Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:40 06/05/2009
LỄ AN TÁNG CỦA CON CHÓ
Người nọ đi tìm cha sở của một nhà giáo xứ và nói:
- “Thưa cha, con chó của tôi mới chết ngày hôm qua, xin cha làm cho nó một thánh lễ cầu hồn, được không cha ?”
Cha sở nghe xong thì giận dữ, nói chắc như đinh đóng cột:
- “Chúng tôi không làm lễ cho động vật, đi tìm những giáo phải mới thành lập trên đường phố, đại khái họ sẽ cầu nguyện cho con chó của ông.”
Người ấy nói:
- “Tôi rất thương con chó ấy, tôi thật rất muốn vì nó mà tổ chức một nghi thức an táng đâu ra đó. Tôi không biết thường thường người ta xin lễ bao nhiêu tiền, cha thấy năm vạn đồng có đủ không ?”
- “Khoan”- cha sở nói tiếp: “Sao ông không nói cho tôi biết con chó của ông là tín hữu hử.”
(Trích: Bài ca của loài ếch)
Suy tư:
Thánh lễ là vấn đề tâm linh, thuộc về tôn giáo tín ngưỡng, đương nhiên là dành cho con người có linh hồn và thân xác.
Thánh lễ là việc thờ phượng Thiên Chúa cách công khai của Hội Thánh cử hành để chúc tụng ngợi khen, cám tạ và cầu xin.
Thánh lễ là là hy lễ để cảm tạ Chúa Cha, là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì tất cả các ơn lành Ngài ban, tất cả những gì Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, ơn cứu chuộc, ơn thánh hóa.
Cho nên, không thể dâng thánh lễ cho con chó hay con mèo hay cho bất cứ loài vật nào, dù họ bỏ bỏ tiền ra cả triệu đô la để xin làm thánh lễ, bởi vì thánh lễ không phải là đồ trang sức của người giàu có thích chơi ngông, và con chó hay loài vật cũng không phải là đối tượng để được cứu độ, nhưng đối tượng của công cuộc cứu chuộc của Chúa Giê-su chính là phần rỗi con người.
Người giàu có bỏ tiền ra để xin làm lễ an táng cho con chó của mình, dù ông ta chơi ngông; nhưng có nhiều người Ki-tô hữu lại coi thường thánh lễ, và thậm chí nhạo cười những người Ki-tô hữu khác đi lễ, vì họ nói rằng: đạo tại tâm, đi lễ làm gì ?!
Hiểu được lợi ích thiêng liêng to lớn của thánh lễ Misa, thì chắc chắn không một người Ki-tô hữu nào bỏ lễ ngày thường hoặc chủ nhật...
N2T |
Người nọ đi tìm cha sở của một nhà giáo xứ và nói:
- “Thưa cha, con chó của tôi mới chết ngày hôm qua, xin cha làm cho nó một thánh lễ cầu hồn, được không cha ?”
Cha sở nghe xong thì giận dữ, nói chắc như đinh đóng cột:
- “Chúng tôi không làm lễ cho động vật, đi tìm những giáo phải mới thành lập trên đường phố, đại khái họ sẽ cầu nguyện cho con chó của ông.”
Người ấy nói:
- “Tôi rất thương con chó ấy, tôi thật rất muốn vì nó mà tổ chức một nghi thức an táng đâu ra đó. Tôi không biết thường thường người ta xin lễ bao nhiêu tiền, cha thấy năm vạn đồng có đủ không ?”
- “Khoan”- cha sở nói tiếp: “Sao ông không nói cho tôi biết con chó của ông là tín hữu hử.”
(Trích: Bài ca của loài ếch)
Suy tư:
Thánh lễ là vấn đề tâm linh, thuộc về tôn giáo tín ngưỡng, đương nhiên là dành cho con người có linh hồn và thân xác.
Thánh lễ là việc thờ phượng Thiên Chúa cách công khai của Hội Thánh cử hành để chúc tụng ngợi khen, cám tạ và cầu xin.
Thánh lễ là là hy lễ để cảm tạ Chúa Cha, là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì tất cả các ơn lành Ngài ban, tất cả những gì Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, ơn cứu chuộc, ơn thánh hóa.
Cho nên, không thể dâng thánh lễ cho con chó hay con mèo hay cho bất cứ loài vật nào, dù họ bỏ bỏ tiền ra cả triệu đô la để xin làm thánh lễ, bởi vì thánh lễ không phải là đồ trang sức của người giàu có thích chơi ngông, và con chó hay loài vật cũng không phải là đối tượng để được cứu độ, nhưng đối tượng của công cuộc cứu chuộc của Chúa Giê-su chính là phần rỗi con người.
Người giàu có bỏ tiền ra để xin làm lễ an táng cho con chó của mình, dù ông ta chơi ngông; nhưng có nhiều người Ki-tô hữu lại coi thường thánh lễ, và thậm chí nhạo cười những người Ki-tô hữu khác đi lễ, vì họ nói rằng: đạo tại tâm, đi lễ làm gì ?!
Hiểu được lợi ích thiêng liêng to lớn của thánh lễ Misa, thì chắc chắn không một người Ki-tô hữu nào bỏ lễ ngày thường hoặc chủ nhật...
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:41 06/05/2009
N2T |
6. Chúng ta đều có thể tu sửa để trở thành người Ki-tô hữu đức hạnh và thánh thiện, bất luận tình trạng cuộc sống như thế nào, bất luận công việc của cuộc sống là gì ?
(Thánh Francois de Sales)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:43 06/05/2009
N2T |
107. Tri thức là do lao động khắc khổ mà có được, bất cứ thành tựu nào cũng đều là kết quả của lao động khắc khổ.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha coi chuyến đi Trung Đông như để ấn định sắc thái của giáo triều của ngài
Bùi Hữu Thư
03:46 06/05/2009
Đức Thánh Cha coi chuyến đi Trung Đông như để ấn định sắc thái của giáo triều của ngài
Đức Hồng Y Sandri nhắc lại các hy vọng đầu tiên của Đức Thánh Cha
Rôma, ngày 5 tháng 5, 2009 (Zenit.org).- Bộ Trưởng Thánh Bộ các Giáo Hội Đông Phương nói, chuyến thăm viếng Đất Thánh của Đức Thánh Cha Benedict XVI tuần này là một việc ngài đã muốn làm ngay từ lúc khởi đầu giáo triều của ngài.
Đức Hồng Y Leonardo Sandri nói về những hy vọng của Đức Thánh Cha về cuộc hành hương khi ngài tham dự vào một buổi ra mắt sách tại Rôma. Mặc dầu Đức Thánh Cha đi thăm Đất Thánh vào năm thứ 5 của triều đại Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Sandri cho hay cuộc hành hương này là một trong các cuộc viếng thăm đầu tiên Đức Thánh Cha muốn thực hiện.
Đức Hồng Y giải thích, "Ngài đã phải thực hiện các chuyến đi đã được hoạch định bởi giáo triều trước đó, như Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Cologne, và Đại Hội Thế Giới về Gia Đình tại Tây Ban Nha.
Nhưng, ngài tiếp, “ước muốn cao cả nhất của Đức Thánh Cha về chuyến đi đầu tiên này, chúng ta có thể nói, là ý nghiã của tất cả triều đại Giáo Hoàng của ngài đối với Chúa Giêsu, đối với Lời Chúa, là đi thăm Đất Thánh. Chuyến đi chính để ấn định sắc thái cho giáo triều của ngài là cuộc hành hương này."
Đức Hồng Y nhắc lại ý định của Đức Thánh Cha Benedict XVI về việc đi thăm Đất Thánh là để cổ võ cho hòa bình.
Hồng Y nói, "Qua sự hiện diện của ngài, Đức Thánh Cha là người mang lại sự êm dịu và bình an và thúc đẩy tất cả những ai chịu trách nhiệm về tình hình thời sự và tình trạng của những người dân ở đó. Trong trường hợp này, tại Đất Thánh, điều này có nghiã là một sự khuyến khích cho phương thức đem lại hòa bình, mà đã từ lâu gặp phải bao nhiêu khó khăn."
Cuộc tông du tới Đất Thánh (2)
Vũ Văn An
05:56 06/05/2009
Nhất định là can đảm
Theo tin Zenit ngày 4 tháng Năm, Linh Mục Federico Lombardi, Dòng Tên, phát ngôn viên của Tòa Thánh, đã gọi cuộc hành hương sắp đến của Đức GH Bênêđíctô XVI tới Đất Thánh “nhất định là can đảm” vì vùng này đang kinh qua nhiều căng thẳng hơn bình thường sau cuộc tranh chấp đẫm máu hồi tháng Giêng tại Gaza. Trong cuộc họp báo vào ngày hôm nay, Cha Lombardi cho rằng cuộc tông du này là cuộc tông du phức tạp nhất trong 12 cuộc tông du quốc tế của Đức Bênêđíctô XVI từ trước đến nay.
Vị phát ngôn viên này lặp lại lời khẳng định được chính Đức Thánh Cha phát biểu vào ngày Chúa Nhật rằng cuộc hành hương này sẽ giúp ngài “củng cố và khuyến khích các Kitô hữu của Đất Thánh đang ngày đêm phải đương đầu với nhiều nỗi khó khăn”.
Theo cha Lombardi, tình hình chính trị của vùng này nay khá bấp bênh, vì cả Do Thái lẫn Hoa Kỳ đều mới vừa có tân chính phủ, sự chia rẽ giữa người Palestine khiến cho các cuộc bầu cử phải hoãn lại và các căng thẳng do Iran đang tạo ra.
Cha cho hay: “Trong một khung cảnh gồm nhiều tình thế đang biến động cũng như đang căng thẳng, cuộc tông du của Đức Giáo Hoàng xuất hiện như một nghĩa cử đầy hy vọng và tin tưởng, nhằm đóng góp phần nào cho hòa bình và hoà giải. Đối với tôi, rõ ràng nó là một nghĩa cử nhất định can đảm và là một chứng tá tươi đẹp cho cam kết đem lại hoà bình và hoà giải trong các tình thế khó khăn”.
Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng nhiều người cho rằng cuộc tranh chấp tại Gaza vào cuối năm 2008 đầu năm 2009 sẽ buộc Đức Bênêđíctô phải hủy bỏ chuyến tông du. Nhưng ngài bảo: Đức Thánh Cha vẫn muốn thực hiện chuyến tông du ấy như một vận động cho hòa bình. Ý nguyện của Đức Giáo Hoàng đã tạo nên ngữ cảnh cho lời kêu gọi vào hôm Chúa Nhật, bằng tiếng Anh, trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng (Regina Coeli) với quần chúng tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô: “Thứ Sáu này cha sẽ lên đường đi hành hương Đất Thánh, nơi nhiều người đầu tiên đã được nghe tiếng nói của Đấng Chăn Chiên Lành. Cha xin toàn thể anh chị em cùng cha cầu nguyện cho những người đau khổ của vùng đó. Một cách đặc biệt, cha xin anh chị em nhớ đến dân tộc Palestine, là những người từng chịu rất nhiều khốn khó và đau thương lớn lao. Xin Chúa chúc lành cho họ và tất cả những ai sống tại Đất Thánh được ơn phúc hợp nhất và bình an”.
Nhận định của tờ Irish Times
Ngày 4 tháng Năm vừa qua, tờ Irish Times có một bài của Mark Weiss nói về cuộc tông du Đất Thánh của Đức Giáo Hoàng, mà ông mô tả là để thăng tiến các liên hệ liên tôn vì các liên hệ đang căng thẳng giữa Vatican với người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo cần được cải thiện.
Bài báo này cho hay: sau trạm dừng chân đầu tiên ở Gio-đăng (từ Thứ Sáu), Đức Thánh Cha sẽ bay tới Do Thái vào ngày Thứ Hai và sẽ ở lại đó 5 ngày, đi thăm Giêrusalem, Nadarét, Bê-lem và West Bank. Cuộc tông du lần này cần thiết để khích lệ cộng đồng Kitô Giáo tại đây, một cộng đồng đang nhỏ dần chỉ còn chừng 170,000 người. Pierbattista Pizzaballa, vị đại diện Vatican trông coi các cơ sở thánh, cho hay: cuộc hành hương này nhằm nâng cao tinh thần cho cộng đồng thiểu số: “Cuộc thăm viếng này trước hết và đầu hết nhằm khích lệ các Kitô hữu tại Đất Thánh chịu ở lại”. Tình hình càng đặc biệt nghiêm trọng hơn tại West Bank, nơi mà đa số các thành viên có học và giầu có của cộng đồng Kitô Giáo đã bỏ ra đi, để cả Bêlem lại cho đa số Hồi Giáo đông đảo ở đấy.
Đức Giáo Hoàng quyết định không tới Gaza, nơi chỉ có khoảng 2,500 Kitô hữu sinh sống giữa khối 1.5 triệu người Hồi Giáo. Hai trăm người Công Giáo từ giải đất này sẽ đến Bêlem tham dự Thánh Lễ hôm Thứ Tư tới tại Công Trường Máng Cỏ, do Đức Giáo Hoàng cử hành.
Cuộc viếng thăm này cũng được kỹ nghệ du lịch Do Thái coi là cơ hội để rũ bỏ hình ảnh tiêu cực mà người ta vốn có về xứ sở họ tiếp theo sau cuộc chiến gần đây tại Gaza. Họ hy vọng hơn 15,000 khách hành hương sẽ tháp tùng Đức Giáo Hoàng trong chuyến đi này. Ngoài ra, giới chức Do Thái còn ước lượng sẽ có khoảng 200,000 du khách Kitô hữu khác tiếp tục tới Do Thái vào những ngày còn lại trong năm. Người ta cũng hy vọng khoảng 50,000 người thờ phượng sẽ tham dự Thánh Lễ sáng Thứ Năm trên Mount Precipice bên ngoài Nadarét, vốn là địa điểm trong Thánh Kinh nơi đám đông Do Thái giận dữ toan tính liệng Chúa Giêsu xuống vực thẳm.
Con số khách hành hương cùng đi với Đức GH Bênêđíctô ít hơn nhiều so với con số 47,000 người từng đến với Đức Gioan Phaolô II lúc ngài tới đó năm 2000. Sự lạc quan do cuộc hành hương thiên niên kỷ đem lại đã mau chóng tan biến với việc bùng nổ cuộc nổi dậy lần thứ hai sau đó mấy tháng của người Palestine.
Vị giáo hoàng thăm Đất Thánh đầu tiên là Đức Phaolô VI vào năm 1964, trước khi Vatican thừa nhận nhà nước Do Thái. Các liên hệ ngoại giao đầy đủ đã được thiết lập vào năm 1993, nhưng dị biệt vẫn tồn tại trong các vấn đề như quyền sở hữu tài sản của Giáo Hội tại Đất Thánh và giấy phép du hành cho hàng giáo sĩ Palestine tại West Bank.
Cuộc thăm viếng vào tuần tới xẩy ra sau hai biến cố gần đây vốn gây ‘cọ sát’ cho các liên hệ Công Giáo và Do Thái. Các nhóm Do Thái và Do Thái Giáo từng chỉ trích các động thái nhằm phong chân phước cho Đức GH Piô XII, bị một số người trong bọn họ cho là đã không làm đủ để cứu người Do Thái trong Thế Chiến Hai.
Đức GH Bênêđíctô sẽ đặt một vòng hoa tại viện bảo tàng Diệt Chủng Yad Vashem ở Giêrusalem, nhưng sẽ không vào bên trong, tránh không xem hình trưng bày có ghi chú rằng Đức Piô không chịu phản kháng chống lại việc Diệt Chủng của Quốc Xã và đã chỉ duy trì một thái độ trung lập.
Các liên hệ còn bị căng thẳng thêm do việc Vatican tha vạ tuyệt thông mới đây cho Giám Mục Richard Williamson, người Anh, từng bác bỏ không có việc 6 triệu người Do Thái bị thảm sát trong biến cố Diệt Chủng. Giáo Hội sau đó đã giải thích, cho rằng Đức GH không biết gì tới quan điểm của Giám Mục Williamson khi tha vạ tuyệt thông cho vị này, và Toà Thánh đã bác bỏ lời xin lỗi của ông ta.
Oded Ben-Hur, người từng là đại sứ Do Thái tại Vatican giữa các năm 2004 và 2008, nói với tờ Irish Times rằng các liên hệ song phương nay đã đủ mạnh để có thể đương đầu với những bất đồng kiểu vụ tranh cãi về việc phong chân phước và vụ tha vạ tuyệt thông cho Williamson. Ông Ben-Hur cũng tiên đoán rằng các liên hệ giữa Do Thái và Vatican sẽ được lên cấp trong tương lai gần, mà cuộc tông du lần này của Đức GH sẽ là một đóng góp lớn. Ông đặt câu hỏi: “Còn gì tốt đẹp hơn cuộc thăm viếng của vị đứng đầu Giáo Hội tới Đất Thánh để củng cố các liên hệ song phương?”
Tuần trước, tổ chức “Huynh Đệ Hồi Giáo” tại Gio-đăng yêu cầu Đức GH xin lỗi về các nhận định của ngài vào tháng Chín 2006 về Tiên Tri Muhammad, những nhận định bị nhiều người Hồi Giáo coi là nhục mạ. Đức GH từng tuyên bố rằng ngài “hối tiếc sâu xa” trước phản ứng đối với bài diễn văn của ngài trong đó, ngài trích dẫn một bản văn trung cổ coi một số giáo huấn của Muhammad như là “xấu xa và bất nhân”. Dựa vào khả thể các nhóm Hồi Giáo cực đoan có thể tấn công, Sở An Ninh Do Thái (tên cũ là Shin Bet) phải lên tiếng khuyến cáo Đức GH không nên du hành bằng giáo hoàng xa khi tới Nadarét, vì sợ chiếc xe không tránh được cuộc tấn công của khủng bố.
Chú tâm tới hợp tác
Sam Greenberg ngày 4 tháng Năm thì thuật lại cuộc họp báo của Đức Cha Antonio Franco, sứ thần Tòa Thánh tại Do Thái, nói về cuộc tông du. Theo Greenberg, Đức GH Bênêđíctô sẽ cố gắng tránh các vấn đề gây tranh luận và chỉ chú tâm tới việc hợp tác liên tôn. Trong cuộc họp báo vào hôm Thứ Hai do Mishkenot Sha’ananim Israel Newsmaker Forum và Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại Israel tổ chức, Đức Cha Franco nói rằng: “Mục tiêu của Đức Thánh Cha là tới để cầu nguyện; cầu nguyện cho hòa bình, cầu nguyện cho hợp nhất”. Đức Cha cũng cho hay: cuộc hành hương của Đức GH tới Do Thái, bắt đầu vào ngày 11 tháng Năm, sẽ không nhắc chi tới những tranh chấp như việc tái lập lại lời cầu xin cho người Do Thái Giáo trở lại, vai trò của Giáo Hội trong Thế Chiến Hai, hay mối liên hệ của Giáo Hội với Giám Mục Richard Williamson, người bác bỏ Nạn Diệt Chủng. “Tất cả các vấn đề ấy đã được chôn vùi và giải quyết rồi. Đức Giáo Hoàng không tới đây để thảo luận các vấn đề, để nói hay để cãi cọ”.
Thay vào đó, ngài sẽ chú tâm tới các liên hệ liên tín ngưỡng, tham dự cuộc gặp gỡ lần đầu với các nhóm và các nhà hoạt động cho đối thoại liên tôn. Đức Cha Franco cho hay: “Đó là các công trình luôn cần được khuyến khích, hỗ trợ và trân qúy bằng đủ mọi cách, vì chúng thực sự cực kỳ quan trọng”.
Giống nhiều cuộc tông du trước đây, Đức GH sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như thủ tướng Binyamin Netanyahu, tổng thống Shimon Peres và chủ tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas. Song song với những gặp gỡ ấy, Đức GH sẽ chủ trì ba Thánh Lễ ngoài trời: một ở Giêrusalem, hai thánh lễ kia tại Bêlem và Nadarét. Đức Cha Franco nói thêm: “Ngài tới đây như một khách hành hương, nên điều ấy nhắc ta nhớ tới toàn bộ ý nghĩa đặc thù và độc đáo cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa của Đất Thánh”.
Tuy đây là cuộc thăm viếng có tính mục vụ, chứ không có tính chính trị, nhưng Đức GH cũng quan tâm và cố gắng góp phần giải quyết cuộc tranh chấp giữa Palestine và Do Thái và cải thiện thân phận các người Công Giáo đang sống tại Do Thái và các lãnh thổ trong vùng. Và mặc dù sứ điệp chính trong bài diễn văn của Đức GH chưa được tiết lộ, song Đức Cha Franco ‘đoán’ rằng có lẽ nó sẽ đề cập tới thực tại của chúng ta tại Đất Thánh, tới các khó khăn, các niềm hy vọng, các nỗi thất vọng của chúng ta, và cố gắng đem lại một sứ điệp hy vọng.
Nhận định từ Nam Hàn
Yehonathan Tommer, trên tờ điện tử OhMyNews của Nam Hàn ngày 5 tháng Năm, thì cho rằng cuộc tông du của Đức Bênêđíctô sẽ tán dương khát vọng hòa bình và thanh bình tại Đất Thánh. Theo Tommer, cuộc tông du này khiến nhiều người hy vọng rằng biết đâu các nhà lãnh đạo tôn giáo lại không thành công ở ngay chỗ các đồng nghiệp thế tục của họ liên tiếp thất bại.
Thực vậy, cuộc tranh chấp Do Thái và Palestine không phải là một cuộc tranh luận thần học giữa Hồi Giáo và Do Thái Giáo trên mảnh đất rắc rối nơi các Kitô hữu và Kitô Giáo nói chung bị coi là những tay chơi bên lề. Ấy thế nhưng nó thường mang sắc thái bóng gió khi các giải pháp thực tiễn nhằm giảng hòa các khát vọng quốc gia trái ngược nhau bất đồng với các cấm kỵ thần thánh và lịch sử thường được các lãnh tụ Palestine và Do Thái trưng dẫn khác nhau để biện minh cho các mục tiêu không thỏa hiệp được của họ.
Các hy vọng và mong chờ nơi cuộc hành hương này đã được đồng thanh nói ra bởi một nhóm tư tưởng gia Do Thái, Hồi Giáo và Kitô Giáo tại một cuộc hội học vào tuần trước do Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại Do Thái (ICCI) tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Thánh Mẫu ở Giêrusalem.
