và kêu chủ quán đuổi đi. Chúa ở nơi những người tàn tật ngồi ngay cổng nhà thờ hay ở các góc đường mà mỗi lần thấy họ tôi đều quay mặt đi. Chúa nằm trong các viện dưỡng lão hay nhà tù đang chờ tôi bỏ chút thì giờ ra thăm hỏi. Chúa ở trong cô bạn học ngày xưa bị mọi người hắt hủi vì “trời cho không được mấy”. Chúa ở trong những người trẻ đang mất niềm tin và cần tôi giúp đỡ. Chúa ở trong khuôn mặt nhăn nhó của vợ tôi vì quá lo âu cho gia đình, mà tôi đã từng gắt gỏng, than phiền thay vì ủi an, giúp đỡ. Chúa ở trong những đứa con co rúm vì sợ hãi khi hai vợ chồng tôi gây gỗ. Chúa ở trong những đứa trẻ lỡ lầm đang cần tôi dạy dỗ đỡ nâng hơn là la rầy mắng nhiếc… Bây giờ đi đâu tôi cũng thấy Chúa quanh quẩn bên tôi, nếu kể hết ra ở đây chắc cả ngày cũng không hết. Chúa đang cho tôi quá nhiều dịp để lau mặt Người. Nhưng đã mấy lần tôi thực sự kính cẩn quỳ xuống dưới chân Người mà đưa khăn của tôi cho Người lau mặt?

Bây giờ tôi mới thấy là muốn làm bà Veronica không phải là dễ. Tôi phải can đảm lắm. Tôi phải thắng lướt tính cầu an và ích kỷ của tôi. Tôi phải đè nén tính kiêu ngạo và phán đoán người khác của tôi. Tôi phải bỏ đi những thành kiến và kỳ thị của tôi. Tôi phải cầu xin Chúa cho tôi biết “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29). Tôi phải ý thức rằng “mỗi lần tôi giúp đỡ một trong những anh em bé nhỏ nhất của tôi, là tôi đã giúp đỡ chính Chúa Giêsu“ (Xem Mt 25:40).

Lạy Chúa xin cho con biết mở mắt ra mà nhìn thấy Chúa trong mọi người. Xin cho con biết mở lòng ra mà ấp ủ mọi người, nhất là những người đang cần con ấp ủ. Xin cho con biết đưa tay ra mà đón tiếp môi người. Xin cho con biết dấn đôi chân con vào những nơi mà con không muốn đến. Xin cho lấy tấm khăn yêu thương mà lau những bộ mặt đau khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần quanh con. Con biết con ích kỳ, kiêu ngạo, hèn nhát và yếu đuối. Xin cho con được can đảm như bà Veronica. Amen.
 
Bên chiếc lá dừa
Sa Mạc Hồng
14:41 04/04/2009
Bên chiếc lá dừa lặng suy tư
Mấy ai hiểu hết chuyện lá dừa
Chỉ trong một thoáng trên đường phố
Ngàn người hợp tiếng hát tung hô!

Bao người tay phất ngọn lá dừa
Ngợi khen Ngài Cứu Thế, Đức Vua
Niềm vui tưởng chừng như bất tận
Phố phường vang dội khúc hoan ca!

Cũng những người xưng tụng hết tình
Mới hôm qua “Ngài, Đấng Cứu Tinh”
Nhưng hôm nay “treo nó lên thập giá!”
Chẳng chút nhân từ “hãy đóng đinh!”

Có phải chăng lá dừa hôm nao
Đang phất phơ đón gió dạt dào
Trong lòng nẩy lên mầm phản bội
Chẳng ân tình chung nghĩa trước sau.

Có phải chăng những chiếc lá dừa
Nhắc nhở mình biến cố ngày xưa
Giữa khổ đau, vinh quang, thập giá
Là tình yêu, dâng hiến, thứ tha!
 
Ngã rẽ cuộc đời
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt
14:44 04/04/2009
Chúa nhật Lễ Lá

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Mc 14,1-15,40

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.

Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế ? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.

Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ong còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ong đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ong trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.

Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ong thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ong đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.

Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa ? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ: “Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Anh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất ?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này ? Bạn đã chống trả ra sao ? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên ?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không ?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất ?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả ?
 
Chút tâm tình cùng Thầy Giêsu
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
15:54 04/04/2009

Chút tâm tình cùng Thầy Giêsu



Thầy Giêsu cùng là Thiên Chúa của đời con kính mến,

Thông thường thì con đọc cùng nghe Lời Thầy nói giảng dậy trong Phúc Âm và những lời giảng dậy của Giao Hội trên trần gian. Điều đó con vẫn cố gắng làm xưa nay, dù nhiều khi chểnh mảng hay làm không đúng.

Hôm nay vào ngày đầu Tuần Thánh tưởng nhớ lại cuộc hy sinh khổ nạn của Chúa ngày xưa ở trần gian, con nghe đọc Lời Chúa nói về đời sống cuộc khổ nạn của Chúa khi xưa. Cuộc khổ nạn của Chúa không chỉ dừng lại nơi đó, nhưng còn gây mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng, nhất là mang đến ơn cứu chuộc cho linh hồn con người khỏi hình phạt tội lỗi, và sau cùng được sống lại trong Nước Thiên Chúa.

Con tin và những người tín hữu Chúa Kitô đều tin như vậy. Nhưng khi mừng Tuần Thánh nghe Lời Chúa trong Kinh Thánh về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, con thấy có một câu làm con xao xuyến bối rối nhiều: “Người đã tự hạ mình” ( thư gửi Philippe 2,8).

Là con người với tình cảm tự ái pha lẫn lòng kiêu ngạo muốn hơn người, khi nghe đọc đến câu “ Tự hạ mình” con thấy qủa là khó nghe cùng có điều gì nghịch lý như không hợp với đời sống cho lắm! Con bị lôi vào cơn xốc làm chao đảo tâm hồn!

Là con người như con, khi bị hạ nhục cách này hay cách khác, tâm hồn con đau đớn khổ cực cùng mất ăn mất ngủ. Vết thương đó ăn sâu như chôn vùi vào tận tâm khảm đời sống con và thế nào con cũng tìm cách trả lời đối trả lại mới yên. Và con nghĩ Thầy Giêsu của con là Thiên Chúa sao lại phải bị hạ nhục được. Điều đó con không muốn chấp nhận.

Nhìn ra ngoài xã hội trên khắp thế giới ngày nay, qua báo chí, truyền hình truyền thanh, con thấy nhan nhản những người bị hạ nhục như trẻ con bạn trẻ bị bóc lột, phẩm giá người phụ nữ bị coi khinh, những người phải di cư đi tỵ nạn trên biển cả, đi đường bộ sống trong những túp lều thiếu thốn, những gia đình bị chia rẽ tan hoang, người gìa cao niên bị bỏ rơi, nhiều người sống trong đe dọa về thể xác lẫn tâm lý tinh thần…

Và còn vô số những trường hợp tương tự hay tệ hơn thế nữa. Thôi con không muốn kể lể dài dòng những tiêu cực đen tối ra mãi nữa. Nhưng con có tâm tình muốn thưa cùng Chúa: Xin Chúa làm sao để sự hạ nhục coi thường phẩm gía con người không còn chỗ đứng trong đời sống nữa!

Đặt ra ước vọng mong muốn của con như vậy, nhưng con nghĩ rằng Chúa không bằng lòng làm như con nghĩ mong muốn đâu. Tại sao? Vì con thấy Chúa dựng nên con người cho có tự do. Vâng, con người chúng con được Chúa tạo dựng ban cho trí khôn tự do suy nghĩ cùng lòng muốn. Mỗi ngày giờ chúng con đều có thể có quyết định mới hoặc yêu mến hoặc khinh ghét chê bai, hoặc kính trọng hoặc hạ nhục. Điều tự do này xưa nay vẫn hằng có trong đời sống con người từ khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, các hành tinh, cây cỏ, súc vật và con người. Chúng con là loài thụ tạo của Chúa, là con người, nên có đời sống như thế. Như người đời có câu nói suy tư: Họ chỉ có được như thế thôi!

Dẫu vậy, con nghĩ, Chúa không để con người chúng con một mình trong vòng đen tối luẩn quẩn đó! Chúa thấu hiểu hoàn cảnh tâm tư con người, nhưng không như con người suy nghĩ mong muốn.

Chúa, Đấng đầy quyền năng tạo dựng đã dùng cung cách khác rất khác hiếm họa để nâng cao con người ra khỏi vùng đen tối bị hạ nhục. Chúa không bài trừ sự dữ, sự hạ nhục. Nhưng chính Chúa đã tự hạ mình bị hạ nhục, bị chối bỏ phản bội, bị hành hạ khinh bỉ và sau cùng bị đóng đinh trên thập gía cho tới chết.

Từ lúc đó con sáng mắt nhìn hiểu ra: Chúa Giêsu, qua sự hy sinh bị hạ nhục, cùng chịu đau khổ với con người, không để con người một mình, trái lại sống gần gũi với con người.

Chúa Giêsu chịu nhục nhã vác cây thập gía có ý muốn nói cùng con người: Phải, hỡi loài người các Bạn, Ta vác cây thập gía chịu đau khổ nhục hình là gánh vác tất cả loài người các Bạn trên vai Ta. Ta vác thập giá chịu bị hạ nhục muốn truyền đi sứ điệp: Tình yêu không thế bị dập tắt làm cho chết được. Ta bị đóng đinh treo trên thập gía dương lên cao. Và qua đó Ta muốn kéo các Bạn là con người cũng lên cao với thóat khỏi vùng đen tối tội lỗi bị hạ nhục!

Chúa Giêsu, Thầy của con kính mến,

Chúng con loài người cảm thấy rất được an ủi trong đời sống, mỗi khi bị đau khổ bị hạ nhục mà có ai người nào đó cùng thông cảm và ra tay giúp đỡ. Chúa đã sống làm cho con người chúng con. Xin cảm tạ tình liên đới của Chúa với con người chúng con!

Chúng con, loài người với những giới hạn, mong muốn cần được người khác thông cảm chia sẻ hoàn cảnh đen tối đau khổ trong đời sống. Nhưng rất nhiều khi chúng con lại không làm cho người khác, như Chúa đã sống cùng chịu đau khổ thông cảm cho con người chúng con. Xin giúp chúng con nhận hiểu ra thế nào là bác ái đạo đức tình người.

Chúng con là con người tâm trí hạn hẹp còn có nhiều thắc mắc tại sao và tại sao trong suốt dọc đời sống muốn nói thưa cùng Chúa. Nhưng một điều con biết: Chúa không để con một mình!

Con cám ơn Chúa đã tự nguyện sống trải qua con đường tự hạ chịu bị làm khổ nhục và sau cùng được nâng lên cao cho loài người chúng con cũng được nâng kéo lên cao.

Lễ Lá Tuần Thánh 2009
 
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
16:45 04/04/2009

Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (77)



761. Chiến thắng khi bất lực

Chúa Giêsu chỉ cao cả khi bề ngoài, Ngài xem ra hoàn toàn bất lực trên cây Thập Giá, khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, khi Ngài bị quân nghịch nhạo cười nhục mạ.

Giáo Hội cũng thế. Giáo Hội chỉ mạnh mẽ huy hoàng khi Giáo Hội bị chà đạp, bị tấn công tứ phía. Chính lúc xem ra đứng kề bên bờ vực thảm của sự sụp đổ mà Giáo Hội vẫn kiên cường đứng vững, Giáo Hội mới chiến thắng như chiến thắng của Thầy Giêsu trên cây Thập giá vậy.

762. Một chỗ đứng dưới chân Thánh giá

Khi yêu một linh hồn nào, Chúa Giêsu cho họ một chỗ đứng dưới chân Thánh giá, như Maria, như Mađalêna, như người môn đệ yêu dấu (Thánh nữ Madeleine Sophie Barat)

763. Chính Thánh giá cứu rỗi mọi người.

Dầu bạn muốn hay không, chính Thánh giá đã cứu rỗi thế gian.

Nhờ Thánh giá mà đời bạn nở hoa.

Để cứu nhân loại, Đức Kitô đã chết trên Thánh giá vì bạn.

Hãy tự nhủ mình rằng đời bạn phong phú, tình cảm bạn có bền vững, tình yêu bạn ngày mai có trung tín, là do bạn vui nhận Tháng giá và mang nó mỗi ngày, với sự trợ giúp của Đức Kitô. (Jean Salem)

764. Hãy xem Thánh giá như một kho tàng.

Sống bằng tình yêu, không phải là định cư trên núi Tabôrê, mà sống với Chúa Giêsu, tức là trèo lên đỉnh Canvê, nhìn Thánh giá như một kho tàng. (Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu)

765. Người vâng theo thánh ý Chúa

Dù trời đông có lạnh lẽo, dù mưa hè có nóng bức, dù phải mưa to gió lớn, người vâng phục ý Chúa luôn nói rằng: “Nóng lạnh con cũng chịu, mưa gió con cũng ưng vì đó là Chúa muốn như vậy.”

Khi gặp sự rủi ro hay bị áp bức, lâm cảnh bệnh tật, cho dù có phải chết, thì người ấy cũng không lo gì, cũng không sợ sự khốn khó hay đau yếu gì, mà luôn sẵn sàng hy sinh tính mạng vì Chúa vì biết rằng ý Chúa muốn như thế. (Chân Lý Đời Đời – Thánh Anphôngsô)

766. Khi nào bạn xứng đáng gặt hái được những thành công chân chính trong cuộc đời?

Sau mỗi lần đương đầu với nghịch cảnh, bạn hãy nhìn lại lòng tự tin của mình.

Một khi có lòng tự tin, bạn sẽ nâng cao được khả năng đối phó với nghịch cảnh thay vì cảm thấy bơ vơ và tuyệt vọng.

Thường xuyên đối phó với nghịch cảnh sẽ giúp bạn chủ động tìm ra giải pháp khả thi cho những khó khăn của bạn.

Như vậy, bạn trở thành một người có nghệ thuật sống lạc quan trong mọi hoàn cảnh và bạn xứng đáng gặt hái được những thành công chân chính trong cuộc đời. (Chìa Khoá Sống Thanh Thản - Lại Thế Luyện)

767. Sống lạc quan

Khi gặp bất hạnh trong cuộc sống, bạn phải lạc quan để vượt qua. Điều đó không chỉ quan trọng đối với cá nhân bạn, mà còn với cả gia đình bạn.

Nếu có tinh thần lạc quan, bạn sẽ có được sự tự tin mạnh mẽ, giúp bạn xem những khó khăn của gia đình chỉ có tính tạm thời và hoàn toàn có thể khắc phục được.

Lạc quan không có nghĩa là tự thuyết phục mình rằng cuộc sống luôn chỉ có màu hồng và không hề tồn tại những bất trắc, khó khăn.

Lạc quan, chính là bạn không bị ám ảnh bởi những điều xấu nhất, vững tin vào chính mình và hy vọng vào một tương lai tươi sáng. (Bí Quyết Để Có Một Gia Đình Hạnh Phúc – David Niven, Ph.D.)

768. Hãy hành động ngay bây giờ!

Mong muốn là chưa đủ.

Ý định tốt cũng chưa đủ.

Tài năng thôi cũng chưa đủ.

Thành công cần sự đi đầu.

Michael E.Angier, người sáng lập SuccessNet, nói:

- “Ý tưởng là vô giá trị. Ý định không có sức mạnh. Kế hoạch không là gì cả...trừ phi theo sau chúng, là hành động. Hãy thực hiện nó ngay bây giờ.”

769. Thời gian quý hơn vàng bạc.

Người ta thường nói thời gian là vàng bạc.

Nói chuẩn xác nhất, thời gian quý hơn vàng bạc. Thời gian cũng giống như sinh mạng của chính mình.

Alan Lack nói:

- “Ai để thời gian lướt đi trên bàn tay mình, người đó sẽ không bao giờ biết làm chủ bản thân mình. Ngược lại, ai biết nắm thời gian trong lòng bàn tay mình, người đó sẽ hoàn toàn làm chủ bản thân mình.” (8 Thói Quen Lớn Của Người Thành Đạt – Trang Chi Kiến)

770. Hãy quyết tâm hành động!

Bạn hãy viết ra giấy một mục tiêu nào đó mà bạn muốn đạt được trong vòng 40 ngày tới, hay một khoảng thời gian nào đó phù hợp với bạn.

Sau đó, đặt ra các bước đi cụ thể mà bạn cần thực hiện để đạt được mục tiêu đó.

Bạn cũng nên đặt ra thời hạn sít sao cho từng mục tiêu nhỏ.

Và sau thời gian đó, chắc chắn bạn sẽ rất hạnh phúc khi ăn mừng cho chiến thắng đầu tiên của mình.

Và với cách làm nầy, thành công nhất định sẽ mỉm cười với bạn vì bạn xứng đáng được như vậy. (Thay Thái độ - Đổi Cuộc Đời – Keith D.Harrell)
 
Dung mạo người tôi tớ đau khổ
LM. Giuse Nguyễn Thành Long
16:48 04/04/2009
Thứ 6 Tuần Thánh

DUNG MẠO NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ

Trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo hội cho chúng ta đi lại hành trình thương khó của Chúa Giêsu trên dương thế. Trong hành trình đó, chúng ta gặp được dung mạo của một Đức Kitô đau khổ, đau khổ tột cùng.

