Ngày 08-04-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời đầu tiên trên Thánh Giá : Lời tha thứ
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
06:34 08/04/2020
"Lạy Cha, xin tha cho chúng" (Lc 23, 34). Đó là lời đầu tiên mà trên thánh giá Chúa Giêsu đã thốt lên.

Tha thứ, từ ngàn xưa là đề tài lớn của Thánh Kinh. Lịch sử cứu độ là lịch sử ghi đậm nét tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ cho con người, để con người còn có thể ngẩng đầu lên trông chờ Đấng Cứu Độ, có thể mở lòng ra đón nhận ơn cứu độ. Đó là cách Thiên Chúa cứu rỗi con người.

Đến lượt Chúa Giêsu, trong khi rao giảng Tin Mừng, nhiều lần đề cập đến ơn tha thứ. Chúa dạy chúng ta phải biết tha thứ cho nhau. Lời dạy này rõ ràng nhất nơi kinh Lạy Cha.

1. CHÚA GIÊSU KHÔNG NGỪNG CÔNG BỐ ƠN THA THỨ.

Lời tha thứ trên thánh giá như một tổng kết của một đời Chúa Giêsu tha thứ cho trần thế. Tin Mừng nhiều lần cho thấy Chúa Giêsu công bố ơn tha thứ cho con người. Và con người đã từng nhận lãnh hiệu quả rõ rệt của ơn tha thứ ấy.

Chúa tha cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa bao dung với hết các tông đồ và đoàn môn đệ trong những năm tháng huấn luyện họ. Chúa mời gọi tông đồ Giuđa ở lại với ơn tha thứ khi Chúa "báo động" hành động tội lỗi của ông: "Con muốn làm gì thì làm đi" (Ga 13, 27). Chúa tha thứ cho thánh Phêrô. Chúa sẵn sàng chữa lành đầy tớ của thượng tế khi anh này bị thánh Phêrô chém đứt tai. Chúa tha cho người trộm lành cùng chịu đóng đinh thập giá...

Và chính lời cầu xin Chúa Cha tha thứ mà chúng ta đang bàn, là lời công bố ơn tha thứ cho tất cả mọi kẻ hãm hại Người.

Không chỉ tha thứ, Chúa Giêsu còn dạy ta phải biết tha thứ cho nhau: Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Hay: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44).

Hay dụ ngôn về người đầy tớ được chủ tha hết mọi khoản nợ, nhưng người đầy tớ lại không tha cho những khoản nợ của bạn mình. Ông chủ giận cho lính hành hạ người đầy tớ ấy cho đến khi anh ta trả hết nợ (x. Mt 18, 23-35).

Và đòi hỏi phải tha "bảy mươi lần bảy" (Mt 18, 22) mà Chúa Giêsu đưa ra là lời dạy ta phải tha thứ luôn luôn, tha thứ đến kỳ cùng. Có nghĩa là, trong khi làm việc, ta có thể nghỉ ngơi. Nhưng tha thứ thì không bao giờ được phép dừng.

Từ đó, ta thấy tình yêu tha thứ của Chúa Giêsu là cánh cửa mở mà không biết đóng. Người sẵn sàng đón nhận bất cứ ai đang chiến đấu với tội lỗi, với sự dữ. Người mong chờ con người đến với mình để công bố, để trao ban ơn tha thứ cho họ. Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ như tấm lòng của Thiên Chúa, muôn ngàn đời vẫn có đó, “muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương” (Tv 136, 2).

2. ƠN THA THỨ QUAN TRỌNG TRÊN MỌI THỨ QUAN TRỌNG.

Lời đầu tiên ngay sau khi chịu treo trên thánh giá không phải là bất cứ lời nào quay về bản thân, mà là lời "đi ra" khỏi bản thân của Đấng Cứu Thế: "Lạy Cha, xin tha cho chúng".

Nói lời tha thứ trước khi nói bất cứ lời nào để đi vào cái chết, Chúa Giêsu cho thấy tâm hồn, cõi lòng, trái tim Người tràn ngập chúng ta. Chúng ta ưu tiên trọng trên mọi thứ ưu tiên mà Chúa nhắm đến, dẫu sự sống không còn nhiều.

Nói lời tha thứ đầu tiên, trước khi quan tâm bất cứ điều gì, Chúa Giêsu còn cho thấy, tha thứ là quan trọng, là cần thiết vô cùng cho con người. Đó cũng là hành động nhắc ta hiểu: Tha thứ là vấn đề cơ bản trước hết mọi vấn đề mà một đời làm người, ta phải kiếm, phải múc lấy bằng được từ chính hy tế của Chúa.

Qua lời đầu tiên trên thánh giá, “Xin tha cho chúng”, Chúa Giêsu còn như muốn ta ý thức: Tha thứ trên hết là một ơn ban đến từ Thiên Chúa, do Thiên Chúa. Bởi đây là một lời nguyện. Vì qua hình thức cầu nguyện, Chúa Giêsu cho thấy, tha thứ là một ơn ban đến từ Thiên Chúa.

Dù Thiên Chúa sẵn sàng ban cho con người, khi con người cần đến, nhưng ơn tha thứ, với hình thức cầu nguyện của Chúa Giêsu, là ơn mà con người phải kêu xin Thiên Chúa.

Chúng ta cảm nhận, khi trao sự tha thứ, thì người tha thứ vui, và người được tha thứ cũng vui. Ta vui mừng, vì có một Thiên Chúa luôn nhìn đến thân phận của ta. Ta vui mừng, vì trước mặt Chúa, ta không hề không có giá trị nào. Ta vui mừng, vì mãi mãi, bằng tình yêu tha thứ của Người, Thiên Chúa bảo vệ ta.

Thiên Chúa tha thứ. Niềm vui nội tại nơi chính bản thân Người, chắc chắn không nhỏ. Người say sưa tha thứ cho con người. Người trung thành với chỉ một đường lối, là sẵn sàng yêu thương tha thứ. Từ ngàn đời, Thiên Chúa đã tha thứ. Cho đến muôn đời, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tha.

Tha thứ chính là niềm vui vô bờ của Đấng tạo thành và cứu chuộc chúng ta.
 
Hãy yêu thương nhau như Thầy
Lm. Đan Vinh
13:44 08/04/2020
Thứ Năm Tuần Thánh

Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26; Ga 13, 1-15

Tin Mừng Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu tột đỉnh của Đức Giê-su qua ba sự kiện như sau:

1) Yêu thương là hiến thân phục vụ cho người mình yêu:

Yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là yêu bằng đầu môi trót lưỡi. Yêu thương bằng cử chỉ có thể bị coi chỉ là giả hình bề ngoài. Còn khi yêu thương bằng hành động mới chứng tỏ một tình yêu thực sự.

Vì thế, Đức Giê-su không những dạy các môn đệ yêu thương nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà Người còn đòi các ông phải yêu thương bằng hành động cụ thể noi gương Người làm: cởi bỏ chiếc áo cao quý của thân phận Thiên Chúa đế đeo chiếc khăn thấp hèn của người phàm và cúi mình rửa chân hầu hạ các ông.

Rửa chân xong, Người tiếp tục dạy môn đệ bài học phục vụ: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm... Vậy Thầy là “Chúa” là “Thầy” mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.

Qua hành động này, Đức Giê-su muốn mỗi tín hữu cũng phải yêu thương bằng hành động rửa chân phục vụ tha nhân. Rửa chân bao gồm những việc như: lắng nghe để cảm thông với nhu cầu của tha nhân, rồi đáp ứng bằng việc chia sẻ cơm áo cho người đói rét, băng bó những vết thương và góp phần chữa lành bệnh nhân liệt giường, an ủi những người đau khổ vì bị áp bức kỳ thị, thăm viếng những cụ già neo đơn bị bỏ rơi trong các nhà dưỡng lão…

2) Yêu thương là muốn hiệp nhất với người mình yêu:

Khi yêu thương người ta không những hy sinh phục vụ nhau, mà còn muốn nên một với nhau như có người đã nói: “Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai”. Vì thế, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể, để biến tấm bánh trong bữa ăn thành Thân Mình của Người sắp bị nộp và biến chén rượu trở thành Máu thánh Người sắp đổ ra trong cuộc khổ nạn làm của ăn của uống cho các môn đệ hầu ban sự sống muôn đời cho những ai lãnh nhận: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1 Cr 111,24); vì “Ai ăn thịt và uống máu Thầy, thì sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,5a).

3) Yêu thương là muốn được ở mãi với người mình yêu:

Đức Giê-su đã hứa trước khi lên trời: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28,20). Để có thể ở cùng các môn đệ luôn mãi, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích truyền chức thánh để trao ban chức linh mục cộng đoàn cho các tín hữu, và chức linh mục thừa tác cho những người được tuyển chọn: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).

Khi tham dự thánh lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, ước gì mỗi tín hữu chúng ta hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ qua nghi thức rửa chân và cảm nhận được tình thương tột cùng của Chúa qua bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng ta sẵn sàng đáp lại tình Chúa yêu thương bằng sự kết hiệp mật thiết với Chúa khi dự lễ rước lễ, rồi sẵn sàng quên mình để phụng sự Chúa và tha nhân, hầu nên chứng nhân cho Chúa trước mặt người đời (x. Cv 1,8).
 
Thành tâm sám hối và quyết tâm theo Chúa
Lm. Đan Vinh
13:49 08/04/2020

Thứ Sáu Tuần Thánh
Is 52,13-53,12; Dt 4,14-16;5,7-9; Ga 18,1-19,42

Suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giê-su, mỗi người chúng ta xem ra cũng đều góp phần vào cái chết đau thương của Chúa như sau:

1) Có thể chúng ta đã có lúc hèn nhát giống như quan Phi-la-tô khi không dám lên tiếng bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ những kẻ gian ác.

– Có thể chúng ta cũng đã hành xử giống như Giu-đa khi coi tiền bạc, coi công việc làm ăn của mình hơn việc tuân giữ giới răn của Chúa. Hoặc có thể chúng ta lại trở thành kẻ nội gián làm tay sai cho kẻ có quyền để chống lại các vị chủ chăn trong Hội Thánh.
– Có thể chúng ta cũng có lần đã hành động giống như Phê-rô khi hèn nhát chối bỏ đức tin trước mặt người khác.
– Có thể chúng ta cũng đã có lần hành động giống như các thượng tế khi có ganh ghét chống lại những ai hơn mình.
– Có thể chúng ta đã hành xử giống như quân dữ khi lên tiếng chế diễu, đùa cợt trên sự đau khổ của người khác.
– Có thể chúng ta cũng có lần đã hành xử như kẻ trộm dữ khi cố chấp không nhìn nhận lỗi lầm của mình và lên tiếng thách thức quyền năng của Thiên Chúa.
– Có thể chúng ta cũng đã hành động giống như đám đông dân chúng khi hùa theo dư luận xấu để kết án bất công cho người vô tội.

2) Trong những ngày này, mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình noi gương Mẹ Maria: sẵn sàng đón nhận thập giá là các nghịch cảnh gặp phải trong cuộc sống để trung thành bước theo chân Chúa trong niềm tin yêu phó thác.

- Hãy cầu xin Chúa cho chúng ta noi gương ông Si-mon Kê-rê-nê khi sẵn sàng cảm thông vác đỡ gánh nặng cho tha nhân.
- Hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết noi gương bà Ve-ro-ni-ca khi nhận ra khuôn mặt của Chúa nơi những người đau khổ và động viên giúp họ vượt qua thử thách.
- Hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết noi gương người trộm lành để nhìn nhận mình là ké có tội và thành tâm sám hối để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Chúa.-AMEN.
 
Sống và loan báo Tin Mừng Phục Sinh
Lm. Đan Vinh
13:54 08/04/2020

Đêm Vọng Phục Sinh A
St 1,1.26-31a; Xh 14,15-15,1a; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mt 28,1-10

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10

(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.

2. Ý CHÍNH:

Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ mệnh: hãy loan báo Tin Mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vui vẻ thi hành và sau đó các bà còn được chính Chúa Phục Sinh hiện ra. Một lần nữa, Người lại trao sứ mệnh cho các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1). + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1). + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2). + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66). + Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).
- C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26). + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ ! + Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21). + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực. + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành. + Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).
- C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó. + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28). + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng. + Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang bị khiếp sợ khi phải đối diện với thần thiêng.

4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời?

ĐÁP:

Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh tại Ga-li-lê để chính thức sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA:

Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).

2. CÂU CHUYỆN:

1) BÉ SƠ SINH CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ LỜI CẦU NGUYỆN:

Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Ca-na-đa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:

Bà TAN-MƠ (Tanmer) mẹ của bé RƠ-GHEO (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơ-gheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu rồi đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này !”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.

2) ĐÁNH TAN BÓNG TỐI TỘI LỖI BẰNG ÁNH SÁNG TIN YÊU:

Một hôm JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Thành Phố Los Angeles Hoa Kỳ. Đang diễn thuyết, diễn giả bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này". Sau đó đèn tắt và sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi vừa đốt lên thì hãy kêu lớn: “Đã thấy!". Sau đó một que diêm được bật lên và cả sân vận động đều vang lên tiếng hô: "Đã thấy!". Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm, cũng sẽ chiếu sáng trong bóng tối của nhân loại như vậy".

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang diêm quẹt hay bật lửa, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng. Ông John Keller kết luận: "Nếu mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng nhân ái của chúng ta". Làm như thế, John Keller muốn gửi đến mọi người một sứ điệp: “Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên”. Nếu một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thì thế giới đang bị tối tăm bao trùm này sẽ bớt đi phần tăm tối. Nếu mọi tín hữu Ki-tô đều thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu bằng các việc bác ái yêu thương phục vụ tha nhân, thì thế giới này sẽ nhận biết và tin yêu Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

3. SUY NIỆM:

1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI SỰ CHẾT:

Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nói lên cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh. Đức Giê-su chính là Ánh Sáng như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Ánh sáng đó đã được diễn tả trong nghi thức trước thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay.

Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian nhà thờ khi các ngọn đèn đều tắt hết. Sau khi Chủ Sự làm phép lửa mới ở cuối nhà thờ, Linh mục đã dùng lửa này để thắp sáng cây nến Phục Sinh, và sau đó là nghi lễ rước nến Phục Sinh. Trong cuộc rước, Chủ sự cầm nến Phục Sinh lần lượt công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”. Lần thứ nhất công bố ngay sau nghi thức làm phép lửa mới và mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Lần thứ hai công bố khi Chủ sự bước vào cửa chính cuối nhà thờ, và nến Phục Sinh được rước từ cuối nhà thờ đi lên cung thánh. Chủ Sự cầm cây nến cháy sáng đi đến đâu thì sẽ mồi lửa cho người đứng ở đầu các hàng ghế, người này sẽ mồi lửa sang người bên cạnh. Ánh sáng Phục Sinh dần dần lan tỏa ra cả nhà thờ. Khi rước nến Phục Sinh tới Cung Thánh, Chủ Sự sẽ quay xuống cộng đoàn long trọng công bố lần thứ ba. Bấy giờ toàn bộ ánh sáng trong nhà thờ được bật lên. Niềm vui Phục Sinh tiếp tục được thể hiện cách đầy đủ trong bài công bố Tin Mừng Phục Sinh “Mừng Vui Lên” hay “Exultet”.

2) SỐNG ĐỨC TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Nhiều người chúng ta vẫn đang ở trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người chúng ta còn bị đè nặng bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho tha nhân chung quanh. Cuộc sống của nhiều gia đình tín hữu đang bị đè nặng bởi sự cãi vã, bị trói buộc bởi những giận hờn ganh ghét ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình luôn bị căng thẳng. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tràn ngập niềm vui Phục Sinh.

Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa đã phục sinh với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta không thể nói về Chúa Phục Sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu sự bao dung cảm thông với nỗi đau của anh chị em chung quanh mình.

Cũng vậy, niềm tin vào Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống của bản thân và gia đình mình, đem lại cho môi trường mình đang sống một sức sống mới. Hãy phá bỏ đi tảng đá của sự giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tin yêu của Chúa.

3) HĂNG SAY LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THA NHÂN:

Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Những băng vải và khăn liệm đã không thể trói buộc được Người tiếp tục ở trong mồ đá. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng d ù trước đó đã bị hận thù nuốt trửng ! Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được niềm vui khi gặp Chúa Phục Sinh ở bên cạnh mồ Chúa; Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê. Điều quan trọng là chúng ta hãy noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la, sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã hăng hái đi báo Tin Mừng cho các Tông đồ. Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho những anh em bệnh tật, nghèo đói, những người đang bị đau khổ thất vọng và mất niềm tin?

4. THẢO LUẬN: Cụ thể trong mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng Chúa đã Phục Sinh cho những người bên cạnh mình?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ vui tươi phấn khởi và nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la và các Tông đô khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON



 
Ông đã thấy và đã tin
Lm. Đan Vinh
14:00 08/04/2020

Chúa Nhật Ngày Phục Sinh ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2. Ý CHÍNH:

Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2); Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. Lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mộ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gio-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mộ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã có thể tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?
2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau thế nào?
3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la?
4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai? Tại sao?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không?
6) Hành động chạy nhanh ra mộ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông thế nào?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?
8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay?
9) Khi thấy hiện tượng mộ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

2. CÂU CHUYỆN: VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ thiện chí của họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các tông đồ quên thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.

3. SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:

1) CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:

Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

2) CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH:

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).

3) CHÍNH LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN:

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).

Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).

4) THỰC HÀNH ĐỨC TIN VÀ ĐỨC MẾN HÔM NAY:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).

4.THẢO LUẬN:

Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm tín thác vào Chúa, hy vọng Người sẽ kíp thời giải cứu và giúp bạn mau trỗi dậy?

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON


 
Thánh lễ Tiệc Ly Thứ Năm Tuần Thánh 9/4/2020 cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
14:01 08/04/2020
Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến! Thứ năm Tuần Thánh là ngày lễ của tình yêu. Thật vậy, vào chiều hôm nay cách đây hơn 2000 năm, trong bữa tiệc ly, trước khi lìa xa các môn đệ để thi hành tôn ý Chúa Cha mà cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ hết sức ngỡ ngàng là Người chỗi dậy khỏi bàn ăn, lấy khăn thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ rửa chân là bài học yêu thương và khiêm nhường. Chúa dạy các ông bài học này trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu. Vì muốn yêu đến cùng nên Người dạy khiêm nhường bằng việc rửa chân để mọi người biết yêu nhau. Vì muốn yêu đến cùng nên Người lập Bí tích Thánh Thể để ờ lại với chúng ta đến tận thế. Chúa Gíêsu lập Bí tích Thánh Thể để hiện diện với nhân loại mãi mãi qua thừa tác vụ của các linh mục.. Để tưởng niệm bữa tiệc ly này cho xứng đáng chúng ta cùng thành tâm thống hối.

Bài Ðọc I: Xh 12, 1-8. 11-14

"Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: "Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18

Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.

Xướng: Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.

Xướng: Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.

Xướng: Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.

Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26

"Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm

Chúa phán: "Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con".

PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15

"Ngài yêu thương họ đến cùng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã quá yêu nhân loại bằng một trái tim nồng nàn rực cháy. Người đã trối lại cho nhân loại một gia sản vĩ đại, đó là gia sản tình yêu. Tin vào tình yêu cao siêu đó chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. “Hãỵ nói với toàn thề cộng đồng con cái Israel”.- Xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục theo gương ông Moisen và ông Aaron, mau mắn thi hành lệnh Chúa, loan truyền ơn cứu độ cho mọi người.

2. "Mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.- Xin cho tâm hồn người tín hữu đã được rước máu châu báu của Chúa Giêsu, luôn can đảm tuyên xưng việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến.

3. “Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng”.- Xin cho các nhà truyền giáo tinh thần phục vụ hăng say, hi sinh quên mình vì phần rỗi những người Chúa trao phó cho.

4. “Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”.- Xin cho giáo xứ chúng ta biết sống bài học khiêm nhường nơi Đức Kitô, để chân thành yêu thương hết mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cần sự trợ giúp của ơn Thánh Chúa, để được thanh luyện và lớn lên trong đức tin và đức ái. Xin soi sáng và nâng đỡ chúng con thi hành tốt mệnh lệnh sống bác ái, để hy lễ của Chúa diễn ra qua các thế kỷ vẫn mang đậm nét yêu thương, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:50 08/04/2020

10. Tinh thần vui vẻ là tinh thần của con đường tu đức thiêng liêng, vui vẻ thì mở lòng ra, còn bi thương thì đóng nó lại; nên làm cho sự tu đức thiêng liêng càng có đủ lực hấp dẫn, không những nên giữ gìn mức độ tu đức thiêng liêng của con là làm cho nó luôn thông minh, thành thực, kiên cường, bất khuất, mà còn là sự vui vẻ của con đường tu đức thiêng liêng.

(Thánh Francis de Sales)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:11 08/04/2020
76. VƯƠNG LANG ÉP TẠ

Một hôm, con gái Đông Tấn Tài là Tạ Đạo Uẩn vừa từ nhà Vương Nghi trở về, mặt mày không mấy vui vẻ.

Ba nó là Tạ Dịch nói:

- “Vương lang là con trai của Vương Nghĩa, là người rất tốt, tại sao con không vui chứ?”

Tạ Đạo Uẩn trả lời:

- “Thúc bối nhà mình và các anh em đều là văn sĩ anh tuấn ưu nhã, không ngờ giữa thiên hạ lại có một Vương Nghi, đem so sánh với thúc bối và các anh em của con thật là đáng buồn !”

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 89:

Mặt mày đẹp chưa chắc đã làm cho người chân chính có đời sống đạo đức ưa thích, bởi vì đẹp mà kiêu ngạo và kênh kiệu thì có...ma quỷ mới thích; trái lại có những người mặt mày không đẹp nhưng lại được nhiều người thích, vì họ có cái duyên ngầm và sống khiêm tốn vui vẻ với mọi người.

Người ta ai cũng thích cái đẹp chứ không ai thích cái xấu, nhưng cái xấu đôi lúc cũng là cái đẹp dưới con mắt của người nghệ sĩ: một tảng đá đen sì, một gốc cây sần sùi, một miếng vải rách.v.v... đều có thể trở nên đẹp trước mặt nghệ nhân. Người Ki-tô hữu luôn có cái nhìn “nghệ nhân” của Thiên Chúa, mà cái nhìn nghệ nhân của Thiên Chúa chính là lòng bao dung và yêu mến: bao dung để không nhìn thấy những khuyết điểm, những cái xấu của người mặt mày đẹp đẽ; yêu thương để thấy cái đẹp nơi những người bất hạnh có khuôn mặt xấu hơn người bình thường, đó chính là con mắt nghệ nhân của Thiên Chúa vậy.

Trong thiên hạ thì cái gì cũng có thể phát sinh chứ đừng nói là hạng người thô lỗ khiếm nhã, nhưng trong thiên hạ phát sinh ra người có con mắt “nghệ nhân” của Thiên Chúa thì hiếm thật, bởi vì danh vọng, chức quyền, tiền bạc đã che mắt của con người mất tiêu rồi.

Thiên Chúa là tình yêu, nên người tin Ngài -tức là người Ki-tô hữu- cũng là tình yêu của người đẹp cũng như người xấu vậy !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Thứ Năm Tuần Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:14 08/04/2020
THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Tin mừng: Ga 13, 1-15.

“Đức Giê-su yêu họ đến cùng”.


Anh chị em thân mến,

Hôm nay là một ngày đáng ghi nhớ và muôn đời cảm tạ chúc tụng tình yêu của Thiên Chúa –qua Đức Chúa Giê-su- đã dành cho nhân loại tội lỗi, đáng ghi nhớ là vì hôm nay Giáo Hội kỷ niệm Đức Chúa Giê-su lập bí tích Truyền Chức Thánh và bí tích Thánh Thể, hai bí tích cao quý để chuyển ơn Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Trong tâm tình đó, tôi xin chia sẻ với anh chị em ba nét chấm phá về linh mục.

Yêu thương, phục vụ làm nên Linh Mục

Một hôm, hoa sen ấm ức hỏi Chúa tạo vật:

- “Con đem hương thơm thấm tận tim gan của con, đem bộ mặt đẹp đẽ của con cho người thưởng thức, thân rễ dành để cho người làm thức ăn, nhuỵ hoa có thể dùng làm thuốc. Con đem cuộc đời của con ra cống hiến mà không giữ lại một chút gì, Ngài còn muốn con như thế nào nữa chứ?”

Chúa tạo vật trả lời:

- “Ta muốn con không oán trách”.


Hoa sen đã đem tất cả những gì có trên than mình để phục vụ con người, nó đã cống hiến tất cả cho con người chẳng để lại điều gì, vậy mà Đấng tạo hóa muốn nó khiêm tốn hơn nữa, tức là không oán trách.

Linh mục chính là hoa sen giữa xã hội này, các ngài được chọn là để đem sức lực trí óc của mình để phục vụ tha nhân mà không oán trách, như Đức Chúa Giê-su khi bị đóng đinh trên thập giá mà không hề oán trách nhân loại tội lỗi, lại còn xin Cha tha tội cho họ nữa.

Linh mục là người được chọn để làm những gì mà Đức Chúa Giê-su đã làm khi còn ở thế gian, đó là thực hiện ý Cha trên trời bằng việc hiến tế đời mình, là yêu thương và phục vụ tha nhân cho đến hơi thở cuối cùng. Đó là một vinh dự cao quý cho người được chọn và là sự hạnh phúc cho nhân loại, là cốt lõi và là mục đích của đời linh mục, nếu không làm được như thế thì linh mục chỉ là một chức vụ không hơn không kém, mà đã là chức vụ thì không thể nói phục vụ anh em như chính mình, và cũng không thể nói yêu thương tha nhân như chính bản thân mình.

Linh mục được chọn để tha thứ như Đức Chúa Giê-su đã tha thứ cho nhân loại; linh mục được chọn để giơ tay chúc lành cho mọi người như Đức Chúa Giê-su đã làm; linh mục được chọn để ra đi tìm chiên lạc như Đức Chúa Giê-su đã làm...

Linh mục làm lại việc Đức Chúa Giê-su đã làm, đó là bôn ba khắp miền Ga-li-lê-a để rao giảng tin mừng Nước Trời, chứ không ngồi ở trong hội đường để phán bảo và sai khiến; đó là thâu đem cầu nguyện với Cha trên trời sau một ngày mệt mỏi vì phần rỗi đời đời của mọi người, chứ không phải tự cho mình thỏa mãn nghĩ ngơi vì phục vụ quá nhiều.

Có những lúc tôi phục vụ giáo dân trong giáo xứ của tôi với tinh thần vô vị lợi thì ít, mà tinh thần vụ lợi thì nhiều, cái vụ lợi ấy đã làm cho tôi chỉ thấy mình cống hiến quá nhiều công lao sức lực cho giáo hội, giáo xứ, mà không nghĩ đến giáo dân cũng đã ngậm đắng nuốt cay vì những hách dịch phách lối và kiêu căng của tôi; và cũng có rất nhiều lần tôi tự thỏa mãn với chính mình vì được làm linh mục, được chỉ huy người khác, được cống hiến cho Giáo Hội, cho nên khi có người góp ý phê bình cho tôi, thì tôi than thở với Đức Chúa Giê-su: “Chúa ạ, con đem hương thơm thấm tận tim gan của con, bộ mặt đẹp đẽ của con cho người thưởng thức, thân rễ dành để cho người làm thức ăn, nhuỵ hoa có thể dùng làm thuốc. Con đem cuộc đời của con ra cống hiến mà không giữ lại một chút gì, vậy mà họ cũng nói thế này thế nọ với con...”

Không oán trách, đó là việc làm của Đức Chúa Giê-su khi Ngài bị chính những người mà Ngài đã thi ân giáng phúc vu không tố cáo Ngài, và cuối cùng đóng đinh Ngài chết trên cây thập giá; Không oán trách là thái độ của người lãnh đạo các linh hồn mà Thiên Chúa đã trao cho họ coi sóc, đó cũng là biểu hiện một tâm hồn tràn đầy yêu thương của một mục tử nhân lành học theo gương của Đức Chúa Giê-su.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay trong thánh lễ này, anh chị em đã thấy cha sở của anh chị em cúi xuống rửa chân cho những người đại diện các anh chị em trong giáo xứ, thật cảm động, vì đó là mục đích của đời linh mục: phục vụ và yêu thương. Nhưng trong mắt của các anh chị em vẫn còn thấy có những linh mục bất xứng, những linh mục chỉ biết mình và mong được giáo dân phục vụ và kính trọng, hơn là phục vụ và kính trọng giáo dân.

Trong tâm tình yêu thương ấy, xin anh chị em cầu nguyện và tha thứ cho tôi và những linh mục khác cũng là mục tử của anh chị em, được noi gương Đức Chúa Giê-su phục vụ đến quên mình mà không oán trách, không than vãn và luôn trở thành nơi yêu thương và bình an của anh chị em.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

(1) Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

-------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tam nhật Vượt qua Chúa yêu ta quá
Lm Nguyễn Xuân Trường
19:26 08/04/2020

Thứ Năm Tiệc Ly, vì yêu nên Chúa HẠ MÌNH rửa chân các môn đệ. Chúa yêu HẾT MÌNH nên trao ban Mình Máu Ngài làm lương thực trường sinh.

Thứ Sáu Thương Đau, vì yêu nên Chúa tự nguyện HIẾN MÌNH chịu chết cứu độ nhân loại – không có tình yêu nào lớn hơn tình của người dám chết vì người mình yêu.

Thứ Bẩy Vọng Phục Sinh, vì yêu Chúa HÓA MÌNH phục sinh vinh quang, đem niềm vui, hy vọng và sự sống mới đời đời cho nhân loại. Alleluia!
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thống đốc Hồi Giáo Ả Rập Saudi cổ võ noi gương Đức Mẹ để thắng coronavirus
Trần Mạnh Trác
17:12 08/04/2020
Riyadh (AsiaNews) - Giữa cơn đại dịch coronavirus đang hoành hành, đã có nhiều thành quả đạt được nhờ "sự kiên trì, lòng can đảm, sức mạnh cuả đức tin” là lời cuả ông thồng đốc Turki Bin Talal, tỉnh Asīr (miền nam Ả Rập Saudi) trong một bài xã luận dài trên Công Báo cuả nước À Rập Saudi.

Ông Thống đốc là một người Hồi giáo, ông kêu gọi mọi người hãy quay sang Đức Mẹ để tìm sức mạnh, lòng can đảm và con đường vượt qua cơn thịnh nộ của COVID-19.

“Nếu chúng ta nhìn vào Đức Trinh Nữ Maria và con trai của bà, Chúa Giê-su, qua kinh Qur,ān, thì chúng ta sẽ thấy một câu chuyện đặc biệt về sự kiên trì, trong cuộc tìm kiếm một lộ trình để vượt thoát cơn đại dịch.”

“Trong câu chuyện, Bà đã phải đối mặt với nhiều cuộc đấu tranh trong một xã hội khắc nghiệt không thương xót trước sự kiện mang thai, bị thanh lọc, hoàn cảnh gia đình và lịch sử. Chỉ nhờ đi theo con đường của Thiên Chúa, Bà mới có thể nhìn thấy con đường sinh tồn và thành công.”

Trong số các điều mà Đức Mẹ trung thành tuân theo, ông Turki Bin Talal chỉ ra điều đầu tiên, đó là niềm tin vào sự quan phòng cuả Chuá. Những điều khác bao gồm tìm kiếm sức mạnh để sống sót cho dù cảm thấy yếu đuối và cuối cùng là sức mạnh để "đối diện trước những khó khăn với một lòng can đảm và quyết tâm".

“Câu chuyện về bà Mariam (Đức Mẹ Maria),” ông thống đốc ghi chú, “kể lên câu chuyện của những người chiến thắng thực sự [...]. Luân lý cuả câu chuyện là thật rõ ràng; nhờ những hướng dẫn [từ Thiên Chúa] mà người ta có thể đạt được thành công trong tất cả các cuộc đấu tranh và đại dịch.”

Cho đến nay, Ả Rập Saudi có số nhiễm bệnh COVID-19 cao nhất trong các quốc gia vùng Vịnh. Vì thế, họ đã đình chỉ các cuộc hành hương nhỏ và yêu cầu các tín hữu khắp nơi trên thế giới ngừng mua vé đi hành hương về Mecca (Hajj) năm nay.

“Nước Ả Rập Saudi,” Thống đốc Turki Bin Talal viết, “đang đứng đầu trong cuộc chiến chống lại đại dịch coronavirus trên toàn thế giới.”

Ông giải thích rằng “số phận chung của nhân loại đòi hỏi mọi công dân toàn cầu phải có chung một phản ứng, ý thức rằng tất cả chúng ta phải sống như một xã hội tiền tiến, đánh thức các nhà lãnh đạo phải nhìn thấy bức tranh lớn hơn.”

“Chỉ nhờ sống hòa thuận, chúng ta mới thấy được cái sức mạnh cuả việc đến với nhau như một. Và chỉ nhờ qua câu chuyện của bà chị ông Aaron, trinh nữ Mariam, mà chúng ta tìm thấy bài học về sự sống còn.”
 
Các linh mục trẻ ở Chicago tình nguyện đi xức dầu cho bệnh nhân COVID-19
Trần Mạnh Trác
18:30 08/04/2020
Chicago, Ill., 8 tháng Tư, 2020 ( CNA ).- Tổng giáo phận Chicago đã tập hợp một nhóm 24 linh mục tình nguyện, tất cả đều dưới 60 tuổi và không có tiền bệnh, để đi ban phép Xức Dầu Thánh cho bệnh nhân Công Giáo mắc COVID-19.

Cha Matthew O’Donnell, chánh xứ Giáo xứ St. Columbanus ở phía Nam thành phố, đã là một thành viên được ba tuần nay, nói rằng ngài đã xức dầu cho hai người với COVID-19.

"Tôi biết rằng tất cả chúng tôi trong nhiệm vụ này ở Chicago đang làm điều đó bởi vì chúng tôi tin rằng đây là những gì chúng tôi được kêu gọi trong chức vụ linh mục, là có mặt cho mọi người," Cha O’Donnell nói với CNA.

"Và tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi đều ý thức về những rủi ro, nhưng tầm quan trọng của bí tích vượt xa điều đó."

Tổng giáo phận có 6 hạt. Trong mỗi hạt, Cha O'Donnell nói, tổng giáo phận muốn có ít nhất bốn linh mục để đáp ứng nhu cầu xức dầu, đồng thời cũng là để san sẻ không để cho một linh mục nào bị ‘quá tải’ vì số bệnh nhân COVID-19 trong khu vực của mình.

Ngài nói các cha xứ thông báo cho tổng giáo phận về một giáo dân có COVID-19, sau đó, tổng giáo phận thông báo cho một thành viên của đội ngũ linh mục tình nguyện về tên tuổi của bệnh nhân, tên bệnh viện và những thông tin thích hợp khác.

Sau khi tình nguyện, Cha O'Donnell nghĩ rằng sẽ còn lâu trước khi ngài nhận được một cuộc gọi xức dầu một bệnh nhân COVID-19.

Nhưng thực tế là chỉ ngày hôm sau, ngài đã nhận được yêu cầu đầu tiên.

"Biết rằng không có nhiều linh mục trẻ ở đây, là điều khiến tôi tình nguyện. Và muốn chắc chắn rằng các linh mục trong khu vực của tôi không bị quá tải, và không bị nguy hiểm vì vấn đề sức khỏe, cho nên tôi cũng muốn tình nguyện vì lý do đó nữa, "Ngài nói.

"Quan trọng hơn, biết rằng bí tích xức dầu cho người bệnh có thể mạnh mẽ như thế nào đối với cá nhân và gia đình họ, trong lúc các giáo xứ không thể có các nghi thức công khai, thì đây là cách để tôi thực sự truyền giáo và thực sự tiếp cận với mọi người và cho phép Giáo hội có mặt với mọi người trong những khoảnh khắc đau khổ lớn lao. "

Tại bệnh viện mà ngài đến xức dầu, bệnh viện cung cấp cho ngài một bộ đồ áo quần liền nhau, áo choàng, găng tay, khẩu trang N95, kính bảo hộ, lưới tóc, và giày che.

Khi ngài hoàn thành việc xức dầu, bệnh viện hướng dẫn ngài tháo bỏ tất cả các thiết bị một cách an toàn và cách thức khử trùng.

Ngoài các biện pháp phòng ngừa của bệnh viện, Cha O'Donnell cho biết tổng giáo phận cũng đào tạo các linh mục trong đội về cách quản lý bí tích một cách an toàn cho các bệnh nhân COVID-19.

Một trong những thực hành được khuyến nghị là đảm bảo không nhúng tay vào dầu hai lần để tránh ô nhiễm dầu và sử dụng hai ngón tay khác nhau để xức lên đầu và tay bệnh nhân.

Các linh mục được khuyến khích đốt hoặc chôn chiếc bông thấm dầu và khử trùng bên ngoài chai dầu.

Cha O'Donnell cho biết ngài đã rất ngạc nhiên trước lòng biết ơn của nhân viên bệnh viện, nhiều người đã bày tỏ lòng biết ơn vì sự sẵn lòng đến và làm việc mục vụ cho bệnh nhân.

Mặc dù nhóm các linh mục trẻ không thể "tập hợp" trực tiếp, Cha O'Donnell nói rằng ngài thường xuyên liên lạc với số linh mục anh em và các thành viên trong nhóm.

"Tôi đã nói chuyện với nhiều người, một số chưa đi xức dầu, và một số đã đi rồi.”

Mỗi bệnh viện thì có cách thức thực hành an toàn khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ họ đảm bảo cho chúng tôi được an toàn và có đủ các thiết bị bảo vệ.

Ngoài việc xức dầu, Cha O'Donnell cũng đã nói chuyện qua điện thoại với một số gia đình bệnh nhân COVID-19.

Ngài chỉ ra rằng bệnh nhân coronavirus không thể có khách đến thăm viếng. Vì vậy, đối với ngài, là một linh mục, việc ngài có thể đến thăm và chuyển thông tin cho gia đình họ, mang lại sự bình an cho các gia đình.

Một số bệnh viện trong khu vực Chicago không cho phép các linh mục vào khu vực COVID-19 để thực hiện các nghi thức cuối cùng. Trong những trường hợp đó, các gia đình liên lạc với cha O'Donnell qua điện thoại, để được hướng dẫn tâm linh và cầu nguyện. Ngài đã nói chuyện điện thoại với hai hoặc ba gia đình mỗi tuần, không kể với giáo dân của ngài.

Cha O'Donnell cho biết nhiều giáo dân của ngài đã liên lạc với ngài, lo lắng liệu ngài có bảo vệ sức khỏe khi ngài đi xức dầu không?

Ngài trấn an họ rằng tổng giáo phận và các bệnh viện đã thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa cần thiết để giữ an toàn cho các linh mục.

Việc xức dầu là bí tích trao cho người Công Giáo đang gặp nguy cơ có thể chết.

Ân sủng đầu tiên của bí tích này là sự củng cố, an bình và can đảm để vượt qua những khó khăn cuả bệnh tật hoặc sự yếu đuối của tuổi già. Ân sủng này là một món quà của Chúa Thánh Thần, làm mới lại niềm tin và sự tin cậy vào Thiên Chúa và chống lại những cám dỗ của sự ác, cám dỗ nản lòng và sự thống khổ khi phải đối mặt với cái chết, theo Giáo lý Giáo Hội Công Giáo.

Sự trợ giúp của Chuá Thánh Linh không chỉ có nghĩa là dẫn dắt người bệnh đến việc chữa lành linh hồn, nhưng cũng là chữa lành thân xác nếu đó là ý muốn của Chúa. Hơn nữa, 'nếu anh ta có tội, anh ta sẽ được tha thứ', giáo lý giáo lý nói thêm.

Giáo lý cũng giải thích rằng, khi bất cứ ai trong số các tín hữu bắt đầu có nguy cơ tử vong vì bệnh tật hoặc tuổi già, thì thời điểm thích hợp để nhận bí tích xức dầu là càng sớm càng tốt. "
 
Chuyện hậu phán quyết của Tòa án Tối cao Úc
Vũ Văn An
20:37 08/04/2020
Chuyện hậu phán quyết của Tòa án Tối cao ÚcĐúng như Đức Tổng Giám Mục Mark Coleridge, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Úc nói: phán quyết của Tòa án Tối cao Úc dẹp bỏ bản án lạm dụng tình dục trẻ em của Đức Hồng Y làm nhiều người tan nát cõi lòng (devastating). Có điều truyền thông Úc thổi phồng sự tan nát cõi lòng này một cách không phân biệt khiến cho việc tan nát cõi lòng này biến thành hành động xằng bậy của một số người.

Thực vậy, theo tờ The Age, nhà thờ chính tòa Thánh Patrick ở Melbourne đã bị phá hoại sau khi Đức Hồng Y Pell được thả tự do: Nhiều chữ nguệch ngoạc (graffiti) đã được vẽ trên cửa ra vào dưới vòm kiểu gô-tích của nhà thờ. Đêm sau khi Đức Hồng Y Pell được trả tự do, sơn đỏ cũng đã được vẩy lên chiếc cửa phía trước nhà thờ.

Một xe đạp ba bánh của trẻ em và giải băng cũng đã được cột vào cổng của Nữ Đan Viện Cát Minh ở Kew nơi Đức Hồng Y Pell qua đêm thứ nhất trong tự do.



Những giải băng mầu sắc trên vốn là sáng kiến của Loud Fence (Hàng Rào Lớn Tiếng), một phong trào xuất hiện đầu tiên ở Ballarat lúc đang có Ủy Ban Hoàng Gia [điều tra] Các Đáp Ứng Định Chế Đối Với Việc Lạm Dụng Tình Dục Trẻ Em.

Phong trào này, sau đó, đã phát triển khắp thế giới (!) để bày tỏ liên đới với các nạn nhân bị lạm dụng tình dục.

Đức Tổng Giám Mục Melbourne, Peter Comensoli, trả lời “có” khi được hỏi liệu ngài có đau buồn vì việc phá hoại hay không, nhưng nói thêm: ngài “cũng không hoàn toàn ngạc nhiên”.

Ngài nói với đài phát thanh 3AW rằng “vẫn còn nhiều xúc động mạnh quanh các vấn đề này. Tôi nghĩ mọi người sẽ tiếp tục duy trì lập trường đặc thù riêng của mình về tất cả những chuyện này. Tôi chỉ hy vọng rằng trong ánh sáng dịu dàng hơn của buổi chiều tối người ta sẽ xem xét điều phán quyết của Tòa án Tối cao nói và nhìn nó trong đồng văn pháp lý của nó”.

Annie Carrett, giám đốc văn phòng của tổng giáo phận Melbourne, cho hay có thể sẽ có thêm biện pháp an ninh cho nhà thờ chánh tòa, “nhưng chúng tôi sẽ không tìm cách tạo ra không khí sợ sệt. Chúng tôi rất biết nỗi đau mà nhiều người đang trải qua trong thời điểm khó khăn này".

Nhân dịp này, bà Carrett cho mọi người hay Đức Hồng Y Pell không thuộc tổng giáo phận Melbourne và tên ngài không được nhắc đến trong Thánh Lễ. Bà nhấn mạnh “Thánh lễ của chúng tôi là dành cho người ta, nó là thời gian chủ chốt trong đời sống đức tin của chúng tôi, chứ không phải thời gian để gửi các thông điệp khác. Sự phục sinh của Chúa GIêsu sẽ là thông điệp chúng tôi chia sẻ. Chúng tôi sẽ nói đến thông điệp Phục Sinh, đây là niềm vui lớn đối với người dân chúng tôi. Các vấn đề khác không phải là thành phần trong trải nghiệm đức tin của chúng tôi vào lúc này”.

Đức Hồng Y Pell vẫn vui vẻ lên đường về Sydney bằng xe hơi

Trái với đồ đoán của truyền thông chính dòng, Đức Hồng Y Pell chứng tỏ cho mọi người thấy ngài là một người tự do, bằng cách, sau 1 đêm tạm nghỉ tại Nữ Đan Viện Cát Minh Kew, sáng 8 tháng 4, ngài đã dùng xe hơi, vượt Hume Highway để về Sydney, trên đường dừng lại mua báo để đọc và không ngại trả lời phỏng vấn.



Thực vậy, cũng theo tờ The Age, Đức Hồng Y đã rời Nữ Đan Viện vào sáng thứ Tư. Và sau 9 giờ tối, ngài đã có mặt tại Chủng Viện Chúa Chiên Lành ở Homebush, cách Sydney 15 kilô mét về hướng tây. Trước đây, ngài vốn ở đó.

Đài số 9 tường trình rằng ngài ngừng tại trạm cảnh sát Goulburn, cách Sydney chừng 200 kilô mét về hướng nam, nơi ngài khiếu nại về việc bị giới truyền thông đeo đuổi và đã được cảnh sát tháp tùng ra tới tận xa lộ trở lại.

Trước đó, tại một trạm xăng trên Hume Highway thuộc Victoria, ngài nói chuyện vắn tắt với giới truyền thông khi rời xe đã đậu ở bãi đậu xe, cho họ hay cuộc sống trong tù “không đến nỗi tệ quá”.

Khi được hỏi liệu ngài có ngạc nhiên đối với phán quyết hôm thứ Ba hay không, Đức Hồng Y Pell trả lời “không hề”. Và nói thêm: “tôi rất hài lòng”.

Ngài không trả lời khi được hỏi ngài có tin là người tố cáo ngài là một người nói láo hay không.

Tờ the Age cho hay ngài tỏ ra thư giãn và đầy hài hước trong lúc tương tác với các phóng viên và nhiếp ảnh viên.

Được 1 nhà báo hỏi cảm tưởng sau hơn 400 ngày ngồi tù, ngài cười một cách tự mãn, trả lời “trước khi bạn tới, ở đây tốt hơn”.

Ngay sau khi bước ra khỏi xe, ngài đã nói về trang phục của mình: “xin lỗi đã không ăn vận đàng hoàng hơn, nhưng tôi đâu ngờ chuyện này [được hỏi han]”.

Đức Hồng Y ăn vận xoàng xĩnh với áo sơ mi cài cúc mầu nhạt, một áo khoác mầu xanh dương không kéo dây khóa, với cây viết mầu đỏ gài vào túi áo, thậm chí, không mang cổ cồn Rôma.

Ra khỏi trạm xăng, ngài yêu cầu các nhà báo nhường lối để ngài có thể vào xe, nói đùa “xin lỗi, khoảng cách xã hội (social distance)”.
 
Hãy chiêm ngắm Thánh giá Chúa trong Tam nhật thánh này.
Thanh Quảng sdb
20:46 08/04/2020
'Hãy chiêm ngắm Thánh giá Chúa' trong Tam nhật thánh này.

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu qua video triều yết chung trước khi bước vào Tam nhật thánh, là "đỉnh cao của năm phụng vụ". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: Hãy chiêm ngưỡng Chúa trên thập giá và suy niệm Tin mừng Chúa.

(Tin Vatican - Linda Bordoni)

Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát tán buổi triều yết hôm thứ Tư vừa qua bằng video, ngài mời tất cả các tín hữu hãy kín múc lòng can đảm, sức mạnh và hy vọng từ tình yêu bao la của Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Trong những tháng ngày này, ắp đầy âu lo và đau khổ vì cơn đại dịch gây ra, chúng ta có thể hỏi lòng mình về Chúa: Chúa làm gì khi đối diện với nỗi đau của chúng ta? Ngài ở đâu khi mọi thứ như đang bị đảo ngược? Tại sao Chúa không giúp chúng ta giải quyết vấn đề ngay lập tức?

Đức Thánh Cha nói: Tình yêu của Chúa Giêsu như đang đồng hành cùng chúng ta trong những ngày Tam nhật thánh này, tình yêu ấy giúp chúng ta tiến tới với niềm tin và hy vọng.

Trên thực tế, Đức Thánh Cha giải thích, các Tin mừng đã cho chúng ta biết rằng nhiều vấn nạn đã được đặt ra trong cuộc khổ nạn của Chúa, khởi đi từ khi Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem, mọi người tự hỏi cuối cùng Chúa sẽ giải thoát họ khỏi kẻ thù!

Đức Thánh Cha Phanxicô nói dân Do thái mong đợi một Đấng cứu thế hùng mạnh và chiến thắng mang lại một cuộc vinh thắng hiển hách! Nhưng như ĐTC nói: Chúa lại hiền lành và khiêm nhường, kêu gọi mọi người hãy thống hối và sống yêu thương.

Đức Thánh Cha nói nhiều người cảm thấy thất vọng, nên đã bỏ Ngài mà đi… Họ nghĩ: nếu thập giá là định mệnh của Chúa Giêsu, thì Ngài không phải là Đấng cứu thế, bởi vì Đấng cứu thế thì hùng mạnh và bất khả chiến bại! Cho nên, khi chúng ta đọc tiếp bài tường thuật Tin mừng về Cuộc Thương khó của Chúa, chúng ta phát hiện ra một điều đáng ngạc nhiên là: Lúc Chúa Giêsu sinh thì, người lính La Mã, một người không phải là môn đồ của Chúa, chứng kiến những cảnh bi thương của Chúa chịu trên Thập giá, ông ta đã chứng kiến lời Chúa xin tha thứ cho những người đã giết Ngài, làm ông vô cùng xúc động trước tình yêu vô hạn của Chúa mà thốt lên: 'Thật Ông này là Con Thiên Chúa '.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Chính người lính La mã đã công bố bộ mặt thật của Chúa, bằng cách nói ngược lại với những gì người khác đang nói.

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục giải thích rằng Thiên Chúa đã bộc lộ hoàn toàn về Ngài trên Thập giá, nhắc nhở cho các tín hữu chúng ta đừng quên rằng Thánh giá chính là ngai của Chúa. Chính trên thập giá chịu đóng đinh trong câm lặng và cô đơn, Chúa đã giang rộng đôi tay ôm ẵm tất cả mọi người, ngay cả kẻ đã đóng đinh Ngài; Ngài không để chúng ta bị vùi dập trong tội lỗi và sự chết, nhưng Ngài biến đổi chúng ta; Ngài không yêu chúng tôi bằng lời, nhưng yêu chúng ta qua chính cuộc khổ nạn bi thương của Ngài.

Hãy chiêm ngưỡng Thánh Giá của Chúa và suy niệm Tin Mừng

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục bài giáo lý của mình bằng mời gọi các tín hữu sống những ngày Tam nhật thánh này một cách sốt sắng, dù phải tham dự các nghi thức phụng vụ trực tuyến...

Với Chúa, mọi sự sẽ bình an

Thiên Chúa là Tình yêu, Đức Thánh Cha chia sẻ "mọi sự của trần thế này sẽ qua đi, chỉ có tình yêu của Chúa sẽ tồn tại!

Thiên Chúa tình yêu sẽ chữa lành, tha thứ tội lỗi chúng ta trong sự Phục sinh của Ngài, Ngài biến cái sầu lo chết chóc của thời đại chúng ta thành niềm tin và biến nỗi thống khổ của chúng ta thành hy vọng.

Đó là lý do tại sao vào buổi sáng Phục sinh, khi Chúa hiện ra, Ngài nói: Đừng sợ! Chúng con không đơn độc, Thầy ở cùng anh em...

Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận rằng Chúa Giêsu đã thay đổi lịch sử nhân loại chúng ta "bằng cách Ngài ở lại với chúng ta cho đến tận thế!"

Qua cuộc khổ nạn của Chúa, Chúa đã chiến thắng sự chết! Vì vậy, chúng ta cũng có thể thay đổi cuộc sống của mình bằng liên kết với Chúa, chúng ta không còn cô đơn vì Chúa yêu thương chúng ta, Ngài không bỏ rơi chúng ta và Ngài không bao lìa xa chúng ta".
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tản mản về con Virus Corona và tuần thánh 2020
Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung
09:38 08/04/2020
1- Theo nhận định chung, con Virus Corona, về sau được Tổ chức WHO gọi là con Covid-19, xuất hiện lần đầu tiên tại Thành phố Vũ Hán, TRUNG QUỐC trong khoảng tháng 12 năm 2019. Và cho đến hôm nay (8 giờ 00 ngày 7 tháng 4 năm 2020), Ngày Thứ Ba Tuần Thánh năm 2020, theo báo cáo của Tổ chức WHO, thì đã có đến : a) số ca nhiễm : 1.345.751; b) tử vong : 74.647; c) bình phục : 278.428. Một con virus bé tí, hình dạng đích thực cũng chưa được nhận diện rõ ràng mà đã làm đảo lộn toàn bộ thế giới và mọi vấn đề của thế giới, và tạo ra những cơn khủng hoảng trong hầu như tất cả mọi lãnh vực của đời sống con người : kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và kể cả tôn giáo…

2- Trong lãnh vực tôn giáo, tôi bỗng nhớ tới hai câu chuyện trong bộ sách Tân Ước và lời “giải thích” của Đức Giêsu trong hai trường hợp nầy : 1) Ga 9, 1-41 liên quan đến câu chuyện “Người mù từ lúc bẩm sinh”; 2) Lc 13, 1-5 liên quan đến câu chuyện những người bị Philatô giết chết và những người bị tháp Siloác sụp đổ đè chết. Trong khi phản ứng chung của những người Do thái thời đó khi đối diện với những tai hoạ như thế là mãi miết truy tìm những nguyên nhân (Ai đã gây ra chúng? Chúng từ đâu tới? Nguyên nhân của chúng lả do đâu? Do Thiên Chúa hay là do con người? V.v… Và đó cũng là phản ứng của phần đông trong chúng ta ngày nay, khi đối diện với Đại dịch COVID-19 !) thì Đức Giêsu lại muốn người ta nhìn theo hướng khác !

“Đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thưở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người : ‘Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người nầy sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?’ Đức Giêsu trả lời : ‘Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian’.” (Ga 9, 1-5).

“Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu đáp lại rằng : ‘Các ông tưởng mấy người Galilê nầy phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Siloác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy’.” (Lc 13, 1-5).

3- Như vậy, điều Đức Giêsu muốn nói ở đây, trước tiên, chẳng phải là khi đối diện với những tai hoạ xảy ra trong lịch sử và trong cuộc sống, việc trước tiên chúng ta nên làm : đó là thay vì nhìn ra bên ngoài, nhìn vào tha nhân hay ai đó (Thiên Chúa, ma quỉ, nước nầy, nước nọ, kẻ nọ, người kia…) để truy cứu trách nhiệm, và đổ lỗi mà trước tiên cần phải nhìn vào chính bản thân mình (tập thể, cá nhân…) để mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa chí ái, toàn năng và toàn tri, và với anh chị em của mình. Chúng ta, những con người hữu hạn, tầm nhìn bị hạn chế bởi những phạm trù không-thời gian, nên không thể nào thấy được và hiểu được hết và trong cùng lúc toàn bộ Công Trình của Thiên Chúa (Sáng tạo, Mặc khải và Siêu độ) diễn ra trong lịch sử và vĩnh hằng. Vì thế, tất cả những nhận định, những đánh giá, những xét đoán của chúng ta về “công việc” của Thiên Chúa đều không thể nào đầy đủ, trọn vẹn và chuẩn xác được ! Hơn nữa, sự chết, cả theo nghĩa thể lý (bios), cả theo nghĩa thuộc linh (psuché), theo thánh Phaolô, đều là “thù địch” của Thiên Chúa (x. 1 Cr 15, 26), vì thế, Thiên Chúa không thể nào là tác nhân gây ra sự chết. Tuy nhiên, cần xác tín rằng Thiên Chúa hoàn toàn có khả năng và thực sự Người đã chiến thắng sự chết, cả theo nghĩa thể lý (bios), lẫn theo nghĩa thuộc linh (psuché) (x. 1 Cr 15, 26). Thật vậy, Thiên Chúa chí ái, toàn năng và toàn tri hoàn toàn có khả năng tự mình làm cho tất cả mọi kẻ chết được phục sinh và sống sự sống thuộc linh và vĩnh hằng cùng với Người và như Người.

Thứ đến, những tai hoạ xảy ra trong lịch sử, trước tiên, là những “lời” mà Thiên Chúa muốn nói “với tôi” “nơi đây” và “lúc nầy”, chứ không phải với bất kỳ ai khác ! Có vẻ như điều Thiên Chúa muốn là liệu trong những tại hoạ nầy, tôi có biết sử dụng chúng để bày tỏ niềm tin, cậy, mến của tôi đối với Người và tha nhân hay không ! Như người ta thường nói : Thiên Chúa có thể viết thẳng trên những đường cong. Hay nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô : “Chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.” (Rm 8, 28).

4- Đã hơn một tháng vừa qua, hầu hết các giáo đường trên toàn thế giới đều tự đóng cửa, im lìm, trầm mặc…Rất ít hoặc hầu như không có ai lui tới… Các cử hành tôn giáo hoành tráng bên ngoài như trước kia hầu như không còn…Các giám mục, linh mục, bề ngoài có vẻ như “thất nghiệp” ! Hình ảnh Đức Thánh Cha PHANXICÔ một mình lầm lũi bước đi trên một con phố vắng ở Vaticăng, tháp tùng chỉ có một vị giám mục hay giáo sĩ gì đó lẽo đẽo phía sau Ngài, cách khoảng vài ba bước chân, khiến người ta không khỏi ngậm ngùi ! Bên cạnh nơi tôi ở, chỉ cách một bức tường cao 2, 5 m, Chủng viện Thánh Nicôla thuộc Giáo phận Phan Thiết, là Ngôi Nhà Thờ Chính Toà của Giáo phận Phan Thiết, trước đây, luôn rộn rã tiếng chuông, giáo dân lui tới tấp nập, đặc biệt trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng, thế mà nay, ủ rũ, im lìm, trầm mặc, tiếng chuông “nhật một” nghe cũng u buồn làm sao ! Và tôi bỗng nghĩ tới :

5- Những lời của ngôn sứ Giêrêmia :
“Mắt tôi hãy tuôn trào suối lệ cả ngày đêm không ngớt,
Vì trinh nữ cô gái dân tôi đã bị đánh nhừ đòn,
Vết trọng thương hết đường cứu chữa.
Tôi bước ra đồng nội : này kẻ chết vì gươm
Quay trở lại đô thành : nọ bao người đói lả.
Cả ngôn sứ cùng là tư tế
Lang thang khắp xứ mà không hiểu biết gì.” (Gr 14, 17-18).

6- Và câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp :
“… Người phụ nữ nói với Đức Giêsu : ‘Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi nầy; còn các ông lại bảo : Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa’. Đức Giêsu phán : ‘Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong trong thần khí và sự thật’. Người phụ nữ thưa : ‘Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự’. Đức Giêsu nói : ‘Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây’.” (Ga 4, 19-26).

7- Nào chẳng phải là đã biết bao thế kỷ qua, chúng ta (các giáo hội Kitô, và các tôn giáo bạn…) cứ mãi miết tranh cãi với nhau về việc phải thờ phương Thiên Chúa nơi nao, và biết bao cuộc chiến tranh máu đổ thành sông đã diễn ra giữa loài người với nhau đó sao ! Chẳng phải là biết bao thế kỷ qua các giáo hội, kể cả các giáo hội Kitô, đã quá quan tâm đến việc xây dựng các ngôi giáo đường vật chất, với những biểu lộ hoành tráng bên ngoài mà lơ là việc xây dựng những mối tương quan sống động giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân đó sao ! Chẳng phải là biết bao thế kỷ qua, hàng giáo sĩ đã chẳng ôm đồm bao biện hết mọi công việc, mọi sứ vụ, mọi thừa tác và gạt giáo dân ra bên lề Giáo hội, đôi khi, thậm chí, còn muốn thay thế cả Thiên Chúa nữa, đó sao ! Đây chẳng phải là cơ hội qua đó chúng ta được dạy dỗ để nhận ra tầm quan trọng tương đối của các đền thờ, các tư tế, và các cử hành bên ngoài đó sao ! Và cơ hội để nhận ra giá trị của những mối tương quan hiện sinh và cụ thể với vị Thiên Chúa Hằng sống của chúng ta đó sao !

8- Và tôi bỗng nhớ đến Bài Thánh ca của Adaria trong lò lửa :
“Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh,
Chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy.
Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết,
Lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn,
Chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa
Để chúng con được Chúa xót thương.
Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối
Và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt.” (Đn 3, 38-39).

9- Nào chẳng phải là đã biết bao thế kỷ qua những kitô hữu giáo dân chúng ta đã chẳng quen sống ỷ lại, hoàn toàn phó thác mọi sự cho hàng giáo sĩ, kể cả vận mạng thuộc linh (tức là cuộc sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi) của mình hay sao ! Nào chẳng phải là biết bao thế kỷ qua nhiều người trong chúng ta, dù không nói ra, nhưng vẫn cứ nghĩ rằng hiện trường sống đạo, môi trường tôn giáo nơi con người có thể tiếp xúc với Thiên Chúa, chỉ vỏn vẹn là các ngôi thánh đường của các xóm đạo, hoặc là các giáo xứ, và lớn hơn một chút là các giáo phận và Giáo Hội Công Giáo của mình !

“…’Đức Giêsu phán : ‘Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật’. Người phụ nữ thưa : ‘Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự’. Đức Giêsu nói : ‘Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây’.” Ga 4, 21-26).

10- Đức Thánh Cha PHANXICÔ có lẽ là một trong những vị lãnh đạo đầu tiên trong Hội Thánh nhận ra được điều nầy : đó là không thể nào canh tân được Giáo Hội và những con người của Giáo Hội nếu không tiêu diệt được khuynh hướng “bao biện” ẩn núp dưới muôn hình vạn trạng nơi hàng giáo sĩ và khuynh hương “ỷ lại” nơi hàng giáo dân, vốn là nguồn gốc của mọi thứ khuynh hướng giáo sĩ trị, quan liêu, phong kiến nơi hàng giáo sĩ và là nguồn gốc của mọi thứ khuynh hướng khoanh tay đúng nhìn của phần đông anh chị em giáo dân, đặc biệt, trong nỗ lực loan báo Tin Mừng !

11- Sáng ngày 13 tháng 3 năm 2020 vừa qua, sau thời gian 5 tuần giảng dạy Bộ Môn Kitô học cho các Đại Chủng sinh ở Đại Chủng viện Huế, trở về Sài Gòn bằng con đường Hàng Không, trước khi về lại Phan Thiết, vì có việc cần, tôi ghé lại Sài Gòn, qua đêm tại căn nhà do một cô cháu gái trông nom dùm người ta. Căn nhà nầy là nơi trước đây cứ mỗi lần vô ra Sài Gòn tôi vẫn thương ghé lại và bao giờ cũng được tiếp đón ân cần và trọng thị. Thế nhưng lần nầy, vừa lên phòng nghỉ, cô cháu gái, với nét mặt cố giấu vẻ ngại ngần, với nụ cười gượng gạo, nói vói tôi : “Cha về đây lỡ lan bệnh ra cho những người trong nhà thì sao !”. Tôi cố giữ nét mặt thản nhiên, không biểu lộ phản ứng gì, nhưng trong lòng hơi khó chịu !

Trên chuyến xe hợp đồng trở về lại Phan Thiết, anh tài xế đồng thời vừa là chủ xe nói với tôi : “Trước khi vào Sài gòn chở cha về, bà ngoại con cố ngăn cản con là trong thời đại dịch nầy, thôi con đừng đi đâu cả, ở nhà với vợ con cho nó an toàn, nhưng khi con nói là vào Sài gòn chở cha C. về thí bà ngoại con nói với con : Ừ, ai chứ chở cha C. thì tốt” ! Dĩ nhiên khi nghe nói thế, tất nhiên, tôi cảm thấy tự hào, và phấn chấn !

Hôm nay, bình tâm, suy nghĩ lại, tôi khám phá ra, than ôi ! cả hai phản ứng đều mang dáng dấp của khuynh hướng “giáo sĩ trị” cả, khuynh hướng luôn muốn tha nhân phục vụ mình chứ không phải chính mình phải phục vụ tha nhân, khuynh hướng luôn muốn cho người ta tập chú vào mình chứ không phải tập chú vào Chúa !

12- Lạy Chúa Giêsu Kitô, lúc nầy đây, con đang ở trong Tuần Thánh năm 2020, giữa Đại dịch Virus Corona, Hội Thánh đang cầu nguyện để cho mọi người biết và dám đi theo Con đường Thập giá mà Chúa đã đi qua, xin cho con biết đi theo Con đường Thập giá của Chúa, vì chỉ có Con đường đó mới dẫn đến Phục Sinh !


Chủng Viện Thánh NICÔLA-Phan Thiết, 08-4-2020.

Linh mục Phêrô NGUYỄN THIÊN CUNG.
 
Thứ Năm tuần thánh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
16:13 08/04/2020
Hằng năm trong nếp sống Giáo hội Công gíao tuần lễ sau Chúa Nhật lễ Lá là tuần thánh. Ba ngày thánh trước Chúa Nhật lễ mừng Chúa phục sinh, là những ngày cao điểm mừng kỷ niệm những biến cố cuối cùng đời Chúa Giêsu trên trần gian trước khi bị kết án chịu chết và mai táng trong mồ dưới lòng đất.

Ngày thứ Năm tuần thánh là ngày khởi đầu nhắc nhớ lại những biến đau thương sau cùng đời Chúa Giêsu trên trần gian.

Theo Kinh thánh thuật lại vào ngày này Chúa Giêsu, vào buổi chiều trước khi bị bắt, đã mừng lễ Vượt Qua theo tục lệ đạo đức người Do Thái cùng với 12 Môn đệ của mình. Trong bữa ăn Chúa Giesu cầm tấm bánh và chén rượu làm phép biến thành Bí tích Thánh Thể rồi trao cho các Môn đệ, và nhắn nhủ họ tiếp tục làm việc như thế này để tưởng nhớ đến mình. Vì Chúa Giêsu biết người sẽ bị Juda Iscariot phản bội và ngài sẽ phải chết. ( Mt 26,21).

Phúc âm theo Thánh sử Gioan thuật lại, Chúa Giêsu trong bữa ăn còn rửa chân cho các Môn đệ của mình như dấu chỉ sự yêu thương con người. ( Ga 13,5-15).

Sau khi ăn bữa chiều mừng lễ Vượ Qua với các môn đệ mình, Chúa Giêsu cùng với họ đi đến núi vườn cây dầu - Trong khu vườn này ngày nay còn những cây Olive cổ thụ đứng vững xanh tốt, như nhân chứng biến cố đêm xưa Chúa Giêsu đã đến đây qùi gối cầu nguyện trước khi bị bắt tại nơi đây. Những cây Oliven cổ thụ được các nhà khoa học khảo cổ xét nghiệm có gốc rễ từ thế kỷ 4. trước Chúa giáng sinh, không có xác định tuổi của những cây này. Nhưng người ta cho rằng chúng có tuổi thọ từ một ngàn năm tới hai ngàn năm. Ngay bên cạnh khu vườn cây dầu lịch sử nhân chứng này ngôi thánh đường cho các dân tộc, to lớn nguy nga được xây dựng giữa những năm 1919- 1924. Trong thánh đường này, nơi cung thánh trước bàn thờ có tảng đá mầu trắng rộng lớn, nơi ngày xưa Chúa Giêsu Kitô trong đêm trước khi bị bắt đã qùi gối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha.

Tại khu vườn cây dầu này Chúa Giêsu đã nói tiên báo Thánh Phero sẽ chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Nơi đây trong đêm sầu khổ Chúa Giêsu ra đi cầu nguyện, các Môn đệ đã ngủ thiếp đi không thức với thầy mình. Trong cơn buồn sầu lo sợ, Chúa Giêsu đã kêu xin Thiên Chúa Cha cất chén đắng sự đau khổ cho mình khỏi phải chịu số phận bị đe dọa phải chết. Nhưng Ngài lại tỏ lòng vâng lời chấp nhận như thánh ý Thiên Chúa đã định. ( Mt 26,30-40).

Trong khu vườn này, sau khi Chúa Giesu cầu nguyện một mình trở lại thấy các Môn đệ còn ngủ, vào đúng lúc Juda Iscariot dẫn quân lính đến bắt Chúa Giêsu, và điệu đến trao nộp cho Thầy cả thượng phẩm xét xử. ( Mt 26, 45-50).

Biến cố thương khó chịu khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu từ đêm hôm đó cách đây hơn hai ngàn năm. Từ khi nào Giáo hội Chúa ở trần gian có tập tục đạo đức phụng vụ mừng biến cố ngày thứ Năm tuần thánh, không có sử sách nào ghi lại.

Từ thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh đã có tập tục đạo đức này với tên dies viridium- Ngày xanh - trong ý nghĩa ngày ban ơn tha thứ tội lỗi và hình phạt. „ Dies viridium" được rút ra từ ý nghĩa câu kinh thánh“ Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô sẽ ra sao?“ ( Luca 23,31).

Theo tập tục nếp sống phụng vụ trong Giáo hội, ngày thứ năm tuần thánh, mừng kỷ niệm Bí tích Thánh Thể, bữa tiệc ly, trong thánh lễ, lễ phục không dùng mầu xanh mà mầu trắng. Nên danh hiệu dies viridium không xác định rõ về nguồn gốc khả tín.

Có lẽ vì thế, ngày Thứ Năm tuần thánh còn có tên gọi khác bằng tiếng Latein „ dies cenae domini - Ngày bữa tiệc ly của Chúa“. „ dies absolutionis - Ngày ơn tha thứ tội lỗi“- „ dies indulgentiae - Ngày ơn toàn xá“, „ dies mandati - Ngày lễ rửa chân“ „ dies azymorum- Ngày bánh không men“, hay consecratio chrismatis - ngày làm phép dầu thánh: Dầu Thánh chrisam, dầu thánh rửa tội và dầu thánh xức dầu bệnh nhân.

Mừng kỷ niệm biến cố cuối cùng đời Chúa Giêsu Kitô lập Bí Tích Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin người tín hữu Chúa Kitô trong tâm tình kính trọng vui mừng và biết ơn.

Từ những tuần lễ qua, người tín hữu Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu không có cơ hội tham dự mừng thánh lễ Misa cùng tiếp nhận Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô cho tâm hồn đức tin, trong suốt mùa chay và tuần thánh 2020, và có thể còn kéo dài hơn nữa… Vì tình trạng bệnh dịch do vi trùng Corona truyền nhiễm lây lan đe đọa sức khoẻ sự sống con người, ngăn cản mọi sinh hoạt đi lại tụ họp dâng thánh lễ trong đời sống xã hội. Vì thế, người tin hữu Chúa Kitô tâm cảm thấy thiếu thốn lương thực tinh thần nâng đỡ đức tin.

Nhưng xác tin rằng Chúa không bỏ rơi con người. Lời Chúa vẫn luôn là lương thực củng cố an ủi cho tinh thần đời sống đức tin con người hôm qua, hôm nay và ngày mai.

Bệnh dịch Corona truyền nhiễm là một thử thách lớn trong đời sống nhân loại, cùng gây ra thảm họa cho con người. Nhưng nó không phải là tận cùng chấm dứt sự sống trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Thứ Năm tuần thánh 09.04.2020.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
 
Văn Hóa
Chờ con về để được rửa chân
LM. Giuse Trương Đình Hiền
09:51 08/04/2020
Chút cảm nhận sứ điệp “RỬA CHÂN” ngày Thứ Năm Tuần Thánh

Con về mang vết bùn nhơ uế
Bụi trần gian lấm láp u mê.
Bạc tóc gió sương đầy duyên nợ,
Dài đường chân bước vội quay về.

Con về mang trái tim mưng mủ,
Còn chăng ấm lạnh cuộc tình xa.
Lửa tắt nên chi bình khô rượu,
Nụ hôn nồng rồi cũng phôi pha.

Con về đôi tay gầy xơ xác,
Ngập ngụa đời sóng bạc bon chen.
Lầm lũi như những vì sao lạc,
Bên đời còn lại mớ đêm đen.

Con về đôi mắt mù quờ quạng,
Bởi triền miên thức đủ tròn canh.
Để dõi chuyện đời qua năm tháng,
Mà quên nhắm lại chút yên lành.

Con về để một lần ở lại,
Một lần Thầy âu yếm rửa chân.
Rửa sạch thôi bụi đời quan tái,
Mà nghe lời tình tự ân cần.

Con về để thấy đời thơ bé,
Và nghe máu thật chảy về tim.
Thỏ thẻ tình thơ vang rất nhẹ,
Khúc yêu thương gõ nhịp êm đềm.

Con về dẫu để thành tay trắng,
Bây giờ ôm được cả bao la.
Gánh khổ niềm đau giờ thôi nặng,
Vai gầy nay thắm lại ngọc ngà.

Con về đường bỗng dưng rực sáng,
Kiếp mù xưa trả lại đời hoang.
Từ đường mấy năm chờ hoang lạnh,
Giày mới, áo xinh rượu tuôn tràn.

Thứ Năm thêm một lần duyên nợ,
Chờ con về để được rửa chân.
Để nghe điệp khúc tình yêu đó,
“Hãy yêu thương, yêu cả vạn lần”.

Sơn Ca Linh (Tuần Thánh 2020)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đàng Thánh Giá
Dominic Đức Nguyễn
11:12 08/04/2020
ĐÀNG THÁNH GIÁ
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn

Xưa Chúa trên đường Gôn-gô-ta,
Nhục hình quặn quại, máu lệ nhòa,
Hơi thở đứt đoạn, thân gục ngã,
Thánh Giá trĩu nặng bởi tội ta.
(Trích thơ của Đinh Văn Tiến Hùng)
 
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thánh Giá Tình Yêu
Nguyễn Trung Tây Lm.
21:49 08/04/2020
THÁNH GÍA TÌNH YÊU

Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)

Lạy Chúa! Thánh giá năm xưa đó!

Treo cao Con Trời bởi chữ yêu!

(NTT)
 
VietCatholic TV
Cách thức để nhận Ơn Toàn Xá vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 10 tháng Tư, 2020
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
01:23 08/04/2020
Đức Tổng Giám Mục Jose Gomez của Los Angeles và là chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã mời các tín hữu tham gia với ngài trong giây phút cầu nguyện vào Thứ Sáu Tuần Thánh 10 tháng Tư cùng với Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám Mục yêu cầu chúng ta cầu nguyện để tìm kiếm sự chữa lành cho tất cả những người không khỏe, ơn khôn ngoan cho những người đang làm việc để ngăn chặn sự lây lan của coronavirus, và sức mạnh cho tất cả con cái Chúa.

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày mà các Kitô hữu trên khắp thế giới long trọng tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ và chết trên thập tự giá. Theo truyền thống, người Công Giáo đánh dấu ngày này với việc ăn chay, sám hối và suy tư về sự hy sinh yêu thương của Chúa Giêsu. Cơ hội để cùng nhau cầu nguyện trong đại dịch coronavirus này mang đến một giây phút hiệp nhất đặc biệt cho các tín hữu trong thời gian mà các cộng đồng trên khắp Hoa Kỳ và trên toàn thế giới không thể tụ tập cùng nhau trong Tuần Thánh và Phục Sinh vì COVID-19.

Ngoài ra, với sự cho phép đặc biệt nhận được từ Tòa Ân Giải Tối Cao, một ơn Toàn Xá được ban cho những ai tham gia cùng Đức Tổng Giám Mục Gomez trong Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa Giêsu vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa Giêsu với Đức Tổng Giám Mục Gomez sẽ được livestream trên trang web của Tổng giáo phận Los Angeles và trên trang Facebook của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Thời gian livestream là 9g sáng Thứ Sáu Tuần Thánh 10 tháng Tư, theo giờ địa phương California.

9g sáng Thứ Sáu Tuần Thánh giờ California

Giờ Miền Đông Hoa Kỳ là 12 giờ trưa 10 tháng Tư.

Giờ Việt Nam là 11 giờ tối thứ Sáu 10 tháng Tư.

Giờ Melbourne, Sydney là 3 giờ sáng thứ Bẩy 11 tháng Tư.

Địa chỉ https://lacatholics.org/sacred-heart/ hay https://www.facebook.com/usccb.

Để nhận Ơn Toàn Xá, các tín hữu được khuyến khích tham dự trực tuyến trong buổi đọc Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa Giêsu với các tín hữu tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đó không phải là điều kiện bắt buộc để nhận được Ơn Toàn Xá. Các tín hữu sẽ nhận được Ơn Toàn Xá nếu họ đọc Kinh Cầu Trái Tim Đức Chúa Giêsu vào Thứ Sáu Tuần Thánh, bất kỳ giờ nào, trong tâm tình hiệp thông với các tín hữu Hoa Kỳ. Họ cũng phải hội đủ các điều kiện luật định là xưng tội, rước lễ, từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi, và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những bệnh nhân nhiễm coronavirus, các nhân viên y tế, và những ai đang phải đau khổ vì trận dịch kinh hoàng này trên thế giới và cách riêng tại Hoa Kỳ. Sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao ký ngày 19 tháng Ba truyền rằng trong tình trạng dịch bệnh hiện nay việc xưng tội, rước lễ có thể được thực hiện sau ngay khi có thể.

 
Đàng Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh dành cho những người không thể đến nhà thờ theo bản văn Tòa Thánh
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:13 08/04/2020


Toàn bộ Đàng Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh dành cho những người không thể đến nhà thờ theo bản văn Tòa Thánh 2020 có thể lấy xuống ở đây:
https://drive.google.com/open?id=1bsO23C9rys-eL6GBp5IUSdB4NAJclSBZ
hay
http://vietcatholic.org/media/viacrucis2020.pdf

Thông thường, lúc 9 giờ 15 phút tối thứ Sáu Tuần thánh, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma. Nghi thức này được hàng chục đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Mỗi năm, có khoảng 20 ngàn tín hữu đến tham dự nghi thức này.

Truyền thống đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo đã được người Công Giáo Rôma thực hành trong nhiều thế kỷ bắt đầu từ thế kỷ 18 dưới thời Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 14, và được hồi sinh vào năm 1964 bởi Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục.

Từ thời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo cũng trở thành một sự kiện được truyền hình trên toàn thế giới.

Truyền thống viết các bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseo khác với những bài nguyện ngắm như trong các kinh bổn thường đọc đã được bắt đầu với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào năm 1991. Văn bản các chặng Đàng Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Colosseo phản ảnh cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo trước thực trạng văn hóa, xã hội và luân lý trong xã hội đương đại. Nó cũng nêu bật tình trạng bị bách hại của các Kitô hữu trên toàn thế giới, tình trạng bất công, những khổ đau của người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Nhiều bài suy niệm đã đi vào lịch sử như những áng văn chương tuyệt tác như bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseo vào năm 2007 của Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Di Sản Văn Hoá của Giáo Hội.

Năm nay, do tình hình dịch bệnh, Đàng Thánh Giá trọng thể tại Colosseo, sẽ được Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự tại Bàn Thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô vào lúc 9g tối ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 10 tháng Tư tới đây.

Tuy nhiên, truyền thống viết các bài Suy Niệm khác với những bài nguyện ngắm như trong các kinh bổn thường đọc vẫn không thay đổi.

Trong lời nói đầu, văn bản vừa được Tòa Thánh công bố cho biết như sau:

Những bài Suy Niệm Đàng Thánh Giá năm nay được chuẩn bị bởi cha tuyên uý tại “ Due Palazzi”, một trại giam tại Padua. Mười bốn người đã được Đức Thánh Cha Phanxicô mời viết các bài suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, suy tư về cuộc thương khó Chúa trong những tình huống của chính họ. Những người được mời bao gồm năm tù nhân, một gia đình là nạn nhân của một vụ giết người, con gái của một người tù chung thân, một giáo viên nhà tù, một thẩm phán dân sự, một người mẹ có con là tù nhân, một giáo lý viên, một tu sĩ tình nguyện, một nhân viên bảo vệ nhà tù và một linh mục đã bị buộc tội và cuối cùng được trắng án sau tám năm oan uổng trong vòng lao lý.

Đồng hành cùng với Chúa Kitô trên con đường Thánh giá, với giọng nói đơn sơ của những người sống sau các bức tường nhà tù, là cơ hội để chúng ta thấy cuộc chiến vĩ đại giữa sự sống và cái chết, để khám phá những sợi chỉ của thiện và ác đan xen với nhau không thể tránh khỏi. Suy Niệm cảnh tượng Chúa bước lên đồi Canvê từ phía sau song sắt là tin rằng toàn bộ cuộc sống có thể thay đổi trong một vài khoảnh khắc, như đã từng xảy ra với tên trộm lành. Tất cả những khoảnh khắc này sẽ được lấp đầy bằng sự thật: phạt tạ những tội lỗi đã gây ra, nhận ra rằng cái chết không phải là mãi mãi, trong ánh sáng của một thảm kịch lịch sử khi Chúa Kitô là người vô tội chịu nhục mạ, và chịu kết án một cách bất công. Mọi thứ đều có thể đối với những ai tin, bởi vì ngay cả trong bóng tối của nhà tù vẫn vang lên lời loan báo tràn đầy hy vọng: “ Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể “(Lc 1:37). Nếu ai chìa ra cho họ một bàn tay, những kẻ có khả năng phạm những tội ác khủng khiếp nhất vẫn có thể trải qua sự hồi sinh bất ngờ nhất. Chúng ta có thể chắc chắn rằng “ngay cả khi chúng ta nói về cái ác, chúng ta vẫn có thể học cách dành ra không gian cho ơn cứu độ; ở giữa chập chùng sự dữ, chúng ta cũng có thể nhận ra các hoạt động của sự thiện và dành ra không gian cho sự thiện” (Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô Ngày Thế Giới Truyền Thông 2020).

Như thế, Đàng Thánh Giá – Via Crucis - trở thành Đàng Ánh Sáng – Via Lucis.

Các văn bản này, được soạn thảo bởi Cha Marco Pozza, tuyên úy nhà tù, và Thầy Tatiana Mario, tình nguyện viên, được viết ở ngôi thứ nhất, nhưng các vị đã quyết định không nêu tên cụ thể của người viết, vì những người tham gia vào bài suy niệm này muốn cho dùng tiếng nói của mình để nói thay cho tất cả những người trên toàn thế giới đang ở trong tình trạng tương tự. Tối nay, trong sự im lặng của nhà tù, tiếng nói của một người mong muốn trở thành tiếng nói của tất cả.

Đàng Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự



Mở đầu

Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là Cha toàn năng, nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Cha, Cha đã gánh lấy những vết thương và đau khổ của nhân loại.

Hôm nay, con thu hết can đảm để cầu xin Chúa, giống như người trộm lành: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con!”

Con đang ở đây, một mình trước Chúa, trong bóng tối của nhà tù này: nghèo đói, trần truồng, đói khát và bị coi thường, và con xin Chúa hãy xức lên vết thương của con dầu tha thứ và ủi an, cùng với rượu của tình đoàn kết củng cố trái tim.

Lạy Chúa, xin chữa lành con với ân sủng Chúa và con biết hy vọng giữa chập chùng những tuyệt vọng.

Lạy Chúa và là Thiên Chúa con, con tin tưởng vào Chúa; xin giúp con vượt qua những nghi ngại của mình.

Lạy Cha nhân hậu, xin hãy tiếp tục tin tưởng vào con, cho con những cơ hội tươi mới, để ôm con vào tình yêu vô bờ bến của Chúa.

Nhờ sự phù trì của Chúa và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, con cũng sẽ có thể nhận ra Chúa và phục vụ Chúa trong những anh chị em của con.

Amen.


Chặng thứ nhất

Chúa Giêsu bị kết án tử hình

(Bài suy niệm của một tù nhân đang thụ án chung thân)



Ông Philatô muốn thả Đức Giêsu, nên lại lên tiếng một lần nữa. Nhưng họ cứ một mực la lớn: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá! “ Lần thứ ba, ông Philatô nói với họ: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.

Ông Philatô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn. (Lc 23: 20-25).


Nhiều lần tiếng gào lên “Đóng đinh, đóng đinh nó đi! được hét lên trong phòng xử án và trên các tờ báo. Tôi thậm chí đã từng nghe thấy những tiếng gào chống lại tôi: Tôi đã bị kết án, cùng với cha tôi, một bản án tù chung thân. Bản án đóng đinh dành cho tôi bắt đầu khi tôi còn là một đứa trẻ: nhớ lại thời thơ ấu của mình, tôi thấy mình cuộn tròn trên chiếc xe buýt đưa tôi đến trường, ngồi cô đơn không bạn bè vì tật nói lắp của tôi. Tôi bắt đầu đi làm khi còn nhỏ, không có cơ hội học tập: sự ngu dốt chiếm ưu thế trong thời niên thiếu. Sau đó, những trò bắt nạt đã đánh cắp những gì còn lại của thời ấu thơ khỏi cậu bé sinh ra ở Calabria trong những năm 1970. Tôi giống Barabbas hơn Chúa Kitô, nhưng sự lên án gay gắt nhất vẫn là lương tâm của chính tôi: vào ban đêm, tôi mở mắt ra và tôi tuyệt vọng tìm kiếm một ánh sáng dõi chiếu lên câu chuyện đời của tôi.

Một mình trong phòng giam, khi tôi đọc lại những trang về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, tôi đã bật khóc: sau 29 năm trong tù tôi vẫn chưa mất khả năng rơi lệ, và vẫn có thể cảm thấy xấu hổ về lịch sử quá khứ và về những tội ác mà tôi đã gây ra. Tôi cảm thấy tôi như một tổng hợp của Baraba, Phêrô và Giuđa trong một người duy nhất. Tôi thấy sững sờ bởi quá khứ của mình, mặc dù tôi biết đó là câu chuyện của chính mình. Tôi đã sống nhiều năm trong các điều kiện kiên giam của Điều 41b theo Đạo luật Quản lý Nhà tù và cha tôi đã chết trong cùng điều kiện đó. Nhiều lần vào ban đêm tôi nghe thấy cha tôi khóc trong phòng giam. Ông cố giấu điều đó, nhưng tôi biết. Cả hai chúng tôi đều chìm vào bóng tối sâu thẳm. Tuy nhiên, trong cuộc sống không ra sống đó, tôi luôn tìm kiếm thứ gì đó là cuộc sống thật: có lẽ thật lạ lùng để nói rằng nhà tù mang đến ơn cứu rỗi cho tôi. Nếu, đối với một số người, tôi vẫn là Baraba, điều đó không làm tôi tức giận: tôi biết trong lòng mình rằng Đấng vô tội, bị kết án như tôi, đã đến tìm tôi trong tù để dạy tôi về cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu, bất chấp sự náo động, chúng con thoáng thấy Chúa giữa đám đông đang gào thét đòi đóng đinh Chúa; có lẽ chúng con cũng nằm trong số đó, mù quáng trước cái ác mà chúng con có khả năng gây ra. Từ các phòng giam của chúng con, chúng con muốn cầu nguyện với Chúa Cha cho tất cả những người, giống như Chúa, bị kết án tử hình và cho tất cả những người sẽ dành bản án chính họ cho sự phán xét tối cao của Chúa.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là Đấng yêu mến, trong bí tích Hòa giải, Chúa luôn cho chúng con cơ hội mới để trải nghiệm lòng thương xót vô biên của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa ban cho chúng con ân sủng khôn ngoan để chúng con có thể xem mọi người nam nữ là một đền thờ của Thánh Thần Chúa và tôn trọng phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ hai

Chúa Giêsu vác Thánh giá

(Suy niệm của người cha và người mẹ có con gái bị sát hại)

Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do Thái!” Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá. (Mc 15: 16-20).

Trong mùa hè khủng khiếp đó, cuộc sống của chúng tôi như những người cha người mẹ đã chết cùng với hai cô con gái của chúng tôi. Một trong hai đứa đã bị sát hại cùng với người bạn thân nhất của cháu bởi bạo lực mù quáng của một người đàn ông tàn nhẫn; cháu kia sống sót như trong một phép lạ, đã mãi mãi không mỉm cười được nữa. Cuộc sống của chúng tôi là một cuộc sống hy sinh vì công việc và gia đình. Chúng tôi dạy con cái tôn trọng người khác và coi trọng việc phục vụ người nghèo. Chúng tôi thường tự hỏi: “Tại sao sự dữ kinh khủng nhấn chìm chúng tôi như thế lại xảy ra với chúng tôi? Chúng tôi thấy bất an. Cũng chẳng có công lý nào, mà chúng tôi hằng tin tưởng, có thể làm vơi đi những vết thương sâu sắc này: bản án đau khổ gán cho chúng tôi sẽ không bao giờ kết thúc.

Thời gian không làm giảm sức nặng của thập giá đặt lên vai chúng tôi: chúng tôi không thể quên được đứa con gái không còn ở bên chúng tôi nữa. Chúng tôi là những người già, ngày càng dễ bị tổn thương và là nạn nhân của nỗi đau tồi tệ nhất trên đời, làm sao sống nổi sau cái chết của đứa con gái.

Điều này thật khó nói, nhưng tại thời điểm mà sự tuyệt vọng dường như chiếm lấy chúng tôi, Chúa theo những cách khác nhau đã đến gặp chúng tôi, ban cho chúng tôi ân sủng để yêu thương nhau như vợ chồng, và hỗ trợ lẫn nhau, dù khó khăn đến đâu. Chúa mời chúng tôi mở rộng cửa nhà mình cho người nghèo và những người tuyệt vọng, chào đón bất cứ ai gõ cửa, cả với những người chỉ muốn xin một chén súp. Đối với chúng tôi lệnh truyền thực thi các hành vi bác ái là phương dược cứu rỗi: chúng tôi không muốn đầu hàng trước cái ác. Tình yêu của Chúa thực sự có khả năng làm mới cuộc sống bởi vì, trước chúng tôi, Chúa Giêsu là Con Chúa đã trải qua đau khổ của con người để trải nghiệm lòng thương xót thực sự.

Chúa ơi, thật đau lòng khi thấy Chúa bị đánh, chế giễu và lột áo xống, một nạn nhân vô tội của sự tàn ác vô nhân đạo. Trong đêm đau khổ này, chúng con cầu xin Chúa Cha và giao phó cho Ngài tất cả những người đã chịu đựng những hình thái bạo lực và những điều gian ác xấu xa.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là công lý và ơn cứu chuộc của chúng con, là Đấng đã ban cho chúng con Con Một Chúa và tôn vinh Người trên ngai thập giá, xin thấm nhuần hy vọng Chúa trong lòng chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa đang hiện diện trong những thời khắc đen tối của cuộc đời. Xin an ủi chúng con trong mọi phiền não và hỗ trợ chúng con trong các thử thách trên đường đời khi chúng con mong đợi Nước Chúa trị đến. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ ba

Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất

(Suy niệm của một tù nhân)

Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Thiên Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. (Is 53: 4-6).

Đó là lần đầu tiên tôi vấp ngã, nhưng đối với tôi, cái vấp ngã ấy là cái chết: tôi đã lấy đi mạng sống của một người. Chỉ mất một ngày để chuyển từ một cuộc đời lương thiện sang việc thực hiện một hành vi bao gồm trong đó mọi vi phạm đối với tất cả các điều răn. Tôi cảm thấy tôi giống như một phiên bản hiện đại của tên trộm, là người đã khẩn nài Chúa Kitô “Lạy Chúa, xin nhớ đến tôi nhé!” Tôi tưởng tượng ra anh là một hối nhân, nhưng hơn hết, đó là một người ý thức được mình đã lầm đường lạc lối. Từ nhỏ tôi đã nhớ môi trường lạnh lẽo và thù địch tôi đã lớn lên từ đó. Trong cái môi trường ấy, người ta say sưa tìm ra các nhược điểm của người khác để biến nó thành một trò tiêu khiển. Tôi tìm kiếm những người bạn thực sự, tôi muốn được chấp nhận cho dù tôi là ai, nhưng tôi không thể. Tôi bực bội vì hạnh phúc của người khác, tôi cảm thấy bị cản trở, họ chỉ bắt tôi phải hy sinh và tuân theo các quy tắc: Tôi cảm thấy như một người xa lạ với mọi người và tôi tìm cách trả thù bằng mọi giá.

Tôi đã không nhận ra rằng cái ác đang dần lớn lên trong tôi. Cho đến khi, vào một buổi tối, giờ đen tối của chính tôi xuất hiện: trong một giây, giống như một trận tuyết lở, ký ức về tất cả những bất công mà tôi phải chịu trong cuộc đời bùng nổ. Sự tức giận đã giết chết lòng tốt của tôi, tôi đã phạm phải một điều ác lớn hơn bất kỳ những gì mà tôi đã nhận được. Sau đó, trong tù, sự đối xử tệ bạc của người khác đã khiến tôi tự hận mình: tôi đã gần buông trôi tất cả, tôi đã đạt đến giới hạn. Tôi cũng đã hủy hoại gia đình mình: vì tôi mà họ mất thanh danh và sự kính trọng; họ đã trở thành gia đình của một kẻ giết người. Tôi không bào chữa và tìm cách giảm nhẹ, tôi sẽ chấp hành án phạt của mình đến cùng vì trong tù tôi đã tìm thấy những người đã cho tôi trở lại niềm tin mà tôi đã mất.

Vấp ngã đầu tiên của tôi là không nhận ra rằng lòng tốt tồn tại trong thế giới này. Vấp ngã thứ hai của tôi, vụ giết người, thực sự là hậu quả của cái vấp ngã thứ nhất, vì tôi đã chết bên trong lòng mình.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng đã ngã xuống đất. Có lẽ cái vấp ngã đầu tiên của Chúa là khó khăn nhất vì nó hoàn toàn mới: tác động của nó rất mạnh và khiến Chúa rúng động. Chúng con giao phó cho Chúa Cha tất cả những người bị cuốn vào chính họ đến nỗi họ không thể thừa nhận những tội lỗi mà họ đã phạm phải.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, Chúa đã nâng loài người chúng con dậy khi chúng con ngã xuống. Chúng con xin Chúa đến để giúp chúng con trong sự yếu đuối của chúng con và cho chúng con đôi mắt để thấy những dấu chỉ tình yêu của Chúa ở mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày của chúng con. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ tư.

Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ

(Suy niệm của một người Mẹ có con là tù nhân)

Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19: 25-27).

Không một phút giây nào tôi bị cám dỗ từ bỏ con trai mình khi đối diện với bản án của nó. Ngày nó bị bắt đã thay đổi toàn bộ cuộc sống của chúng tôi: cả gia đình đã vào tù thăm nó. Ngày nay sự phán xét của mọi người vẫn không thể hiểu được: giống như một con dao sắc bén, những ngón tay nhọn chống lại tất cả chúng con, làm tăng thêm sự đau khổ mà chúng tôi đã mang trong lòng.

Những vết thương cứ lớn dần theo từng ngày, những vết thương ấy làm chúng tôi nghẹt thở.

Tôi cảm thấy Mẹ Maria gần gũi với tôi: Mẹ giúp tôi không rơi vào tuyệt vọng và đương đầu với nỗi đau. Tôi đã giao phó con trai tôi cho Mẹ: chỉ với Đức Maria tôi mới có thể thổ lộ nỗi sợ hãi của mình, vì chính Mẹ đã trải nghiệm những kinh nghiệm cay đắng và kinh hoàng ấy trên đường lên đồi Canvê. Trong thâm tâm, Mẹ biết rằng Con mình sẽ không thoát khỏi sự gian ác của con người, nhưng Mẹ không bỏ rơi Chúa. Mẹ đứng đó chia sẻ nỗi đau khổ của Người, đồng hành với Người qua sự hiện diện của Mẹ. Tôi nghĩ về Chúa Giêsu đang nhìn xuống, thấy đôi mắt Mẹ ngước lên tràn đầy tình yêu mến, và không cảm thấy cô đơn.

Tôi muốn làm như vậy.

Tôi tự trách mình đã để con gây ra lỗi lầm. Tôi cũng cầu xin sự tha thứ vì trách nhiệm riêng của mình. Tôi cầu xin sự thương xót mà chỉ có một người mẹ mới có thể cảm thông, để con trai tôi có thể trở lại cuộc sống sau khi phải trả giá cho tội ác của nó. Tôi cầu nguyện liên tục cho nó, để ngày qua ngày nó có thể trở thành một người đàn ông khác, có khả năng yêu thương bản thân và người khác một lần nữa.

Lạy Chúa Giêsu, gặp mẹ trên con đường thập giá có lẽ là điều cảm động và đau buồn nhất trong tất cả.

Giữa ánh mắt của Chúa và của Mẹ, chúng con đặt tất cả các gia đình và bạn bè, và những ai cảm thấy đau đớn và bất lực trước số phận của những người thân yêu của mình.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Ôi Mary, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của Giáo hội, môn đệ trung thành của Con Mẹ, chúng con hướng về Mẹ và giao phó cho ánh mắt yêu thương của Mẹ và trái tim dịu dàng từ mẫu của Mẹ, tiếng khóc của cả nhân loại đang chờ đợi mỗi ngày những giọt lệ được lau khô trên khuôn mặt của họ. Amen.

Chặng thứ năm

Ông Simôn xứ Kyrênê vác đỡ Thánh Giá Chúa

(Bài suy niệm của một tù nhân)

Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu (Lc 23:26).

Với công việc của mình, tôi đã giúp các thế hệ trẻ tự tin vào chính mình. Rồi một ngày tôi thấy mình nằm trên mặt đất. Như thể họ đã đập bể lưng tôi: công việc của tôi là cái cớ cho một bản án nhục nhã. Tôi vào tù: nhà tù vào nhà tôi. Kể từ đó tôi trở thành kẻ bị ruồng bỏ trong thành phố: Tôi đã mất tên tuổi, bây giờ tôi được biết đến qua tội ác mà tôi đã bị buộc tội, tôi không còn làm chủ được cuộc đời của mình nữa. Khi tôi nghĩ về quá khứ, đứa trẻ với đôi giày mòn, chân ướt, quần áo cũ xuất hiện trong tâm trí: đứa trẻ đó là tôi, tôi đã từng là một đứa trẻ như vậy. Rồi một ngày nọ, tôi bị bắt: ba người đàn ông mặc đồng phục, một thủ tục lạnh lùng, nhà tù nuốt chửng tôi trong cái xác bê tông của nó.

Cây thánh giá họ đặt trên vai tôi là một cây rất nặng. Theo thời gian, tôi đã học được cách sống với nó, nhìn thẳng vào mặt nó, gọi tên của nó: chúng tôi trải qua nhiều đêm đồng hành với nhau. Bên trong các nhà tù, cái tên Simôn xứ Kyrênê được mọi người biết đến: đó là tên thứ hai của những người tình nguyện, những người leo lên đồi Canvê này để giúp vác thập giá; họ là những người từ chối thứ luật pháp được đóng gói sẵn và lắng nghe tiếng lương tâm của mình. Cả Simôn xứ Kyrênê cũng là người bạn trong tù của tôi: Tôi đã gặp anh vào đêm đầu tiên trong tù. Anh là một người đã làm công việc tình nguyện này trong nhiều năm, không được ai khen cũng chẳng có thu nhập gì. Tài sản duy nhất của anh là một hộp kẹo. Anh ấy có một chiếc kẹo rất hấp dẫn, nhưng anh nhất mực bảo tôi hứa với anh là đừng ăn nhưng hãy tặng cho vợ tôi trong lần thăm nuôi đầu tiên: cô ấy bật khóc trước cử chỉ bất ngờ và chu đáo đó.

Tôi đang già đi trong tù: Tôi mơ ước một ngày nào đó, tôi sẽ có thể tin tưởng người khác. Tôi mơ ước trở thành một ông Simôn xứ Kyrênê, mang lại niềm vui cho ai đó.

Lạy Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến khi Chúa gặp gỡ một người lạ giúp Chúa vác thập giá, Chúa đã muốn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chúng con. Chúng con cũng vậy, giống như người xứ Kyrênê, mong muốn được gần gũi với anh chị em của mình và giúp đỡ trong việc dâng lên lòng thương xót của Chúa Cha để Người phá vỡ ách áp bức họ.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là Đấng bảo vệ người nghèo và an ủi những người đau khổ, xin củng cố chúng con bằng sự hiện diện của Chúa và giúp chúng con chịu đựng mỗi ngày ách dễ dàng những điều răn yêu thương của Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Amen.

Chặng thứ sáu

Bà Veronica trao khăn cho Chúa Giêsu lau mặt

(Bài suy niệm của một giáo lý viên)

Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con. (Tv 27:8-9)

Là một giáo lý viên, tôi lau đi nhiều nước mắt, trong khi cứ để chúng tiếp tục tuôn trào: chúng tuôn ra không kiểm soát được từ những trái tim tan vỡ. Nhiều lần tôi gặp những linh hồn tuyệt vọng, trong bóng tối của nhà tù, cố gắng tìm một lý do cho sự dữ mà đối với họ dường như bất tận. Nước mắt của họ xuất phát từ những thất bại và cô đơn, hối hận và thiếu hiểu biết. Tôi thường tưởng tượng nếu Chúa Giêsu ở trong tù như tôi: Ngài lau nước mắt như thế nào? Ngài có thể làm dịu nỗi thống khổ của những người cảm thấy bị mắc kẹt trong những gì họ đã trở thành vì chiều theo sự dữ ra sao?

Đưa ra được một câu trả lời là rất khó, quá thường khi là không thể trong giới hạn luận lý nhỏ bé của con người chúng ta. Cách mà Chúa Kitô chỉ ra cho tôi là chiêm niệm, đừng sợ hãi, những khuôn mặt bị hủy hoại bởi đau khổ. Tôi được yêu cầu ở lại đó với họ, tôn trọng sự im lặng của họ, lắng nghe nỗi đau của họ và tìm cách nhìn xa hơn các định kiến. Cũng giống như cách Chúa Kitô nhìn vào những điểm yếu và hạn chế của chúng ta với đôi mắt tràn đầy tình yêu. Mọi người, kể cả những người trong tù, mỗi ngày đều có cơ hội trở thành một người mới, nhờ vào cái nhìn của Chúa Kitô không phán xét, nhưng mang lại sự sống và hy vọng.

Nhờ đó, những giọt nước mắt rơi có thể trở thành hạt giống của một vẻ đẹp khó có thể tưởng tượng được.

Lạy Chúa Giêsu, Bà Veronica đã cảm thương Chúa: Bà Veronica gặp gỡ một người đau khổ và phát hiện ra thiên nhan của Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng con tín thác lên Chúa Cha những người nam nữ trong thời đại chúng con đang tìm cách lau đi những giọt nước mắt của rất nhiều anh chị em của chúng con.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là ánh sáng đích thực và là nguồn mạch mọi ánh sáng, trong sự yếu đuối, Chúa mạc khải cho chúng con thấy sức mạnh và sự mãnh liệt của tình yêu Chúa. Xin Chúa ghi dấu ấn thiên nhan Chúa trong trái tim chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa trong tất cả những đau khổ của con người. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ bảy

Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai

(Bài suy niệm của một tù nhân)

Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. (Lc 23:34).

Trong quá khứ, mỗi lần đi ngang qua một nhà tù, tôi thường nhìn theo hướng khác: “Tôi sẽ không bao giờ kết thúc ở đó”, tôi nói với bản thân mình. Đôi khi, tôi cũng nhìn về hướng đó, tôi cảm thấy buồn và đen tối: tôi cảm thấy như đang đi ngang qua một nghĩa trang của những người chết biết đi. Rồi một ngày nọ, tôi kết thúc sau song sắt, cùng với em tôi. Như thể, điều đó vẫn chưa đủ, tôi đưa thêm cha mẹ tôi vào đó. Từ cuộc sống tự do bên ngoài, nhà tù giờ là nhà của chúng tôi: đàn ông chúng tôi ở trong cùng một phòng, mẹ của chúng tôi ở một phòng giam khác. Tôi nhìn họ và tôi cảm thấy xấu hổ về bản thân mình. Tôi không còn cảm thấy mình là một người đàn ông. Họ đang già đi trong tù vì tôi.

Tôi đã vấp ngã hai lần. Lần đầu tiên là khi cái ác thu hút tôi và tôi đã nhượng bộ: bán ma túy, trong mắt tôi, đáng giá hơn công việc của cha tôi, người đã phải cong lưng làm việc mười giờ một ngày. Lần thứ hai, sau khi hủy hoại gia đình, tôi bắt đầu tự hỏi mình: “Tôi là cái thá gì mà Chúa Kitô phải chết cho tôi?” Tiếng kêu của Chúa Giêsu - “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” phản chiếu trong mắt của mẹ tôi: bà gánh hết mọi nhục nhã của tất cả những người đàn ông trong ngôi nhà để cứu gia đình. Và tôi đã nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt của cha tôi, khi ông lặng lẽ thở dài trong phòng giam. Chỉ hôm nay tôi mới có thể thừa nhận điều đó: trong những năm đó, tôi không biết mình đang làm gì. Bây giờ tôi biết, tôi đang cố gắng xây dựng lại cuộc sống của mình với sự giúp đỡ của Chúa. Tôi nợ cha mẹ tôi: nhiều năm trước, họ đã phải bán tất cả những gì có giá trị vì họ không muốn tôi sống trên đường phố. Trên tất cả, tôi mắc nợ chính mình: ý tưởng rằng cái ác có thể tiếp tục hướng dẫn cuộc sống của tôi là không thể chịu đựng được. Điều đó đã trở thành đàng thập giá của tôi.

Lạy Chúa Giêsu, một lần nữa Chúa đã ngã xuống đất: bị nghiền nát bởi sự quyến luyến tội lỗi của con, bởi nỗi sợ không thể trở thành người tốt hơn. Trong đức tin, chúng con hướng về Chúa Cha và cầu nguyện cho tất cả những người chưa thể thoát khỏi quyền lực của Satan, để họ có thể thoát khỏi mọi quyến rũ và những lời dụ dỗ đa dạng của nó.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, Chúa không để chúng con trong đêm đen và bóng tối của cái chết. Xin hãy củng cố chúng con, giải thoát chúng con khỏi sự ràng buộc của tội ác và che chở chúng con bằng sức mạnh của Chúa, để chúng con có thể mãi mãi hát lên lòng thương xót của Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Amen.

Chặng thứ tám

Chúa Giêsu an ủi các phụ nữ Giêrusalem

(Bài suy niệm của con gái một tù nhân bị kết án tù chung thân)

Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!” Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! (Lc 23: 27-30).

Là con gái có cha phải ngồi tù, nhiều lần, tôi bị người ta vặn hỏi:“ Bạn yêu mến cha mình, vậy bạn có bao giờ nghĩ về nỗi đau ông ta gây ra cho các nạn nhân không? Trong những năm qua, tôi không ngừng trả lời rằng: “Tất nhiên, tôi không thể không nghĩ đến điều đó”. Nhưng tôi hỏi lại họ rằng: “Có bao giờ bạn nghĩ rằng, trong số tất cả các nạn nhân của hành động do cha tôi gây ra, tôi là nạn nhân đầu tiên? Trong hai mươi tám năm, tôi đã phải lãnh một bản án quá nặng là trưởng thành mà không có cha”. Trong suốt những năm qua, tôi đã sống với sự giận dữ, bồn chồn, buồn bã vì sự vắng mặt của cha tôi là một gánh nặng lớn. Tôi đã phải đi khắp nước Ý, từ nam ra bắc, để được gần gũi với cha tôi. Tôi biết nhiều thành phố không phải vì các di tích của những thành phố này mà vì các nhà tù tôi đã đến thăm. Tôi dường như giống như nhân vật Telemachus khi ông đi tìm cha mình là Odysseus: hành trình của tôi đưa tôi đến các nhà tù trên khắp nước Ý để tìm người thân yêu.

Nhiều năm trước, tình yêu của tôi tan vỡ vì tôi là con gái của một tù nhân, mẹ tôi rơi vào tình trạng trầm cảm, gia đình sụp đổ. Tôi bị bỏ lại một mình trên trần gian này, với mức lương nhỏ bé của mình, phải chịu sức nặng của câu chuyện đáng buồn này. Cuộc sống buộc tôi phải trở thành người lớn mà không bao giờ là một đứa trẻ. Trong nhà của tôi, tất cả mọi thứ là một đàng thánh giá: Bố tôi là một trong những người bị kết án tù chung thân. Ngày tôi kết hôn, tôi đã mơ có cha tôi bên cạnh. Lúc ấy cha tôi cũng nghĩ về tôi, dù cách xa hàng trăm cây số. “Đời là thế!” Tôi nói, để khuyến khích bản thân mình. Đó là sự thật: có những bậc cha mẹ, vì yêu thương, học cách kiên nhẫn chờ đợi cho con cái họ khôn lớn. Trong trường hợp của riêng tôi, vì tình yêu, tôi chờ đợi sự trở lại của cha tôi. Đối với những người như chúng tôi, hy vọng là một nghĩa vụ.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xem những lời của Chúa nói với các phụ nữ thành Giêrusalem là một lời cảnh báo cho mỗi người chúng con. Những lời đó mời gọi chúng con hoán cải, để chuyển từ một tình cảm tôn giáo sang một đức tin bắt nguồn từ Lời Chúa. Chúng con cầu nguyện cho những người bị buộc phải chịu gánh nặng của nhục nhã, đau khổ, bị từ bỏ, thiếu sự hiện diện. Và đối với mỗi người chúng con, cầu xin cho tội lỗi của cha mẹ đừng đè nặng lên con cái họ.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là Cha từ nhân, Chúa không bỏ rơi con cái Chúa trong những thử thách của cuộc đời. Xin ban cho chúng con ân sủng để có thể nghỉ yên trong tình yêu Chúa và tận hưởng mãi mãi sự an ủi nơi sự hiện diện của Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ chín

Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba

(Bài suy niệm của một tù nhân)

Cũng là một điều hay cho người nào phải mang ách từ khi còn trẻ. Khi chính Chúa bắt nó phải mang, nó hãy cứ ngồi im lặng một mình, cứ đặt miệng nó trong bụi đất - may ra còn chút hy vọng nào chăng - nó cứ đưa má cho kẻ tát, chuốc lấy cho mình đầy nỗi nhuốc nhơ. Vì quả thật, Đức Chúa chẳng bỏ rơi mãi mãi: có làm khổ, Người cũng xót thương, vì Người vốn từ bi cao cả. (Ai Ca 3: 27-32).

Té ngã không bao giờ là điều dễ chịu; nhưng ngoài thực tế khó chịu đó ra, ngã xuống nhiều lần trở thành một loại kết án, đến mức một người không còn có khả năng đứng vững. Là một người đàn ông, tôi đã gục ngã rất nhiều lần: tôi cũng đã đứng dậy nhiều lần. Trong tù tôi thường nghĩ về việc một đứa trẻ ngã xuống đất bao nhiêu lần trước khi nó biết đi: Tôi đi đến suy nghĩ rằng đây là những bước chuẩn bị cho tất cả những lần chúng ta sẽ ngã khi trưởng thành. Khi còn nhỏ, nhà tôi giống như một nhà tù: Tôi sống trong nỗi sợ bị trừng phạt, xen kẽ giữa sự u sầu của người lớn và sự vô tư của trẻ em. Trong những năm đó, tôi nhớ Chị Gabriella, là hình ảnh hạnh phúc duy nhất trong gia đình tôi: chị là người duy nhất nhìn thấy điều tốt nhất trong tôi. Giống như Phêrô, tôi đã tìm kiếm và tìm ra nhiều lời bào chữa cho những sai lầm của mình: sự thật kỳ lạ là một mảnh lòng tốt vẫn luôn tồn tại trong tôi.

Tôi trở thành ông nội trong tù: Tôi không biết con gái tôi mang thai lúc nào. Một ngày nào đó, tôi sẽ kể cho cháu gái tôi nghe câu chuyện về toàn những sự tốt lành mà tôi đã tìm thấy và chẳng một điều ác nào tôi đã gây ra. Tôi sẽ kể cho cháu nghe về người mà khi tôi ngã trên mặt đất, đã mang đến cho tôi lòng thương xót của Chúa. Trong tù, hình thức tuyệt vọng tồi tệ nhất là nghĩ rằng cuộc sống không còn ý nghĩa. Đó là nỗi khổ lớn nhất: trong tất cả những người cô đơn trên thế giới, bạn cảm thấy mình là người cô đơn nhất. Đúng là cuộc sống của tôi đã tan vỡ thành một ngàn mảnh, nhưng điều tuyệt vời là những mảnh đó vẫn có thể được ghép lại với nhau. Đó không phải là chuyện dễ dàng, nhưng đó là điều duy nhất vẫn có ý nghĩa ở đây.

Lạy Chúa, Chúa đã ngã xuống đất lần thứ ba và, khi mọi người nghĩ rằng thế là kết thúc, thì một lần nữa, Chúa đứng dậy. Chúng con tự tin đặt mình vào tay Chúa Cha và giao phó cho Ngài tất cả những người cảm thấy bị giam cầm trong vực thẳm lỗi lầm của họ, để họ có thể được ban cho sức mạnh ngõ hầu có thể đứng dậy và can đảm cầu xin sự giúp đỡ.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là sức mạnh của những người hy vọng nơi Chúa, Chúa ban bình an cho những người làm theo lời dạy của Chúa. Xin nâng đỡ các bước chân lạng choạng của chúng con, xin nâng chúng con lên khi chúng con té ngã vì sự bất trung của chúng con. Xin xức dầu ủi an và rượu hy vọng vào vết thương của chúng con. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ mười

Quân dữ lột áo Ðức Chúa Giêsu

(Bài suy niệm của một giáo viên nhà tù)

Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm. (Ga 19: 23-24).

Là một giáo viên trong nhà tù, tôi thấy mọi người khi vào tù thường bị tước đoạt mọi thứ: tước bỏ mọi phẩm giá vì những tội ác mà họ đã phạm phải, tước bỏ mọi sự tôn trọng đối với bản thân và đối với người khác. Mỗi ngày tôi có thấy họ ngày càng trở nên phụ thuộc hơn sau song sắt như thế nào: họ cần tôi giúp, thậm chí để viết một lá thư. Đây là những mảnh đời bất ổn được giao phó cho sự chăm sóc của tôi. Họ cảm thấy bất lực, thất vọng vì sự yếu đuối của mình, thường xuyên bị tước đoạt ngay cả khả năng để có thể hiểu được những sai lầm mà họ đã gây ra. Tuy nhiên, đôi khi, họ giống như những đứa trẻ sơ sinh vẫn có thể được dạy bảo. Tôi cảm thấy rằng cuộc sống của họ có thể bắt đầu lại theo một hướng khác, dứt khoát quay lưng lại với cái ác.

Sức mạnh của tôi, tuy nhiên, đang tiêu hao từng ngày. Gặp phải hàng ngày tất cả sự tức giận, đau đớn và những hăm dọa tiềm tàng, ngay cả những người có kinh nghiệm nhất trong chúng tôi cũng cảm thấy nản. Tôi đã chọn công việc này sau khi mẹ tôi bị giết trong một vụ va chạm trực diện với một người nghiện ma túy trẻ tuổi. Tôi quyết định trả lời ngay lập tức với cái ác đó. Nhưng mặc dù tôi yêu công việc này, đôi khi tôi phải vật lộn để tìm ra sức mạnh để tiếp tục.

Trong một công việc phục vụ nhạy cảm như vậy, chúng ta cần cảm thấy rằng chúng ta không bị bỏ rơi, để có thể hỗ trợ nhiều cuộc sống được giao phó cho chúng ta, cuộc sống mà càng ngày càng có nguy cơ bị hủy hoại.

Lạy Chúa, khi chúng con nhìn thấy Chúa bị cởi hết áo xống, chúng con cảm thấy bẽ bàng và xấu hổ. Bắt đầu với người đàn ông đầu tiên trên trái đất này, khi đối mặt với sự thật trần trụi, chúng con bắt đầu chạy trốn. Chúng con ẩn mình đằng sau những mặt nạ đáng kính và khoác cho mình những lời dối trá, thường xuyên với những miếng giẻ rách của người nghèo, là những người bị bóc lột bởi lòng khao khát tiền bạc và quyền lực của chúng con. Xin Chúa Cha thương xót chúng con và kiên nhẫn giúp chúng con trở nên đơn sơ hơn, minh bạch hơn, chân thực hơn, và sẵn sàng từ bỏ dứt khoát những vũ khí giả hình.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, Chúa giải phóng chúng con bằng sự thật của Chúa. Xin Chúa loại bỏ khỏi thói đề kháng nội tâm của chúng con và mặc cho chúng con ánh sáng của Chúa, để chúng con có thể là sự phản ánh vinh quang của Chúa trên thế giới. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ mười một

Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây Thánh Giá

(Bài suy niệm của một linh mục bị cáo gian và sau đó được minh oan)

Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.

Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái.”

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23: 33-43).


Chúa Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá. Biết bao lần, trong tư cách là một linh mục, tôi đã trình bày các suy niệm về bài Tin Mừng này. Rồi một ngày, họ đặt lên tôi một cây thập tự, tôi cảm thấy toàn bộ sức nặng của cây gỗ đó: lời buộc tội được đưa ra bằng những từ ngữ cứng như đinh đóng cột, con đường trước mặt trở nên một dốc đứng, đau khổ đè nặng lên tôi. Khoảnh khắc đen tối nhất là nhìn thấy tên tôi dán bên ngoài phòng xử án: ngay lúc đó tôi nhận ra rằng mình là một con người vô tội mà bị buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Tôi bị treo trên thập tự giá trong mười năm: Con đường Thánh giá của tôi đã đầy những hồ sơ, sự nghi ngờ, buộc tội, lăng mạ. Mỗi lần tôi ở trong phòng xử án, tôi tìm kiếm cây thánh giá: Tôi cứ dán mắt vào nó khi luật pháp điều tra câu chuyện của tôi.

Trong một khoảnh khắc, sự nhục nhã khiến tôi nghĩ rằng tốt hơn là buông xuôi tất cả. Nhưng sau đó, tôi quyết định vẫn là một linh mục, và tôi luôn luôn là một linh mục. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc giảm bớt thập giá của mình, ngay cả khi luật pháp cho phép. Tôi đã quyết định chấp nhận một thử thách thường xuyên vì tôi nợ chính mình, nợ những chàng trai trẻ tôi đã dạy trong những năm ở chủng viện, nợ gia đình của họ. Trong khi tôi đang leo lên đồi Canvê của mình, tôi đã tìm thấy tất cả họ dọc trên đường đi: họ trở thành những ông Simôn xứ Kyrênê của tôi, họ mang vác sức nặng của cây thánh giá với tôi, họ làm tôi rơi nước mắt. Cùng với tôi, nhiều người trong số họ cầu nguyện cho chàng trai trẻ đã buộc tội tôi: họ không bao giờ dừng lại. Ngày mà tôi được tha bổng hoàn toàn, tôi thấy mình hạnh phúc hơn mười năm trước: Tôi đã trải nghiệm Chúa trực tiếp tác động trong đời tôi. Khi bị treo trên thập giá, tôi phát hiện ra ý nghĩa chức tư tế của mình.

Lạy Chúa Giêsu, tình yêu mà Chúa đã chỉ ra cho chúng con đến tận cùng, đã đưa Chúa đến thập giá. Trong những phút cuối cùng, Chúa vẫn tha thứ cho chúng con và ban cho chúng con sự sống. Chúng con giao phó cho Chúa Cha tất cả những người nam nữ vô tội trong suốt lịch sử đã phải gánh chịu những bản án bất công. Xin cho Lời Chúa vang lên trong trái tim của họ: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là nguồn mạch của lòng thương xót và tha thứ, là Đấng mạc khải chính mình trong đau khổ của nhân loại, xin soi sáng chúng con bằng ân sủng trào ra từ vết thương của Đấng bị đóng đinh và ban cho chúng con sự kiên trì đức tin trong đêm đen những thử thách. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ mười hai

Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh giá

(Bài suy niệm của một thẩm phán dân sự)

Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở. (Lc 23: 44-46).

Là một thẩm phán dân sự, tôi không thể đóng đinh một người nào, bất kỳ người nào vào tội lỗi mà anh ta đang thụ án: điều đó có nghĩa là kết án anh ta lần thứ hai. Anh ta phải trả giá cho sai lầm mà anh ta đã gây ra: không làm như vậy có nghĩa là coi nhẹ tội ác của anh ta, biện minh cho những hành động không thể khoan dung mà anh ta đã thực hiện, gây ra những đau khổ về thể xác và luân lý cho người khác.

Tuy nhiên, công lý thực sự chỉ có thể thông qua một lòng thương xót không bao giờ đóng đinh một cá nhân, mà trở thành một hướng dẫn giúp anh ta đứng dậy và nhận ra sự thiện vẫn tồn tại trong tâm hồn anh ta, mà tất cả những sai lầm anh ta đã gây ra, bất kể là gì, cũng không bao giờ có thể dập tắt hoàn toàn. Chỉ bằng cách tìm lại chính con người của mình, người bị kết án mới có thể nhìn thấy chính mình nơi người khác, nơi các nạn nhân mà anh ta gây ra những nỗi đau như vậy. Bao lâu con đường tái sinh của anh ta còn gập ghềnh, quanh co và nguy cơ quay trở lại cái ác vẫn luôn hiện hữu, không có cách nào khác để cố gắng xây dựng lại lịch sử cá nhân và cộng đồng của chính mình.

Mức độ nghiêm trọng của một bản án đặt hy vọng của một người vào một thử thách cam go: nó giúp anh ta suy ngẫm và đặt câu hỏi liệu những lý do cho hành động của anh ta có thể trở thành một cơ hội để xem xét bản thân từ một quan điểm khác. Dù vậy, để làm điều này, anh ta phải học cách nhận ra nhân cách ẩn đằng sau tội ác đã gây ra. Trong quá trình này, đôi khi có thể thoáng thấy một chân trời có thể gieo hy vọng nơi người đó và một khi bản án của anh ta đã được hoàn tất, anh có thể trở lại xã hội với hy vọng rằng mọi người sẽ chào đón anh ta trở lại sau khi đã từ chối anh ta.

Đối với tất cả chúng ta, ngay cả những người bị kết án phạm tội, cũng đều là con cái của cùng một gia đình nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết vì một bản án bại hoại, được truyền bởi các thẩm phán bất công đang kinh hãi trước sức mạnh không thể chối bỏ của Chân lý. Chúng con ủy thác cho Chúa Cha tất cả các quan tòa, thẩm phán và luật sư và xin cho họ có thể thẳng thắn thực hiện sứ vụ của mình cho quốc gia và các công dân, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi nghèo đói.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là Vua công lý và hòa bình, Chúa đã nghe thấy nơi tiếng kêu của Con Chúa tiếng kêu của toàn nhân loại. Xin hãy dạy chúng con đừng đồng hoá người có lỗi với những tội lỗi người ấy đã làm, và xin giúp chúng con nhìn thấy trong mọi người ngọn lửa hằng sống của Thánh Linh Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ mười ba

Đưa xác Ðức Chúa Giêsu xuống khỏi Thánh giá

(Bài suy niệm của một tu sĩ tình nguyện)

Khi ấy có một người tên là Giuse, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành Arimathê, một thành của người Do Thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. Ông đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. (Lc 23: 50-53).

Các tù nhân luôn là những thầy dạy của tôi. Sáu mươi năm trước, tôi đã đi vào các nhà tù với tư cách là một tu sĩ tình nguyện và tôi luôn được chúc phúc, từ ngày đầu tiên tôi bắt gặp thế giới bí ẩn này. Nhìn thấy khuôn mặt của họ, tôi nhận ra một cách rõ ràng rằng tôi có thể ở vào vị trí của họ, nếu như cuộc sống của tôi rẽ theo một hướng khác. Kitô hữu chúng ta thường rơi vào cảm giác ảo tưởng rằng chúng ta tốt hơn những người khác. Và sự quan tâm của chúng ta đối với người nghèo cho phép chúng ta đứng lên làm thẩm phán đối với người khác, lên án họ bao nhiêu tùy ý, mà không cần đoái hoài đến bất cứ lời kêu gọi xin ân xá nào.

Trong cuộc đời của Người, Chúa Kitô luôn sẵn sàng đứng bên những người rốt cùng: Người đi khắp các vùng ngoại vi bị lãng quên trên thế giới giữa những tên trộm, những người phong hủi, gái mại dâm, và kẻ vô lại. Ngài muốn chia sẻ kinh nghiệm về nghèo đói, cô độc, lo lắng. Tôi đã luôn luôn nghĩ rằng đó là ý nghĩa thực sự của lời Ngài nói: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:36).

Khi đi ngang qua các phòng giam, hết phòng này đến phòng khác, tôi thấy cái chết lảng vảng bên trong. Nhà tù tiếp tục chôn sống những cá nhân vẫn còn sống: đó là những câu chuyện mà không ai muốn nghe nữa. Mỗi lần, Chúa Kitô nói với tôi một lần nữa rằng “Tiếp tục đi, đừng dừng lại. Đưa họ vào trong vòng tay của con một lần nữa”. Tôi không thể không lắng nghe Ngài: ngay cả nơi những người tồi tệ nhất, Người luôn ở đó, mặc dù ký ức của họ về Người bị che khuất. Tôi chỉ cần dừng bước chân bận rộn của mình, dừng lại trong im lặng trước những khuôn mặt bị huỷ hoại vì sự dữ và lắng nghe họ với lòng thương xót. Đây là cách duy nhất tôi biết để chấp nhận người đó và gạt ánh mắt của tôi khỏi những sai lầm mà anh ta đã gây ra. Chỉ bằng cách này, anh ta mới có thể tin tưởng và lấy lại sức mạnh để đầu hàng lòng từ ái của Chúa, và nhìn nhận bản thân mình một cách khác đi.

Lạy Chúa Giesu, thân xác Chúa, bị biến dạng bởi sự gian ác kinh khiếp như thế, giờ đây được bọc trong một tấm vải liệm và chôn vùi xuống đất: đây là sự sáng tạo mới. Chúng con phó thác nơi Chúa Cha Giáo hội, được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa, xin cho Giáo Hội không bao giờ bỏ cuộc khi đối mặt với những thất bại và chạy theo vẻ bề ngoài, nhưng kiên trì đưa ra tất cả các thông điệp vui mừng về ơn cứu rỗi cho chúng con.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, Chúa là khởi thủy và là cùng đích của tất cả mọi sự, trong Lễ Vượt qua của Chúa Kitô, Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Xin ban cho chúng ta sự khôn ngoan của Thập giá để chúng con có thể từ bỏ chính mình theo thánh ý Chúa với tinh thần vui mừng và biết ơn. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chặng thứ mười bốn

Chúa Giêsu được táng xác trong ngôi mộ

(Bài suy niệm của một nhân viên cải huấn)

Hôm ấy là áp lễ, và ngày sabát bắt đầu ló rạng. Cùng đi với ông Giuse, có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sabát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền. (Lc 23: 54-56).

Trong nhiệm vụ của mình với tư cách là một nhân viên cải huấn, mỗi ngày tôi đều trải nghiệm tận mắt sự đau khổ của những người sống trong tù. Thật không dễ dàng khi phải đối mặt với một người chiều theo sự dữ và gây ra những tổn hại to lớn cho người khác và mạng sống của họ. Trong tù, một thái độ thờ ơ có thể tạo ra sự tổn hại hơn nữa trong lịch sử của một người đã vấp ngã và đang phải trả giá trước công lý. Một đồng nghiệp, người thầy của tôi, thường xuyên lặp đi lặp lại: “Nhà tù thay đổi bạn: một người tốt có thể trở thành một kẻ tàn bạo. Một người ác có thể trở nên tốt hơn”. Kết quả phụ thuộc vào tôi và một quyết tâm vững chắc là điều cần thiết để đạt được mục tiêu công việc của mình: đó là đưa ra một khả năng khác cho người đã gây ra lỗi lầm. Để đạt đến điều này, tôi không thể giới hạn bản thân mình trong việc đóng mở một phòng giam, một cách vô cảm, và phi nhân bản.

Bằng cách tôn trọng nhịp độ của mỗi người, mối quan hệ giữa con người với nhau một lần nữa có thể phát triển mạnh mẽ trong thế giới ngột ngạt này. Nó xảy ra thông qua cử chỉ, thái độ và lời nói, là những điều có thể tạo ra sự khác biệt, ngay cả khi nói với giọng nói nhỏ nhẹ. Tôi không xấu hổ khi thực thi sứ vụ của một phó tế vĩnh viễn khi mặc đồng phục mà tôi tự hào. Tôi từng trải qua đau khổ và tuyệt vọng: Tôi đã trải nghiệm chúng khi còn nhỏ. Mong muốn nhỏ nhoi của tôi là trở thành một điểm tham chiếu cho những người tôi gặp sau song sắt. Tôi làm việc chăm chỉ để giữ cho hy vọng có thể sống động trong những người cuộn tròn trong chính mình, sợ hãi khi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ ra được chốn này nhưng bị xã hội từ chối một lần nữa.

Trong tù, tôi nhắc nhở họ rằng, với Chúa, không có tội lỗi nào có tiếng nói chung cuộc.

Lạy Chúa Giêsu, một lần nữa Chúa ở trong tay con người, nhưng lần này, những bàn tay ấy là bàn tay yêu thương của ông Giuse xứ Arimathea và một số phụ nữ ngoan đạo từ Galilê, là những người biết rằng thân xác Chúa là quý giá. Bàn tay của họ đại diện cho bàn tay của tất cả những người không bao giờ mệt mỏi phục vụ Chúa, và thể hiện tình yêu mà con người có khả năng. Chính tình yêu này khiến chúng con hy vọng vào khả năng của một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng con chỉ cần sẵn sàng để cho mình được gặp gỡ với ân sủng đến từ Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng con giao phó cho Chúa Cha, cách riêng, tất cả các cai ngục và tất cả những người làm việc trong các chức năng khác nhau trong các nhà tù.

Chúng ta cùng cầu nguyện.

Lạy Chúa, là ánh sáng vĩnh cửu và ngày bất tận, xin đổ tràn đầy phúc lành của Chúa lên những người cống hiến hết mình cho lời ngợi khen Chúa và phục vụ những người đau khổ trong vô số những nỗi đau và nỗi buồn của con người. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Lời nguyện kết thúc.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, cuộc thương khó và cái chết của Chúa là hy tế kết hợp trời và đất và hòa giải tất cả mọi người với Chúa.

Xin cho chúng con là những người đã thành tâm suy tư về những mầu nhiệm này, biết dõi theo các bước chân Chúa, để chúng con có thể chia sẻ vinh quang Chúa trên thiên đàng nơi Chúa hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.



Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Thánh Ca
Thánh Ca: Tâm Ca Mai Đệ Liên Quỳnh Xuân
Khanh Lai
00:12 08/04/2020