Đối thoại liên tín ngưỡng phải tiếp tục
Các nhà tư tưởng trên nhất trí về nhu cầu phải tiếp tục cuộc đối thoại liên tín ngưỡng và xây dựng các nền tảng quần chúng cho sự hiểu biết và hợp tác văn hóa giữa các nhóm sắc tộc và tôn giáo của xứ sở. Nhưng họ không nhất trí trong hoài mong của họ là làm sao cuộc hành hương kéo dài năm ngày của Đức GH tại Đất Thánh, những lời cầu nguyện và những cuộc gặp gỡ của ngài với các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo ở Gio-đăng, ở Do Thái và ở các lãnh thổ Palestine có thể khởi diễn được ‘các ý tưởng sáng tạo’ lạ lùng vốn vuột khỏi tầm với của các chính khách thế tục trong cố gắng giải quyết cuộc tranh chấp Do Thái và Palestine của họ.
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ là vị giáo hoàng thứ ba trong suốt lịch sử Đất Thánh tới đây hành hương. Đức Cha Antonio Franco, Sứ Thần Tòa Thánh tại Do Thái nói rằng: “Ngài chủ yếu tới đây như một khách hành hương để cầu nguyện cho hoà bình và hợp nhất, vào thời điểm chúng ta đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và phải đưa ra giải pháp cho các vấn đề của chúng ta. Chúng ta phải chờ mong cái ngày chúng ta có thể sống hòa bình và an ổn tại khu vực này, mà không sợ nhu cầu phải bảo vệ và phòng vệ chính mình”.
Đức Cha Franco đề cập tới sứ điệp hợp nhất mà Đức GH sẽ đem đến: “hợp nhất giữa người Kitô Hữu với nhau và giữa người Kitô Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo trong một tinh thần chấp nhận và hợp tác trong tư cách thành viên của đại gia đình nhân loại để mọi người cảm nhận được là mình đang ở trong quê hương mình”. Ngài cũng cho biết: cuộc viếng thăm này được Do Thái tổ chức rất cẩn trọng, hoàn toàn thỏa mãn các ước vọng và ý thích của Vatican. Đối với ngài, nó sẽ “tăng cường các cố gắng hằng ngày nhằm hiểu biết và hợp tác tốt hơn giữa các dân tộc trong vùng và tạo ra được các điều kiện thuận lợi cho hòa bình trong đó các tranh chấp khác có thể được giải quyết”.
Chương trình hành hương
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ tới Do Thái vào ngày 11 tháng Năm và đáp trực thăng từ phi trường quốc tế Ben Gurion để tới Giêrusalem, nơi ngài sẽ được chào đón bởi Thị Trưởng Giêrusalem, Ông Nir Barkat. Ngài sẽ tới thăm Tổng Thống Do Thái Shimon Peres tại Dinh Tổng Thống, sau đó tới tham dự nghi thức đặt vòng hoa tại Yad-Va-Shem để tưởng niệm các nạn nhân của Nạn Diệt Chủng.
Trong bốn ngày kế tiếp, Đức GH sẽ nói truyện với hàng ngàn khách hành hương tham dự các Thánh Lễ đại trào tại Giêrusalem; tại Bêlem, nơi ngài cũng sẽ gặp Chủ Tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas; và tại Nadarét, trên Đồi Vực Thẳm (Mount of the Precipice), nơi ngài sẽ gặp Thủ Tướng Do Thái là Benjamin Netanyahu. Ngài sẽ gặp Giáo trưởng Hồi Giáo của Giêrusalem ở Đền Haram e Sharif, Đại Giáo Trưởng toàn Do Thái và các nhà lãnh đạo địa phương thuộc các hệ phái La Tinh, Hy lạp, Chính Thống và nhiều hệ phái Kitô Giáo khác. Ngài cũng sẽ thăm Bức Tường Phía Tây và Nhà Thờ Mộ Thánh và tham dự một buổi gặp gỡ liên tín ngưỡng tại Khách Sạn Đức Bà đối diện với Tường Cổ Thành của Giêrusalem trước khi trở lại Rôma vào ngày 15 tháng Năm.
Từ ban công nhìn xuống Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, trong buổi chúc lành truyền thống vào ngày Chúa Nhật vừa qua, Đức GH nói rằng: “Do Thái là mảnh đất Chúa chúng ta sinh ra, chịu chết và sống lại, một nơi thánh đối với ba tôn giáo độc thần, từng chịu đựng bạo lực và bất công suốt 60 năm qua. Điều ấy đã và đang tạo ra một bầu khí thiếu vắng đức tin, bấp bênh và sợ hãi dẫn tới tranh chấp giữa lân bang hàng xóm với nhau và giữa anh em với nhau”. Đức Thánh Cha khuyên nhủ các Kitô hữu khắp thế giới “cùng cầu nguyện với ngài cho hạnh phúc của mọi cư dân tại Đất Thánh và toàn vùng để họ được hồng ân hoà giải và hòa bình”.
Thăm viếng mục vụ để củng cố các cộng đồng Kitô hữu
Đức Thượng Phụ Latinh, Fouad Twal, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, được đăng tải trên một trang mạng ở Giêrusalem vào tháng rồi, phát biểu như sau: Cuộc hành hương của Đức GH sẽ là “một cuộc thăm viếng mục vụ hết sức quân bình với một tầm nhìn hoàn cầu, đề cập tới các thực tại chính trị, xã hội, nhân bản và tôn giáo của một dân tộc rất nhạy cảm trong một vùng đất đầy khó khăn, những thực tại vốn phát sinh từ sau cuộc chiến tại Gaza”.
Mặc dù cuộc tông du này có chiều kích chính trị và theo Đức Thượng Phụ Twal, “Vatican càng xích gần lại Do Thái, thì càng có khả năng vận dụng được tình thân hữu của mình mà phục vụ tốt hơn cho hoà bình và công lý, cũng như can thiệp cho lợi ích của mọi người Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Kitô Giáo tại Đất Thánh”. Tuy nhiên, quan tâm hàng đầu của Đức Giáo Hoàng là khích lệ và củng cố các cộng đồng Kitô hữu địa phương chịu ở lại, dù hiện nay, họ đang gặp nhiều đau thương, nhất là các cộng đồng tại Đông Giêrusalem, tại Bêlem và tại các lãnh thổ Palestine, nơi con số các Kitô hữu mỗi ngày mỗi giảm đi trông thấy do nhiều thực tại khó khăn tại chỗ. (Tại Do Thái, con số những người này hiện gia tăng từ 34,000 tới 180,000 theo con số thống kê chính thức, do lượng di dân tràn vào từ Liên Xô cũ và sự có mặt của khá nhiều công nhân khách Kitô hữu).
Tại Gio-đăng, Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ nhấn mạnh tới ý nguyện của ngài muốn cổ vũ thiện chí giữa Giáo Hội và thế giới Hồi Giáo, và tại Do Thái, ngài sẽ nhấn mạnh tới các liên hệ tốt đẹp giữa Giáo Hội và Dân Tộc Do Thái, và tới việc mưu tìm hòa bình giữa Do Thái, Palestine và các chính phủ Ả Rập lân cận.
Giáo sĩ David Rosen, Chủ Tịch Ủy Ban Do Thái Quốc Tế về Tham Khảo Liên Tôn, người từng gặp Đức GH nhiều lần, nhận định rằng: là một nhà trí thức ấm áp nhưng chủ yếu hướng nội, ngài vẫn sẽ quyết tâm tiếp tục công trình đã được vị tiền nhiệm có sức lôi cuốn quần chúng là Đức GH Gioan Phaolô II khởi xướng.
Đức Bênêđíctô XVI không có nhiều kinh nghiệm ngoại giao và biết khá ít về nghệ thuật truyền thông hiện đại, nhưng những điều ấy sẽ thay đổi. Trong khi ấy, chúng giải thích được phần nào cách xử lý các vấn đề tế nhị gần đây chung quanh tấm hình có ghi chú về Đức Piô XII tại Yad Va Shem, việc Do Thái yêu cầu Vatican cho mở văn khố mật cũng như việc tha vạ tuyệt thông cho giám mục Williamson. Các vấn đề này vốn gây bất mãn cho thế giới Do Thái, nhưng theo giáo sĩ Rosen, đã được giải quyết êm thắm trong các ngày qua, và hiện còn có thể góp phần tích cực vào việc tái tập trung các cố gắng liên tục nhằm cải thiện các mối liên hệ giữa Vatican và Do Thái.
Nối tay hoàn cầu, hòa giải khu vực
Trong một bản tuyên bố gần đây, Linh Mục Federico Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh, viết rằng: cuộc hành hương tới Trung Đông của Đức GH đưa ngài vào một hành trình sẽ “thách đố và kích thích một trong các ước nguyện lớn nhất kể từ khi ngài đảm nhiệm chức vụ. Chúng ta biết tình hình chính trị tại vùng này hoàn toàn bất định ra sao và viễn ảnh hòa bình mỏng manh như thế nào. Nhưng Đức GH vẫn sẽ tới đó một cách can đảm, duy với đức tin, để nói về hòa bình”.
Linh mục William Shomali, Giám đốc chủng việc Latinh ở Beit Jalla gần Bêlem, thì cho hay: cuộc thăm viếng Đất Thánh của Đức GH phải làm sao đem các bên tới chỗ “từ bỏ não trạng nạn nhân của mình mà biết thừa nhận các đau khổ của ‘người khác’, bất kể đó là Do Thái, Palestine hay Armenia, và tới chỗ biết xin tha thứ bằng cách nhìn nhận phần xấu xa tội lỗi của mình… Hòa giải phá bỏ mọi bức tường, ngay cả những bức tường vô hình nhất như sợ sệt, kỳ thị, hận thù và trả đũa”. Ngài cũng cần đem đến lời khích lệ đối với các cư dân Kitô giáo gốc Palestine hiện đang giảm số rất nhanh, để họ tiếp tục làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Munib Younan, hiện đứng đầu Giáo Hội Tin Lành Luthêrô ở Gio-đăng và Đất Thánh, nhận định rằng: Muốn duy trì được ơn gọi tông đồ của mình, Giáo Hội phải lên tiếng về hàng loạt các vấn đề nhân quyền chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và kỳ thị Hồi Giáo, ủng hộ tự do tôn giáo bằng cách tôn trọng các truyền thống và quyền lợi của các hệ phái khác của Giáo Hội và lên án các vi phạm của người Do Thái đối với quyền của người Palestine được đoàn tụ gia đình.
Giám mục Younan cũng cho rằng: trong tư cách đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, được sự tín nhiệm hoàn cầu, Đức GH có nhiều trách nhiệm chính trị. “Tôi hy vọng rằng cũng giống như bất cứ vị nguyên thủ quốc gia nào, ngài sẽ nói lên một quan điểm về các thống khổ của người Palestine và của người Do Thái và tái khẳng định giải pháp một nhà nước hai dân tộc (two-nation state solution) trong đó Giêrusalem là thủ đô chung của cả hai dân tộc và là mô thức cho việc sống chung hoà bình và tôn giáo, cho công lý và hoà giải”.
Thế giới Kitô Giáo không phải là khách bàng quan thụ động trong cuộc tranh chấp trên. Quyết tâm của thế giới ấy sẽ ảnh hưởng sâu xa tới tương lai và quyền sở hữu các tài sản của Giáo Hội và quyền tự do lui tới các Địa Điểm Thánh của Kitô Giáo.
Giáo sư Muhammed Dejani, sống ở Đông Giêrusalem, và là sáng lập viên của Wasatia, một phong trào Hồi Giáo Palestine vừa mới khai sinh, nhằm cổ vũ một xã hội dân sự trung dung, lấy hứng từ các giáo huấn của Kinh Kôrăng, thì nói tới một tình thể nước đôi đáng buồn. Ông hy vọng rằng cuộc đến thăm của Đức GH sẽ kích thích “một bầu khí đối thoại liên tín ngưỡng”, nhưng ông không đặt nhiều kỳ vọng lớn lao. “Người Palestine từng bị thất vọng nhiều và diễn trình hòa bình trật đường rầy từng cho phép các tên cực đoan ở cả hai phía gióng được tiếng nói”. Tuy thế, việc Đức GH đến thăm là một bước can đảm và ông hy vọng nó sẽ khởi xướng được “một diễn trình hàn gắn” giữa người Palestine và người Do Thái. Dejani còn cho rằng: Đức GH là “một người có lòng nhân ái. Ngài mang tới một sứ điệp phổ quát về hòa bình, về yêu thương, nhân từ và khoan dung”.
Deborah Weissman, Giáo Sư môn Do Thái tại Đại Học Hybálai và là Đồng Chủ Tịch của ICCI, nhìn nhận rằng Đức GH Bênêđíctô XVI là “con người thực sự nồng ấm” sau khi bà được gặp ngài tại Vatican mấy tháng trước đây. Bà hy vọng rằng cuộc đến thăm của ngài sẽ làm nhanh hơn ‘công việc còn bỏ dở” giữa người Do Thái Giáo và người Kitô Giáo. “Ngài là người tận tâm với đối thoại nhưng hơi nước đôi đối với các vấn đề thần học chính yếu liên quan tới Giao Ước giữa người Do Thái và Thiên Chúa, liên quan tới việc lên khung tiên kiến người Do Thái và việc liệu có thể có cứu rỗi đối với tín hữu của các tôn giáo khác hay không”. Weissman hy vọng rằng sẽ không còn “những bước thụt lùi hơn nữa”.
Vatican kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo
Trong khi đó, Jack Khoury cho hay: Ông Peres vừa lên tiếng kêu gọi để Vatican được quyền kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo tại Đất Thánh, một lời kêu gọi rõ ràng đi ngược lại quan điểm của Bộ Trưởng Nội Vụ Eli Yishai.
Xưa nay, Vatican vẫn yêu cầu Do Thái chuyển giao chủ quyền các thánh điểm chủ chốt tại Đất Thánh cho Tòa Thánh và lời yêu cầu này vốn gây bất đồng nơi các viên chức cao cấp tại Giêrusalem. Bộ Nội Vụ cương quyết duy trì quyền kiểm soát các thánh điểm này, gọi việc từ bỏ quyền ấy là “hy sinh” chủ quyền Do Thái. Roi Rachmanovitch, phát ngôn viên của ông Yishai, cho hay: “Vấn đề này thuộc thẩm quyền của ông bộ trưởng, và ông bộ trưởng chưa sẵn sàng hy sinh chủ quyền của Do Thái, dù chỉ có tính tượng trưng”.
Ông Peres đang áp lực để chính phủ chịu chấp nhận yêu sách của Vatican trong việc từ bỏ quyền kiểm soát đối với sáu địa điểm tôn giáo, trong đó có Nhà Thờ Truyền Tin ở Nadarét; Nhà Thờ Tiệc Ly (Coenaculum) trên Đồi Zion ở Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu dùng bữa sau hết với các tông đồ; Vười Diệsimani, nằm dưới chân Đồi Cây Dầu ở Giêrusalem; Núi Tabor; và Nhà Thờ Hóa Bánh Ra Nhiều dọc theo bãi biển Kinneret. Theo Đài Phát Thanh Quân Đội, Ông Peres đang vận động để ông Yishai chịu nhượng những thánh điểm ấy cho Giáo Hội Công Giáo, nhưng chưa được mọi viên chức nhất trí. Bộ trưởng Du Lịch là Stas Misezhnikov cho Đài Quân Đội hay: “Nếu chắc chắn việc trao tặng lớn lao này cho thế giới Kitô Giáo sẽ đem hàng triệu khách hành hương Kitô Giáo tới đây, thì chúng tôi có lý do tốt để nghĩ tới việc thoả thuận đó. Nhưng vì chưa chắc chắn về điều đó, thì tại sao ta lại đi trao tặng?”
Sự bất đồng giữa Giêrusalem và Tòa Thánh này có nguy cơ gây căng thẳng cho cuộc viếng thăm của Đức Bênêđictô vào tuần tới. Các viên chức Vatican cho hay họ sẽ lặp lại yêu cầu trên trong cuộc viếng thăm sắp tới, để ít nhất đòi được Nhà Thờ Tiệc Ly ở Giêrusalem.
Tin của Reuter
Hãng tin Reuter ngày 4 tháng Năm thì đưa một tin tích cực hơn: vì chính phủ Do Thái muốn dành một vinh dự cho Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp ngài đến thăm đất nước họ, nên một ủy ban liên bộ của Do Thái đã soạn thảo một văn kiện nhằm đặt các thánh điểm nói trên ra ngoài phạm vi trưng thu của nhà nước.
Một viên chức thành thạo với ủy ban này cho hay: “Điều ấy quả là thích đáng vì chúng tôi muốn Đức GH có khả năng khánh thành một thỏa thuận khi ngài tới đây. Thế giới Công Giáo từng coi vấn đề nổi bật này như dấu chỉ thiếu niềm tin về phía chúng ta”.
Tuy nhiên, dự thảo trên bị Bộ Trưởng Nội Vụ Eli Yishai bác bỏ, không chịu ký tên. Ông ta vốn đứng đầu đảng cực chính thống Do Thái Giáo trong chính phủ liên hiệp cực hữu của Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
Ngoài ra, cũng còn một khó khăn khác: Vườn Diệtsimani nằm ở Đông Giêrusalem vốn thuộc phe Ả Rập, bị Do Thái chiếm trong trận chiến Trung Đông năm 1967 và việc sáp nhập nó vào Do Thái vốn không được quốc tế nhìn nhận. Người Palestine vốn muốn dùng Đông Giêrusalem làm thủ đô cho quốc gia tương lai của họ, nên họ ít ưa một thỏa ước bất cứ nào đó ngầm nhìn nhận quyền kiểm soát của Do Thái.
Tuy thế, một nguồn tin chính trị cho hay: quyết định của Yisahai trong vụ này rất có thể bị nội các bác bỏ. Văn phòng của Thủ Tướng Netanyahu chưa lên tiếng gì về vụ việc này. Nhưng rất nhiều các viên chức Do Thái vẫn mô tả cuộc đến thăm của Đức Bênêđíctô XVI như một cơ may dẹp tan các căng thẳng giữa hai bên. Đàng khác, tình trạng xuống dốc về du lịch tiếp theo cuộc bùng dậy của Ả Rập năm 2000 cũng làm Do Thái hy vọng cuộc đến thăm này sẽ lôi cuốn nhiều du khách trong số hơn một tỉ người Công Giáo thế giới tới thăm đất nước họ và vực dậy kỹ nghệ du lịch kia.
Theo tin Zenit ngày 4 tháng Năm, Linh Mục Federico Lombardi, Dòng Tên, phát ngôn viên của Tòa Thánh, đã gọi cuộc hành hương sắp đến của Đức GH Bênêđíctô XVI tới Đất Thánh “nhất định là can đảm” vì vùng này đang kinh qua nhiều căng thẳng hơn bình thường sau cuộc tranh chấp đẫm máu hồi tháng Giêng tại Gaza. Trong cuộc họp báo vào ngày hôm nay, Cha Lombardi cho rằng cuộc tông du này là cuộc tông du phức tạp nhất trong 12 cuộc tông du quốc tế của Đức Bênêđíctô XVI từ trước đến nay.
Vị phát ngôn viên này lặp lại lời khẳng định được chính Đức Thánh Cha phát biểu vào ngày Chúa Nhật rằng cuộc hành hương này sẽ giúp ngài “củng cố và khuyến khích các Kitô hữu của Đất Thánh đang ngày đêm phải đương đầu với nhiều nỗi khó khăn”.
Theo cha Lombardi, tình hình chính trị của vùng này nay khá bấp bênh, vì cả Do Thái lẫn Hoa Kỳ đều mới vừa có tân chính phủ, sự chia rẽ giữa người Palestine khiến cho các cuộc bầu cử phải hoãn lại và các căng thẳng do Iran đang tạo ra.
Cha cho hay: “Trong một khung cảnh gồm nhiều tình thế đang biến động cũng như đang căng thẳng, cuộc tông du của Đức Giáo Hoàng xuất hiện như một nghĩa cử đầy hy vọng và tin tưởng, nhằm đóng góp phần nào cho hòa bình và hoà giải. Đối với tôi, rõ ràng nó là một nghĩa cử nhất định can đảm và là một chứng tá tươi đẹp cho cam kết đem lại hoà bình và hoà giải trong các tình thế khó khăn”.
Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng nhiều người cho rằng cuộc tranh chấp tại Gaza vào cuối năm 2008 đầu năm 2009 sẽ buộc Đức Bênêđíctô phải hủy bỏ chuyến tông du. Nhưng ngài bảo: Đức Thánh Cha vẫn muốn thực hiện chuyến tông du ấy như một vận động cho hòa bình. Ý nguyện của Đức Giáo Hoàng đã tạo nên ngữ cảnh cho lời kêu gọi vào hôm Chúa Nhật, bằng tiếng Anh, trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng (Regina Coeli) với quần chúng tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô: “Thứ Sáu này cha sẽ lên đường đi hành hương Đất Thánh, nơi nhiều người đầu tiên đã được nghe tiếng nói của Đấng Chăn Chiên Lành. Cha xin toàn thể anh chị em cùng cha cầu nguyện cho những người đau khổ của vùng đó. Một cách đặc biệt, cha xin anh chị em nhớ đến dân tộc Palestine, là những người từng chịu rất nhiều khốn khó và đau thương lớn lao. Xin Chúa chúc lành cho họ và tất cả những ai sống tại Đất Thánh được ơn phúc hợp nhất và bình an”.
Nhận định của tờ Irish Times
Ngày 4 tháng Năm vừa qua, tờ Irish Times có một bài của Mark Weiss nói về cuộc tông du Đất Thánh của Đức Giáo Hoàng, mà ông mô tả là để thăng tiến các liên hệ liên tôn vì các liên hệ đang căng thẳng giữa Vatican với người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo cần được cải thiện.
Bài báo này cho hay: sau trạm dừng chân đầu tiên ở Gio-đăng (từ Thứ Sáu), Đức Thánh Cha sẽ bay tới Do Thái vào ngày Thứ Hai và sẽ ở lại đó 5 ngày, đi thăm Giêrusalem, Nadarét, Bê-lem và West Bank. Cuộc tông du lần này cần thiết để khích lệ cộng đồng Kitô Giáo tại đây, một cộng đồng đang nhỏ dần chỉ còn chừng 170,000 người. Pierbattista Pizzaballa, vị đại diện Vatican trông coi các cơ sở thánh, cho hay: cuộc hành hương này nhằm nâng cao tinh thần cho cộng đồng thiểu số: “Cuộc thăm viếng này trước hết và đầu hết nhằm khích lệ các Kitô hữu tại Đất Thánh chịu ở lại”. Tình hình càng đặc biệt nghiêm trọng hơn tại West Bank, nơi mà đa số các thành viên có học và giầu có của cộng đồng Kitô Giáo đã bỏ ra đi, để cả Bêlem lại cho đa số Hồi Giáo đông đảo ở đấy.
Đức Giáo Hoàng quyết định không tới Gaza, nơi chỉ có khoảng 2,500 Kitô hữu sinh sống giữa khối 1.5 triệu người Hồi Giáo. Hai trăm người Công Giáo từ giải đất này sẽ đến Bêlem tham dự Thánh Lễ hôm Thứ Tư tới tại Công Trường Máng Cỏ, do Đức Giáo Hoàng cử hành.
Cuộc viếng thăm này cũng được kỹ nghệ du lịch Do Thái coi là cơ hội để rũ bỏ hình ảnh tiêu cực mà người ta vốn có về xứ sở họ tiếp theo sau cuộc chiến gần đây tại Gaza. Họ hy vọng hơn 15,000 khách hành hương sẽ tháp tùng Đức Giáo Hoàng trong chuyến đi này. Ngoài ra, giới chức Do Thái còn ước lượng sẽ có khoảng 200,000 du khách Kitô hữu khác tiếp tục tới Do Thái vào những ngày còn lại trong năm. Người ta cũng hy vọng khoảng 50,000 người thờ phượng sẽ tham dự Thánh Lễ sáng Thứ Năm trên Mount Precipice bên ngoài Nadarét, vốn là địa điểm trong Thánh Kinh nơi đám đông Do Thái giận dữ toan tính liệng Chúa Giêsu xuống vực thẳm.
Con số khách hành hương cùng đi với Đức GH Bênêđíctô ít hơn nhiều so với con số 47,000 người từng đến với Đức Gioan Phaolô II lúc ngài tới đó năm 2000. Sự lạc quan do cuộc hành hương thiên niên kỷ đem lại đã mau chóng tan biến với việc bùng nổ cuộc nổi dậy lần thứ hai sau đó mấy tháng của người Palestine.
Vị giáo hoàng thăm Đất Thánh đầu tiên là Đức Phaolô VI vào năm 1964, trước khi Vatican thừa nhận nhà nước Do Thái. Các liên hệ ngoại giao đầy đủ đã được thiết lập vào năm 1993, nhưng dị biệt vẫn tồn tại trong các vấn đề như quyền sở hữu tài sản của Giáo Hội tại Đất Thánh và giấy phép du hành cho hàng giáo sĩ Palestine tại West Bank.
Cuộc thăm viếng vào tuần tới xẩy ra sau hai biến cố gần đây vốn gây ‘cọ sát’ cho các liên hệ Công Giáo và Do Thái. Các nhóm Do Thái và Do Thái Giáo từng chỉ trích các động thái nhằm phong chân phước cho Đức GH Piô XII, bị một số người trong bọn họ cho là đã không làm đủ để cứu người Do Thái trong Thế Chiến Hai.
Đức GH Bênêđíctô sẽ đặt một vòng hoa tại viện bảo tàng Diệt Chủng Yad Vashem ở Giêrusalem, nhưng sẽ không vào bên trong, tránh không xem hình trưng bày có ghi chú rằng Đức Piô không chịu phản kháng chống lại việc Diệt Chủng của Quốc Xã và đã chỉ duy trì một thái độ trung lập.
Các liên hệ còn bị căng thẳng thêm do việc Vatican tha vạ tuyệt thông mới đây cho Giám Mục Richard Williamson, người Anh, từng bác bỏ không có việc 6 triệu người Do Thái bị thảm sát trong biến cố Diệt Chủng. Giáo Hội sau đó đã giải thích, cho rằng Đức GH không biết gì tới quan điểm của Giám Mục Williamson khi tha vạ tuyệt thông cho vị này, và Toà Thánh đã bác bỏ lời xin lỗi của ông ta.
Oded Ben-Hur, người từng là đại sứ Do Thái tại Vatican giữa các năm 2004 và 2008, nói với tờ Irish Times rằng các liên hệ song phương nay đã đủ mạnh để có thể đương đầu với những bất đồng kiểu vụ tranh cãi về việc phong chân phước và vụ tha vạ tuyệt thông cho Williamson. Ông Ben-Hur cũng tiên đoán rằng các liên hệ giữa Do Thái và Vatican sẽ được lên cấp trong tương lai gần, mà cuộc tông du lần này của Đức GH sẽ là một đóng góp lớn. Ông đặt câu hỏi: “Còn gì tốt đẹp hơn cuộc thăm viếng của vị đứng đầu Giáo Hội tới Đất Thánh để củng cố các liên hệ song phương?”
Tuần trước, tổ chức “Huynh Đệ Hồi Giáo” tại Gio-đăng yêu cầu Đức GH xin lỗi về các nhận định của ngài vào tháng Chín 2006 về Tiên Tri Muhammad, những nhận định bị nhiều người Hồi Giáo coi là nhục mạ. Đức GH từng tuyên bố rằng ngài “hối tiếc sâu xa” trước phản ứng đối với bài diễn văn của ngài trong đó, ngài trích dẫn một bản văn trung cổ coi một số giáo huấn của Muhammad như là “xấu xa và bất nhân”. Dựa vào khả thể các nhóm Hồi Giáo cực đoan có thể tấn công, Sở An Ninh Do Thái (tên cũ là Shin Bet) phải lên tiếng khuyến cáo Đức GH không nên du hành bằng giáo hoàng xa khi tới Nadarét, vì sợ chiếc xe không tránh được cuộc tấn công của khủng bố.
Chú tâm tới hợp tác
Sam Greenberg ngày 4 tháng Năm thì thuật lại cuộc họp báo của Đức Cha Antonio Franco, sứ thần Tòa Thánh tại Do Thái, nói về cuộc tông du. Theo Greenberg, Đức GH Bênêđíctô sẽ cố gắng tránh các vấn đề gây tranh luận và chỉ chú tâm tới việc hợp tác liên tôn. Trong cuộc họp báo vào hôm Thứ Hai do Mishkenot Sha’ananim Israel Newsmaker Forum và Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại Israel tổ chức, Đức Cha Franco nói rằng: “Mục tiêu của Đức Thánh Cha là tới để cầu nguyện; cầu nguyện cho hòa bình, cầu nguyện cho hợp nhất”. Đức Cha cũng cho hay: cuộc hành hương của Đức GH tới Do Thái, bắt đầu vào ngày 11 tháng Năm, sẽ không nhắc chi tới những tranh chấp như việc tái lập lại lời cầu xin cho người Do Thái Giáo trở lại, vai trò của Giáo Hội trong Thế Chiến Hai, hay mối liên hệ của Giáo Hội với Giám Mục Richard Williamson, người bác bỏ Nạn Diệt Chủng. “Tất cả các vấn đề ấy đã được chôn vùi và giải quyết rồi. Đức Giáo Hoàng không tới đây để thảo luận các vấn đề, để nói hay để cãi cọ”.
Thay vào đó, ngài sẽ chú tâm tới các liên hệ liên tín ngưỡng, tham dự cuộc gặp gỡ lần đầu với các nhóm và các nhà hoạt động cho đối thoại liên tôn. Đức Cha Franco cho hay: “Đó là các công trình luôn cần được khuyến khích, hỗ trợ và trân qúy bằng đủ mọi cách, vì chúng thực sự cực kỳ quan trọng”.
Giống nhiều cuộc tông du trước đây, Đức GH sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như thủ tướng Binyamin Netanyahu, tổng thống Shimon Peres và chủ tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas. Song song với những gặp gỡ ấy, Đức GH sẽ chủ trì ba Thánh Lễ ngoài trời: một ở Giêrusalem, hai thánh lễ kia tại Bêlem và Nadarét. Đức Cha Franco nói thêm: “Ngài tới đây như một khách hành hương, nên điều ấy nhắc ta nhớ tới toàn bộ ý nghĩa đặc thù và độc đáo cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa của Đất Thánh”.
Tuy đây là cuộc thăm viếng có tính mục vụ, chứ không có tính chính trị, nhưng Đức GH cũng quan tâm và cố gắng góp phần giải quyết cuộc tranh chấp giữa Palestine và Do Thái và cải thiện thân phận các người Công Giáo đang sống tại Do Thái và các lãnh thổ trong vùng. Và mặc dù sứ điệp chính trong bài diễn văn của Đức GH chưa được tiết lộ, song Đức Cha Franco ‘đoán’ rằng có lẽ nó sẽ đề cập tới thực tại của chúng ta tại Đất Thánh, tới các khó khăn, các niềm hy vọng, các nỗi thất vọng của chúng ta, và cố gắng đem lại một sứ điệp hy vọng.
Nhận định từ Nam Hàn
Yehonathan Tommer, trên tờ điện tử OhMyNews của Nam Hàn ngày 5 tháng Năm, thì cho rằng cuộc tông du của Đức Bênêđíctô sẽ tán dương khát vọng hòa bình và thanh bình tại Đất Thánh. Theo Tommer, cuộc tông du này khiến nhiều người hy vọng rằng biết đâu các nhà lãnh đạo tôn giáo lại không thành công ở ngay chỗ các đồng nghiệp thế tục của họ liên tiếp thất bại.
Thực vậy, cuộc tranh chấp Do Thái và Palestine không phải là một cuộc tranh luận thần học giữa Hồi Giáo và Do Thái Giáo trên mảnh đất rắc rối nơi các Kitô hữu và Kitô Giáo nói chung bị coi là những tay chơi bên lề. Ấy thế nhưng nó thường mang sắc thái bóng gió khi các giải pháp thực tiễn nhằm giảng hòa các khát vọng quốc gia trái ngược nhau bất đồng với các cấm kỵ thần thánh và lịch sử thường được các lãnh tụ Palestine và Do Thái trưng dẫn khác nhau để biện minh cho các mục tiêu không thỏa hiệp được của họ.
Các hy vọng và mong chờ nơi cuộc hành hương này đã được đồng thanh nói ra bởi một nhóm tư tưởng gia Do Thái, Hồi Giáo và Kitô Giáo tại một cuộc hội học vào tuần trước do Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại Do Thái (ICCI) tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Thánh Mẫu ở Giêrusalem.
Đối thoại liên tín ngưỡng phải tiếp tục
Các nhà tư tưởng trên nhất trí về nhu cầu phải tiếp tục cuộc đối thoại liên tín ngưỡng và xây dựng các nền tảng quần chúng cho sự hiểu biết và hợp tác văn hóa giữa các nhóm sắc tộc và tôn giáo của xứ sở. Nhưng họ không nhất trí trong hoài mong của họ là làm sao cuộc hành hương kéo dài năm ngày của Đức GH tại Đất Thánh, những lời cầu nguyện và những cuộc gặp gỡ của ngài với các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo ở Gio-đăng, ở Do Thái và ở các lãnh thổ Palestine có thể khởi diễn được ‘các ý tưởng sáng tạo’ lạ lùng vốn vuột khỏi tầm với của các chính khách thế tục trong cố gắng giải quyết cuộc tranh chấp Do Thái và Palestine của họ.
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ là vị giáo hoàng thứ ba trong suốt lịch sử Đất Thánh tới đây hành hương. Đức Cha Antonio Franco, Sứ Thần Tòa Thánh tại Do Thái nói rằng: “Ngài chủ yếu tới đây như một khách hành hương để cầu nguyện cho hoà bình và hợp nhất, vào thời điểm chúng ta đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và phải đưa ra giải pháp cho các vấn đề của chúng ta. Chúng ta phải chờ mong cái ngày chúng ta có thể sống hòa bình và an ổn tại khu vực này, mà không sợ nhu cầu phải bảo vệ và phòng vệ chính mình”.
Đức Cha Franco đề cập tới sứ điệp hợp nhất mà Đức GH sẽ đem đến: “hợp nhất giữa người Kitô Hữu với nhau và giữa người Kitô Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo trong một tinh thần chấp nhận và hợp tác trong tư cách thành viên của đại gia đình nhân loại để mọi người cảm nhận được là mình đang ở trong quê hương mình”. Ngài cũng cho biết: cuộc viếng thăm này được Do Thái tổ chức rất cẩn trọng, hoàn toàn thỏa mãn các ước vọng và ý thích của Vatican. Đối với ngài, nó sẽ “tăng cường các cố gắng hằng ngày nhằm hiểu biết và hợp tác tốt hơn giữa các dân tộc trong vùng và tạo ra được các điều kiện thuận lợi cho hòa bình trong đó các tranh chấp khác có thể được giải quyết”.
Chương trình hành hương
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ tới Do Thái vào ngày 11 tháng Năm và đáp trực thăng từ phi trường quốc tế Ben Gurion để tới Giêrusalem, nơi ngài sẽ được chào đón bởi Thị Trưởng Giêrusalem, Ông Nir Barkat. Ngài sẽ tới thăm Tổng Thống Do Thái Shimon Peres tại Dinh Tổng Thống, sau đó tới tham dự nghi thức đặt vòng hoa tại Yad-Va-Shem để tưởng niệm các nạn nhân của Nạn Diệt Chủng.
Trong bốn ngày kế tiếp, Đức GH sẽ nói truyện với hàng ngàn khách hành hương tham dự các Thánh Lễ đại trào tại Giêrusalem; tại Bêlem, nơi ngài cũng sẽ gặp Chủ Tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas; và tại Nadarét, trên Đồi Vực Thẳm (Mount of the Precipice), nơi ngài sẽ gặp Thủ Tướng Do Thái là Benjamin Netanyahu. Ngài sẽ gặp Giáo trưởng Hồi Giáo của Giêrusalem ở Đền Haram e Sharif, Đại Giáo Trưởng toàn Do Thái và các nhà lãnh đạo địa phương thuộc các hệ phái La Tinh, Hy lạp, Chính Thống và nhiều hệ phái Kitô Giáo khác. Ngài cũng sẽ thăm Bức Tường Phía Tây và Nhà Thờ Mộ Thánh và tham dự một buổi gặp gỡ liên tín ngưỡng tại Khách Sạn Đức Bà đối diện với Tường Cổ Thành của Giêrusalem trước khi trở lại Rôma vào ngày 15 tháng Năm.
Từ ban công nhìn xuống Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, trong buổi chúc lành truyền thống vào ngày Chúa Nhật vừa qua, Đức GH nói rằng: “Do Thái là mảnh đất Chúa chúng ta sinh ra, chịu chết và sống lại, một nơi thánh đối với ba tôn giáo độc thần, từng chịu đựng bạo lực và bất công suốt 60 năm qua. Điều ấy đã và đang tạo ra một bầu khí thiếu vắng đức tin, bấp bênh và sợ hãi dẫn tới tranh chấp giữa lân bang hàng xóm với nhau và giữa anh em với nhau”. Đức Thánh Cha khuyên nhủ các Kitô hữu khắp thế giới “cùng cầu nguyện với ngài cho hạnh phúc của mọi cư dân tại Đất Thánh và toàn vùng để họ được hồng ân hoà giải và hòa bình”.
Thăm viếng mục vụ để củng cố các cộng đồng Kitô hữu
Đức Thượng Phụ Latinh, Fouad Twal, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, được đăng tải trên một trang mạng ở Giêrusalem vào tháng rồi, phát biểu như sau: Cuộc hành hương của Đức GH sẽ là “một cuộc thăm viếng mục vụ hết sức quân bình với một tầm nhìn hoàn cầu, đề cập tới các thực tại chính trị, xã hội, nhân bản và tôn giáo của một dân tộc rất nhạy cảm trong một vùng đất đầy khó khăn, những thực tại vốn phát sinh từ sau cuộc chiến tại Gaza”.
Mặc dù cuộc tông du này có chiều kích chính trị và theo Đức Thượng Phụ Twal, “Vatican càng xích gần lại Do Thái, thì càng có khả năng vận dụng được tình thân hữu của mình mà phục vụ tốt hơn cho hoà bình và công lý, cũng như can thiệp cho lợi ích của mọi người Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Kitô Giáo tại Đất Thánh”. Tuy nhiên, quan tâm hàng đầu của Đức Giáo Hoàng là khích lệ và củng cố các cộng đồng Kitô hữu địa phương chịu ở lại, dù hiện nay, họ đang gặp nhiều đau thương, nhất là các cộng đồng tại Đông Giêrusalem, tại Bêlem và tại các lãnh thổ Palestine, nơi con số các Kitô hữu mỗi ngày mỗi giảm đi trông thấy do nhiều thực tại khó khăn tại chỗ. (Tại Do Thái, con số những người này hiện gia tăng từ 34,000 tới 180,000 theo con số thống kê chính thức, do lượng di dân tràn vào từ Liên Xô cũ và sự có mặt của khá nhiều công nhân khách Kitô hữu).
Tại Gio-đăng, Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ nhấn mạnh tới ý nguyện của ngài muốn cổ vũ thiện chí giữa Giáo Hội và thế giới Hồi Giáo, và tại Do Thái, ngài sẽ nhấn mạnh tới các liên hệ tốt đẹp giữa Giáo Hội và Dân Tộc Do Thái, và tới việc mưu tìm hòa bình giữa Do Thái, Palestine và các chính phủ Ả Rập lân cận.
Giáo sĩ David Rosen, Chủ Tịch Ủy Ban Do Thái Quốc Tế về Tham Khảo Liên Tôn, người từng gặp Đức GH nhiều lần, nhận định rằng: là một nhà trí thức ấm áp nhưng chủ yếu hướng nội, ngài vẫn sẽ quyết tâm tiếp tục công trình đã được vị tiền nhiệm có sức lôi cuốn quần chúng là Đức GH Gioan Phaolô II khởi xướng.
Đức Bênêđíctô XVI không có nhiều kinh nghiệm ngoại giao và biết khá ít về nghệ thuật truyền thông hiện đại, nhưng những điều ấy sẽ thay đổi. Trong khi ấy, chúng giải thích được phần nào cách xử lý các vấn đề tế nhị gần đây chung quanh tấm hình có ghi chú về Đức Piô XII tại Yad Va Shem, việc Do Thái yêu cầu Vatican cho mở văn khố mật cũng như việc tha vạ tuyệt thông cho giám mục Williamson. Các vấn đề này vốn gây bất mãn cho thế giới Do Thái, nhưng theo giáo sĩ Rosen, đã được giải quyết êm thắm trong các ngày qua, và hiện còn có thể góp phần tích cực vào việc tái tập trung các cố gắng liên tục nhằm cải thiện các mối liên hệ giữa Vatican và Do Thái.
Nối tay hoàn cầu, hòa giải khu vực
Trong một bản tuyên bố gần đây, Linh Mục Federico Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh, viết rằng: cuộc hành hương tới Trung Đông của Đức GH đưa ngài vào một hành trình sẽ “thách đố và kích thích một trong các ước nguyện lớn nhất kể từ khi ngài đảm nhiệm chức vụ. Chúng ta biết tình hình chính trị tại vùng này hoàn toàn bất định ra sao và viễn ảnh hòa bình mỏng manh như thế nào. Nhưng Đức GH vẫn sẽ tới đó một cách can đảm, duy với đức tin, để nói về hòa bình”.
Linh mục William Shomali, Giám đốc chủng việc Latinh ở Beit Jalla gần Bêlem, thì cho hay: cuộc thăm viếng Đất Thánh của Đức GH phải làm sao đem các bên tới chỗ “từ bỏ não trạng nạn nhân của mình mà biết thừa nhận các đau khổ của ‘người khác’, bất kể đó là Do Thái, Palestine hay Armenia, và tới chỗ biết xin tha thứ bằng cách nhìn nhận phần xấu xa tội lỗi của mình… Hòa giải phá bỏ mọi bức tường, ngay cả những bức tường vô hình nhất như sợ sệt, kỳ thị, hận thù và trả đũa”. Ngài cũng cần đem đến lời khích lệ đối với các cư dân Kitô giáo gốc Palestine hiện đang giảm số rất nhanh, để họ tiếp tục làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Munib Younan, hiện đứng đầu Giáo Hội Tin Lành Luthêrô ở Gio-đăng và Đất Thánh, nhận định rằng: Muốn duy trì được ơn gọi tông đồ của mình, Giáo Hội phải lên tiếng về hàng loạt các vấn đề nhân quyền chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và kỳ thị Hồi Giáo, ủng hộ tự do tôn giáo bằng cách tôn trọng các truyền thống và quyền lợi của các hệ phái khác của Giáo Hội và lên án các vi phạm của người Do Thái đối với quyền của người Palestine được đoàn tụ gia đình.
Giám mục Younan cũng cho rằng: trong tư cách đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, được sự tín nhiệm hoàn cầu, Đức GH có nhiều trách nhiệm chính trị. “Tôi hy vọng rằng cũng giống như bất cứ vị nguyên thủ quốc gia nào, ngài sẽ nói lên một quan điểm về các thống khổ của người Palestine và của người Do Thái và tái khẳng định giải pháp một nhà nước hai dân tộc (two-nation state solution) trong đó Giêrusalem là thủ đô chung của cả hai dân tộc và là mô thức cho việc sống chung hoà bình và tôn giáo, cho công lý và hoà giải”.
Thế giới Kitô Giáo không phải là khách bàng quan thụ động trong cuộc tranh chấp trên. Quyết tâm của thế giới ấy sẽ ảnh hưởng sâu xa tới tương lai và quyền sở hữu các tài sản của Giáo Hội và quyền tự do lui tới các Địa Điểm Thánh của Kitô Giáo.
Giáo sư Muhammed Dejani, sống ở Đông Giêrusalem, và là sáng lập viên của Wasatia, một phong trào Hồi Giáo Palestine vừa mới khai sinh, nhằm cổ vũ một xã hội dân sự trung dung, lấy hứng từ các giáo huấn của Kinh Kôrăng, thì nói tới một tình thể nước đôi đáng buồn. Ông hy vọng rằng cuộc đến thăm của Đức GH sẽ kích thích “một bầu khí đối thoại liên tín ngưỡng”, nhưng ông không đặt nhiều kỳ vọng lớn lao. “Người Palestine từng bị thất vọng nhiều và diễn trình hòa bình trật đường rầy từng cho phép các tên cực đoan ở cả hai phía gióng được tiếng nói”. Tuy thế, việc Đức GH đến thăm là một bước can đảm và ông hy vọng nó sẽ khởi xướng được “một diễn trình hàn gắn” giữa người Palestine và người Do Thái. Dejani còn cho rằng: Đức GH là “một người có lòng nhân ái. Ngài mang tới một sứ điệp phổ quát về hòa bình, về yêu thương, nhân từ và khoan dung”.
Deborah Weissman, Giáo Sư môn Do Thái tại Đại Học Hybálai và là Đồng Chủ Tịch của ICCI, nhìn nhận rằng Đức GH Bênêđíctô XVI là “con người thực sự nồng ấm” sau khi bà được gặp ngài tại Vatican mấy tháng trước đây. Bà hy vọng rằng cuộc đến thăm của ngài sẽ làm nhanh hơn ‘công việc còn bỏ dở” giữa người Do Thái Giáo và người Kitô Giáo. “Ngài là người tận tâm với đối thoại nhưng hơi nước đôi đối với các vấn đề thần học chính yếu liên quan tới Giao Ước giữa người Do Thái và Thiên Chúa, liên quan tới việc lên khung tiên kiến người Do Thái và việc liệu có thể có cứu rỗi đối với tín hữu của các tôn giáo khác hay không”. Weissman hy vọng rằng sẽ không còn “những bước thụt lùi hơn nữa”.