1. Những đau khổ mà Đức Kitô phải chịu là gì ?

Trong khoa tâm lý học, người ta phân biệt 2 loại đau khổ: đau khổ về thể lý và đau khổ về tinh thần hay tâm linh. Đau khổ nào cũng là khổ đau, đau khổ nào cũng có sức huỷ hoại sự sống con người cả. Nơi cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có đủ cả 2 loại đau khổ này.

Đau khổ về mặt thể lý:

- Bị lý hình đánh đập hành hạ bằng những đòn roi tàn bạo.

- Bị những vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu. Theo lời sách ngắm thì vòng gai có đến 72 cái gai do quân dữ đánh lọt vào óc (chỉ vài cái đã đau đớn lắm rồi đàng này 72 cái).

- Bị cái đói cái khát dày vò. Bởi vì máu càng ra nhiều bao nhiêu, thì càng khát nước bấy nhiêu. Nhất là bị đóng đinh căng thây trên cây thập giá, tay chân đinh nhọn xuyên qua.

Đau khổ về mặt tinh thần:

- Bị dân chúng trở mặt lên án, đòi đóng đinh vào Thập giá. Trong số đó, có cả những kẻ mà mình đã thi ân giáng phúc.

- Bị quân lính xỉ nhục lăng mạ.

- Bị các môn đệ bỏ rơi, đặc biệt là bị chính những người thân tín nhất chối từ, bội phản.

2. Chúa Giêsu đã đón nhận đau khổ với thái độ nào ?

Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ đó với thái độ tự hạ, tự hiến nhằm dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ hy sinh làm giá cứu chuộc nhân loại. Ngài như con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không một lời kêu ca. Bị hành hạ, Ngài không một lời oán than. Bị xỉ nhục, Ngài không mắng chửi. Bị vác thập giá, Ngài không vừa vác vừa càm ràm kêu trách. Bị ngã lên ngã xuống, Ngài không thở dài tuyệt vọng. Bị treo trần trụi trên thập giá, Ngài không nguyền rủa. Các sử gia La mã (Seneca, Cicêrô) cho biết những kẻ bị đóng đinh thường la hét và chửi rủa. Do đó có khi phải cắt lưỡi kẻ bị đóng đinh, để y khỏi thốt ra những lời xúc phạm, lăng mạ kinh tởm… Nhóm Luật sĩ và Biệt phái chắc cũng chờ đợi: từ thập giá Đức Giêsu sẽ thốt ra những tiếng kêu la và nguyền rủa! Nhưng không phải thế. Những lời của Đức Giêsu lại tràn đầy dịu dàng và yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng chẳng hiểu biết việc chúng làm”. Ngài còn hướng về kẻ trộm lành, đại diện cho những người có tâm tình hoán cải: “Hôm nay, người sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”.

Ở đời người ta vẫn thường nói: “Yêu là khổ”. Câu nói này rất đúng với trường hợp của Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, ta không thể tìm được một lý do nào thích hợp hơn để lý giải, ngoại trừ lý do yêu thương. Nói cách khác, hành trình thương khó của Chúa Giêsu là hành trình của tình yêu. Vì yêu nên Ngài đã sẵn lòng đón nhận mọi khổ đau, vui lòng chấp nhận mọi hy sinh, và bằng lòng cho đi đến cùng.

Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hiến trao tất cả: y phục, Ngài trao cho lý hình; uy quền trần thế Ngài trao cho Hêrôđê; thân mẫu, Ngài trao cho một người môn đệ; ngay cả sự sống, Ngài trao cũng lại cho Thiên Chúa Cha. Ngài không còn giữ lại gì cho mình.

Và chính vì yêu nên Thập giá của Chúa đã nở hoa, hoa cứu độ, hoa đem lại sự sống trường sinh cho con người.

3. Thái độ của chúng ta khi đối diện với đau khổ

Cuộc sống của con người cũng luôn đầy dẫy những khổ đau: “Đời là bể khổ”. Vậy làm gì trước những đau khổ của mình và của người khác ? Nếu chúng ta biết vui lòng đón nhận và liên kết với đau khổ của Chúa Giêsu thì những đau khổ mà chúng ta chịu sẽ mang lại giá trị cứu độ. Nếu chúng ta biết chia sẽ và cố gắng làm vơi bớt đi những đau khổ của người khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu mai sau.

Thế nhưng thực tế, ta thấy rằng khi gặp thử thách gian truân, chúng ta thường hay kêu ca. Gặp thánh giá, ta thường than vắn thở dài, muốn vứt bỏ càng sớm càng tốt. Gặp thất bại, ta thường nãn lòng oán trách. Gặp những gì trái ý, ta thường bực bội cau có. Chính vì thế, thập giá khổ đau càng thêm nặng, vả lại chúng ta càng mất hết công phúc.

Xin cho mỗi người chúng ta biết năng suy ngắm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, nhất là biết nhìn lên Thánh giá Chúa để hiểu rõ hơn ý nghĩa của đau khổ, đồng thời tìm được nghị lực và sức mạnh hầu có thể vác thập giá mà theo chân Chúa cho đến cùng. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Thành Long
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tân Tổng Giám Mục Westminster, Anh Quốc.
John Minh
03:37 04/04/2009
ANH QUỐC - Vào trưa ngày 3 tháng 4 năm 2009, Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã chính thức bổ nhiệm Ðức Tổng Giám Mục Vincent Gerard Nichols làm Tổng Giám Mục Westminster, Anh Quốc.

Ðức TGM Vincent sinh ngày 8 tháng 11 năm 1945 tại Crosby, thuộc Tổng Giáo Phận Liverpool, trong một gia đình cả cha mẹ đều là giáo viên. Khi còn trẻ có lúc ngài đã mong ước làm tài xế xe tải, nhưng chỉ ít lâu sau đó ngài đã đáp lời mời gọi của Thiên Chúa để dâng mình phục vụ Giáo Hội. Ngài được gởi đi học tại Ðại Chủng Viện Anh Quốc tại Rôma. Ngài thụ phong Linh Mục ngày 21 tháng 11 năm 1969, và được gởi đi học tiếp tại Giáo Hoàng Học Viện Gregoriana. Sau này ngài cũng theo học tại Ðại Học Manchester và lấy bằng Thạc Sĩ chuyên ngành về thần học của Thánh Gioan Fisher, một vị Hồng Y Giám Mục Tử Ðạo lừng danh của Anh Quốc.

Ngài đã trải qua nhiều kinh nghiệm mục vụ khác nhau: coi xứ, tuyên úy trường học, làm giám đốc một học viện giáo dục mang tên Upholland Northern Institute (1980), và là Tổng Thư Ký cho Hội Ðồng Giám Mục Anh Quốc và Wales trong 9 năm trời.

Vào ngày 24 tháng 1 năm 1992, ngài là người trẻ nhất được tấn phong làm Giám Mục Phụ Tá Westminster cho Ðức Hồng Y Basil Hume. Ngài được giao đặc trách mục vụ cho khu vực phía bắc thành phố Luân Ðôn. Năm 1999, chính ngài đã chủ sự Thánh Lễ An Táng cho vị Hồng Y đã thừa lệnh Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tấn phong ngài lên hàng Giám Mục. Năm 2000, ngài được cất nhắc lên làm Tổng Giám Mục Birmingham. Ngài là vị Tổng Giám Mục thứ 9 kể từ khi Birmingham được nâng lên hàng Tổng Giáo Phận vào năm 1850. Chỉ một thời gian ngắn sau khi về nhận chức Tổng Giám Mục Birmingham, ngài đã đến thăm Trung Tâm Mục Vụ của người Việt Nam tại Handsworth, và dâng thánh lễ trong thể kính các Thánh Tử Ðạo Việt Nam. Ngài là người có tài ngoại giao, nhất là quan hệ với giới truyền thông. Năm 2005, ngài đã đã được đài BBC mời thuyết minh cho Thánh Lễ An Táng của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chương trình truyền hình trực tiếp. Sự quan tâm đầy nhiệt huyết của ngài đến đời sống mục vụ của Tổng Giáo Phận, mối quan hệ của Giáo Hội với xã hội trong thế giới ngày nay, xây dựng và củng cố nền giáo dục Công Giáo, lo cho giới trẻ, viết sách, và đặc biệt là tình thương đối với những người di dân, trong đó có người Công Giáo Việt Nam tại Birmingham, đã chứng tỏ vai trò chủ chăn đích thực của ngài đối với đoàn chiên mà Giáo Hội đã trao phó. Ngài cũng nổi bật trong việc bảo vệ những giá trị đích thực của Kitô Giáo, mạnh mẽ lên tiếng trước công luận và các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề thời sự. Năm 2008 vừa qua, khi chính quyền Cộng Sản Việt Nam tiếp tục dấn sâu vào mê lộ, chà đạp công lý và sự thật, bất chấp dư luận thế giới, ra tay tước đoạt tài sản của Giáo Hội và đàn áp giáo hữu, thì ngài đã không ngừng kêu gọi Tổng Giáo Phận Birmingham cầu nguyện, rồi đích thân ngài đã đến với Cộng Ðoàn Việt Nam tại nhà thờ thánh Phanxicô ở Handsworth để dâng thánh lễ, bày tỏ sự hiệp thông sâu xa với những con chiên của ngài đang ưu tư về những biến cố dồn dập xảy ra cho Giáo Hội tại quê hương Việt Nam.

Trong thời gian gần đây, khi Ðức Hồng Y Comac Murphy-O'Connor đến tuổi về hưu theo Giáo Luật, nhiều người đã thầm cầu xin rằng Ðức Tổng Giám Mục Vincent có thể sẽ là người lên thay. Giới truyền thông cũng đoán già đoán non, và đưa ra nhiều tên tuổi khác. Tuy nhiên, sự công bố chính thức của Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI vào trưa ngày 3-4-2009 đã mang lại niềm vui mừng lớn lao cho Tổng Giáo Phận Westminster nói riêng, và cho Giáo Hội tại Anh Quốc nói chung. Với vai trò mới trong Tổng Giáo Phận Westminster mà ngài đã từng phục vụ trong nhiều năm, Ðức Tổng Giám Mục Vincent rất cần lời cầu nguyện của mọi người để ngài có thể chu toàn trách nhiệm mà Chúa và Giáo Hội đã trao phó.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
ĐCV Hà Nội đã tổ chức kỳ thi tuyển sinh cho 8 giáo phận Miền Bắc
TGP Hà Nội
13:44 04/04/2009
Hà Nội, 02.04.2009, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội đã tổ chức kỳ thi tuyển sinh cho khoá XV (2009 – 2017) tại 8 giáo phận Miền Bắc.

Kỳ thi tuyển sinh năm nay được tổ chức tại 6 địa điểm bao gồm Bắc Ninh, Bùi Chu, Hà Nội, Hải Phòng, Phát Diệm, và Thái Bình. Giáo phận Hưng Hoá và Lạng Sơn vì ít thí sinh nên đã gửi thí sinh về thi tại điểm thi Hà Nội. Các linh mục đang làm việc tại Đại Chủng Viện đã được cử về trực tiếp các địa điểm để tổ chức kỳ thi trong ngày 2 tháng 4 năm 2009.

Các môn thi bao gồm Kinh Thánh, Lịch sử Cứu độ, Giáo lý, Việt văn, và Ngoại ngữ (tiếng Anh hoặc tiếng Pháp). Có 112 thí sinh thuộc 8 giáo phận tham dự kỳ thi này (Bắc Ninh 9, Bùi Chu 20, Hà Nội 25, Hải Phòng 16, Hưng Hoá 2, Lạng Sơn 6, Phát Diệm 11, Thái Bình 23). Hầu hết các thí sinh ở độ tuổi từ 24 đến 29.

Theo quy chế thi của Đại Chủng Viện đợt này, các thí sinh phải có điểm trung bình từ 6/10 trở lên mới được nhập học tại Đại Chủng Viện. Những thí sinh đạt điểm trên 6/10 nhưng chưa nhập học khoá XV sẽ được lưu điểm cho khoá sau. Điểm liệt cho tất cả các môn là từ 3/10 trở xuống. Thí sinh có hành vi gian rối trong khi làm bài thi sẽ bị loại ngay lập tức và không được tham dự bất cứ đợt tuyển sinh nào khác của Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội.

Được biết từ năm 2005 đến nay, mỗi năm Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội tuyển sinh 1 lần và nhận vào nhập học mỗi khoá không quá 50 ứng sinh trong toàn 8 giáo phận Miền Bắc. Các thí sinh trúng tuyển trong đợt tuyển sinh này sẽ nhập học tại Đại Chủng Viện vào đầu tháng 9 năm 2009.
 
Linh mục giáo hạt Phú Xuyên – TGP Hà Nội tham gia buổi tĩnh tâm
TGP Hà Nội
14:10 04/04/2009
HÀ NỘI - Ngày thứ năm, 2 tháng 4 năm 2009, các linh mục trong giáo hạt Phú Xuyên – TGP Hà Nội đã quy tụ về giáo xứ Bái Xuyên để tham gia buổi tĩnh tâm thường kỳ 2 tháng một lần.

Phú Xuyên là một giáo hạt mới được tách từ giáo hạt Hà Tây cũ. Vào dịp tĩnh tâm Linh mục đoàn tổng giáo phận, tháng 9 năm 2008, Đức Tổng Giám mục Giuse đã công bố quyết định thành lập giáo hạt này.

Giáo hạt Phú Xuyên gồm các giáo xứ nằm trong phần đất quản lý của hai huyện Thường Tín và Phú Xuyên, thuộc thành phố Hà Nội (mở rộng).

Hiện nay, toàn giáo hạt Phú Xuyên có khoảng 43.000 ngàn giáo dân quy tụ trong 17 giáo xứ với 50 họ lẻ, do 9 linh mục coi sóc.

Số dòng tu đang toạ lạc trên địa bàn giáo hạt gồm có: 4 nhà Mến Thánh Giá, 1 Sở Mến Thánh Giá, 1 Cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái, 1 Tu hội Hiệp Nhất và 1 Tu hội Thánh Tâm.

Giáo hạt Phú Xuyên có 156 giáo lý viên, hoạt động tích cực và có hiệu quả, nhờ đó phong trào học hỏi giáo lý và sống Lời Chúa trong các giáo xứ khá sôi nổi, đem lại nhiều hoa trái thiêng liêng. Vườn thiêng ơn gọi của giáo hạt có nhiều khởi sắc, có nhiều chủng sinh, nam nữ tu sĩ là những người con của giáo hạt này đang phục vụ và tu học ở nhiều nơi.

Theo chương trình đã định, các linh mục thuộc giáo hạt Phú Xuyên có buổi họp mặt vào thứ Năm đầu tháng các tháng chẵn trong năm. Vì lý do mục vụ Đức Tổng Giuse không thể hiện diện cùng quý cha trong giáo hạt trong lần gặp mặt tháng Tư này. Mặc dù thời tiết mấy ngày này có mưa và se lạnh nhưng cuộc gặp mặt cũng quy tụ được đầy đủ các linh mục trong giáo hạt

Cho dù chỉ gặp nhau trọn có buổi sáng, nhưng những chương trình theo gợi ý của bề trên giáo phận cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả.

Trong tình Chúa và tình anh em linh mục trong giáo hạt, buổi gặp mặt thật thân tình tạo đà để cùng nhau xây dựng các phong trào của giáo hạt Phú Xuyên ngày càng phát triển, về mọi phương diện, đặc biệt là giúp nâng cao đời sống và tinh thần đạo đức của mọi thành phần dân Chúa.
 
Suy tư mùa Chay về gia đình
Ban Mục Vụ Gia Đình TGP Sài Gòn
14:26 04/04/2009
Bài 1: BẬP BỀNH CON THUYỀN GIA ĐÌNH

Trong những thập niên cuối này gia đình, và cách riêng là đôi vợ chồng, trụ cột của gia đình, đã phản chiếu những căng thẳng và mọi thứ xáo trộn đã làm thay đổi xã hội chúng ta. Có những dấu hiệu, một đàng là càng ngày người ta càng ít chọn lựa sống hôn nhân so với sự gia tăng những hình thức sống chung khác, đàng khác càng ngày càng có nhiều vụ ly thân, ly dị hơn. Thế nhưng, sống giữa khủng hoảng và hy vọng, hoàn cảnh đó có thể trở thành một thách đố, có thể thúc đẩy chúng ta phải lao vào cuộc để làm thay đổi thực trạng hiện nay của hôn nhân; có thể trở nên nguồn cho một thứ năng lượng mới, phác ra những viễn tượng mới, canh tân lời tiên tri.

1. Sự mong manh của quan hệ vợ chồng

Người ta cần ý thức tính chất phức tạp của hoàn cảnh chung và tìm phân tích trong tinh thần cởi mở để tìm biết những nguyên nhân của tình cảnh ấy.

Trước hết, ngày nay người ta cần phải nhìn nhận quyền tự do lựa chọn người bạn đời là một trong những cuộc cách mạng âm thầm của lịch sử nhân loại. Từ mấy ngàn năm qua việc lựa chọn bạn đời đã được định và phải tuân thủ theo những bận tâm hay lợi ích khác xa lạ với đôi bạn, và dĩ nhiên, cũng khác tùy theo họ thuộc giai cấp thống trị hay bị trị. Người ta đã bị (được) kết hôn chứ không kết hôn. Những cuộc hôn nhân ấy có thể bền chặt bên ngoài bởi vì được bủa vây bởi một loạt những kiểm soát khá cứng cỏi từ phía xã hội, thế nhưng mối quan hệ nam-nữ sẽ khó có thể phát triển theo chiều sâu vì thiếu điều kiện tiên quyết là sự quí trọng nhau và sự tự do chọn lựa nhau. Hôn nhân bởi tình yêu chắc hẳn là mỏng manh hơn, nhưng phong phú hơn nhiều những cuộc hôn nhân bởi sự sắp đặt. Ngày nay người ta lấy nhau vì tình yêu. Cưới nhau mà không có tình yêu thì không còn ý nghĩa gì nữa. Mỗi người chọn lựa cho mình người bạn đời cách tự do và như thế tự quyết định về chính số phận của mình [1].

Dần dần người ta xác định rằng trong cuộc sống lứa đôi điều quan trọng không phải là làm sao duy trì hôn nhân bằng mọi giá, dù phải kiên nhẫn chịu đựng lâu dài, phải trung thành trong lầm lì bất mãn, dù là giả dối với một đời sống chung mà không có sức sống, nhưng là tự nguyện dấn thân thật sự để ở với nhau, thích được gặp nhau. Tất cả những điều ấy là một trong những thay đổi quan trọng nhất đã thành hiện thực trong thế kỷ trước và hiện vẫn còn đang thay đổi ở bên trong tiến trình chuyển biến triệt để về ý nghĩa và giá trị của gia đình. Thế nhưng, thay đổi sâu xa ấy cũng có kèm theo những nguy cơ. Đó là người ta không nắm bắt được cái cốt lõi nhất của hoàn cảnh, người ta có thể đánh giá và chọn lựa quá đơn giản và hời hợt, bởi lẽ do sự phức tạp của hoàn cảnh cần có một phân tích nghiêm túc.

Giải pháp được đề nghị là tránh hai thái cực đối nghịch: hoặc là cám dỗ theo một kiểu chung thủy vợ chồng duy hình thức mà thiếu sự dấn thân bằng cả tình cảm lẫn lý trí, hoặc là cám dỗ theo một thứ nổi loạn đập vỡ quá dễ dàng thiếu sự dấn thân đi tìm một giải pháp tích cực hơn. Đó là một giải pháp khác, chắc chắn là phải bận tâm bận trí hơn, mà cũng mắc mứu nhiều hơn. Nó đòi tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng một sự trung thành hằng ngày; tình vợ chồng phải được nối tiếp bằng những gặp gỡ nhau trong hân hoan và thích thú; những lúc khủng hoảng, căng thẳng, hiểu lầm nhau có ý nghĩa làm cho hai bên hiểu biết nhau sâu sắc hơn; không nên biến những xung đột thành những thất bại tiêu cực. Giải pháp đề nghị là: hôn nhân vẫn là một quan hệ rất ưu việt có thể tiến bộ và vượt qua được sự khủng hoảng mà không gãy đổ.

2. Nỗi cô đơn của đôi bạn

Làm một đôi vợ chồng hạnh phúc và bền vững là một điều rất tốt mà mọi người đều muốn khi khởi đầu một cuộc tình. Thế nhưng không dễ dàng có được như thế, trước hết chính là vì người ta đã mong đợi quá nhiều ở quan hệ ấy, và hơn nữa, là vì đôi bạn cô đơn trước những khó khăn của mình.

Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể trên thực tại mọi ngày và trên cách suy nghĩ và hành động của gia đình? Đôi bạn và gia đình ngày nay thiếu sự an sinh hơn ngày xưa, sự an sinh được bảo đảm do bối cảnh xã hội rộng lớn hơn trong đó các cặp vợ chồng trẻ đang sống. Đôi bạn và gia đình ngày nay bị tước đi nhiều nhiệm vụ mà trước đây được đảm nhiệm từ bên trong gia đình hay gia tộc như lao động – giáo dục – y tế - thông tin – thời gian rảnh rỗi. Ngày nay những yếu tố đó được đảm đương bởi xã hội dân sự.

Trong hoàn cảnh đó, đôi bạn ngày nay được đưa về với cái cốt yếu nhất của mình, tức là nhiệm vụ hãy là chính mình. Gia đình được mời gọi tìm ra cách thức hiện hữu riêng cho mình, như là đôi bạn và như là gia đình, vì con cái của mình.Thế nhưng, với thực trạng ngày nay các nền văn hóa bị phân mảnh đã dẫn đến tình trạng mô hình gia đình duy nhất cũng bị tan vỡ theo, nhường chỗ cho một thực tế là có nhiều kiểu gia đình khác nhau phát sinh và phát triển theo các tiến trình hình thành và chọn lựa giá trị khác nhau của từng đôi bạn riêng lẻ. Họ thiếu một mẫu mực gia đình để quy chuẩn.

Một khi những chức năng mà trước kia xem ra chiếm ưu thế nay đã rơi rụng, thì giờ đây quan hệ liên vị và sự bền vững của quan hệ ấy là đối tượng hàng đầu mà các đôi bạn cần chú ý. Thế nhưng, đôi bạn cảm thấy lẻ loi một mình vì họ phải tự nghĩ ra cách thức quan hệ, đôi bạn lẻ loi một mình vì họ phải tự tạo lập nền móng cho quan hệ của mình được bền vững, đôi bạn lẻ loi một mình vì họ phải tự sáng tạo ra kế hoạch sống tình yêu và tình chồng vợ. Đôi bạn lẻ loi một mình và trong nỗi cô đơn này mối bận tâm tập trung cho tương quan ấy cuối cùng có thể trở nên quá sức. Vì họ mong đợi gặt hái từ chính quan hệ đó tất cả những gì mà họ không thể có được từ đời sống xã hội về các mặt nhu cầu như tình cảm, tương giao, bộc lộ mình.

Tuy nhiên, hoàn cảnh cô độc đó có thể trở thành một cơ hội và là một thách thức đặc biệt cho cuộc sống của họ, một thời kỳ của ân sủng đặc biệt để được sáng tỏ thêm ý thức về thực tại nhân bản là chính đôi bạn và về ý nghĩa sâu xa của đôi bạn trong lịch sử cứu độ của dân Thiên Chúa.

3. Xung khắc là không thể tránh được trong lịch sử của mọi đôi bạn [2]

Quả thực đôi vợ chồng trẻ cảm thấy cô đơn, không thể đương đầu nổi với những hoàn cảnh khó khăn, những xung khắc, những căng thẳng lớn hay nhỏ. Nhưng trong mọi cuộc hành trình hôn nhân hầu hết đều không thể tránh khỏi những xung đột và căng thẳng. Chúng ta cần phải ý thức điều ấy với một thái độ bình thản.

Tình trạng thăng bằng ổn định là không bao giờ chắc chắn mãi mãi trong lịch sử của mọi cặp vợ chồng, đúng hơn đời hôn nhân là một thực tại liên tục đang thành (becoming), bởi lẽ luôn có những biến đổi bên trong lẫn bên ngoài phạm vi đôi vợ chồng làm cho tình trạng ấy không thể yên ổn và phải thay đổi, họ phải không ngừng tìm kiếm nhằm đạt tới được một đỉnh cao mới sao cho từ đó họ thấy được những không gian mới và chân trời mới. Đời hôn nhân là một cuộc lữ hành và một tiến trình, là chính cuộc sống của đôi bạn, là một cuộc xuất hành liên tục đi ra khỏi tình trạng cũ trước đó cũng như hiện giờ để mở ngỏ cho mọi cơ hội mới đang hình thành trong quan hệ với người khác và với những người khác. Đó là một tiến trình liên tục khám phá sự khác biệt của nhau đồng thời chấp nhận để tìm được một sự hài hòa gia đình, một giá trị lớn lao hơn vô hạn (differentiation-integration).

Không thể hình dung được một cuộc sống hôn nhân mà lại không có khủng hoảng, xung đột, hay căng thẳng. Đúng hơn, có khi chính sự thiếu vắng căng thẳng, chính sự yên ắng không sức sống, chính sự hòa bình không do xây dựng mà do chịu đựng là triệu chứng đáng lo ngại của một cuộc hôn nhân thực tế không được xây dựng hằng ngày bởi một dự phóng, mà từng ngày trôi qua trong quán tính và im lặng.

Xung đột, căng thẳng và khủng hoảng do đấy là không thể tránh khỏi, hay nói đúng hơn, là tất yếu. Dẫu thế, chúng có thể trở nên cơ hội quí báu để tái định hướng, lúc này hay lúc khác, cuộc hành trình của đôi bạn, miễn là, khi chúng xuất hiện người ta không nên chạy trốn hay né tránh nhưng cùng nhau đi xuyên qua bên trong, can đảm đối diện, để chuyển hóa từ chỗ chối bỏ hay giữ thinh lặng về sự kiện đó sang ý thức về những nguyên nhân đích thực của sự chia rẽ, của những bất ổn ngấm ngầm, những bực dọc và phiền muộn, để có thể tháo gỡ và vượt qua những khó khăn đó.

Có những giai đoạn của đời sống vợ chồng khi những xung đột xuất hiện rõ ràng hơn. Đời sống đôi bạn thường trải qua vài chặng đường như sau, đó là, lúc khởi đầu tạo lập đời sống hôn nhân gia đình, cử hành lễ hôn phối và tách ly khỏi gia đình cha mẹ, lúc sinh con cái, khi con đến tuổi vị thành niên, khi chúng sống tách rời xa cha mẹ, khi đến tuổi về hưu, bị bệnh tật, một trong hai người phối ngẫu qua đời. Những giai đoạn ấy là những thời gian mà người ta thấy rõ dễ xuất hiện nhất những bất hòa, những tình cảm xung khắc, những động lực tâm lý làm phai nhạt tình yêu, làm quan hệ vợ chồng bất ổn. Thực ra, hiểu theo cách nào đó, đó là những giai đoạn tiến hóa, nếu sống một cách tích cực và năng động, giúp đôi bạn thoát khỏi sự kềm chế của một giai đoạn ấu trĩ của quan hệ vợ chồng để đạt tới mức trưởng thành hơn.

Vạch ra những xung đột trong đời sống đôi bạn không chỉ là một dấu chỉ của tình yêu, mà còn là một hành động ngay thật. Hơn nữa, xung đột và căng thẳng cùng lắm không phải là triệu chứng của một hoàn cảnh thỏa hiệp, nhưng rất thường đó là một sự kiện thuộc sinh lý học có liên hệ tới sự tăng trưởng của đôi bạn, chứ không nhất thiết cứ phải là sự kiện bệnh lý dẫn đến chỗ khai tử đôi lứa.

Đời sống vợ chồng thực ra được xây dựng bởi một chuỗi những giai đoạn thường đánh dấu bởi những gãy vỡ, rách nát, khủng hoảng. Thực ra, cuộc sống hôn nhân một khi đã thành một công thức cũ kỹ, với những gặt hái ít nhiều đã mãn nguyện, cũng có thể một ngày giông bão bất chợt nào đó rơi vào khủng hoảng. Khi ấy có lẽ đôi bạn phải can đảm tái cấu trúc lại một trật tự, một công thức mới, ở một mức độ chín chắn hơn và toàn vẹn hơn.

Đôi vợ chồng lành mạnh, có sức sống và năng động, là đôi vợ chồng có khả năng làm lộ hiện ra những xung khắc và khủng hoảng ngầm, có khả năng xác định bản chất của chúng, trải qua những khó khăn đó và để mình được đổi mới. Ngược lại đôi vợ chồng sẽ lâm vào tình thế nghiêm trọng khi sống khép kín, ù lì, không có khả năng làm lộ hiện những xung khắc, không có khả năng làm chủ chúng, không có khả năng chấp nhận đối mặt với bối cảnh bên ngoài, nghĩa là không có khả năng đi qua và đi ra khỏi khủng hoảng mà được đổi mới [3].

Đi cho đến tận cùng có thể dẫn đến chỗ sáng sủa của ban ngày cũng như bóng tối của đêm đen. Trong trường hợp nào đi nữa điều quan trọng khi vượt qua khủng hoảng là ý thức về những thời gian xung đột, biết cách sống cũng như biết cách vượt qua những xung đột ấy [4].

Chú thích:
[1] X. N. Luhmann, Amore come passione, Laterza, 1987.
[2] E. SCHILLEBEECKX, Il matrimonio – realtà terrena e mistero di salvezza, Ed. Paoline, 1980, 27.
[3] X. J. LEMARIE, Vita e morte della coppia, Citadella Editrice, 1981.
[4] X. F. AQUILAR, La coppia in crisi. Istruzioni per l’uso, Cittadella, 1994; F. AQUILAR, La coppia in crescita, Cittadella, 1996; E. DREWERMANN, Psicanalisi e teologia morale, Queriniana, 1992.


Bài 2: NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ CHỰC CHỜ…

Gia đình là ngã tư đường nơi những căng thẳng ngày nay của nơi công cộng và chốn riêng tư gặp gỡ nhau. Vì thế những khó khăn mà các đôi bạn gặp phải liên kết chặt chẽ với bối cảnh rộng lớn hơn như đại gia đình, gia tộc, bạn hữu, xóm giềng, sở làm, hay xã hội rộng lớn hơn. Nhưng ta sẽ không bàn đến những tương tác đó ở đây, mà sẽ dừng lại nơi những xung đột liên kết chặt chẽ với đôi bạn trong tư cách như là đôi bạn, thực tại tách biệt. Nghĩa là chỉ xét đến những xung đột liên hệ đến lãnh vực tâm lí, cảm xúc, tình cảm, và tính dục, là những lãnh vực tế nhị hơn, phức tạp hơn, và phụ thuộc lẫn nhau. Cũng là những khu vực tập hợp lại những kinh nghiệm quá khứ, có để lại dấu vết hằn sâu nơi tiềm thức lẫn ít nhiều có ý thức.

Ở nguồn gốc của những khủng hoảng vợ chồng thường có nguyên nhân là người ta không có khả năng nhìn nhận và đón nhận chính thực tế của riêng mình, thực tế của người bạn đời, thực tế của cả cặp vợ chồng.

1. Kẻ phải lòng, nghĩa là người đang yêu, thì có tưởng tượng phong phú

Nơi một đôi bạn mới lấy nhau thường người ta thấy những bộc lộ của họ như muốn tan chảy hòa quyện vào nhau. Dường như không có khoảng cách giữa thực tại và mộng mơ. Một đàng người ta say đắm, đàng khác người ta sống chỉ những gì tinh túy nhất. Những người mới lấy nhau sống chủ yếu với trí tưởng tượng của họ. Trí tưởng tượng ấy vốn là tổng hợp của những hình ảnh và tâm tưởng, của tri giác và của những liên tưởng nội tâm mà mỗi trong hai người đối ngẫu (partners) mang đến theo mình. Sự tưởng tượng của từng người trong thời gian gặp gỡ nhau là phần còn lại của chuyện cuộc đời mà họ đã sống cho tới lúc bấy giờ. Đôi bạn cần phải xem xét đến tâm tưởng của nhau.

Thuở ban đầu lưu luyến ấy là một thời gian mạnh mẽ gây cho cả hai người những bàng hoàng, kinh ngạc, mê mẩn, quyến rũ. Đời sao như là mơ ấy, thật là lý tưởng! Tự khép mình trong thế giới tâm tưởng của tình yêu, hai người xem ra không thể tách rời nhau được; có nguy cơ là mỗi người có thể phản chiếu tưởng tượng của mình lên người kia. Đối tượng của tình yêu thường đến bất ngờ và dường như lấp đầy mọi mong chờ. Thế nhưng, khi phóng chiếu sự tưởng tượng của mình lên tha nhân như thế có thể người ta luôn luôn và chỉ yêu chính mình. Giống như là một bong bóng to đùng trong đó hai người nhìn nhau, nghe nhau, sống với nhau, nhưng mọi sự còn lại thì ở ngoài. Nhưng cái bong bóng ấy không thể giải quyết mọi chiều kích và hơi thở của cuộc sống, và, khi người ta bị yêu sách phải mở rộng cõi lòng cho những yếu tố khác lạ (tha tính), hai người thấy mình hoài nghi khi phải giải quyết chuyện thực tế cuộc sống: Đối tượng yêu thương, “người yêu” đó, sao khác nhiều với những gì mình đã tưởng [1].

Tới đây cần phải sẵn sàng để sống điều mà các nhà tâm lý gọi là sự than khóc thứ nhất cho cuộc hôn nhân: một sự mất mát mà không phải lúc nào người ta cũng sẵn sàng. Vả lại, đối với con người đối diện với một chia ly, mất mát luôn luôn là một khó khăn. Tuy nhiên, nhờ suy nghĩ và nhìn nhau ở bên trong người ta có thể đi đến chỗ hiểu được rằng không phải là họ mất người yêu còn đang sống đó, nhưng là mất cái ‘hình ảnh’ mà người ta đã tạo ra cho mình về người yêu, hay cái lý tưởng về đôi lứa. Đó chỉ là một sự mất đi những hình ảnh đã tưởng tượng! Nếu không có bước chuyển căn bản này, người ta không thể tiếp tục xây dựng chính thực tế đôi bạn và những xung đột ẩn núp ở góc xó nào đó sẽ sẵn đó trườn ra.

Thường thì những ảo tưởng đó được sống quá lâu như là thực tại duy nhất về đôi bạn, chúng chiếm cứ mọi không gian và lấp đầy mọi khoảng cách của tương quan vợ chồng, tự đặt mình như một mục tiêu giả trá của một cặp vợ chồng lý tưởng. Nhưng người ta không được gọi để sống mối quan hệ của một đôi bạn lý tưởng phi thực tế; cũng như không hề có những khuôn mẫu, như là sản phẩm của nền văn hóa, để mà bắt chước, và không hề có thứ tình yêu lý tưởng của thời kỳ phải lòng kéo dài đến vô tận. Tình yêu không thể được nuôi dưỡng chỉ bằng lý tưởng tưởng tượng, nhưng để sống tình yêu cần phải nhập thể.

Vì vậy không hề có đôi bạn lý tưởng. Ngược lại, có nhiều quan hệ vợ chồng rất khác biệt nhau, ít nhiều đã thành sự, là thực tại vừa đẹp và giàu tiềm năng, nhưng thực tế cũng có đôi nghèo nàn và hạn chế; đó là những quan hệ của một người đàn ông và một người đàn bà đồng hành với nhau để trở nên những người được kêu gọi để trở thành đôi bạn duy nhất và độc đáo.

2. Nhìn nhận người bạn đời rất khác biệt với ta là một nỗi khó khăn

Cuộc hành trình mạo hiểm nhưng cũng rất phong phú và năng động của đôi bạn chỉ thực sự bắt đầu khi họ biết nhìn nhận “sự khác biệt” của nhau hay còn gọi là tha tính (otherness/l’altérité) trong quan hệ vợ chồng “một xương một thịt”.

Ngày nay chúng ta thấy rất nhiều cặp vợ chồng đổ vỡ. Rất có thể nguyên do của khủng hoảng sau cùng dẫn hôn nhân của họ đến thất bại vì họ thiếu óc thực tế, có lẽ họ đã không thực sự hiểu biết nhau, không biết con người thực tế của nhau (gồm những vốn quí, sự phong phú, và cả những giới hạn, khuyết điểm của nhau). Có khi điều đó đưa đến tình trạng không hẳn là đổ vỡ, nhưng họ sống như hai cái bóng cùng tồn tại trong đau khổ, trong một thế thăng bằng chông chênh luôn luôn rất khó giải quyết.

Nhìn nhận người kia khác biệt với tôi là một giai đoạn khó khăn phải trải qua, nhưng rất cần thiết cho việc xây dựng đời sống gia đình. Sẽ có những hậu quả khá nghiêm trọng nếu tha nhân, tức người bạn đời, không được nhìn nhận với thực tế của người ấy; nếu hai người không nhìn nhận nhau, nếu họ không chấp nhận mọi mặt tích cực cũng như tiêu cực của nhau. Ta sẽ không nếm được cái ý nghĩa sâu xa của sự kiện người này vừa quí giá vừa nghèo nàn trước mắt người kia; và như thế làm sao có thể biết tôn trọng nhau và cùng có trách nhiệm cùng nhau thăng tiến bản thân từng cá nhân và đôi lứa.

Nếu ai đó nhìn nhận chúng ta, yêu thương chúng ta, đón nhận chúng ta đúng như thực tế chúng ta là như thế đó, thì sẽ có điều nhiệm mầu xảy ra. Ơn cứu độ bắt đầu. Đó chính là sự phong phú thực sự của đời hôn nhân. Đó chính là lý do tại sao sống cô độc một mình sẽ nên hết sức nghèo nàn. Đó là lý do tại sao được chọn và được yêu lại là một đặc ân.

Có điểu chúng ta cần lưu ý, đó là tiến trình nhìn nhận và đón nhận, cả cái tốt lẫn cái xấu, cái tích cực lẫn cái tiêu cực, của nhau ấy rất khó thực hiện, nếu như trong thâm sâu ta không nhìn nhận và đón nhận chính thực tế riêng của cá nhân mình. Bởi nếu ta không nhìn nhận chính mình với con người thực tế toàn thể của mình, thì ta khó có thể làm như thế đối với người khác. Đúng hơn ta có khuynh hướng phóng chiếu lên trên người khác những mặt tiêu cực của mình, những khuyết điểm của ta mà ta không nhìn nhận, những hình ảnh làm cha làm mẹ thiếu chu đáo chẳng hạn, tất cả những bóng ma của lịch sử nội tâm của mình. Những cái đó sẽ tiếp tục cản trở chúng ta gặp gỡ toàn thể nhân tính của người khác trong sự tự do; chúng có thể tạo ra những kiểu kết hợp hòa quyện nguy hiểm. Ngược lại, nếu như những khía cạnh tiêu cực mà được nhìn nhận và đón nhận như thực tế chúng là thế, như là phần bên kia của cái tôi chưa được nhận biết hay chưa được tháp nhập, cả chúng nữa cũng sẽ có thể trở thành phương thế cho sự thăng tiến, tăng trưởng, hòa nhập với thế giới bên trong chúng ta, với người phối ngẫu, với thế giới bên ngoài. Điều cấp bách hơn, và trước cả sự nhìn nhận và đón nhận tha tính, là nhìn nhận và đón nhận chính chủ thể tính của mình.

“Hãy yêu thương chính mình” là một mệnh lệnh cũng mạnh mẽ như “hãy yêu thương người thân cận của mình”. Đúng hơn, chính tình yêu đối với bản thân là nền tảng cho tình yêu đối với tha nhân.

Như thế, điều quan trọng là cần phải ý thức về chính căn tính của mình, về chính lịch sử đời mình trước khi có sự gặp gỡ tha nhân, trước khi đích thân tiến bước đến chỗ chọn lựa tha nhân: cái gì đã khuấy động tôi trong chọn lựa này vậy? có lẽ chăng một nhu cầu tình yêu không được hay không thể thỏa mãn? Tiến trình trưởng thành nhân cách của tôi có trải qua những bước tiến tăng trưởng êm ả hay không? Có lẽ tôi đã phóng chiếu lên con người của tha nhân những thực tại không thành đạt của tôi, những khát khao không thỏa mãn, những hoài bão không thực hiện được của tôi chăng? Tôi có xu hướng phụ thuộc vào người kia, hòa tan mình với người kia không? Tôi có biết sống khoảng không gian và thời gian riêng của tôi một mình không?

Nếu như chúng ta vẫn còn chưa đạt tới trưởng thành nhân cách đủ mức, và một khi ta ý thức về điều ấy, ta có thể sẽ đạt được nhờ sự giúp đỡ quí giá của bạn mình, vốn là một nguồn suối mới phải tận dụng. Về điều này, không hề có những con đường tắt dễ dãi, không thể tránh né đi con đường ấy nếu người ta muốn có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

Đôi khi chính vì một trong hai người, hoặc cả hai người, không nhìn nhận mình thiếu trưởng thành, mà khiến cho cuộc hôn nhân thất bại.

3. Đời sống tính dục không được thỏa mãn

Vấn đề tính dục luôn luôn là kết quả của một lịch sử. Và trong lãnh vực rộng lớn này người ta cần phải tìm chìa khóa để đọc nhằm đối diện với mọi hoàn cảnh hôn nhân khó khăn do hiểu lầm hoặc không thỏa mãn trong lãnh vực này.

Mỗi cá nhân có nguồn gốc không bởi từ một cá nhân khác, mà bởi từ một đôi (vợ chồng), và về mặt tâm lý đứa trẻ hấp thu không chỉ nguyên mẫu của người cha và của người mẹ, mà còn hấp thu cả cái nguyên mẫu của quan hệ liên vị, giữa một người đàn ông và một người đàn bà như là một đôi vợ chồng. Do đó, chúng ta hiểu tại sao lãnh vực tính dục lại hết sức phức tạp và tại sao lối sống tính dục của một người trưởng thành bộc lộ những gì mà người ấy đã sống và hấp thụ được từ cha mẹ trong tuổi ấu thơ và suốt thời gian niên thiếu và tuổi trẻ. Bởi thế, có ai đó đã nói rằng “cách thức để bảo đảm tốt nhất cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc và một đời sống gia đình hạnh phúc là làm sao để được sinh ra từ một cuộc hôn nhân hạnh phúc”. Hẳn là nếu ta lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ đã sống một cuộc hôn nhân hạnh phúc, nếu ta đã hấp thụ được một giáo dục về giới tính một cách hài hòa, thì ta sẽ dễ dàng đi đến chỗ chấp nhận căn tính về tính dục của mình và gặp gỡ người bạn khác giới kia hơn rất nhiều. Thế nhưng ta đâu có thể tác động lên trên một quãng đường đã đi qua. Nhưng hiểu được sự quan trọng nền tảng của một đời sống tính dục hài hòa, lành mạnh, vui tươi cho hạnh phúc lứa đôi đã là tốt lắm rồi; bởi lẽ như thế người ta sẽ chú ý, lo lắng, tích cực tìm cách phát triển hơn nữa sự đồng điệu, đồng cảm về tính dục.

Trước hết, có những thực hành tính dục như một thứ quyền lực áp đặt trên người khác hoặc chỉ như là một kiểu hành lạc. Những kiểu đó không diễn tả tình yêu cũng không làm cho tình yêu ra hoa. Chúng còn xa lạ lắm với tình yêu đích thực.

Ngược lại, có một sai lầm người ta hay vấp phải xuất phát từ một lối giáo dục có xu hướng đàn áp tính dục trên bình diện luân lý cũng như tôn giáo, và là nguồn cho bao nhiêu đau khổ của con người. Sai lầm đó chính là ở chỗ người ta không coi trọng sự đồng cảm của đôi bạn với nhau về tính dục. Vẫn còn thấy ở đây đó quan niệm nghĩa vụ vợ chồng, một quan niệm cổ xưa hé mở cho thấy một tình cảnh thụ động buồn tẻ. Người ta vẫn còn có thái độ phản vệ, với xu hướng chế ngự và chối bỏ, hoặc duy lý hóa và đè nén, khả năng tính dục của con người. Họ che dấu nỗi sợ hãi phải chấp nhận mình như là một con người có giới tính và sống tính dục của ta cách viên mãn trong cuộc gặp gỡ với người bạn đời. Thật ra, ý nghĩa của giao ước hôn phối giữa một người nam và một người nữ, dấu chỉ của giao ước yêu thương giữa con người với Thiên Chúa, được bộc lộ đầy đủ hơn, lời nói yêu thương mang một ý nghĩa đầy đủ hơn, khi chiều kích tính dục trong quan hệ vợ chồng được coi trọng như là tiền đề cho một sự phát triển bình thường mối quan hệ theo nghĩa yêu đương” [2].

Một đôi bạn mà không sống sự hòa điệu vui tươi đồng cảm về tính dục, sẽ thấm thía nỗi buồn của một tình yêu “bị gặm mòn” trong thinh lặng, sẽ kinh nghiệm sự thịnh nộ của những nhục nhằn bị đè nén, nỗi cay đắng của bao cảm xúc đã không thể bộc lộ, tình héo khô bởi nhiều cảm giác không có cơ hội để sống. Sự khủng hoảng không thể không phản âm trên toàn bộ cuộc sống vợ chồng, bởi lẽ một quan hệ tính dục không mặn nồng và bị ức chế cách này cách khác sẽ dễ trở thành một thói quen ngăn trở xây đắp một tình thân mật vợ chồng về mặt tâm lý, khả dĩ đem lại một sự thỏa mãn và thành tựu nào đó cho cả hai vợ chồng.

“Sex dĩ nhiên không phải là tất cả mọi sự, nhưng nó là chất xúc tác cho nhiều chuyện khác. Và sở dĩ nhiều chuyện khác có chạy tốt được như thế là nhờ sex hoạt động tốt, cho nên tính dục cũng là hòn đá thử vàng để đo chất lượng toàn thể của một mối quan hệ. Khi tính dục hoat động tốt, con người sẽ khác đi, bầu khí tình cảm người ta cảm thấy trong một mái nhà bấy giờ là bầu khí tỏa sáng, khuây khỏa và vui tươi.” [3]

Đó có phải là một nghịch lý chăng? Hay một sự khiêu khích? Có lẽ không hẳn như vậy. Bởi cũng có nhận xét sau đây cho rằng: trong nhiều cặp hôn nhân chính sự đồng điệu với nhau về tính dục có thể đã khỏa lấp nhiều hoàn cảnh khác không tích cực và có thể thúc đẩy hôn nhân tiếp tục đi tới; đang khi rất thường xuyên ở nơi nào mà thiếu sự hài hòa thân mật vợ chồng như thế, không có một sự đồng cảm vượt trên lý trí, quan hệ vợ chồng khó có thể giữ được bền vững. [4]

Chú thích:
[1] J. MARRONCLE, Coppie in crisi, Elle Di Ci, 1991.
[2] L. ANCONA, La psicologia dell’amore e del dis-amore coniugale, in Nuova Enciclopedia del Matrimonio, Queriniana, 1988, 77.
[3] C. DASTOLI, “Una sola carne, due persone distinte: la sessualità nel matrimonio”, in Il legame matrimoniale tra crisi e speranza, Vita e Pensiero, 1989, 115.
[4] W. PASINI, Intimità, Mondadori, 1990.


BÀI 3: NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ CHỰC CHỜ… (2)

4. Không thể tách ly khỏi bóng dáng của cha mẹ

Mọi đôi bạn nếu muốn sống thực sự cuộc sống lứa đôi của mình phải luôn hướng tới sự tách ly khỏi hình bóng của cha mẹ. Người ta thường quá xem nhẹ sự tách ly khỏi cha mẹ về thể lý cũng như về tâm lý. Đó có thể trở thành nguyên do (có khi kín đáo và không được ý thức) cho những khủng hoảng sâu xa trên hành trình hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ. Người ta cảm thấy bất an nghĩ rằng cuộc sống lứa đôi của mình chưa bao giờ thật sự bắt đầu và càng không cảm thấy nó triển nở một cách riêng tư và độc lập đối với bóng dáng cha mẹ.

“Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mình và mẹ mình” đây hẳn không chỉ là một lời mời ra đi, đi ra khỏi nhà cha mẹ để tạo một mái nhà khác. Lời mời gọi kinh thánh này còn vang vọng những ý nghĩa khác xa hơn, mời gọi mỗi người đàn ông và người đàn bà, tự cõi thâm sâu nhất, tách ly hoàn toàn ra khỏi các đấng đã sinh thành mình, để có thể gặp gỡ tha nhân với ý thức hoàn toàn về tự ngã của mình.

Hôn nhân thường được định nghĩa như là một cuộc phiêu lưu khởi đầu từ lúc nói lời ưng thuận cách công khai, một cuộc hành trình sẽ phải dẫn đến một sự tách ly trong nội tâm khỏi hình bóng của cha của mẹ. Điều chính yếu không phải là tách ly để mà quên, nhưng để có khả năng biến đổi những khuôn mặt đó trở nên mới trong nội tâm của mình và việc nội tâm hóa đó phải nhiều lắm để làm phát sinh một tự ngã mới từ những hình bóng đó. Những hình ảnh của cha của mẹ ấy sẽ được sống một cách mới mẻ và cách khác với trước.

“Đôi khi người ta nghĩ là đã cưới một người đàn ông của đời mình nhưng người ta lại tái tạo cho anh ta những tiếp xúc vỗ về của người mẹ. Hay ngược lại, người ta nghĩ là đã cưới một người phụ nữ của đời mình nhưng lại tái tạo cho cô nàng một lối giao tiếp bảo bọc của người cha.”

Có khi khuôn mẫu của cha mẹ, và một cách đặc biệt khuôn mẫu của người mà đã để lại trên ta một dấu ấn sâu đậm nhất trong suốt thời kỳ ta lớn dậy, tồn tại nơi một trong hai người bạn đời sâu đến nỗi được tái tạo lại trong thực tại gia đình mới với cũng một cung cách cư xử hằng ngày y như thế. Và còn hơn thế nữa, khuôn mẫu ấy xuất hiện khi người ta giáo dục con cái qua sự tái hiện lại cùng những khuôn văn hóa và qui tắc giáo dục xưa. Từ đó có thể nảy sinh xung đột nơi đôi bạn, bởi lẽ người ta cảm thấy căn tính mới của đôi bạn không hề triển nở, mà chỉ đơn thuần là tái hiện trở lại những gì trước đây một trong hai đôi bạn đã tham dự. Đó chỉ là một cái tiền sử không được xét lại, không được đổi mới, không sinh ra từ thực tại mới của vợ chồng, một tiền sử mà người bạn đời kia như kẻ ngoại cuộc.

Độc lập đối với cha mẹ về mặt tâm lý quả thật không phải dễ dàng còn bởi một lý do nữa. Khi bắt đầu một cuộc hành trình theo hướng tách ly như thế đó, người ta thường cảm thấy ít nhiều mặc cảm tội lỗi và phản bội như thể mình đã “bỏ rơi” đấng bậc sinh thành. Đàng khác, “chỉ người nào có can đảm và sức mạnh tách ly dần khỏi những người khác, kể cả cha mẹ mình, để thể hiện chính mình cách đầy đủ, mới có thể tìm thấy lại được người khác và chính mình trong khuôn khổ của một tình yêu dâng hiến chứ không phải là của một thứ vị kỷ được che đậy” [1]. Theo nghĩa đó, lời mời gọi của Thánh kinh thật ý nghĩa và cấp bách: “Con người sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và cả hai sẽ nên một xác thịt” (St 2,24).

5. Những bất trung

Sự bất trung, là điều vốn thường xuyên bào mòn quan hệ vợ chồng. Trước hết, là sự bất trung tinh vi và hằng ngày được thực hiện gần như là không cố ý, và xem ra không góp phần gì quan trọng cho hành vi phản bội, nhưng ngược lại, chính vì nhỏ nhặt và tinh tế mà nó dần đục khoét thành những hố sâu ngăn cách.

Một hình thức đầu tiên của sự bất trung thường nhật là sự bất trung của những kẻ không bước vào tương giao. Lời nói có thể là dấu chỉ của sự trung thành, mà cũng có thể là của sự bất trung nếu chúng không thực sự ăn khớp với cảm giác và tình cảm của chúng ta. Rồi thinh lặng cũng thế, đó có thể chất chứa sự trung thành hay bất trung. Một thái độ thinh lặng không nói nhưng kèm theo những cử chỉ yêu thương hay tận tụy thường nhật với sự chia sẻ đầy đủ những tình cảm là một sự thinh lặng trung thành. Một sự thinh lặng do không biết bộc lộ bằng lời những tình cảm như giận dữ, thù ghét, phục tùng tự ý hay miễn cưỡng, muốn gây hấn mà không bộc phát được, không chia sẻ qua những cử chỉ yêu thương hay có trách nhiệm, là một sự thinh lặng chất chứa bất trung cản trở thiết lập mọi tương giao.

Do đó sự bất trung có thể nảy sinh do thiếu tương giao sâu đậm trong cuộc sống hằng ngày, cũng như có thể nảy sinh do thường xuyên thiếu sự chia sẻ và nhất là thiếu sự dịu dàng nhân hậu và đồng cảm. Sự bất trung cũng nảy sinh khi mối quan hệ bị tàn phá do tràn ngập những khó khăn hay ngược lại do sự đều đặn buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày. Nó là một tấm màn che phủ làm mờ nhòa mọi sự và làm mọi sắc màu nhạt phai, đó là sự đều đặn nhàm chán của cái thường nhật, là tuyến đường thẳng băng không một chút gợn gờ nhấp nhô đe dọa, nếu đôi bạn không tìm thấy nơi mình khả năng tái sinh, đổi mới cung cách quan hệ. Tình trạng đó được nhận ra khi thấy sự mệt mỏi chán chường chiếm ngự không gian sống của đôi bạn. Càng ngày người này càng mất khả năng nhìn người kia với một cặp mắt mới; những lời nói yêu thương dành cho nhau trở nên thưa dần.

Đối tượng của tình yêu thương có thể được thay thế dễ dàng bởi những thứ khác như một sự né tránh, nơi trốn tránh. Chẳng hạn như công việc, hay thú tiêu khiển giải trí cho tới lúc ấy chỉ như là trò giải trí cho qua thời gian rỗi rảnh, bạn bè, nhà cửa, một góc vườn kín đáo nơi dành mọi bận tâm, chăm sóc. Người ta không còn nghĩ kẻ sống bên cạnh mình luôn là một con người mới cần phải khám phá, hiểu biết hơn về những khát vọng, hy vọng của người ấy, cũng như những thất bại, suy nghĩ thầm kín nhất, những cảm giác sâu xa nhất của người ấy. Có thể có cám dỗ về một thứ bất trung khác: một người đàn ông khác hay một người phụ nữ khác là một cái gì mới mẻ, khả dĩ làm tươi mới lại những lời nói yêu thương đã đi vào quên lãng, khả dĩ làm sống trở lại những cảm xúc, những tình cảm xem ra như đã mất.

Rồi còn có một thứ bất trung cuối cùng, thường ít được nhận thấy, đó là: chạy theo một lý tưởng đời đôi bạn tưởng tượng viển vông, không thực tế. Lý tưởng đó có thể là về đối tượng phối ngẫu mà ta muốn sống với, do trí tưởng tượng dựng lên một cách thiếu thực tế đến độ kẻ sống bên cạnh ta không thể đáp ứng và chịu đựng nổi, cảm thấy mình không xứng hợp và dần dần chối từ làm bạn đồng hành và nhường chỗ cho cái ‘đài tưởng niệm’ không tưởng đó. Lý tưởng cũng có thể là về chính bản thân ta: tham vọng về mình quá cao và quá xa vời so với thực tế của chính bản thân, so với ước muốn của người bạn đời kia, vốn chỉ mong có một người bạn đơn sơ, cụ thể và có khả năng chia sẻ một cuộc sống thực tế.

Cũng có bất trung trong mối quan hệ vợ chồng ở mãi trong tình trạng hòa quyện tan hòa vào nhau. Sự tan hòa ấy trộn lẫn và tiêu diệt các căn tính hoàn toàn khác lạ với quan hệ tình yêu đích thực. Tình trạng này dầu sao đi nữa cũng không thể coi là một sự trung thành thực sự được, vì đó là một sự trung thành đối với một tình yêu không tưởng, chưa hề là tình yêu đích thực vốn được xây dựng trên những nền tảng khác. Bởi đó là sự trung thành, xét cho kỹ, của hai kẻ không có khả năng chấp nhận cô đơn, không có khả năng để cho người khác được cô đơn; và như thế là của hai con người chưa có tự do thật.

Thật là một hiểu lầm đáng buồn nếu ta xem trung thành được diễn tả như một khát vọng chiếm hữu, một quyến luyến bệnh hoạn, không để không gian cho người kia diễn tả mình, hoặc như một thái độ bảo bọc muốn lo toan mọi sự, tiên liệu mọi sự, chu cấp mọi sự, khiến người kia không còn gì để mà khát khao, chọn lựa, không còn gì có thể sai lầm! Một tình yêu mà nhân danh một sự trung thành ngột ngạt như thế thực ra là một sự bất trung sâu xa đối với dự phóng nền tảng của mọi hôn nhân, một cuộc hôn nhân nhìn thấy trên hành trình yêu thương tự do và đem lại giải thoát một cơ hội cho mọi tiềm năng và phong phú cá nhân được triển nở.

Cũng một cách y như vậy sự bất trung ẩn mình dưới mọi hình thức lệ thuộc. Sự lệ thuộc, có thể là dưới những hình thức cung ứng quá dư thừa những tiện nghi dù là vì yêu, sẽ dễ dàng sinh ra nhiều sự bất trung nho nhỏ. Những bất trung tạo nên bởi những khát vọng không thực hiện, bởi những mơ mộng hoài vọng không được chia sẻ, bởi những hành động thực hiện theo hướng nghĩa vụ chứ không do một chọn lựa yêu thương, bởi những lời nói trên môi cười mà lòng dửng dưng, bởi những mong đợi ở nhau không được bộc lộ và đáp ứng, không được nhận biết, thông cảm, đón nhận.

6. Khi không có tự do

Một bất trung nặng nề là một bất trung không đi tìm chính sự tự do của bản thân mình và cũng không giúp người bạn đời kia được tự do. Tự do là một gút mắt quan trọng và khó khăn nhất trong mọi quan hệ đích thực, nhất là quan hệ hôn nhân.

Một cuộc hôn nhân trung tín là một hôn nhân có sức giải phóng, đem lại sự giải thoát, tự do đích thật cho con người. Một người kết hôn mà không lo liệu giải phóng mình khỏi những áp lực, khống chế bên ngoài lên trên chính mình, và đồng thời không giúp cho người bạn của mình cũng được giải phóng như thế, thì không trung tín với giao ước, với bí tích. Bởi lẽ chỉ có giao ước và bí tích thật sự và có sức sống khi hai vợ chồng trao ban cho nhau khoảng không gian để thực hiện các ân huệ mà Chúa Cha đã trao ban cho mỗi người con của Ngài, cách trọn vẹn. Thế nên không có mâu thuẫn giữa trung thành và tự do. Đúng hơn, trung thành là trung thành trong tự do; tự do thật là tự do để yêu thương cách trung thành.

Xác định đâu là những khía cạnh không có tự do trong quan hệ, đâu là những lý do để cuộc hành trình hướng tới tự do đích thực trở nên bấp bênh và bế tắc, không phải là việc dễ dàng. Tình trạng nội tâm giới hạn thực sự sự tự do đôi khi rất khó xác định, và để giải thoát thì càng khó hơn. Tình trạng ấy có thể là cá nhân, gắn liền với lịch sử đã qua của mỗi người, hoặc có thể xuất phát từ cách sống và xây dựng đời đôi bạn.

Sự tự do mà ta đang nói tới không phải là sự tự do làm theo dục vọng và ước muốn riêng của mình, cho bằng là sự tự do của tư tưởng và hành động. Hành động của mỗi người thường là kết quả qui định bởi những hạn chế nhỏ hay lớn của cuộc sống hằng ngày ngăn cản người ta thực hiện điều người ta khát mong. Nhưng nếu trí óc và con tim biết di chuyển tự do trong không gian của một ước vọng và một dự phóng, là điều vốn được chia sẻ bởi người bạn đời kia, thì người ta sẽ không có cảm giác bị áp chế, thất vọng, thù ghét ngấm ngầm chực chờ bộc phát bạo lực. Những tâm trạng tiêu cực đó gây ra nhiều thiệt hại cho đời sống hôn nhân và là nguyên nhân cho khủng hoảng sâu sắc, nhất là khi chúng bị dồn nén với cảm giác tâm lý bị ức chế không bộc lộ được cách tự do.

Đàng khác, chính những gì người ta nói, bàn về tình yêu vẫn còn hàm hồ. Bởi lẽ, người ta thường nhân danh chính tình yêu sinh chuyện áp chế, làm bầu khí ngột ngạt, với những qui định một chiều. Xác định những điều đó và thoát ra khỏi chúng không phải dễ dàng. Bởi lẽ những khía cạnh hoà tan vào nhau của ái tình thuở đầu hoạt động mạnh mẽ và len lỏi sâu xa đến độ có khi sau nhiều năm hôn phối hai người vẫn không thể thoát ra khỏi sự quá lệ thuộc nhau. Người ta cứ luôn cần phụ thuộc vào người kia hoặc cần người kia phụ thuộc mình. Thế nhưng sự phụ thuộc đến độ nô lệ không phải là dấu chỉ của tình yêu đích thật vì trong sự phụ thuộc đó không có tự do chọn lựa, không có nhiệt tình tự nguyện dấn thân, không có sự dâng hiến của ân ban. Đúng hơn, khi không có khả năng chọn lựa nào khác, người ta không thể bộc lộ chính mình, sự lệ thuộc chỉ khiến người ta cam chịu không sống đời mình một cách viên mãn được.

Nhiều người bắt đầu cuộc sống hôn nhân với ý nghĩ là, vì tình yêu mà lấy nhau người ta cần khước từ sự tự do của mình. Bổn phận, trách nhiệm có xu hướng khiến người ta bị ngột ngạt và thay thế tình yêu. Ngược lại, sự tự do nội tâm của mỗi người đối ngẫu là một bảo đảm chính yếu cho sự bền vững của quan hệ vợ chồng. Hôn nhân không phải là một sợi dây ràng buộc thắt chặt, nhưng là một sự hợp nhất tự nguyện và tự do qua từng ngày.

Hẳn là tự do làm ta lo sợ, nhất là khi phải bỏ đi những khung suy nghĩ cũ kĩ mà từ đó người ta xây dựng cuộc đời và quan hệ vợ chồng riêng mình. Đó là những cớ lý thuận tiện thường được dùng để chống đỡ những bất lực và những sợ hãi của ta. Sợ phải phiêu lưu để tìm tòi khám phá những điều mới mẻ, sợ mình không có khả năng chấp nhận những cách thức sống mới với chính bản thân, với người bạn đời, với những người khác. Thế nhưng, chỉ có con đường giải phóng được người bạn đời mới có thể sống hiệp thông thật sự.

Tự do chắc chắn là có mạo hiểm và đó chính là điều đôi khi người ta sợ phải chấp nhận. Nhưng sự mạo hiểm của tự do của ta và của người bạn đời mới là trọng tâm. Không có tự do cũng sẽ không có đạo lý vì không có chọn lựa và cũng không thể có được tình yêu. Tự do ở ngay trung tâm của cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống Thiên Chúa muốn phải được sống trong tự do và đã trả bằng cái giá của thập tự.

Chú thích:
[1] M. BERTINI, “Il matrimonio come processo di evoluzione psichica”, in L. ANCONA, Nuove Questioni di Psicologia, La Scuola, Brescia.


Bài 4: PHẬN HOÀNG VƯƠNG GIỮA CÕI TỤC

Linh đạo là để thức tỉnh con người. Từ đó tôi tự hỏi làm sao các gia đình thức tỉnh về ơn gọi cao cả đích thực của mình. Làm thế nào để các gia đình nhận ra ánh sáng nơi chính mình, họ không hèn kém như họ tưởng. Họ thật sự là đại bàng của trời cao mà cứ ngỡ và sống như phận chú gà trong góc vườn nhà, như câu chuyện “chú đại bàng” của cha Anthony de Mello sau đây:

Có người nọ nhặt được quả trứng đại bàng, đem bỏ vào ổ gà đang ấp trong chuồng. Chú đại bàng con nở ra và lớn lên cùng lứa với đàn gà con.

Cứ thế suốt đời đại bàng con chỉ làm những việc mà lũ gà con vẫn làm, và cứ tưởng mình là một gà con. Nó cũng bới đất tìm sâu bọ, cũng kêu cục tác như các ả gà mái và cũng quen đập cánh bay lên cao chừng hơn nửa thước. Thời gian thấm thoát trôi, đại bàng ta rồi cũng già. Bữa kia, nó trông thấy một con chim tuyệt đẹp bay phía trên nó trong bầu trời lồng lộng thênh thang. Với dáng vẻ uy nghi dũng mãnh, cánh chim ấy nhẹ nhàng băng giữa cuồng phong, chỉ lâu lâu mới khẽ vỗ nhịp đôi cánh vàng mạnh mẽ của mình.

Đại bàng ta nhìn lên kinh hãi. Nó hỏi “cái gì vậy?”. Một bạn gà của nó trả lời: “Đó là đại bàng – vua của các loài chim. Đại bàng thuộc về trời cao, còn bọn mình thuộc về mặt đất. Bọn mình chỉ là loài gà”.

Cứ vậy, đại bàng ta sống và chết như một chú gà vì nó vẫn đinh ninh mình chỉ là gà.

Gia đình phản chiếu chính tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Cách riêng, các gia đình Kitô giáo là bí tích của Tình yêu vĩnh cửu ấy.

“Yếu tính và nhiệm vụ của gia đình xét cho cùng được xác định bởi tình yêu. Bởi thế, gia đình đón nhận sứ mạng bảo vệ, mạc khải và thông truyền tình yêu, là tia sáng phản chiếu sống động và thực tế cũng như tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội Hiền thê của Người” (FC 17).

1. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi

Thật vậy, chúng ta hãy nghe Thiên Chúa nói khi Ngài sắp sáng tạo con người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh, giống như chúng ta.” (St 1,26). Và “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa không phản chiếu chính mình nơi con người như một cá vị nhưng như một cộng đoàn. Chuyện con người là hình ảnh, giống Thiên Chúa không hệ tại ở bản thể cho bằng là nơi việc làm: Thiên Chúa sáng tạo (creation) sự sống, còn con người được sáng tạo nên có khả năng sáng tạo sự sống mới theo nghĩa là sinh sản (pro-creation) một con người mới, tức là “đồng sáng tạo” với Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài trong viễn tượng một Giao ước mới. Cấu trúc giao ước ấy đã được ghi sẵn nơi tính chất bổ túc cho nhau giữa người đàn ông và người đàn bà. Sự kết hợp vợ chồng giống như và tương ứng với tặng phẩm của Tạo Hóa. Khi bà Evà sinh đứa con đầu lòng, bà đã thốt lên: “Tôi đã có được một con người bởi Đức Chúa” (St 4,1). Trong tặng phẩm sự sống con người mới đó có bàn tay can thiệp sáng tạo của Thiên Chúa! Đỉnh cao của Giao ước ấy chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Vị Hôn Phu của Hội Thánh, Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15). Sự kết hợp nên một xương một thịt của người đàn ông và người đàn bà là hình ảnh tiên báo có tính tiên tri của một mầu nhiệm (bí tích) lớn lao. Đó là sự kết hợp của Đức Kitô và Hội Thánh. Đối với đôi bạn Kitô hữu, sự kết hợp yêu thương của họ không chỉ là hình ảnh, nhưng còn là chính “hiện thực” của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi giữa trần gian. Hôn phối của họ là bí tích, nghĩa là một dấu chỉ hữu hiệu nhìn thấy, nghe thấy, chạm tới được!

Tình yêu vợ chồng và tình yêu gia đình không chỉ là một hình ảnh của tình yêu của Đức Kitô và của Hội Thánh, nhưng là chính thực tại sinh động của tình yêu ấy, một thực tại mang tính bí tích. “Đôi vợ chồng thuộc về nhau, đó là một hình ảnh thực (vì là dấu chỉ bí tích) của mối quan hệ của Đức Kitô với Hội Thánh của Người” (FC 13). Điều đó có nghĩa là tình yêu vợ chồng và tình mẫu/phụ tử của đôi vợ chồng hàm ẩn trong đó một thực tại vượt xa chính bản thân họ vô hạn, đó là “dấu chỉ hữu hình của chính tình yêu Thiên Chúa” (FC 14).

Với bí tích hôn phối, đôi vợ chồng nhận ra ân sủng của tình yêu của họ, nhận ra Đấng là Tác Giả, là Hôn Phu của tình yêu của họ, như là cứu cánh siêu việt của tình yêu ấy. Họ khám phá ra mình ở trong một kế hoạch thần linh không chỉ liên hệ đến tương lai của họ nhưng còn liên hệ đến tương lai của nhân loại và cả tương lai của Thiên Chúa. Việc đôi vợ chồng hiến thân hoàn toàn cho nhau hàm ẩn trong đó một sự mở ra với một kẻ thứ ba, là đứa con, nhưng cũng hàm ẩn cách sâu xa hơn sự mở ngỏ ra trước một ngôi vị thứ ba thần linh, là Chúa Thánh Thần, được hiến ban cho đôi bạn như hoa trái tình yêu họ dành cho nhau. Thánh Thần Thiên Chúa là chính sự phong nhiêu của Tình Yêu nội tại Ba Ngôi đã thành một ngôi vị, chính Ngài cũng hoàn tất sự hợp nhất của đôi vợ chồng bằng một ân ban, là một con người và là sự nối kết họ lại với nhau. Thế nên, có một sự phong nhiêu thiêng liêng của hôn nhân Kitô giáo, vốn luôn đi kèm với tình yêu hôn nhân đích thực, là khả năng cụ thể sáng tạo một con người mới. Sự phong nhiêu thiêng liêng này làm chứng Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ gia đình và nhập thể trong lịch sử nhân loại qua Giáo hội tại gia.

Một khi đã trở thành “icôn” (biểu tượng bí tích) trong trật tự “tạo thành mới” nhờ công trình cứu độ của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, gia đình muốn nói rằng sự hiệp thông tình yêu của đôi bạn Kitô hữu là một mạc khải và hiện thực sống động của sự hiệp thông vĩnh cửu của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.

Tham dự vào sự hiệp thông Ba Ngôi là nền tảng cuối cùng của gia đình xét như một thực tại có tính Hội thánh.

Thế nhưng, trên bình diện hiện sinh, “Hội thánh tại gia”, cũng đồng thời gồm những con người mỏng giòn và tội lỗi, sẽ không thể thể hiện mình như là một bí tích của Tình yêu tinh tuyền nếu không siêng năng tham dự các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Bí tích tuyệt đỉnh, và Bí tích Hòa Giải.

2. Tội lỗi nghịch cùng bí tích hôn nhân

Tội lỗi là gì? Tội là từ chối Thiên Chúa Yahvê không chấp nhận Ngài là Chúa của Giao ước. Hình thức rõ nhất của tội lỗi là thờ ngẫu thần, giới răn cấm đầu tiên của Thập Giới, mà các tiên tri thường xuyên trách mắng dân và đôi khi được coi như là nguồn gốc của tất cả mọi tội (Xh 20,3; Am 2,4 tt; Kn 14,22-31; Rm 1,18.32). Thánh Kinh, khi đồng hóa lòng ham muốn (concupiscentia) với ngẫu tượng, cho thấy ở chiều sâu đó chính là tội thiếu “đức tin” làm hư hỏng mối quan hệ của con người với Thiên Chúa, không trung thành với Giao ước.

Tội lỗi hiển lộ trước hết như một sự thiếu vắng “lòng kính sợ Chúa”, xúc phạm đến tình yêu của Ngài, như một “hành vi chống lại Thiên Chúa” (Tv 51,5-6). Tội lỗi làm “gãy vỡ mối quan hệ cá nhân giữa con người với Thiên Chúa, chứ không đơn thuần chỉ là vi phạm một trật tự luân lí hay xã hội, lấy mất đi sự hiệp thông với Chúa, và như thế giao phó số phận con người vào trong tay họ, phó mặc họ cho chính họ định đoạt. Tội lỗi của đôi vợ chồng đầu tiên, nguyên mẫu của mọi cặp vợ chồng khác, là chính sự từ chối Giao ước.

1/ “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Họ thưa với Người: “Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?”. Đức Giêsu bảo họ: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,6-8).

Câu trả lời của Đức Giêsu chạm tới điều cốt yếu nhất: phải khôi phục lại quan hệ với Thiên Chúa và với anh em. Vì “ma quỉ, kẻ đã dụ dỗ con người ngay từ đầu, đã chia rẽ họ với Thiên Chúa, chia rẽ con người với nhau” (San Massimo Confessore, Epist.2 PG 91, 96-397). Con người phạm tội đã chống lại Thiên Chúa, từ khước quyền uy tuyệt đối của Ngài trên cuộc sống mình, chối từ tình yêu trọn vẹn và không chịu vâng phục Ngài.

Lời rao giảng của Đức Giêsu nhằm đặt con người tội nhân đối diện với toàn thể thực tại, là Thiên Chúa, và mời gọi họ trở lại hiệp thông hoàn toàn với Ngài. Rao giảng về ơn tha thứ và lòng thương xót Chúa Cha nhằm tới mục đích này. Sứ mạng của Chúa Giêsu cốt yếu hệ tại ở việc chiến thắng tội lỗi trong xác thịt, để giao hòa thế gian lại với Thiên Chúa và giải thoát con người khỏi tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.

Thực tại tội lỗi trong đời sống hôn nhân Kitô giáo xuất phát từ sự chối bỏ bí tích, chối bỏ tình yêu bí tích ơn gọi của đôi vợ chồng Kitô hữu. Tự phân ly điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người cũng chối bỏ uy quyền, tình yêu, không vâng phục Thiên Chúa.

2/ “Ngươi chớ ngoại tình”

“Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9). “… có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.” (Mt 19,12).

Nước Trời đòi hỏi những người tín hữu dấn thân đi xa hơn giới răn cấm ngoại tình. Họ cần một con tim khao khát sự trong sạch. Đức Giêsu nói: “Thầy bảo thật cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Con người, sau khi nguyên tổ sa ngã đã mất sự nguyên tuyền nguyên thủy, cũng đánh mất luôn ý nghĩa của thân xác vốn được dựng nên để sống hiệp thông các ngôi vị. Con người làm hư hỏng ngôn ngữ quà tặng của thân xác, khi hạ thấp thân xác xuống chỉ còn ham muốn chiếm hữu ích kỷ chỉ để thỏa mãn một nhu cầu tính dục. Như thế, tha nhân bị đối xử chỉ như một đồ vật để thỏa mãn ham muốn mất trật tự của thân xác. Đức Giêsu lên án sự ham muốn xác thịt này đâm rễ trong lòng con người, làm nguy hại đến sự hiệp thông ngôi vị.

3/ Tội lỗi của đôi bạn Kitô hữu mâu thuẫn với ơn gọi sống tình yêu bí tích của họ. Yếu tính sâu xa của tội lỗi họ, hôm nay cũng như từ muôn đời, là chối bỏ Giao ước với Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là bỏ quên hay xem nhẹ chiều kích đối thần của hôn nhân, là đánh mất cảm thức về sự hiện diện của Chúa Kitô ở trung tâm của tương quan vợ chồng và dửng dưng với Chúa Thánh Thần, Đấng hợp tác thâm sâu với tình yêu của họ. Một hình thức đầu tiên của tội này, tội nghịch cùng bí tích, là từ chối không chịu đón nhận bí tích khi hai người đã rửa tội quyết định kết hợp đời sống với nhau mà không cưới xin, hoặc khi họ quyết định chỉ làm đám cưới dân sự. Sự từ chối bí tích cũng có thể được biểu lộ qua sự chểnh mảng hoặc hoàn toàn không còn đến với Bí tích Hòa Giải và Bí tích Thánh Thể nữa.

3. Sám hối trở về với sự phong nhiêu (fertility) bí tích của hôn nhân

Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống hiệp thông với Ngài. Nhưng con người tội nhân, kẻ đã “bị bán làm tôi cho tội lỗi” (Rm 7,14), đã tự ý chấp nhận mang lấy ách đam mê tội tình. Thế nên, muốn đáp lại tiếng mời gọi của Thiên Chúa con người tội lỗi của chúng ta phải làm một cuộc “trở lại” (epistréphein), một cuộc hoán cải suốt cuộc đời với tâm tình sám hối ăn năn (metanoéin). Nghĩa là, vừa có sự thay đổi đời sống thực tế bên ngoài vừa có một sự biến chuyển nội tâm. Chúa Giêsu mời gọi “hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 1,15). Lời mời gọi này gồm cả hai mặt ấy. Phép Rửa tội ghi nhận sự thống hối ăn năn và đã ghi dấu một lần dứt khoát ơn tha tội. Thế nhưng, thân phận con người dù đã được rửa tội vẫn mỏng giòn, vẫn có khả năng sa ngã phạm tội. Bởi thế, họ cần một bí tích và nhân đức thống hối như một sự kéo dài ơn trở lại của bí tích rửa tội.

Đối với đôi bạn Kitô hữu, sự sám hối trở về, phải vừa thực tế vừa thiêng liêng, buộc họ phải thực hiện những chọn lựa đạo đức phù hợp với ý muốn của Đức Kitô và trong sự hiệp thông trong Thánh Thần. Ngày nay, những mục tiêu riêng của đời hôn nhân (hợp nhất, trung thành và mở ngỏ cho sự sống) cần phải được sống đến mức làm nổi bật sự ưu việt của tính bí tích, tức là đôi bạn và gia đình của họ phải sống làm sao chiếu tỏa ánh rạng ngời thiêng liêng. Họ không chỉ là một cộng đoàn “được cứu độ” đón nhận tình yêu của Chúa Kitô, mà còn hơn thế nữa, được gọi để chuyển thông tình yêu của Chúa Kitô đến cho anh em mình nghĩa là trở thành một cộng đoàn “cứu độ”. Một gia đình truyền giáo.

Sự sám hối của đôi bạn trở về với tình yêu Chúa Kitô đồng thời giả thiết đôi bạn phải cởi mở cụ thể và thường xuyên đối với mọi tác động của Chúa Thánh Thần, vì thiếu Ngài sẽ không thể có sự thánh thiện, cũng như sự hiệp thông và truyền giáo. “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14). Sự phong nhiêu (fertility) mang tính bí tích và truyền giáo của đôi bạn và gia đình là công trình của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là hiệu quả của một thái độ duy ý chí, duy luân lý hay do hoạt động mục vụ ráo riết. Chúa Thánh Thần là nhà nghệ sĩ đại tài nắn đúc đôi bạn Kitô hữu theo tình yêu Chúa Kitô, vị Hôn Phu của Hội Thánh. Chính Ngài làm cho đôi bạn trở nên một tặng phẩm của sự phong nhiêu của Ngài, để gia đình trở nên đền thánh và biểu tượng bí tích (icône) rạng rỡ của Ba Ngôi Rất Thánh.

Kinh nghiệm sự hiệp thông trong Thánh Thần thường kèm theo một niềm vui thiêng liêng sâu xa. Đó là dấu hiệu của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và là nguồn mạch của sự phong nhiêu thiêng liêng của đôi vợ chồng Kitô hữu. Đôi vợ chồng trao hiến cho nhau chính bản thân mỗi người, chính điều đó phát sinh niềm vui, bởi không chỉ vì giống hình ảnh Thiên Chúa, mà còn vì nó thực sự và khiêm tốn hàm chứa “Tặng Phẩm” thần linh: Chúa Thánh Thần, nơi bản thân Ngài là sự sống luôn sum sê, Tình yêu luôn dư tràn ra mãi1. Sự ân cần, lòng quảng đại, niềm vui thỏa phát sinh từ đó. Tặng phẩm, là đôi vợ chồng, khi ấy chiếu sáng lên và làm hiển lộ sự hiện diện của Đấng Ban Tặng Sự Sống.

Nếu niềm vui của tặng phẩm là nguồn mạch chiếu sáng ánh rạng ngời mang tính bí tích, thì điều ngược lại làm khô cằn giao ước hôn nhân. Tội lười nhác như là một nỗi buồn và bất bình trái ngược với sự nhiệt thành của tình yêu, một tình yêu do Thần Khí ban tặng. Sự lười lĩnh, uể oải trong đời sống vợ chồng, còn được gọi là “con quỉ giữa ban trưa”, có thể biểu hiện qua một vài dấu hiệu như chỉ biết nhìn vào mình, hay buồn chán, thiếu kiên định, chỉ thích tìm của mới lạ, bỏ bê gia đình, thiếu quan tâm đến con cái, v.v… Đôi bạn cần chiến thắng tật xấu này bằng sự cầu nguyện, thống hối và hy sinh khổ chế. Đó không khác gì triều thiên của các bậc tử đạo. Tình yêu toàn hảo là tình yêu chịu đóng đinh, nhưng đồng thời cũng là niềm vui hoàn hảo theo thánh Phanxicô Assisi.

Cuộc chiến đấu của đôi bạn để dành được sự phong nhiêu thiêng liêng trong Đức Kitô phải đi ngang qua thử thách của thời gian, sự nhẫn nại và sự trung thành thực tế. Yêu một người là cho người ấy thời gian, cho không giới hạn, vì giá trị vô hạn của một con người, một nhân vị, vượt trên sự hữu hạn của thời gian. Một tình yêu triệt để vững bền như thế là một ánh quang phản chiếu tình yêu Thiên Chúa chiến thắng sự chết trong Đức Giêsu Kitô.

Chú thích:
[1] VON BALTHASAR, Teologica, III: Lo Spirito della verità, Milano 1992, 131.


Ban Mục vụ Gia đình TGP Sài Gòn
 
Đồng hương giáo xứ chính tòa Phú Cam, Huế hỗ trợ các gia đình khó khăn
Trương Trí
16:39 04/04/2009
ĐỒNG HƯƠNG GIÁO XỨ CHÍNH TÒA PHỦ CAM XA QUÊ HỖ TRỢ CÁC GIA ĐÌNH KHÓ KHĂN.

Chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh 2009, chiều ngày 4-4-2009, Giáo xứ Chính tòa Phủ Cam đã phát gạo tình thương cho 117 hộ gia đình khó khăn thiếu thốn. Với số gạo từ 10-16 kg gạo mỗi hộ.

Trước khi phát gạo, linh mục Antôn Dương Quỳnh, Quản xứ Chính tòa đã thay mặt bà con cảm ơn các ân nhân đồng hương hải ngoại. Ngài nhấn mạnh các ân nhân nầy không giàu có, nhưng luôn hướng về bà con giáo xứ đang sống trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, nhất là những người già cả neo đơn. Linh mục Quản xứ nhắc nhở bà con luôn tri ân và đền đáp bằng lời cầu nguyện mỗi ngày cho các ân nhân.

Ông Nguyễn Đình Lục, Chủ tịch HĐGX ôn lại truyền thống tốt đẹp lá lành đùm lá rách của Giáo xứ trong gần 20 năm qua. Hũ gạo tình thương đã giải quyết thiếu thốn hàng tháng cho trên 120 người. Dần dần, khi kinh tế khá hơn, một vài người đã rút tên để nhường cho người khác khó khăn hơn. Đối với Giáo xứ Chính tòa với gần 6000 giáo dân, số người nghèo khó như vậy không phải là đông, nhưng nghĩa cử cao đẹp đã nói lên tình bác ái yêu thương của bà con đồng hương xa quê, luôn thương nhớ và hướng về bà con và Giáo xứ mình.

Cũng trong dịp đại lễ Phục Sinh này, một ân nhân của Giáo xứ đã dâng cúng một khoản kinh phí 20 triệu đồng để lát gạch con đường rước kiệu ở công viên thánh Giuse.

Đại diện của bà con nhận quà đã đứng lên phát biểu lời cảm ơn các ân nhân, Cha Quản xứ, HĐGX và Ban Văn hóa Xã hội giáo xứ Chính tòa đã luôn nhớ đến hoàn cảnh của các gia đình khó khăn, bằng lời kêu gọi trợ giúp vật chất và bằng lời cầu nguyện.

Bà con ra về trong niềm phấn khởi sau khi cùng nhau chia sẻ bánh ngọt trong tình thân mật.



 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Một phiên toà có nhiều điều lạ
J.B. Nguyễn Hữu Vinh
00:51 04/04/2009
MỘT PHIÊN TOÀ CÓ NHIỀU ĐIỀU LẠ

Phiên toà phúc thẩm xử các giáo dân Thái Hà đã trôi qua 1 tuần nhưng dư âm của nó vẫn còn vang xa. Không có may mắn được hoà mình vào dòng người tuôn chảy về Hà Đông hôm đó, dù cả ngày “ngồi chơi xơi nước” cách đó không xa - là một thiệt thòi của bản thân tôi.

Không thể dự phiên toà “công khai”

Khi 8 giáo dân Thái Hà một lần nữa phải ra trước vành móng ngựa, đồng đạo của tôi và những người quan tâm đến vụ án từ mọi miền đất nước kéo về tràn ngập để chứng kiến một “phiên toà công khai”. Trước mắt họ, là hàng rào sắt, là cảnh sát các loại và những phương tiện khủng khiếp mới nhìn qua đã đủ để những người yếu bóng vía phải rụng rời chân tay.

Đúng giờ khai mạc phiên toà cũng là giờ tôi “được” các “đồng chí” ở Sở Công an Hà Nội triệu tập lên 87 Trần Hưng Đạo - Hà Nội, thay vì số 6 Quang Trung – Hà Đông như mấy lần trước, để hỏi thăm đủ thứ chuyện không đầu không cuối.

Tôi thấy thật buồn cười khi nghĩ về phiên toà “công khai” đang xử các giáo dân trong kia và cái cách xử sự này, nó không minh bạch và… hèn, biểu lộ sự sợ hãi mơ hồ nào đó.

Đến khi tôi được rời sở Công an thì phiên toà ở Hà Đông cũng kết thúc. Sau đó, tôi mới được biết nhiều giáo dân cũng đã được cán bộ “quan tâm”, gọi lên dặn dò, khuyên nhủ không nên đến toà.

Phiên toà đã qua nhưng đã để lại trong mỗi chúng ta, dù có mặt tại Hà Đông trong ngày 27/3 hay không, nhiều suy nghĩ.

Đối với tôi – đây là phiên toà hiếm có trong lịch sử đất nước, ít nhất là từ khi tôi chào đời và được sống trong “thiên đường xã hội chủ nghĩa” đến nay đã gần nửa thế kỷ.

Phiên toà có nhiều điều lạ

Đây là phiên toà thứ hai (sau phiên toà sơ thẩm xử chính 8 giáo dân này) để nhà nước có dịp phô diễn các đạo quân cảnh sát, binh hùng, tướng mạnh, phương tiện vũ khí đầy đủ và đội quân cán bộ hùng hậu được huy động.

Nhìn cảnh bày binh bố trận như trên, câu nói: Lực lượng vũ trang của chúng ta “kẻ thù nào cũng đánh thắng” là hoàn toàn có cơ sở.

Ông Lê Công Phụng, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao trả lời báo chí nước ngoài có nói đại ý rằng chúng ta là một nước nhỏ, sống bên nước lớn nên nhiều khó khăn, ngay cả việc đưa vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa ra Liên Hợp Quốc cũng cần suy xét… Có thể ông có lý?

Có lẽ vì vậy mà cứ mỗi lần có vấn đề với Trung Quốc trong tranh chấp lãnh hải, lãnh thổ… thì Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng chỉ “ra tuyên bố: Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử về chủ quyền…” – Và chỉ có thế mà thôi.

Khi các sinh viên, thanh niên biểu tình biểu thị lòng yêu nước trước ĐSQ Trung Quốc bị ngăn cản, bị trấn áp… có người đã giải thích “rất có lý”: “Đất nước mình yếu, lại nghèo nên không thể đối đầu với Trung Quốc, đành phải làm thế để giữ hoà khí mà thôi”.

Nhưng sau khi xem hình ảnh phiên toà xử các giáo dân, tôi cho rằng ông Phụng và những người kia đã không hiểu được sức mạnh của nhà nước nên mới nói bừa.

Cụ thể: Một phiên toà đơn giản, 8 giáo dân tay không, đập phá một đoạn tường rào cũ (cơ quan nhà nước thẩm định không tới 500.000 đồng/người để cấu thành tội “phá hoại tài sản” - theo luật). Một phiên toà với 8 công dân Việt Nam, án nặng nhất cũng chỉ là “án treo, cảnh cáo” mà còn chống án kêu oan, nghĩa là tội chẳng có gì ghê gớm bằng tội cướp nước và bán nước.

Vậy mà khi đưa ra xét xử, hàng hà sa số cảnh sát, cán bộ từ phường, xã quận huyện đến thành phố… được điều động, các loại phương tiện, vũ khí, chó nghiệp vụ, máy móc… được đưa ra trong tư thế “sẵn sàng chiến đấu”. Chưa hết, phiên toà được mở ngày 27, nhưng trước đó, báo chí đã mở đường tuyên truyền tấn công dồn dập, đồng loạt kết tội. Nhân dân được “quán triệt” phải cảnh giác, cán bộ được huy động vận động giáo dân không đến Toà, trường học trong khu vực bị đóng cửa, cửa hàng, chợ búa bị tạm ngừng.

Với công dân của mình còn như vậy, thì với quân thù, chắc chắn sức mạnh được phô diễn sẽ gấp bội phần? Đâu phải chúng ta thiếu sức mạnh của vũ khí và phương tiện cũng như con người cho việc bảo vệ lãnh hải và lãnh thổ?

Vậy thì không thể nói rằng đất nước chúng ta còn nghèo. Người nào nói vậy thì chẳng qua họ thiếu hiểu biết.

Cũng vì thế, chúng ta có quyền cao giọng nói với các thế lực thù địch bành trướng xâm lược rằng: “Chúng ta có đủ khả năng về con người, phương tiện và kinh tế… để đủ sức làm cho chúng kinh hồn bạt vía. Cứ đến Hà Đông mà xem, chỉ với mấy công dân VN và cái án con muỗi mà nhà nước còn công phu tốn kém thế này, thì kẻ thù của đất nước chỉ có nước… biến. Nếu không được mời, thì bọn bành trướng đừng mơ đặt chân lên đất nước này”.

Điều lạ thứ hai là cách xét xử của Toà án Nhân dân TP Hà Nội. Thông thường, việc tranh luận trước toà của bị cáo, luật sư… là điều hết sức cần thiết để làm sáng tỏ vấn đề có tội hay không có tội, cơ sở nào để cấu thành tội trạng đó… cũng như hàng loạt vấn đề được công khai xem xét để phù hợp với nghĩa của từ “tranh tụng”.

Tại phiên toà này, phần tranh luận, bào chữa của Luật sư bị cắt thì lấy gì để làm sáng tỏ vấn đề đang xét xử? Bởi phần biện hộ đó, liên quan đến cơ sở của những hành động được nhà nước cho là “hành vi phạm tội” của các bị cáo: Nguồn gốc đất đai của mảnh đất tranh chấp ở Thái Hà, tính pháp lý của bức tường bị đập kia ở đâu?

Tôi đọc trên báo chí nhà nước có đoạn này: “…70 năm về trước (từ 13-17/8/1937), Người (Hồ Chí Minh) đã đến nơi này gặp lãnh tụ của phong trào Quốc tế Cộng sản Dimitrop để nhận chỉ thị về cách mạng Việt Nam. Trong giây phút chia tay, lãnh tụ Dimitrop nắm tay Bác xúc động nói: “Chúc anh may mắn, hãy dựa hẳn vào quần chúng nhân dân, quần chúng có nhiều cái đáng cho ta phải học hỏi””. Nguồn: http://suckhoedoisong.vn/2537p0c15/dong-au-ky-su.htm

Hai nhân vật được nói tới trong đoạn trên đã nhắc tôi nhớ đến hai phiên toà: Phiên toà của Phát xít Hitle xét xử Đimitrop – lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản - về tội “đốt nhà quốc hội” và phiên toà của chính quyền HongKong xử Tống Văn Sơ – tức Hồ Chí Minh về tội “là Cộng sản và tay sai Liên Xô”. Đây là vụ án được coi là “châu chấu đá voi”.

Cả hai phiên toà, nhờ tranh tụng thật sự tại phiên toà được thoải mái, đúng theo luật pháp đã quy định mà Đimitrop được tuyên vô tội và Tống Văn Sơ đã không bị kết tội mà chỉ bị trục xuất. Dù thực chất thì Tống Văn Sơ chính là Cộng sản và quan toà HongKong cũng biết điều đó. Nhưng sự tranh tụng tại Toà được công nhận và tôn trọng luật pháp nên Tống Văn Sơ đã thoát khỏi vụ án này.

Trong phiên toà Tống Văn Sơ, có những đoạn như sau: “Ông ta đặt ra trước mặt Tống Văn Sơ một tấm hình chụp nhà cách mạng Nguyễn ái Quốc đầu đội mũ dạ cứng hình quả dưa, dưới ảnh có đề Đồng chí Nguyễn Ái Quốc bằng chữ in. W.Thomson chắc mẩm rằng, lần này, ông Tống hết đường chối cãi. Tống Văn Sơ cầm bức ảnh lên ngắm nghía một thoáng rồi trả lời: “Tôi thấy cái ảnh này trông giống tôi!” Rồi ông Tống lại nói thêm: “Và có thể là tôi”!

Nghe được câu đó, W.Thomson mừng rỡ như bắt được vàng, chưa kịp nói câu gì thì Tống Văn Sơ lại thản nhiên nói tiếp: - Nhưng chưa bao giờ tôi đội cái mũ này!

Kẻ hỏi cung ớ miệng, không nói được câu gì, chỉ còn cách giơ hai tay lên đầu, mặt nhăn nhó tựa như chó cắn phải mướp nóng!”

Qua đó, chúng ta thấy rằng ở những phiên toà kia của bọn phát xít và đế quốc thực dân, quyền bào chữa được đã được tôn trọng, luận cứ bào chữa tại toà được lấy làm căn cứ để kết tội chứ không theo một ý muốn, mệnh lệnh hoặc chỉ thị nào. Tóm lại, ở đó không có loại “án bỏ túi”, những vụ án đó, không có sự lãnh đạo của một đảng phái nào, pháp luật được thượng tôn.

Còn ở vụ án 8 giáo dân Thái Hà - phiên toà ở thế kỷ 21 tại Việt Nam, một đất nước “dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản” - Luật sư Lê Trần Luật đã bị ngăn cản, khống chế bằng mọi cách. Lời bào chữa của các luật sư còn lại bị cắt ngang. Tang vật phạm tội không có, hai đĩa hình được sử dụng để kết tội giáo dân đã bị phủ nhận tính hợp pháp. Không hiểu hai đĩa hình này có giá trị pháp lý bằng tấm hình của Tống Văn Sơ trong phiên toà HongKong hay không?

Toà đã bỏ qua tất cả để kết tội các giáo dân.

Nói rằng “phiên toà lạ” là khi chúng ta đem so sánh với phiên toà của bọn phát xít, thực dân đế quốc cách đây cả gần thế kỷ, còn khi xem những phiên toà như phiên sơ thẩm và phúc thẩm với 8 giáo dân Thái Hà này, người ta cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Câu khẩu hiệu “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật” vẫn nhan nhản, nhưng khẩu hiệu chỉ là khẩu hiệu mà thôi.

Điều lạ thứ ba, phiên toà đã được sự chú ý và tập trung đông đảo lực lượng quần chúng nhất kể từ xưa tới nay. Hàng ngàn người từ muôn nơi, bất chấp trở ngại, khó khăn gian khổ và nguy hiểm đã đến toà như đi trẩy hội, bị cáo đến toà với trang phục và ánh mắt rạng ngời như đi đến đài vinh quang…

Đó là một sự thật không thể chối cãi. Dù báo chí nhà nước đã cố công tô vẽ rằng: có những thế lực, những kẻ chủ mưu lợi dụng lòng tin của giáo dân để lôi kéo họ đến toà và đòi “nghiêm trị”. Xin thưa rằng: Lòng tin người dân đâu dễ lợi dụng đến thế? Trên các báo cáo và truyền thông nhà nước luôn có câu: “Nhân dân ta tuyệt đối tin tưởng vào Đảng và nhà nước”. Vậy thì làm sao cả hàng ngàn người dân đã có “lòng tin tuyệt đối” kia lại dễ bị lợi dụng đến thế để kéo đến phiên toà mà hô vang “Vô tội, vô tội, trả lại Công lý, Sự thật”?.

Cũng xin đừng mập mờ rằng họ chỉ là những nông dân nghèo, ít nhận thức, ít học, chỉ có lòng tin mù quáng mà có thể khẳng định rằng họ là những người dân hiểu biết pháp luật, họ hiểu họ có quyền gì.

Nếu lòng tin của nhân dân bị lợi dụng như đã từng bị lợi dụng trong quá khứ, thì khi “cái kim trong bọc đã lòi ra” lòng tin sẽ biến mất và thay vào đó là sự uất hận và vô cảm. Điều đó đã có nhiều thực tế để chứng minh. Nhà thơ Bùi Minh Quốc - nhà thơ mà cuộc đời của ông đã từng gắn liền với huyền thoại về sự hy sinh của văn nghệ sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ đã từng viết: “Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt. Lại đúc nên chính cỗ máy này”.

Điều lạ thứ tư có thể kể đến là lần đầu tiên, những tiếng kêu thét đòi “Sự thật, Công lý” được đám quần chúng hô vang như một đòi hỏi chính đáng và là một nhu cầu bức thiết cho xã hội được phát triển, đất nước được tiến bộ. Bởi không có một đất nước nào có thể phát triển nếu không dựa vào Sự thật, Công lý. Những lời đó đã được hô vang trên các con đường Hà Đông, trước sở Công an Hà Nội và Thị uỷ Hà Đông.

Điều lạ nữa chắc các cán bộ và công an có mặt cũng như những người quan sát từ xa phiên toà này phải thừa nhận là: hàng ngàn con người đã đến toà, đứng cả ngày dưới nắng nóng. Họ đến từ muôn phương, không quen biết lẫn nhau, không cùng giọng nói và quê hương, khác biệt về trình độ và nhận thức… nhưng đã không có bất cứ một sự xô xát, cãi vã hay hiềm khích nào xảy ra. Ngược lại, họ đã bên nhau đoàn kết, hiệp thông và chia sẻ. Họ đến dự phiên toà, đồng cảm với các nạn nhân mà có thể họ chưa hề biết đó là ai ngoài mỗi một thông tin rằng những bị cáo kia là giáo dân.

Điều lạ lùng hơn nữa là hệ thống truyền thông đã tốn công sức, tiền của, giấy mực để nhất loạt đòi nghiêm trị “kẻ chủ mưu, xui bẩy giáo dân đập tường”. Nhưng khi bị cáo đã khai ra kẻ chủ mưu thì Toà lại lờ đi và không nghiêm trị, ít nhất là trong bản án.

Tại toà, bị cáo Nguyễn Đắc Hùng khi được hỏi: “Có ai xúi giục đập tường rào không?” đã trả lời: “Có”. Toà hỏi tiếp “Ai đã xúi giục?” thì bị cáo đã trả lời rõ ràng: “Chúa”.

Nhưng “kẻ chủ mưu” này đã không bị nhắc nhở, cảnh cáo hay bị nghiêm trị, phạt tù…

Mèo tha miếng thịt thì đòi…

Toà án đã bằng mọi cách để kết tội các giáo dân là “vi phạm pháp luật”, tuyên y án bản án rất nhỏ “tù án treo, cải tạo không giam giữ và cảnh cáo”... Để kết được tội các giáo dân này, nhà nước đã tốn một khoản không thể gọi là nhỏ về tiền bạc, của cải vật chất, sức người… trong khi kinh tế đang suy thoái.

Tổng kết lại thì nhà nước đã đánh đổi cái rất lớn để lấy cái rất nhỏ xét về phương diện vật chất. Đó là chưa nói đến lòng dân, những người đến dự phiên toà dù là Công giáo cũng như không Công giáo, hay chỉ là những người qua lại trên con đường huyết mạch nối Thủ đô với Tây Bắc hôm đó.

Hẳn qua phiên sơ thẩm, nhà nước thừa biết rằng mở phiên toà này nhằm mục đích răn đe thì đã không có tác dụng.

Điều này nói lên một sự thật không dễ nghe: Nhà nước đã không hiểu lòng dân. Nhà nước đã thiếu thông tin và lòng tin nghiêm trọng về những công dân hiền lành và nhẫn nhục này. Và đối lại, lòng tin của những người dân này cũng đã tiêu tan khi toà đã bất chấp tất cả để cố tình kết tội các giáo dân.

Nếu không nghiêm trọng hoá vấn đề, cứ xử theo luật pháp bình thường, kể cả tuyên án vô tội khi không có đủ bằng chứng kết tội họ, chấp nhận đền bù tí chút vật chất, tinh thần cho những giáo dân đã bị bắt bớ, giam cầm, chấp nhận “nhìn thẳng vào sự thật”, thì tôi tin rằng mọi việc sẽ hết sức dễ dàng và đơn giản. Người Công giáo xưa nay vẫn được giáo dục kỹ càng về sự tha thứ, phải tha thứ cho bất cứ ai với một lẽ đời đương nhiên là ai cũng có thể có những sai lầm và cần được tha thứ.

Nếu được như vậy, giáo dân từ muôn nơi đã không phải bỏ cả gia đình, công việc và cuộc sống của mình, bất chấp tất cả và chi phí một khoản tiền bạc, sức lực, của cải… để đến dự phiên toà.

Những vật chất đó đã phải tiêu phí, cũng là vật chất của cải trong xã hội Việt Nam. Trong khi đất nước đang rất cần thắt lưng buộc bụng vượt qua cơn khủng hoảng.

Nhìn hình ảnh hàng ngàn người, trẻ già, trai gái cùng đồng hành vượt cả chục cây số bằng phương tiện duy nhất là đôi chân, tôi hiểu về ước vọng và khát khao của họ với Sự thật, Công lý lớn lao đến mức nào. Tôi cũng hiểu sự hiệp thông và tình cảm họ dành cho giáo dân, đồng đạo của mình thật nồng hậu và to lớn, tình cảm đó đã vượt qua tất cả những khó khăn về thể lý để quyết tâm đi đến cùng trên con đường tìm kiếm Công lý, Sự thật.

Tất cả những hình ảnh đó nói lên: Công lý, Sự thật và Chính nghĩa đang thuộc về đâu. Cách hành xử với một vụ án “con kiến” này đã làm nhiều người trong xã hội phải suy nghĩ: Nguyên do nào có sự khác thường đến thế? Điều này có thể xảy ra hay không nếu họ không phải là giáo dân?

Nói đến đây, thiết nghĩ cần nhắc lại câu nói của chính Đimitrop, lãnh tụ cao nhất của Cộng sản quốc tế đã từng dặn dò Hồ Chí Minh “…hãy dựa hẳn vào quần chúng nhân dân, quần chúng có nhiều cái đáng cho ta phải học hỏi”. Không hiểu những cán bộ đã “thấm nhuần đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh” qua bao lớp học triền miên, tốn kém vừa qua có học và nhớ câu nói này? Không hiểu những người quản lý các tờ báo đã nghĩ gì khi có những bài viết xuyên tạc nhằm đánh vào sự thật, nhằm làm chia rẽ tình đoàn kết trong lòng dân tộc, trong nội bộ nhân dân, bôi xấu công dân và nhục mạ một bộ phận lớn cộng đồng dân tộc, làm suy yếu đi tình đoàn kết toàn đất nước trước hoạ xâm lăng đang càng ngày càng cận kề?

Với những người Công giáo, cả hàng giáo phẩm và tu sĩ, chúng ta nghĩ gì trước hàng ngàn con người đứng thẳng và tươi cười trước hàng rào sắt, chó, cảnh sát và một rừng thiết bị, xe pháo, dùi cui, hơi cay… khi nhìn lại bản thân mình. Trong khi chúng ta có nghĩa vụ hiệp thông với mọi thành phần, mọi cá nhân trong Giáo hội, tất cả đều có vai trò là Ngôn sứ của Thiên Chúa, có nhiệm vụ phải bênh vực lẽ phải, sự công chính và những kẻ yếu hèn bị áp bức dù họ có trong giáo hội hay không. Thiết nghĩ không ai có quyền dửng dưng.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhiều Hồng ân, được làm con cái Chúa. Ngài đã ủi an chúng ta trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện sống và cũng đòi hỏi chúng ta có nghĩa vụ đối với đồng đạo, đồng loại của mình. “Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”. (Thư Côrintô 2 – Chương 1).

Sự vô cảm, sự im lặng nhiều khi cũng đồng nghĩa với sự phản bội, mà trên đời này chắc sự phản bội là khó được tha thứ nhất, theo thiển ý của cá nhân tôi.

Hà Nội, một tuần sau ngày xét xử sơ thẩm 8 giáo dân Thái Hà 4/4/2009.

J.B Nguyễn Hữu Vinh
 
Nan giải: bài toán hung thần trên đường phố Việt Nam
Anmai, CSsR
03:41 04/04/2009
NAN GIẢI BÀI TOÁN HUNG THẦN TRÊN ĐƯỜNG PHỐ VIỆT NAM!

Sáng ngày 26 tháng 3 năm 2009, vụ tai nạn giao thông thảm khốc đã làm đau lòng không chỉ là người thân, gia đình nạn nhân mà còn biết bao nhiêu con người có tình, có nghĩa với những con người bị nạn. Tai nạn xảy ra với chiếc xe buýt chạy tuyến Hưng Long - Chợ Lớn đổ dốc cầu Nhị Thiên Đường đến vòng xoay Phạm Thế Hiển (P.6, Q.8, TP.HCM) thay vì lưu thông theo chiều vòng xoay đúng Luật Giao thông, tài xế xe buýt đã đi ngược lại và đụng thẳng vào một xe gắn máy. Tai nạn đã để lại một nỗi đau, một nỗi mất mát lớn vô cùng mà không có gì có thể bù đắp được với gia đình nạn nhân.

Đây không phải là tai nạn duy nhất hay là tai nạn cuối cùng của những “hung thần” xe buýt. Và cũng chẳng phải chỉ có xe buýt mới gây cho những ai tham gia giao thông những nỗi ám ảnh kinh hoàng. Còn nhiều và còn nhiều hung thần nữa ngày đêm de doạ những người tham gia giao thông.

Taxi là một đại hung thần, bất kể phía trước, phía sau hay bên hông có người tham gia giao thông, miễn có khách gọi là tấp ngay vào để rước khách là được. Vì lẽ nếu chậm một chút thì mất khách và mất khách thì lỗ “sở hụi”. Nhiều phen ra đường tôi phải thót tim với những hung thần taxi vô lương. Những tài xế ấy chỉ biết có khách và có tiền, còn mạng người thì chẳng hề bận tâm. Đau lòng lắm khi thấy các hung thần tranh giành khách trên đường phố. Họ đánh võng và cứ đạp ga thoải mái mà chẳng hề bận tâm những chiếc xe gắn máy cạnh bên.

Ra đường, thử hỏi có ai không phải “đối mặt” với những chiếc xe container khủng hoảng. Nhìn những chiếc xe container ấy tôi thấy khiếp sợ, chỉ còn một cách là né nó cho an toàn tính mạng chứ chẳng dám cặp bên. Cũng không ít người vô lương đến độ khi họ chở vật liệu nặng mà ràng buộc không kỹ để rồi chỉ cần một khúc quanh thôi thì lo hàng ấy lăn long lóc trên đường và những ai đi cạnh sẽ lãnh đủ. Đó là chưa kể đến những chiếc xe ben khổng lồ chở cát đá ngày đêm cứ rong ruỗi trên các tuyến đường của đất nước.

Bi đát nhất là những chiếc xe ben chở đất, nếu lỡ cán vào ai đó mà còn ngấp ngoái thì hung thần sẽ “de” lại ngay để khử nạn nhân để đền bù một lần cho khoẻ. Nếu để nạn nhân còn ngấp ngoái thì phải hao công tốn của chăm sóc ! Người ta vì đồng tiền, vì lợi nhuận mà coi nhân mạng của anh chị em đồng loại thua một con thú nữa.

Ai ra khỏi ngoại thành thì đã bị mất hồn với những chiếc xe khách. Hễ có khách là cứ tấp vào chứ không hề coi người đi trước mình là ai. Nhiều người yếu bóng vía nhất là phụ nữ đã bao phen thót tim với cái kiểu rước khách dọc đường như thế. Vì là xe nhỏ nên cam tâm chịu đựng cái cảnh xe lớn chèn ép chứ biết phản ứng sao bây giờ. Đành thắng gấp để dừng lại và chờ xe lớn cho khách lên xe và lăn bánh thì xe nhỏ mới tiếp tục đi.

Nói như thế thì sẽ chẳng còn tài xế taxi, chẳng còn tài xế xe buýt, tài xế xe khách, tài xế container nữa. Vì xã hội, vì mưu sinh người ta cứ mãi miết cầm vô-lăng để kiếm sống trong cái tâm trạng chẳng mấy gì là vui.

Tài xế taxi nếu không đánh võng, nếu không đạp ga giành khách thì đến chiều về nhà có gì để mà lo cho vợ cho con ? Tài xế xe khách cũng thế, xe nhiều mà khách thì lại ít nên tranh thủ bằng mọi giá để cho có khách để còn mang cơm về nhà cho vợ chờ con mong nữa chứ ! Tài xế container thì phải tranh thủ quay đầu thật là nhanh để ráp cái contane khác vào chạy tiếp mới đủ sở hụi.

Nhìn vào bài toán giao thông ở Việt Nam quả là một bài toán nan giải. Thật ra không phải là không có lời giải nhưng mà có những người cố tình không chịu giải mà đôi khi còn bày ra chuyện để cho bài toán ấy đi vào ngõ cụt, đi vào bế tắt.

Thử nghe tâm sự của một tài xế xe buýt: “Lái xe buýt cũng là người lao động đi làm kiếm miếng cơm manh áo. Áp lực giờ giấc, căng thẳng, đường sá “lô cốt” tràn lan gây kẹt xe, Hợp Tác Xã phạt tiền, hủy chuyến… Thậm chí, nhiều lúc chúng tôi phải nhịn hành khách như cơm sống”.

Áp lực về giờ giấc luôn là nỗi ám ảnh của cả tài xế và tiếp viên xe buýt. Mỗi sáng, xe buýt thường bắt đầu lúc 4 giờ 30 và kết thúc khoảng 22 giờ về đến bến, nghĩa là một ngày tài xế, tiếp viên xe buýt làm việc từ 12 giờ -14 giờ đồng hồ.

Anh N.Đ.T, chạy xe buýt số 53, Đại học Quốc Gia TP.HCM - Lê Hồng Phong cho biết, công việc của anh bắt đầu lúc 5 giờ sáng, 11 giờ đêm mới về đến nhà. Nhiều hôm mệt, sáng chạy xong muốn xin nghỉ buổi chiều nhưng điều đó đồng nghĩa anh sẽ bị phạt 200.000 đồng vì hủy chuyến, không được tiền công ngày hôm đó.

“Mỗi ngày tôi phải uống 3-4 ly cà phê để chống buồn ngủ, đắp khăn lạnh cho bớt mệt, chuyện tài xế ngủ gật trên xe buýt cũng có. Biết mệt, buồn ngủ lái xe sẽ rất nguy hiểm nhưng không thể không chạy vì sợ bị phạt.”

Anh T., làm một phép tính đơn giản, cứ 15 phút anh sẽ ôm vô lăng chạy một lần, đi từ ĐHQG TP.HCM tới Lê Hồng Phong có chiều dài khoảng 30km, ghé 13 trạm dừng đón khách (tuyến xe này dành cho học sinh, sinh viên nên chỉ dừng ở một số trạm nhất định) anh nhận được tiền công là… 15.000 đồng/lượt chở khách.

Còn anh Bạch Ngọc Kiệt, tài xế xe buýt tuyến 13, Bến Thành - Củ Chi nói rằng lái xe buýt cũng chỉ là nghề lao động kiếm miếng cơm như những nghề khác.

Nhà anh ở xóm mới, xã An Tây Nhơn, huyện Củ Chi, nhà xa nên mỗi ngày anh phải thức dậy lúc 2 giờ 40 sáng. Sau đó ra bến nhận xe để chuẩn bị cho tuyến xe đầu tiên xuất phát. Trước đây anh làm tài xế xe tải chở rau từ Đà Lạt về TP.HCM. Từ ngày lập gia đình ở Sài Gòn, anh mướn nhà tận huyện Củ Chi rồi chuyển qua lái xe buýt, công việc áp lực hơn nhưng vì kiếm tiền nuôi con ăn học, anh bám trụ nghề này gần 8 năm nay.

Nhiều tài xế xe buýt tâm sự, nếu mỗi ngày họ đều phải nơm nớp nỗi lo bị phạt tiền, hủy chuyến, lo miếng cơm manh áo không được đảm bảo thì sao có thể tận tình phục vụ hành khách ?

Tài xế xe buýt thì vậy, còn tài xế container thì sao ?

Anh Tứ, một tài xế có giấy phép lái xe hạng C chuyên chạy xe đầu kéo lo lắng: “Phải nghỉ làm 1 tháng đi học bằng FC, đã mất thu nhập lại còn khoản học phí, nếu chủ xe không cho chắc tôi phải nghỉ chạy để kiếm xe khác nhỏ hơn”.

Trước thực trạng xe đầu kéo rơ moóc, xe container liên tiếp gây ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc trên cả nước nói chung và tại TP Hồ Chí Minh nói riêng, đã thực sự gióng lên hồi chuông báo động trong việc quản lý đối với hoạt động của xe đầu kéo, xe rơ moóc.

Tại TP Hồ Chí Minh, để ngăn chặn tình trạng dùng xe đầu kéo, xe rơ moóc chở container chất hàng quá tải, thời gian qua lực lượng CSGT và thanh tra giao thông cũng đã nhiều lần tổ chức phối hợp thực hiện kiểm tra tải trọng đối với xe đầu kéo. Nhưng việc kiểm tra chỉ là phần ngọn bởi các khó khăn như: Không được vào tận cảng, kho bãi để kiểm tra nên lực lượng mỏng không thể kiểm soát hết đối với xe ngoài đường; không thể buộc chủ xe hạ tải tại chỗ…

Từ thực trạng trên, Luật Giao thông đường bộ có hiệu lực từ ngày 1/7 sắp tới đã quy định người lái xe đầu kéo, xe rơ moóc phải có bằng FC. Nhưng tại một thành phố có số lượng xe đầu kéo lớn nhất cả nước; xe đầu kéo, xe rơ moóc lại chủ yếu được dùng vận tải hàng hóa XNK bằng container đến và đi từ các cảng biển với số lượng khoảng 7.000 chiếc.

Thế nhưng, để thực hiện cái luật có bằng FC của các tài xế container xem ra chẳng thực tế chút nào cả.

Trong lúc, theo con số thống kê của Phòng Quản lý sát hạch cấp phép lái xe - Sở GTVT TP Hồ Chí Minh, hiện tại, phòng này chỉ quản lý khoảng 2.500 giấy phép lái xe hạng F, bao gồm FD, FE trong đó FC chiếm chủ yếu. Như vậy, căn cứ trên số lượng xe đầu kéo, xe rơ moóc hiện có, để đảm bảo cho số đầu xe tải này hoạt động với mỗi xe một tài xế, thành phố đã phải "nhập" lực lượng tài xế có bằng lái dấu F từ tỉnh ngoài lên đến 4.500 người.

Hoạt động đào tạo lái xe ôtô các hạng, nhất là đào tạo, sát hạch lái xe hạng B tại TP Hồ Chí Minh vẫn đang quá tải, ngoài thời gian phải chờ đợi từ lúc đăng ký học đến lúc được xếp lớp, thì khi học xong, nhanh nhất học viên cũng phải chờ từ 3 - 4 tháng mới tới đợt thi.

Dự thảo Thông tư hướng dẫn về công tác đào tạo, sát hạch cấp phép lái xe do Cục Đường bộ soạn thảo trình Bộ GTVT mới đây đã đưa ra đề xuất lùi thời hạn thực hiện quy định người lái xe đầu kéo, xe rơ moóc bắt buộc phải có bằng FC thêm một năm.

Nhưng vấn đề đặt ra với các cơ quan chức năng của TP Hồ Chí Minh là việc tổ chức thi sát hạch, nâng hạng giấy phép lái xe cho học viên cũng phải được tiến hành thường xuyên, ngay sau mỗi khóa học. Khi đó mới có thể bảo đảm trong khoảng thời gian 1 năm sẽ đáp ứng kịp nhu cầu cho người học và đào tạo đủ nguồn lao động quan trọng này.

Trên đây là những nan giải của những hung thần trên đường phố đang gặp phải. Tất cả những vấn nạn này hình như chưa có lời giải và đang đi vào ngõ cụt. Cay đắng thay là càng đặt ra nhiều luật và thêm bằng FC mà không hợp tình hợp lý và bất khả thi thì lại xảy ra nhiều chuyện “đáng tiếc”.

Những ai cầm vô lăng đi trên quốc lộ 51 khi đến khu Mỹ Xuân – Bà Rịachú cảnh sát làm việc rất tận tâm. Vì đoạn đường ấy có bảng hạn chế tốc độ và các chú núp vào trong bóng cây để rồi “bắn” các tài xế nào “lỡ chân”. Lỡ gọi vào thì phải lo “hậu sự” cho nhanh để còn tiếp tục cuộc hành trình chứ đâu có nói gì nữa. Điều lạ là vừa qua khỏi “chốt” ấy thì các tài xế lại đạp ga nhanh hơn trước để lấy lại thời gian đã mất khi qua trạm. Bất hợp lý vô cùng mà chẳng ai nói được. Thấy thương các chú cảnh sát ở đây lắm, không chỉ các chú chỉ làm việc ban ngày mà làm cả đêm nữa. Có hôm cần về Vũng Tàu ban đêm hay về Sài Gòn khi trời đã vào tối thì các chú vẫn cứ miệt mài đứng gác bên vệ đường.

Không chỉ quốc lộ 51 mà tất cả các quốc lộ đề không hề vắng bóng những anh cảnh sát giao thông ngày đêm tận tuỵ với nước, trung hiếu với dân.

Những bài toán giải quyết lối thoát cho hung thần trên đường phố vẫn còn đó trên bàn giấy. Chỉ tội nghiệp cho những ai phải tham gia giao thông và tội nhất là các tài xế, ngày đêm họ phải căng con mắt, thẳng cái đầu để kiếm sống. Nồi cơm của họ chan hoà cả mồ hôi và nước mắt. Nhiều khi họ cũng không muốn rơi vào cai cảnh chặng đặng đừng của cuộc sống nhưng quá nhiều và quá nhiều cơ chế bất hợp lý.

Quá nhiều tiến sĩ, quá nhiều giáo sư, quá nhiều nhân tài ấy vậy mà bài toán giao thông của Việt Nam vẫn cứ đi vào bế tắt. Không có ngày nào mà không có tai nạn xảy ra trên mọi miền đất nước. Những tai nạn ấy không ít tai nạn xảy ra từ những cơ chế, những ràng buộc khó hiểu và cũng một phần do nỗi ám ảnh của những ANH HÙNG NÚP luôn ẩn núp đâu đó để “bắn” và phạt tài xế.

Viết thì viết cho vui, nghĩ thì nghĩ cho vui vậy chứ còn biết bao nhiêu và không biết bao nhiêu chuyện bất cập, chuyện nan giải từng giây từng phút xảy ra trong cuộc đời.

Chỉ đồng cảm và chia sẻ một chút lời nguyện nho nhỏ với gia đình nạn nhân của vụ tai nạn thảm khốc ngày 26 tháng 3 vừa qua và cầu xin cho mình mỗi khi tham gia giao thông trở về nhà được “hồn an xác mạnh”.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Sương Vờn Bên Núi
Lê Trị
06:19 04/04/2009

SƯƠNG VỜN BÊN NÚI



Ảnh của Lê Trị

Sương lan mờ, cây gần cũng như xa;

Sương lan bay, ngày đứng cũng như tà.

(Trích thơ của Xuân Diệu)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền