Phụng Vụ - Mục Vụ
Bình an cho các con
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
05:59 18/04/2017
Chúa Nhật II Phục Sinh, năm A
(Chúa Nhật kính Lòng thương xót Chúa)
Ga 20,19-31
Bình an cho các con
Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh trình bầy cho chúng ta về một Tin Mừng duy nhất :” Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã khải hoàn từ cõi chết, Ngài không chết nữa, Ngài đang hiện diện giữa chúng ta “. Tin Mừng của thánh sử Gioan và cũng là người làm chứng cho Chúa Phục Sinh :” Tôi đã thấy và tôi tin “. Gioan đã tin, nên Chúa Phục Sinh cho Ngài thấy. Ngài đã là nhân chứng kiên cường, bất khuất cho Chúa Giêsu sống lại. Các môn đệ của Chúa nhất nhất đã tin vào Chúa, nhờ đức tin, các Ngài đã được Chúa sống lại cho thấy Ngài, và các Ngài đã là nhân chứng cho sự Phục Sinh của Chúa dù có phải hy sinh cả mạng sống.
Chúa Phục Sinh từ cõi chết sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ngài : Chúa Phục Sinh đã hiện ra cho các người phụ nữ,cho Simon Phêrô, Gioan. Chúa sống lại đã hiện ra với các môn đệ trong phòng kín khi không có Tôma, rồi sau tám ngày Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ban bình an cho các môn đệ, hôm nay có cả Tôma, Ngài giơ chân, tay, cạnh sườn thương tích cho Tôma xem, và mời Tôma hãy xo ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào vết thương cạnh sườn của Ngài.Chúa hiện ra với hai đệ trên đường Emmaus, Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển và dạy các Ngài thả lưới bên mạn phải thuyền, các môn đệ đã làm theo và đã bắt được mẻ cá thật lạ lùng. Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin, làm cho đức tin của các Ngài thêm mạnh mẽ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Củng cố lòng tin, Chúa sai các môn đệ ra đi :” Như Cha đã sai Thầy, giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi “.
Viễn cảnh trước mắt cho các môn đệ thấy một thế giới bao la, mênh mông, rộng lớn mà Chúa đã loan báo trước cho các Ngài. Chúa đã chuẩn bị cho các Ngài từ lúc theo Chúa, cho tới giờ phút Chúa Phục Sinh…Theo Chúa nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu mầu nhiệm đau khổ là gì, mầu nhiệm thập giá và sự sống lại là làm sao, do đó, các Ngài vẫn co cụm, vẫn sợ sệt, lo âu khi Chúa bị bắt, bị giết…Nếu Chúa Phục Sinh không mở lòng, không ban ơn can đảm, trí hiểu cho các môn đệ qua tác động, hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đặc biệt sự soi sáng của ánh sáng Phục Sinh, chắc chắn các Ngài sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Phục Sinh được. Tuy nhiên, nhờ quyền năng của Chúa Phục Sinh, các môn đệ đã được thay đổi, đức tin của các Ngài đã trưởng thành theo lòng Chúa mong muốn để các Ngài có thể hoàn thành sứ mạng cao cả Chúa trao phó là làm chứng và loan truyền sứ điệp Chúa Phục Sinh cho toàn thể nhân loại.
Chúa Phục Sinh đã thay đổi hoàn toàn sinh mạng của các môn đệ, từ tình trạng lo âu, sợ sệt, co cụm, đóng kín cửa nhà vì sợ người Do Thái, các môn đệ đã được củng cố đức tin mạnh mẽ, kiên cường, các Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần, đức tin đã được kiện toàn, họ mở tung cửa để ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Họ khong còn khép kín cõi lòng, không còn tự mình bị giam hãm trong phòng, họ đã ra đi bất chấp tất cả hiểm nguy, ngay cả phải hy sinh chính mạng sống.
Chúng ta cũng như các môn đệ, các tông đồ Chúa có những lúc chúng ta bị vùi dập trong đêm tối, bị cám dỗ để mất đức tin, cám dỗ xa lìa Chúa khi những khó khăn, nghịch cảnh, hiểm nguy xẩy đến trong đời…Khi thập giá chồng chất, khi mầu nhiệm thập giá bủa vây, giăng mắc vv…
Các môn đệ, các tông đồ là những người đã được sống với Chúa, được nghe Chúa dạy bảo, được thấy Chúa làm phép lạ, nhưng khi thập giá, mầu nhiệm thương khó xẩy tới, các môn đệ đều nao núng, đều muốn bỏ cuộc. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh không bao giờ bỏ rơi, các môn đệ, và như thế Chúa sống lại cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn có mặt trong cuộc đời, trong lịch sử của mỗi người, của thế giới vv…Chỉ cần chúng ta có đôi mắt đức tin, đôi mắt Phục Sinh, chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta trong mọi trạng huống của đời sống : lúc thuận cũng như lúc nghịch.
Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn để Kính Nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa, chúng ta hãy mau mắn chạy tới với Lòng Thương Xót của Chúa vì Chúa mãi mãi một lòng xót thương chúng ta.
Chúng ta hãy mau mắn quay trở về với Thiên Chúa tình thương để lãnh nhận sự tha thứ và ơn bình an của Ngài.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tôma có dám xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa Phục Sinh không ?
2.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ?
3.Bình an của Chúa Phục Sinh có khác với bình an của thế gian không?
4.Chúa Phục Sinh có hiện diện với chúng ta không ?
5.Ai đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh làm Chúa Nhật Kính Nhớ Lòng Thương Xót Chúa ?
(Chúa Nhật kính Lòng thương xót Chúa)
Ga 20,19-31
Bình an cho các con
Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh trình bầy cho chúng ta về một Tin Mừng duy nhất :” Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã khải hoàn từ cõi chết, Ngài không chết nữa, Ngài đang hiện diện giữa chúng ta “. Tin Mừng của thánh sử Gioan và cũng là người làm chứng cho Chúa Phục Sinh :” Tôi đã thấy và tôi tin “. Gioan đã tin, nên Chúa Phục Sinh cho Ngài thấy. Ngài đã là nhân chứng kiên cường, bất khuất cho Chúa Giêsu sống lại. Các môn đệ của Chúa nhất nhất đã tin vào Chúa, nhờ đức tin, các Ngài đã được Chúa sống lại cho thấy Ngài, và các Ngài đã là nhân chứng cho sự Phục Sinh của Chúa dù có phải hy sinh cả mạng sống.
Chúa Phục Sinh từ cõi chết sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ngài : Chúa Phục Sinh đã hiện ra cho các người phụ nữ,cho Simon Phêrô, Gioan. Chúa sống lại đã hiện ra với các môn đệ trong phòng kín khi không có Tôma, rồi sau tám ngày Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ban bình an cho các môn đệ, hôm nay có cả Tôma, Ngài giơ chân, tay, cạnh sườn thương tích cho Tôma xem, và mời Tôma hãy xo ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào vết thương cạnh sườn của Ngài.Chúa hiện ra với hai đệ trên đường Emmaus, Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển và dạy các Ngài thả lưới bên mạn phải thuyền, các môn đệ đã làm theo và đã bắt được mẻ cá thật lạ lùng. Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin, làm cho đức tin của các Ngài thêm mạnh mẽ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Củng cố lòng tin, Chúa sai các môn đệ ra đi :” Như Cha đã sai Thầy, giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi “.
Viễn cảnh trước mắt cho các môn đệ thấy một thế giới bao la, mênh mông, rộng lớn mà Chúa đã loan báo trước cho các Ngài. Chúa đã chuẩn bị cho các Ngài từ lúc theo Chúa, cho tới giờ phút Chúa Phục Sinh…Theo Chúa nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu mầu nhiệm đau khổ là gì, mầu nhiệm thập giá và sự sống lại là làm sao, do đó, các Ngài vẫn co cụm, vẫn sợ sệt, lo âu khi Chúa bị bắt, bị giết…Nếu Chúa Phục Sinh không mở lòng, không ban ơn can đảm, trí hiểu cho các môn đệ qua tác động, hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đặc biệt sự soi sáng của ánh sáng Phục Sinh, chắc chắn các Ngài sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Phục Sinh được. Tuy nhiên, nhờ quyền năng của Chúa Phục Sinh, các môn đệ đã được thay đổi, đức tin của các Ngài đã trưởng thành theo lòng Chúa mong muốn để các Ngài có thể hoàn thành sứ mạng cao cả Chúa trao phó là làm chứng và loan truyền sứ điệp Chúa Phục Sinh cho toàn thể nhân loại.
Chúa Phục Sinh đã thay đổi hoàn toàn sinh mạng của các môn đệ, từ tình trạng lo âu, sợ sệt, co cụm, đóng kín cửa nhà vì sợ người Do Thái, các môn đệ đã được củng cố đức tin mạnh mẽ, kiên cường, các Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần, đức tin đã được kiện toàn, họ mở tung cửa để ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Họ khong còn khép kín cõi lòng, không còn tự mình bị giam hãm trong phòng, họ đã ra đi bất chấp tất cả hiểm nguy, ngay cả phải hy sinh chính mạng sống.
Chúng ta cũng như các môn đệ, các tông đồ Chúa có những lúc chúng ta bị vùi dập trong đêm tối, bị cám dỗ để mất đức tin, cám dỗ xa lìa Chúa khi những khó khăn, nghịch cảnh, hiểm nguy xẩy đến trong đời…Khi thập giá chồng chất, khi mầu nhiệm thập giá bủa vây, giăng mắc vv…
Các môn đệ, các tông đồ là những người đã được sống với Chúa, được nghe Chúa dạy bảo, được thấy Chúa làm phép lạ, nhưng khi thập giá, mầu nhiệm thương khó xẩy tới, các môn đệ đều nao núng, đều muốn bỏ cuộc. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh không bao giờ bỏ rơi, các môn đệ, và như thế Chúa sống lại cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn có mặt trong cuộc đời, trong lịch sử của mỗi người, của thế giới vv…Chỉ cần chúng ta có đôi mắt đức tin, đôi mắt Phục Sinh, chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta trong mọi trạng huống của đời sống : lúc thuận cũng như lúc nghịch.
Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn để Kính Nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa, chúng ta hãy mau mắn chạy tới với Lòng Thương Xót của Chúa vì Chúa mãi mãi một lòng xót thương chúng ta.
Chúng ta hãy mau mắn quay trở về với Thiên Chúa tình thương để lãnh nhận sự tha thứ và ơn bình an của Ngài.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tôma có dám xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa Phục Sinh không ?
2.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ?
3.Bình an của Chúa Phục Sinh có khác với bình an của thế gian không?
4.Chúa Phục Sinh có hiện diện với chúng ta không ?
5.Ai đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh làm Chúa Nhật Kính Nhớ Lòng Thương Xót Chúa ?
Niềm vui của Tin Mừng
Lm. Bosco Dương Trung Tín
06:05 18/04/2017
Niềm vui Phục Sinh
Trong Tông huấn "Niềm vui của Tin Mừng", Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã viết với những dòng đầu tiên như sau: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và trọn cuộc sống của những ai gặp gỡ Đức Giê-su. Những ai để cho Người cứu độ, sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi đau buồn, khỏi cuộc sống trống rỗng, khỏi cô đơn. Niềm vui luôn phát sinh và luôn tái sinh cùng với Đức Giê-su Ky-tô”(số 1).
Nhờ Tin Mừng, tức là nhờ Lời Chúa mà ta có niềm vui, nên gọi là “Niềm Vui của Tin Mừng”.
Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp Chúa Phục Sinh thế nào thì niềm vui đó cũng sẽ tràn ngập tâm hồn và trọn cuộc sống của những người gặp gỡ Đức Giê-su như vậy. Một Ma-ri-a Ma-đa-len-na, được giải thoát khỏi tội lỗi; Hai môn đệ trên đường đi E-mau, vui mừng khi giải thích Lời Chúa trong Kinh Thánh. Và 11 vị Tông Đồ được gặp Chúa Phục Sinh trong khi cầu nguyện cũng như khi làm việc.
Quả thật niềm vui Phục sinh đã tràn ngập tân hồn và toàn bộ cuộc sống của các Vị này; để rồi từ đó, các Vị không còn đau buồn, không còn trống rỗng, không còn cô đơn nữa. Các Vị đã lãnh nhận được ơn cứu độ; đã được giải thoát khỏi mọi tội lỗi. Có thể nói các Vị đã có được niềm vui, niềm vui đó phát sinh từ Đức Ky-tô Phục Sinh và luôn được tái sinh cùng với Ngài. Và từ sự gặp gỡ đó, Các Ngài đã vui mừng và hăng say đi loan báo Tin Mừng, Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người. Khởi đầu cho công cuộc đó là một người phụ nữ, cô Ma-ri-a Ma-đa-len-na và sau đó là các vị Tông Đồ. Niềm vui đó làm cho các Vị có được sức mạnh rao giảng Tin Mừng và dám chết vì Tin Mừng đó.
Bây giờ, rất tiếc là chúng ta không được diễm phúc gặp được Chúa Giê-su như các Vị đó, nhưng chúng ta vẫn có thể gặp được Đức Giê-su Ky-tô trong Lời của Ngài, trong Phúc Âm. Nếu ta tin điều đó thì như Đức Giê-su quả quyết với thánh Tô-ma, ta có phúc hơn các Vị đó. “Phúc cho ai không thấy mà tin”(x.Ga20,29).
Đức Giê-su Ky-tô là Tin Mừng của Thiên Chúa và cũng là Tin Mừng của chúng ta. Khi ta đọc, suy gẫm và thực hành Tin Mừng ta sẽ gặp được Đức Giê-su Ky-tô và khi sống Tin Mừng ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Tin Mừng, nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Hơn nữa, sống Tin Mừng còn là truyền giáo, một cách truyền giáo hữu hiệu và có giá trị nhất.
Chính Tin Mừng sẽ giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi; khỏi những đau buồn trong cuộc sống; khỏi những trống rỗng trong cuộc đời. Khi đó ta không còn cô đơn nữa; ta luôn được phát sinh và tái sinh trong Đức Ky-tô. Đức Ky-tô, “Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem, bị các Kỳ Lão, Thượng tế và Luật sĩ nhục mạ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”(x.Mt16,21). Cũng vậy, trong cuộc sống của ta cũng không thiếu gì những khó khăn, những vất vả, những gian truân, những đắng cay,…ta hãy noi gương Chúa, chấp nhận và tin tưởng, ta sẽ có được niềm vui. Một niềm vui giữa những cảnh gian truân cùng cực. Niềm vui trong tâm hồn; Niềm Vui của Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mời gọi: “Mọi người ky-tô hữu, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào hãy canh tân việc gặp gỡ cá nhân của mình với Đức Ky-tô; hay ít nhất là quyết định để cho Người gặp gỡ ta; mỗi ngày hãy tìm kiếm Người. Ai cũng được mời gọi đến gặp Đức Ky-tô để có được niềm vui. Vì không ai bị loại ra khỏi niềm vui mà Chúa đem đến cho chúng ta”(Số 3).
Có điều ta có muốn đến gặp Đức Ky-tô để lãnh nhận được niềm vui đó không thôi. Muốn gặp Chúa cũng không có gì khó. Không nhất thiết phải đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, mà ở đâu, lúc nào ta cũng có thể gặp được Chúa hết. Ta gặp được Chúa mỗi khi ta biết ăn năn sám hối như Ma-ri-a Ma-đa-len-na; ta gặp được Chúa khi đọc Kinh Thánh như Hai môn đệ trên đường E-mau; ta gặp được Chúa qua việc cầu nguyện và làm việc như các Tông Đồ.
Về việc cầu nguyện, ta có thể đọc các kinh bình thường, đọc kinh Phụng vụ, lần hạt; hay tiện nhất là mỗi sáng khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ, chỉ một phút thôi nhưng đem lại lợi ích rất to lớn cho tâm hồn và đức tin của ta. Ta tạ ơn Chúa mỗi sáng ta thức dậy và dâng những việc làm trong ngày, xin Chúa thánh hóa; cũng như tạ ơn Chúa sau một ngày làm việc mệt nhọc; nếu có làm lỗi gì thì xin Chúa thứ tha; rất đơn giản! Rồi cũng không cần phải đọc Kinh Thánh cho nhiều, chỉ cần ta chọn một câu nào đó mà suy gẫm mỗi ngày hay mỗi tuần.
Quả thật, các việc đó không khó khăn gì lắm, nhưng nói thì dễ mà thực hành không dễ. Ta phải cố gắng tập; tập riết, làm hoài sẽ trở thành một thói quen rất tốt và rất có lợi cho ta. Sống như thế là ta sống với Chúa; cùng ăn, cùng học, cùng làm với Chúa, ta đâu còn cô đơn nữa, ta có Chúa ở cùng mà. Vui chết đi được đấy chứ!!!
Niềm vui này chính bản thân tôi, trong đời sống Linh Mục cũng đã cảm nghiệm được. Năm nay, tôi kỷ niệm 10 năm sống đời Linh Mục. Trong cuộc sống mình, từ đời sống gia đình tới đời sống tu Dòng; từ cuộc sống ở Việt Nam tới cuộc sống ở Nhật Bản; từ việc học tiếng Nhật cho tới việc mục vụ đã không thiếu những khó khăn, vất vả, gian truân, cực nhọc, cô đơn, buồn tủi. Thế nhưng, nhờ việc suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày mà tôi có được Niềm Vui, để rồi vượt qua tất cả. Đối với tôi niềm vui là chính Chúa; Chúa chính là niềm vui của tôi. Với niềm vui đó tôi đã sống rất hạnh phúc và bình an trong Thiên Chức Linh Mục của mình trong suốt 10 năm qua. Vì “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa, ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” mà (x.Tv23,6).
Tạ ơn Chúa, cho đến bây giờ, mỗi khi dâng Lễ, tôi vẫn còn cảm được niềm vui và hạnh phúc trong ngày lễ mở tay, khi dâng Thánh Lễ đầu tiên; dù đã dâng hơn 3650 thánh lễ rồi. Đúng là Niềm Vui của Tin Mừng, Niềm Vui Phục Sinh; Niềm vui phát sinh từ Chúa và tái sinh trong Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, dù là ky-tô hữu, tu sĩ hay Linh Mục, trong mùa Phục Sinh này có được Niềm Vui của Chúa Phục Sinh; có được NIỀM VUI của TIN MỪNG.
Trong Tông huấn "Niềm vui của Tin Mừng", Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã viết với những dòng đầu tiên như sau: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và trọn cuộc sống của những ai gặp gỡ Đức Giê-su. Những ai để cho Người cứu độ, sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi đau buồn, khỏi cuộc sống trống rỗng, khỏi cô đơn. Niềm vui luôn phát sinh và luôn tái sinh cùng với Đức Giê-su Ky-tô”(số 1).
Nhờ Tin Mừng, tức là nhờ Lời Chúa mà ta có niềm vui, nên gọi là “Niềm Vui của Tin Mừng”.
Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp Chúa Phục Sinh thế nào thì niềm vui đó cũng sẽ tràn ngập tâm hồn và trọn cuộc sống của những người gặp gỡ Đức Giê-su như vậy. Một Ma-ri-a Ma-đa-len-na, được giải thoát khỏi tội lỗi; Hai môn đệ trên đường đi E-mau, vui mừng khi giải thích Lời Chúa trong Kinh Thánh. Và 11 vị Tông Đồ được gặp Chúa Phục Sinh trong khi cầu nguyện cũng như khi làm việc.
Quả thật niềm vui Phục sinh đã tràn ngập tân hồn và toàn bộ cuộc sống của các Vị này; để rồi từ đó, các Vị không còn đau buồn, không còn trống rỗng, không còn cô đơn nữa. Các Vị đã lãnh nhận được ơn cứu độ; đã được giải thoát khỏi mọi tội lỗi. Có thể nói các Vị đã có được niềm vui, niềm vui đó phát sinh từ Đức Ky-tô Phục Sinh và luôn được tái sinh cùng với Ngài. Và từ sự gặp gỡ đó, Các Ngài đã vui mừng và hăng say đi loan báo Tin Mừng, Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người. Khởi đầu cho công cuộc đó là một người phụ nữ, cô Ma-ri-a Ma-đa-len-na và sau đó là các vị Tông Đồ. Niềm vui đó làm cho các Vị có được sức mạnh rao giảng Tin Mừng và dám chết vì Tin Mừng đó.
Bây giờ, rất tiếc là chúng ta không được diễm phúc gặp được Chúa Giê-su như các Vị đó, nhưng chúng ta vẫn có thể gặp được Đức Giê-su Ky-tô trong Lời của Ngài, trong Phúc Âm. Nếu ta tin điều đó thì như Đức Giê-su quả quyết với thánh Tô-ma, ta có phúc hơn các Vị đó. “Phúc cho ai không thấy mà tin”(x.Ga20,29).
Đức Giê-su Ky-tô là Tin Mừng của Thiên Chúa và cũng là Tin Mừng của chúng ta. Khi ta đọc, suy gẫm và thực hành Tin Mừng ta sẽ gặp được Đức Giê-su Ky-tô và khi sống Tin Mừng ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Tin Mừng, nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Hơn nữa, sống Tin Mừng còn là truyền giáo, một cách truyền giáo hữu hiệu và có giá trị nhất.
Chính Tin Mừng sẽ giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi; khỏi những đau buồn trong cuộc sống; khỏi những trống rỗng trong cuộc đời. Khi đó ta không còn cô đơn nữa; ta luôn được phát sinh và tái sinh trong Đức Ky-tô. Đức Ky-tô, “Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem, bị các Kỳ Lão, Thượng tế và Luật sĩ nhục mạ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”(x.Mt16,21). Cũng vậy, trong cuộc sống của ta cũng không thiếu gì những khó khăn, những vất vả, những gian truân, những đắng cay,…ta hãy noi gương Chúa, chấp nhận và tin tưởng, ta sẽ có được niềm vui. Một niềm vui giữa những cảnh gian truân cùng cực. Niềm vui trong tâm hồn; Niềm Vui của Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mời gọi: “Mọi người ky-tô hữu, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào hãy canh tân việc gặp gỡ cá nhân của mình với Đức Ky-tô; hay ít nhất là quyết định để cho Người gặp gỡ ta; mỗi ngày hãy tìm kiếm Người. Ai cũng được mời gọi đến gặp Đức Ky-tô để có được niềm vui. Vì không ai bị loại ra khỏi niềm vui mà Chúa đem đến cho chúng ta”(Số 3).
Có điều ta có muốn đến gặp Đức Ky-tô để lãnh nhận được niềm vui đó không thôi. Muốn gặp Chúa cũng không có gì khó. Không nhất thiết phải đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, mà ở đâu, lúc nào ta cũng có thể gặp được Chúa hết. Ta gặp được Chúa mỗi khi ta biết ăn năn sám hối như Ma-ri-a Ma-đa-len-na; ta gặp được Chúa khi đọc Kinh Thánh như Hai môn đệ trên đường E-mau; ta gặp được Chúa qua việc cầu nguyện và làm việc như các Tông Đồ.
Về việc cầu nguyện, ta có thể đọc các kinh bình thường, đọc kinh Phụng vụ, lần hạt; hay tiện nhất là mỗi sáng khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ, chỉ một phút thôi nhưng đem lại lợi ích rất to lớn cho tâm hồn và đức tin của ta. Ta tạ ơn Chúa mỗi sáng ta thức dậy và dâng những việc làm trong ngày, xin Chúa thánh hóa; cũng như tạ ơn Chúa sau một ngày làm việc mệt nhọc; nếu có làm lỗi gì thì xin Chúa thứ tha; rất đơn giản! Rồi cũng không cần phải đọc Kinh Thánh cho nhiều, chỉ cần ta chọn một câu nào đó mà suy gẫm mỗi ngày hay mỗi tuần.
Quả thật, các việc đó không khó khăn gì lắm, nhưng nói thì dễ mà thực hành không dễ. Ta phải cố gắng tập; tập riết, làm hoài sẽ trở thành một thói quen rất tốt và rất có lợi cho ta. Sống như thế là ta sống với Chúa; cùng ăn, cùng học, cùng làm với Chúa, ta đâu còn cô đơn nữa, ta có Chúa ở cùng mà. Vui chết đi được đấy chứ!!!
Niềm vui này chính bản thân tôi, trong đời sống Linh Mục cũng đã cảm nghiệm được. Năm nay, tôi kỷ niệm 10 năm sống đời Linh Mục. Trong cuộc sống mình, từ đời sống gia đình tới đời sống tu Dòng; từ cuộc sống ở Việt Nam tới cuộc sống ở Nhật Bản; từ việc học tiếng Nhật cho tới việc mục vụ đã không thiếu những khó khăn, vất vả, gian truân, cực nhọc, cô đơn, buồn tủi. Thế nhưng, nhờ việc suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày mà tôi có được Niềm Vui, để rồi vượt qua tất cả. Đối với tôi niềm vui là chính Chúa; Chúa chính là niềm vui của tôi. Với niềm vui đó tôi đã sống rất hạnh phúc và bình an trong Thiên Chức Linh Mục của mình trong suốt 10 năm qua. Vì “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa, ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” mà (x.Tv23,6).
Tạ ơn Chúa, cho đến bây giờ, mỗi khi dâng Lễ, tôi vẫn còn cảm được niềm vui và hạnh phúc trong ngày lễ mở tay, khi dâng Thánh Lễ đầu tiên; dù đã dâng hơn 3650 thánh lễ rồi. Đúng là Niềm Vui của Tin Mừng, Niềm Vui Phục Sinh; Niềm vui phát sinh từ Chúa và tái sinh trong Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, dù là ky-tô hữu, tu sĩ hay Linh Mục, trong mùa Phục Sinh này có được Niềm Vui của Chúa Phục Sinh; có được NIỀM VUI của TIN MỪNG.
Con đường của lòng tin là con đường của lòng mến
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
22:25 18/04/2017
Chúa Nhật 2 Phục Sinh
Con Đường Của Lòng Tin Là Con Đường Của Lòng Mến
Chúa Nhật II phục sinh, Giáo Hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
1. Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : "người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói : "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa". Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Con Đường Của Lòng Tin Là Con Đường Của Lòng Mến
Chúa Nhật II phục sinh, Giáo Hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
1. Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : "người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói : "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa". Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo Hội có bổn phận noi theo bước chân của Thánh Phanxicô
Bùi Hữu Thư
17:25 18/04/2017
Giáo Hội có bổn phận noi theo bước chân của Thánh Phanxicô
Đức Thánh Cha gửi thư cho Đức Giám Mục Domenico Sorrentino về việc khánh thành tân Nguyện Đường của sự Từ Bỏ tại Assissi
Nguyện đường mới của sự Từ Bỏ tại Assissi nhắc nhớ cho Giáo Hội “bổn phận phải sống theo bước chân của Thánh Phanxicô, vì ngài đã từ bỏ tất cả những gì là trần tục và khoác lấy những giá trị của Phúc Âm.” Đây là điều Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong lá thư gửi cho Đức Cha Domenico Sorrentino, giám mục giáo phận Assissi-Nocera, về việc khánh thành Nguyện Đường của sự Từ Bỏ bên trong nhà thờ Đức Bà Cả, là nhà thờ chánh tòa cổ xưa của Assissi, được dự trù vào ngày 20 tháng 5, 2017. Sự “từ bỏ” tưởng niệm hành động của tu sĩ trẻ tuổi Phanxicô khi đã tự trút mình gần như đến mức trần truồng, bỏ tất cả những gì là trần thế để dâng hiến trọn mình cho Thiên Chúa và các anh em.
Trong lá thư do Văn Phòng Truyền Thông Tòa Thánh phổ biến ngày 19 tháng 4, 2017, Đức Thánh Cha suy niệm về thời điểm trong cuộc đời của vị thánh quan thầy của ngài, và nhấn mạnh rằng sự từ bỏ bao gồm “tất cả hệ thống các giá trị, để đặt tình yêu lên vị trí tối cao”: “cần từ bỏ nhiều hơn là các sự vật, bỏ những gì là sở hữu của mình, bỏ chính con người của mình, bỏ tính ích kỷ khiến cho chúng ta chỉ lo thu vén những gì là lợi ích cho ta, những tài sản của ta, và ngăn không cho chúng ta khám phá vẻ đẹp của người khác và cảm nhận được niềm vui khi cởi mở được trái tim của họ.”
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lên án “thực tế ô nhục của một thế giới vẫn còn bị đánh dấu bới hố sâu ngăn cách giữa con số của vô vàn người nghèo khó, thường xuyên thiếu thốn những gí tối thiểu cần thiết, và thành phần nhỏ nhoi của những kẻ sở hữu và chiếm đọat đại đa số những tài sản, và tự cho rằng họ đang quyết định định mệnh của nhân lọai.”
Ngài tuyên bố: “Ngày hôm nay, cần hơn bao giờ hết, là làm sao để cho Lời Chúa Kitô vạch rõ con đường và lối sống của Giáo Hội. (…) Bí mật về xác quyết của chúng ta không nằm trong sức mạnh của lời nói của chúng ta mà trong sự mê say làm nhân chứng và được ẩn sủng nâng đỡ.”
Nhắc đến Thượng Hội Đồng sẽ được tổ chức vào tháng 10 năm 2018 về giới trẻ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Giới trẻ cần được đón chào, được trân quý, và đồng hành bên cạnh. Không bao giờ được e ngại không đem Chúa Kitô cũng như những lý tưởng mà Phúc Âm đòi hỏi đến với họ. Muốn làm được điều này thì phải len vào trong đám đông những người trẻ và cùng đi với họ.”
Bùi Hữu Thư
Đức Thánh Cha gửi thư cho Đức Giám Mục Domenico Sorrentino về việc khánh thành tân Nguyện Đường của sự Từ Bỏ tại Assissi
Nguyện đường mới của sự Từ Bỏ tại Assissi nhắc nhớ cho Giáo Hội “bổn phận phải sống theo bước chân của Thánh Phanxicô, vì ngài đã từ bỏ tất cả những gì là trần tục và khoác lấy những giá trị của Phúc Âm.” Đây là điều Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong lá thư gửi cho Đức Cha Domenico Sorrentino, giám mục giáo phận Assissi-Nocera, về việc khánh thành Nguyện Đường của sự Từ Bỏ bên trong nhà thờ Đức Bà Cả, là nhà thờ chánh tòa cổ xưa của Assissi, được dự trù vào ngày 20 tháng 5, 2017. Sự “từ bỏ” tưởng niệm hành động của tu sĩ trẻ tuổi Phanxicô khi đã tự trút mình gần như đến mức trần truồng, bỏ tất cả những gì là trần thế để dâng hiến trọn mình cho Thiên Chúa và các anh em.
Trong lá thư do Văn Phòng Truyền Thông Tòa Thánh phổ biến ngày 19 tháng 4, 2017, Đức Thánh Cha suy niệm về thời điểm trong cuộc đời của vị thánh quan thầy của ngài, và nhấn mạnh rằng sự từ bỏ bao gồm “tất cả hệ thống các giá trị, để đặt tình yêu lên vị trí tối cao”: “cần từ bỏ nhiều hơn là các sự vật, bỏ những gì là sở hữu của mình, bỏ chính con người của mình, bỏ tính ích kỷ khiến cho chúng ta chỉ lo thu vén những gì là lợi ích cho ta, những tài sản của ta, và ngăn không cho chúng ta khám phá vẻ đẹp của người khác và cảm nhận được niềm vui khi cởi mở được trái tim của họ.”
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lên án “thực tế ô nhục của một thế giới vẫn còn bị đánh dấu bới hố sâu ngăn cách giữa con số của vô vàn người nghèo khó, thường xuyên thiếu thốn những gí tối thiểu cần thiết, và thành phần nhỏ nhoi của những kẻ sở hữu và chiếm đọat đại đa số những tài sản, và tự cho rằng họ đang quyết định định mệnh của nhân lọai.”
Ngài tuyên bố: “Ngày hôm nay, cần hơn bao giờ hết, là làm sao để cho Lời Chúa Kitô vạch rõ con đường và lối sống của Giáo Hội. (…) Bí mật về xác quyết của chúng ta không nằm trong sức mạnh của lời nói của chúng ta mà trong sự mê say làm nhân chứng và được ẩn sủng nâng đỡ.”
Nhắc đến Thượng Hội Đồng sẽ được tổ chức vào tháng 10 năm 2018 về giới trẻ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Giới trẻ cần được đón chào, được trân quý, và đồng hành bên cạnh. Không bao giờ được e ngại không đem Chúa Kitô cũng như những lý tưởng mà Phúc Âm đòi hỏi đến với họ. Muốn làm được điều này thì phải len vào trong đám đông những người trẻ và cùng đi với họ.”
Bùi Hữu Thư
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tam Nhật Thánh tại Giáo xứ Phú Bình , Sàigòn
Martino Lê Hoàng Vũ
09:23 18/04/2017
Tam Nhật Thánh tại Giáo xứ Phú Bình
Giáo xứ Phú Bình, hạt Phú Thọ, SG đã cùng với toàn thể Giáo Hội, cử hành Tam Nhật Thánh thật long trọng và sâu lắng, tưởng niệm Cuộc khổ nạn, chịu chết và sống lại của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ con người.Ngài là quà tặng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người cách nhưng không, tình yêu hạ mình đến tột cùng, chịu chết trên thánh giá để chia sẻ với mọi thân phận con người.
xem Hình
Các buổi cử hành phụng vụ và thánh lễ trong Tam Nhật Thánh tại giáo xứ đều do cha chánh xứ Gioan B. Trần Văn Trí chủ tế,cùng với cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh.
Thứ Năm Tuần Thánh, thánh lễ Tiệc Ly diễn ra vào lúc 17g00 ngày 13.4.2017,ngày đầu tiên trong Tam nhật Thánh tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, thiết lập chức linh mục và ban điều răn mới yêu thương qua nghĩa cử Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
Bài chia sẻ với các em thiếu nhi trong thánh lễ,cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh khai triển đề tài yêu thương và phục vụ theo mẫu gương của Chúa Giêsu.Vì tình yêu thương Chúa đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta.Yêu ai là muốn ở bên người mình yêu.Bí tích Thánh Thể là bí tích thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.Vì vậy, khi tham dự thánh lễ và bàn tiệc Thánh Thể là chúng ta mang tình yêu của Chúa đến cho mọi người,bằng đời sống phục vụ và yêu thương.Tiếp sau đó,cha chánh xứ rửa chân cho quý ông tông đồ trong giáo xứ.
Thánh lễ Tiệc Ly kết thúc theo truyền thống của Giáo Hội,cộng đoàn kiệu Mình Thánh Chúa sang Nhà Tạm để chầu.Đây là giờ canh thức với Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu,trước khi Ngài đi vào cuộc khổ nạn và cái chết thương đau.Nhà tạm Mình Thánh Chúa được đặt tại Hội trường Giáo xứ.Giờ canh thức đầu tiên của đoàn TNTT,sau đó 8 giờ canh thức gồm có 5 khu đạo,và các hội đoàn gồm :Các Bà Mẹ Công Giáo, Dòng Ba Cát Minh, Gia Đình Phạt Tạ Thánh Tâm, Legio Mariae.
Thứ Sáu Tuần Thánh ngày 14.4.2017,Nghi thức Tưởng niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu tại giáo xứ Phú Bình bắt đầu lúc 16g30.Trước tiên,cộng đoàn đã quy tụ đông đủ cùng với quý cha đi đàng Thánh Giá trọng thể xung quanh nhà thờ.
Sau đó, lúc 17g30 là cử hành phụng vụ các nghi thức của ngày Thứ sáu Tuần Thánh.
Phụng vụ Lời Chúa,qua các bài đọc và hát Bài Thương Khó(Passio).Cộng đoàn cùng lắng nghe cuộc thương khó, việc Đức Giêsu bị bắt, tra tấn, sỉ nhục, vác thánh giá và chết cô đơn trên thập giá. Phụng vụ ngày thứ sáu Tuần Thánh lắng đọng hơn, đi vào chiều sâu suy niệm, Hội Thánh mời gọi các tín hữu tôn thờ Thánh Giá.Vì trên thánh giá, Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho nhân loại.Cái chết của Ngài là minh chứng cho một tình yêu rõ ràng nhất của Thiên Chúa.Chúng ta chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh vì tội lỗi của nhân loại.
Cha chánh xứ Gioan B. Trần Văn Trí trong phần chia sẻ đã dùng những hình ảnh trình chiếu để nói về tình thương của Thiên Chúa,qua cái chết đau thương của Đức Giêsu.Thật vậy,không có tình thương nào lớn lao cho bằng tình thương của người dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu.Thập giá là hình phạt độc ác mà người La mã dành cho những tên tội phạm,nhưng với Thiên Chúa, Ngài đã dùng chính thập giá để biểu tỏ tình yêu nhưng không,tình yêu thương hạ mình của Đức Giêsu.
Bài chia sẻ kết thúc, phần tiếp theo là các lời nguyện, cầu xin cho mọi thành phần, để nhờ thập giá nhân loại được gặp gỡ nhau trong Đức Giêsu chết trên thánh giá.Mầu nhiệm thánh giá cũng là sự hòa giải,con người trở nên bạn hữu thân thiết với nhau.Trong sự chết đau thương trên thập giá, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống yêu thương như Ngài.
Phần Suy Tôn Thánh Giá,quý cha và đại diện cộng đoàn hôn chân Chúa và tiếp theo phần rước lễ.
Tối thứ sáu Tuần Thánh,từ 19 giờ quý ông ngắm 15 sự thương khó Chúa Giêsu với thánh giá lớn dựng giữa nhà thờ.
Thứ bảy Tuần Thánh ngày 15.4.2017,tại Hội trường giáo xứ, vào lúc 7 giờ sáng, nghi thức mở cửa mồ Chúa Giêsu. Cộng đoàn luân phiên hôn chân Chúa theo đoàn thể của mình cho đến 15 giờ kết thúc.
Đêm Canh thức Vọng Phục Sinh,đây là buổi canh thức Mẹ của các buổi canh thức trong Phụng vụ.Tại Giáo xứ Phú Bình, buổi canh thức được bắt đầu vào lúc 21g.
Diễn tiến của buổi cử hành canh thức Phục sinh gồm các phần chính như sau:
Phần thứ nhất, thắp nến Phục sinh: cha chánh xứ làm phép lửa mới, làm phép nến Phục sinh, kiệu nến Phục sinh và trọng tâm là phần chaq phó công bố Tin Mừng Phục sinh (Exsultet)
Phần thứ hai Phụng vụ Lời Chúa :cộng đoàn được nghe các bài đọc tường thuật chương trình cứu độ của Thiên Chúa, từ thời Cựu ước cho đến thời Tân ước, sau cùng là biến cố Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.Đây là những bài đọc Thánh Kinh quan trọng nhất,trình bày tình thương, quyền năng và lòng trung tín của Thiên Chúa với dân Ngài.
Phần thứ ba- Phụng vụ Phép Rửa: cha chánh xứ thánh hóa nước rửa tội, rảy nước trên cộng đoàn và mời gọi mọi người lặp lại,từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin,để cam kết bước theo Chúa Giêsu,lời cam kết mà chúng ta đã hứa với Chúa khi chịu phép rửa tội.
Phần thứ tư-Phụng vụ Thánh Thể như thường lệ, cộng đoàn cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể được chính Chúa Giêsu mời gọi và quy tụ.
Phần chia sẻ Tin Mừng Đêm vọng Phục sinh,cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh giải thích ý nghĩa đêm canh thức Vọng Phục sinh.Đêm nay là đêm quan trọng nhất của phụng vụ, đêm Thiên Chúa thực hiện cuộc sáng tạo mới.Phụng vụ đêm nay trình bày như sau;khởi đầu là màn đêm bao trùm tất cả, cha chủ tế làm phép lửa, làm phép nến phục sinh và rước nến phục sinh.Chúng ta thấy, nến phục sinh là chính Chúa Giêsu, Ngài xóa tan bóng đêm tội lỗi.Bài công bố Tin Mừng Phục sinh là lời ca ngợi tình thương của Thiên Chúa,Ngài yêu thương cứu độ như lời Ngài đã hứa với dân tuyển chọn.Thiên Chúa đã thực hiện cuộc sáng tạo mới, giải thoát con người cách toàn diện,để con người được công chính,không còn phải chịu cảnh hư mất do tội lỗi.Qua cử hành phụng vụ Đêm nay, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng cứu độ của mình, nhưng cuộc sống chúng ta chưa thực sự thuộc về Thiên Chúa, chúng ta không để cho ánh sáng Chúa Kitô xóa tan những thói hư tật xấu của mình.Chúng ta phải làm sao sống như lời Thánh Phaolô Tông đồ nói : “Tôi sống,nhưng không phải là tôi sống,nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”.Chúng ta để cho Lời Chúa soi dẫn đời mình, và cho Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới trên cuộc sống chúng ta.Cùng với Chúa Kitô Phục sinh, chúng ta phải sống lại thực sự trong ơn nghĩa với Thiên Chúa.Chúng ta đừng tham dự cử hành phụng vụ đêm nay như một bổn phận bắt buộc,nhưng phải để cho Đức Giêsu giải thoát nơi con người chúng ta ra khỏi những tội lỗi, những tật xấu.Và như phụng vụ hôm nay diễn tả, chúng ta biết chọn lựa dứt khoát theo Chúa, qua việc từ bỏ ma quỷ, và tuyên xưng đức tin để là con cái Thiên Chúa.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha chánh xứ ban phép lành trọng thể cho cộng đoàn,thánh lễ Đêm vọng Phục sinh của giáo xứ Phú Bình kết thúc vào lúc 22 giờ 45 phút.
Martino Lê Hoàng Vũ
Giáo xứ Phú Bình, hạt Phú Thọ, SG đã cùng với toàn thể Giáo Hội, cử hành Tam Nhật Thánh thật long trọng và sâu lắng, tưởng niệm Cuộc khổ nạn, chịu chết và sống lại của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ con người.Ngài là quà tặng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người cách nhưng không, tình yêu hạ mình đến tột cùng, chịu chết trên thánh giá để chia sẻ với mọi thân phận con người.
xem Hình
Các buổi cử hành phụng vụ và thánh lễ trong Tam Nhật Thánh tại giáo xứ đều do cha chánh xứ Gioan B. Trần Văn Trí chủ tế,cùng với cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh.
Thứ Năm Tuần Thánh, thánh lễ Tiệc Ly diễn ra vào lúc 17g00 ngày 13.4.2017,ngày đầu tiên trong Tam nhật Thánh tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, thiết lập chức linh mục và ban điều răn mới yêu thương qua nghĩa cử Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
Bài chia sẻ với các em thiếu nhi trong thánh lễ,cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh khai triển đề tài yêu thương và phục vụ theo mẫu gương của Chúa Giêsu.Vì tình yêu thương Chúa đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta.Yêu ai là muốn ở bên người mình yêu.Bí tích Thánh Thể là bí tích thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.Vì vậy, khi tham dự thánh lễ và bàn tiệc Thánh Thể là chúng ta mang tình yêu của Chúa đến cho mọi người,bằng đời sống phục vụ và yêu thương.Tiếp sau đó,cha chánh xứ rửa chân cho quý ông tông đồ trong giáo xứ.
Thánh lễ Tiệc Ly kết thúc theo truyền thống của Giáo Hội,cộng đoàn kiệu Mình Thánh Chúa sang Nhà Tạm để chầu.Đây là giờ canh thức với Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu,trước khi Ngài đi vào cuộc khổ nạn và cái chết thương đau.Nhà tạm Mình Thánh Chúa được đặt tại Hội trường Giáo xứ.Giờ canh thức đầu tiên của đoàn TNTT,sau đó 8 giờ canh thức gồm có 5 khu đạo,và các hội đoàn gồm :Các Bà Mẹ Công Giáo, Dòng Ba Cát Minh, Gia Đình Phạt Tạ Thánh Tâm, Legio Mariae.
Thứ Sáu Tuần Thánh ngày 14.4.2017,Nghi thức Tưởng niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu tại giáo xứ Phú Bình bắt đầu lúc 16g30.Trước tiên,cộng đoàn đã quy tụ đông đủ cùng với quý cha đi đàng Thánh Giá trọng thể xung quanh nhà thờ.
Sau đó, lúc 17g30 là cử hành phụng vụ các nghi thức của ngày Thứ sáu Tuần Thánh.
Phụng vụ Lời Chúa,qua các bài đọc và hát Bài Thương Khó(Passio).Cộng đoàn cùng lắng nghe cuộc thương khó, việc Đức Giêsu bị bắt, tra tấn, sỉ nhục, vác thánh giá và chết cô đơn trên thập giá. Phụng vụ ngày thứ sáu Tuần Thánh lắng đọng hơn, đi vào chiều sâu suy niệm, Hội Thánh mời gọi các tín hữu tôn thờ Thánh Giá.Vì trên thánh giá, Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho nhân loại.Cái chết của Ngài là minh chứng cho một tình yêu rõ ràng nhất của Thiên Chúa.Chúng ta chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh vì tội lỗi của nhân loại.
Cha chánh xứ Gioan B. Trần Văn Trí trong phần chia sẻ đã dùng những hình ảnh trình chiếu để nói về tình thương của Thiên Chúa,qua cái chết đau thương của Đức Giêsu.Thật vậy,không có tình thương nào lớn lao cho bằng tình thương của người dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu.Thập giá là hình phạt độc ác mà người La mã dành cho những tên tội phạm,nhưng với Thiên Chúa, Ngài đã dùng chính thập giá để biểu tỏ tình yêu nhưng không,tình yêu thương hạ mình của Đức Giêsu.
Bài chia sẻ kết thúc, phần tiếp theo là các lời nguyện, cầu xin cho mọi thành phần, để nhờ thập giá nhân loại được gặp gỡ nhau trong Đức Giêsu chết trên thánh giá.Mầu nhiệm thánh giá cũng là sự hòa giải,con người trở nên bạn hữu thân thiết với nhau.Trong sự chết đau thương trên thập giá, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống yêu thương như Ngài.
Phần Suy Tôn Thánh Giá,quý cha và đại diện cộng đoàn hôn chân Chúa và tiếp theo phần rước lễ.
Tối thứ sáu Tuần Thánh,từ 19 giờ quý ông ngắm 15 sự thương khó Chúa Giêsu với thánh giá lớn dựng giữa nhà thờ.
Thứ bảy Tuần Thánh ngày 15.4.2017,tại Hội trường giáo xứ, vào lúc 7 giờ sáng, nghi thức mở cửa mồ Chúa Giêsu. Cộng đoàn luân phiên hôn chân Chúa theo đoàn thể của mình cho đến 15 giờ kết thúc.
Đêm Canh thức Vọng Phục Sinh,đây là buổi canh thức Mẹ của các buổi canh thức trong Phụng vụ.Tại Giáo xứ Phú Bình, buổi canh thức được bắt đầu vào lúc 21g.
Diễn tiến của buổi cử hành canh thức Phục sinh gồm các phần chính như sau:
Phần thứ nhất, thắp nến Phục sinh: cha chánh xứ làm phép lửa mới, làm phép nến Phục sinh, kiệu nến Phục sinh và trọng tâm là phần chaq phó công bố Tin Mừng Phục sinh (Exsultet)
Phần thứ hai Phụng vụ Lời Chúa :cộng đoàn được nghe các bài đọc tường thuật chương trình cứu độ của Thiên Chúa, từ thời Cựu ước cho đến thời Tân ước, sau cùng là biến cố Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.Đây là những bài đọc Thánh Kinh quan trọng nhất,trình bày tình thương, quyền năng và lòng trung tín của Thiên Chúa với dân Ngài.
Phần thứ ba- Phụng vụ Phép Rửa: cha chánh xứ thánh hóa nước rửa tội, rảy nước trên cộng đoàn và mời gọi mọi người lặp lại,từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin,để cam kết bước theo Chúa Giêsu,lời cam kết mà chúng ta đã hứa với Chúa khi chịu phép rửa tội.
Phần thứ tư-Phụng vụ Thánh Thể như thường lệ, cộng đoàn cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể được chính Chúa Giêsu mời gọi và quy tụ.
Phần chia sẻ Tin Mừng Đêm vọng Phục sinh,cha phó Giuse Nguyễn Cảnh Thịnh giải thích ý nghĩa đêm canh thức Vọng Phục sinh.Đêm nay là đêm quan trọng nhất của phụng vụ, đêm Thiên Chúa thực hiện cuộc sáng tạo mới.Phụng vụ đêm nay trình bày như sau;khởi đầu là màn đêm bao trùm tất cả, cha chủ tế làm phép lửa, làm phép nến phục sinh và rước nến phục sinh.Chúng ta thấy, nến phục sinh là chính Chúa Giêsu, Ngài xóa tan bóng đêm tội lỗi.Bài công bố Tin Mừng Phục sinh là lời ca ngợi tình thương của Thiên Chúa,Ngài yêu thương cứu độ như lời Ngài đã hứa với dân tuyển chọn.Thiên Chúa đã thực hiện cuộc sáng tạo mới, giải thoát con người cách toàn diện,để con người được công chính,không còn phải chịu cảnh hư mất do tội lỗi.Qua cử hành phụng vụ Đêm nay, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng cứu độ của mình, nhưng cuộc sống chúng ta chưa thực sự thuộc về Thiên Chúa, chúng ta không để cho ánh sáng Chúa Kitô xóa tan những thói hư tật xấu của mình.Chúng ta phải làm sao sống như lời Thánh Phaolô Tông đồ nói : “Tôi sống,nhưng không phải là tôi sống,nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”.Chúng ta để cho Lời Chúa soi dẫn đời mình, và cho Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới trên cuộc sống chúng ta.Cùng với Chúa Kitô Phục sinh, chúng ta phải sống lại thực sự trong ơn nghĩa với Thiên Chúa.Chúng ta đừng tham dự cử hành phụng vụ đêm nay như một bổn phận bắt buộc,nhưng phải để cho Đức Giêsu giải thoát nơi con người chúng ta ra khỏi những tội lỗi, những tật xấu.Và như phụng vụ hôm nay diễn tả, chúng ta biết chọn lựa dứt khoát theo Chúa, qua việc từ bỏ ma quỷ, và tuyên xưng đức tin để là con cái Thiên Chúa.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha chánh xứ ban phép lành trọng thể cho cộng đoàn,thánh lễ Đêm vọng Phục sinh của giáo xứ Phú Bình kết thúc vào lúc 22 giờ 45 phút.
Martino Lê Hoàng Vũ
Caritas Phát Diệm mang niềm vui Chúa Phục Sinh đến những người ốm đau bệnh tật vùng sâu vùng xa.
VP Caritas Phát Diệm.
21:08 18/04/2017
Caritas Phát Diệm mang niềm vui Chúa Phục Sinh đến những người ốm đau bệnh tật vùng sâu vùng xa.
Ngày Chúa Nhật Phục Sinh - Caritas và giới Y bác sĩ giáo phận Phát Diệm đi khám chữa bệnh cho người nghèo hai giáo xứ Khoan Dụ thuộc huyện Lạc Thủy – tỉnh Hòa Bình và giáo xứ Uy Tế thuộc huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình. Với sự tài trợ của Cha John Trần Bình Trọng và quý ân nhân.
Xem Hình
Ngay từ sáng sớm đoàn giới Y Bác Sĩ tất cả 14 người đã lên đường đến giáo xứ Khoan Dụ, đặc thù giáo xứ này là vùng núi cao, một giáo xứ xa nhất của giáo phận Phát Diệm, rất rộng lớn thuộc trọn gần hết huyện Lạc Thủy – tỉnh Hòa Bình gồm 11 xã, giáp ranh với địa bàn của giáo phận Hà Nội, nơi đây có các dân tộc Mường, Dao và Kinh.
Đoàn tới giáo xứ Khoan Dụ lúc 8 giờ sáng, được Cha Anrê Đào Văn Du, phó xứ Khoan Dụ, Thầy giúp xứ cùng Ban Chấp hành giáo xứ đón tiếp. Sau đó, đoàn bắt tay vào làm theo sự chỉ định sẵn, một số bác sĩ khám tổng quát, ai cần phải tư vấn thêm đã có các Bác Sĩ chuyên khoa, các dược sĩ cứ theo đơn để phát thuốc, nhịp nhàng, mỗi người một phận vụ. Sáng nay các bác sĩ đã khám và tư vấn cho hơn 200 người dân nơi đây không phân biệt tôn giáo, có những người lặn lội gần 20 km như cụ Maria Nguyễn Thị Mến - 87 tuổi giáo họ An Lạc đến giáo xứ để được khám và tư vấn bệnh.
Các Bác Sĩ tận tình thăm hỏi, tư vấn bệnh cho người dân vùng sâu vùng xa với lòng yêu thương và tận tình. Vì các Bác sĩ hiểu được người dân nơi đây có đến được các cơ sở y tế thì cả một vấn đề, không chỉ khó khăn để đi lại, nhưng còn khó khăn cả kinh tế. Có những người ốm đau là chấp nhận chết, chứ không có tiền để đi chữa bệnh.
Đến 13g30 đoàn có mặt ở giáo xứ Uy tế thuộc xã Gia Hưng - huyện Gia Viễn. Cha GioanB. Đỗ Văn Đoan cùng BCH giáo xứ đón tiếp đoàn tận tình chu đáo, khoảng gần 200 bệnh nhân đã ngồi đợi sẵn theo trật tự, dù các bệnh nhân ở đây phần lớn là người ngoài Công Giáo. Giáo xứ Uy Tế là một trong các giáo xứ hay chịu những trận lũ lụt lịch sử. Người dân ở đây lam lũ vất vả, nhiều gia đình nghèo khổ neo đơn, không có gì để ăn. Cha GioanB. Đỗ Văn Đoan cùng giáo xứ kết hợp với Đức Cha và Caritas giáo phận Phát Diệm đã và đang xây 4 căn nhà tình nghĩa cho những gia đình lương dân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Kết thúc ngày nghỉ lễ Đại lễ Chúa Phục Sinh, với 2 điểm phát thuốc cho bà con lương giáo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn 2 giáo xứ dù rất mệt, nhưng trên khuôn mặt mỗi bác sĩ trong đoàn hôm nay đều nở những nụ cười vui tươi và hạnh phúc, vì đã đem niềm vui ơn Phục Sinh đến cho mọi người. Đặc biệt những người ngoại giáo hôm nay đã cảm nhận được tình Chúa tình người qua công việc bác ái cụ thể. Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh ban muôn ơn trên Cha John Trần Bình Trọng và Quý ân nhân. Để Quý Vị mãi mãi là ban tay nối dài Lòng Thương Xót của Chúa.
VP Caritas Phát Diệm.
Ngày Chúa Nhật Phục Sinh - Caritas và giới Y bác sĩ giáo phận Phát Diệm đi khám chữa bệnh cho người nghèo hai giáo xứ Khoan Dụ thuộc huyện Lạc Thủy – tỉnh Hòa Bình và giáo xứ Uy Tế thuộc huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình. Với sự tài trợ của Cha John Trần Bình Trọng và quý ân nhân.
Xem Hình
Ngay từ sáng sớm đoàn giới Y Bác Sĩ tất cả 14 người đã lên đường đến giáo xứ Khoan Dụ, đặc thù giáo xứ này là vùng núi cao, một giáo xứ xa nhất của giáo phận Phát Diệm, rất rộng lớn thuộc trọn gần hết huyện Lạc Thủy – tỉnh Hòa Bình gồm 11 xã, giáp ranh với địa bàn của giáo phận Hà Nội, nơi đây có các dân tộc Mường, Dao và Kinh.
Đoàn tới giáo xứ Khoan Dụ lúc 8 giờ sáng, được Cha Anrê Đào Văn Du, phó xứ Khoan Dụ, Thầy giúp xứ cùng Ban Chấp hành giáo xứ đón tiếp. Sau đó, đoàn bắt tay vào làm theo sự chỉ định sẵn, một số bác sĩ khám tổng quát, ai cần phải tư vấn thêm đã có các Bác Sĩ chuyên khoa, các dược sĩ cứ theo đơn để phát thuốc, nhịp nhàng, mỗi người một phận vụ. Sáng nay các bác sĩ đã khám và tư vấn cho hơn 200 người dân nơi đây không phân biệt tôn giáo, có những người lặn lội gần 20 km như cụ Maria Nguyễn Thị Mến - 87 tuổi giáo họ An Lạc đến giáo xứ để được khám và tư vấn bệnh.
Các Bác Sĩ tận tình thăm hỏi, tư vấn bệnh cho người dân vùng sâu vùng xa với lòng yêu thương và tận tình. Vì các Bác sĩ hiểu được người dân nơi đây có đến được các cơ sở y tế thì cả một vấn đề, không chỉ khó khăn để đi lại, nhưng còn khó khăn cả kinh tế. Có những người ốm đau là chấp nhận chết, chứ không có tiền để đi chữa bệnh.
Đến 13g30 đoàn có mặt ở giáo xứ Uy tế thuộc xã Gia Hưng - huyện Gia Viễn. Cha GioanB. Đỗ Văn Đoan cùng BCH giáo xứ đón tiếp đoàn tận tình chu đáo, khoảng gần 200 bệnh nhân đã ngồi đợi sẵn theo trật tự, dù các bệnh nhân ở đây phần lớn là người ngoài Công Giáo. Giáo xứ Uy Tế là một trong các giáo xứ hay chịu những trận lũ lụt lịch sử. Người dân ở đây lam lũ vất vả, nhiều gia đình nghèo khổ neo đơn, không có gì để ăn. Cha GioanB. Đỗ Văn Đoan cùng giáo xứ kết hợp với Đức Cha và Caritas giáo phận Phát Diệm đã và đang xây 4 căn nhà tình nghĩa cho những gia đình lương dân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Kết thúc ngày nghỉ lễ Đại lễ Chúa Phục Sinh, với 2 điểm phát thuốc cho bà con lương giáo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn 2 giáo xứ dù rất mệt, nhưng trên khuôn mặt mỗi bác sĩ trong đoàn hôm nay đều nở những nụ cười vui tươi và hạnh phúc, vì đã đem niềm vui ơn Phục Sinh đến cho mọi người. Đặc biệt những người ngoại giáo hôm nay đã cảm nhận được tình Chúa tình người qua công việc bác ái cụ thể. Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh ban muôn ơn trên Cha John Trần Bình Trọng và Quý ân nhân. Để Quý Vị mãi mãi là ban tay nối dài Lòng Thương Xót của Chúa.
VP Caritas Phát Diệm.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Các quan điểm Do Thái và Kitô Giáo về tính bổ túc nam nữ (tiếp theo)
Vũ Văn An
01:21 18/04/2017
III. Quan điểm Công Giáo về tính bổ túc nam nữ
Xem thế, với cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Anh Quốc, Sir Jonathan Sacks, tương quan nam nữ, dù dưới hình thức thô sơ nhất, xem ra cũng đem lại cho phái nam nhiều “vất vả”: hết trình diễn đến tán tỉnh, đua tranh và thậm chí đánh nhau nữa mới đạt được mục tiêu, chứ không hẳn nắm đầu bắt phục tùng. Có điều, theo cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Giáo Anh Quốc, chúng ta chỉ là một nửa và phải mở lòng mình ra đón nhận một con người khác mới thành trọn vẹn.
Về điểm trên, ông có khác với Đức Goan Phaolô II vì vị Thánh Giáo Hoàng này quả quyết: tất cả chúng ta đều là những con người trọn vẹn, nhưng khi nói tới “cặp”, chúng ta mới là một nửa, không trọn vẹn.
1. Lịch sử quan điểm Công Giáo
Người ta vốn coi Đức Gioan Phaolô II là phát ngôn viên của quan điểm Công Giáo về tính bổ túc nam nữ. Nhưng theo Nữ Tu Prudence Allen, một học giả nghiên cứu về phụ nữ, và là một diễn giả trong Hội Thoại Humanum, tính bổ túc nam nữ đã được đề cập từ lâu trong Giáo Hội Công Giáo (xem Man-Woman Complementarity: The Catholic Inspiration, Logos, Summer 2006).
Thực vậy, Nữ Tu Allen nhấn mạnh hai yếu tố trong tương quan phái tính: phẩm giá bình đẳng và dị biệt quan trọng. Khi sự cân bằng giữa hai yếu tố này mất đi, thay vì bổ túc, người ta gặp hoặc thuyết đa cực hoặc thuyết độc giới tính.
Các quan điểm cổ xưa và Trung Cổ
Quan điểm độc giới tính (unisex), do Platông khởi xướng, bác bỏ sự khác biệt trong khi bênh vực sự bình đẳng nam nữ. Quan điểm đa cực (polarity), do Aríttốt khởi xướng, bác bỏ sự bình đẳng trong khi bênh vực sự trổi vượt tự nhiên của đàn ông đối với đàn bà. Hai quan điểm này tồn tại cho tới khi Thánh Augustinô (354–430), Hildegard đệ Bingen (1033–1109), và Thánh Tôma Aquinô (1224–74) đưa ra các nền tảng thần học và triết học Kitô giáo cho sự bình đẳng nền tảng và sự dị biệt hóa quan trọng của người đàn ông và người đàn bà (1). Dù công trình của các vị không có các nền tảng nhất quán cho tính bổ túc phái tính, chúng vẫn đã thúc đẩy ngôn từ công cộng hướng tới một bổ túc tính nam nữ quân bình hơn.
Sau đó, một loại gợi hứng Công Giáo mới nhằm bênh vực tính bổ túc phái tính xuất hiện bên trong phong trào nhân bản thời Phục Hưng với các công trình của Christine de Pizan (1344–1430), Hồng Y Nicholas of Cusa (1401–64), Albrecht von Eyb (1420–75), Isotta Nogarola (1418–66), và Laura Cereta (1469–99) (2). Ở đây, họ tìm cách cung cấp các nền tảng đa dạng cho tính bổ túc nam nữ trong hôn nhân và ngoài xã hội.
Chẳng bao lâu sau, xuất hiện các luận điểm bênh vực một thứ đa cực phái tính đảo ngược (reverse gender polarity) nơi các tác giả như Heinrich Cornelius Agrippa (1486–1536) và Lucrezia Marinelli (1571–1653)(3). Họ bênh vực chủ trương cho rằng có những khác biệt quan trọng giữa các giới tính, nhưng đàn bà tự nhiên trổi vượt hơn đàn ông.
Cùng thời gian ấy, nhiều phong trào khác đưa ra các nền tảng mới cho luận điểm độc phái tính nhân cơ hội có những bản dịch các tác phẩm của Platông sang tiếng La Tinh; các tác phẩm này cho thấy một linh hồn phi giới tính tái nhập thể vào các loại thân xác khác nhau. Những người như Marsilio Ficino (1433–99), cũng ủng hộ tính bổ túc phần mớ (fractional complementarity), và Giovanni Pico della Mirandola (1463–94) cũng ủng hộ cả tính trung tính phái tính (gender-neutral approach). Phương thức sau làm ngơ các dị biệt giới tính và phái tính; phương thức trước thì thẳng thừng cho rằng các dị biệt giới tính không đáng kể.
Thời cận đại và đầu thời hiện đại
Một chủ trương trung tính phái tính khác được cung cấp bởi luận điểm siêu hình của René Descartes’ (1590–1650). Họ cho rằng trí khôn phi trương độ (nonextended mind), phi giới tính hoàn toàn khác với thân xác thể lý có trương độ, và phải đồng nhất hóa hữu thể nhân bản với trí khôn mà thôi, tức với cái “tôi là một sự vật suy nghĩ” hơn là với thân xác hay với việc kết hợp trí khôn và thể xác. Phương thức của Descartes, một phương thức tích cực cung cấp nền tảng nhờ đó, đàn ông và đàn bà cùng có quyền như nhau trong việc được giáo dục và đầu phiếu, được trực tiếp ủng hộ bởi các tác giả như François Poullain de la Barre (1647–1723), Mary Astell (1688–1731), và Marquis de Condorcet (1743–94) (4).
Chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes cũng đã đẻ ra một hình thức bổ túc phần mớ của Phong Trào Ánh Sáng, cho rằng nam và nữ khác nhau một cách đáng kể, nhưng mỗi bên chỉ cung cấp một phần của một ngôi vị trọn vẹn. Đàn bà được coi là cung cấp một nửa các hoạt động của trí khôn (tức trực giác, cảm giác, hay các phán đoán đặc thù) còn người đàn ông thì cung cấp nửa phần còn lại (tức lý trí hay các phán đoán phổ quát).
Hai hoạt động nhận thức có tính phần mớ này, nếu cộng lại với nhau, sẽ chỉ sản sinh ra một trí khôn. Khi những điều chuyên biệt trong các đóng góp phát sinh được nhận diện, thì các liên hệ phần mớ này thường chứa các tiên trưng (stereotypes) của chủ trương đa cực tính truyền thống dấu mặt, với đàn ông được coi trổi vượt hơn đàn bà. Ta có thể tìm thấy tính đa cực dấu mặt này nơi các nền triết học của Jean Jacques Rousseau (1712–78), Immanuel Kant (1724–1804), Arthur Schopenhauer (1788–1860), Frederick Hegel (1770–1831), và Soren Kierkegaard (1813–55) (5).
Vấn đề ở đây là chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes tách biệt trí khôn ra khỏi thân xác, nên các tác giả Thệ Phản trên đánh mất nền tảng siêu hình và hữu thể học vững chắc dựa vào sự thống nhất toàn diện của nhân vị. Dù John Stuart Mill (1806–73) và Harriet Taylor (1807–58) cố gắng bênh vực tính bổ túc, họ cũng rơi vào hình thức phần mớ vì thiếu nền tảng hữu thể học cho một nền nhân học có tính triết học thỏa đáng (hylomorphic).
Bất cứ nền tảng Công Giáo nào cho một tính bổ túc phái tính toàn diện (integral gender complementarity) cũng đều bị bác bỏ sau đó bởi các triết gia vô thần sau Phong Trào Ánh Sáng.
Karl Marx (1818–83) phát huy quan điểm độc giới tính trong mối tương quan nam nữ. Sigmund Freud (1856–1939) cổ vũ quan điểm đa cực truyền thống. Các nền triết học của Jean Paul Sartre (1905–80) và Simone de Beauvoir (1908–85) rút tỉa từ cả hai nguồn này để bênh vực một chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Chủ nghĩa này chủ trương đa cực giới tính, hạ giá đàn bà so với đàn ông. Chủ nghĩa nhân bản thế tục phản tôn giáo, thay vào đó, đã hướng về quan điểm độc giới tính. Cuối cùng, chủ nghĩa duy nữ triệt để hậu hiện đại dao động giữa quan điểm đa cực phái tính, tức quan điểm tán dương bản chất phụ nữ cao hơn bản chất nam giới, và việc tận diệt sự dị biệt hóa phái tính (6).
Nữ tu Allen đặt câu hỏi: “Làm thế nào cảm hứng Công Giáo đối với một quan điểm bổ túc phái tính toàn diện có thể thắng vượt được các bóp méo cực đoan trong các lý thuyết sau thời Ánh Sáng về các tương quan nam nữ?” Và bà cho hay: cảm hứng Công Giáo này đã xuất hiện một cách hết sức bất ngờ từ những người Công Giáo không phải là “đạo dòng”.
Thuyết nhân vị và hiện tượng luận
Thực vậy, nó đến từ hai người học trò của Edmund Husserl, cha đẻ của hiện tượng luận. Đó là Dietrich von Hildebrand (1889-1977) và Thánh Nữ Edith Stein (1891-1942). Cả hai đã đặt nền tảng mới mẻ cho quan điểm bổ túc hữu thể học và có tính cảm nghiệm giữa người đàn ông và người đàn bà.
Stein từ Do Thái Giáo trở lại Công Giáo năm 1922, còn Hildebrand thì từ phái Luthêrô trở lại Công Giáo trước đó, vào năm 1917. Nhưng ngay từ năm 1914, cả Stein lẫn Hildebrand đều là hội viên của Hội Triết Học, gồm các học trò của Husserl và Scheler ở Göttingen(7). Qua năm 1930, Stein cho biết sự hợp tác của bà với Hildebrand trong các buổi diễn thuyết tại một hội nghị ở Salzburg, Áo (8).
Năm 1923, Hildebrand đọc một bài diễn văn ở Ulm, Đức, Germany, sau đó được khai triển thêm và năm 1929, được ấn hành dưới tựa đề Die Ehe (Về Hôn Nhân)(9). Trong tác phẩm này, ông lý luận rằng “sẽ là điều hết sức hời hợt khi chỉ coi là khác nhau về sinh học sự phân biệt giữa người đàn ông và người đàn bà, một sự phân biệt thực sự cho ta thấy 2 mẫu (types) bổ túc cho nhau của con người tâm linh thuộc chủng người” (10). Von Hildebrand minh nhiên quả quyết rằng “sự khác nhau giữa đàn ông và đàn bà là một sự khác nhau về siêu hình (metaphysical)”; và ông so sánh ý nghĩa của tính bổ túc này với cách các dòng tu sống thực các mục đích của họ (11).
Chống lại “chủ nghĩa phản nhân vị đáng sợ” của thời đại, ông đề nghị: trong hôn nhân, người đàn ông và người đàn bà tạo ra một thể hợp nhất trong đó họ hỗ tương bổ túc lẫn nhau.
Tình yêu vợ chồng - bao gồm việc hiến tặng chính con người mình, một tình yêu mà đặc điểm có tính quyết định là hai người hùn hạp tạo nên một cặp, một hiệp thông anh - em, trong đó, trọn nhân cách của người được yêu được nắm lấy một cách mầu nhiệm như một đơn nhất, bất chấp mọi trở ngại bên ngoài - chỉ hiện hữu giữa hai mẫu của con người tâm linh, mẫu nam và mẫu nữ, vì chỉ giữa họ với nhau mới có thể tìm thấy đặc tính bổ túc này (12).
Von Hildebrand tiếp tục tìm hiểu bản chất mối tương quan bổ túc cho nhau này, và năm 1966, trong Man and Woman: Love and the Meaning of Intimacy (Đàn Ông và Đàn Bà: Tình Yêu và Ý Nghĩa của thân mật), ông lên đặc điểm cho nó như thiên “nhiều về thế mặt đối mặt hơn là bên cạnh nhau” đến nỗi “chính việc không giống nhau một cách tổng quát trong bản chất của cả hai giúp cho việc đi sâu hơn vào linh hồn người kia… thành một tương quan thực sự bổ túc cho nhau” (13).
Cũng để phản ứng chống lại chủ trương độc giới tính trong tương quan phái tính, năm 1928, Stein, lúc đó, ở Đức, lý luận rằng ở buổi đầu của phong trào duy nữ, xem xét chủ đề này, tức chủ đề “Ý Nghĩa các Giá Trị Nội Tại của Người Đàn Bà trong Đời Sống Quốc Gia” là một điều khó tưởng tượng được. Thời đó, cuộc đấu tranh “Giải Phóng” (phụ nữ) đang diễn ra; nghĩa là, mục tiêu mong muốn thực sự là mục tiêu của chủ nghĩa duy cá nhân: giúp các nhân cách phụ nữ hành động tự do bằng cách mở hết mọi cánh cửa giáo dục và nghề nghiệp.
Các phụ nữ đòi quyền đi bầu sai lầm ở chỗ hoàn toàn bác bỏ tính độc đáo của người đàn bà” (14).
Triết học của Stein về đàn bà và đàn ông dựa vào siêu hình học đổi mới của trường phái Tôma nhằm dứt khoát bác bỏ chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes và các hậu quả của chủ nghĩa này.
Bà khẳng định tính thống nhất của phức hợp (composite) hồn/xác, và năm 1931, chủ trương rằng hồn có sự ưu tiên trong việc dị biệt hóa phái tính: “Việc nhấn mạnh rằng các dị biệt giới tính ‘được coi là do thân xác mà thôi’ đáng bị nghi vấn bởi nhiều quan điểm khác nhau. 1) Nếu anima = forma corporis (linh hồn = mô thức của thân xác), thì việc dị biệt hóa thân xác tạo nên thước đo (index) cho sự dị biệt hóa trong tinh thần. 2) Chất thể phục vụ mô thức, chứ không ngược lại. Điều này mạnh mẽ chứng tỏ: sự dị biệt trong linh hồn là sự dị biệt đầu hết” (15). Stein cũng theo Von Hildebrand trong việc đưa ra một phân tích sâu sắc về tình yêu coi nó như “việc hỗ tương tự hiến của các ngôi vị” (16).
Nền tảng siêu hình của phái Tômít dành cho tính thống nhất hữu thể học của nhân vị được Stein nối kết với việc phân tích hiện tượng luận để khám phá ra yếu tính của “kinh nghiệm sống của thân xác” nơi người đàn bà và nơi người đàn ông. Trong cuốn Các Khảo Luận về Phụ Nữ của mình, dù không sử dụng hạn từ “bổ túc”, bà đã nói rõ và một cách chi tiết các cơ cấu bổ túc nền tảng của nữ/nam, cái/đực, và đàn bà/đàn ông. Một tóm lược các quan điểm của bà sẽ giúp ta định vị bà vào các khoảnh khắc lịch sử của cảm hứng Công Giáo này (17).
Trong tính bổ túc nữ/nam (female/male), cơ cấu thân xác nữ được sắp đặt hướng tới việc hỗ trợ sự sống mới bên trong người mẹ trong khi cơ cấu thân xác nam hướng về việc sinh sản trong tư cách người cha qua việc tách rời hạt giống. Cội rễ này dẫn tới một kinh nghiệm sống khác trong đó cơ cấu nữ tiếp nhận thế giới vào bên trong qua các cảm xúc mạnh mẽ (passions) nhiều hơn, còn cơ cấu nam, vì ít chịu ảnh hưởng của thân xác hơn, nên tiếp nhận thế giới qua trí hiểu (intellect) nhiều hơn. Trí hiểu nữ có xu hướng lĩnh hội giá trị của một hữu thể trong tính toàn diện của nó trong khi trí hiểu nam có xu hướng phán đoán một cách chia ngăn (compartmentalized); và ý chí nữ có xu hướng nhấn mạnh các chọn lựa có tính bản thân và toàn diện (holistic), trong khi ý chí nam có xu hướng nhấn mạnh các chọn lựa chuyên biệt hóa bề ngoài. Dựa vào phương pháp hiện tượng luận, Stein nhận diện các đặc điểm yếu tính chuyên biệt trong căn tính độc đáo của đàn bà:
"Quan điểm của nàng nhằm tính sống động và bản thân hơn là khách quan; … nàng hướng về tính toàn bộ và tính tự túc (self-containment) tương phản với việc chuyên biệt hóa một chiều; … [có khả năng] tự trở thành một ngôi vị đầy đủ… mà các quan năng được phát triển và cùng hiện hữu một cách hòa hợp; … [người] giúp người khác trở thành những con người nhân bản đầy đủ; và trong mọi tiếp xúc với những người khác, biết tôn trọng con người nhân bản đầy đủ… Giá trị nội tại của người đàn bà có thể đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc gia bằng các hoạt động của nàng trong gia đình cũng như trong đời sống nghề nghiệp và công cộng” (18).
Đôi khi, nội dung được chuyên biệt hóa của Stein về sự bổ túc phái tính rơi vào một kiểu phần mớ nào đó, dù không hề có tính đa cực giấu diếm nào vốn rất thường có nơi các lý thuyết trước đó. Ấy thế nhưng, bà cũng cho rằng trong tính bổ túc đàn bà/đàn ông, người ta có thể và nên hội nhập các khía cạnh cái/đực (feminine/masculine) của phái tính bổ túc. Việc hội nhập này che chở người đàn bà hoặc người đàn ông khỏi những điều cực đoan của hai thiên hướng phái tính. Stein kết luận rằng Chúa Giêsu Kitô là mẫu mực hoàn hảo của việc hội nhập này; Thánh Têrêxa Avila là một gương mẫu khác. Dù Stein được coi là một khoảnh khắc quan trọng của cảm hứng Công Giáo hướng tới tính bổ túc phái tính, lý thuyết của bà có lúc bị yếu đi bởi lối giải thích kiểu tiên trưng (stereotypical) về các đặc điểm đực và cái.
Đầu thập niên 1930, trước khi bà vào Dòng Cát Minh, Stein gặp Jacques Maritain (1892–1973) và Raissa Maritain (1893–1960) tại các hội nghị triết gia Công Giáo Pháp (19). Năm 1906, Raissa, thuộc dòng giống Do Thái Giáo, và Jacques, không có bất cứ hậu cảnh tôn giáo nào, lãnh nhận phép rửa và gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tại Paris, năm 1932, Emmanuel Mounier và Jacques Maritain thành lập tập san nhân vị tựa là Esprit. Qua năm 1934, Mounier và Maritain thường xuyên gặp gỡ Gabriel Marcel và Nikolai Berdyaev trong một nhóm tranh luận triết học. Cùng nhau, họ công bố “Tuyên Ngôn Nhân Vị”, trình bầy chi tiết một thuyết nhân vị Công Giáo mới.
Năm 1936, trong Esprit, Mounier cho công bố bài báo đầu tiên về mối tương quan giữa thuyết nhân vị và căn tính phụ nữ, tựa là “La femme aussi est une personne” (“Phụ Nữ Cũng Là Một Nhân Vị”) (20).
Những nhà sáng lập đầu tiên của phong trào nhân vị đều quyết định lập gia đình. Thành thử, nhiều bài viết của họ chú tâm vào các năng động tính của liên hệ bổ túc toàn diện trong hôn nhân. Năm 1936, Jacques Maritain viết một khảo luận có tính giáo khoa về “Tình Yêu và Tình Bạn” trong đó, ông phân biệt các loại tình yêu khác nhau. “Tình yêu nhân hậu (dilection)… [là] tình bạn tuyệt đối độc đáo giữa những người kết hôn, mà một trong các mục đích cốt lõi nhất là tình đồng hành thiêng liêng giữa một người đàn ông và một người đàn bà ngõ hầu họ có thể giúp nhau chu toàn định mệnh của họ ở đời này” (21). Năm 1942, Raissa Maritain cho công bố trước tác “Chúng Ta Là Bạn Bè Với Nhau”, cho thấy sự bổ túc phái tính toàn diện của cặp vợ chồng này. Trong một khảo luận năm 1950, tựa là “Thuyết Nhân Vị và Cuộc Cách Mạng của Thế Kỷ Hai Mươi”, Mounier lý luận chống lại các lời phê bình duy nữ có tính vị lợi và duy tục chống hôn nhân:
“Đàn ông và đàn bà chỉ có thể tìm được sự thành toàn ở nơi nhau, và sự kết hợp của họ chỉ tìm được sự thành toàn của nó nơi đứa con; đây là xu hướng cố hữu của họ hướng tới một thứ dư dật và dư tràn, chứ không phải hướng tới một mục đích nội tại và vị lợi” (22).
Trong thập niên 1960, lý luận chống lại khuôn mẫu đa cực cổ truyền, Dietrich von Hildebrand và Alice von Hildebrand nhấn mạnh rằng liên hệ có tính hoàn thành người đàn ông và người đàn bà, trong yếu tính, đòi hỏi điều này: “các người phối ngẫu trong hôn nhân phải mãi là những ngôi vị độc lập”. Nếu điều này không có, thì “nói theo ngôn từ của Marcel, thay vì có cái chúng tôi hiệp thông thực sự, … điều còn lại chỉ là cái tôi thổi phồng, trong trường hợp này, là cái tôi của người chồng. Anh ta sẽ đối xử với vợ như vật sở hữu, như một đồ vật; anh ta không còn đối xử với nàng như một ngôi vị” (23). Khuôn mẫu bổ túc toàn diện, vốn đã được chi tiết hóa dưới một hình thức nào đó trong thuyết nhân vị buổi đầu, cho rằng mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà đều là một ngôi vị đầy đủ theo một nghĩa quan trọng về hữu thể học. Khi họ bước vào các mối tương quan liên ngã, hiệu quả sẽ có tính hợp lực (synergetic); nghĩa là một điều gì đó hơn thế diễn ra trong mối tương quan chứ không phải chỉ là các phần mớ của người này cộng vào với các phần mớ của người kia; một điều gì đó mới mẻ đã được sản sinh ra. Trong khi sự bổ túc phần mớ có thể được diễn tả bằng công thức ½ + ½ = 1, thì sự bổ túc toàn diện có thể được minh họa bằng công thức 1 + 1 → 3.
Karol Wojtyła
Năm 1934, Mounier cho công bố một bài báo trên một tập san Ba Lan (Wiadomo´sci Literackie) nói về phong trào nhân vị tại Pháp.Tuyên Ngôn Nhân Vị được dịch sang tiếng Ba Lan và phân phối bí mật tại Ba Lan thời Thế Chiến II. Tháng Năm, 1946, sau Chiến Tranh, Mounier được mời diễn thuyết tại Đại Học Jagiellonian ở Cracow lúc Karol Wojtyła là một tân chủng sinh đang theo học ở đấy. Thành thử không ngạc nhiên chi khi, vào mùa hè năm 1947, Wojtyła, lúc đó đang theo học tại Rôma và cư ngụ tại Học Viện Bỉ, quyết định qua Pháp để nghiên cứu phong trào linh mục thợ.
Chính Đức Gioan Phaolô II trực tiếp nói với chúng ta trong Ơn Phúc và Mầu Nhiệm rằng “việc đào tạo của tôi trong chân trời văn hóa của thuyết nhân vị cũng đem lại cho tôi một ý thức sâu xa hơn về việc mỗi cá nhân đều là một nhân vị độc đáo như thế nào” (24).
Năm 1960, linh mục trẻ Karol Wojtyła ấn hành lần đầu tác phẩm lớn của mình về đạo đức học trong hôn nhân tựa là Tình Yêu và Trách Nhiệm. Các cội rễ mới cho một tính bổ túc toàn diện đàn ông đàn bà đã được trình bầy trong tác phẩm này. Hôn nhân được mô tả có một “cơ cấu liên ngã rõ ràng”; với các định luật “khởi phát từ các nguyên tắc của quy phạm nhân vị, vì chỉ nhờ cách này mới bảo đảm có được đặc điểm bản vị chân chính trong cuộc kết hợp của hai ngôi vị” (25). Quy phạm nhân vị đòi hỏi người ta phải luôn đối xử với người khác như cùng đích tự tại, không bao giờ chỉ như một phương tiện.
Trong Tình Yêu và Trách Nhiệm, Wojtyła cũng xem xét điều sẽ trở thành nền tảng sinh học cho cách tiếp cận độc đáo của phụ nữ đối với một ngôi vị khác, nghĩa là do việc rụng trứng của người đàn bà từ tuổi dậy thì tới lúc tắt kinh, nàng có chu kỳ kinh nguyệt chuẩn bị để nàng đón nhận sự sống mới, dù nàng không bao giờ trở thành có thai. Đàn ông có một nền tảng sinh học khác hẳn cho căn tính độc đáo của chàng là làm cha (280). Điều quan trọng cần lưu ý là đối với Wojtyła, thiên nhiên không ấn định ra căn tính; vì căn tính còn bao hàm các hành vi của ý chí và trí hiểu nữa. Ngài nhận diện sự thách đố này là người đàn ông phải vượt thắng mọi xu hướng vị lợi muốn sử dụng người đàn bà vì giá trị gợi dục của nàng đối với mình, và ngược lại thách đố của người đàn bà là vượt thắng mọi xu hướng vị lợi muốn sử dụng người đàn ông vì giá trị xúc cảm của chàng đối với mình (104-14).
Sự hội nhập (Integration) — yếu tố then chốt trong tính bổ túc phái tính toàn diện — đã được dẫn khởi: tình yêu “nhằm không những việc hội nhập ‘bên trong’ ngôi vị mà còn nhằm việc hội nhập ‘giữa’ các ngôi vị;… ‘hội nhập’ nghĩa là ‘làm thành toàn diện (whole),… [và điều này] dựa vào các yếu tố đệ nhất đẳng của tinh thần con người: tự do và chân lý” (116). Năm 1969, Wojtyła cung cấp cho ta một nền tảng siêu hình cho hội nhập trong cuốn Ngôi Vị Hành Động bằng cách lấy lại thuyết mô chất (hylomorphism) của Thánh Tôma Aquinô. Ngài công bố ý định “suy nghĩ lại thực tại năng động của con người” chứa đựng trong lý thuyết trung cổ này (26). Wojtyła lý luận rằng “hội nhập bổ túc cho tính siêu việt và… chúng tạo nên một “toàn bộ gồm cả ngôi vị lẫn hành động” (‘person-action-whole’) đầy tính năng động và nếu không có sự hội nhập này, tính siêu việt (nghĩa là đi vào thế giới và tạo nên bản ngã mình bằng các hành vi bản thân) mãi… bị ngưng trệ” (27).
Với những khởi đầu của việc thiết lập cơ cấu nhân vị cho các liên hệ nhân bản, năm 1974–75, Wojtyła trình bày khuôn khổ thần học cho việc hiệp thông chân chính của các ngôi vị trong hai bài diễn văn: “Gia Đình như một Cộng Đồng Các Ngôi Vị” và “Việc Làm Cha Mẹ như một Hiệp Thông Các Ngôi Vị” (28). Ngài nối kết mầu nhiệm các cộng đồng nhân bản được mời gọi lớn lên theo họa ảnh sự Hiệp Thông của Các Ngôi Vị Thiên Chúa với sự hội nhập các năng động tính sinh học và bản vị của đàn ông và đàn bà trong hôn nhân và trong gia đình.
Trong năm được bầu làm giáo hoàng, ngày 16 tháng Mười năm 1978, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hàng loạt cuộc yết kiến trong đó, ngài phân tích cơ cấu của tính bổ túc đàn ông đàn bà như đã được mạc khải trong Sách Sáng Thế. Bằng các quả quyết rằng Thiên Chúa tạo dựng đàn ông và đàn bà bằng nhau như các hữu thể nhân bản và bằng nhau như những ngôi vị, ngài bênh vực nguyên tắc đầu tiên của tính bổ túc toàn diện. Bằng cách khẳng định rằng đàn ông và đàn bà là hai cách rất khác nhau để làm các ngôi vị trong thế giới, ngài bênh vực nguyên tắc thứ hai của tính bổ túc toàn diện.
Bằng cách chứng minh rằng đàn ông và đàn bà được Thiên Chúa mời gọi ra sao trong việc kết hợp với nhau trong hôn nhân, ngài công bố chiều kích ơn gọi của tính bổ túc toàn diện (29).
Đồng thời, Đức Gioan Phaolô II sử dụng một cách tiếp cận khác đối với nam tính và nữ tính hơn người đi trước ngài là Stein. Như thế, ngài không, và đã không bao giờ cho rằng người đàn ông có thể có nữ tính hoặc đàn bà có nam tính. Thay vào đó, ngài lý luận rằng nam tính là cách đàn ông hiện hữu và hành động trong thế giới, và nữ tính là cách đàn bà hiện hữu và hành động trong thế giới: “nam tính và nữ tính [là]… hai cách ‘là thân xác’” (30). Trong hầu hết các phương diện khác, Đức Gioan Phaolô II chấp nhận các tầm nhìn thông sáng của Stein về căn tính đàn ông và đàn bà.
Có phần chắc là ngài đã học hỏi cách tiếp cận hiện tượng học của Stein đối với căn tính phục nữ qua Roman Ingarden, người vốn cùng Stein học tập dưới sự dìu dắt của Edmund Husserl và là người trở thành thầy dạy của Đức Gioan Phaolô II ở Cracow. Sau này, trong Đứng Dậy, Chúng Ta Hãy Lên Đường, Đức Gioan Phaolô II sẽ cho thấy liên hệ của ngài với Roman Ingarden, và ở cùng một trang, ngài viết thêm: “Tôi quan tâm tới triết học của bà [Edith Stein]. Tôi đọc các trước tác của bà” (31). Cách tiếp cận của Stein sẽ có tính nền tảng đối với việc khai triển sau này của Đức Gioan Phaolô II về lý thuyết thiên tài của phụ nữ và thuyết duy nữ mới.
(Còn tiếp)
_______________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
1. Muốn có các điển hình chi tiết hỗ trợ các điều nói về các triết gia thời xưa và thời trung cổ, xin xem Prudence Allen, RSM, The Concept of Woman: The Aristotelian Revolution 750 b.c.–1250 a.d. (Grand Rapids, MI/Cambridge: Eerdmans,1997).
2. Muốn có các điển hình chi tiết hỗ trợ các điều nói tới các tác giả cuối Thời Kinh Viện, Phục Hưng và đầu thời cận đại, xin xem Prudence Allen, RSM, The Concept of Woman: The Early Humanist Reformation (1250–1500) (Grand Rapids, MI: Cambridge: Eerdmans, 2002).
3. Muốn đọc các luận điểm chuyên biệt của họ, xin xem Prudence Allen, RSM, and Filippo Salvatore, “Lucrezia Marinelli and Woman’s Identity in Late Italian Renaissance,” Renaissance and Reformation/ Renaissance et Réforme 28, no. 4 (1992): 5–39.
4. Muốn biết ảnh hưởng của Descartes đối với các luận điểm về căn tính phái tính, xin xem Prudence Allen, RSM “Descartes, The Concept of Woman, and The French Revolution,” trong Revolution, Violence, and Equality, ed. Yaeger Hudson and Creighton Peden, trong loạt Studies in Social and Political Theory, vol. 10, no. 3 (Lewiston, NY: The Edwin Mellon Press, 1990), 61–78.
5. Muốn đọc cuộc thăm dò chi tiết về ảnh hưởng của quan điểm bổ túc phần mớ đối với các lý thuyết nhận thức luận, xin xem Prudence Allen, “Rationality, Gender, and History,” American Catholic Philosophical Quarterly, Proceedings of 1994 Annual Conference, vol. 68 (1994), 271–88.
6. Muốn đọc các nền tảng khác nhau của các hình thức nhân bản vô thần và Kitô Giáo, xin xem Prudence Allen, RSM, “Can Feminism be a Humanism?” trong Women in Christ: Toward a New Feminism, ed. Michele M. Schumacher (Grand Rapids, MI/Cambridge: Eerdmans, 2003), 251–84.
7. Edith Stein, Life in a Jewish Family (Washington DC: ICS Publications, 1986), 253–58.
8. Edith Stein, “Letter to Sr. Adelgundis Jaegerschmid, OSB,” trong Self Portrait đăng trong Letters 1916–1942 (Washington DC: ICS Publications, 1993), 64.
9. Alice von Hildebrand, dẫn nhập vào Dietrich von Hildebrand, Marriage: The Mystery of Faithful Love (Manchester, NH: Sophia Institute Press, 1991), xiv–xv. Bản dịch tiếng Anh đầu tiên được ấn hành năm 1942.
10. Ibid., 13.
11. Ibid., 15.
12. Ibid.
13. Dietrich von Hildebrand, Man and Woman: Love and the Meaning of Intimacy (Manchester, NH: Sophia Press, 1966/1992), 91.
14. Edith Stein, “The Significance of Woman’s Intrinsic Value in National Life,” tóm lược diễn văn trước Các Cô Giáo Công Giáo Bavaria ở Ludwifshafen on the Rhine, 12 tháng Tư, 1928, trong Essays on Women, Ấn bản 2, có sửa chữa (Washington DC: ICS Publications, 1996), dẫn nhập của chủ biên, 37–38.
15. Stein, “Letter to Sister Callista Kopf,” trong Self Portrait in Letters, 99.
16. Xin xem Stein, Finite and Eternal Being (Washington DC: ICS Publications, 2002), 453–59.
17. Xin xem Prudence Allen, RSM, “Sex and gender differentiation in Hildegard of Bingen and Edith Stein,” Communio 20 (Summer 1993): 389–414.
18. Stein, “Significance of Woman’s Intrinsic Value,” dẫn nhập của chủ biên 38–39.
19. Xin xem Stein, Thư gửi Honecker và Maritain trong Self Portrait in Letters, no. 199:116–17, no. 125:124–25, and no.145:146–47.
20. Emmanuel Mounier, Esprit (June 1936): 292–97.
21. Jacques Maritain, “Love and Friendship: A Marginal Note to the Journal of Raissa,” trong Untrammeled Approaches (Notre Dame: University of Notre Dame Press, 1997), 184.
22. Emmanuel Mounier, Personalism (Notre Dame: University of Notre Dame, 1952), 108.
23. Dietrich and Alice von Hildebrand, The Art of Living Manchester, NH: Sophia Institute Press, 1965/1994), 73.
24. John Paul II, Gift and Mystery: On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination (New York: Doubleday, 1996), 94.
25. Karol Wojtyła, Love and Responsibility (San Francisco: Ignatius Press, 1993), 218–19
26. Karol Wojtyła, The Acting Person (Dordrecht, Holland: D. Reidel, 1969), 203.
27. Ibid., 190.
28. Karol Wojtyła, “The Family as a Community of Persons,” và “Parenthood as a Community of Persons,” trong Person and Community: Selected Essays (San Francisco: Peter Lang, 1993), chap. 21–22, 315–42.
29. John Paul II, Original Unity of Man and Woman: Catechesis on the Book of Genesis (1979–1980), Các buổi yết kiến 24 tháng Mười, các ngày 14 và 21 tháng Mười Một, và ngày 12 tháng Mười Hai, 1979 (Boston: St. Paul Editions, 1981), 61–91.
30. Ibid. (7 tháng Mười Một, 1979), 62.
31. John Paul II, Rise, Let us Be on our Way (New York: Time Warner and Milan: Arnoldo Mondadori Editore, 2004), 90–91.
Xem thế, với cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Anh Quốc, Sir Jonathan Sacks, tương quan nam nữ, dù dưới hình thức thô sơ nhất, xem ra cũng đem lại cho phái nam nhiều “vất vả”: hết trình diễn đến tán tỉnh, đua tranh và thậm chí đánh nhau nữa mới đạt được mục tiêu, chứ không hẳn nắm đầu bắt phục tùng. Có điều, theo cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Giáo Anh Quốc, chúng ta chỉ là một nửa và phải mở lòng mình ra đón nhận một con người khác mới thành trọn vẹn.
Về điểm trên, ông có khác với Đức Goan Phaolô II vì vị Thánh Giáo Hoàng này quả quyết: tất cả chúng ta đều là những con người trọn vẹn, nhưng khi nói tới “cặp”, chúng ta mới là một nửa, không trọn vẹn.
1. Lịch sử quan điểm Công Giáo
Người ta vốn coi Đức Gioan Phaolô II là phát ngôn viên của quan điểm Công Giáo về tính bổ túc nam nữ. Nhưng theo Nữ Tu Prudence Allen, một học giả nghiên cứu về phụ nữ, và là một diễn giả trong Hội Thoại Humanum, tính bổ túc nam nữ đã được đề cập từ lâu trong Giáo Hội Công Giáo (xem Man-Woman Complementarity: The Catholic Inspiration, Logos, Summer 2006).
Thực vậy, Nữ Tu Allen nhấn mạnh hai yếu tố trong tương quan phái tính: phẩm giá bình đẳng và dị biệt quan trọng. Khi sự cân bằng giữa hai yếu tố này mất đi, thay vì bổ túc, người ta gặp hoặc thuyết đa cực hoặc thuyết độc giới tính.
Các quan điểm cổ xưa và Trung Cổ
Quan điểm độc giới tính (unisex), do Platông khởi xướng, bác bỏ sự khác biệt trong khi bênh vực sự bình đẳng nam nữ. Quan điểm đa cực (polarity), do Aríttốt khởi xướng, bác bỏ sự bình đẳng trong khi bênh vực sự trổi vượt tự nhiên của đàn ông đối với đàn bà. Hai quan điểm này tồn tại cho tới khi Thánh Augustinô (354–430), Hildegard đệ Bingen (1033–1109), và Thánh Tôma Aquinô (1224–74) đưa ra các nền tảng thần học và triết học Kitô giáo cho sự bình đẳng nền tảng và sự dị biệt hóa quan trọng của người đàn ông và người đàn bà (1). Dù công trình của các vị không có các nền tảng nhất quán cho tính bổ túc phái tính, chúng vẫn đã thúc đẩy ngôn từ công cộng hướng tới một bổ túc tính nam nữ quân bình hơn.
Sau đó, một loại gợi hứng Công Giáo mới nhằm bênh vực tính bổ túc phái tính xuất hiện bên trong phong trào nhân bản thời Phục Hưng với các công trình của Christine de Pizan (1344–1430), Hồng Y Nicholas of Cusa (1401–64), Albrecht von Eyb (1420–75), Isotta Nogarola (1418–66), và Laura Cereta (1469–99) (2). Ở đây, họ tìm cách cung cấp các nền tảng đa dạng cho tính bổ túc nam nữ trong hôn nhân và ngoài xã hội.
Chẳng bao lâu sau, xuất hiện các luận điểm bênh vực một thứ đa cực phái tính đảo ngược (reverse gender polarity) nơi các tác giả như Heinrich Cornelius Agrippa (1486–1536) và Lucrezia Marinelli (1571–1653)(3). Họ bênh vực chủ trương cho rằng có những khác biệt quan trọng giữa các giới tính, nhưng đàn bà tự nhiên trổi vượt hơn đàn ông.
Cùng thời gian ấy, nhiều phong trào khác đưa ra các nền tảng mới cho luận điểm độc phái tính nhân cơ hội có những bản dịch các tác phẩm của Platông sang tiếng La Tinh; các tác phẩm này cho thấy một linh hồn phi giới tính tái nhập thể vào các loại thân xác khác nhau. Những người như Marsilio Ficino (1433–99), cũng ủng hộ tính bổ túc phần mớ (fractional complementarity), và Giovanni Pico della Mirandola (1463–94) cũng ủng hộ cả tính trung tính phái tính (gender-neutral approach). Phương thức sau làm ngơ các dị biệt giới tính và phái tính; phương thức trước thì thẳng thừng cho rằng các dị biệt giới tính không đáng kể.
Thời cận đại và đầu thời hiện đại
Một chủ trương trung tính phái tính khác được cung cấp bởi luận điểm siêu hình của René Descartes’ (1590–1650). Họ cho rằng trí khôn phi trương độ (nonextended mind), phi giới tính hoàn toàn khác với thân xác thể lý có trương độ, và phải đồng nhất hóa hữu thể nhân bản với trí khôn mà thôi, tức với cái “tôi là một sự vật suy nghĩ” hơn là với thân xác hay với việc kết hợp trí khôn và thể xác. Phương thức của Descartes, một phương thức tích cực cung cấp nền tảng nhờ đó, đàn ông và đàn bà cùng có quyền như nhau trong việc được giáo dục và đầu phiếu, được trực tiếp ủng hộ bởi các tác giả như François Poullain de la Barre (1647–1723), Mary Astell (1688–1731), và Marquis de Condorcet (1743–94) (4).
Chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes cũng đã đẻ ra một hình thức bổ túc phần mớ của Phong Trào Ánh Sáng, cho rằng nam và nữ khác nhau một cách đáng kể, nhưng mỗi bên chỉ cung cấp một phần của một ngôi vị trọn vẹn. Đàn bà được coi là cung cấp một nửa các hoạt động của trí khôn (tức trực giác, cảm giác, hay các phán đoán đặc thù) còn người đàn ông thì cung cấp nửa phần còn lại (tức lý trí hay các phán đoán phổ quát).
Hai hoạt động nhận thức có tính phần mớ này, nếu cộng lại với nhau, sẽ chỉ sản sinh ra một trí khôn. Khi những điều chuyên biệt trong các đóng góp phát sinh được nhận diện, thì các liên hệ phần mớ này thường chứa các tiên trưng (stereotypes) của chủ trương đa cực tính truyền thống dấu mặt, với đàn ông được coi trổi vượt hơn đàn bà. Ta có thể tìm thấy tính đa cực dấu mặt này nơi các nền triết học của Jean Jacques Rousseau (1712–78), Immanuel Kant (1724–1804), Arthur Schopenhauer (1788–1860), Frederick Hegel (1770–1831), và Soren Kierkegaard (1813–55) (5).
Vấn đề ở đây là chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes tách biệt trí khôn ra khỏi thân xác, nên các tác giả Thệ Phản trên đánh mất nền tảng siêu hình và hữu thể học vững chắc dựa vào sự thống nhất toàn diện của nhân vị. Dù John Stuart Mill (1806–73) và Harriet Taylor (1807–58) cố gắng bênh vực tính bổ túc, họ cũng rơi vào hình thức phần mớ vì thiếu nền tảng hữu thể học cho một nền nhân học có tính triết học thỏa đáng (hylomorphic).
Bất cứ nền tảng Công Giáo nào cho một tính bổ túc phái tính toàn diện (integral gender complementarity) cũng đều bị bác bỏ sau đó bởi các triết gia vô thần sau Phong Trào Ánh Sáng.
Karl Marx (1818–83) phát huy quan điểm độc giới tính trong mối tương quan nam nữ. Sigmund Freud (1856–1939) cổ vũ quan điểm đa cực truyền thống. Các nền triết học của Jean Paul Sartre (1905–80) và Simone de Beauvoir (1908–85) rút tỉa từ cả hai nguồn này để bênh vực một chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Chủ nghĩa này chủ trương đa cực giới tính, hạ giá đàn bà so với đàn ông. Chủ nghĩa nhân bản thế tục phản tôn giáo, thay vào đó, đã hướng về quan điểm độc giới tính. Cuối cùng, chủ nghĩa duy nữ triệt để hậu hiện đại dao động giữa quan điểm đa cực phái tính, tức quan điểm tán dương bản chất phụ nữ cao hơn bản chất nam giới, và việc tận diệt sự dị biệt hóa phái tính (6).
Nữ tu Allen đặt câu hỏi: “Làm thế nào cảm hứng Công Giáo đối với một quan điểm bổ túc phái tính toàn diện có thể thắng vượt được các bóp méo cực đoan trong các lý thuyết sau thời Ánh Sáng về các tương quan nam nữ?” Và bà cho hay: cảm hứng Công Giáo này đã xuất hiện một cách hết sức bất ngờ từ những người Công Giáo không phải là “đạo dòng”.
Thuyết nhân vị và hiện tượng luận
Thực vậy, nó đến từ hai người học trò của Edmund Husserl, cha đẻ của hiện tượng luận. Đó là Dietrich von Hildebrand (1889-1977) và Thánh Nữ Edith Stein (1891-1942). Cả hai đã đặt nền tảng mới mẻ cho quan điểm bổ túc hữu thể học và có tính cảm nghiệm giữa người đàn ông và người đàn bà.
Stein từ Do Thái Giáo trở lại Công Giáo năm 1922, còn Hildebrand thì từ phái Luthêrô trở lại Công Giáo trước đó, vào năm 1917. Nhưng ngay từ năm 1914, cả Stein lẫn Hildebrand đều là hội viên của Hội Triết Học, gồm các học trò của Husserl và Scheler ở Göttingen(7). Qua năm 1930, Stein cho biết sự hợp tác của bà với Hildebrand trong các buổi diễn thuyết tại một hội nghị ở Salzburg, Áo (8).
Năm 1923, Hildebrand đọc một bài diễn văn ở Ulm, Đức, Germany, sau đó được khai triển thêm và năm 1929, được ấn hành dưới tựa đề Die Ehe (Về Hôn Nhân)(9). Trong tác phẩm này, ông lý luận rằng “sẽ là điều hết sức hời hợt khi chỉ coi là khác nhau về sinh học sự phân biệt giữa người đàn ông và người đàn bà, một sự phân biệt thực sự cho ta thấy 2 mẫu (types) bổ túc cho nhau của con người tâm linh thuộc chủng người” (10). Von Hildebrand minh nhiên quả quyết rằng “sự khác nhau giữa đàn ông và đàn bà là một sự khác nhau về siêu hình (metaphysical)”; và ông so sánh ý nghĩa của tính bổ túc này với cách các dòng tu sống thực các mục đích của họ (11).
Chống lại “chủ nghĩa phản nhân vị đáng sợ” của thời đại, ông đề nghị: trong hôn nhân, người đàn ông và người đàn bà tạo ra một thể hợp nhất trong đó họ hỗ tương bổ túc lẫn nhau.
Tình yêu vợ chồng - bao gồm việc hiến tặng chính con người mình, một tình yêu mà đặc điểm có tính quyết định là hai người hùn hạp tạo nên một cặp, một hiệp thông anh - em, trong đó, trọn nhân cách của người được yêu được nắm lấy một cách mầu nhiệm như một đơn nhất, bất chấp mọi trở ngại bên ngoài - chỉ hiện hữu giữa hai mẫu của con người tâm linh, mẫu nam và mẫu nữ, vì chỉ giữa họ với nhau mới có thể tìm thấy đặc tính bổ túc này (12).
Von Hildebrand tiếp tục tìm hiểu bản chất mối tương quan bổ túc cho nhau này, và năm 1966, trong Man and Woman: Love and the Meaning of Intimacy (Đàn Ông và Đàn Bà: Tình Yêu và Ý Nghĩa của thân mật), ông lên đặc điểm cho nó như thiên “nhiều về thế mặt đối mặt hơn là bên cạnh nhau” đến nỗi “chính việc không giống nhau một cách tổng quát trong bản chất của cả hai giúp cho việc đi sâu hơn vào linh hồn người kia… thành một tương quan thực sự bổ túc cho nhau” (13).
Cũng để phản ứng chống lại chủ trương độc giới tính trong tương quan phái tính, năm 1928, Stein, lúc đó, ở Đức, lý luận rằng ở buổi đầu của phong trào duy nữ, xem xét chủ đề này, tức chủ đề “Ý Nghĩa các Giá Trị Nội Tại của Người Đàn Bà trong Đời Sống Quốc Gia” là một điều khó tưởng tượng được. Thời đó, cuộc đấu tranh “Giải Phóng” (phụ nữ) đang diễn ra; nghĩa là, mục tiêu mong muốn thực sự là mục tiêu của chủ nghĩa duy cá nhân: giúp các nhân cách phụ nữ hành động tự do bằng cách mở hết mọi cánh cửa giáo dục và nghề nghiệp.
Các phụ nữ đòi quyền đi bầu sai lầm ở chỗ hoàn toàn bác bỏ tính độc đáo của người đàn bà” (14).
Triết học của Stein về đàn bà và đàn ông dựa vào siêu hình học đổi mới của trường phái Tôma nhằm dứt khoát bác bỏ chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes và các hậu quả của chủ nghĩa này.
Bà khẳng định tính thống nhất của phức hợp (composite) hồn/xác, và năm 1931, chủ trương rằng hồn có sự ưu tiên trong việc dị biệt hóa phái tính: “Việc nhấn mạnh rằng các dị biệt giới tính ‘được coi là do thân xác mà thôi’ đáng bị nghi vấn bởi nhiều quan điểm khác nhau. 1) Nếu anima = forma corporis (linh hồn = mô thức của thân xác), thì việc dị biệt hóa thân xác tạo nên thước đo (index) cho sự dị biệt hóa trong tinh thần. 2) Chất thể phục vụ mô thức, chứ không ngược lại. Điều này mạnh mẽ chứng tỏ: sự dị biệt trong linh hồn là sự dị biệt đầu hết” (15). Stein cũng theo Von Hildebrand trong việc đưa ra một phân tích sâu sắc về tình yêu coi nó như “việc hỗ tương tự hiến của các ngôi vị” (16).
Nền tảng siêu hình của phái Tômít dành cho tính thống nhất hữu thể học của nhân vị được Stein nối kết với việc phân tích hiện tượng luận để khám phá ra yếu tính của “kinh nghiệm sống của thân xác” nơi người đàn bà và nơi người đàn ông. Trong cuốn Các Khảo Luận về Phụ Nữ của mình, dù không sử dụng hạn từ “bổ túc”, bà đã nói rõ và một cách chi tiết các cơ cấu bổ túc nền tảng của nữ/nam, cái/đực, và đàn bà/đàn ông. Một tóm lược các quan điểm của bà sẽ giúp ta định vị bà vào các khoảnh khắc lịch sử của cảm hứng Công Giáo này (17).
Trong tính bổ túc nữ/nam (female/male), cơ cấu thân xác nữ được sắp đặt hướng tới việc hỗ trợ sự sống mới bên trong người mẹ trong khi cơ cấu thân xác nam hướng về việc sinh sản trong tư cách người cha qua việc tách rời hạt giống. Cội rễ này dẫn tới một kinh nghiệm sống khác trong đó cơ cấu nữ tiếp nhận thế giới vào bên trong qua các cảm xúc mạnh mẽ (passions) nhiều hơn, còn cơ cấu nam, vì ít chịu ảnh hưởng của thân xác hơn, nên tiếp nhận thế giới qua trí hiểu (intellect) nhiều hơn. Trí hiểu nữ có xu hướng lĩnh hội giá trị của một hữu thể trong tính toàn diện của nó trong khi trí hiểu nam có xu hướng phán đoán một cách chia ngăn (compartmentalized); và ý chí nữ có xu hướng nhấn mạnh các chọn lựa có tính bản thân và toàn diện (holistic), trong khi ý chí nam có xu hướng nhấn mạnh các chọn lựa chuyên biệt hóa bề ngoài. Dựa vào phương pháp hiện tượng luận, Stein nhận diện các đặc điểm yếu tính chuyên biệt trong căn tính độc đáo của đàn bà:
"Quan điểm của nàng nhằm tính sống động và bản thân hơn là khách quan; … nàng hướng về tính toàn bộ và tính tự túc (self-containment) tương phản với việc chuyên biệt hóa một chiều; … [có khả năng] tự trở thành một ngôi vị đầy đủ… mà các quan năng được phát triển và cùng hiện hữu một cách hòa hợp; … [người] giúp người khác trở thành những con người nhân bản đầy đủ; và trong mọi tiếp xúc với những người khác, biết tôn trọng con người nhân bản đầy đủ… Giá trị nội tại của người đàn bà có thể đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc gia bằng các hoạt động của nàng trong gia đình cũng như trong đời sống nghề nghiệp và công cộng” (18).
Đôi khi, nội dung được chuyên biệt hóa của Stein về sự bổ túc phái tính rơi vào một kiểu phần mớ nào đó, dù không hề có tính đa cực giấu diếm nào vốn rất thường có nơi các lý thuyết trước đó. Ấy thế nhưng, bà cũng cho rằng trong tính bổ túc đàn bà/đàn ông, người ta có thể và nên hội nhập các khía cạnh cái/đực (feminine/masculine) của phái tính bổ túc. Việc hội nhập này che chở người đàn bà hoặc người đàn ông khỏi những điều cực đoan của hai thiên hướng phái tính. Stein kết luận rằng Chúa Giêsu Kitô là mẫu mực hoàn hảo của việc hội nhập này; Thánh Têrêxa Avila là một gương mẫu khác. Dù Stein được coi là một khoảnh khắc quan trọng của cảm hứng Công Giáo hướng tới tính bổ túc phái tính, lý thuyết của bà có lúc bị yếu đi bởi lối giải thích kiểu tiên trưng (stereotypical) về các đặc điểm đực và cái.
Đầu thập niên 1930, trước khi bà vào Dòng Cát Minh, Stein gặp Jacques Maritain (1892–1973) và Raissa Maritain (1893–1960) tại các hội nghị triết gia Công Giáo Pháp (19). Năm 1906, Raissa, thuộc dòng giống Do Thái Giáo, và Jacques, không có bất cứ hậu cảnh tôn giáo nào, lãnh nhận phép rửa và gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tại Paris, năm 1932, Emmanuel Mounier và Jacques Maritain thành lập tập san nhân vị tựa là Esprit. Qua năm 1934, Mounier và Maritain thường xuyên gặp gỡ Gabriel Marcel và Nikolai Berdyaev trong một nhóm tranh luận triết học. Cùng nhau, họ công bố “Tuyên Ngôn Nhân Vị”, trình bầy chi tiết một thuyết nhân vị Công Giáo mới.
Năm 1936, trong Esprit, Mounier cho công bố bài báo đầu tiên về mối tương quan giữa thuyết nhân vị và căn tính phụ nữ, tựa là “La femme aussi est une personne” (“Phụ Nữ Cũng Là Một Nhân Vị”) (20).
Những nhà sáng lập đầu tiên của phong trào nhân vị đều quyết định lập gia đình. Thành thử, nhiều bài viết của họ chú tâm vào các năng động tính của liên hệ bổ túc toàn diện trong hôn nhân. Năm 1936, Jacques Maritain viết một khảo luận có tính giáo khoa về “Tình Yêu và Tình Bạn” trong đó, ông phân biệt các loại tình yêu khác nhau. “Tình yêu nhân hậu (dilection)… [là] tình bạn tuyệt đối độc đáo giữa những người kết hôn, mà một trong các mục đích cốt lõi nhất là tình đồng hành thiêng liêng giữa một người đàn ông và một người đàn bà ngõ hầu họ có thể giúp nhau chu toàn định mệnh của họ ở đời này” (21). Năm 1942, Raissa Maritain cho công bố trước tác “Chúng Ta Là Bạn Bè Với Nhau”, cho thấy sự bổ túc phái tính toàn diện của cặp vợ chồng này. Trong một khảo luận năm 1950, tựa là “Thuyết Nhân Vị và Cuộc Cách Mạng của Thế Kỷ Hai Mươi”, Mounier lý luận chống lại các lời phê bình duy nữ có tính vị lợi và duy tục chống hôn nhân:
“Đàn ông và đàn bà chỉ có thể tìm được sự thành toàn ở nơi nhau, và sự kết hợp của họ chỉ tìm được sự thành toàn của nó nơi đứa con; đây là xu hướng cố hữu của họ hướng tới một thứ dư dật và dư tràn, chứ không phải hướng tới một mục đích nội tại và vị lợi” (22).
Trong thập niên 1960, lý luận chống lại khuôn mẫu đa cực cổ truyền, Dietrich von Hildebrand và Alice von Hildebrand nhấn mạnh rằng liên hệ có tính hoàn thành người đàn ông và người đàn bà, trong yếu tính, đòi hỏi điều này: “các người phối ngẫu trong hôn nhân phải mãi là những ngôi vị độc lập”. Nếu điều này không có, thì “nói theo ngôn từ của Marcel, thay vì có cái chúng tôi hiệp thông thực sự, … điều còn lại chỉ là cái tôi thổi phồng, trong trường hợp này, là cái tôi của người chồng. Anh ta sẽ đối xử với vợ như vật sở hữu, như một đồ vật; anh ta không còn đối xử với nàng như một ngôi vị” (23). Khuôn mẫu bổ túc toàn diện, vốn đã được chi tiết hóa dưới một hình thức nào đó trong thuyết nhân vị buổi đầu, cho rằng mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà đều là một ngôi vị đầy đủ theo một nghĩa quan trọng về hữu thể học. Khi họ bước vào các mối tương quan liên ngã, hiệu quả sẽ có tính hợp lực (synergetic); nghĩa là một điều gì đó hơn thế diễn ra trong mối tương quan chứ không phải chỉ là các phần mớ của người này cộng vào với các phần mớ của người kia; một điều gì đó mới mẻ đã được sản sinh ra. Trong khi sự bổ túc phần mớ có thể được diễn tả bằng công thức ½ + ½ = 1, thì sự bổ túc toàn diện có thể được minh họa bằng công thức 1 + 1 → 3.
Karol Wojtyła
Năm 1934, Mounier cho công bố một bài báo trên một tập san Ba Lan (Wiadomo´sci Literackie) nói về phong trào nhân vị tại Pháp.Tuyên Ngôn Nhân Vị được dịch sang tiếng Ba Lan và phân phối bí mật tại Ba Lan thời Thế Chiến II. Tháng Năm, 1946, sau Chiến Tranh, Mounier được mời diễn thuyết tại Đại Học Jagiellonian ở Cracow lúc Karol Wojtyła là một tân chủng sinh đang theo học ở đấy. Thành thử không ngạc nhiên chi khi, vào mùa hè năm 1947, Wojtyła, lúc đó đang theo học tại Rôma và cư ngụ tại Học Viện Bỉ, quyết định qua Pháp để nghiên cứu phong trào linh mục thợ.
Chính Đức Gioan Phaolô II trực tiếp nói với chúng ta trong Ơn Phúc và Mầu Nhiệm rằng “việc đào tạo của tôi trong chân trời văn hóa của thuyết nhân vị cũng đem lại cho tôi một ý thức sâu xa hơn về việc mỗi cá nhân đều là một nhân vị độc đáo như thế nào” (24).
Năm 1960, linh mục trẻ Karol Wojtyła ấn hành lần đầu tác phẩm lớn của mình về đạo đức học trong hôn nhân tựa là Tình Yêu và Trách Nhiệm. Các cội rễ mới cho một tính bổ túc toàn diện đàn ông đàn bà đã được trình bầy trong tác phẩm này. Hôn nhân được mô tả có một “cơ cấu liên ngã rõ ràng”; với các định luật “khởi phát từ các nguyên tắc của quy phạm nhân vị, vì chỉ nhờ cách này mới bảo đảm có được đặc điểm bản vị chân chính trong cuộc kết hợp của hai ngôi vị” (25). Quy phạm nhân vị đòi hỏi người ta phải luôn đối xử với người khác như cùng đích tự tại, không bao giờ chỉ như một phương tiện.
Trong Tình Yêu và Trách Nhiệm, Wojtyła cũng xem xét điều sẽ trở thành nền tảng sinh học cho cách tiếp cận độc đáo của phụ nữ đối với một ngôi vị khác, nghĩa là do việc rụng trứng của người đàn bà từ tuổi dậy thì tới lúc tắt kinh, nàng có chu kỳ kinh nguyệt chuẩn bị để nàng đón nhận sự sống mới, dù nàng không bao giờ trở thành có thai. Đàn ông có một nền tảng sinh học khác hẳn cho căn tính độc đáo của chàng là làm cha (280). Điều quan trọng cần lưu ý là đối với Wojtyła, thiên nhiên không ấn định ra căn tính; vì căn tính còn bao hàm các hành vi của ý chí và trí hiểu nữa. Ngài nhận diện sự thách đố này là người đàn ông phải vượt thắng mọi xu hướng vị lợi muốn sử dụng người đàn bà vì giá trị gợi dục của nàng đối với mình, và ngược lại thách đố của người đàn bà là vượt thắng mọi xu hướng vị lợi muốn sử dụng người đàn ông vì giá trị xúc cảm của chàng đối với mình (104-14).
Sự hội nhập (Integration) — yếu tố then chốt trong tính bổ túc phái tính toàn diện — đã được dẫn khởi: tình yêu “nhằm không những việc hội nhập ‘bên trong’ ngôi vị mà còn nhằm việc hội nhập ‘giữa’ các ngôi vị;… ‘hội nhập’ nghĩa là ‘làm thành toàn diện (whole),… [và điều này] dựa vào các yếu tố đệ nhất đẳng của tinh thần con người: tự do và chân lý” (116). Năm 1969, Wojtyła cung cấp cho ta một nền tảng siêu hình cho hội nhập trong cuốn Ngôi Vị Hành Động bằng cách lấy lại thuyết mô chất (hylomorphism) của Thánh Tôma Aquinô. Ngài công bố ý định “suy nghĩ lại thực tại năng động của con người” chứa đựng trong lý thuyết trung cổ này (26). Wojtyła lý luận rằng “hội nhập bổ túc cho tính siêu việt và… chúng tạo nên một “toàn bộ gồm cả ngôi vị lẫn hành động” (‘person-action-whole’) đầy tính năng động và nếu không có sự hội nhập này, tính siêu việt (nghĩa là đi vào thế giới và tạo nên bản ngã mình bằng các hành vi bản thân) mãi… bị ngưng trệ” (27).
Với những khởi đầu của việc thiết lập cơ cấu nhân vị cho các liên hệ nhân bản, năm 1974–75, Wojtyła trình bày khuôn khổ thần học cho việc hiệp thông chân chính của các ngôi vị trong hai bài diễn văn: “Gia Đình như một Cộng Đồng Các Ngôi Vị” và “Việc Làm Cha Mẹ như một Hiệp Thông Các Ngôi Vị” (28). Ngài nối kết mầu nhiệm các cộng đồng nhân bản được mời gọi lớn lên theo họa ảnh sự Hiệp Thông của Các Ngôi Vị Thiên Chúa với sự hội nhập các năng động tính sinh học và bản vị của đàn ông và đàn bà trong hôn nhân và trong gia đình.
Trong năm được bầu làm giáo hoàng, ngày 16 tháng Mười năm 1978, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hàng loạt cuộc yết kiến trong đó, ngài phân tích cơ cấu của tính bổ túc đàn ông đàn bà như đã được mạc khải trong Sách Sáng Thế. Bằng các quả quyết rằng Thiên Chúa tạo dựng đàn ông và đàn bà bằng nhau như các hữu thể nhân bản và bằng nhau như những ngôi vị, ngài bênh vực nguyên tắc đầu tiên của tính bổ túc toàn diện. Bằng cách khẳng định rằng đàn ông và đàn bà là hai cách rất khác nhau để làm các ngôi vị trong thế giới, ngài bênh vực nguyên tắc thứ hai của tính bổ túc toàn diện.
Bằng cách chứng minh rằng đàn ông và đàn bà được Thiên Chúa mời gọi ra sao trong việc kết hợp với nhau trong hôn nhân, ngài công bố chiều kích ơn gọi của tính bổ túc toàn diện (29).
Đồng thời, Đức Gioan Phaolô II sử dụng một cách tiếp cận khác đối với nam tính và nữ tính hơn người đi trước ngài là Stein. Như thế, ngài không, và đã không bao giờ cho rằng người đàn ông có thể có nữ tính hoặc đàn bà có nam tính. Thay vào đó, ngài lý luận rằng nam tính là cách đàn ông hiện hữu và hành động trong thế giới, và nữ tính là cách đàn bà hiện hữu và hành động trong thế giới: “nam tính và nữ tính [là]… hai cách ‘là thân xác’” (30). Trong hầu hết các phương diện khác, Đức Gioan Phaolô II chấp nhận các tầm nhìn thông sáng của Stein về căn tính đàn ông và đàn bà.
Có phần chắc là ngài đã học hỏi cách tiếp cận hiện tượng học của Stein đối với căn tính phục nữ qua Roman Ingarden, người vốn cùng Stein học tập dưới sự dìu dắt của Edmund Husserl và là người trở thành thầy dạy của Đức Gioan Phaolô II ở Cracow. Sau này, trong Đứng Dậy, Chúng Ta Hãy Lên Đường, Đức Gioan Phaolô II sẽ cho thấy liên hệ của ngài với Roman Ingarden, và ở cùng một trang, ngài viết thêm: “Tôi quan tâm tới triết học của bà [Edith Stein]. Tôi đọc các trước tác của bà” (31). Cách tiếp cận của Stein sẽ có tính nền tảng đối với việc khai triển sau này của Đức Gioan Phaolô II về lý thuyết thiên tài của phụ nữ và thuyết duy nữ mới.
(Còn tiếp)
_______________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
1. Muốn có các điển hình chi tiết hỗ trợ các điều nói về các triết gia thời xưa và thời trung cổ, xin xem Prudence Allen, RSM, The Concept of Woman: The Aristotelian Revolution 750 b.c.–1250 a.d. (Grand Rapids, MI/Cambridge: Eerdmans,1997).
2. Muốn có các điển hình chi tiết hỗ trợ các điều nói tới các tác giả cuối Thời Kinh Viện, Phục Hưng và đầu thời cận đại, xin xem Prudence Allen, RSM, The Concept of Woman: The Early Humanist Reformation (1250–1500) (Grand Rapids, MI: Cambridge: Eerdmans, 2002).
3. Muốn đọc các luận điểm chuyên biệt của họ, xin xem Prudence Allen, RSM, and Filippo Salvatore, “Lucrezia Marinelli and Woman’s Identity in Late Italian Renaissance,” Renaissance and Reformation/ Renaissance et Réforme 28, no. 4 (1992): 5–39.
4. Muốn biết ảnh hưởng của Descartes đối với các luận điểm về căn tính phái tính, xin xem Prudence Allen, RSM “Descartes, The Concept of Woman, and The French Revolution,” trong Revolution, Violence, and Equality, ed. Yaeger Hudson and Creighton Peden, trong loạt Studies in Social and Political Theory, vol. 10, no. 3 (Lewiston, NY: The Edwin Mellon Press, 1990), 61–78.
5. Muốn đọc cuộc thăm dò chi tiết về ảnh hưởng của quan điểm bổ túc phần mớ đối với các lý thuyết nhận thức luận, xin xem Prudence Allen, “Rationality, Gender, and History,” American Catholic Philosophical Quarterly, Proceedings of 1994 Annual Conference, vol. 68 (1994), 271–88.
6. Muốn đọc các nền tảng khác nhau của các hình thức nhân bản vô thần và Kitô Giáo, xin xem Prudence Allen, RSM, “Can Feminism be a Humanism?” trong Women in Christ: Toward a New Feminism, ed. Michele M. Schumacher (Grand Rapids, MI/Cambridge: Eerdmans, 2003), 251–84.
7. Edith Stein, Life in a Jewish Family (Washington DC: ICS Publications, 1986), 253–58.
8. Edith Stein, “Letter to Sr. Adelgundis Jaegerschmid, OSB,” trong Self Portrait đăng trong Letters 1916–1942 (Washington DC: ICS Publications, 1993), 64.
9. Alice von Hildebrand, dẫn nhập vào Dietrich von Hildebrand, Marriage: The Mystery of Faithful Love (Manchester, NH: Sophia Institute Press, 1991), xiv–xv. Bản dịch tiếng Anh đầu tiên được ấn hành năm 1942.
10. Ibid., 13.
11. Ibid., 15.
12. Ibid.
13. Dietrich von Hildebrand, Man and Woman: Love and the Meaning of Intimacy (Manchester, NH: Sophia Press, 1966/1992), 91.
14. Edith Stein, “The Significance of Woman’s Intrinsic Value in National Life,” tóm lược diễn văn trước Các Cô Giáo Công Giáo Bavaria ở Ludwifshafen on the Rhine, 12 tháng Tư, 1928, trong Essays on Women, Ấn bản 2, có sửa chữa (Washington DC: ICS Publications, 1996), dẫn nhập của chủ biên, 37–38.
15. Stein, “Letter to Sister Callista Kopf,” trong Self Portrait in Letters, 99.
16. Xin xem Stein, Finite and Eternal Being (Washington DC: ICS Publications, 2002), 453–59.
17. Xin xem Prudence Allen, RSM, “Sex and gender differentiation in Hildegard of Bingen and Edith Stein,” Communio 20 (Summer 1993): 389–414.
18. Stein, “Significance of Woman’s Intrinsic Value,” dẫn nhập của chủ biên 38–39.
19. Xin xem Stein, Thư gửi Honecker và Maritain trong Self Portrait in Letters, no. 199:116–17, no. 125:124–25, and no.145:146–47.
20. Emmanuel Mounier, Esprit (June 1936): 292–97.
21. Jacques Maritain, “Love and Friendship: A Marginal Note to the Journal of Raissa,” trong Untrammeled Approaches (Notre Dame: University of Notre Dame Press, 1997), 184.
22. Emmanuel Mounier, Personalism (Notre Dame: University of Notre Dame, 1952), 108.
23. Dietrich and Alice von Hildebrand, The Art of Living Manchester, NH: Sophia Institute Press, 1965/1994), 73.
24. John Paul II, Gift and Mystery: On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination (New York: Doubleday, 1996), 94.
25. Karol Wojtyła, Love and Responsibility (San Francisco: Ignatius Press, 1993), 218–19
26. Karol Wojtyła, The Acting Person (Dordrecht, Holland: D. Reidel, 1969), 203.
27. Ibid., 190.
28. Karol Wojtyła, “The Family as a Community of Persons,” và “Parenthood as a Community of Persons,” trong Person and Community: Selected Essays (San Francisco: Peter Lang, 1993), chap. 21–22, 315–42.
29. John Paul II, Original Unity of Man and Woman: Catechesis on the Book of Genesis (1979–1980), Các buổi yết kiến 24 tháng Mười, các ngày 14 và 21 tháng Mười Một, và ngày 12 tháng Mười Hai, 1979 (Boston: St. Paul Editions, 1981), 61–91.
30. Ibid. (7 tháng Mười Một, 1979), 62.
31. John Paul II, Rise, Let us Be on our Way (New York: Time Warner and Milan: Arnoldo Mondadori Editore, 2004), 90–91.
Giải đáp phụng vụ: Chủ tế bẻ Bánh vào lúc nào?
Nguyễn Trọng Đa
13:46 18/04/2017
Giải đáp phụng vụ: Chủ tế bẻ Bánh vào lúc nào?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Tại sao trong trình thuật lập Bí tích Thánh Thể, trước khi đọc lời truyền phép, linh mục không bẻ bánh khi nói: “…Ngài bẻ bánh và trao cho các môn đệ...", con có ý muốn nói, tại sao linh mục chờ đến kinh Agnus Dei (Lạy Chiên Thiên Chúa) mới bẻ Bánh? Con nghĩ rằng câu hỏi này cũng vang lên trong tâm trí của một số linh mục; đó là tại sao, để làm cho có ý nghĩa, một số ít linh mục thực sự bẻ bánh trong khi đọc trình thuật lập Bí tích Thánh Thể. Xin cha giải thích cho con và nhiều người được hiểu! - X. A., thành phố Quezon, Philippines.
Đáp: Trước khi đề cập đến lý do tại sao bánh Thánh không nên được bẻ ra vào lúc gần truyền phép, tôi nhớ lại rằng sự thực hành này đã được đề cập cụ thể trong huấn thị Redemptionis Sacramentum (Bí tích Cứu độ, ngày 25-3-2004), số 55: "Sự lạm dụng sau đây phổ biến ở một vài nơi: trong lúc cử hành Thánh Lễ, linh mục bẻ bánh lúc truyền phép. Một sự lạm dụng như thế đi nghịch lại với truyền thống của Giáo Hội. Nó cần bị dứt khoát bác bỏ và được sửa chữa khẩn cấp” (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Có nhiều lý do tại sao truyền thống nghi lễ Latinh không bẻ bánh theo nghi thức vào thời điểm nêu trên, và chúng tôi sẽ cố gắng minh họa một số lý do ấy.
Trình thuật lập Bí tích Thánh Thể mô tả bốn hành động của Chúa Kitô: cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Bốn khoảnh khắc này cấu thành nên điều mà chuyên viên phụng vụ Anh giáo nổi tiếng Gregory Dix gọi là "hình dạng" của phụng vụ Thánh Thể.
Thật vậy, Giáo Hội Latinh đã thiết lập một cách nghi thức Phụng vụ Thánh Thể và việc hiệp lễ xung quanh bốn thời khắc này. Việc cầm lấy bánh được diễn tả ở trên bởi nghi thức dâng lễ vật. Việc tạ ơn là yếu tính của Kinh nguyện Thánh Thể. Việc bẻ Bánh được thực hiện trong việc bẻ Bánh ra và việc trao cho các môn đệ của Chúa được thực hiện trong việc Rước lễ.
Trình thuật lập Bí tích Thánh Thể là ở trong Kinh nguyện Thánh Thể, và do đó nằm trong bối cảnh tạ ơn Chúa Cha. Hành động tối cao của việc tạ ơn là mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Trong trình thuật lập Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội kể lại với Chúa Cha hành động của Chúa Con, và lệnh truyền của Ngài cho việc tiếp tục hành động tưởng niệm này. Sự tưởng niệm hiệu quả ấy không giới hạn vào sự biến thể của bánh và rượu, nhưng làm cho hiện diện toàn bộ mầu nhiệm cứu độ, khi nhắc lại sự chết, sự phục sinh và lên trời của Chúa Kitô. Không hành vi tạ ơn nào khác cho Chúa Cha có thể sánh bằng với những gì xảy ra trong phụng vụ Thánh Thể cả.
Hiện giờ, bởi vì đối tượng của Kinh Nguyện Thánh Thể là dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha, các cử chỉ ấn tượng hướng đến các tín hữu, như bẻ Bánh hoặc làm một cử chỉ diễn đạt trong khi nói "Các con hãy cầm lấy” là bị sai chỗ, và thực sự làm giảm đi ý nghĩa thiết yếu của nghi thức vào thời điểm này.
Người ta có thể chứng minh rằng lập luận trên đây cũng gợi ý rằng, sự thực hành nghi lễ Latinh của việc linh mục cầm bánh và chén thánh trong tay, và trưng ra cho các tín hữu thấy sau khi truyền phép cũng là sai chỗ. Nói theo thần học, cử chỉ cầm Bánh và Chén thánh, và trưng ra cho các tín hữu là không nhất thiết cần thiết cho tính hợp pháp của việc truyền phép, như được chứng minh qua sự thực hành của một số Giáo Hội phương Đông. Cũng là đúng rằng theo lịch sử, nghi thức trưng Bánh và Chén Thánh đã được đề ra, để đáp ứng với một mong muốn đạo đức của tín hữu được nhìn thấy hai hình Bánh và Rượu.
Tuy nhiên, dù có nguồn gốc nào đi chăng nữa, nghi thức trưng Bánh và Chén thánh đã hưởng gần 1.000 năm chấp thuận, như là một phần của phụng vụ phổ quát của Giáo Hội, và như là một hệ luận, đã hướng dẫn và tăng cường đức tin vào Sự hiện diện thực sự của Chúa trong nhiều thế kỷ. Do đó, nó phải được xem như một sự phát triển hữu cơ hợp pháp của phụng vụ. Tôi tin rằng cử chỉ bẻ bánh trước khi truyền phép không nên được nhìn trong cùng ánh sáng, và không chỉ vì nó đã được đặc biệt phản bác.
Nghi lễ Rôma, khi đặt việc bé Bánh sau Kinh Nguyện Thánh Thể và cho đi kèm với bài "Lạy Chiên Thiên Chúa", nhấn mạnh rằng chúng ta chia sẻ Chúa Kitô Cứu Thế của chúng ta, chứ không phải tấm bánh bình thường. Chúng ta tham gia một bữa tiệc hy tế. Lời cầu xin Chúa thương xót và ban bình an cho chúng ta được củng cố bởi đức tin này. Việc bẻ bánh trước khi truyền phép, và và do đó trước khi hoàn thành lời tạ ơn của chúng ta, làm ảnh hưởng đến ý nghĩa này.
Một lập luận cuối cùng, mặc dù yếu hơn, có thể được đưa ra từ quan điểm của tính hợp lý cho nghi thức. Nếu người ta chấp nhận rằng các từ ngữ “Ngài bẻ bánh" nhất thiết bao hàm việc thực hiện cử chỉ theo nghi thức, thì người ta cũng có thể lập luận rằng việc như thế cũng có thể được áp dụng cho các từ ngữ “ Ngài trao cho các môn đệ của Ngài”. Chúng ta có thể phân phát cách hợp lý Bánh thánh cho mọi người, trước khi đọc lời truyền phép. Tôi không thể tưởng tượng làm thế nào để giải quyết việc trao Chén thánh cả.
Lập luận này, lẽ tất nhiên, là vô lý và chỉ phục vụ cho việc nêu ra rằng không phải mọi từ ngữ nghi thức đòi hỏi một cử chỉ kèm theo, đặc biệt là khi phụng vụ tự nó đã giải nghĩa ý nghĩa sâu xa của nó một cách đầy đủ hơn. (Zenit.org 5-10-2010)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Tại sao trong trình thuật lập Bí tích Thánh Thể, trước khi đọc lời truyền phép, linh mục không bẻ bánh khi nói: “…Ngài bẻ bánh và trao cho các môn đệ...", con có ý muốn nói, tại sao linh mục chờ đến kinh Agnus Dei (Lạy Chiên Thiên Chúa) mới bẻ Bánh? Con nghĩ rằng câu hỏi này cũng vang lên trong tâm trí của một số linh mục; đó là tại sao, để làm cho có ý nghĩa, một số ít linh mục thực sự bẻ bánh trong khi đọc trình thuật lập Bí tích Thánh Thể. Xin cha giải thích cho con và nhiều người được hiểu! - X. A., thành phố Quezon, Philippines.
Đáp: Trước khi đề cập đến lý do tại sao bánh Thánh không nên được bẻ ra vào lúc gần truyền phép, tôi nhớ lại rằng sự thực hành này đã được đề cập cụ thể trong huấn thị Redemptionis Sacramentum (Bí tích Cứu độ, ngày 25-3-2004), số 55: "Sự lạm dụng sau đây phổ biến ở một vài nơi: trong lúc cử hành Thánh Lễ, linh mục bẻ bánh lúc truyền phép. Một sự lạm dụng như thế đi nghịch lại với truyền thống của Giáo Hội. Nó cần bị dứt khoát bác bỏ và được sửa chữa khẩn cấp” (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Có nhiều lý do tại sao truyền thống nghi lễ Latinh không bẻ bánh theo nghi thức vào thời điểm nêu trên, và chúng tôi sẽ cố gắng minh họa một số lý do ấy.
Trình thuật lập Bí tích Thánh Thể mô tả bốn hành động của Chúa Kitô: cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Bốn khoảnh khắc này cấu thành nên điều mà chuyên viên phụng vụ Anh giáo nổi tiếng Gregory Dix gọi là "hình dạng" của phụng vụ Thánh Thể.
Thật vậy, Giáo Hội Latinh đã thiết lập một cách nghi thức Phụng vụ Thánh Thể và việc hiệp lễ xung quanh bốn thời khắc này. Việc cầm lấy bánh được diễn tả ở trên bởi nghi thức dâng lễ vật. Việc tạ ơn là yếu tính của Kinh nguyện Thánh Thể. Việc bẻ Bánh được thực hiện trong việc bẻ Bánh ra và việc trao cho các môn đệ của Chúa được thực hiện trong việc Rước lễ.
Trình thuật lập Bí tích Thánh Thể là ở trong Kinh nguyện Thánh Thể, và do đó nằm trong bối cảnh tạ ơn Chúa Cha. Hành động tối cao của việc tạ ơn là mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Trong trình thuật lập Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội kể lại với Chúa Cha hành động của Chúa Con, và lệnh truyền của Ngài cho việc tiếp tục hành động tưởng niệm này. Sự tưởng niệm hiệu quả ấy không giới hạn vào sự biến thể của bánh và rượu, nhưng làm cho hiện diện toàn bộ mầu nhiệm cứu độ, khi nhắc lại sự chết, sự phục sinh và lên trời của Chúa Kitô. Không hành vi tạ ơn nào khác cho Chúa Cha có thể sánh bằng với những gì xảy ra trong phụng vụ Thánh Thể cả.
Hiện giờ, bởi vì đối tượng của Kinh Nguyện Thánh Thể là dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha, các cử chỉ ấn tượng hướng đến các tín hữu, như bẻ Bánh hoặc làm một cử chỉ diễn đạt trong khi nói "Các con hãy cầm lấy” là bị sai chỗ, và thực sự làm giảm đi ý nghĩa thiết yếu của nghi thức vào thời điểm này.
Người ta có thể chứng minh rằng lập luận trên đây cũng gợi ý rằng, sự thực hành nghi lễ Latinh của việc linh mục cầm bánh và chén thánh trong tay, và trưng ra cho các tín hữu thấy sau khi truyền phép cũng là sai chỗ. Nói theo thần học, cử chỉ cầm Bánh và Chén thánh, và trưng ra cho các tín hữu là không nhất thiết cần thiết cho tính hợp pháp của việc truyền phép, như được chứng minh qua sự thực hành của một số Giáo Hội phương Đông. Cũng là đúng rằng theo lịch sử, nghi thức trưng Bánh và Chén Thánh đã được đề ra, để đáp ứng với một mong muốn đạo đức của tín hữu được nhìn thấy hai hình Bánh và Rượu.
Tuy nhiên, dù có nguồn gốc nào đi chăng nữa, nghi thức trưng Bánh và Chén thánh đã hưởng gần 1.000 năm chấp thuận, như là một phần của phụng vụ phổ quát của Giáo Hội, và như là một hệ luận, đã hướng dẫn và tăng cường đức tin vào Sự hiện diện thực sự của Chúa trong nhiều thế kỷ. Do đó, nó phải được xem như một sự phát triển hữu cơ hợp pháp của phụng vụ. Tôi tin rằng cử chỉ bẻ bánh trước khi truyền phép không nên được nhìn trong cùng ánh sáng, và không chỉ vì nó đã được đặc biệt phản bác.
Nghi lễ Rôma, khi đặt việc bé Bánh sau Kinh Nguyện Thánh Thể và cho đi kèm với bài "Lạy Chiên Thiên Chúa", nhấn mạnh rằng chúng ta chia sẻ Chúa Kitô Cứu Thế của chúng ta, chứ không phải tấm bánh bình thường. Chúng ta tham gia một bữa tiệc hy tế. Lời cầu xin Chúa thương xót và ban bình an cho chúng ta được củng cố bởi đức tin này. Việc bẻ bánh trước khi truyền phép, và và do đó trước khi hoàn thành lời tạ ơn của chúng ta, làm ảnh hưởng đến ý nghĩa này.
Một lập luận cuối cùng, mặc dù yếu hơn, có thể được đưa ra từ quan điểm của tính hợp lý cho nghi thức. Nếu người ta chấp nhận rằng các từ ngữ “Ngài bẻ bánh" nhất thiết bao hàm việc thực hiện cử chỉ theo nghi thức, thì người ta cũng có thể lập luận rằng việc như thế cũng có thể được áp dụng cho các từ ngữ “ Ngài trao cho các môn đệ của Ngài”. Chúng ta có thể phân phát cách hợp lý Bánh thánh cho mọi người, trước khi đọc lời truyền phép. Tôi không thể tưởng tượng làm thế nào để giải quyết việc trao Chén thánh cả.
Lập luận này, lẽ tất nhiên, là vô lý và chỉ phục vụ cho việc nêu ra rằng không phải mọi từ ngữ nghi thức đòi hỏi một cử chỉ kèm theo, đặc biệt là khi phụng vụ tự nó đã giải nghĩa ý nghĩa sâu xa của nó một cách đầy đủ hơn. (Zenit.org 5-10-2010)
Nguyễn Trọng Đa
Các quan điểm Do Thái và Kitô Giáo về tính bổ túc nam nữ (tiếp theo)
Vũ Văn An
19:20 18/04/2017
III. Quan điểm Công Giáo về tính bổ túc nam nữ
1. Lịch sử quan điểm Công Giáo (tiếp theo)
Đức Gioan Phaolô II và tính bổ túc toàn diện
Đức Gioan Phaolô II lý luận rằng ý thức bản thân về kinh nghiệm sống thân xác mình như đàn ông hoặc đàn bà có nghĩa: nam tính và nữ tính không tương đương như nam và nữ. Thay vào đó, “nam tính và nữ tính nói lên khía cạnh kép (dual) của kết cấu thân xác con người… và hơn nữa cho thấy…ý thức mới về cảm thức thân xác riêng của mình… ý thức này… sâu sắc hơn chính cơ cấu thân xác như là nam và nữ” (32).
Trong thông điệp Về Lao Công Con Người (1981), Đức Gioan Phaolô II bắt đầu đưa ra một số phân biệt mà sau này được liên kết một cách tổng quát hơn với thiên tài của người đàn ông và của người đàn bà trong tương quan với cách làm việc của họ. Ngài nhận diện “kỹ thuật” như là nghĩa khách quan (objective sense of work) của việc làm và quả quyết rằng nó là đồng minh cực kỳ giá trị đối với các lãnh vực thể lý và tri thức của lao động. Điều chắc chắn là các đóng góp vào sự thống trị trên trái đất này chủ yếu là kết quả của thiên tài đàn ông.
Sau đó, ngài nhận diện “con người làm việc” như là nghĩa chủ quan của việc làm (subjective sense of work). Việc làm đem lại khả thể thăng tiến nhân phẩm qua việc thành toàn bản thân (33). Đức Gioan Phaolô II dẫn khởi “luận điểm nhân vị”, khi nói rằng “Như thế, nguyên tắc ưu tiên của việc làm so với tư bản là một định đề cho trật tự luân lý xã hội” (34). Điều này, kết cục, có liên hệ gần gũi hơn với thiên tài đàn bà qua xu hướng của họ hay lưu ý tới con người, hơn là hiệu năng hay các mục tiêu vị lợi.
Trong Tông Thư năm 1988 Về Phẩm Giá và Ơn Gọi của Phụ Nữ, và trong Tông Huấn năm 1989 Về Thánh Giuse, Vị Giám Hộ Đấng Cứu Chuộc, Đức Gioan Phaolô II bắt đầu khai triển các nguyên tắc nền tảng cho ba loại tính bổ túc toàn diện: (1) Vợ và chồng trong hôn nhân, (2) mẹ và cha trong gia đình, và (3) ơn gọi của đàn ông và đàn bà làm cha mẹ nhân bản và thiêng liêng. Các khai triển của ngài quả quyết các nguyên tắc trực tiếp phản lại các nguyên tắc thịnh hành trong các lý thuyết đa cực cổ truyền và độc giới về tương quan đàn ông đàn bà trong hôn nhân, gia đình và ơn gọi.
Chống lại các lý thuyết đa cực, Đức Thánh Cha tái khẳng định, bằng cách in chữ ngả, nguyên tắc bình đẳng: “Cả đàn ông và đàn bà đều là các hữu thể nhân bản bằng nhau”; và “đàn ông là một ngôi vị, đàn ông và đàn bà bằng nhau như thế” (35). Chống lại các lý thuyết độc giới, ngài quả quyết, cũng bằng cách in chữ ngả, nguyên tắc khác nhau một cách đáng kể giữa đàn ông và đàn bà: “các tài nguyên bản vị của nữ tính chắc chắn không thua kém các tài nguyên của nam tính: chúng chỉ khác nhau mà thôi” (MD, 10) và “dựa vào nguyên tắc hỗ tương ‘vì’ người kia, trong ‘hiệp thông’ liên ngã, sự hội nhập những gì là ‘nam’ và những gì là ‘nữ’” MD, 7) đã được khai triển trong chính nhân tính, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Đi sâu hơn vào nguyên tắc bình đẳng, Đức Gioan Phaolô II cho rằng lý thuyết đa cực là hậu quả của tội nguyên tổ, vì hố phân cách giữa đàn ông và đàn bà phát sinh ra khuynh hướng người đàn ông muốn thống trị người đàn bà và khuynh hướng người đàn bà bám lấy người đàn ông do ước muốn chiếm hữu họ. Ta hãy nghe chính lời lẽ và việc nhấn mạnh của ngài: “Sự ‘thống trị’ này cho thấy sự hỗn loạn và mất hết ổn định trong sự quân bình nền tảng mà người đàn ông và đàn bà vốn sở hữu trong sự ‘hợp nhất của hai người’: và điều này đặc biệt bất lợi cho đàn bà” (MD, 10). Kế tiếp, ngài đề nghị một mệnh lệnh: “Người đàn bà không thể trở thành ‘đối tượng’ của ‘sự thống trị’ và ‘quyền sở hữu của đàn ông’” (ibid.) (36). Ngài nói thêm rằng nhiệm vụ của mọi người đàn bà và đàn ông trong các thế hệ nối tiếp nhau là làm việc để vượt qua di sản này của nguyên tội, bằng cách tham dự vào hoạt động cứu chuộc của Chúa Kitô, vì “trong Chúa Kitô, việc đối chọi lẫn nhau giữa đàn ông và đàn bà, vốn là di sản của nguyên tội, chủ yếu đã được vượt qua” (MD, 11).
Tùng phục lẫn nhau
Đức Gioan Phaolô II nhắc lại nguyên tắc trên nhiều lần, lật ngược di sản đa cực của Aríttốt, một di sản vốn cho rằng đàn bà phải vâng phục chồng mình vì bản chất thấp hèn hơn của mình, và cả di sản đa cực trong Kitô Giáo, một di sản cho rằng người vợ phải vâng phục chồng mình như một hình phạt vì tội lỗi Evà. Thứ nhất, “Sự ‘Canh Tân’ của Tin Mừng” (trong đó, việc tùng phục là một chiều trong tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội) đòi các bà vợ và các ông chồng phải hành động một “cách tùng phục hỗ tương vì lòng tôn kính Chúa Kitô” (MD, 24). Thứ hai, ngài nhấn mạnh một lần nữa: “Trong mối tương quan giữa chồng và vợ, việc ‘tùng phục’ không phải một chiều mà là hỗ tương”. Thứ ba, để chắc chắn các độc giả của ngài hiểu rõ tầm quan trọng của nguyên tắc này, ngài mô tả nó như một lời kêu gọi và là một nghĩa vụ:
“Ý thức cho rằng trong hôn nhân có sự ‘tùng phục hỗ tương giữa các người phối ngẫu vì lòng tôn kính Chúa Kitô’, chứ không phải sự tùng phục của vợ đối với chồng mà thôi, ý thức này phải dần dần được thiết lập trong cõi lòng, trong ý thức, tác phong và tập tục” của mọi thế hệ (MD, 24).
Đức Maria, thực sự là Mẹ Thiên Chúa
Vào sâu hơn nữa để hỗ trợ nguyên tắc dị biệt hóa đáng kể chống lại các lý thuyết độc giới trong việc làm cha mẹ, Đức Gioan Phaolô II khai triển nhiều cách khác nhau mà người đàn bà có thể khám phá ra để chu toàn nữ tính của mình trong chức phận làm mẹ, và người đàn ông có thể khám phá ra và chu toàn nam tính của mình trong chức phận làm cha. Tiếp tục xây dựng trên các nền tảng triết lý trước đó, ngài quả quyết rằng chức phận làm mẹ, ngay từ đầu, đã bao hàm việc đặc biệt cởi mở đón chào một ngôi vị mới: và điều này chính xác là ‘phần’ của người đàn bà” (MD, 18). Ấy thế nhưng, khía cạnh trong chức phận làm mẹ này không hề có tính định mệnh về sinh học, vì “chức phận làm mẹ được liên kết với cơ cấu bản vị của người đàn bà và với chiều kích bản vị của ân phúc” (ibid.).
Nhấn mạnh tới cơ cấu nhân vị của chức phận làm mẹ, ngài mô tả Đức Maria như “đích thực là Mẹ Thiên Chúa, vì chức phận làm mẹ liên quan tới trọn ngôi vị, chứ không phải chỉ có thân xác, thậm chí không phải cả ‘bản tính’ nhân loại nữa” (MD, 4).
Hơn nữa, “Đức Maria thực thi ý chí tự do của ngài và do đó, tham dự vào cái ‘TÔI’ đầy bản vị và nữ tính của ngài trong biến cố Truyền Tin” (ibid.).
Thánh Giuse, thực sự là một người cha
Một cách loại suy, chức phận làm cha của Thánh Giuse cũng là một hành vi bản vị của ý chí tự do trong quyết định của ngài chấp nhận, giám hộ, và che chở Đức Maria, và Chúa Giêsu như con. Ngài thực thi chức phận làm cha của ngài trong việc hoàn toàn hiến thân này (37). Đức Gioan Phaolô II bênh vực chiều kích nhân vị trong “chức phận làm cha của Thánh Giuse [một chức phận làm cha] không phát sinh từ việc sinh sản con cái; nhưng nó cũng không phải là dáng dấp của một chức phận làm cha chỉ có tính thay thế. Đúng hơn, nó là một chức phận làm cha hoàn toàn tham dự vào chức phận làm cha nhân bản chân chính và sứ mệnh một người cha trong gia đình” (38).
Ấy thế nhưng, trong tính bổ túc toàn diện, cung cách làm mẹ và làm cha khác nhau một cách đáng kể, dù chúng bằng nhau về phẩm giá và giá trị. Trong một đoạn văn nổi tiếng và gây tranh cãi, Đức Gioan Phaolô II khai triển gốc rễ của sự dị biệt đáng kể giữa đàn ông và đàn bà:
Việc tiếp xúc độc đáo với hữu thể nhân bản mới đang phát triển bên trong nàng [bà mẹ] làm phát sinh một thái độ đối với các hữu thể nhân bản, không những đối với đứa con của nàng mà thôi, mà đối với mọi hữu thể nhân bản; thái độ này sẽ lên đặc điểm sâu sắc cho nhân cách của người đàn bà. Người ta thường nghĩ rằng đàn bà có khả năng hơn đàn ông trong việc lưu ý tới một ngôi vị khác, và chức phận làm mẹ còn phát triển thiên hướng này hơn nữa. Đàn ông, dù chia sẽ chức phận làm cha mẹ, luôn mãi “đứng ngoài” diễn trình thai nghén và việc sinh hạ hài nhi; xét về nhiều cách, người đàn ông phải học chức phận làm cha của mình từ người mẹ (MD, 18). Các nhận định này không hẳn phổ quát hay tuyệt đối, vì ta biết quá rõ đàn bà có khi hành động ngược với bản chất của họ qua việc phá thai, và đàn ông đôi khi chào đón và cổ vũ sự sống của trẻ em và người lớn một cách quảng đại. Ấy thế nhưng, có một điều sâu sắc trong chủ trương này hướng ta tới nguồn gốc của căn tính đàn bà, nếu nàng quyết định phát triển nó và chia sẻ nó với những người đàn ông gần gũi nàng, thì điều này là một việc phục vụ rất lớn đối với Giáo Hội và thế giới.
Đức Gioan Phaolô II quả quyết rằng chức phận làm mẹ và làm cha thiêng liêng của các phụ nữ tận hiến và của các linh mục chia sẻ bản chất loại suy với chức phận làm mẹ và làm cha thể lý trong đời sống gia đình. Mọi hình thức làm cha mẹ đều được thực thi trong bối cảnh trong đó, các lực lượng sự ác, được tóm gọn nơi “cha các gian trá”, đang đợi để nuốt trửng đứa con. Ngài kết luận rằng ơn gọi làm cha và làm mẹ của mọi người đàn ông và người đàn bà là chìa khóa giải quyết nền văn hóa sự chết. Ngài kêu gọi phụ nữ lãnh hội chiều kích bản ngã này nhờ ý thức rằng “Thiên Chúa trao phó hữu thể nhân bản cho nàng một cách đặc biệt,… chính là vì nữ tính của nàng… luôn luôn và bằng mọi cách” (MD, 30).
Lời kêu gọi trên ngỏ với phụ nữ trong bối cảnh đương thời trong đó “các thành công của khoa học và kỹ thuật… và tiến bộ đơn phương … [đã dẫn] tới việc dần dần mất hết sự nhậy cảm… đối với những điều có tính nhân bản ngay từ trong yếu tính” (MD, 30). Đây là lúc Đức Gioan Phaolô II dẫn khởi một quan niệm mới tương ứng với lời kêu gọi của ngài nhằm đưa ra các hình thức mới cho thiên tài phụ nữ để đương đầu với và nhân bản hóa các thành công của thiên tài đàn ông: “thời ta, cách đặc biệt, đang chờ đợi sự biểu hiện của ‘thiên tài’ này vốn là của nữ giới, và là một thiên tài có khả năng bảo đảm sự nhậy cảm đối với mọi hữu thể nhân bản trong mọi hoàn cảnh” (MD, 18, 30).
Phụ nữ tham gia xã hội
Luận điểm kế tiếp trong chủ trương bổ túc toàn diện giữa đàn ông đàn bà của Đức Gioan Phaolô II xuất hiện năm 1995 trong bối cảnh Hội Nghị Thế Giới Lần Thứ Tư của Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ tại Bắc Kinh. Trong các năm trước đó, ngài vốn đã chú tâm vào nhiều nguyên tắc trong giáo huấn chính trị xã hội Công Giáo. Thành thử, không ai ngạc nhiên trước sự kiện này là khi tái xem xét mối tương quan đàn ông đàn bà, ngài cũng chú tâm xem xét các lãnh vực xã hội chính trị. Trong Thư Gửi Các Phụ Nữ, ngài viết rằng sự hiện diện lớn lao hơn của đàn bà trong xã hội sẽ dẫn tới việc nhân bản hóa các định chế vốn được tổ chức “theo các tiêu chuẩn hiệu năng và năng xuất” (39). Ngài kêu gọi phụ nữ can dự vào “mọi phạm vi giáo dục” trong đó “chúng cho thấy một loại chức phận làm mẹ có tính cảm giới, văn hóa, và tâm linh vô giá đối với việc phát triển cá nhân và tương lai xã hội” (40). Đức Thánh Cha trực tiếp nói với Gertrude Mongella, Tổng Thư Ký của Hội Nghị về Phụ Nữ của Liên Hiệp Quốc, rằng thiên tài phụ nữ trải rộng nhiều phạm vi rộng lớn của xã hội và “các đóng góp của phụ nữ cho phúc lợi và tiến bộ của xã hội thì không thể nào tính toán được… [và càng cần hơn nữa] để cứu xã hội khỏi vi khuẩn giết người là hạ giá và bạo lực mà hiện nay đang gia tăng rất đáng kể dưới sự chứng kiến của ta” (41).
Để làm cho nguyên tắc tổng quát trở thành chuyên biệt, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong một bài suy niệm lúc Đọc Kinh Truyền Tin (20 tháng Tám, 1995), quả quyết rằng sự hiện diện lớn hơn của các nữ doanh gia trong các chức vụ chấp hành cao cấp của nền kinh tế “đang đem lại cho nó một cảm hứng nhân bản mới mẻ và loại nó khỏi cơn cám dỗ kinh niên muốn có hiệu năng tẻ nhạt do định luật lợi nhuận chi phối hoàn toàn” (42). Do đó, ngài yêu cầu để thiên tài phụ nữ “được phát biểu trọn vẹn hơn trong đời sống xã hội như một toàn thể”, và “không gian rộng rãi nhất được mở ra cho phụ nữ trong mọi phạm vi văn hóa, kinh tế, [và] chính trị” (43).
Nền tảng hữu thể học của tính bổ túc nam nữ
Nền tảng siêu hình cho tính bổ túc phái tính toàn diện được trực tiếp tuyên bố trong Thư Gửi Phụ Nữ năm 1995; ngài coi nó như một cảm hứng Công Giáo chống lại chủ trương đa cực cổ truyền, chủ trương đa cực phần mớ, và các chủ trương độc giới. Ngài lý luận rằng các dị biệt quan trọng giữa đàn ông và đàn bà có tính hữu thể học, bắt nguồn trong chính tư cách là những con người nhân bản của họ: “Tính đàn bà và tính đàn ông bổ túc cho nhau không những theo quan điểm thể lý và tâm lý mà thôi, mà còn theo quan điểm hữu thể học nữa” (44). Hơn nữa, Bài Tham Luận của Tòa Thánh tại Hội Nghị Phụ Nữ ở Bắc Kinh năm 1995 đề ra 4 phạm trù hội nhập qua đó, tính bổ túc hữu thể học của đàn ông và đàn bà được phân tích: “đàn bà và đàn ông là minh họa của tính bổ túc sinh học, cá nhân, bản vị và tâm linh” (45). Tính bổ túc này luôn là của một người đàn ông và một người đàn bà như hai hữu thể nhân bản cụ thể trong tương quan với nhau chứ không phải các phần mớ của một người đàn ông và một người đàn bà trong tương quan làm thành “một hữu thể nhân bản duy nhất”. Đây là lý do tại sao tính bổ túc hữu thể học của Đức Gioan Phaolô II cũng là tính bổ túc phái tính toàn diện.
Một quan niệm nữa do Đức Gioan Phaolô II dẫn nhập liên quan tới tính bổ túc phái tính toàn diện có tên là “chủ nghĩa duy nữ mới”; nó được ngài sử dụng lần đầu và là lần duy nhất trong đoạn 99 của Thông Điệp năm 1995 Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống). Chủ nghĩa duy nữ mới được mô tả như lời mời gọi và như một bổn phận của phụ nữ Công Giáo. Chính ngài viết: “Cổ vũ một ‘chủ nghĩa duy nữ mới’ để biến đổi văn hóa tùy thuộc ở họ [phụ nữ]” (46). Từ lúc có lời kêu gọi này, một số đàn ông và đàn bà đã thăm dò phương cách làm thế nào để biến đổi văn hóa nhờ chủ nghĩa duy nữ mới này (47).
Chủ nghĩa duy nữ mới của Đức Gioan Phaolô II giống các chủ nghĩa duy nữ trước đó ở mục tiêu thắng vượt “mọi kỳ thị, bạo lực và khai thác” người đàn bà, nhưng khác với các hình thức này trong hai phương diện quan trọng. Thứ nhất, là giới điều tiêu cực: phương pháp của chủ nghĩa duy nữ mới không được mô phỏng điều ngài gọi là “các mẫu mực thống trị của nam giới” nhằm đạt các mục tiêu của mình. Hiển nhiên, giới điều này nhắc ta nhớ lại lời kêu gọi vượt thắng các hiệu quả của tội nguyên tổ trong các hình thức đặc thù nam giới.
Thứ hai, là giới điều tích cực: phương pháp của chủ nghĩa duy nữ mới phải sử dụng thiên tài phụ nữ với gốc gác của nó là thiên hướng lưu ý tới con người trong mọi hoàn cảnh của họ. Giới điều này cũng nhắc ta nhớ lại lời kêu gọi phải thắng vượt các hiệu quả của tội nguyên tổ trong các hình thức đặc thù nữ giới.
Nhắc lại chủ trương trước đây của ngài cho rằng các phụ nữ nào khám phá ra gốc gác thiên tài phụ nữ của mình có thể dẫn người đàn ông khám phá ra chức phận làm cha của họ, Đức Gioan Phaolô II mô tả sứ mệnh độc đáo của phụ nữ trong một thế giới đầy chủ nghĩa vị lợi và nền văn hóa chết chóc: “Người đàn bà trước nhất học hỏi và sau đó giảng dậy người khác rằng các tương quan nhân bản sẽ chân chính nếu họ cởi mở chấp nhận người khác’; người này được nhìn nhận và yêu thương nhờ phẩm giá phát xuất từ việc họ là một ngôi vị, chứ không phải nhờ các xem xét khác, như tính hữu dụng, sức mạnh, trí hiểu, sắc đẹp hay sự giúp đỡ” (48). Hơn nữa, ngài gọi chủ nghĩa duy nữ mới là “sự đóng góp nền tảng mà Giáo Hội và nhân loại trông mong nơi phụ nữ” khi ngài kết luận rằng “đây là điều kiện tiên quyết không thể miễn chước cho một sự thay đổi văn hóa chân chính” (49)
Để tổng kết, việc duyệt lại một số khoảnh khắc lịch sử trong việc khai triển các nền tảng triết học cho một quan điểm bổ túc toàn diện nam nữ trên đây đã cho thấy khi các tương quan đàn ông đàn bà mất quân bằng dẫn tới việc thiếu hẳn phẩm giá bình đẳng hay thiếu hẳn sự dị biệt hóa quan trọng, thì một cảm hứng Công Giáo lại tái xuất hiện để đem lại các cơ sở mới cho tính bổ túc. Kết quả sau cùng là các cơ sở hữu thể học và siêu hình học có khả năng cung cấp nền tảng cần thiết cho tính bổ túc phái tính toàn diện.
Về kết quả sau cùng trên, cảm hứng Công Giáo gần đây nhất đối với tính bổ túc phái tính toàn diện đã chuyển dịch từ một lý thuyết có tính trí thức, phát sinh từ sự mạc khải hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau nhưng khác nhau một cách đáng kể, để trở thành một giới điều nhằm biến đổi thế giới, qua việc tân phúc âm hóa việc làm có tính hợp tác và thẩm thấu vào nhau của đàn ông và đàn bà. Thực thế, trong khi tính bổ túc nam nữ là mẫu mực hàng đầu của tính bổ túc toàn diện, Đức Gioan Phaolô II đã rút tỉa nhiều loại suy từ mẫu mực này cho tính bổ túc giữa các Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, tính bổ túc giữa các nền văn hóa khác nhau, tính bổ túc giữa đức tin và lý trí, và tính bổ túc giữa ba mẫu ơn gọi bước vào hôn nhân, chức thánh và đời sống tận hiến.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, dựa vào cảm hứng Công Giáo của các vị tiền nhiệm, trong thông điệp đầu tiên Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu), đã mở rộng tâm điểm bên trong của mối tương quan tình yêu nam nữ. Nhờ khai triển chi tiết các dị biệt và tính thống nhất giữa các ngôi vị qua 3 hình thức tình yêu eros (gợi dục), filia (yêu thương) và agape (bác ái), Đức Bênêđíctô XVI đã cung cấp thước đo đầy tính năng động đối với các sức mạnh trong thế giới đang liên tiếp tạo áp lực lên các mối tương quan phái tính, buộc chúng phải đánh mất thế quân bình bằng cách hạ thấp hoặc phẩm giá nền tảng hoặc sự dị biệt hóa quan trọng giữa đàn bà và đàn ông. Giống chất men, tính bổ túc toàn diện trong nhiều hình thức đa dạng của nó có thể xây dựng nước trời ngay trên mặt đất giống như sự hiệp thông tình yêu giữa Các Ngôi Vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa Ba Ngôi (50).
(Còn tiếp)
_______________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
32. John Paul II, Original Unity of Man and Woman (November 14, 1979), 76.
33. John Paul II, Laborem Exercerns (Về Lao Động của Con Người, 1981), nos. 5–6.
34. Ibid., no.15.
35. John Paul II, Mulieris Dignitatem (Về Phẩm Giá và Ơn Gọi Phụ Nữ ) (Boston: St. Paul Books and Media, 1988), no. 6.
36. Chữ in nghiêng của Prudence Allen
37. John Paul II, Apostolic Exhortation Guardian of the Redeemer (Boston: St. Paul Books and Media, 1989), nos. 4–8.
38. Ibid., no. 21.
39. John Paul II, Thư Gửi Phụ Nữ, trong The Genius of Women (Washington DC: United States Catholic Conference, 1997), no. 4.
40. Ibid., no. 9.
41. John Paul II, Diễn Văn Chào Mừng Gertrude Mongella (Tháng Năm, 1995), trong Genius of Women, 41, no. 5.
42. John Paul II, Bài Diễn Văn ngày 20 tháng Tám, 1995, trong Genius of Women, no.1.
43. John Paul II, Letter to Women no. 10, và Diễn Văn ngày 23 tháng Bẩy, 1995, no.1.
44. John Paul II, Letter to Women., no.7.
45. John Paul II, Tham Luận của Tòa Thánh tại Hội Nghị Bắc Kinh (25 tháng Tám, 1995), 1.1. Có tại http://www.priestsforlife.org/index.html. Cũng xin xem Prudence Allen, RSM, “Integral Sex Complementarity and the Theology of Communion,” Communio 17 (Winter 1990): 523–44.
46. John Paul II, Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống) (Boston: Pauline Books and Media, March 25, 1995), no. 99.
47. Xem công trình bác học liên khoa trong Michele Schumacher, chủ biên, Women in Christ: Toward a New Feminism (Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2004). Phương thức triết học của Prudence Allen tìm thấy tại các chương “Philosophy of Relation in John Paul II’s New Feminism,”67–104, và “Can Feminism be a Humanism?” 251–84. Helen Alvaré, làm việc cho Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cũng có bài “The New Feminism” trong Liguorian Magazine (May 1997); và Mary Ann Glendon, đứng đầu Phái Đoàn Tòa Thánh tại Hội Nghị của Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ ở Bắc Kinh, có bài “What Happened at Beijing?” trong First Things (January 1996): 30–36, và “The Pope’s New Feminism” trong Crisis 15, no. 3 (March 1997): 28–31.
48. John Paul II, Evangelium Vitae, no. 99.
49. Ibid.
50. Bản dài hơn của tài liệu này có tựa đề “The Catholic Intellectual Tradition Lecture” có tại trang mạng của Đại Học St. Thomas, Houston, Texas, ngày 26 tháng Mười, 2004, và được khai triển rất chi tiết thành 3 bài diễn thuyết song song với nhà thần học bí tích Moira Debono, RSM, STD, có dưới hình thức audiotape tựa đề “The Second Annual Vital Grandin Lectures,” Newman Theological College, Edmonton, Alberta, Canada, November 7–8, 2003.
1. Lịch sử quan điểm Công Giáo (tiếp theo)
Đức Gioan Phaolô II và tính bổ túc toàn diện
Đức Gioan Phaolô II lý luận rằng ý thức bản thân về kinh nghiệm sống thân xác mình như đàn ông hoặc đàn bà có nghĩa: nam tính và nữ tính không tương đương như nam và nữ. Thay vào đó, “nam tính và nữ tính nói lên khía cạnh kép (dual) của kết cấu thân xác con người… và hơn nữa cho thấy…ý thức mới về cảm thức thân xác riêng của mình… ý thức này… sâu sắc hơn chính cơ cấu thân xác như là nam và nữ” (32).
Trong thông điệp Về Lao Công Con Người (1981), Đức Gioan Phaolô II bắt đầu đưa ra một số phân biệt mà sau này được liên kết một cách tổng quát hơn với thiên tài của người đàn ông và của người đàn bà trong tương quan với cách làm việc của họ. Ngài nhận diện “kỹ thuật” như là nghĩa khách quan (objective sense of work) của việc làm và quả quyết rằng nó là đồng minh cực kỳ giá trị đối với các lãnh vực thể lý và tri thức của lao động. Điều chắc chắn là các đóng góp vào sự thống trị trên trái đất này chủ yếu là kết quả của thiên tài đàn ông.
Sau đó, ngài nhận diện “con người làm việc” như là nghĩa chủ quan của việc làm (subjective sense of work). Việc làm đem lại khả thể thăng tiến nhân phẩm qua việc thành toàn bản thân (33). Đức Gioan Phaolô II dẫn khởi “luận điểm nhân vị”, khi nói rằng “Như thế, nguyên tắc ưu tiên của việc làm so với tư bản là một định đề cho trật tự luân lý xã hội” (34). Điều này, kết cục, có liên hệ gần gũi hơn với thiên tài đàn bà qua xu hướng của họ hay lưu ý tới con người, hơn là hiệu năng hay các mục tiêu vị lợi.
Trong Tông Thư năm 1988 Về Phẩm Giá và Ơn Gọi của Phụ Nữ, và trong Tông Huấn năm 1989 Về Thánh Giuse, Vị Giám Hộ Đấng Cứu Chuộc, Đức Gioan Phaolô II bắt đầu khai triển các nguyên tắc nền tảng cho ba loại tính bổ túc toàn diện: (1) Vợ và chồng trong hôn nhân, (2) mẹ và cha trong gia đình, và (3) ơn gọi của đàn ông và đàn bà làm cha mẹ nhân bản và thiêng liêng. Các khai triển của ngài quả quyết các nguyên tắc trực tiếp phản lại các nguyên tắc thịnh hành trong các lý thuyết đa cực cổ truyền và độc giới về tương quan đàn ông đàn bà trong hôn nhân, gia đình và ơn gọi.
Chống lại các lý thuyết đa cực, Đức Thánh Cha tái khẳng định, bằng cách in chữ ngả, nguyên tắc bình đẳng: “Cả đàn ông và đàn bà đều là các hữu thể nhân bản bằng nhau”; và “đàn ông là một ngôi vị, đàn ông và đàn bà bằng nhau như thế” (35). Chống lại các lý thuyết độc giới, ngài quả quyết, cũng bằng cách in chữ ngả, nguyên tắc khác nhau một cách đáng kể giữa đàn ông và đàn bà: “các tài nguyên bản vị của nữ tính chắc chắn không thua kém các tài nguyên của nam tính: chúng chỉ khác nhau mà thôi” (MD, 10) và “dựa vào nguyên tắc hỗ tương ‘vì’ người kia, trong ‘hiệp thông’ liên ngã, sự hội nhập những gì là ‘nam’ và những gì là ‘nữ’” MD, 7) đã được khai triển trong chính nhân tính, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Đi sâu hơn vào nguyên tắc bình đẳng, Đức Gioan Phaolô II cho rằng lý thuyết đa cực là hậu quả của tội nguyên tổ, vì hố phân cách giữa đàn ông và đàn bà phát sinh ra khuynh hướng người đàn ông muốn thống trị người đàn bà và khuynh hướng người đàn bà bám lấy người đàn ông do ước muốn chiếm hữu họ. Ta hãy nghe chính lời lẽ và việc nhấn mạnh của ngài: “Sự ‘thống trị’ này cho thấy sự hỗn loạn và mất hết ổn định trong sự quân bình nền tảng mà người đàn ông và đàn bà vốn sở hữu trong sự ‘hợp nhất của hai người’: và điều này đặc biệt bất lợi cho đàn bà” (MD, 10). Kế tiếp, ngài đề nghị một mệnh lệnh: “Người đàn bà không thể trở thành ‘đối tượng’ của ‘sự thống trị’ và ‘quyền sở hữu của đàn ông’” (ibid.) (36). Ngài nói thêm rằng nhiệm vụ của mọi người đàn bà và đàn ông trong các thế hệ nối tiếp nhau là làm việc để vượt qua di sản này của nguyên tội, bằng cách tham dự vào hoạt động cứu chuộc của Chúa Kitô, vì “trong Chúa Kitô, việc đối chọi lẫn nhau giữa đàn ông và đàn bà, vốn là di sản của nguyên tội, chủ yếu đã được vượt qua” (MD, 11).
Tùng phục lẫn nhau
Đức Gioan Phaolô II nhắc lại nguyên tắc trên nhiều lần, lật ngược di sản đa cực của Aríttốt, một di sản vốn cho rằng đàn bà phải vâng phục chồng mình vì bản chất thấp hèn hơn của mình, và cả di sản đa cực trong Kitô Giáo, một di sản cho rằng người vợ phải vâng phục chồng mình như một hình phạt vì tội lỗi Evà. Thứ nhất, “Sự ‘Canh Tân’ của Tin Mừng” (trong đó, việc tùng phục là một chiều trong tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội) đòi các bà vợ và các ông chồng phải hành động một “cách tùng phục hỗ tương vì lòng tôn kính Chúa Kitô” (MD, 24). Thứ hai, ngài nhấn mạnh một lần nữa: “Trong mối tương quan giữa chồng và vợ, việc ‘tùng phục’ không phải một chiều mà là hỗ tương”. Thứ ba, để chắc chắn các độc giả của ngài hiểu rõ tầm quan trọng của nguyên tắc này, ngài mô tả nó như một lời kêu gọi và là một nghĩa vụ:
“Ý thức cho rằng trong hôn nhân có sự ‘tùng phục hỗ tương giữa các người phối ngẫu vì lòng tôn kính Chúa Kitô’, chứ không phải sự tùng phục của vợ đối với chồng mà thôi, ý thức này phải dần dần được thiết lập trong cõi lòng, trong ý thức, tác phong và tập tục” của mọi thế hệ (MD, 24).
Đức Maria, thực sự là Mẹ Thiên Chúa
Vào sâu hơn nữa để hỗ trợ nguyên tắc dị biệt hóa đáng kể chống lại các lý thuyết độc giới trong việc làm cha mẹ, Đức Gioan Phaolô II khai triển nhiều cách khác nhau mà người đàn bà có thể khám phá ra để chu toàn nữ tính của mình trong chức phận làm mẹ, và người đàn ông có thể khám phá ra và chu toàn nam tính của mình trong chức phận làm cha. Tiếp tục xây dựng trên các nền tảng triết lý trước đó, ngài quả quyết rằng chức phận làm mẹ, ngay từ đầu, đã bao hàm việc đặc biệt cởi mở đón chào một ngôi vị mới: và điều này chính xác là ‘phần’ của người đàn bà” (MD, 18). Ấy thế nhưng, khía cạnh trong chức phận làm mẹ này không hề có tính định mệnh về sinh học, vì “chức phận làm mẹ được liên kết với cơ cấu bản vị của người đàn bà và với chiều kích bản vị của ân phúc” (ibid.).
Nhấn mạnh tới cơ cấu nhân vị của chức phận làm mẹ, ngài mô tả Đức Maria như “đích thực là Mẹ Thiên Chúa, vì chức phận làm mẹ liên quan tới trọn ngôi vị, chứ không phải chỉ có thân xác, thậm chí không phải cả ‘bản tính’ nhân loại nữa” (MD, 4).
Hơn nữa, “Đức Maria thực thi ý chí tự do của ngài và do đó, tham dự vào cái ‘TÔI’ đầy bản vị và nữ tính của ngài trong biến cố Truyền Tin” (ibid.).
Thánh Giuse, thực sự là một người cha
Một cách loại suy, chức phận làm cha của Thánh Giuse cũng là một hành vi bản vị của ý chí tự do trong quyết định của ngài chấp nhận, giám hộ, và che chở Đức Maria, và Chúa Giêsu như con. Ngài thực thi chức phận làm cha của ngài trong việc hoàn toàn hiến thân này (37). Đức Gioan Phaolô II bênh vực chiều kích nhân vị trong “chức phận làm cha của Thánh Giuse [một chức phận làm cha] không phát sinh từ việc sinh sản con cái; nhưng nó cũng không phải là dáng dấp của một chức phận làm cha chỉ có tính thay thế. Đúng hơn, nó là một chức phận làm cha hoàn toàn tham dự vào chức phận làm cha nhân bản chân chính và sứ mệnh một người cha trong gia đình” (38).
Ấy thế nhưng, trong tính bổ túc toàn diện, cung cách làm mẹ và làm cha khác nhau một cách đáng kể, dù chúng bằng nhau về phẩm giá và giá trị. Trong một đoạn văn nổi tiếng và gây tranh cãi, Đức Gioan Phaolô II khai triển gốc rễ của sự dị biệt đáng kể giữa đàn ông và đàn bà:
Việc tiếp xúc độc đáo với hữu thể nhân bản mới đang phát triển bên trong nàng [bà mẹ] làm phát sinh một thái độ đối với các hữu thể nhân bản, không những đối với đứa con của nàng mà thôi, mà đối với mọi hữu thể nhân bản; thái độ này sẽ lên đặc điểm sâu sắc cho nhân cách của người đàn bà. Người ta thường nghĩ rằng đàn bà có khả năng hơn đàn ông trong việc lưu ý tới một ngôi vị khác, và chức phận làm mẹ còn phát triển thiên hướng này hơn nữa. Đàn ông, dù chia sẽ chức phận làm cha mẹ, luôn mãi “đứng ngoài” diễn trình thai nghén và việc sinh hạ hài nhi; xét về nhiều cách, người đàn ông phải học chức phận làm cha của mình từ người mẹ (MD, 18). Các nhận định này không hẳn phổ quát hay tuyệt đối, vì ta biết quá rõ đàn bà có khi hành động ngược với bản chất của họ qua việc phá thai, và đàn ông đôi khi chào đón và cổ vũ sự sống của trẻ em và người lớn một cách quảng đại. Ấy thế nhưng, có một điều sâu sắc trong chủ trương này hướng ta tới nguồn gốc của căn tính đàn bà, nếu nàng quyết định phát triển nó và chia sẻ nó với những người đàn ông gần gũi nàng, thì điều này là một việc phục vụ rất lớn đối với Giáo Hội và thế giới.
Đức Gioan Phaolô II quả quyết rằng chức phận làm mẹ và làm cha thiêng liêng của các phụ nữ tận hiến và của các linh mục chia sẻ bản chất loại suy với chức phận làm mẹ và làm cha thể lý trong đời sống gia đình. Mọi hình thức làm cha mẹ đều được thực thi trong bối cảnh trong đó, các lực lượng sự ác, được tóm gọn nơi “cha các gian trá”, đang đợi để nuốt trửng đứa con. Ngài kết luận rằng ơn gọi làm cha và làm mẹ của mọi người đàn ông và người đàn bà là chìa khóa giải quyết nền văn hóa sự chết. Ngài kêu gọi phụ nữ lãnh hội chiều kích bản ngã này nhờ ý thức rằng “Thiên Chúa trao phó hữu thể nhân bản cho nàng một cách đặc biệt,… chính là vì nữ tính của nàng… luôn luôn và bằng mọi cách” (MD, 30).
Lời kêu gọi trên ngỏ với phụ nữ trong bối cảnh đương thời trong đó “các thành công của khoa học và kỹ thuật… và tiến bộ đơn phương … [đã dẫn] tới việc dần dần mất hết sự nhậy cảm… đối với những điều có tính nhân bản ngay từ trong yếu tính” (MD, 30). Đây là lúc Đức Gioan Phaolô II dẫn khởi một quan niệm mới tương ứng với lời kêu gọi của ngài nhằm đưa ra các hình thức mới cho thiên tài phụ nữ để đương đầu với và nhân bản hóa các thành công của thiên tài đàn ông: “thời ta, cách đặc biệt, đang chờ đợi sự biểu hiện của ‘thiên tài’ này vốn là của nữ giới, và là một thiên tài có khả năng bảo đảm sự nhậy cảm đối với mọi hữu thể nhân bản trong mọi hoàn cảnh” (MD, 18, 30).
Phụ nữ tham gia xã hội
Luận điểm kế tiếp trong chủ trương bổ túc toàn diện giữa đàn ông đàn bà của Đức Gioan Phaolô II xuất hiện năm 1995 trong bối cảnh Hội Nghị Thế Giới Lần Thứ Tư của Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ tại Bắc Kinh. Trong các năm trước đó, ngài vốn đã chú tâm vào nhiều nguyên tắc trong giáo huấn chính trị xã hội Công Giáo. Thành thử, không ai ngạc nhiên trước sự kiện này là khi tái xem xét mối tương quan đàn ông đàn bà, ngài cũng chú tâm xem xét các lãnh vực xã hội chính trị. Trong Thư Gửi Các Phụ Nữ, ngài viết rằng sự hiện diện lớn lao hơn của đàn bà trong xã hội sẽ dẫn tới việc nhân bản hóa các định chế vốn được tổ chức “theo các tiêu chuẩn hiệu năng và năng xuất” (39). Ngài kêu gọi phụ nữ can dự vào “mọi phạm vi giáo dục” trong đó “chúng cho thấy một loại chức phận làm mẹ có tính cảm giới, văn hóa, và tâm linh vô giá đối với việc phát triển cá nhân và tương lai xã hội” (40). Đức Thánh Cha trực tiếp nói với Gertrude Mongella, Tổng Thư Ký của Hội Nghị về Phụ Nữ của Liên Hiệp Quốc, rằng thiên tài phụ nữ trải rộng nhiều phạm vi rộng lớn của xã hội và “các đóng góp của phụ nữ cho phúc lợi và tiến bộ của xã hội thì không thể nào tính toán được… [và càng cần hơn nữa] để cứu xã hội khỏi vi khuẩn giết người là hạ giá và bạo lực mà hiện nay đang gia tăng rất đáng kể dưới sự chứng kiến của ta” (41).
Để làm cho nguyên tắc tổng quát trở thành chuyên biệt, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong một bài suy niệm lúc Đọc Kinh Truyền Tin (20 tháng Tám, 1995), quả quyết rằng sự hiện diện lớn hơn của các nữ doanh gia trong các chức vụ chấp hành cao cấp của nền kinh tế “đang đem lại cho nó một cảm hứng nhân bản mới mẻ và loại nó khỏi cơn cám dỗ kinh niên muốn có hiệu năng tẻ nhạt do định luật lợi nhuận chi phối hoàn toàn” (42). Do đó, ngài yêu cầu để thiên tài phụ nữ “được phát biểu trọn vẹn hơn trong đời sống xã hội như một toàn thể”, và “không gian rộng rãi nhất được mở ra cho phụ nữ trong mọi phạm vi văn hóa, kinh tế, [và] chính trị” (43).
Nền tảng hữu thể học của tính bổ túc nam nữ
Nền tảng siêu hình cho tính bổ túc phái tính toàn diện được trực tiếp tuyên bố trong Thư Gửi Phụ Nữ năm 1995; ngài coi nó như một cảm hứng Công Giáo chống lại chủ trương đa cực cổ truyền, chủ trương đa cực phần mớ, và các chủ trương độc giới. Ngài lý luận rằng các dị biệt quan trọng giữa đàn ông và đàn bà có tính hữu thể học, bắt nguồn trong chính tư cách là những con người nhân bản của họ: “Tính đàn bà và tính đàn ông bổ túc cho nhau không những theo quan điểm thể lý và tâm lý mà thôi, mà còn theo quan điểm hữu thể học nữa” (44). Hơn nữa, Bài Tham Luận của Tòa Thánh tại Hội Nghị Phụ Nữ ở Bắc Kinh năm 1995 đề ra 4 phạm trù hội nhập qua đó, tính bổ túc hữu thể học của đàn ông và đàn bà được phân tích: “đàn bà và đàn ông là minh họa của tính bổ túc sinh học, cá nhân, bản vị và tâm linh” (45). Tính bổ túc này luôn là của một người đàn ông và một người đàn bà như hai hữu thể nhân bản cụ thể trong tương quan với nhau chứ không phải các phần mớ của một người đàn ông và một người đàn bà trong tương quan làm thành “một hữu thể nhân bản duy nhất”. Đây là lý do tại sao tính bổ túc hữu thể học của Đức Gioan Phaolô II cũng là tính bổ túc phái tính toàn diện.
Một quan niệm nữa do Đức Gioan Phaolô II dẫn nhập liên quan tới tính bổ túc phái tính toàn diện có tên là “chủ nghĩa duy nữ mới”; nó được ngài sử dụng lần đầu và là lần duy nhất trong đoạn 99 của Thông Điệp năm 1995 Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống). Chủ nghĩa duy nữ mới được mô tả như lời mời gọi và như một bổn phận của phụ nữ Công Giáo. Chính ngài viết: “Cổ vũ một ‘chủ nghĩa duy nữ mới’ để biến đổi văn hóa tùy thuộc ở họ [phụ nữ]” (46). Từ lúc có lời kêu gọi này, một số đàn ông và đàn bà đã thăm dò phương cách làm thế nào để biến đổi văn hóa nhờ chủ nghĩa duy nữ mới này (47).
Chủ nghĩa duy nữ mới của Đức Gioan Phaolô II giống các chủ nghĩa duy nữ trước đó ở mục tiêu thắng vượt “mọi kỳ thị, bạo lực và khai thác” người đàn bà, nhưng khác với các hình thức này trong hai phương diện quan trọng. Thứ nhất, là giới điều tiêu cực: phương pháp của chủ nghĩa duy nữ mới không được mô phỏng điều ngài gọi là “các mẫu mực thống trị của nam giới” nhằm đạt các mục tiêu của mình. Hiển nhiên, giới điều này nhắc ta nhớ lại lời kêu gọi vượt thắng các hiệu quả của tội nguyên tổ trong các hình thức đặc thù nam giới.
Thứ hai, là giới điều tích cực: phương pháp của chủ nghĩa duy nữ mới phải sử dụng thiên tài phụ nữ với gốc gác của nó là thiên hướng lưu ý tới con người trong mọi hoàn cảnh của họ. Giới điều này cũng nhắc ta nhớ lại lời kêu gọi phải thắng vượt các hiệu quả của tội nguyên tổ trong các hình thức đặc thù nữ giới.
Nhắc lại chủ trương trước đây của ngài cho rằng các phụ nữ nào khám phá ra gốc gác thiên tài phụ nữ của mình có thể dẫn người đàn ông khám phá ra chức phận làm cha của họ, Đức Gioan Phaolô II mô tả sứ mệnh độc đáo của phụ nữ trong một thế giới đầy chủ nghĩa vị lợi và nền văn hóa chết chóc: “Người đàn bà trước nhất học hỏi và sau đó giảng dậy người khác rằng các tương quan nhân bản sẽ chân chính nếu họ cởi mở chấp nhận người khác’; người này được nhìn nhận và yêu thương nhờ phẩm giá phát xuất từ việc họ là một ngôi vị, chứ không phải nhờ các xem xét khác, như tính hữu dụng, sức mạnh, trí hiểu, sắc đẹp hay sự giúp đỡ” (48). Hơn nữa, ngài gọi chủ nghĩa duy nữ mới là “sự đóng góp nền tảng mà Giáo Hội và nhân loại trông mong nơi phụ nữ” khi ngài kết luận rằng “đây là điều kiện tiên quyết không thể miễn chước cho một sự thay đổi văn hóa chân chính” (49)
Để tổng kết, việc duyệt lại một số khoảnh khắc lịch sử trong việc khai triển các nền tảng triết học cho một quan điểm bổ túc toàn diện nam nữ trên đây đã cho thấy khi các tương quan đàn ông đàn bà mất quân bằng dẫn tới việc thiếu hẳn phẩm giá bình đẳng hay thiếu hẳn sự dị biệt hóa quan trọng, thì một cảm hứng Công Giáo lại tái xuất hiện để đem lại các cơ sở mới cho tính bổ túc. Kết quả sau cùng là các cơ sở hữu thể học và siêu hình học có khả năng cung cấp nền tảng cần thiết cho tính bổ túc phái tính toàn diện.
Về kết quả sau cùng trên, cảm hứng Công Giáo gần đây nhất đối với tính bổ túc phái tính toàn diện đã chuyển dịch từ một lý thuyết có tính trí thức, phát sinh từ sự mạc khải hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau nhưng khác nhau một cách đáng kể, để trở thành một giới điều nhằm biến đổi thế giới, qua việc tân phúc âm hóa việc làm có tính hợp tác và thẩm thấu vào nhau của đàn ông và đàn bà. Thực thế, trong khi tính bổ túc nam nữ là mẫu mực hàng đầu của tính bổ túc toàn diện, Đức Gioan Phaolô II đã rút tỉa nhiều loại suy từ mẫu mực này cho tính bổ túc giữa các Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, tính bổ túc giữa các nền văn hóa khác nhau, tính bổ túc giữa đức tin và lý trí, và tính bổ túc giữa ba mẫu ơn gọi bước vào hôn nhân, chức thánh và đời sống tận hiến.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, dựa vào cảm hứng Công Giáo của các vị tiền nhiệm, trong thông điệp đầu tiên Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu), đã mở rộng tâm điểm bên trong của mối tương quan tình yêu nam nữ. Nhờ khai triển chi tiết các dị biệt và tính thống nhất giữa các ngôi vị qua 3 hình thức tình yêu eros (gợi dục), filia (yêu thương) và agape (bác ái), Đức Bênêđíctô XVI đã cung cấp thước đo đầy tính năng động đối với các sức mạnh trong thế giới đang liên tiếp tạo áp lực lên các mối tương quan phái tính, buộc chúng phải đánh mất thế quân bình bằng cách hạ thấp hoặc phẩm giá nền tảng hoặc sự dị biệt hóa quan trọng giữa đàn bà và đàn ông. Giống chất men, tính bổ túc toàn diện trong nhiều hình thức đa dạng của nó có thể xây dựng nước trời ngay trên mặt đất giống như sự hiệp thông tình yêu giữa Các Ngôi Vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa Ba Ngôi (50).
(Còn tiếp)
_______________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
32. John Paul II, Original Unity of Man and Woman (November 14, 1979), 76.
33. John Paul II, Laborem Exercerns (Về Lao Động của Con Người, 1981), nos. 5–6.
34. Ibid., no.15.
35. John Paul II, Mulieris Dignitatem (Về Phẩm Giá và Ơn Gọi Phụ Nữ ) (Boston: St. Paul Books and Media, 1988), no. 6.
36. Chữ in nghiêng của Prudence Allen
37. John Paul II, Apostolic Exhortation Guardian of the Redeemer (Boston: St. Paul Books and Media, 1989), nos. 4–8.
38. Ibid., no. 21.
39. John Paul II, Thư Gửi Phụ Nữ, trong The Genius of Women (Washington DC: United States Catholic Conference, 1997), no. 4.
40. Ibid., no. 9.
41. John Paul II, Diễn Văn Chào Mừng Gertrude Mongella (Tháng Năm, 1995), trong Genius of Women, 41, no. 5.
42. John Paul II, Bài Diễn Văn ngày 20 tháng Tám, 1995, trong Genius of Women, no.1.
43. John Paul II, Letter to Women no. 10, và Diễn Văn ngày 23 tháng Bẩy, 1995, no.1.
44. John Paul II, Letter to Women., no.7.
45. John Paul II, Tham Luận của Tòa Thánh tại Hội Nghị Bắc Kinh (25 tháng Tám, 1995), 1.1. Có tại http://www.priestsforlife.org/index.html. Cũng xin xem Prudence Allen, RSM, “Integral Sex Complementarity and the Theology of Communion,” Communio 17 (Winter 1990): 523–44.
46. John Paul II, Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống) (Boston: Pauline Books and Media, March 25, 1995), no. 99.
47. Xem công trình bác học liên khoa trong Michele Schumacher, chủ biên, Women in Christ: Toward a New Feminism (Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2004). Phương thức triết học của Prudence Allen tìm thấy tại các chương “Philosophy of Relation in John Paul II’s New Feminism,”67–104, và “Can Feminism be a Humanism?” 251–84. Helen Alvaré, làm việc cho Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cũng có bài “The New Feminism” trong Liguorian Magazine (May 1997); và Mary Ann Glendon, đứng đầu Phái Đoàn Tòa Thánh tại Hội Nghị của Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ ở Bắc Kinh, có bài “What Happened at Beijing?” trong First Things (January 1996): 30–36, và “The Pope’s New Feminism” trong Crisis 15, no. 3 (March 1997): 28–31.
48. John Paul II, Evangelium Vitae, no. 99.
49. Ibid.
50. Bản dài hơn của tài liệu này có tựa đề “The Catholic Intellectual Tradition Lecture” có tại trang mạng của Đại Học St. Thomas, Houston, Texas, ngày 26 tháng Mười, 2004, và được khai triển rất chi tiết thành 3 bài diễn thuyết song song với nhà thần học bí tích Moira Debono, RSM, STD, có dưới hình thức audiotape tựa đề “The Second Annual Vital Grandin Lectures,” Newman Theological College, Edmonton, Alberta, Canada, November 7–8, 2003.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Giao Mùa Đông Xuân
Dominic Đức Nguyễn
19:09 18/04/2017
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Núi non tuyết trắng hoa vàng
Đông, Xuân họp mặt bàng hoàng thiên nhiên.
(nđc)