Vatican kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo
Trong khi đó, Jack Khoury cho hay: Ông Peres vừa lên tiếng kêu gọi để Vatican được quyền kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo tại Đất Thánh, một lời kêu gọi rõ ràng đi ngược lại quan điểm của Bộ Trưởng Nội Vụ Eli Yishai.
Xưa nay, Vatican vẫn yêu cầu Do Thái chuyển giao chủ quyền các thánh điểm chủ chốt tại Đất Thánh cho Tòa Thánh và lời yêu cầu này vốn gây bất đồng nơi các viên chức cao cấp tại Giêrusalem. Bộ Nội Vụ cương quyết duy trì quyền kiểm soát các thánh điểm này, gọi việc từ bỏ quyền ấy là “hy sinh” chủ quyền Do Thái. Roi Rachmanovitch, phát ngôn viên của ông Yishai, cho hay: “Vấn đề này thuộc thẩm quyền của ông bộ trưởng, và ông bộ trưởng chưa sẵn sàng hy sinh chủ quyền của Do Thái, dù chỉ có tính tượng trưng”.
Ông Peres đang áp lực để chính phủ chịu chấp nhận yêu sách của Vatican trong việc từ bỏ quyền kiểm soát đối với sáu địa điểm tôn giáo, trong đó có Nhà Thờ Truyền Tin ở Nadarét; Nhà Thờ Tiệc Ly (Coenaculum) trên Đồi Zion ở Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu dùng bữa sau hết với các tông đồ; Vười Diệsimani, nằm dưới chân Đồi Cây Dầu ở Giêrusalem; Núi Tabor; và Nhà Thờ Hóa Bánh Ra Nhiều dọc theo bãi biển Kinneret. Theo Đài Phát Thanh Quân Đội, Ông Peres đang vận động để ông Yishai chịu nhượng những thánh điểm ấy cho Giáo Hội Công Giáo, nhưng chưa được mọi viên chức nhất trí. Bộ trưởng Du Lịch là Stas Misezhnikov cho Đài Quân Đội hay: “Nếu chắc chắn việc trao tặng lớn lao này cho thế giới Kitô Giáo sẽ đem hàng triệu khách hành hương Kitô Giáo tới đây, thì chúng tôi có lý do tốt để nghĩ tới việc thoả thuận đó. Nhưng vì chưa chắc chắn về điều đó, thì tại sao ta lại đi trao tặng?”
Sự bất đồng giữa Giêrusalem và Tòa Thánh này có nguy cơ gây căng thẳng cho cuộc viếng thăm của Đức Bênêđictô vào tuần tới. Các viên chức Vatican cho hay họ sẽ lặp lại yêu cầu trên trong cuộc viếng thăm sắp tới, để ít nhất đòi được Nhà Thờ Tiệc Ly ở Giêrusalem.
Tin của Reuter
Hãng tin Reuter ngày 4 tháng Năm thì đưa một tin tích cực hơn: vì chính phủ Do Thái muốn dành một vinh dự cho Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp ngài đến thăm đất nước họ, nên một ủy ban liên bộ của Do Thái đã soạn thảo một văn kiện nhằm đặt các thánh điểm nói trên ra ngoài phạm vi trưng thu của nhà nước.
Một viên chức thành thạo với ủy ban này cho hay: “Điều ấy quả là thích đáng vì chúng tôi muốn Đức GH có khả năng khánh thành một thỏa thuận khi ngài tới đây. Thế giới Công Giáo từng coi vấn đề nổi bật này như dấu chỉ thiếu niềm tin về phía chúng ta”.
Tuy nhiên, dự thảo trên bị Bộ Trưởng Nội Vụ Eli Yishai bác bỏ, không chịu ký tên. Ông ta vốn đứng đầu đảng cực chính thống Do Thái Giáo trong chính phủ liên hiệp cực hữu của Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
Ngoài ra, cũng còn một khó khăn khác: Vườn Diệtsimani nằm ở Đông Giêrusalem vốn thuộc phe Ả Rập, bị Do Thái chiếm trong trận chiến Trung Đông năm 1967 và việc sáp nhập nó vào Do Thái vốn không được quốc tế nhìn nhận. Người Palestine vốn muốn dùng Đông Giêrusalem làm thủ đô cho quốc gia tương lai của họ, nên họ ít ưa một thỏa ước bất cứ nào đó ngầm nhìn nhận quyền kiểm soát của Do Thái.
Tuy thế, một nguồn tin chính trị cho hay: quyết định của Yisahai trong vụ này rất có thể bị nội các bác bỏ. Văn phòng của Thủ Tướng Netanyahu chưa lên tiếng gì về vụ việc này. Nhưng rất nhiều các viên chức Do Thái vẫn mô tả cuộc đến thăm của Đức Bênêđíctô XVI như một cơ may dẹp tan các căng thẳng giữa hai bên. Đàng khác, tình trạng xuống dốc về du lịch tiếp theo cuộc bùng dậy của Ả Rập năm 2000 cũng làm Do Thái hy vọng cuộc đến thăm này sẽ lôi cuốn nhiều du khách trong số hơn một tỉ người Công Giáo thế giới tới thăm đất nước họ và vực dậy kỹ nghệ du lịch kia.
Phim “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” chơi trò hai mặt: hư cấu và thực tại
Phụng Nghi
05:58 06/05/2009
Phim “Angels & Demons” đã ra mắt tại Roma tối hôm thứ hai và sẽ công chiếu ở Hoa kỳ từ ngày 15 tháng 5 sắp tới. Phim do diễn viên Tom Hanks đóng, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Dan Bown, do Ron Howard làm đạo diễn. Howard cũng từng đạo diễn phim “The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci)” dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Dan Brown.
Vào khoảng ba năm trước đây, trước khi khởi chiếu, phim “The Da Vinci Code” đã bị nhiều vị lãnh đạo giáo hội Công giáo cực lực lên án vì nội dung xuyên tạc và phỉ báng Chúa Giêsu và Giáo h65i Công giáo. Nhiều cuốn sách và bài báo được công bố, cũng như một chiến dịch giải hoặc được phát động vào thời gian đó, để lột trần những sai trái trong sách của Dan Brown, nhưng đã vô tình đã làm quảng cáo không công cho cuốn phim. Doanh thu của phim lên tới hơn 750 triệu mỹ kim, khiến cho đạo diễn Ron Howard thừa thắng xông lên quay cuốn phim tiếp theo: “Angels & Demons”. Rút tỉa kinh nghiệm lần trước và không muốn làm quảng cáo không công cho cuốn phim này, nên các vị lãnh đạo trong giáo hội gần như im lặng, không lên tiếng đả kích, ngoại trừ một vài trường hợp lẻ tẻ, như Đức giám mục Malcolm McMahon ở Nottingham (Anh quốc) mới lên tiếng hôm nay:
“Đây là chuyện kỳ dị quá quắt, hoàn toàn rác rưởi. Thật là điều tai hại khi khuấy động một thứ tình cảm chống báng Công giáo như vậy. Đánh đấm Giáo hội như thế là chuyện vu vơ và tôi chẳng thấy có lý do nào để làm vậy.”
Các vị hữu trách Công giáo tại Ý cũng đã không cho phép quay phim này trong các nhà thờ giáo phận.
Nhưng giữa nhà đạo diễn Ron Howard và ông Bill Donohue, chủ tịch Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ, đã có những lời qua tiếng lại về cuốn phim này, tin đó được hãng thông tấn CNA tường trình và chúng tôi xin loan tải dưới đây. Ông Bill Donohue đã viết cả một cuốn sách nhỏ để vạch trần thủ đoạn chống báng Giáo hội của cuốn sách và cuốn phim.
Nhưng trước khi loan bản tin của thông tấn xã CNA, chúng tôi xin lược thuật cốt truyện “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” của Dan Brown.
Lược truyện (theo Wikepidia)
Tình tiết câu truyện đi theo bước chân của nhà biểu tượng học Robert Langdon thuộc trường đại học Havard khi ông cố ngăn chận không để cho hội kín Illuminati dùng sức mạnh của phản vật chất (antimatter) mới được phát minh để phá hủy Thành phố Vatican.
Maximilian Kohler, giám đốc cơ quan CERN (Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu), khám phá thấy một trong số những nhà vật lý đáng kính nhất của cơ quan này tên là Leonardo Vetra bị ám sát chết ngay tại cư xá riêng và an toàn trong cơ quan. Ngực ông ta có in vết sắt nung cái hình biểu tượng của Illuminati, hai mắt lòi ra khỏi tròng. Thay vì gọi cảnh sát, Kohler sưu tầm đề tài trên Internet và cuối cùng liên lạc được với Langdon, một chuyên viên nghiên cứu về Illuminati. Kohler yêu cầu Langdon giúp khám phá ra hung thủ vụ ám sát.
Điều Langdon thấy tại hiện trường làm ông kinh ngạc: biểu tượng in trên xác chết là biểu tượng thật, và hội kín Illuminati chỉ có trong truyền thuyết, từ lâu được coi là đã bị mai một, nay hình như mới trỗi dậy. Kohler gọi người con gái nuôi của nạn nhân tên là Vittoria đến hiện trường, và sau đó phát giác ra hội kín Illuminati cũng đã lấy cắp đi chiếc hộp nhỏ chứa một phần tư gram phản vật chất – một chất liệu cực kỳ nguy hiểm có khả năng tàn phá tương đương với một loại vũ khí hạt nhân nhỏ, phóng ra lực phá khi chạm đến bất cứ một hình thái vật chất thông thường nào. Khi được nạp điện tại cơ sở CERN, từ trường của chiếc hộp nhỏ kiểm soát giọt phản vật chất, để cho nó bay lơ lửng trong chân không, bảo đảm được an toàn; nhưng khi bị rút ra khỏi nguồn điện lực cung ứng, thì nó chuyển qua sử dụng pin dự phòng, và pin này chỉ lâu được 24 tiếng đồng hồ. Chuyện kinh khủng là hội kín Illuminati đã đặt chiếc bình nhỏ lấy cắp được ấy ở đâu đó trong nội vi Thành phố Vatican, để một máy ảnh rà soát an ninh phía trước trong khi đồng hồ của máy này đếm giờ phát nổ.
Langdon và Vittoria cùng tiến vào Thành phố Vatican. Nơi đây Đức giáo hoàng vừa mới qua đời, và Mật nghị bầu giáo hoàng mới đã được triệu tập. Hồng y Mortati, chủ tọa cuộc bầu cử, khám phá thấy 4 Preferiti (là những hồng y được coi là ứng viên sáng giá nhất có thể được bầu làm tân giáo hoàng) bị mất tích. Khi tới nơi, Langdon và Vittoria bắt đầu lùng sục đi tìm kiếm 4 vị này, hy vọng sẽ tìm lại được chiếc hộp nhỏ chứa phản vật chất. Cuộc lùng kiếm được sự trợ lực của Hồng y thị thần Carlo Ventresca (là phụ tá thân cận nhất của cố giáo hoàng) và đội Vệ binh Thụy sĩ của Tòa thánh Vatican, gồm Chỉ huy trưởng Olivetti, Đại uý Rocher and Trung uý Chartrand.
Tin chắc rằng hội kín Illuminati có phần nào trách nhiệm trong vụ 4 Preferiti bị mất tích, Langdon cố gắng vạch lại những bước đi của cái gọi là “Con đường Khai sáng (Path of Illumination )”, một thủ tục xưa cũ và phức tạp đã được hội kín Illuminati dùng làm phương tiện kết nạp thành viên mới; người dự tuyển muốn gia nhập tổ chức này phải lần theo một loạt những đầu mối tinh vi đặt trong các dấu mốc khác nhau ở nội vi và chung quanh Roma. Nếu theo đúng các đầu mối này, ứng viên đó sẽ tìm được địa điểm họp kín của Illuminati và sẽ được thu nhận làm hội viên. Dùng khả năng hiểu biết rộng rãi về lịch sử tôn giáo và hội kín, Langdon đi theo Con đường Khai sáng, hy vọng khám phá ra các đầu mối dẫn đến vụ mất tích của 4 Preferiti cũng như nơi giấu chiếc hộp chứa phản vật chất.
Con đường Khai sáng dẫn Langdon tới 4 địa điểm chính ở Roma (Thành phố Vatican nằm trong nội vi đô thị Roma), liên hệ với 4 yếu tố nguyên thủy mà hội kín Illuminati tin là nguồn gốc của mọi vật thể hiện hữu: Thổ (Đất), Khí, Hỏa (Lửa) và Thuỷ (Nước). Khi đến mỗi địa điểm, Langdon tìm thấy một trong các vị Preferiti bị ám sát theo hình thức phù hợp với yếu tố tương ứng của địa điểm: Hồng y thứ nhất được chôn vùi, cổ họng tọng đầy đất sét (Thổ), phổi vị thứ hai bị đâm lủng (Khí), vị thứ ba bị nhận chìm trong biển lửa và bị thiêu sống (Hỏa), còn vị thứ tư bị chết đuối trong một giếng nước lớn (Thủy).
Sau khi tìm thấy thi thể của hai vị Preferiti đầu tiên (Thổ và Khí), Langdon hối hả chạy tới Vương cung thánh đường Santa Maria della Vittoria, thấy tên bắt cóc vị hồng y thứ ba đang đốt ngài trong lửa đỏ. Tên bắt cóc, cũng là thủ phạm giết chết Leonardo Vetra và đánh cắp hộp đựng phản vật chất, chính là Sát thủ, hành động theo lệnh của người chủ chốt hội Illuminati dưới cái tên “Janus”, nhưng danh tính thật sự của “Janus” chưa được biết. Trong cuộc đụng độ này với Sát thủ, Chỉ huy trưởng Olivetti bị giết và Langdon gần chết hụt, còn cô Vittoria thì bị hắn bắt cóc. Langdon cố thoát hiểm và đụng đầu với Sát thủ lần nữa tại điểm mốc của yếu tố sau cùng (Thủy), nhưng không thể cứu được vị hồng y thứ tư.
Tuy vậy, Langdon cố hoàn tất Con đường Khai sáng mong tìm được Kẻ Sát thủ và giải cứu cô Vittoria. Cuộc tìm kiếm dẫn tới một kiến trúc giống như một lâu đài bỏ hoang phế, có đường hầm dẫn thằng tới các phòng ốc của Giáo hoàng trong điện Vatican. Langdon giải thoát được Vittoria, rồi hai người cùng nhau đẩy kẻ Sát thủ từ trên cao hàng mấy trăm thước rớt xuống đất chết. Cả hai vội vã quay về Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, ở đây họ thấy Kohler đã tới và đụng đầu với hồng y thị thần nơi phòng riêng. Langdon và Vittoria sợ rằng Kohler chính là tên “Janus”, y tới để giết vị hồng y thị thần là giai đoạn cuối cùng trong âm mưu chống phá Giáo hội của y. Nghe tiếng la thất thanh của hồng y thị thần như trong cơn hấp hối, các Vệ binh Thụy sĩ nhẩy sổ vào căn phòng, nổ súng vào Kohler. Ngay trước khi tắt thở, Kohler đưa cho Langdon một cuộn băng video, cho biết mọi chuyện đều được giải thích trong đó.
Với giờ khắc phát nổ của chiếc hộp chứa phản vật chất chẳng còn bao nhiêu, viên Vệ binh Thụy sĩ bắt đầu di tản người ra khỏi Vương cung Thánh đường. Khi người vệ binh này ra khỏi nhà thờ, thì hồng y thị thần, rõ rệt là trong trạng thái hôn mê xuất thần, vội vã chạy trở ngược vào Vương cung Thánh đường, nói rằng ông được Chúa khải thị cho biết địa điểm của chiếc hộp chứa phản vật chất. Đuổi theo sau là Langdon và một số ít người khác, hồng y thị thần liều lĩnh đi sâu xuống hầm mộ bên dưới Vương cung Thánh đường, tìm được chiếc hộp ngay trên ngôi mộ Thánh Phêrô. Langdon và hồng y thị thần thu hồi được phản vật chất rồi chui vào được một chiếc trực thăng, và chỉ còn được 5 phút nữa để thoát hiểm. Hồng y thị thần dùng dù nhảy ra khỏi trực thăng an toàn và hạ chân trên nóc nhà thờ Thánh Phêrô, vừa đúng lúc chiếc hộp nổ tung trên bầu trời, không gây ra nguy hại nào. Số phận của Langdon chưa được biết ngay lúc đó vì trên trực thăng không có chiếc dù thứ hai.
Đám đông tại Quảng trường Thánh Phêrô thảng thốt nhìn Hồng y thị thần đắc thắng đứng trước mặt họ. Vì “phép lạ” này, các vị trong mật nghị bầu cử tranh cãi xem có nên làm một ngoại lệ để chọn Hồng y thị thần làm tân giáo hoàng hay không. Còn Langdon thoát chết vụ nổ là nhờ dùng chiếc cửa máy bay trực thăng làm như một chiếc dù và hạ xuống được sông Tiber, gần Đảo Tiber, thời danh vì tiếng tăm là một hòn đảo được chúc phước với nhiều phép lạ chữa lành bệnh tật. Ông bị thương, nhưng không nặng.
Langdon trở lại nhà thờ Thánh Phêrô và xem cuộn băng video của Kohler cùng với Hồng y đoàn. Langdon, Vittoria và các hồng y đụng đầu với Hồng y nhiếp chánh trong nhà nguyện Sistine, nơi đây mọi uẩn khúc đều được giãi tỏ. Ngay trước những biến cố thuật trong cuốn tiểu thuyết này, vị Giáo hoàng dự kiến gặp mặt Leonardo Vetra liên quan đến cuộc nghiên cứu của ông này tại CERN. Leonardo Vetra là một người Công giáo sùng đạo, tin tưởng rằng khoa học có khả năng thiết lập một sự nối kết giữa Con người và Thiên Chúa, một niềm tin được biểu lộ do cuộc nghiên cứu của ông về phản vật chất. Niềm tin của Leonardo Vetra gây bực bội cho Hồng y thị thần, vì ông này tin chắc rằng chỉ mình Giáo hội thôi, không phải khoa học, sẽ đặt định tín điều luân lý cho người tín hữu Kitô giáo. Trong khi thảo luận về Leonardo Vetra, Giáo hoàng tiết lộ rằng ngài ủng hộ vì khoa học đã tạo ra một phép lạ cho ngài: một đứa con trai đã được thành hình bằng thụ tinh nhân tạo. Kinh hoàng vì sự kiện giáo hoàng làm cha một đứa nhỏ, Hồng y thị thần âm mưu “chỉnh sửa” tình huống đó. Ông ta đầu độc giáo hoàng và, trá hình làm chủ nhân hội kín Illuminati dưới tên “Janus”, ông chiêu mộ Sát thủ, một kẻ giết người được khích động bởi cùng một nhiệt huyết và tinh thần đối với Giáo hội như tổ tiên của y trong cuộc Thập tự chinh ngày trước, nhằm giết chết Leonardo Vetra, đánh cắp phản vật chất, bắt cóc và giết hại các Preferiti ngay khi mật nghị bầu giáo hoàng được triệu tập. Hồng y thị thần gài phản vật chất dưới hầm đến thánh Phêrô và bịa đặt “thị kiến” của Chúa vào phút chót nhằm để được những người chứng kiến các hành động can trường của ông coi ông là vị anh hùng và kẻ cứu vớt đạo Chúa. Do đó, hội kín Illuminati không có vai trò thực tế nào trong các biến cố của tiểu thuyết, và sự can dự của nó chỉ là một âm mưu của Hồng y thị thần để che đậy kế hoạch của riêng ông. Như Langdon nghi ngờ ngay từ lúc đầu, tổ chức Illuminati đã quả thực mai một từ lâu.
Khúc quanh cuối cùng tiết lộ rằng Hồng y nhiếp chánh Ventresca chính là con ruột của giáo hoàng mới chết, thụ thai bằng ống nghiệm. Bỗng dưng mất tinh thần vì những đau buồn và tội lỗi đã gây ra quá nhiều cái chết, nhất là của chính người cha đẻ ra mình, Ventresca tưới dầu vào người tự thiêu trước đám người đông đảo nơi Quảng trường Thánh Phêrô. Mật nghị chọn Hồng y Mortati làm tân giáo hoàng. Chi tiết mỉa mai là, qua một điều khoản hàm hồ, một lỗ hổng trong tiến trình bầu cử giáo hoàng được gọi là bầu cử bằng đồng thanh tung hô, đã có tới hai giáo hoàng đã được bầu chọn: Ventresca bằng sự việc tất cả các hồng y cùng đồng thanh hoan hô danh tính của ông trước khi ông tự thiêu, và Mortati qua thủ tục thông thường.
Langdon và Vittoria trở về khách sạn Bernini. Trung úy Chartrand trao cho ông một lá thư và gói đồ do tân giáo hoàng gửi tới. Trong gói này là ấn dấu “Kim cương Illuminati” được cho Langdon mượn vĩnh viễn.
Bản tin
New York City, N.Y. (CNA).- Bill Donohue, Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ đã kết án những người quảng cáo phim “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” là “cố lập lờ chơi trò nước đôi”, do chuyện lúc đầu họ cho rằng cuốn phim -- trong đó có những điều dối trá ác liệt về Công giáo -- chỉ là chuyện hư cấu, nhưng sau đó lại đề cao tiền đề của nó là dựa trên sự thực.
Ông nói rằng các hành động đều là tiếng vang lặp lại thủ đoạn đã dùng để quảng cáo cho cuốn phim trước đó là cuốn “The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci)”. Bill Donohue và Ron Howard, nhà đạo diễn phim “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” đã trao đổi lời qua tiếng lại xem cuốn phim mới này với cốt truyện dựa trên tiểu thuyết của Dan Brown có chống báng Công giáo hay không.
Cho là những người làm phim “không giấu diếm ý dịnh chống lại mọi chuyện liên quan đến Công giáo”, Bill Donohue kết án rằng đoạn quảng cáo cho cuốn phim này “dối gạt” khi nói rằng Giáo hội Công giáo đã ra lệnh tàn sát để làm câm miệng Illuminati, một hội kín huyền bí được mô tả trong phim.
Trả lời Bill Donohue, trong một bài viết đăng trên báo Huffington Post hôm thứ Ba tuần qua, Ron Howard nói: “Hãy để cho tôi minh định: Cả phim “Angels & Demons” và tôi đều không chống báng Công giáo.”
Ron Howard nói ông tin là người Công giáo sẽ thích thú cuốn phim “hồi hộp kỳ bí” đặt trong khung cảnh “đẹp truyền cảm đến mức thảng thốt” của thành phố Roma. Ron Howard cũng nói là “nếu như lúc nào chúng tôi cũng gợi ý rằng cuốn phim của chúng tôi chẳng gì khác hơn là một tác phẩm hư cấu” thì những lời buộc tội về cuộc tàn sát tổ chức Illuminati sẽ là một điều dối trá.
Ron Howard cho rằng cả ông và Bill Donohue đều thích tạo ra “những câu chuyện giả tưởng”, ông nói thế là để mô tả một cuốn sách nhỏ của Bill Donohue, cho nó là một “việc làm tuyên truyền ngớ ngẩn và ác ý.”
Ron Howard tự xưng mình có lòng tôn trọng người Công giáo và Giáo hội của họ cũng như “nhiều công trình tốt đẹp” họ đã thực hiện. Ông cũng nói ông tin là phim của ông đề cập đến Giáo hội bằng tấm lòng tôn trọng và “ngay cả một mức độ kính ngưỡng nữa” vì các truyền thống và niềm tin của Giáo hội.
Đáp lại lời của Ron Howard, ông Bill Donohue trong một thông cáo báo chí nói rằng cuốn sách của Dan Brown cho tổ chức Illuminati là sự kiện có thật và đã bị Giáo hội Công giáo không ngừng nhẫn tâm săn đuổi.” Bill Donohue trưng dẫn lời vai trò mà diễn viên Tom Hanks đóng trong phim “Angels & Demons” nói: “Giáo hội Công giáo đã ra lệnh tàn sát thô bạo để làm họ mãi mãi câm họng.”
Bill Donohue cũng cho biết rằng Ron Howard, trong một cuộc phỏng vấn, có nói là “Tổ chức Illuminati được thành lập vào những năm 1600. Họ là những nhà nghệ sĩ và khoa học gia như Galileo và Bernini, có những tư tưởng tiến bộ gây ra mối đe dọa cho Vatican.”
Bill Donohue nhận xét: “Tất cả điều đó đều là dối trá. Tổ chức Illuminati được thành lập năm 1776 và bị giải tán năm 1787. Chuyện hiển nhiên là Galileo và Bernini không thể nào mà là thành viên tổ chức đó được, vì Galileo mất năm 1647 còn Bernini thì qua đời năm 1680. Quan trọng hơn nữa, là Giáo hội Công giáo không hề săn đuổi, nói chi đến chuyện giết chóc, chỉ một thành viên thôi của Illuminati. Nhưng điều đó không ngăn được Dan Brown khẳng định thế này: “Có sự kiện lịch sử cho thấy vào những năm 1600, Illuminati thề trả thù lại Vatican.”
Về lời tuyên bố của Ron Howard cho rằng các viên chức Vatican sẽ thích cuốn phim do mình làm đạo diễn, ông Bill Donohue cho đó là chuyện “ảo tưởng”.
Thông tấn xã CNA đã nói truyện với Bill Donohue trong cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hôm thứ Ba để có thêm lời bình luận.
Ông nói: Ron Howard cho rằng những lời phản đối của Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ nhằm vào một tác phẩm hoàn toàn hư cấu “có phần nào đáng ngạc nhiên”
“Đây không phải là chuyện “ông nói gà bà bảo vịt”, mà đơn giản là ông ta sai lầm.” Bill Donohue bình luận như thế và kết án Ron Howard “bịa đặt từ đầu đến cuối cái ý tưởng là đã có tổ chức Illuminati này ở thế kỷ 17, ông ta phải đem đặt nó vào những năm 1600 để có thể kéo Galileo ra và đem đặt vào trong đó.”
Ông nhắc lại là Illuminati chỉ mãi đến thế kỷ 18 mới được thành lập.
Ông cũng kết án Dan Brown và Howard chơi trò lập lờ hai mặt khi mô tả tác phẩm của họ là hư cấu, nhưng rồi sau đó lại đề cao là dựa trên những sự kiện có thật.
“Họ không thể chơi trò nước đôi”, ông nói thế, và đề cập đến chuyện Dan Brown đã lên chương trình truyền hình “The Today Show” nói về một cuốn sách khác của ông ta, cuốn “The Da Vinci Code”, bảo nó là chuyện hư cấu, nhưng chẳng mấy lâu sau lại cho là “dựa trên sự việc có thật.”
Bill Donohue nói với thông tấn xã CNA: “Họ cố chơi trò xuôi ngược cả hai chiều trên cùng một con đường. Dan Brown là tổ sư chuyện đó.”
“Nếu Ron Howard muốn tranh luận với tôi về chuyện này, tôi sẽ vui lòng đến bất cứ đài truyền hình nào. Tôi có cảm tưởng ông ta không muốn thế.” Bill Donohue nói thêm như vậy và cho biết rằng một cuộc tranh biện sẽ tốt đẹp hơn là “nhờ một ai đó viết hộ cho ông ta đôi điều trên báo Huffington Post rồi bỏ đó mà đi.”
Bill Donohue cũng loan tin rằng linh mục Bernard O’Connor người Canada đã mặc thường phục tới coi những cảnh quay phim “Angels & Demons” và nghe lỏm được “một số những câu nói chống báng Công giáo ác ý nhất, được lặp đi lặp lại nhiều lần.”
Bill Donohue lập luận: “Trình tự là để bôi nhọ Giáo hội Công giáo, như họ đã làm trong The Da Vinci Code.”
Ông nói với thông tấn xã CNA: “Điều xảy ra ở đây là [Ron Howard] đang cung cấp thêm một số những món người ta thèm ăn và những định kiến đê tiện nhất. “Amos and Andy” chỉ là một phim hài hước, nhưng hãng truyền hình CBS đã không phát sóng lại chỉ vì nó xúc phạm đến các cộng đồng người Mỹ gốc châu Phi.
“Chẳng ai sẽ bảo là “sao cũng được” cả. Người ta sẽ than phiền rằng việc đó nuôi dưỡng những định kiến xấu xa tồi bại nhất.”
“Mỗi nhóm nhân chủng đều có đồ dơ phải giặt giũ, và họ cũng có những điều dối trá, những vết nhơ và những huyền thoại. Đám người ở Hollywood chẳng làm phim dựa trên những điều dối trá, những vết nhơ và những huyền thoại.” Ông nói thế và cho biết thêm rằng Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ muốn người Công giáo cũng được đối xử như vậy, với “một mức độ tương dung và kính trọng nào đó.”
Ông nói với thông tấn xã CNA là cuốn phim đã làm gia tăng “một trong những điều dối trá ác hiểm nhất” chống báng Giáo hội Công giáo, đó là cho rằng Giáo hội phản lý trí, chống khoa học.
“Giáo hội Công giáo chẳng có vấn đề khó khăn nào với thuyết tiến hóa cả, đó đúng hơn là khó khăn nơi các anh chị em Tin Lành.”
Hãng tin CNA hỏi Bill Donohue là ông sẽ đáp lại như thế nào đối với lời rêu rao rằng những sự chống đối của ông chỉ làm cho cuốn phim được nhiều người biết đến hơn mà không tốn tiền quảng cáo.
Bill Donohue lý luận: cứ cho rằng tất cả mọi sự chống đối thành kiến sẽ tạo ra quảng cáo có lợi, thì đó là một lối tổng quát hóa sai lạc, mặc dầu điều đó có thể xảy ra trong một số trường hợp.
Ông chỉ ra cuốn phim chống Kitô giáo The Golden Compass (Chiếc địa bàn bằng vàng), nói rằng cuốn phim tiếp theo đã không được thực hiện bởi vì cuốn phim chính thất bại không dành được nhiều khán giả tới coi. Ông cho biết: Philip Pullman, tác giả cuốn sách dùng làm cốt truyện cho phim đó, có nói rằng sự tẩy chay ở Hoa kỳ đã gây ra hiệu quả như thế.
Vào khoảng ba năm trước đây, trước khi khởi chiếu, phim “The Da Vinci Code” đã bị nhiều vị lãnh đạo giáo hội Công giáo cực lực lên án vì nội dung xuyên tạc và phỉ báng Chúa Giêsu và Giáo h65i Công giáo. Nhiều cuốn sách và bài báo được công bố, cũng như một chiến dịch giải hoặc được phát động vào thời gian đó, để lột trần những sai trái trong sách của Dan Brown, nhưng đã vô tình đã làm quảng cáo không công cho cuốn phim. Doanh thu của phim lên tới hơn 750 triệu mỹ kim, khiến cho đạo diễn Ron Howard thừa thắng xông lên quay cuốn phim tiếp theo: “Angels & Demons”. Rút tỉa kinh nghiệm lần trước và không muốn làm quảng cáo không công cho cuốn phim này, nên các vị lãnh đạo trong giáo hội gần như im lặng, không lên tiếng đả kích, ngoại trừ một vài trường hợp lẻ tẻ, như Đức giám mục Malcolm McMahon ở Nottingham (Anh quốc) mới lên tiếng hôm nay:
“Đây là chuyện kỳ dị quá quắt, hoàn toàn rác rưởi. Thật là điều tai hại khi khuấy động một thứ tình cảm chống báng Công giáo như vậy. Đánh đấm Giáo hội như thế là chuyện vu vơ và tôi chẳng thấy có lý do nào để làm vậy.”
Các vị hữu trách Công giáo tại Ý cũng đã không cho phép quay phim này trong các nhà thờ giáo phận.
Nhưng giữa nhà đạo diễn Ron Howard và ông Bill Donohue, chủ tịch Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ, đã có những lời qua tiếng lại về cuốn phim này, tin đó được hãng thông tấn CNA tường trình và chúng tôi xin loan tải dưới đây. Ông Bill Donohue đã viết cả một cuốn sách nhỏ để vạch trần thủ đoạn chống báng Giáo hội của cuốn sách và cuốn phim.
Nhưng trước khi loan bản tin của thông tấn xã CNA, chúng tôi xin lược thuật cốt truyện “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” của Dan Brown.
Lược truyện (theo Wikepidia)
Tình tiết câu truyện đi theo bước chân của nhà biểu tượng học Robert Langdon thuộc trường đại học Havard khi ông cố ngăn chận không để cho hội kín Illuminati dùng sức mạnh của phản vật chất (antimatter) mới được phát minh để phá hủy Thành phố Vatican.
Maximilian Kohler, giám đốc cơ quan CERN (Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu), khám phá thấy một trong số những nhà vật lý đáng kính nhất của cơ quan này tên là Leonardo Vetra bị ám sát chết ngay tại cư xá riêng và an toàn trong cơ quan. Ngực ông ta có in vết sắt nung cái hình biểu tượng của Illuminati, hai mắt lòi ra khỏi tròng. Thay vì gọi cảnh sát, Kohler sưu tầm đề tài trên Internet và cuối cùng liên lạc được với Langdon, một chuyên viên nghiên cứu về Illuminati. Kohler yêu cầu Langdon giúp khám phá ra hung thủ vụ ám sát.
Bìa cuốn tiểu thuyết (bản dịch Việt ngữ) |
Điều Langdon thấy tại hiện trường làm ông kinh ngạc: biểu tượng in trên xác chết là biểu tượng thật, và hội kín Illuminati chỉ có trong truyền thuyết, từ lâu được coi là đã bị mai một, nay hình như mới trỗi dậy. Kohler gọi người con gái nuôi của nạn nhân tên là Vittoria đến hiện trường, và sau đó phát giác ra hội kín Illuminati cũng đã lấy cắp đi chiếc hộp nhỏ chứa một phần tư gram phản vật chất – một chất liệu cực kỳ nguy hiểm có khả năng tàn phá tương đương với một loại vũ khí hạt nhân nhỏ, phóng ra lực phá khi chạm đến bất cứ một hình thái vật chất thông thường nào. Khi được nạp điện tại cơ sở CERN, từ trường của chiếc hộp nhỏ kiểm soát giọt phản vật chất, để cho nó bay lơ lửng trong chân không, bảo đảm được an toàn; nhưng khi bị rút ra khỏi nguồn điện lực cung ứng, thì nó chuyển qua sử dụng pin dự phòng, và pin này chỉ lâu được 24 tiếng đồng hồ. Chuyện kinh khủng là hội kín Illuminati đã đặt chiếc bình nhỏ lấy cắp được ấy ở đâu đó trong nội vi Thành phố Vatican, để một máy ảnh rà soát an ninh phía trước trong khi đồng hồ của máy này đếm giờ phát nổ.
Langdon và Vittoria cùng tiến vào Thành phố Vatican. Nơi đây Đức giáo hoàng vừa mới qua đời, và Mật nghị bầu giáo hoàng mới đã được triệu tập. Hồng y Mortati, chủ tọa cuộc bầu cử, khám phá thấy 4 Preferiti (là những hồng y được coi là ứng viên sáng giá nhất có thể được bầu làm tân giáo hoàng) bị mất tích. Khi tới nơi, Langdon và Vittoria bắt đầu lùng sục đi tìm kiếm 4 vị này, hy vọng sẽ tìm lại được chiếc hộp nhỏ chứa phản vật chất. Cuộc lùng kiếm được sự trợ lực của Hồng y thị thần Carlo Ventresca (là phụ tá thân cận nhất của cố giáo hoàng) và đội Vệ binh Thụy sĩ của Tòa thánh Vatican, gồm Chỉ huy trưởng Olivetti, Đại uý Rocher and Trung uý Chartrand.
Tin chắc rằng hội kín Illuminati có phần nào trách nhiệm trong vụ 4 Preferiti bị mất tích, Langdon cố gắng vạch lại những bước đi của cái gọi là “Con đường Khai sáng (Path of Illumination )”, một thủ tục xưa cũ và phức tạp đã được hội kín Illuminati dùng làm phương tiện kết nạp thành viên mới; người dự tuyển muốn gia nhập tổ chức này phải lần theo một loạt những đầu mối tinh vi đặt trong các dấu mốc khác nhau ở nội vi và chung quanh Roma. Nếu theo đúng các đầu mối này, ứng viên đó sẽ tìm được địa điểm họp kín của Illuminati và sẽ được thu nhận làm hội viên. Dùng khả năng hiểu biết rộng rãi về lịch sử tôn giáo và hội kín, Langdon đi theo Con đường Khai sáng, hy vọng khám phá ra các đầu mối dẫn đến vụ mất tích của 4 Preferiti cũng như nơi giấu chiếc hộp chứa phản vật chất.
Con đường Khai sáng dẫn Langdon tới 4 địa điểm chính ở Roma (Thành phố Vatican nằm trong nội vi đô thị Roma), liên hệ với 4 yếu tố nguyên thủy mà hội kín Illuminati tin là nguồn gốc của mọi vật thể hiện hữu: Thổ (Đất), Khí, Hỏa (Lửa) và Thuỷ (Nước). Khi đến mỗi địa điểm, Langdon tìm thấy một trong các vị Preferiti bị ám sát theo hình thức phù hợp với yếu tố tương ứng của địa điểm: Hồng y thứ nhất được chôn vùi, cổ họng tọng đầy đất sét (Thổ), phổi vị thứ hai bị đâm lủng (Khí), vị thứ ba bị nhận chìm trong biển lửa và bị thiêu sống (Hỏa), còn vị thứ tư bị chết đuối trong một giếng nước lớn (Thủy).
Sau khi tìm thấy thi thể của hai vị Preferiti đầu tiên (Thổ và Khí), Langdon hối hả chạy tới Vương cung thánh đường Santa Maria della Vittoria, thấy tên bắt cóc vị hồng y thứ ba đang đốt ngài trong lửa đỏ. Tên bắt cóc, cũng là thủ phạm giết chết Leonardo Vetra và đánh cắp hộp đựng phản vật chất, chính là Sát thủ, hành động theo lệnh của người chủ chốt hội Illuminati dưới cái tên “Janus”, nhưng danh tính thật sự của “Janus” chưa được biết. Trong cuộc đụng độ này với Sát thủ, Chỉ huy trưởng Olivetti bị giết và Langdon gần chết hụt, còn cô Vittoria thì bị hắn bắt cóc. Langdon cố thoát hiểm và đụng đầu với Sát thủ lần nữa tại điểm mốc của yếu tố sau cùng (Thủy), nhưng không thể cứu được vị hồng y thứ tư.
Tuy vậy, Langdon cố hoàn tất Con đường Khai sáng mong tìm được Kẻ Sát thủ và giải cứu cô Vittoria. Cuộc tìm kiếm dẫn tới một kiến trúc giống như một lâu đài bỏ hoang phế, có đường hầm dẫn thằng tới các phòng ốc của Giáo hoàng trong điện Vatican. Langdon giải thoát được Vittoria, rồi hai người cùng nhau đẩy kẻ Sát thủ từ trên cao hàng mấy trăm thước rớt xuống đất chết. Cả hai vội vã quay về Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, ở đây họ thấy Kohler đã tới và đụng đầu với hồng y thị thần nơi phòng riêng. Langdon và Vittoria sợ rằng Kohler chính là tên “Janus”, y tới để giết vị hồng y thị thần là giai đoạn cuối cùng trong âm mưu chống phá Giáo hội của y. Nghe tiếng la thất thanh của hồng y thị thần như trong cơn hấp hối, các Vệ binh Thụy sĩ nhẩy sổ vào căn phòng, nổ súng vào Kohler. Ngay trước khi tắt thở, Kohler đưa cho Langdon một cuộn băng video, cho biết mọi chuyện đều được giải thích trong đó.
Với giờ khắc phát nổ của chiếc hộp chứa phản vật chất chẳng còn bao nhiêu, viên Vệ binh Thụy sĩ bắt đầu di tản người ra khỏi Vương cung Thánh đường. Khi người vệ binh này ra khỏi nhà thờ, thì hồng y thị thần, rõ rệt là trong trạng thái hôn mê xuất thần, vội vã chạy trở ngược vào Vương cung Thánh đường, nói rằng ông được Chúa khải thị cho biết địa điểm của chiếc hộp chứa phản vật chất. Đuổi theo sau là Langdon và một số ít người khác, hồng y thị thần liều lĩnh đi sâu xuống hầm mộ bên dưới Vương cung Thánh đường, tìm được chiếc hộp ngay trên ngôi mộ Thánh Phêrô. Langdon và hồng y thị thần thu hồi được phản vật chất rồi chui vào được một chiếc trực thăng, và chỉ còn được 5 phút nữa để thoát hiểm. Hồng y thị thần dùng dù nhảy ra khỏi trực thăng an toàn và hạ chân trên nóc nhà thờ Thánh Phêrô, vừa đúng lúc chiếc hộp nổ tung trên bầu trời, không gây ra nguy hại nào. Số phận của Langdon chưa được biết ngay lúc đó vì trên trực thăng không có chiếc dù thứ hai.
Đám đông tại Quảng trường Thánh Phêrô thảng thốt nhìn Hồng y thị thần đắc thắng đứng trước mặt họ. Vì “phép lạ” này, các vị trong mật nghị bầu cử tranh cãi xem có nên làm một ngoại lệ để chọn Hồng y thị thần làm tân giáo hoàng hay không. Còn Langdon thoát chết vụ nổ là nhờ dùng chiếc cửa máy bay trực thăng làm như một chiếc dù và hạ xuống được sông Tiber, gần Đảo Tiber, thời danh vì tiếng tăm là một hòn đảo được chúc phước với nhiều phép lạ chữa lành bệnh tật. Ông bị thương, nhưng không nặng.
Langdon trở lại nhà thờ Thánh Phêrô và xem cuộn băng video của Kohler cùng với Hồng y đoàn. Langdon, Vittoria và các hồng y đụng đầu với Hồng y nhiếp chánh trong nhà nguyện Sistine, nơi đây mọi uẩn khúc đều được giãi tỏ. Ngay trước những biến cố thuật trong cuốn tiểu thuyết này, vị Giáo hoàng dự kiến gặp mặt Leonardo Vetra liên quan đến cuộc nghiên cứu của ông này tại CERN. Leonardo Vetra là một người Công giáo sùng đạo, tin tưởng rằng khoa học có khả năng thiết lập một sự nối kết giữa Con người và Thiên Chúa, một niềm tin được biểu lộ do cuộc nghiên cứu của ông về phản vật chất. Niềm tin của Leonardo Vetra gây bực bội cho Hồng y thị thần, vì ông này tin chắc rằng chỉ mình Giáo hội thôi, không phải khoa học, sẽ đặt định tín điều luân lý cho người tín hữu Kitô giáo. Trong khi thảo luận về Leonardo Vetra, Giáo hoàng tiết lộ rằng ngài ủng hộ vì khoa học đã tạo ra một phép lạ cho ngài: một đứa con trai đã được thành hình bằng thụ tinh nhân tạo. Kinh hoàng vì sự kiện giáo hoàng làm cha một đứa nhỏ, Hồng y thị thần âm mưu “chỉnh sửa” tình huống đó. Ông ta đầu độc giáo hoàng và, trá hình làm chủ nhân hội kín Illuminati dưới tên “Janus”, ông chiêu mộ Sát thủ, một kẻ giết người được khích động bởi cùng một nhiệt huyết và tinh thần đối với Giáo hội như tổ tiên của y trong cuộc Thập tự chinh ngày trước, nhằm giết chết Leonardo Vetra, đánh cắp phản vật chất, bắt cóc và giết hại các Preferiti ngay khi mật nghị bầu giáo hoàng được triệu tập. Hồng y thị thần gài phản vật chất dưới hầm đến thánh Phêrô và bịa đặt “thị kiến” của Chúa vào phút chót nhằm để được những người chứng kiến các hành động can trường của ông coi ông là vị anh hùng và kẻ cứu vớt đạo Chúa. Do đó, hội kín Illuminati không có vai trò thực tế nào trong các biến cố của tiểu thuyết, và sự can dự của nó chỉ là một âm mưu của Hồng y thị thần để che đậy kế hoạch của riêng ông. Như Langdon nghi ngờ ngay từ lúc đầu, tổ chức Illuminati đã quả thực mai một từ lâu.
Khúc quanh cuối cùng tiết lộ rằng Hồng y nhiếp chánh Ventresca chính là con ruột của giáo hoàng mới chết, thụ thai bằng ống nghiệm. Bỗng dưng mất tinh thần vì những đau buồn và tội lỗi đã gây ra quá nhiều cái chết, nhất là của chính người cha đẻ ra mình, Ventresca tưới dầu vào người tự thiêu trước đám người đông đảo nơi Quảng trường Thánh Phêrô. Mật nghị chọn Hồng y Mortati làm tân giáo hoàng. Chi tiết mỉa mai là, qua một điều khoản hàm hồ, một lỗ hổng trong tiến trình bầu cử giáo hoàng được gọi là bầu cử bằng đồng thanh tung hô, đã có tới hai giáo hoàng đã được bầu chọn: Ventresca bằng sự việc tất cả các hồng y cùng đồng thanh hoan hô danh tính của ông trước khi ông tự thiêu, và Mortati qua thủ tục thông thường.
Langdon và Vittoria trở về khách sạn Bernini. Trung úy Chartrand trao cho ông một lá thư và gói đồ do tân giáo hoàng gửi tới. Trong gói này là ấn dấu “Kim cương Illuminati” được cho Langdon mượn vĩnh viễn.
Bản tin
New York City, N.Y. (CNA).- Bill Donohue, Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ đã kết án những người quảng cáo phim “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” là “cố lập lờ chơi trò nước đôi”, do chuyện lúc đầu họ cho rằng cuốn phim -- trong đó có những điều dối trá ác liệt về Công giáo -- chỉ là chuyện hư cấu, nhưng sau đó lại đề cao tiền đề của nó là dựa trên sự thực.
Ông nói rằng các hành động đều là tiếng vang lặp lại thủ đoạn đã dùng để quảng cáo cho cuốn phim trước đó là cuốn “The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci)”. Bill Donohue và Ron Howard, nhà đạo diễn phim “Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” đã trao đổi lời qua tiếng lại xem cuốn phim mới này với cốt truyện dựa trên tiểu thuyết của Dan Brown có chống báng Công giáo hay không.
Cho là những người làm phim “không giấu diếm ý dịnh chống lại mọi chuyện liên quan đến Công giáo”, Bill Donohue kết án rằng đoạn quảng cáo cho cuốn phim này “dối gạt” khi nói rằng Giáo hội Công giáo đã ra lệnh tàn sát để làm câm miệng Illuminati, một hội kín huyền bí được mô tả trong phim.
Trả lời Bill Donohue, trong một bài viết đăng trên báo Huffington Post hôm thứ Ba tuần qua, Ron Howard nói: “Hãy để cho tôi minh định: Cả phim “Angels & Demons” và tôi đều không chống báng Công giáo.”
Ron Howard nói ông tin là người Công giáo sẽ thích thú cuốn phim “hồi hộp kỳ bí” đặt trong khung cảnh “đẹp truyền cảm đến mức thảng thốt” của thành phố Roma. Ron Howard cũng nói là “nếu như lúc nào chúng tôi cũng gợi ý rằng cuốn phim của chúng tôi chẳng gì khác hơn là một tác phẩm hư cấu” thì những lời buộc tội về cuộc tàn sát tổ chức Illuminati sẽ là một điều dối trá.
Ron Howard cho rằng cả ông và Bill Donohue đều thích tạo ra “những câu chuyện giả tưởng”, ông nói thế là để mô tả một cuốn sách nhỏ của Bill Donohue, cho nó là một “việc làm tuyên truyền ngớ ngẩn và ác ý.”
Một cảnh trong phim |
Ron Howard tự xưng mình có lòng tôn trọng người Công giáo và Giáo hội của họ cũng như “nhiều công trình tốt đẹp” họ đã thực hiện. Ông cũng nói ông tin là phim của ông đề cập đến Giáo hội bằng tấm lòng tôn trọng và “ngay cả một mức độ kính ngưỡng nữa” vì các truyền thống và niềm tin của Giáo hội.
Đáp lại lời của Ron Howard, ông Bill Donohue trong một thông cáo báo chí nói rằng cuốn sách của Dan Brown cho tổ chức Illuminati là sự kiện có thật và đã bị Giáo hội Công giáo không ngừng nhẫn tâm săn đuổi.” Bill Donohue trưng dẫn lời vai trò mà diễn viên Tom Hanks đóng trong phim “Angels & Demons” nói: “Giáo hội Công giáo đã ra lệnh tàn sát thô bạo để làm họ mãi mãi câm họng.”
Bill Donohue cũng cho biết rằng Ron Howard, trong một cuộc phỏng vấn, có nói là “Tổ chức Illuminati được thành lập vào những năm 1600. Họ là những nhà nghệ sĩ và khoa học gia như Galileo và Bernini, có những tư tưởng tiến bộ gây ra mối đe dọa cho Vatican.”
Bill Donohue nhận xét: “Tất cả điều đó đều là dối trá. Tổ chức Illuminati được thành lập năm 1776 và bị giải tán năm 1787. Chuyện hiển nhiên là Galileo và Bernini không thể nào mà là thành viên tổ chức đó được, vì Galileo mất năm 1647 còn Bernini thì qua đời năm 1680. Quan trọng hơn nữa, là Giáo hội Công giáo không hề săn đuổi, nói chi đến chuyện giết chóc, chỉ một thành viên thôi của Illuminati. Nhưng điều đó không ngăn được Dan Brown khẳng định thế này: “Có sự kiện lịch sử cho thấy vào những năm 1600, Illuminati thề trả thù lại Vatican.”
Về lời tuyên bố của Ron Howard cho rằng các viên chức Vatican sẽ thích cuốn phim do mình làm đạo diễn, ông Bill Donohue cho đó là chuyện “ảo tưởng”.
Thông tấn xã CNA đã nói truyện với Bill Donohue trong cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hôm thứ Ba để có thêm lời bình luận.
Ông nói: Ron Howard cho rằng những lời phản đối của Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ nhằm vào một tác phẩm hoàn toàn hư cấu “có phần nào đáng ngạc nhiên”
“Đây không phải là chuyện “ông nói gà bà bảo vịt”, mà đơn giản là ông ta sai lầm.” Bill Donohue bình luận như thế và kết án Ron Howard “bịa đặt từ đầu đến cuối cái ý tưởng là đã có tổ chức Illuminati này ở thế kỷ 17, ông ta phải đem đặt nó vào những năm 1600 để có thể kéo Galileo ra và đem đặt vào trong đó.”
Ông nhắc lại là Illuminati chỉ mãi đến thế kỷ 18 mới được thành lập.
Ông cũng kết án Dan Brown và Howard chơi trò lập lờ hai mặt khi mô tả tác phẩm của họ là hư cấu, nhưng rồi sau đó lại đề cao là dựa trên những sự kiện có thật.
“Họ không thể chơi trò nước đôi”, ông nói thế, và đề cập đến chuyện Dan Brown đã lên chương trình truyền hình “The Today Show” nói về một cuốn sách khác của ông ta, cuốn “The Da Vinci Code”, bảo nó là chuyện hư cấu, nhưng chẳng mấy lâu sau lại cho là “dựa trên sự việc có thật.”
Bill Donohue nói với thông tấn xã CNA: “Họ cố chơi trò xuôi ngược cả hai chiều trên cùng một con đường. Dan Brown là tổ sư chuyện đó.”
“Nếu Ron Howard muốn tranh luận với tôi về chuyện này, tôi sẽ vui lòng đến bất cứ đài truyền hình nào. Tôi có cảm tưởng ông ta không muốn thế.” Bill Donohue nói thêm như vậy và cho biết rằng một cuộc tranh biện sẽ tốt đẹp hơn là “nhờ một ai đó viết hộ cho ông ta đôi điều trên báo Huffington Post rồi bỏ đó mà đi.”
Bill Donohue cũng loan tin rằng linh mục Bernard O’Connor người Canada đã mặc thường phục tới coi những cảnh quay phim “Angels & Demons” và nghe lỏm được “một số những câu nói chống báng Công giáo ác ý nhất, được lặp đi lặp lại nhiều lần.”
Bill Donohue lập luận: “Trình tự là để bôi nhọ Giáo hội Công giáo, như họ đã làm trong The Da Vinci Code.”
Ông nói với thông tấn xã CNA: “Điều xảy ra ở đây là [Ron Howard] đang cung cấp thêm một số những món người ta thèm ăn và những định kiến đê tiện nhất. “Amos and Andy” chỉ là một phim hài hước, nhưng hãng truyền hình CBS đã không phát sóng lại chỉ vì nó xúc phạm đến các cộng đồng người Mỹ gốc châu Phi.
“Chẳng ai sẽ bảo là “sao cũng được” cả. Người ta sẽ than phiền rằng việc đó nuôi dưỡng những định kiến xấu xa tồi bại nhất.”
“Mỗi nhóm nhân chủng đều có đồ dơ phải giặt giũ, và họ cũng có những điều dối trá, những vết nhơ và những huyền thoại. Đám người ở Hollywood chẳng làm phim dựa trên những điều dối trá, những vết nhơ và những huyền thoại.” Ông nói thế và cho biết thêm rằng Liên đoàn Công giáo Hoa kỳ muốn người Công giáo cũng được đối xử như vậy, với “một mức độ tương dung và kính trọng nào đó.”
Ông nói với thông tấn xã CNA là cuốn phim đã làm gia tăng “một trong những điều dối trá ác hiểm nhất” chống báng Giáo hội Công giáo, đó là cho rằng Giáo hội phản lý trí, chống khoa học.
“Giáo hội Công giáo chẳng có vấn đề khó khăn nào với thuyết tiến hóa cả, đó đúng hơn là khó khăn nơi các anh chị em Tin Lành.”
Hãng tin CNA hỏi Bill Donohue là ông sẽ đáp lại như thế nào đối với lời rêu rao rằng những sự chống đối của ông chỉ làm cho cuốn phim được nhiều người biết đến hơn mà không tốn tiền quảng cáo.
Bill Donohue lý luận: cứ cho rằng tất cả mọi sự chống đối thành kiến sẽ tạo ra quảng cáo có lợi, thì đó là một lối tổng quát hóa sai lạc, mặc dầu điều đó có thể xảy ra trong một số trường hợp.
Ông chỉ ra cuốn phim chống Kitô giáo The Golden Compass (Chiếc địa bàn bằng vàng), nói rằng cuốn phim tiếp theo đã không được thực hiện bởi vì cuốn phim chính thất bại không dành được nhiều khán giả tới coi. Ông cho biết: Philip Pullman, tác giả cuốn sách dùng làm cốt truyện cho phim đó, có nói rằng sự tẩy chay ở Hoa kỳ đã gây ra hiệu quả như thế.
Phim “Angels and Demons (Thiên thần và Ác quỷ)” không tạo ra được nỗi bất bình nơi Tòa thánh
Phụng Nghi
20:30 06/05/2009
Vatican City (CNS) – Trước buổi công chiếu lần đầu tiên, phim “Angels and Demons” liều lĩnh đi tìm những điều gây thành luận chiến.
Trong cuộc họp báo tại Roma hôm 3 tháng 5, đạo diễn Ron Howard cố tình gây tranh cãi với Vatican, nói rằng cánh tay dài của Tòa thánh có phần nào thấy được đàng sau những khó khăn gặp phải trong khi quay cuốn phim này, một câu truyện kinh hoàng rùng rợn có mầu sắc tôn giáo xảy ra tại Roma.
Tuy nhiên, Tòa thánh Vatican đã không như con cá dính mồi câu. Ở Ý, chỉ duy nhất thực sự xảy ra hôm trước buổi chiếu ra mắt cuốn phim là lời phê phán của một giám mục già 102 tuổi – chẳng đúng là thứ quảng cáo gây sóng gió mà các tay tổ về tiếp thị mơ tưởng muốn có được.
Tom Hanks, diễn viên chính của cuốn phim, đã nhận chân được vấn đề tại cuộc họp báo khi ông được hỏi rằng liệu những người quảng cáo tiếp thị cho cuốn phim có thể lợi dụng được mối xung đột có thể xảy ra với Vatican hay không.
Hanks trả lời: ” Phim nào cũng được những người phụ trách tiếp thị lợi dụng. Không hề có chuyện một cuốn phim không được người quảng cáo lợi dụng bao giờ.”
“Bộ phận tiếp thị của bất cứ một hãng phim nào cũng thích chuyện có thể tạo ra được những điều tranh cãi quanh những cuốn phim họ quay. Nhưng họ không thể tự mình riêng rẽ làm được chuyện đó, mà cần phải có người đối ứng.”
Cuốn phim “Angels and Demons” quay theo một tiểu thuyết của Dan Brown, chiếu buổi ra mắt tại Roma hôm 4 tháng 5, và sẽ công chiếu tại Mỹ ngày 15 tháng 5 này. Phim thuật chuyện một hội kín bắt cóc các ứng viên chức vụ giáo hoàng lúc khởi đầu mật nghị hồng y, bó buộc Vatican phải quay qua cầu cứu nhà biểu tượng học chuyên giải đáp những điều huyền bí tên Robert Langdon, do Tom Hanks thủ diễn.
Howard mở đầu cuộc họp báo bằng một chuỗi những lời kết án mơ hồ chống lại Vatican. Ông nói: Coi bộ như “qua những hoạt động ở hậu trường và đại loại như thế, Vatican đã sử dụng một số ảnh hưởng” để ngăn chận đoàn làm phim không được quay những cảnh tại một số khu vực, nơi có một ngôi nhà thờ đặc biệt nào đó để dùng làm hậu cảnh.
Ông nói: “Tôi cho rằng chúng tôi đã có thể tranh chấp về chuyện đó. Nhưng chúng tôi đã không làm.”
Ông cho biết thêm rằng một cảnh quay – hay một buổi tiếp tân, ông không nhớ rõ – đã buộc phải di chuyển khỏi khu vực tụ tập gần Quảng trường Thánh Phêrô, “và tôi cho là Vatican đã có một thứ ảnh hưởng nào đấy trong việc này.”
“Tôi có ngạc nhiên chăng? Không. Tôi có lúc chút ít nản lòng vì chuyện đó ư? Chắc là có.”
Người phát ngôn của Tòa thánh, Linh mục Dòng Tên Federico Lombardi, từ chối không bình luận gì về những lời cáo buộc của Howard. Cha nói rằng chúng chỉ có mục đích quảng cáo cho cuốn phim mà thôi.
Howard cũng trưng dẫn trường hợp của một giám mục Ý 102 tuổi đã về hưu tên là Antonio Mennonna. Ngài đã ký vào một đơn kiện nói rằng cuốn phim đầy những điểm sai lạc về lịch sử và xuyên tạc Kitô giáo.
Howard nói rằng công ty của ông trước đây đã đưa ra lời mời tới coi cuốn phim cho một số giám mục và những người khác nữa, nhưng thiệp mời không ai tới nhận. Dù sao, nếu ai cảm thấy cuốn phim đối với họ là điều xúc phạm thì đừng nên coi.
Câu đó mớm lời cho Hanks, người có vẻ hài hước suốt cuộc họp báo, nói xen vào: “Đừng, đừng, ngay cả đừng đến nữa! Xin làm ơn tránh xa! Chúng tôi van xin quý vi!”
Hanks thích thú với những câu hỏi khác được sắp đặt để khiêu khích cuộc tranh biện với giáo hội. Sau khi có người nhắc nhở là chỉ nên đặt những câu hỏi liên quan đến cuốn phim, một ký giả hỏi Hanks xem ông có phải là một con người ưa chuyện tâm linh không và ông nghĩ gì về điều gây tranh cãi mới đây qua chuyện Đức giáo hoàng phát biểu về bao cao su ngừa thai.
Hanks trả lời: “Ồ, chuyện đó liên quan đến cuốn phim đấy. Tôi là con người ưa chuộng tâm linh, và bởi vì tôi đã sống hôn nhân hạnh phúc suốt 21 năm, nên thực ra tôi chẳng biết bao cao su là cái gì nữa.”
Howard, cũng từng đạo diễn cuốn phim "The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci)" dựa trên một cuốn sách cùng tên của Dan Brown, nói rằng bất kể các nhà lãnh đạo giáo hội có thể nghĩ về những cuốn sách và những phim này ra sao đi nữa, thì nhiều người thấy rằng nó làm cho họ suy nghĩ về những điều họ tin. Kết quả là số người đi nhà thờ gia tăng, và các nhóm học Kinh Thánh nở rộ.
Ông nói: “Tôi nghĩ đó là một điều tích cực và xây dựng.”
Dan Brown, người họa hiếm lắm mới xuất hiện trong một cuộc họp báo, nói rằng ông đầu tiên lấy được ý để viết cuốn “Angels and Demons” đang lúc đi du lịch gần Vatican. Người hướng dẫn du khách đề cập đến chuyện các giáo hoàng đã có lần phải trốn chạy dọc theo một con ngõ nhỏ ở Roma để trốn tránh kẻ thù, và chuyện đó gợi ý cho Brown nghĩ đến “những kẻ thù” khoa học của Vatican, và ông nói ý tưởng đó thật hay không thể bỏ qua.”
Trong sách “Angels and Demons”, những thành viên hiện đại của một hội kín gọi là Illuminati âm mưu dùng phản vật chất (antimatter) để phá hủy Vatican. Illuminati là một nhóm được thành lập tại Bavaria vào cuối những năm 1700 và các sử gia nói tổ chức này chỉ sống vỏn vẹn được 9 năm. Những người mê chuyện mưu đồ đã đồn đại rằng Illuminati ngày nay ẫn còn tồn tại, đang bí mật chi phối các biến cố trên thế giới.
Dan Brown được hỏi xem ông có thực sự tin rằng tổ chức Illuminati vẫn còn hiện hữu hay không.
Ông bất thần hỏi lại: “Họ có bao giờ tồn tại ư?” Thế rồi ông thêm lời biện hộ cho tiến độ trong tiểu thuyết của mình:
Ông nói: “Có những câu truyện hư cấu được xây dựng chung quanh những đề tài có thật trên cõi đời. Và những truyện này, theo tôi hy vọng, khuấy động nền được nhiều quan tâm và nghiên cứu nơi chính con người, để tìm xem trong những câu truyện đó đâu là hư cấu, đâu là thật.”
Mấy tuần lể trước, Đức tổng giám mục Velasio De Paolis, chủ tịch Bộ Kinh tế Vụ của Tòa thánh, báo đi tín hiệu rằng Vatican sẽ không nhẩy vào vòng tranh biện về “Angels and Demons”. Ngài nói người ta nên thận trọng về “hiệu ứng kiểu gậy ông đập lưng ông” khi kêu gọi tẩy chay, bởi vì nó có thể diễn dịch thành chuyện quảng cáo ngoài ý muốn cho cuốn phim.
Ngài nói: “Tòa thánh Vatican không lo ngại về chuyện sa ngã của tín hữu do những chuyện bày đặt ra để chống báng Kitô giáo trong cuốn sách và cuốn phim. Tòa thánh tin tưởng rằng người tín hữu đã được miễn nhiễm, mạnh mẽ nhờ những cuộc bách hại và chứng từ đức tin suốt bao thế kỷ.”
Trong cuộc họp báo tại Roma hôm 3 tháng 5, đạo diễn Ron Howard cố tình gây tranh cãi với Vatican, nói rằng cánh tay dài của Tòa thánh có phần nào thấy được đàng sau những khó khăn gặp phải trong khi quay cuốn phim này, một câu truyện kinh hoàng rùng rợn có mầu sắc tôn giáo xảy ra tại Roma.
Tuy nhiên, Tòa thánh Vatican đã không như con cá dính mồi câu. Ở Ý, chỉ duy nhất thực sự xảy ra hôm trước buổi chiếu ra mắt cuốn phim là lời phê phán của một giám mục già 102 tuổi – chẳng đúng là thứ quảng cáo gây sóng gió mà các tay tổ về tiếp thị mơ tưởng muốn có được.
Tom Hanks, diễn viên chính của cuốn phim, đã nhận chân được vấn đề tại cuộc họp báo khi ông được hỏi rằng liệu những người quảng cáo tiếp thị cho cuốn phim có thể lợi dụng được mối xung đột có thể xảy ra với Vatican hay không.
Hanks trả lời: ” Phim nào cũng được những người phụ trách tiếp thị lợi dụng. Không hề có chuyện một cuốn phim không được người quảng cáo lợi dụng bao giờ.”
“Bộ phận tiếp thị của bất cứ một hãng phim nào cũng thích chuyện có thể tạo ra được những điều tranh cãi quanh những cuốn phim họ quay. Nhưng họ không thể tự mình riêng rẽ làm được chuyện đó, mà cần phải có người đối ứng.”
Cuốn phim “Angels and Demons” quay theo một tiểu thuyết của Dan Brown, chiếu buổi ra mắt tại Roma hôm 4 tháng 5, và sẽ công chiếu tại Mỹ ngày 15 tháng 5 này. Phim thuật chuyện một hội kín bắt cóc các ứng viên chức vụ giáo hoàng lúc khởi đầu mật nghị hồng y, bó buộc Vatican phải quay qua cầu cứu nhà biểu tượng học chuyên giải đáp những điều huyền bí tên Robert Langdon, do Tom Hanks thủ diễn.
Howard mở đầu cuộc họp báo bằng một chuỗi những lời kết án mơ hồ chống lại Vatican. Ông nói: Coi bộ như “qua những hoạt động ở hậu trường và đại loại như thế, Vatican đã sử dụng một số ảnh hưởng” để ngăn chận đoàn làm phim không được quay những cảnh tại một số khu vực, nơi có một ngôi nhà thờ đặc biệt nào đó để dùng làm hậu cảnh.
Ông nói: “Tôi cho rằng chúng tôi đã có thể tranh chấp về chuyện đó. Nhưng chúng tôi đã không làm.”
Ông cho biết thêm rằng một cảnh quay – hay một buổi tiếp tân, ông không nhớ rõ – đã buộc phải di chuyển khỏi khu vực tụ tập gần Quảng trường Thánh Phêrô, “và tôi cho là Vatican đã có một thứ ảnh hưởng nào đấy trong việc này.”
“Tôi có ngạc nhiên chăng? Không. Tôi có lúc chút ít nản lòng vì chuyện đó ư? Chắc là có.”
Người phát ngôn của Tòa thánh, Linh mục Dòng Tên Federico Lombardi, từ chối không bình luận gì về những lời cáo buộc của Howard. Cha nói rằng chúng chỉ có mục đích quảng cáo cho cuốn phim mà thôi.
Howard cũng trưng dẫn trường hợp của một giám mục Ý 102 tuổi đã về hưu tên là Antonio Mennonna. Ngài đã ký vào một đơn kiện nói rằng cuốn phim đầy những điểm sai lạc về lịch sử và xuyên tạc Kitô giáo.
Howard nói rằng công ty của ông trước đây đã đưa ra lời mời tới coi cuốn phim cho một số giám mục và những người khác nữa, nhưng thiệp mời không ai tới nhận. Dù sao, nếu ai cảm thấy cuốn phim đối với họ là điều xúc phạm thì đừng nên coi.
Câu đó mớm lời cho Hanks, người có vẻ hài hước suốt cuộc họp báo, nói xen vào: “Đừng, đừng, ngay cả đừng đến nữa! Xin làm ơn tránh xa! Chúng tôi van xin quý vi!”
Hanks thích thú với những câu hỏi khác được sắp đặt để khiêu khích cuộc tranh biện với giáo hội. Sau khi có người nhắc nhở là chỉ nên đặt những câu hỏi liên quan đến cuốn phim, một ký giả hỏi Hanks xem ông có phải là một con người ưa chuyện tâm linh không và ông nghĩ gì về điều gây tranh cãi mới đây qua chuyện Đức giáo hoàng phát biểu về bao cao su ngừa thai.
Hanks trả lời: “Ồ, chuyện đó liên quan đến cuốn phim đấy. Tôi là con người ưa chuộng tâm linh, và bởi vì tôi đã sống hôn nhân hạnh phúc suốt 21 năm, nên thực ra tôi chẳng biết bao cao su là cái gì nữa.”
Howard, cũng từng đạo diễn cuốn phim "The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci)" dựa trên một cuốn sách cùng tên của Dan Brown, nói rằng bất kể các nhà lãnh đạo giáo hội có thể nghĩ về những cuốn sách và những phim này ra sao đi nữa, thì nhiều người thấy rằng nó làm cho họ suy nghĩ về những điều họ tin. Kết quả là số người đi nhà thờ gia tăng, và các nhóm học Kinh Thánh nở rộ.
Ông nói: “Tôi nghĩ đó là một điều tích cực và xây dựng.”
Dan Brown, người họa hiếm lắm mới xuất hiện trong một cuộc họp báo, nói rằng ông đầu tiên lấy được ý để viết cuốn “Angels and Demons” đang lúc đi du lịch gần Vatican. Người hướng dẫn du khách đề cập đến chuyện các giáo hoàng đã có lần phải trốn chạy dọc theo một con ngõ nhỏ ở Roma để trốn tránh kẻ thù, và chuyện đó gợi ý cho Brown nghĩ đến “những kẻ thù” khoa học của Vatican, và ông nói ý tưởng đó thật hay không thể bỏ qua.”
Trong sách “Angels and Demons”, những thành viên hiện đại của một hội kín gọi là Illuminati âm mưu dùng phản vật chất (antimatter) để phá hủy Vatican. Illuminati là một nhóm được thành lập tại Bavaria vào cuối những năm 1700 và các sử gia nói tổ chức này chỉ sống vỏn vẹn được 9 năm. Những người mê chuyện mưu đồ đã đồn đại rằng Illuminati ngày nay ẫn còn tồn tại, đang bí mật chi phối các biến cố trên thế giới.
Dan Brown được hỏi xem ông có thực sự tin rằng tổ chức Illuminati vẫn còn hiện hữu hay không.
Ông bất thần hỏi lại: “Họ có bao giờ tồn tại ư?” Thế rồi ông thêm lời biện hộ cho tiến độ trong tiểu thuyết của mình:
Ông nói: “Có những câu truyện hư cấu được xây dựng chung quanh những đề tài có thật trên cõi đời. Và những truyện này, theo tôi hy vọng, khuấy động nền được nhiều quan tâm và nghiên cứu nơi chính con người, để tìm xem trong những câu truyện đó đâu là hư cấu, đâu là thật.”
Mấy tuần lể trước, Đức tổng giám mục Velasio De Paolis, chủ tịch Bộ Kinh tế Vụ của Tòa thánh, báo đi tín hiệu rằng Vatican sẽ không nhẩy vào vòng tranh biện về “Angels and Demons”. Ngài nói người ta nên thận trọng về “hiệu ứng kiểu gậy ông đập lưng ông” khi kêu gọi tẩy chay, bởi vì nó có thể diễn dịch thành chuyện quảng cáo ngoài ý muốn cho cuốn phim.
Ngài nói: “Tòa thánh Vatican không lo ngại về chuyện sa ngã của tín hữu do những chuyện bày đặt ra để chống báng Kitô giáo trong cuốn sách và cuốn phim. Tòa thánh tin tưởng rằng người tín hữu đã được miễn nhiễm, mạnh mẽ nhờ những cuộc bách hại và chứng từ đức tin suốt bao thế kỷ.”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Ngày hội ngộ truyền thống của các cựu chủng sinh-tu sĩ giáo hạt Phú Yên, Quy Nhơn
LM. Trương Đình Hiền
01:43 06/05/2009
Ngày hội ngộ truyền thống của các cựu chủng sinh-tu sĩ giáo hạt Phú Yên
Nếu ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh, Giáo Hội toàn cầu mừng ngày Ơn Thiên Triệu tu trì, thì đặc biệt, tại giáo xứ Tuy Hòa, giáo hạt Phú Yên lại chọn ngày thứ Hai kế tiếp làm ngày “Ơn thiên triệu “Ta-Ru”, tức ngày họp mặt truyền thống của các anh chị em cựu chủng sinh và tu sĩ, những người đã có một khoảng đời bước đi trên nẻo đường ơn gọi tu trì. Họ là những cựu tu sĩ nam thuộc các dòng Mỹ Ca, Giuse hay những cựu đệ tử hay tu sĩ nữ của các dòng Mến Thánh Giá Tân Bình, Phaolô Chartres Đà Nẵng, MTG Qui Nhơn…Đông đảo nhất có lẻ là các anh em cựu chủng sinh Làng Sông-Qui Nhơn, cái nôi đào tạo linh mục triều cho các giáo phận Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng. Cho dù ít nhưng không thiếu các cựu chủng sinh thuộc chủng viện thừa sai Kon Tum, chủng viện Lâm bích Nha Trang và trẻ nhất đó là đại chủng viện Sao Biển Nha Trang.
Cho dù là cuộc gặp gỡ của những người thường được gắn liền với hai từ “tu xuất” không mấy thiện cảm, thì sự hiện diện và đồng hành của các linh mục trong giáo hạt trong mỗi lần họp mặt luôn là một dấu chỉ của tình hiệp thông, sẻ chia và huynh đệ. Cũng chính trong ý nghĩa đó, chủ đề được chọn để như một gợi ý xuyên suốt cho cuộc chia sẻ cảm nghiệm sống đức tin và dấn thân tông đồ lại chính là nội dung của trích đoạn Tin Mừng Mác-cô 6,45-56 với mệnh lệnh của chính Chúa Giêsu: “HÃY QUA BỜ BÊN KIA”.
Quả thật cuộc đời của mỗi một cựu chủng sinh-tu sĩ hay của mỗi người, nếu hiểu cho cùng, đều đã lắm lần theo lệnh của Thiên Chúa tình yêu mà “bước sang bờ bên kia”. Từ một thiếu nhi hiền ngoan dại khờ nơi xứ đạo, chú bé hay cô bé đã một lần “bước sang bờ bên kia” để sống những ngày nơi chủng viện, tu viện. Rồi cũng từ “bờ tu nầy”, lại một lần “qua bờ đời” trở lại, để rồi từ đó lại tiếp tục những bước “vượt qua” để sang “bờ bên kia” kế tiếp: Bờ bên kia của ngày vĩnh thệ trong giao ước lứa đôi; bờ bên kia của những lần tất tả lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn để bồng bế nhau di tản đến một phương trời xa lạ trong khói lửa chiến tranh. Có những người đã sang “bờ bên kia xa lắc” trên những chiếc thuyền mỏng manh…Và nhất là có những anh, những chị đã kết thúc cuộc hành trình dương thế khi chính thức bước sang “bờ bên kia vĩnh cửu”.
Từ gợi ý thâm thúy nầy của Tin Mừng, các anh chị đã sẻ chia cách chân tình những cảm nghiệm cuộc sống: Anh Dũng, người cựu chủng sinh trẻ thuộc đại chủng viện Sao Biển Nha Trang đã lập gia đình và đang có hai con, đã chia sẻ cái nổi thấm thía đắng cay, tất bật khi chấp nhận cái “bờ bên kia của cuộc sống gia đình”, một “cái bờ” không phải là “bến đổ” của an nhàn thư thái, mà luôn là một “bờ đá dựng với sóng cả xô bờ” để hằng ngày phải hy sinh và chấp nhận. Trong khi đó chị Quyến, một cựu tu sĩ dong Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đang sống giữa một vùng quê heo hút mà xung quanh, cả những người thân, đều là những người không có chung niềm tin Kitô. Vì thế, để trung thành giữ đạo, giáo dục đức tin cho con cái và thể hiện đức tin của chính mình, chị đã trả những cái giá thật đắt cho từng những hành vi nhỏ nhặt: Phải cải trang đi chợ khi trời còn tối mịt, tìm một nơi hoang vắng khoác vội chiếc áo dài, để đến được nhà thờ trong những ngày Chúa Nhật hay lễ trọng…Ngồi bên đường vắng hàng giờ trong đêm lạnh để đón con đi học giáo lý về…Cái “bờ bên kia” đời thường của chị nó tuyệt vời đến thế. Riêng “Ông Cố Hạc”, cựu chủng sinh Qui Nhơn, đang có một người con trai sắp mản đại chủng viện Sao Biển Nha Trang quyết tâm sửa lại danh xưng “ông bà cố” thành “ông bà “CỐ” gắng, để tự nhắn nhủ mình và những người thân luôn từng ngày “cố gắng” thực thi thánh ý Chúa, Lời dạy Tin Mừng, thực hành cá việc đạo đức, chu toàn bổn phận…Và như thế, cuộc đời không phải chỉ một hai lần “sang bờ bên kia” mà phải “qua bờ bên kia” liên tuc bất tân. Vì đó là cuộc vượt qua cái tôi của chính mình để đạt tới những con đường phúc thật của Tin Mừng…
Cao điểm của ngày “hội ngộ” là cuộc hiệp thông nơi Bàn Tiệc Thánh Thể mà sứ điệp Lời Chúa qua thị kiến “hãy giết mà ăn” của Thánh Phêrô được sách Công vụ sứ đồ tường thuật, và trích đoạn Tin Mừng Gioan về “ Người Mục Tử nhân lành” lại là một gọi mời dấn thân hết mình cho công cuộc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Cho dù cuộc sống đời thường đầy tất bật truân chuyên, cho dù gió bụi thời gian đã mang theo sợi bạc trên nhiều mái đầu và cái dấu mệt mõi đã phảng phất đâu đó trên nhiều khuôn mặt, thì cái “ngày thứ Hai truyền thống sau Chúa Nhật Chúa Chiên Lành” vẫn là dịp để các anh chị em cựu chủng sinh-tu sĩ giáo hạt Phú Yên ngồi lại với nhau mà “ôn cố tri tân”, kể lại chuyện đời và phác thảo đôi nét đan thanh nào đó về tương lai của chính mình, của con cái và của cả gia đình Giáo Hội địa phương mà mình đang dấn thân phục vụ. Hy vọng rồi cái ngày “thứ Hai truyền thống” ấy đến hẹn lại về mãi mãi và mãi mãi.
Nếu ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh, Giáo Hội toàn cầu mừng ngày Ơn Thiên Triệu tu trì, thì đặc biệt, tại giáo xứ Tuy Hòa, giáo hạt Phú Yên lại chọn ngày thứ Hai kế tiếp làm ngày “Ơn thiên triệu “Ta-Ru”, tức ngày họp mặt truyền thống của các anh chị em cựu chủng sinh và tu sĩ, những người đã có một khoảng đời bước đi trên nẻo đường ơn gọi tu trì. Họ là những cựu tu sĩ nam thuộc các dòng Mỹ Ca, Giuse hay những cựu đệ tử hay tu sĩ nữ của các dòng Mến Thánh Giá Tân Bình, Phaolô Chartres Đà Nẵng, MTG Qui Nhơn…Đông đảo nhất có lẻ là các anh em cựu chủng sinh Làng Sông-Qui Nhơn, cái nôi đào tạo linh mục triều cho các giáo phận Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng. Cho dù ít nhưng không thiếu các cựu chủng sinh thuộc chủng viện thừa sai Kon Tum, chủng viện Lâm bích Nha Trang và trẻ nhất đó là đại chủng viện Sao Biển Nha Trang.
Cho dù là cuộc gặp gỡ của những người thường được gắn liền với hai từ “tu xuất” không mấy thiện cảm, thì sự hiện diện và đồng hành của các linh mục trong giáo hạt trong mỗi lần họp mặt luôn là một dấu chỉ của tình hiệp thông, sẻ chia và huynh đệ. Cũng chính trong ý nghĩa đó, chủ đề được chọn để như một gợi ý xuyên suốt cho cuộc chia sẻ cảm nghiệm sống đức tin và dấn thân tông đồ lại chính là nội dung của trích đoạn Tin Mừng Mác-cô 6,45-56 với mệnh lệnh của chính Chúa Giêsu: “HÃY QUA BỜ BÊN KIA”.
Quả thật cuộc đời của mỗi một cựu chủng sinh-tu sĩ hay của mỗi người, nếu hiểu cho cùng, đều đã lắm lần theo lệnh của Thiên Chúa tình yêu mà “bước sang bờ bên kia”. Từ một thiếu nhi hiền ngoan dại khờ nơi xứ đạo, chú bé hay cô bé đã một lần “bước sang bờ bên kia” để sống những ngày nơi chủng viện, tu viện. Rồi cũng từ “bờ tu nầy”, lại một lần “qua bờ đời” trở lại, để rồi từ đó lại tiếp tục những bước “vượt qua” để sang “bờ bên kia” kế tiếp: Bờ bên kia của ngày vĩnh thệ trong giao ước lứa đôi; bờ bên kia của những lần tất tả lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn để bồng bế nhau di tản đến một phương trời xa lạ trong khói lửa chiến tranh. Có những người đã sang “bờ bên kia xa lắc” trên những chiếc thuyền mỏng manh…Và nhất là có những anh, những chị đã kết thúc cuộc hành trình dương thế khi chính thức bước sang “bờ bên kia vĩnh cửu”.
Từ gợi ý thâm thúy nầy của Tin Mừng, các anh chị đã sẻ chia cách chân tình những cảm nghiệm cuộc sống: Anh Dũng, người cựu chủng sinh trẻ thuộc đại chủng viện Sao Biển Nha Trang đã lập gia đình và đang có hai con, đã chia sẻ cái nổi thấm thía đắng cay, tất bật khi chấp nhận cái “bờ bên kia của cuộc sống gia đình”, một “cái bờ” không phải là “bến đổ” của an nhàn thư thái, mà luôn là một “bờ đá dựng với sóng cả xô bờ” để hằng ngày phải hy sinh và chấp nhận. Trong khi đó chị Quyến, một cựu tu sĩ dong Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đang sống giữa một vùng quê heo hút mà xung quanh, cả những người thân, đều là những người không có chung niềm tin Kitô. Vì thế, để trung thành giữ đạo, giáo dục đức tin cho con cái và thể hiện đức tin của chính mình, chị đã trả những cái giá thật đắt cho từng những hành vi nhỏ nhặt: Phải cải trang đi chợ khi trời còn tối mịt, tìm một nơi hoang vắng khoác vội chiếc áo dài, để đến được nhà thờ trong những ngày Chúa Nhật hay lễ trọng…Ngồi bên đường vắng hàng giờ trong đêm lạnh để đón con đi học giáo lý về…Cái “bờ bên kia” đời thường của chị nó tuyệt vời đến thế. Riêng “Ông Cố Hạc”, cựu chủng sinh Qui Nhơn, đang có một người con trai sắp mản đại chủng viện Sao Biển Nha Trang quyết tâm sửa lại danh xưng “ông bà cố” thành “ông bà “CỐ” gắng, để tự nhắn nhủ mình và những người thân luôn từng ngày “cố gắng” thực thi thánh ý Chúa, Lời dạy Tin Mừng, thực hành cá việc đạo đức, chu toàn bổn phận…Và như thế, cuộc đời không phải chỉ một hai lần “sang bờ bên kia” mà phải “qua bờ bên kia” liên tuc bất tân. Vì đó là cuộc vượt qua cái tôi của chính mình để đạt tới những con đường phúc thật của Tin Mừng…
Cao điểm của ngày “hội ngộ” là cuộc hiệp thông nơi Bàn Tiệc Thánh Thể mà sứ điệp Lời Chúa qua thị kiến “hãy giết mà ăn” của Thánh Phêrô được sách Công vụ sứ đồ tường thuật, và trích đoạn Tin Mừng Gioan về “ Người Mục Tử nhân lành” lại là một gọi mời dấn thân hết mình cho công cuộc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Cho dù cuộc sống đời thường đầy tất bật truân chuyên, cho dù gió bụi thời gian đã mang theo sợi bạc trên nhiều mái đầu và cái dấu mệt mõi đã phảng phất đâu đó trên nhiều khuôn mặt, thì cái “ngày thứ Hai truyền thống sau Chúa Nhật Chúa Chiên Lành” vẫn là dịp để các anh chị em cựu chủng sinh-tu sĩ giáo hạt Phú Yên ngồi lại với nhau mà “ôn cố tri tân”, kể lại chuyện đời và phác thảo đôi nét đan thanh nào đó về tương lai của chính mình, của con cái và của cả gia đình Giáo Hội địa phương mà mình đang dấn thân phục vụ. Hy vọng rồi cái ngày “thứ Hai truyền thống” ấy đến hẹn lại về mãi mãi và mãi mãi.
Chuyến đi Yên Bái của tình yêu thương do anh chị em Sinh viên Công giáo Bùi Chu và Nam Định thực hiện
Quốc Tỉnh
04:01 06/05/2009
HƯNG HÓA - Giáo xứ vùng cao Phình Hồ thuộc Giáo Phận Hưng Hoá, nơi phần đông bà con giáo dân là người H'mông. Cuộc sống vô cùng khó khăn, còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu. Địa bàn hiểm trở, nơi đó việc cử hành Thánh Lễ của Cha xứ vô cùng khó khăn. Lòng đạo đức mến yêu Thiên Chúa của bà con nơi đây thật là tuyệt vời, dù rằng Thánh Lễ trên xứ vùng cao này chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đoàn sinh viên công giáo của 2 nhóm Bùi Chu và Nam Định đang học tập và làm việc tại Hà Nôi, đã tổ chức chuyến đi lên thăm bà con giáo dân xứ Phình Hồ trong dịp nghỉ 30/04 và 1/5 vừa qua. Chúng tôi khởi hành từ xứ Kẻ Sét khi mà người dân thủ đô đã đi vào giấc ngủ..cuộc hành trình của đoàn thật là gian nan. Quãng đường từ Hà Nội lên thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái khoảng 300km nhưng chúng tôi đã phải đi mất 12 giờ đồng hồ. Xe của đoàn gặp nạn giữa núi rừng, có Chúa và Mẹ ở bên nâng đỡ 50 thành viên trong đoàn chúng con được bình an.
Lên tới thị xã Nghĩ Lộ đoàn được Cha xứ và ban hành giáo đón tiếp thân tình. Sáng sớm ngày hôm sau đoàn chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình lên xứ bản Phình Hồ. Con đường vào đây là độc đạo, nó có thể ví như một chiếc bậc thang để lên trời hái mây đuổi gió.Từ nhà thờ Nghĩa Lộ 20 cây số có một lối mòn nhỏ con đường đất gập ghềnh và lổng chổng đá sỏi, xẻ những rãnh nước ngang dọc trên bề mặt, đủ khiến những tay lái yếu bóng vía phải chờn lòng. Đây thực sự là những thử thách cho các bạn sinh viên. Xe ô tô chỉ đi được 12km, quãng đường còn lại các bạn sinh viên cùng '' hành quân''. Con đường bắt đầu nhoài mình ra lưng núi, đã thấy những đồi chè non xanh mượt nằm như bát úp trải dài về cuối chân trời. Cánh đồng xa tít tắp, những dòng suối uốn quanh mát lành. Bên sườn núi cheo leo, xanh màu cây, nâu đỏ màu đất, bồng bềnh màu mây trắng. Hương chè xanh ngai ngái len nhẹ giữa đám cỏ lau mọc dại ven đường. Khung cảnh thật khoáng đạt, diệu vợi và bạn thì ngợp trong sương trong gió. Cung đường dốc ngược như một vết dao chém ngọt vào vách núi da xanh đến mịn màng, đứng trên sườn bên này nhìn sang, lạ kỳ sao mãi vẫn không muốn dời chân đi. đường độc đạo với những con dốc dựng ngược và lởm chởm đá. Sau 3 giờ đi bộ vượt qua quãng đường 8km đường đồi núi,đoàn chúng tôi đã đến được giáo xứ Phình Hồ. Chúng tôi tiến vào nhà thờ chào Chúa và Mẹ cùng dâng lời tạ ơn.Ngôi thánh đường thật đơn sơ nhỏ bé và cũng thật trang nghiêm. Sau khi liên hệ được ban hành giáo. Chúng tôi bắt đầu công việc của mình là thăm gặp gỡ bà con nơi đây. Các cụ già, các em thiếu nhi, qua những câu truyện thăm hỏi, cùng vui chơi với các em nhỏ trông những khuân mặt của họ thật rạng ngời. Số tặng phẩm đoàn mang theo để tặng bà con..muối, đường, rổ rá, mì tôm, dược phẩm, dầu gió..và quần áo. Với một địa hình phức tạp đồi núi hiểm trở. Đoàn 50 người đã chia thành 7 nhóm để đi đến 3 bản làng: Tà Chử, Trí Lư, Phình Hồ...thăm và tặng quà được cho 135 hộ gia đình.
Cuộc sống của bà con vô cùng khó khăn, vì còn nhiều phong tục lạc hậu..bữa cơm chỉ có rau và muối trắng...cây ngô cây sắn là lương thực chủ yếu, khi đến thăm các gia đình, chỉ có các em nhỏ và cụ già ở nhà, mọi người từ 12 tuổi đều đi kiếm củi và đi lên nương. Đến tối, nhà nhà mới quây quần bên bếp lửa hồng. Những bắp ngô nếp nướng than hoa đỏ rực, tiếng ngô nổ lách tách, mùi thơm toả khắp nhà...
Chiều xuống nhanh, mây từ sau núi lãng đãng vây quanh những đỉnh cao nhất che khuất mặt trời.Chúng tôi ai ai đều thấy tiếc nuối vì không thể ở lại cùng bà con, trời đã sầm sập tối. Chặng đường vừa đi không phải dễ dàng gì, vì vậy chúng tôi quyết định quay ra ngay Nghĩa Lộ để nghỉ đêm. Lỡ hẹn với cả dân bản, không thể ở cùng dân bản nơi đây vì ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành là ngày chầu lượt của giáo xứ...Chúng tôi chỉ biết dâng lời cầu nguyện, xin Chúa gìn giữ đoàn chiên của Ngài..ở nơi đó đàn sói giữ luôn rình rập để triệt hạ con chiên của Ngài.
Chúng tôi xuống núi trở về xứ Nghĩa Lộ, hôm nay đoàn đã được gặp và chào Cha chính xứ sau khi ngài đi mục vụ trở về. Đoàn đã được Cha sắp xếp giao lưu cùng giới trẻ và ca đoàn giáo xứ cùng dâng hoa kính Đức Mẹ, giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại và cầu nguyện.
Chia tay Phình Hồ, chia tay Nghĩa Lộ, chùng tôi trở về Hà Nội tiếp tục công việc của mình. Những kỉ niệm những hình ảnh của bà con Phình Hồ- hương vị của núi rừng cứ luẩn quẩn bám vào tóc tai, vào da thịt, vào quần áo và trở thành một nỗi ám ảnh, như một lời hẹn chúng tôi sẽ còn quay trở lại nơi này…
Đoàn sinh viên công giáo của 2 nhóm Bùi Chu và Nam Định đang học tập và làm việc tại Hà Nôi, đã tổ chức chuyến đi lên thăm bà con giáo dân xứ Phình Hồ trong dịp nghỉ 30/04 và 1/5 vừa qua. Chúng tôi khởi hành từ xứ Kẻ Sét khi mà người dân thủ đô đã đi vào giấc ngủ..cuộc hành trình của đoàn thật là gian nan. Quãng đường từ Hà Nội lên thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái khoảng 300km nhưng chúng tôi đã phải đi mất 12 giờ đồng hồ. Xe của đoàn gặp nạn giữa núi rừng, có Chúa và Mẹ ở bên nâng đỡ 50 thành viên trong đoàn chúng con được bình an.
Lên tới thị xã Nghĩ Lộ đoàn được Cha xứ và ban hành giáo đón tiếp thân tình. Sáng sớm ngày hôm sau đoàn chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình lên xứ bản Phình Hồ. Con đường vào đây là độc đạo, nó có thể ví như một chiếc bậc thang để lên trời hái mây đuổi gió.Từ nhà thờ Nghĩa Lộ 20 cây số có một lối mòn nhỏ con đường đất gập ghềnh và lổng chổng đá sỏi, xẻ những rãnh nước ngang dọc trên bề mặt, đủ khiến những tay lái yếu bóng vía phải chờn lòng. Đây thực sự là những thử thách cho các bạn sinh viên. Xe ô tô chỉ đi được 12km, quãng đường còn lại các bạn sinh viên cùng '' hành quân''. Con đường bắt đầu nhoài mình ra lưng núi, đã thấy những đồi chè non xanh mượt nằm như bát úp trải dài về cuối chân trời. Cánh đồng xa tít tắp, những dòng suối uốn quanh mát lành. Bên sườn núi cheo leo, xanh màu cây, nâu đỏ màu đất, bồng bềnh màu mây trắng. Hương chè xanh ngai ngái len nhẹ giữa đám cỏ lau mọc dại ven đường. Khung cảnh thật khoáng đạt, diệu vợi và bạn thì ngợp trong sương trong gió. Cung đường dốc ngược như một vết dao chém ngọt vào vách núi da xanh đến mịn màng, đứng trên sườn bên này nhìn sang, lạ kỳ sao mãi vẫn không muốn dời chân đi. đường độc đạo với những con dốc dựng ngược và lởm chởm đá. Sau 3 giờ đi bộ vượt qua quãng đường 8km đường đồi núi,đoàn chúng tôi đã đến được giáo xứ Phình Hồ. Chúng tôi tiến vào nhà thờ chào Chúa và Mẹ cùng dâng lời tạ ơn.Ngôi thánh đường thật đơn sơ nhỏ bé và cũng thật trang nghiêm. Sau khi liên hệ được ban hành giáo. Chúng tôi bắt đầu công việc của mình là thăm gặp gỡ bà con nơi đây. Các cụ già, các em thiếu nhi, qua những câu truyện thăm hỏi, cùng vui chơi với các em nhỏ trông những khuân mặt của họ thật rạng ngời. Số tặng phẩm đoàn mang theo để tặng bà con..muối, đường, rổ rá, mì tôm, dược phẩm, dầu gió..và quần áo. Với một địa hình phức tạp đồi núi hiểm trở. Đoàn 50 người đã chia thành 7 nhóm để đi đến 3 bản làng: Tà Chử, Trí Lư, Phình Hồ...thăm và tặng quà được cho 135 hộ gia đình.
Cuộc sống của bà con vô cùng khó khăn, vì còn nhiều phong tục lạc hậu..bữa cơm chỉ có rau và muối trắng...cây ngô cây sắn là lương thực chủ yếu, khi đến thăm các gia đình, chỉ có các em nhỏ và cụ già ở nhà, mọi người từ 12 tuổi đều đi kiếm củi và đi lên nương. Đến tối, nhà nhà mới quây quần bên bếp lửa hồng. Những bắp ngô nếp nướng than hoa đỏ rực, tiếng ngô nổ lách tách, mùi thơm toả khắp nhà...
Chiều xuống nhanh, mây từ sau núi lãng đãng vây quanh những đỉnh cao nhất che khuất mặt trời.Chúng tôi ai ai đều thấy tiếc nuối vì không thể ở lại cùng bà con, trời đã sầm sập tối. Chặng đường vừa đi không phải dễ dàng gì, vì vậy chúng tôi quyết định quay ra ngay Nghĩa Lộ để nghỉ đêm. Lỡ hẹn với cả dân bản, không thể ở cùng dân bản nơi đây vì ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành là ngày chầu lượt của giáo xứ...Chúng tôi chỉ biết dâng lời cầu nguyện, xin Chúa gìn giữ đoàn chiên của Ngài..ở nơi đó đàn sói giữ luôn rình rập để triệt hạ con chiên của Ngài.
Chúng tôi xuống núi trở về xứ Nghĩa Lộ, hôm nay đoàn đã được gặp và chào Cha chính xứ sau khi ngài đi mục vụ trở về. Đoàn đã được Cha sắp xếp giao lưu cùng giới trẻ và ca đoàn giáo xứ cùng dâng hoa kính Đức Mẹ, giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại và cầu nguyện.
Chia tay Phình Hồ, chia tay Nghĩa Lộ, chùng tôi trở về Hà Nội tiếp tục công việc của mình. Những kỉ niệm những hình ảnh của bà con Phình Hồ- hương vị của núi rừng cứ luẩn quẩn bám vào tóc tai, vào da thịt, vào quần áo và trở thành một nỗi ám ảnh, như một lời hẹn chúng tôi sẽ còn quay trở lại nơi này…
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Vụ Bauxít ở Tây Nguyên là Đỉnh Cao Lừa Dối và Độc Đoán Của Cộng Sản Việt Nam
Đỗ Hữu Nghiêm
05:49 06/05/2009
Cung Cách Làm Việc Bấy Lâu Nay Của Cộng Sản Việt Nam Cho Thấy Bản Chất Phản Dân Chủ Của Chế Độ Hiện Nay ở Việt Nam.
Trong các quyết định của cộng sản Việt Nam từ khi chiếm xong miền Nam đến nay hoàn toàn được thực hiện một cách chuyên đoán, và sự kiện Bauxít ở Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam cho thấy mức độ chuyên đoán đó bộc lộ đến cao điểm, rõ rệt nhất. Đặc tính của chính sách chuyên đoán đó trái hẳn với những điều mà Đảng Cộng Sản vẫn tuyên truyền. Lừa dối hào hoáng đó gồm mấy đặc điểm chính sau đây:
1). Mọi quyết định đều xuất phát từ Đảng Cộng Sản Việt Nam mà đấu não của chính đáng đó là Trung Ương đảng Cộng Sản. Trong Ban trung ương quyền bính tập trung vào Bộ Chính Trị gồm 15 ủy viên. Như thế số phận đất nước thực tế do 15 ủy viên trung ương quyết định.
Nhân dân và quyền lợi tối thượng của đất nước đều nằm một cách tham lam và võ đoán trong Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. Các thủ tục thi hành quyết định và thi hành đều chỉ là hình thức: Các bộ phận chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội và Thủ Tướng chính phủ chỉ hoàn toàn là chức vụ hình thức bên ngoài, che đây thực quyền, giống như một tổ chức mafia, không hơn không kém.
Khi vụ bauxít bùng phát trong dư luận quốc nội và quốc tế, người ta mới thấy rõ những bước đi bí mật được phang phui từng chặng:
1).Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bàn việc riêng với nhân viên đối nhiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những lần đến thăm Bắc Kinh và Đảo Hải Nam.
Các điều khoản thỏa thuận và thi hành hoàn toàn được giữ bí mật, vả người ta chỉ được biết quyết định giữa hai Đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam được xúc tiến từ 2006.
Chính Phủ viện cớ là quyết định về việc xây dựng đập thủy điện Sơn La đã được đưa ra quốc hội. Tuy có nhiều ý kiến phản đối về nhiều mặt và nhiều lý do do nhiều thanh phần trong và ngoài quốc hội,cuối cùngdự án về đập Thủy Điện đó đã được quyết định thực hiện.
Nhưng các bước thi công đã gặp những thuận lợi và bất lợi nào và phải hiệu chỉnh thế nào vẫn chưa được báo cáo cho quốc hội và nhân dân được biết. Mới đây người ta chỉ biết việc thi công giải tỏa các địa điểm dân cư đã thực hiện tắc trắch và không thích hợp với tiến đồ thi công. Một lời xin lỗi xuông không thể che đậy các tham ô bòn rút trong tiến trình thi công
2). Chính phủ chỉ trả lời công luận bằng cách cho biết việc khai thác Tây Nguyên là một quyết định chính sách lớn của Đảng, nhưng một điều khuất tất, là giai đoạn khảo sát và nghiên cứu thẩm định các mặt chắc chắn đã không được
thực hiện trước khi thỏa ước với Trung quốc được quyết định, ký kết và thi hành bước đầu.
Chính sách khai thác bauxit Tây Nguyên cũng không hề được bàn bạc trước trong Ban Thường Vụ Quốc Hội và sau đó rộng rãi và công khai trong toàn thể quốc hội.
Quốc Hội là cơ quan quyền lực trên nguyên tắc là cơ quan cao nhất, tổng hợp các thành phần nhân dân, nhưng về cơ cấu thành phần và nhiệm vụ công tác, thì trong thực tế quốc hội chỉ là công cụ thi hành các biện pháp của Đảng khi cần thiết.
3). Mãi khi có dư luận và kiến nghị của nhiều giới quốc dân, nhất là các chuyên gia và trí thức thuộc mọi ngành có liên quan, chính phủ mới cho triệu tập muộn một hội nghị một số chuyên gia tư vấn.
Nhưng chính phủ vẫn không thay đổi quyết định mà chỉ nói là sắp xếp lại dự án dựa trên góp ý của các tầng lớp quần chúng nhân dân và cho tiến hành ở từng thời điểm và theo từng qui mô tới năm 2025.
Nhiều người đánh giá thái độ đó như chỉ có mục đích xoa dịu, lừa dối dư luận quần chúng như chưa từng có, hơn là tiếp nhận tích cực ý kiến của quần chúng, trong chế độ hiện nay tại Việt Nam.
Oakland, CA 1/5/2009
Trong các quyết định của cộng sản Việt Nam từ khi chiếm xong miền Nam đến nay hoàn toàn được thực hiện một cách chuyên đoán, và sự kiện Bauxít ở Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam cho thấy mức độ chuyên đoán đó bộc lộ đến cao điểm, rõ rệt nhất. Đặc tính của chính sách chuyên đoán đó trái hẳn với những điều mà Đảng Cộng Sản vẫn tuyên truyền. Lừa dối hào hoáng đó gồm mấy đặc điểm chính sau đây:
1). Mọi quyết định đều xuất phát từ Đảng Cộng Sản Việt Nam mà đấu não của chính đáng đó là Trung Ương đảng Cộng Sản. Trong Ban trung ương quyền bính tập trung vào Bộ Chính Trị gồm 15 ủy viên. Như thế số phận đất nước thực tế do 15 ủy viên trung ương quyết định.
Nhân dân và quyền lợi tối thượng của đất nước đều nằm một cách tham lam và võ đoán trong Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. Các thủ tục thi hành quyết định và thi hành đều chỉ là hình thức: Các bộ phận chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội và Thủ Tướng chính phủ chỉ hoàn toàn là chức vụ hình thức bên ngoài, che đây thực quyền, giống như một tổ chức mafia, không hơn không kém.
Khi vụ bauxít bùng phát trong dư luận quốc nội và quốc tế, người ta mới thấy rõ những bước đi bí mật được phang phui từng chặng:
1).Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bàn việc riêng với nhân viên đối nhiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những lần đến thăm Bắc Kinh và Đảo Hải Nam.
Các điều khoản thỏa thuận và thi hành hoàn toàn được giữ bí mật, vả người ta chỉ được biết quyết định giữa hai Đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam được xúc tiến từ 2006.
Chính Phủ viện cớ là quyết định về việc xây dựng đập thủy điện Sơn La đã được đưa ra quốc hội. Tuy có nhiều ý kiến phản đối về nhiều mặt và nhiều lý do do nhiều thanh phần trong và ngoài quốc hội,cuối cùngdự án về đập Thủy Điện đó đã được quyết định thực hiện.
Nhưng các bước thi công đã gặp những thuận lợi và bất lợi nào và phải hiệu chỉnh thế nào vẫn chưa được báo cáo cho quốc hội và nhân dân được biết. Mới đây người ta chỉ biết việc thi công giải tỏa các địa điểm dân cư đã thực hiện tắc trắch và không thích hợp với tiến đồ thi công. Một lời xin lỗi xuông không thể che đậy các tham ô bòn rút trong tiến trình thi công
2). Chính phủ chỉ trả lời công luận bằng cách cho biết việc khai thác Tây Nguyên là một quyết định chính sách lớn của Đảng, nhưng một điều khuất tất, là giai đoạn khảo sát và nghiên cứu thẩm định các mặt chắc chắn đã không được
thực hiện trước khi thỏa ước với Trung quốc được quyết định, ký kết và thi hành bước đầu.
Chính sách khai thác bauxit Tây Nguyên cũng không hề được bàn bạc trước trong Ban Thường Vụ Quốc Hội và sau đó rộng rãi và công khai trong toàn thể quốc hội.
Quốc Hội là cơ quan quyền lực trên nguyên tắc là cơ quan cao nhất, tổng hợp các thành phần nhân dân, nhưng về cơ cấu thành phần và nhiệm vụ công tác, thì trong thực tế quốc hội chỉ là công cụ thi hành các biện pháp của Đảng khi cần thiết.
3). Mãi khi có dư luận và kiến nghị của nhiều giới quốc dân, nhất là các chuyên gia và trí thức thuộc mọi ngành có liên quan, chính phủ mới cho triệu tập muộn một hội nghị một số chuyên gia tư vấn.
Nhưng chính phủ vẫn không thay đổi quyết định mà chỉ nói là sắp xếp lại dự án dựa trên góp ý của các tầng lớp quần chúng nhân dân và cho tiến hành ở từng thời điểm và theo từng qui mô tới năm 2025.
Nhiều người đánh giá thái độ đó như chỉ có mục đích xoa dịu, lừa dối dư luận quần chúng như chưa từng có, hơn là tiếp nhận tích cực ý kiến của quần chúng, trong chế độ hiện nay tại Việt Nam.
Oakland, CA 1/5/2009
Thông Báo
Bản Văn Chính Thức Chỉ Dẫn Sức Khỏe của CDC (Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh Hoa Kỳ)
Bùi Hữu Thư sưu tầm
18:22 06/05/2009
Bản Văn Chính Thức Chỉ Dẫn Sức Khỏe của CDC (Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh Hoa Kỳ)
Phân phối qua Mạng Lưới Báo Động Sức Khỏe
Ngày 26 tháng Tư năm 2009, 11h00 EST (Giờ chuẩn miền Đông) (11h00 SÁNG EDT (Giờ miền Đông Hoa Kỳ)
CDCHAN-000282-2009-04-26-ALT-N
Nguy Cơ Nhiễm Cúm Lợn Khi Đi Du Lịch Tới Những Khu Vực Bị Ảnh Hưởng
Các quan chức sức khỏe cộng đồng tại Mỹ và trên khắp thế giới đang điều tra nguy cơ bùng phát của bệnh cúm lợn.
Cúm lợn là một bệnh về hô hấp trên lợn do một chủng vi-rút cúm A thường gây bùng phát cúm ở lợn. Vi-rút cúm lợn thông thường không lây sang người, tuy nhiên hiện tượng lây lan cúm lợn sang người đã xảy ra. Các quan chức sức khỏe cộng đồng đã xác định vi-rút cúm lợn có chiều hướng lây nhiễm từ người sang người và có thể gây bệnh.
Sự bùng phát bệnh đang diễn ra và dự kiến sẽ còn có thêm nhiều ca nhiễm bệnh. Để biết thêm thông tin về tình hình lây nhiễm cúm lợn, hãy xem trên trang mạng của Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh Hoa Kỳ (CDC): http://www.cdc.gov/swineflu/. Để biết thông tin cụ thể về những biện pháp phòng ngừa khi đi du lịch và một bản thông tin cập nhật những khu vực bị ảnh hưởng, hãy truy cập: www.cdc.gov/travel.
Những triệu chứng của cúm lợn ở người tương tự như những triệu chứng của bệnh cúm theo mùa ở người và có thể bao gồm:
- Sốt (trên 100°F hoặc 37,8°C)
- Viêm họng
- Ho
- Ngạt mũi
- Cảm giác ớn lạnh
- Đau đầu và đau người
- Mệt mỏi
Những người tới Mỹ có triệu chứng giống như mắc cúm lợn và đã đi du lịch tới một khu vực bị ảnh hưởng (xem http://www.cdc.gov/swineflu/investigation.htm để biết các khu vực bị ảnh hưởng), hoặc đã từng tiếp xúc với người có khả năng nhiễm cúm lợn, trong vòng 7 ngày gần nhất cần báo cáo thể trạng đau ốm của họ cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngay lập tức và cho họ biết về chuyến du lịch gần đây của mình.
Những người đi du lịch từ Mỹ tới các khu vực bị ảnh hưởng cần hiểu rõ về nguy cơ mắc bệnh do cúm lợn và thực hiện những biện pháp phòng ngừa.
Để ngăn chặn sự lan tràn của cúm lợn:
- Tránh tiếp xúc với người bị ốm.
- Khi bạn ho hoặc hắt hơi, che mũi và miệng bằng khăn giấy hoặc tay áo (nếu bạn không mang theo khăn giấy). Vứt bỏ khăn giấy đã dùng vào thùng rác.
- Sau khi bạn ho hoặc hắt hơi, rửa tay bằng nước và xà phòng, hoặc dùng gel rửa tay sệt chứa chất cồn.
- Nếu bạn cho rằng mình bị ốm do cúm, tránh tối đa việc tiếp xúc trực tiếp với người khác. Ở nguyên tại nhà hoặc trong phòng khách sạn của bạn. Tìm kiếm chăm sóc y tế nếu bạn bị ốm nặng (ví dụ như khó thở). Có những loại dược phẩm chống vi-rút để ngăn ngừa và điều trị cúm lợn mà bác sĩ có thể kê đơn. Không làm việc, đi học hoặc đi du lịch trong khi đang ốm.
- Liên hệ với sở y tế địa phương hoặc tiểu bang của bạn
- Truy cập http://www.cdc.gov/swineflu/
- Liên Hệ Với CDC 24 Giờ Hàng Ngày
- 1-800-CDC-INFO (232-4636)
- TTY: (888) 232-6348
- cdcinfo@cdc.gov
Báo Động Sức Khỏe truyền đạt mức độ quan trọng cao nhất; cho phép hành động và chú ý ngay lập tức.
Chỉ Dẫn Sức Khỏe cung cấp thông tin quan trọng cho một sự việc hay tình huống cụ thể; có thể không cần hành động ngay lập tức.
Cập Nhật Thông Tin Sức Khỏe cung cấp thông tin cập nhật về một sự việc hay tình huống; nhiều khả năng không cần hành động ngay lập tức.
#Thông Báo này được phân phối tới các Nhân Viên Y Tế Tiểu Bang và Địa Phương, Nhân Viên Thông Tin Công Chúng, các Nhà Nghiên Cứu Dịch Bệnh và Điều Phối Viên của HAN (Mạng Lưới Báo Động Sức Khỏe) cũng như các tổ chức Lâm Sàng#
Bạn đã nhận được thông báo này dựa trên thông tin có trong cơ sở dữ liệu thông báo khẩn cấp của chúng tôi. Nếu bạn có một địa chỉ fax hay e-mail khác hoặc bổ sung mà bạn muốn chúng tôi sử dụng, hãy liên hệ với chương trình Mạng Lưới Báo Động Sức Khỏe Tiểu Bang tại sở y tế địa phương hoặc Tiểu Bang của bạn.
Văn Hóa
Mẹ!
Vọng Sinh
18:29 06/05/2009
Mẹ!
- Mẹ! Chỉ một tiếng “Mẹ” thôi
- Cho con muôn ấm áp ngàn đời.
- Mẹ ấm hơn muôn triệu ánh mặt trời
- Sáng hơn cả ngàn trăng sao tinh tú
- Soi bước con giữa đêm tối cuộc đời.
- Mẹ đã cho con làm người
- Chín tháng cưu mang lòng Mẹ tôi
- Con đập chung nhịp tim Mẹ đập
- Con thở hơi Mẹ thở không rời.
- Giòng máu Mẹ chảy xiết trong người
- Nuôi con lớn khôn lớn từng ngày
- Say lời Mẹ ru vào mộng đẹp
- No giòng sữa ngọt đắm giấc nồng.
- Ngày từng ngày Mẹ trông Mẹ mong
- Mong con vững bước chân chập chững
- Mong con nói sõi gọi “Mẹ ơi!”
- Mong con mau khôn lớn nên người.
- Biết bao điều Mẹ mong con ơi!
- Mẹ làm tất cả cho con thôi.
- Mẹ đâu quản gian lao vất vả
- Cả một đời lặn lội ngược xuôi.
- Từng ngày trôi con lớn khôn rồi
- Con nên người nên nghiệp với đời
- Còn Mẹ thời gìa nua yếu đuối
- Nhớ mong con lủi thủi một góc trời.
- Nơi phương xa con đã quên Mẹ gìa
- Con quên mất nơi quê nhà xa đó
- Có người Mẹ vẫn ngóng nhớ con xa
- Nhớ mong con nhỏ lệ đôi mắt lòa.
- Con cầu khẩn xin Ơn Trên Lượng Cả
- Cho Mẹ gìa những ngày tháng an hòa
- Cho con bay về ngay bên Mẹ
- Lau giọt lệ trên mắt Mẹ mù lòa.
Vọng Sinh (Muôn muôn vàn thương nhớ Mẹ già ở mãi chốn quê xa.)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Vườn Hoa Của Mẹ
Đặng Đức Cương
06:15 06/05/2009
VƯỜN HOA CỦA MẸ
Ảnh của Đặng Đức Cương
Hồn con như một đóa hồng
Xin dâng cho mẹ tỏ lòng kính yêu.
Mẹ ơi ! Thương mẹ rất nhiều.
Nhớ mẹ trong mỗi kinh chiều – chuỗi mai
Dù đường đời lắm đổi thay.
Nhưng con vẫn giữ mẹ hoài trong tim.
(Ngọc Danh)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền