Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời Chúa căn dặn
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
01:33 17/05/2017
Chúa Nhật 6 Phục Sinh A
Lời Chúa căn dặn
Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng phải xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nỗ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con! Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…Khi yêu ai, mến thương ai, người ta luôn lưu giữ những hình ảnh, kỷ niệm và lời nói thân thương của người ấy.
Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã căn dặn, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài nói hết tâm tình, hết con tim của mình và muốn các môn sinh lưu giữ trong tâm hồn những lời tâm huyết này: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12); "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14,15); "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (Ga 14,21).
1. "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy"
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, chúng ta sống trong Ngài: "Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em". Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài "Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta" (Ga 15,10).
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy". Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Như vậy, câu nói "nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" có nghĩa là "nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau". Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: "Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4,20).
2. “Anh em có lòng yêu thương nhau”
Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với tha nhân là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là môn đệ "hữu danh vô thực", giả hiệu mà thôi. Tình yêu thật sự, tình yêu chân thành thì cần phải có hy sinh, cần có quên mình. “Tình yêu mà không có hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa” (ĐGM.Bùi Tuần).
Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm cả cuộc đời về những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.
Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói : "Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy".
3. Gương sáng sống Lời Chúa
Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.
Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: "Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác.... Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ". Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật sự và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi, mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.
Những ngày qua, các trang web Công Giáo viết nhiều về gương sáng của vị Linh mục “Một bác sĩ Phật tử trở thành Linh mục vì người nghèo, bệnh nhân phong-sida, đã về với Chúa”. Thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn Viết Chung thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) ngày 13/5/2017, tại nhà thờ giáo xứ Phát Diệm, Sài gòn.
Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo kể về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp. Ðức Cha Jean Cassaigne trở thành thần tượng của chàng trai trẻ. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như lòng khát khao. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo và là một bác sĩ chuyên khoa Da liễu. Nhờ tin vào Đức Kitô nên vị bác sĩ đã theo Chúa và trở thành linh mục của Chúa vào ngày lễ truyền tin 25.3.2003. Sau ngày lãnh tác vụ linh mục, ngài dấn thân truyền giáo, phục vụ người nghèo, bệnh nhân phong. Vị mục tử không chỉ nặng mà nhiễm cả mùi chiên, máu chiên vào trong người. Nơi thân xác gầy guộc của ngài lại ẩn chứa sức mạnh ơn thánh và một tấm lòng nhân ái bao la. Ngài yêu mến Chúa nơi những con người đau khổ và yêu thương họ như yêu mến Chúa.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
Lời Chúa căn dặn
Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng phải xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nỗ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con! Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…Khi yêu ai, mến thương ai, người ta luôn lưu giữ những hình ảnh, kỷ niệm và lời nói thân thương của người ấy.
Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã căn dặn, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài nói hết tâm tình, hết con tim của mình và muốn các môn sinh lưu giữ trong tâm hồn những lời tâm huyết này: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12); "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14,15); "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (Ga 14,21).
1. "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy"
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, chúng ta sống trong Ngài: "Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em". Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài "Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta" (Ga 15,10).
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy". Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Như vậy, câu nói "nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" có nghĩa là "nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau". Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: "Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4,20).
2. “Anh em có lòng yêu thương nhau”
Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với tha nhân là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là môn đệ "hữu danh vô thực", giả hiệu mà thôi. Tình yêu thật sự, tình yêu chân thành thì cần phải có hy sinh, cần có quên mình. “Tình yêu mà không có hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa” (ĐGM.Bùi Tuần).
Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm cả cuộc đời về những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.
Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói : "Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy".
3. Gương sáng sống Lời Chúa
Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.
Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: "Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác.... Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ". Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật sự và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi, mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.
Những ngày qua, các trang web Công Giáo viết nhiều về gương sáng của vị Linh mục “Một bác sĩ Phật tử trở thành Linh mục vì người nghèo, bệnh nhân phong-sida, đã về với Chúa”. Thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn Viết Chung thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) ngày 13/5/2017, tại nhà thờ giáo xứ Phát Diệm, Sài gòn.
Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo kể về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp. Ðức Cha Jean Cassaigne trở thành thần tượng của chàng trai trẻ. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như lòng khát khao. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo và là một bác sĩ chuyên khoa Da liễu. Nhờ tin vào Đức Kitô nên vị bác sĩ đã theo Chúa và trở thành linh mục của Chúa vào ngày lễ truyền tin 25.3.2003. Sau ngày lãnh tác vụ linh mục, ngài dấn thân truyền giáo, phục vụ người nghèo, bệnh nhân phong. Vị mục tử không chỉ nặng mà nhiễm cả mùi chiên, máu chiên vào trong người. Nơi thân xác gầy guộc của ngài lại ẩn chứa sức mạnh ơn thánh và một tấm lòng nhân ái bao la. Ngài yêu mến Chúa nơi những con người đau khổ và yêu thương họ như yêu mến Chúa.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
Dẫn Nhập & Lời Ngueyện Giáo Dân Chủ Nhật 6 Sau Phục Sinh A 21.5.2017
Lm Francis Lý văn Ca
18:23 17/05/2017
ĐẦU LỄ: Anh Chị Em thân mến,
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta suy niệm về sự phục sinh của Chúa. Trong những tuần lễ kế tiếp, chúng ta sẽ suy niệm về vai trò của Chúa Thánh Thần, mà Đức Kitô hứa sẽ sai đến với các tông đồ.
Thánh Thần là nguồn an ủi và cậy trông của các tông đồ và Giáo Hội thời sơ khai. Bắt đầu từ đây, Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện và dìu dắt Giáo Hội cho đến thời cánh chung và đức tin của người tín hữu của Chúa sẽ được nuôi dưỡng bằng các nhiệm tích, các nhiệm tích nầy do Đức Kitô thiết lập trong Giáo Hội và được lưu truyền do việc đặt tay của các tông đồ.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Các tông đồ đặt tay và chữa lành bệnh tật, được trình bày trong bài đọc hôm nay, cũng là những hình ảnh của các linh mục ngày nay vẫn thực hiện qua việc đặt tay hoặc cử hành các phép bí tích.
TRƯỚC BÀI ĐỌC II:
Qua sự chết và sống lại, Đức Kitô đã mang lại cho nhân loại ơn trường sinh bất tử. Qua Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ làm cho hoa trái thiêng liêng được sinh hoa kết quả.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Đức Kitô hứa ban Thánh Thần cho các tông đồ. Qua các bí tích mà linh mục cử hành, đại diện Chúa trao ban và Chúa Thánh Linh làm cho trổ sinh hoa trái. Vai trò của Chúa Thánh Linh rất quan trọng trong đời sống đời sống của người tín hữu hiện nay.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Lễ Hiện Xuống Mới. Với sự cầu bầu của Thánh linh Thiên Chúa, chúng ta mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện cầu sau đây:
1. Xin Chúa chúc lành và gìn giữ Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Giáo Hội luôn tiến bước trong an bình đuới sự dắt dìu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ông bà cô bác cao niên trong cộng đoàn-xứ đạo. Xin cho các ngài tìm được nguồn an ủi nơi con cái. Ước chi qua những hoạt động của Hội Cao Niên, các ngài sẽ tìm được tình bạn và niềm an ủi trong tuổi đời xế bóng. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Chúa đã sai thánh Philiphê đến với dân ngoại, xin Chúa cũng sai chúng ta đến với những bạn bè quen biết đồng hương, cùng một hoàn cảnh. Với ơn Chúa sáng soi, có thể chúng ta sẽ đem họ về với Chúa trong tinh thần và chân lý. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em đang chuẩn bị để lãnh nhận bí tích thêm sức trong Lễ Chủa Thánh Thần Hiện Xuống sắp tới, nhờ các giảng viên giúp đỡ, họ sẽ xứng đáng lãnh nhận nguồn Bảy Ơn sung mãn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Chúng ta cầu nguyện cho các tín hữu của Chúa đã qua đời. Đặc biệt, những linh hồn chúng ta nhớ đến trong tuần lễ nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Qua sự phục sinh, Chúa đã chiến thắng bóng tối và ma quỷ. Xin Thần Khí của Thánh Linh Thiên Chúa luôn gìn giữ chúng con tránh xa ba thù: thế gian, xác thịt và ma quỷ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta suy niệm về sự phục sinh của Chúa. Trong những tuần lễ kế tiếp, chúng ta sẽ suy niệm về vai trò của Chúa Thánh Thần, mà Đức Kitô hứa sẽ sai đến với các tông đồ.
Thánh Thần là nguồn an ủi và cậy trông của các tông đồ và Giáo Hội thời sơ khai. Bắt đầu từ đây, Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện và dìu dắt Giáo Hội cho đến thời cánh chung và đức tin của người tín hữu của Chúa sẽ được nuôi dưỡng bằng các nhiệm tích, các nhiệm tích nầy do Đức Kitô thiết lập trong Giáo Hội và được lưu truyền do việc đặt tay của các tông đồ.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Các tông đồ đặt tay và chữa lành bệnh tật, được trình bày trong bài đọc hôm nay, cũng là những hình ảnh của các linh mục ngày nay vẫn thực hiện qua việc đặt tay hoặc cử hành các phép bí tích.
TRƯỚC BÀI ĐỌC II:
Qua sự chết và sống lại, Đức Kitô đã mang lại cho nhân loại ơn trường sinh bất tử. Qua Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ làm cho hoa trái thiêng liêng được sinh hoa kết quả.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Đức Kitô hứa ban Thánh Thần cho các tông đồ. Qua các bí tích mà linh mục cử hành, đại diện Chúa trao ban và Chúa Thánh Linh làm cho trổ sinh hoa trái. Vai trò của Chúa Thánh Linh rất quan trọng trong đời sống đời sống của người tín hữu hiện nay.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Lễ Hiện Xuống Mới. Với sự cầu bầu của Thánh linh Thiên Chúa, chúng ta mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện cầu sau đây:
1. Xin Chúa chúc lành và gìn giữ Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Giáo Hội luôn tiến bước trong an bình đuới sự dắt dìu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ông bà cô bác cao niên trong cộng đoàn-xứ đạo. Xin cho các ngài tìm được nguồn an ủi nơi con cái. Ước chi qua những hoạt động của Hội Cao Niên, các ngài sẽ tìm được tình bạn và niềm an ủi trong tuổi đời xế bóng. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Chúa đã sai thánh Philiphê đến với dân ngoại, xin Chúa cũng sai chúng ta đến với những bạn bè quen biết đồng hương, cùng một hoàn cảnh. Với ơn Chúa sáng soi, có thể chúng ta sẽ đem họ về với Chúa trong tinh thần và chân lý. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em đang chuẩn bị để lãnh nhận bí tích thêm sức trong Lễ Chủa Thánh Thần Hiện Xuống sắp tới, nhờ các giảng viên giúp đỡ, họ sẽ xứng đáng lãnh nhận nguồn Bảy Ơn sung mãn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Chúng ta cầu nguyện cho các tín hữu của Chúa đã qua đời. Đặc biệt, những linh hồn chúng ta nhớ đến trong tuần lễ nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Qua sự phục sinh, Chúa đã chiến thắng bóng tối và ma quỷ. Xin Thần Khí của Thánh Linh Thiên Chúa luôn gìn giữ chúng con tránh xa ba thù: thế gian, xác thịt và ma quỷ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Điện tặc tấn công kinh hoàng trên thế giới bằng Ransomware.
Đặng Tự Do
04:56 17/05/2017
Máy điện toán của những nạn nhân bị tấn công bị khóa không thể làm gì cả cho đến khi nạn nhân trả một số tiền chuộc là 300 Mỹ Kim qua phương thức thanh toán BitCoin. Khi con số các nạn nhân gia tăng, số tiền chuộc đã tăng gấp đôi là 600 Mỹ Kim vào hôm thứ Hai 15 tháng 5.
Các chuyên viên điện toán cho rằng cuộc tấn công này xuất phát từ Bắc Hàn. Thông tấn xã Reuters ước lượng hơn 300,000 máy điện toán trên thế giới đã bị tấn công tại 150 quốc gia trên thế giới kể từ hôm thứ Sáu.
Lý do người ta nghi cho Bắc Hàn là vì nhiều đoạn thảo chương tìm thấy trong chương trình WannaCry này là những đoạn thảo chương đã được dùng bởi nhóm Lazrus. Nhóm này được nhiều người xác định là một hoạt động điện tặc của Bắc Hàn.
Các cuộc tấn công cuối tuần qua được ghi nhận là một trong các chiến dịch làm tiền lây lan nhanh nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, một số chuyên viên khác thì cho rằng còn quá sớm để đi đến kết luận là Bắc Hàn có dính líu vào cuộc tấn công này.
Trước đây nhóm Lazarus đã từng bị cáo buộc lấy cắp 81 triệu Mỹ Kim từ ngân hàng Trung Ương của Bangladesh.
Hoa Kỳ cũng cáo buộc nhóm này tấn công vào Sony Pictures vào năm 2014.
Thủ đoạn tấn công điện toán và đòi tiền chuộc này được gọi là Ransomware đã bắt đầu xảy ra vào năm 2005 và ngày càng trở nên tinh vi. Hiện nay, các ransomware không chỉ có khả năng tấn công các máy desktop và laptop, mà còn có thể tấn công cả những điện thoại di động.
Năm 2015, một loại ransomware được ngụy trang dưới hình thức một chương trình ứng dụng tên là Porn Droid, hứa hẹn sau khi cài đặt các điện thoại cầm tay có thể truy nhập miễn phí vào các hình ảnh khiêu dâm. Tuy nhiên, ứng dụng này sau khi cài đặt đã khóa điện thoại của nạn nhân, thay đổi PIN number và đòi 500 Mỹ Kim tiền chuộc.
Bi hài đến mức khó tin được (xin xem ở đây https://www.wired.com/2017/05/hacker-lexicon-guide-ransomware-scary-hack-thats-rise/) là cả cảnh sát Mỹ cũng phải đóng tiền chuộc. Thật vậy, một máy tính cảnh sát ở Swansea, Massachusetts cũng bị tấn công và sở cảnh sát đã quyết định trả tiền chuộc khoảng $750.
Thanh tra cảnh sát Gregory Ryan của Swansea nói với tờ Herald News:
“Virus này rất phức tạp và thành công nên chúng tôi đành phải mua những Bitcoins trả tiền chuộc, là điều chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến”.
Để tránh khỏi bị tấn công, bạn đừng bao giờ mở xem những files đính kèm trong một email không hề mong đợi, đặc biệt nếu nó đến từ một người chưa hề quen biết. Bạn cũng đừng lang thang quá nhiều trên Net. Đừng vào những web sites lạ. Thế giới sa ngã này đầy rẫy những hình ảnh dâm dục trên Net. Xem những hình ảnh ấy là một tội lỗi với các hậu quả nghiêm trọng.
Một Trăm Năm Đức Mẹ Fatima tại Liên Hiệp Quốc
Vũ Văn An
01:48 17/05/2017
Thứ Sáu 12 tháng Năm vừa qua, tại Liên Hiệp Quốc, Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza, Đại Sứ và là Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh bên cạnh Liên Hiệp Quốc, đã đọc một bài diễn văn tựa là “Một Trăm Năm Fatima và Sự Liên Hệ Lâu Dài của Sứ Điệp Hòa Bình của Nó”. Ngài cho rằng sứ điệp này không những ngỏ với thế giới Công Giáo mà còn là một bài học phổ quát “cho mọi người đang theo đuổi hòa bình”.
Dưới đây là nguyên văn bài diễn văn của Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza:
***
Thưa Đại Sứ Mendonça e Moura, Đại Diện Thường Trực của Bồ Đào Nha cạnh Liên Hiệp Quốc, Qúy Ngài, Qúy Diễn Giả, qúy bà và qúy ông,
Thực là một niềm vui lớn đối với riêng cá nhân tôi và đối với Sứ Bộ Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh được hợp tác với Sứ Bộ Thường Trực của Bồ Đào Nha cạnh Liên Hiệp Quốc để tổ chức biến cố kỷ niệm này dự ứng cho lễ kỷ niệm 100 năm việc khởi đầu các lần hiện ra ở Fatima vào ngày mai.
Ngay lúc này đây, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang tới căn cứ không quân Monte Real ở Leiria, Bồ Đào Nha, và trong vài phút nữa sẽ hội kiến với Tổng Thống Bồ Đào Nha Marcelo Rebelo de Sousa. Trong khi chúng ta đang tổ chức biến cố này ở đây, thì ngài đang dùng trực thăng để tới vận động trường Fatima và sẽ chuyển xe để tới Đền Thánh Đức Mẹ Fatima nơi, khi biến cố của chúng ta chấm dứt, thì ngài sẽ bước vào Capelinha, tức ngôi nhà nguyện Hiện Ra nhỏ bé để cầu nguyện và sẵn sàng chủ tọa buổi cầu nguyện dưới ánh nến và đọc kinh Mân Côi ban đêm.
Đối với những người chúng ta không thể có mặt ở Fatima với ngài để đánh dấu một trăm năm, tôi nghĩ đây, Liên Hiệp Quốc này, là nơi tốt thứ nhì để nói về Sự Liên Hệ Lâu Dài của Sứ Điệp Hòa Bình mà ba trẻ chăn chiên đầy khả tín chứng thực rằng vào ngày mai cách nay 100 năm, một bà mặc áo trắng tự xưng mình từ trời xuống đã loan báo cho các em lần đầu tiên.
Và vì chúng ta không thể ở đó, ở Cova da Iria, nên một phần của Fatima đã tới đây, tới trụ sở của Liên Hiệp Quốc này.Thánh tượng chúng ta hiện có đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII làm phép tại Vatican cách ngày mai 70 năm, tức năm 1947, nhân dịp kỷ niệm 30 năm việc khởi đầu các lần hiện ra ở Fatima và sau đó lại được làm phép bởi Đức Giám Mục Fatima vào ngày 13 tháng Mười năm 1952, dịp kỷ niệm năm thứ 35 lần hiện ra cuối cùng ở đó. Sau khi được làm phép ở Fatima, thánh tượng đã được chở tới Hoa Kỳ, nơi, vào ngày 8 tháng Mười Hai năm 1952, thánh tượng được chở tới Liên Hiệp Quốc bởi Đức Ông Harold Colgan, một linh mục ở Tiểu Bang New Jersey, người, 6 năm trước đó, đã thành lập một tổ chức sau này trở thành Đạo Binh Xanh và Tông Đồ Thế Giới Fatima. Với một người bạn, Đức Ông Colgan đã đem thánh tượng vào Phòng Suy Niệm bên cạnh Hành Lang Vãng Lai, nơi các ngài đọc kinh Mân Côi cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt Chiến Tranh Triều Tiên.
Hôm nay, sau gần 65 năm, bản sao thánh tượng ngự ở Nhà Nguyện Hiện Ra ở Fatima này lại trở lại Liên Hiệp Quốc. Chúng ta hy vọng các lời cầu nguyện cho hòa bình từng được đọc trước đây trước thánh tượng này trong khoảng sáu thập niên rưỡi vừa qua, bởi hàng triệu người khắp Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và nhiều quốc gia khác, sẽ được lắng nghe một cách đặc biệt cho hòa bình trên thế giới ngày nay nơi bạo lực đang tàn phá. Với sự phù giúp của ngài, chúng ta cầu nguyện một cách đặc biệt cho việc chấm dứt chiến tranh tại Syria, cho việc chấm dứt các đe dọa chiến tranh ngày một gia tăng ở bán đảo Triều Tiên, cho việc kết thúc bạo động ở Nam Sudan, ở Somalia, ở Yemen, ở Cộng Hòa Trung Phi, ở Cộng Hòa Dân Chủ Congo, và ở Đông Ukraine và các nơi khác đang có tranh chấp. Chúng ta cũng cầu nguyện cho việc chấm dứt khủng bố, bách hại tôn giáo, sắc tộc và chủng tộc, các đàn áp độc đoán, các tập đoàn ma túy sát nhân và tội ác có tổ chức, việc buôn người và các hình thức nô lệ tân thời, và những cuộc nổi dậy có tính quốc gia vốn đã và đang làm nhơ thế giới bằng máu và hận thù.
Khi chúng ta khảo sát sứ điệp của ba trẻ chăn chiên ở Fatima, Lucia dos Santos và các em họ của chị là Phanxicô và Jacinta Marto, sứ điệp mà người phụ nữ được thánh tượng này tượng trưng đã nói với các em, chúng ta có thể nói rằng Đức Maria chủ yếu xuất hiện như một vị Đại Sứ của Hòa Bình với lời kêu gọi các em trở thành các thành viên tham mưu, nói theo biệt ngữ của Liên Hiệp Quốc, trong Sứ Bộ Thường Trực của ngài cạnh mọi quốc gia. Và sứ bộ này, cho tới hôm nay, vẫn có liên hệ, vì hơn 50 tranh chấp bạo động hiện đang diễn biến trên khắp thế giới, trong điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô quen gọi là “Thế Chiến thứ 3 được đánh từng mảng” y hệt như cách nay một thế kỷ thời Thế Chiến thứ nhất.
Tuy nhiên, trước khi đề cập tới “kế hoạch hòa bình” mà các trẻ chăn chiên nói rằng Vị Đại Sứ của Hòa Bình đầy tình mẫu tử này đã công bố với các em, tôi muốn trực diện nói tới tính khả tín của những lần hiện ra ở Fatima. Làm thế nào ta có thể biết rằng điều các trẻ chăn chiên chứng thực rằng Đức Bà Fatima đã tỏ cho các em là đúng? Đối với những người không tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa hay sự siêu nhiên, thì những gì được cho là đã xảy ra ở Fatima cách đây một thế kỷ chỉ như thuộc lĩnh vực các câu chuyện thần tiên hơn là sự kiện. Đối với những ai tin vào Thiên Chúa, nhưng ý niệm của họ là về một vị thần tách biệt khỏi hiện sinh trần thế, thì sự can thiệp của một phụ nữ được cho là từ trời đến với những đứa trẻ chăn chiên như thế cũng khó mà có thể tin được. Đối với những tín đồ không phải là Kitô giáo, đối với những Kitô hữu thấy khó có thể chấp nhận lòng sùng kính Mẹ Chúa Giêsu của người Công Giáo hoặc Chính Thống Giáo, hoặc thậm chí đối với những người Công Giáo không thích ý niệm hiện ra một cách lạ lùng, thì những gì xảy ra ở Fatima dường như chỉ là mê tín dị đoan của những người có thiện ý nhưng cả tin.
Hầu hết những người không phải là Công Giáo và ngay cả nhiều người Công Giáo đều ngạc nhiên khi họ được biết người Công Giáo không phải tin vào những gì được cho là đã xảy ra ở Fatima cách đây một thế kỷ. Họ không phải tin rằng Đức Maria đã hiện ra gì cả, hoặc bất cứ điều gì ngài yêu cầu các trẻ chăn chiên. Trong thần học Công Giáo, những gì xảy ra ở Fatima được gọi là "mặc khải tư", có ý nói đến các thị kiến và các cuộc hiện ra, được Giáo Hội chấp thuận như là đáng tin, đã diễn ra từ khi hoàn thành bộ Tân Ước. Khi Giáo Hội công nhận một mặc khải tư, thì người Công Giáo không bị kêu gọi phải tin nó như cách họ phải tin các nội dung của Thánh Kinh hay các nội dung của Thánh Truyền do những người theo chân Chúa Giêsu đầu tiên truyền lại. Thay vào đó, nó được chấp nhận là đáng tin và có thể xảy ra bằng điều chúng ta có thể gọi là niềm tin nhân bản, sự khôn ngoan, hoặc lương tri đã tinh luyện.
Nói cách khác, khi xem xét chứng từ mà Lucia, Phanxicô và Jacinta nói rằng các em là những nhân chứng rất đáng tin cậy, Giáo Hội thấy sứ điệp do các em thuật lại không chứa bất cứ điều gì trái ngược với những gì Giáo Hội vốn coi là chân lý đức tin hay hợp lý, và mọi người được phép chấp nhận chúng một cách khôn ngoan. Mục đích của các mặc khải tư như vậy, theo thần học của Giáo Hội, là giúp người ta hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu tốt hơn vào một thời điểm cụ thể nào đó, nhưng người ta không bắt buộc phải sử dụng sự giúp đỡ này, ngay cả khi Giáo Hội dạy rằng không nên vô tình làm ngơ nó.
Chúng ta hãy áp dụng các nguyên tắc trên vào cách chúng ta hiểu phép lạ công cộng dường như đã xảy ra vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, trong lần hiện ra cuối cùng. Hai tháng trước đó, các em nói rằng Đức Maria hứa sẽ có một phép lạ để giúp người ta tin vào những gì các trẻ chăn chiên nói. Có bảy mươi nghìn người có mặt, dưới cơn mưa như trút, và không chỉ là những tín hữu. Có cả những người có thể mô tả là duy tục có óc tò mò nhưng cũng rất lớn tiếng và các lực lượng phản giáo sĩ, các nhà báo và những kẻ hoài nghi; họ muốn làm nhân chứng tận mắt chống gian lận chứ làm gì có phép lạ nào. Vào một lúc nhất định kia, khi nghe và thấy Đức Bà, đấng mà không ai khác có thể nhìn thấy, các em hướng nhìn lên trên trời, bỗng những đám mây đen tách ra, và mặt trời xuất hiện như một chiếc đĩa mờ mờ, quay tròn trên bầu trời, và cuối cùng lao về hướng trái đất trước khi vòng vèo trở lại vị trí bình thường của nó.
Mọi người hét lên như sắp chết. Các nhà báo của tờ O Dia ở Lisbon mô tả những gì họ và những người khác thấy như sau:
“Lúc 1 giờ chiều, giữa trưa của mặt trời, mưa dừng lại. Bầu trời, màu xám ngọc trai, chiếu sáng quang cảnh khô cằn bằng một ánh sáng kỳ lạ. Mặt trời có một tấm màn che mỏng như sa nhưng nhìn thấu qua để mắt trần có thể dễ dàng nhìn thẳng vào nó. Mầu xám ngọc trai biến thành một màn bạc xuất hiện khi những đám mây tản ra và người ta thấy mặt trời mầu bạc, bao phủ trong cùng một ánh sáng xám xịt mỏng nhẹ như sa ấy, quay cuồng và chạy vòng tròn quanh các đám mây vụn. Mọi cửa miệng đều kêu la và mọi người quỳ xuống đất bùn. Ánh sáng chuyển sang màu xanh đẹp đẽ như thể xuyên qua các cửa sổ kính màu của một nhà thờ chính tòa và tỏa rộng trên khắp những người đang quỳ xuống với đôi bàn tay dang ra. Màu xanh nhạt dần rồi ánh sáng dường như xuyên qua kính màu vàng. Những đốm vàng rơi xuống trên những chiếc khăn tay trắng, trên những váy đen của phụ nữ. Chúng được tường trình rơi trên cây, trên đá và trên sườn đồi. Người ta khóc và cầu nguyện trong khi để đầu trần khi thấy phép lạ họ vốn chờ đợi”.
Avelino de Almeida, biên tập viên của O Seculo, một tờ báo lớn của Lisbon, người khởi đầu chế giễu những cuộc hiện ra, sau đó bị thúc bách bởi những gì ông quan sát để viết ra, "Từ đường lộ, nơi xe cộ dừng lại và hàng trăm người không có can đảm lội bùn tập trung, người ta có thể thấy đám đông vô số đang hướng về phía mặt trời, một mặt trời xuất hiện không một đám mây che và đang ở đỉnh cao nhất của nó. Nó trông giống như một tấm bảng bằng bạc xỉn và có thể nhìn thẳng vào nó mà không hề có sự khó chịu nào. Có thể có một cuộc nhật thực đang diễn ra. Nhưng ngay lúc đó, một tiếng hét lớn vang lên và người ta nghe thấy các khán giả gần nhất hét lên: ‘Phép lạ! Phép lạ!’ Trước những con mắt lạ lùng của đám đông, mà dáng vẻ của họ giống như trong Thánh Kinh: đứng im, đầu để trần, háo hức lục lọi bầu trời, mặt trời run rẩy, tạo nên các chuyển động bất ngờ, khác thường, vượt ra ngoài mọi định luật của vũ trụ - mặt trời ‘nhảy múa’ theo cách diễn tả rất đặc trưng của dân chúng". Cuối cùng, mặt đất và quần áo của mọi người đều khô ráo, bất chấp trận mưa như trút.
Làm thế nào một điều như thế có thể được chúng ta đánh giá sau gần một thế kỷ? Phải chăng có khả năng 70,000 người kia, trong đó có nhiều người chống các giáo sĩ, có các nhà báo đầy hoài nghi, các viên chức chính phủ đối nghịch, và các nhà chức trách của Giáo Hội, hết thẩy đều trải qua một ảo giác về mặt trời? Mà cho là đúng như thế đi chăng nữa, thì điều gì đã xảy ra cho những bộ quần áo, trong giây lát, bỗng từ ướt đẵm trở thành khô ráo hoàn toàn?
Nhà vô thần Richard Dawkins, trong cuốn The God Delusion, thừa nhận, "Không dễ dàng gì giải thích được việc bảy mươi nghìn người cùng có một ảo giác như nhau", nhưng rồi ông vẫn tiếp tục khẳng định rằng tất cả đều đã cùng có một ảo giác tập thể vì sẽ là “điều còn khó hiểu hơn khi chấp nhận rằng điều đó thực sự đã xảy ra mà cả thế giới, bên ngoài Fatima, không nhìn thấy – mà không phải chỉ nhìn thấy nó, mà còn cảm thấy nó như sự hủy hoại thảm khốc đối với hệ mặt trời". Nhưng cũng không hợp khoa học chút nào, thậm chí không hợp lý chút ào, nếu loại bỏ thẳng thừng dữ liệu mà 70,000 người đã nhất tề làm chứng, chứ không giả vờ như thể mình bị lừa dối.
Việc chấp nhận sự đáng tin cậy tổng quát của đám đông khổng lồ và đa dạng trên đây, mà không phải ai cũng là người có thiên hướng thích phép lạ, việc nhìn nhận rằng họ ở đó một cách đông đảo như thế vì các trẻ em cho biết Đức Bà đã hứa trước đó hai tháng rằng sẽ có phép lạ vào ngày 13 tháng 10, bằng chứng vật lý của quần áo khô ngay lập tức, đã dẫn nhiều người trong suốt thế kỷ trước kết luận rằng những lần hiện ra ở Fatima là đáng tin cậy - dựa trên sự khôn ngoan của con người hoặc điều chúng ta gọi là niềm tin tự nhiên, một loại niềm tin nhờ đó chúng ta chấp nhận coi những điều chính chúng ta không quan sát được như có thật, dựa vào sự đáng tin cậy của các người làm chứng.
Và, có thể nói, đó là điều làm cho những gì xẩy ra tại Fatima có liên quan tới mọi người, vì ngay cả người Công Giáo cũng đánh giá tính xác thực của Fatima, cũng như mọi mặc khải tư, chủ yếu dựa trên niềm tin của con người hoặc việc thực thi lý lẽ, tức hỏi xem liệu điều này có thể có hay không dựa trên bằng chứng này là điều cho là đã xảy ra thực sự đã xảy ra thật. Các sự kiện cần được xem xét có thể tìm thấy trong các tờ báo chống Công Giáo của thế kỷ trước; họ đã chứng thực rằng một điều gì đó không thể giải thích một cách khoa học thực sự đã xảy ra, làm gia tăng sự khả tín đối với những gì các trẻ em đã chứng thực như một toàn bộ.
Với những điều trên làm bối cảnh quan trọng, tôi muốn trở lại với "kế hoạch hòa bình", mà các trẻ chăn chiên nói rằng người phụ nữ hứa có phép lạ mặt trời đã cho các em biết. Kế hoạch này liên quan đến một vài yếu tố chắc chắn có ý nghĩa sâu sắc và những lời yêu cầu đặc biệt đối với những người thuộc đức tin Công Giáo, nhưng tôi muốn chú tâm vào những điều tôi gọi là bài học phổ quát cho mọi người đang tìm kiếm hòa bình.
Bài học đầu tiên là về nhu cầu hoán cải. Hoán cải nghĩa là quay trở lại, là thay đổi cách suy nghĩ và cách sống của người ta, là xem xét các suy nghĩ, lời nói, hành động và không hành động của mình, xem xem, thay vì xây dựng hòa bình, tình huynh đệ và sự đoàn kết, chúng đã chia rẽ, hoặc làm hại hoặc phá huỷ ra sao. Đến nỗi, sự thiếu hòa bình trên thế giới thường bắt nguồn từ sự kiện này: người ta không quay lưng khỏi những cung cách hiếu chiến, khỏi việc biến người khác thành đồ vật, hạ thấp nhân phẩm hoặc ngược đãi họ. Đến độ, sự thiếu hòa bình thường phát xuất từ việc quá ám ảnh chú tâm vào những sai lầm của người khác hơn là ngẫm nghĩ về chính tác phong của mình, hoặc các chính sách của quốc gia mình, khiến người khác tìm biện pháp khắc phục bằng bất cứ phương tiện nào. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tìm cách kêu gọi cộng đồng quốc tế bước vào loại hoán cải phổ quát này, kêu mời chúng ta quay mình khỏi việc thờ ngẫu thần tiền bạc vốn có khả năng dẫn toàn bộ nhiều quốc gia bỏ bê và làm khổ người nghèo, khỏi việc buôn bán vũ khí đang triển nở chỉ làm gia tăng cuộc tàn sát mà các tên độc tài và khủng bố vốn có thể thực hiện, khỏi việc thiếu sự hiếu khách đối với những người phải chạy trốn các tình huống chiến tranh, nghèo đói hoặc thiên tai. Nếu không có sự hoán cải này, hòa bình sẽ mãi mãi chỉ là ảo ảnh. Sự hoán cải là điều kiện tiên quyết của hòa bình.
Bài học phổ quát thứ hai là về việc hòa bình bắt đầu từ đâu. Các trẻ chăn chiên nói rằng sau khi cho thấy các thị kiến khủng khiếp về hỏa ngục, về sự tàn phá do chủ nghĩa cộng sản vô thần gây ra, và cuộc bách hại Giáo Hội đến mức ám sát một vị giám mục mặc áo trắng - tất cả đều gây ra bởi các tội lỗi mà thế giới cần phải hoán cải - Đức Maria đã mô tả cho các em một phương thuốc, đó là việc dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của ngài. Điều này có ý nói tới một cam kết tìm cách bắt chước trái tim của Đức Maria, một trái tim mà các Kitô hữu tin rằng rất trong sạch và không phân chia, khôn ngoan và vâng lời, trung thành và thận trọng, một trái tim yêu mến Thiên Chúa với tất cả những gì mình có và yêu thương người khác bằng tình yêu mến Thiên Chúa. Một trái tim như thế, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô tương lai sẽ viết vào năm 2000, năm năm trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng rằng "nó mạnh hơn súng và vũ khí mọi loại" và có khả năng thay đổi lịch sử. Hòa bình bắt đầu từ trong trái tim. Nếu trái tim không có hòa bình, sẽ rất khó để ta có thể là người kiến tạo hòa bình, người xây dựng và người duy trì. Người ta phải được biến đổi. Và từ sự biến đổi này, cuộc cách mạng hòa bình mới xuất hiện, như chúng ta thấy trong các cố gắng và thành công của những nhà kiến tạo hòa bình vĩ đại trong các thế kỷ gần đây.
Bài học phổ quát thứ ba là về cầu nguyện. Cầu nguyện là công cụ của hòa bình. Các trẻ chăn chiên nói rằng Đức Maria yêu cầu các em cầu nguyện và hy sinh cho người khác ăn năn trở lại ngõ hầu bình an trở về với linh hồn họ. Ngài yêu cầu các em đọc những lời kinh đặc biệt, như chuỗi Mân Côi hay lời kinh khác giữa các chục kinh của chuỗi Mân Côi, hoặc vào ngày thứ Bảy đầu tháng. Nhưng có hai bài học tổng quát về cầu nguyện. Đầu tiên là về giá trị chủ quan của cầu nguyện, tức lời cầu nguyện biến đổi người cầu nguyện, nhất là khi người ta cầu nguyện một cách khiêm tốn và với lòng thương xót. Ngay cả những người không tin cũng nhìn nhận rằng cầu nguyện có một tác động tích cực đối với người ta, một điều được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý và y học chứng thực. Nhưng sứ điệp của Fatima còn chứa đựng một bài học về giá trị khách quan của cầu nguyện nữa, tức là lời cầu nguyện có thể thay đổi không những thế giới bên trong người cầu nguyện mà cả thế giới bên ngoài họ nữa. Và hơn bất cứ hành động kiến tạo hoà bình nào, Đức Maria đã mời gọi các trẻ chăn chiên phải cầu nguyện, những lời cầu nguyện cho người khác hóan cải, những lời cầu nguyện cho nước Nga quay lưng khỏi chủ nghĩa cộng sản vô thần Bolshevik mới chớm nở mà ngài tiên đoán sẽ gây tổn hại lớn cho thế giới, những lời cầu nguyện cho vị giám mục áo trắng bị bắn. Những lời cầu nguyện này dường như đã mang lại hiệu quả, như Thánh Gioan Phaolô II đã nói ở Fatima vào năm 1982 và năm 2000, khi ngài cảm ơn Đức Mẹ và cảm ơn Jacinta về những lời cầu nguyện đã cứu mạng ngài và năm 1991 sau những biến cố quan trọng của năm 1989, lúc ngài ghi công Đức Maria qua lời cầu nguyện "đã hướng dẫn bằng tình âu yếm mẫu tử nhiều dân tộc tới tự do. Đức Maria nói rằng trong công trình hòa bình, trước việc hành động, tuy là việc không thể thiếu được, nhưng cầu nguyện và sự hy sinh phải diễn ra trước nhất”.
Và bài học thứ tư và cuối cùng là về sự cần thiết phải có sự tham gia của mọi người vào công việc kiến tạo hòa bình. Điều đáng ngạc nhiên là Đức Maria thích đến với, không phải những người đứng đầu nhà nước hoặc các nhà ngoại giao hoặc lãnh đạo tôn giáo để trực tiếp ghi danh họ vào chính nghĩa hoà bình, nhưng với ba đứa trẻ đơn sơ không được giáo dục nhiều và ủy thác cho các em một sứ điệp, các bí mật và một nhiệm vụ đặc biệt vì chính nghĩa hòa bình và thiện ích của các linh hồn và của thế giới. Các tiêu chuẩn chọn lựa của Đức Maria cho ta thấy rằng mọi người đều có một vai trò, ngay cả những người mà thế giới coi là không đáng kể, hoặc không có khả năng hoặc quá trẻ. Nếu những trẻ chăn chiên có thể được chọn lựa, và các em có thể đáp ứng hết lòng như đã làm, thì đây là một dấu hiệu cho thấy mọi người đều có thể làm được.
Và như thế, khi chúng ta kỷ niệm một trăm năm của Fatima, chúng ta nắm vững điều này: chúng ta không chỉ đơn thuần cử hành một loạt biến cố của quá khứ, nhưng tôi tin rằng, chúng ta cử hành một điều hết sức hiện thực, có tính liên quan lâu dài, đối với hiện tại và cả tương lai của chúng ta nữa. Ngày nay, sứ điệp hòa bình mà các trẻ chăn chiên nói rằng Bà từ thiên đàng mang đến, và những thực hành hoán cải, biến đổi tâm hồn, việc cầu nguyện và sự dấn thân mà Bà đã chỉ dẫn cũng vẫn quan trọng cho hòa bình trên thế giới như cách đây một thế kỷ.
Cũng như Đức Giáo Hoàng Phanxicô ở Fatima đêm nay và ngày mai tìm cách hướng dẫn mọi người Công Giáo khắp thế giới cầu nguyện cho hòa bình và biết ơn di sản sống động mà vị Đại Sứ Hòa Bình đầy tình mẫu tử đã để lại, cả chúng ta nữa cũng tụ tập ở đây tại Liên Hiệp Quốc, cùng cam kết góp phần của chúng ta, như Phanxicô, Jacinta và Lucia, trong việc đáp lại lời kêu gọi cao quý và chính nghĩa khẩn trương kiến tạo hòa bình.
Dưới đây là nguyên văn bài diễn văn của Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza:
***
Thưa Đại Sứ Mendonça e Moura, Đại Diện Thường Trực của Bồ Đào Nha cạnh Liên Hiệp Quốc, Qúy Ngài, Qúy Diễn Giả, qúy bà và qúy ông,
Thực là một niềm vui lớn đối với riêng cá nhân tôi và đối với Sứ Bộ Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh được hợp tác với Sứ Bộ Thường Trực của Bồ Đào Nha cạnh Liên Hiệp Quốc để tổ chức biến cố kỷ niệm này dự ứng cho lễ kỷ niệm 100 năm việc khởi đầu các lần hiện ra ở Fatima vào ngày mai.
Ngay lúc này đây, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang tới căn cứ không quân Monte Real ở Leiria, Bồ Đào Nha, và trong vài phút nữa sẽ hội kiến với Tổng Thống Bồ Đào Nha Marcelo Rebelo de Sousa. Trong khi chúng ta đang tổ chức biến cố này ở đây, thì ngài đang dùng trực thăng để tới vận động trường Fatima và sẽ chuyển xe để tới Đền Thánh Đức Mẹ Fatima nơi, khi biến cố của chúng ta chấm dứt, thì ngài sẽ bước vào Capelinha, tức ngôi nhà nguyện Hiện Ra nhỏ bé để cầu nguyện và sẵn sàng chủ tọa buổi cầu nguyện dưới ánh nến và đọc kinh Mân Côi ban đêm.
Đối với những người chúng ta không thể có mặt ở Fatima với ngài để đánh dấu một trăm năm, tôi nghĩ đây, Liên Hiệp Quốc này, là nơi tốt thứ nhì để nói về Sự Liên Hệ Lâu Dài của Sứ Điệp Hòa Bình mà ba trẻ chăn chiên đầy khả tín chứng thực rằng vào ngày mai cách nay 100 năm, một bà mặc áo trắng tự xưng mình từ trời xuống đã loan báo cho các em lần đầu tiên.
Và vì chúng ta không thể ở đó, ở Cova da Iria, nên một phần của Fatima đã tới đây, tới trụ sở của Liên Hiệp Quốc này.Thánh tượng chúng ta hiện có đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII làm phép tại Vatican cách ngày mai 70 năm, tức năm 1947, nhân dịp kỷ niệm 30 năm việc khởi đầu các lần hiện ra ở Fatima và sau đó lại được làm phép bởi Đức Giám Mục Fatima vào ngày 13 tháng Mười năm 1952, dịp kỷ niệm năm thứ 35 lần hiện ra cuối cùng ở đó. Sau khi được làm phép ở Fatima, thánh tượng đã được chở tới Hoa Kỳ, nơi, vào ngày 8 tháng Mười Hai năm 1952, thánh tượng được chở tới Liên Hiệp Quốc bởi Đức Ông Harold Colgan, một linh mục ở Tiểu Bang New Jersey, người, 6 năm trước đó, đã thành lập một tổ chức sau này trở thành Đạo Binh Xanh và Tông Đồ Thế Giới Fatima. Với một người bạn, Đức Ông Colgan đã đem thánh tượng vào Phòng Suy Niệm bên cạnh Hành Lang Vãng Lai, nơi các ngài đọc kinh Mân Côi cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt Chiến Tranh Triều Tiên.
Hôm nay, sau gần 65 năm, bản sao thánh tượng ngự ở Nhà Nguyện Hiện Ra ở Fatima này lại trở lại Liên Hiệp Quốc. Chúng ta hy vọng các lời cầu nguyện cho hòa bình từng được đọc trước đây trước thánh tượng này trong khoảng sáu thập niên rưỡi vừa qua, bởi hàng triệu người khắp Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và nhiều quốc gia khác, sẽ được lắng nghe một cách đặc biệt cho hòa bình trên thế giới ngày nay nơi bạo lực đang tàn phá. Với sự phù giúp của ngài, chúng ta cầu nguyện một cách đặc biệt cho việc chấm dứt chiến tranh tại Syria, cho việc chấm dứt các đe dọa chiến tranh ngày một gia tăng ở bán đảo Triều Tiên, cho việc kết thúc bạo động ở Nam Sudan, ở Somalia, ở Yemen, ở Cộng Hòa Trung Phi, ở Cộng Hòa Dân Chủ Congo, và ở Đông Ukraine và các nơi khác đang có tranh chấp. Chúng ta cũng cầu nguyện cho việc chấm dứt khủng bố, bách hại tôn giáo, sắc tộc và chủng tộc, các đàn áp độc đoán, các tập đoàn ma túy sát nhân và tội ác có tổ chức, việc buôn người và các hình thức nô lệ tân thời, và những cuộc nổi dậy có tính quốc gia vốn đã và đang làm nhơ thế giới bằng máu và hận thù.
Khi chúng ta khảo sát sứ điệp của ba trẻ chăn chiên ở Fatima, Lucia dos Santos và các em họ của chị là Phanxicô và Jacinta Marto, sứ điệp mà người phụ nữ được thánh tượng này tượng trưng đã nói với các em, chúng ta có thể nói rằng Đức Maria chủ yếu xuất hiện như một vị Đại Sứ của Hòa Bình với lời kêu gọi các em trở thành các thành viên tham mưu, nói theo biệt ngữ của Liên Hiệp Quốc, trong Sứ Bộ Thường Trực của ngài cạnh mọi quốc gia. Và sứ bộ này, cho tới hôm nay, vẫn có liên hệ, vì hơn 50 tranh chấp bạo động hiện đang diễn biến trên khắp thế giới, trong điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô quen gọi là “Thế Chiến thứ 3 được đánh từng mảng” y hệt như cách nay một thế kỷ thời Thế Chiến thứ nhất.
Tuy nhiên, trước khi đề cập tới “kế hoạch hòa bình” mà các trẻ chăn chiên nói rằng Vị Đại Sứ của Hòa Bình đầy tình mẫu tử này đã công bố với các em, tôi muốn trực diện nói tới tính khả tín của những lần hiện ra ở Fatima. Làm thế nào ta có thể biết rằng điều các trẻ chăn chiên chứng thực rằng Đức Bà Fatima đã tỏ cho các em là đúng? Đối với những người không tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa hay sự siêu nhiên, thì những gì được cho là đã xảy ra ở Fatima cách đây một thế kỷ chỉ như thuộc lĩnh vực các câu chuyện thần tiên hơn là sự kiện. Đối với những ai tin vào Thiên Chúa, nhưng ý niệm của họ là về một vị thần tách biệt khỏi hiện sinh trần thế, thì sự can thiệp của một phụ nữ được cho là từ trời đến với những đứa trẻ chăn chiên như thế cũng khó mà có thể tin được. Đối với những tín đồ không phải là Kitô giáo, đối với những Kitô hữu thấy khó có thể chấp nhận lòng sùng kính Mẹ Chúa Giêsu của người Công Giáo hoặc Chính Thống Giáo, hoặc thậm chí đối với những người Công Giáo không thích ý niệm hiện ra một cách lạ lùng, thì những gì xảy ra ở Fatima dường như chỉ là mê tín dị đoan của những người có thiện ý nhưng cả tin.
Hầu hết những người không phải là Công Giáo và ngay cả nhiều người Công Giáo đều ngạc nhiên khi họ được biết người Công Giáo không phải tin vào những gì được cho là đã xảy ra ở Fatima cách đây một thế kỷ. Họ không phải tin rằng Đức Maria đã hiện ra gì cả, hoặc bất cứ điều gì ngài yêu cầu các trẻ chăn chiên. Trong thần học Công Giáo, những gì xảy ra ở Fatima được gọi là "mặc khải tư", có ý nói đến các thị kiến và các cuộc hiện ra, được Giáo Hội chấp thuận như là đáng tin, đã diễn ra từ khi hoàn thành bộ Tân Ước. Khi Giáo Hội công nhận một mặc khải tư, thì người Công Giáo không bị kêu gọi phải tin nó như cách họ phải tin các nội dung của Thánh Kinh hay các nội dung của Thánh Truyền do những người theo chân Chúa Giêsu đầu tiên truyền lại. Thay vào đó, nó được chấp nhận là đáng tin và có thể xảy ra bằng điều chúng ta có thể gọi là niềm tin nhân bản, sự khôn ngoan, hoặc lương tri đã tinh luyện.
Nói cách khác, khi xem xét chứng từ mà Lucia, Phanxicô và Jacinta nói rằng các em là những nhân chứng rất đáng tin cậy, Giáo Hội thấy sứ điệp do các em thuật lại không chứa bất cứ điều gì trái ngược với những gì Giáo Hội vốn coi là chân lý đức tin hay hợp lý, và mọi người được phép chấp nhận chúng một cách khôn ngoan. Mục đích của các mặc khải tư như vậy, theo thần học của Giáo Hội, là giúp người ta hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu tốt hơn vào một thời điểm cụ thể nào đó, nhưng người ta không bắt buộc phải sử dụng sự giúp đỡ này, ngay cả khi Giáo Hội dạy rằng không nên vô tình làm ngơ nó.
Chúng ta hãy áp dụng các nguyên tắc trên vào cách chúng ta hiểu phép lạ công cộng dường như đã xảy ra vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, trong lần hiện ra cuối cùng. Hai tháng trước đó, các em nói rằng Đức Maria hứa sẽ có một phép lạ để giúp người ta tin vào những gì các trẻ chăn chiên nói. Có bảy mươi nghìn người có mặt, dưới cơn mưa như trút, và không chỉ là những tín hữu. Có cả những người có thể mô tả là duy tục có óc tò mò nhưng cũng rất lớn tiếng và các lực lượng phản giáo sĩ, các nhà báo và những kẻ hoài nghi; họ muốn làm nhân chứng tận mắt chống gian lận chứ làm gì có phép lạ nào. Vào một lúc nhất định kia, khi nghe và thấy Đức Bà, đấng mà không ai khác có thể nhìn thấy, các em hướng nhìn lên trên trời, bỗng những đám mây đen tách ra, và mặt trời xuất hiện như một chiếc đĩa mờ mờ, quay tròn trên bầu trời, và cuối cùng lao về hướng trái đất trước khi vòng vèo trở lại vị trí bình thường của nó.
Mọi người hét lên như sắp chết. Các nhà báo của tờ O Dia ở Lisbon mô tả những gì họ và những người khác thấy như sau:
“Lúc 1 giờ chiều, giữa trưa của mặt trời, mưa dừng lại. Bầu trời, màu xám ngọc trai, chiếu sáng quang cảnh khô cằn bằng một ánh sáng kỳ lạ. Mặt trời có một tấm màn che mỏng như sa nhưng nhìn thấu qua để mắt trần có thể dễ dàng nhìn thẳng vào nó. Mầu xám ngọc trai biến thành một màn bạc xuất hiện khi những đám mây tản ra và người ta thấy mặt trời mầu bạc, bao phủ trong cùng một ánh sáng xám xịt mỏng nhẹ như sa ấy, quay cuồng và chạy vòng tròn quanh các đám mây vụn. Mọi cửa miệng đều kêu la và mọi người quỳ xuống đất bùn. Ánh sáng chuyển sang màu xanh đẹp đẽ như thể xuyên qua các cửa sổ kính màu của một nhà thờ chính tòa và tỏa rộng trên khắp những người đang quỳ xuống với đôi bàn tay dang ra. Màu xanh nhạt dần rồi ánh sáng dường như xuyên qua kính màu vàng. Những đốm vàng rơi xuống trên những chiếc khăn tay trắng, trên những váy đen của phụ nữ. Chúng được tường trình rơi trên cây, trên đá và trên sườn đồi. Người ta khóc và cầu nguyện trong khi để đầu trần khi thấy phép lạ họ vốn chờ đợi”.
Avelino de Almeida, biên tập viên của O Seculo, một tờ báo lớn của Lisbon, người khởi đầu chế giễu những cuộc hiện ra, sau đó bị thúc bách bởi những gì ông quan sát để viết ra, "Từ đường lộ, nơi xe cộ dừng lại và hàng trăm người không có can đảm lội bùn tập trung, người ta có thể thấy đám đông vô số đang hướng về phía mặt trời, một mặt trời xuất hiện không một đám mây che và đang ở đỉnh cao nhất của nó. Nó trông giống như một tấm bảng bằng bạc xỉn và có thể nhìn thẳng vào nó mà không hề có sự khó chịu nào. Có thể có một cuộc nhật thực đang diễn ra. Nhưng ngay lúc đó, một tiếng hét lớn vang lên và người ta nghe thấy các khán giả gần nhất hét lên: ‘Phép lạ! Phép lạ!’ Trước những con mắt lạ lùng của đám đông, mà dáng vẻ của họ giống như trong Thánh Kinh: đứng im, đầu để trần, háo hức lục lọi bầu trời, mặt trời run rẩy, tạo nên các chuyển động bất ngờ, khác thường, vượt ra ngoài mọi định luật của vũ trụ - mặt trời ‘nhảy múa’ theo cách diễn tả rất đặc trưng của dân chúng". Cuối cùng, mặt đất và quần áo của mọi người đều khô ráo, bất chấp trận mưa như trút.
Làm thế nào một điều như thế có thể được chúng ta đánh giá sau gần một thế kỷ? Phải chăng có khả năng 70,000 người kia, trong đó có nhiều người chống các giáo sĩ, có các nhà báo đầy hoài nghi, các viên chức chính phủ đối nghịch, và các nhà chức trách của Giáo Hội, hết thẩy đều trải qua một ảo giác về mặt trời? Mà cho là đúng như thế đi chăng nữa, thì điều gì đã xảy ra cho những bộ quần áo, trong giây lát, bỗng từ ướt đẵm trở thành khô ráo hoàn toàn?
Nhà vô thần Richard Dawkins, trong cuốn The God Delusion, thừa nhận, "Không dễ dàng gì giải thích được việc bảy mươi nghìn người cùng có một ảo giác như nhau", nhưng rồi ông vẫn tiếp tục khẳng định rằng tất cả đều đã cùng có một ảo giác tập thể vì sẽ là “điều còn khó hiểu hơn khi chấp nhận rằng điều đó thực sự đã xảy ra mà cả thế giới, bên ngoài Fatima, không nhìn thấy – mà không phải chỉ nhìn thấy nó, mà còn cảm thấy nó như sự hủy hoại thảm khốc đối với hệ mặt trời". Nhưng cũng không hợp khoa học chút nào, thậm chí không hợp lý chút ào, nếu loại bỏ thẳng thừng dữ liệu mà 70,000 người đã nhất tề làm chứng, chứ không giả vờ như thể mình bị lừa dối.
Việc chấp nhận sự đáng tin cậy tổng quát của đám đông khổng lồ và đa dạng trên đây, mà không phải ai cũng là người có thiên hướng thích phép lạ, việc nhìn nhận rằng họ ở đó một cách đông đảo như thế vì các trẻ em cho biết Đức Bà đã hứa trước đó hai tháng rằng sẽ có phép lạ vào ngày 13 tháng 10, bằng chứng vật lý của quần áo khô ngay lập tức, đã dẫn nhiều người trong suốt thế kỷ trước kết luận rằng những lần hiện ra ở Fatima là đáng tin cậy - dựa trên sự khôn ngoan của con người hoặc điều chúng ta gọi là niềm tin tự nhiên, một loại niềm tin nhờ đó chúng ta chấp nhận coi những điều chính chúng ta không quan sát được như có thật, dựa vào sự đáng tin cậy của các người làm chứng.
Và, có thể nói, đó là điều làm cho những gì xẩy ra tại Fatima có liên quan tới mọi người, vì ngay cả người Công Giáo cũng đánh giá tính xác thực của Fatima, cũng như mọi mặc khải tư, chủ yếu dựa trên niềm tin của con người hoặc việc thực thi lý lẽ, tức hỏi xem liệu điều này có thể có hay không dựa trên bằng chứng này là điều cho là đã xảy ra thực sự đã xảy ra thật. Các sự kiện cần được xem xét có thể tìm thấy trong các tờ báo chống Công Giáo của thế kỷ trước; họ đã chứng thực rằng một điều gì đó không thể giải thích một cách khoa học thực sự đã xảy ra, làm gia tăng sự khả tín đối với những gì các trẻ em đã chứng thực như một toàn bộ.
Với những điều trên làm bối cảnh quan trọng, tôi muốn trở lại với "kế hoạch hòa bình", mà các trẻ chăn chiên nói rằng người phụ nữ hứa có phép lạ mặt trời đã cho các em biết. Kế hoạch này liên quan đến một vài yếu tố chắc chắn có ý nghĩa sâu sắc và những lời yêu cầu đặc biệt đối với những người thuộc đức tin Công Giáo, nhưng tôi muốn chú tâm vào những điều tôi gọi là bài học phổ quát cho mọi người đang tìm kiếm hòa bình.
Bài học đầu tiên là về nhu cầu hoán cải. Hoán cải nghĩa là quay trở lại, là thay đổi cách suy nghĩ và cách sống của người ta, là xem xét các suy nghĩ, lời nói, hành động và không hành động của mình, xem xem, thay vì xây dựng hòa bình, tình huynh đệ và sự đoàn kết, chúng đã chia rẽ, hoặc làm hại hoặc phá huỷ ra sao. Đến nỗi, sự thiếu hòa bình trên thế giới thường bắt nguồn từ sự kiện này: người ta không quay lưng khỏi những cung cách hiếu chiến, khỏi việc biến người khác thành đồ vật, hạ thấp nhân phẩm hoặc ngược đãi họ. Đến độ, sự thiếu hòa bình thường phát xuất từ việc quá ám ảnh chú tâm vào những sai lầm của người khác hơn là ngẫm nghĩ về chính tác phong của mình, hoặc các chính sách của quốc gia mình, khiến người khác tìm biện pháp khắc phục bằng bất cứ phương tiện nào. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tìm cách kêu gọi cộng đồng quốc tế bước vào loại hoán cải phổ quát này, kêu mời chúng ta quay mình khỏi việc thờ ngẫu thần tiền bạc vốn có khả năng dẫn toàn bộ nhiều quốc gia bỏ bê và làm khổ người nghèo, khỏi việc buôn bán vũ khí đang triển nở chỉ làm gia tăng cuộc tàn sát mà các tên độc tài và khủng bố vốn có thể thực hiện, khỏi việc thiếu sự hiếu khách đối với những người phải chạy trốn các tình huống chiến tranh, nghèo đói hoặc thiên tai. Nếu không có sự hoán cải này, hòa bình sẽ mãi mãi chỉ là ảo ảnh. Sự hoán cải là điều kiện tiên quyết của hòa bình.
Bài học phổ quát thứ hai là về việc hòa bình bắt đầu từ đâu. Các trẻ chăn chiên nói rằng sau khi cho thấy các thị kiến khủng khiếp về hỏa ngục, về sự tàn phá do chủ nghĩa cộng sản vô thần gây ra, và cuộc bách hại Giáo Hội đến mức ám sát một vị giám mục mặc áo trắng - tất cả đều gây ra bởi các tội lỗi mà thế giới cần phải hoán cải - Đức Maria đã mô tả cho các em một phương thuốc, đó là việc dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của ngài. Điều này có ý nói tới một cam kết tìm cách bắt chước trái tim của Đức Maria, một trái tim mà các Kitô hữu tin rằng rất trong sạch và không phân chia, khôn ngoan và vâng lời, trung thành và thận trọng, một trái tim yêu mến Thiên Chúa với tất cả những gì mình có và yêu thương người khác bằng tình yêu mến Thiên Chúa. Một trái tim như thế, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô tương lai sẽ viết vào năm 2000, năm năm trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng rằng "nó mạnh hơn súng và vũ khí mọi loại" và có khả năng thay đổi lịch sử. Hòa bình bắt đầu từ trong trái tim. Nếu trái tim không có hòa bình, sẽ rất khó để ta có thể là người kiến tạo hòa bình, người xây dựng và người duy trì. Người ta phải được biến đổi. Và từ sự biến đổi này, cuộc cách mạng hòa bình mới xuất hiện, như chúng ta thấy trong các cố gắng và thành công của những nhà kiến tạo hòa bình vĩ đại trong các thế kỷ gần đây.
Bài học phổ quát thứ ba là về cầu nguyện. Cầu nguyện là công cụ của hòa bình. Các trẻ chăn chiên nói rằng Đức Maria yêu cầu các em cầu nguyện và hy sinh cho người khác ăn năn trở lại ngõ hầu bình an trở về với linh hồn họ. Ngài yêu cầu các em đọc những lời kinh đặc biệt, như chuỗi Mân Côi hay lời kinh khác giữa các chục kinh của chuỗi Mân Côi, hoặc vào ngày thứ Bảy đầu tháng. Nhưng có hai bài học tổng quát về cầu nguyện. Đầu tiên là về giá trị chủ quan của cầu nguyện, tức lời cầu nguyện biến đổi người cầu nguyện, nhất là khi người ta cầu nguyện một cách khiêm tốn và với lòng thương xót. Ngay cả những người không tin cũng nhìn nhận rằng cầu nguyện có một tác động tích cực đối với người ta, một điều được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý và y học chứng thực. Nhưng sứ điệp của Fatima còn chứa đựng một bài học về giá trị khách quan của cầu nguyện nữa, tức là lời cầu nguyện có thể thay đổi không những thế giới bên trong người cầu nguyện mà cả thế giới bên ngoài họ nữa. Và hơn bất cứ hành động kiến tạo hoà bình nào, Đức Maria đã mời gọi các trẻ chăn chiên phải cầu nguyện, những lời cầu nguyện cho người khác hóan cải, những lời cầu nguyện cho nước Nga quay lưng khỏi chủ nghĩa cộng sản vô thần Bolshevik mới chớm nở mà ngài tiên đoán sẽ gây tổn hại lớn cho thế giới, những lời cầu nguyện cho vị giám mục áo trắng bị bắn. Những lời cầu nguyện này dường như đã mang lại hiệu quả, như Thánh Gioan Phaolô II đã nói ở Fatima vào năm 1982 và năm 2000, khi ngài cảm ơn Đức Mẹ và cảm ơn Jacinta về những lời cầu nguyện đã cứu mạng ngài và năm 1991 sau những biến cố quan trọng của năm 1989, lúc ngài ghi công Đức Maria qua lời cầu nguyện "đã hướng dẫn bằng tình âu yếm mẫu tử nhiều dân tộc tới tự do. Đức Maria nói rằng trong công trình hòa bình, trước việc hành động, tuy là việc không thể thiếu được, nhưng cầu nguyện và sự hy sinh phải diễn ra trước nhất”.
Và bài học thứ tư và cuối cùng là về sự cần thiết phải có sự tham gia của mọi người vào công việc kiến tạo hòa bình. Điều đáng ngạc nhiên là Đức Maria thích đến với, không phải những người đứng đầu nhà nước hoặc các nhà ngoại giao hoặc lãnh đạo tôn giáo để trực tiếp ghi danh họ vào chính nghĩa hoà bình, nhưng với ba đứa trẻ đơn sơ không được giáo dục nhiều và ủy thác cho các em một sứ điệp, các bí mật và một nhiệm vụ đặc biệt vì chính nghĩa hòa bình và thiện ích của các linh hồn và của thế giới. Các tiêu chuẩn chọn lựa của Đức Maria cho ta thấy rằng mọi người đều có một vai trò, ngay cả những người mà thế giới coi là không đáng kể, hoặc không có khả năng hoặc quá trẻ. Nếu những trẻ chăn chiên có thể được chọn lựa, và các em có thể đáp ứng hết lòng như đã làm, thì đây là một dấu hiệu cho thấy mọi người đều có thể làm được.
Và như thế, khi chúng ta kỷ niệm một trăm năm của Fatima, chúng ta nắm vững điều này: chúng ta không chỉ đơn thuần cử hành một loạt biến cố của quá khứ, nhưng tôi tin rằng, chúng ta cử hành một điều hết sức hiện thực, có tính liên quan lâu dài, đối với hiện tại và cả tương lai của chúng ta nữa. Ngày nay, sứ điệp hòa bình mà các trẻ chăn chiên nói rằng Bà từ thiên đàng mang đến, và những thực hành hoán cải, biến đổi tâm hồn, việc cầu nguyện và sự dấn thân mà Bà đã chỉ dẫn cũng vẫn quan trọng cho hòa bình trên thế giới như cách đây một thế kỷ.
Cũng như Đức Giáo Hoàng Phanxicô ở Fatima đêm nay và ngày mai tìm cách hướng dẫn mọi người Công Giáo khắp thế giới cầu nguyện cho hòa bình và biết ơn di sản sống động mà vị Đại Sứ Hòa Bình đầy tình mẫu tử đã để lại, cả chúng ta nữa cũng tụ tập ở đây tại Liên Hiệp Quốc, cùng cam kết góp phần của chúng ta, như Phanxicô, Jacinta và Lucia, trong việc đáp lại lời kêu gọi cao quý và chính nghĩa khẩn trương kiến tạo hòa bình.
Tờ bạc giả - Bài giảng của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh trong lễ vọng mừng 100 năm Đức Mẹ Fatima
J.B. Đặng Minh An dịch
02:46 17/05/2017
Tối 12 tháng 5, tại linh địa Fatima, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã chủ sự thánh lễ vọng mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.
Dưới đây là toàn văn bài giảng của ngài:
Kính thưa anh chị em tín hữu hành hương,
Với niềm vui và lòng biết ơn, chúng ta tập trung tại Đền thờ này để kỷ niệm những lần Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn cừu. Chúng ta tham gia vào đoàn lũ đông đảo những người hành hương, những người hàng trăm năm qua đã đến đây để tỏ lòng tín thác nơi Mẹ Thiên Đàng. Chúng ta đang cử hành Bí Tích Thánh Thể này để tôn vinh Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Trong bài đọc đầu tiên, chúng ta nghe người ta kêu lên: “bà đã cứu chúng ta thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” (Gdt 13:20). Những lời ngợi khen và lòng biết ơn này đã được dân thành Bethulia thốt lên để ca tụng Judith, nhà vô địch của họ, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặc!” (Gdt 13: 18). Nhưng những lời này thực sự chỉ đạt đến ý nghĩa viên mãn nơi Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhờ con mình là Đức Chúa Giêsu Kitô, Mẹ đã có thể “nghiền nát đầu” (xem Sáng thế ký 3:15) “con rắn cổ đại, là ma quỷ, là Satan, là kẻ lừa dối cả thế giới”. Satan tức giận với người phụ nữ, và gây chiến với những đứa con còn lại của bà, là những người giữ các điều răn của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Kh 12: 9.17).
Vì Mẹ Maria quan tâm đến những thử thách của con cái mình, nên Mẹ Maria xuất hiện ở đây với một sứ điệp an ủi và hy vọng cho một thế giới đang có chiến tranh và cho một Giáo Hội đang đau khổ: “Cuối cùng, Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917 ). Nói cách khác: “Các con hãy tin tưởng! Cuối cùng, tình yêu và hòa bình sẽ chiến thắng, bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh hơn sức mạnh của ma quỷ. Những gì dường như không thể đối với con người đều là có thể đối với Thiên Chúa”. Đức Mẹ cũng yêu cầu chúng ta tham gia vào trận chiến của Con Thiên Chúa của Mẹ, đặc biệt là trong việc đọc chuỗi Mân Côi hàng ngày cho hòa bình thế giới. Mặc dù tất cả mọi thứ phụ thuộc vào Thiên Chúa và ân sủng của Người, chúng ta vẫn cần phải hành động như thể mọi thứ phụ thuộc vào chúng ta, qua việc kêu cầu Đức Trinh Nữ Maria để con tim của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, lịch sử của các dân tộc và tình huynh đệ của toàn thể nhân loại được thánh hiến và bảo vệ và được đặt dưới sự hướng dẫn của Mẹ. Mẹ muốn mọi người có lòng cậy trông nơi Mẹ! “Nếu các con làm những gì Mẹ nói, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có được hòa bình” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917). Cuối cùng, chiến thắng sẽ thuộc về một trái tim: là Trái tim của Đức Mẹ trước hàng triệu con trai và con gái của Mẹ.
Tối nay, chúng ta cảm tạ và ngợi khen Ba Ngôi Cực Thánh vì sự dấn thân của rất nhiều người nam nữ trong sứ mệnh hòa bình được Mẹ Đồng Trinh giao phó. Từ Đông sang Tây, tình yêu của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria đã giành được một vị trí trong lòng các dân tộc như một nguồn hy vọng và ủi an. Công đồng Vatican II đã nhóm họp để làm mới lại khuôn mặt của Giáo Hội và trình bày chính mình như một Công đồng của tình yêu. Các tín hữu, các giám mục, và Đức Giáo Hoàng đã vâng lời Mẹ Thiên Chúa và toàn thể thế giới đã được thánh hiến cho Mẹ. Ở mọi nơi, các nhóm và các cộng đồng tín hữu tiếp tục tăng trưởng. Bừng tỉnh khỏi sự thờ ơ của ngày hôm qua, giờ đây họ tích cực hoạt động để trình bày trước thế giới bộ mặt đích thật của Kitô Giáo.
“Nếu họ làm những gì Mẹ nói với các con, thế giới sẽ có hòa bình”. Một trăm năm sau những cuộc hiện ra này, đúng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét, “với nhiều người hôm nay, hoà bình dường như là một ơn lành tự dưng mà có, vì người ta không phải nghĩ nhiều đến chuyện làm sao giành được nó, trong khi đối với đông đảo những người khác, hòa bình vẫn là một giấc mơ xa vời. Hàng triệu người vẫn phải sống giữa các xung đột vô nghĩa. Ngay cả ở những nơi từng được coi là an toàn, người ta vẫn thấy một cảm giác sợ hãi bao trùm. Chúng ta thường bị choáng ngợp bởi những hình ảnh về cái chết, bởi nỗi đau của những người nam nữ vô tội, những phụ nữ và trẻ em cầu xin giúp đỡ và an ủi, bởi nỗi thương tiếc của những người người thân đối với những người đã chết vì hận thù và bạo lực, và những hình ảnh của đoàn lũ những người tị nạn chạy trốn chiến tranh và những người di cư đang đối diện với những cái chết thảm khốc” (Diễn từ trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh ngày 9 tháng Giêng năm 2017). Trước những mối âu lo và sự bất định về tương lai, điều Fatima yêu cầu chúng ta là gì? Đó là sự bền đỗ trong việc thánh hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ, thể hiện hàng ngày qua việc đọc Kinh Mân Côi. Và nếu, bất chấp những lời cầu nguyện của chúng ta, chiến tranh vẫn tiếp tục thì sao? Ngay cả khi những kết quả tức thời có thể chưa nhìn thấy được, chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Cầu nguyện không bao giờ là vô ích. Sớm hay muộn, nó sẽ sinh hoa kết quả. Cầu nguyện là vốn liếng của chúng ta trong tay Thiên Chúa; Người đã biến nó thành một tài khoản tốt vào thời điểm thích hợp và theo cách của Ngài, rất khác với suy nghĩ của chúng ta.
Bài đáp ca sau bài đọc thứ nhất trình từ bài ca Magnificat, với sự tương phản rõ rệt giữa một bên là những câu chuyện về sự “vĩ đại” của các quốc gia cùng các cuộc xung đột của các dân nước, những câu chuyện về sự vĩ đại của các vương triều theo niên đại lịch sử và các vùng địa lý mà họ cát cứ; và một bên là lịch sử “bé nhỏ” của những người nghèo, những người khiêm tốn và bất lực. Những người thứ hai này được mời gọi làm việc cho hoà bình với một lực lượng khác, với những phương tiện xem ra vô dụng hoặc chẳng có hiệu quả gì, như là hoán cải, ăn năn đền bồi và tin tưởng phó thác. Họ được yêu cầu ngăn chặn sự lan tràn của cái ác bằng cách chìm đắm trong đại dương của Tình Yêu Thiên Chúa như là một sự chống đối - quyết liệt không đầu hàng – trước những điều tầm thường và vòng kiềm tỏa của cái ác.
Chúng ta phải làm gì? Hãy để tôi giải thích bằng một ví dụ đã được Eloy Bueno de la Fuente trình bày trong cuốn “Sứ Điệp Fatima: Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chiến thắng giữa những bi kịch của lịch sử” từ trang 235 đến trang 237. Nếu ai đó đưa cho chúng ta một tờ bạc giả, một phản ứng tự nhiên và hợp lý là làm mọi cách để đẩy nó sang người khác. Điều này cho thấy chúng ta đã sẵn sàng như thế nào để rơi vào một thứ logic ngớ ngẩn đang cố tóm lấy chúng ta và biến chúng ta thành một thứ công cụ lan truyền sự gian ác. Nếu tôi hành động theo logic này, tình hình của tôi hoàn toàn thay đổi. Tôi là một nạn nhân vô tội khi tôi nhận được tấm giấy bạc giả, tôi là một nạn nhân của cái ác do người khác thực hiện. Nhưng một khi tôi quyết định tống khứ tấm giấy bạc giả ấy cho người khác, tôi không còn là người vô tội nữa. Tôi đã bị sức mạnh quyến rũ của cái ác tóm lấy, để thông đồng với nó tạo ra một nạn nhân mới. Tôi đã trở thành một kẻ đồng loã với cái ác, giờ đây tôi bị ràng buộc trách nhiệm vào hành vi gian ác này, và trở thành kẻ có tội. Một cách hành động khác là ngăn chặn sự lây lan của cái ác, nhưng điều đó chỉ xảy ra được khi tôi bằng lòng trả giá cho sự lương thiện của mình bằng cách giữ tờ giấy bạc giả ấy, và do đó tôi giải phóng người khác khỏi sự lây lan của cái ác.
Đây là phản ứng duy nhất có thể ngăn chặn cái ác và ưu thế của nó. Con người giành được chiến thắng này khi họ có khả năng hy sinh để trở thành của lễ đền bù tội lỗi. Chúa Kitô đã thực hiện điều đó, và qua đó cho thấy cách thế yêu thương của Người là lòng thương xót. Tình yêu tột độ này có thể được nhìn thấy nơi thập giá của Chúa Giêsu. Ngài gánh lấy toàn bộ sức nặng của hận thù và bạo lực tuôn đổ xuống trên Ngài, không phản ứng lại bằng cách ăn miếng trả miếng hay đe doạ trả thù. Thay vào đó, Ngài tha thứ, và do đó cho thấy rằng có một tình yêu còn lớn hơn hận thù. Chỉ có Chúa mới có thể làm được điều này, là chặn lại “tờ bạc giả”, bẻ gãy cái luận lý ngớ ngẩn của bạo lực. Cái chết của Ngài là một chiến thắng trên cái ác đã được tung ra bởi những kẻ tra tấn Ngài, bao gồm tất cả chúng ta. Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh và sống lại, là hòa bình và là sự hòa giải của chúng ta (Ê-phê-sô 2:14, 2Cor 5:18).
“Bà đã cứu chúng tôi thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện vào đêm canh thức này như là một dân tộc hành hương vĩ đại, đang dõi theo bước chân của Chúa Giêsu Phục Sinh, soi sáng cho nhau và giúp đỡ nhau tiến lên, dựa trên đức tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Các Giáo Phụ của Giáo Hội cho chúng ta biết rằng Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu trước hết trong đức tin và sau đó là trong xác thịt, khi Mẹ nói tiếng “Xin Vâng” với lời mời gọi của Thiên Chúa qua thiên thần. Nhưng những gì diễn ra một cách đặc biệt nơi Đức Mẹ Đồng Trinh cũng diễn ra một cách thiêng liêng trong chúng ta bất cứ khi nào chúng ta nghe Lời Chúa và đưa Lời Người vào thực hành, như Phúc Âm đã nói (xem Lc 11:28). Khi bắt chước sự quảng đại và can đảm của Đức Maria, chúng ta hãy dâng thân xác của chúng ta lên Chúa Giêsu để Ngài có thể tiếp tục sống giữa chúng ta. Chúng ta hãy dâng đôi bàn tay lên Ngài để chăm sóc cho những đứa trẻ và người nghèo, hãy dâng đôi chân chúng ta khi gần gũi anh chị em của chúng ta, dâng cánh tay của chúng ta khi bảo vệ những người yếu đuối và khi chúng ta làm việc trong vườn nho của Chúa, dâng tâm trí chúng ta trong những suy nghĩ và kế hoạch dưới ánh sáng của Tin Mừng, và trên tất cả, hãy dâng lên Chúa con tim của chúng ta để yêu mến và đưa ra các quyết định theo thánh ý Chúa.
Chỉ có như thế, Đức Trinh Nữ mới có thể định hình chúng ta, đưa chúng ta vào Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Mẹ đã làm với Lucia, Phanxicô và Jacinta. Vào ngày kỷ niệm những cuộc hiện ra này, với lòng biết ơn đối với ân sủng mà sự kiện, sứ điệp và đền Fatima này đã mang đến cho thế giới trong suốt thế kỷ vừa qua, chúng ta hãy cùng hợp tiếng với Đức Trinh Nữ Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:46-50)
Dưới đây là toàn văn bài giảng của ngài:
Kính thưa anh chị em tín hữu hành hương,
Với niềm vui và lòng biết ơn, chúng ta tập trung tại Đền thờ này để kỷ niệm những lần Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn cừu. Chúng ta tham gia vào đoàn lũ đông đảo những người hành hương, những người hàng trăm năm qua đã đến đây để tỏ lòng tín thác nơi Mẹ Thiên Đàng. Chúng ta đang cử hành Bí Tích Thánh Thể này để tôn vinh Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Trong bài đọc đầu tiên, chúng ta nghe người ta kêu lên: “bà đã cứu chúng ta thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” (Gdt 13:20). Những lời ngợi khen và lòng biết ơn này đã được dân thành Bethulia thốt lên để ca tụng Judith, nhà vô địch của họ, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặc!” (Gdt 13: 18). Nhưng những lời này thực sự chỉ đạt đến ý nghĩa viên mãn nơi Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhờ con mình là Đức Chúa Giêsu Kitô, Mẹ đã có thể “nghiền nát đầu” (xem Sáng thế ký 3:15) “con rắn cổ đại, là ma quỷ, là Satan, là kẻ lừa dối cả thế giới”. Satan tức giận với người phụ nữ, và gây chiến với những đứa con còn lại của bà, là những người giữ các điều răn của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Kh 12: 9.17).
Vì Mẹ Maria quan tâm đến những thử thách của con cái mình, nên Mẹ Maria xuất hiện ở đây với một sứ điệp an ủi và hy vọng cho một thế giới đang có chiến tranh và cho một Giáo Hội đang đau khổ: “Cuối cùng, Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917 ). Nói cách khác: “Các con hãy tin tưởng! Cuối cùng, tình yêu và hòa bình sẽ chiến thắng, bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh hơn sức mạnh của ma quỷ. Những gì dường như không thể đối với con người đều là có thể đối với Thiên Chúa”. Đức Mẹ cũng yêu cầu chúng ta tham gia vào trận chiến của Con Thiên Chúa của Mẹ, đặc biệt là trong việc đọc chuỗi Mân Côi hàng ngày cho hòa bình thế giới. Mặc dù tất cả mọi thứ phụ thuộc vào Thiên Chúa và ân sủng của Người, chúng ta vẫn cần phải hành động như thể mọi thứ phụ thuộc vào chúng ta, qua việc kêu cầu Đức Trinh Nữ Maria để con tim của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, lịch sử của các dân tộc và tình huynh đệ của toàn thể nhân loại được thánh hiến và bảo vệ và được đặt dưới sự hướng dẫn của Mẹ. Mẹ muốn mọi người có lòng cậy trông nơi Mẹ! “Nếu các con làm những gì Mẹ nói, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có được hòa bình” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917). Cuối cùng, chiến thắng sẽ thuộc về một trái tim: là Trái tim của Đức Mẹ trước hàng triệu con trai và con gái của Mẹ.
Tối nay, chúng ta cảm tạ và ngợi khen Ba Ngôi Cực Thánh vì sự dấn thân của rất nhiều người nam nữ trong sứ mệnh hòa bình được Mẹ Đồng Trinh giao phó. Từ Đông sang Tây, tình yêu của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria đã giành được một vị trí trong lòng các dân tộc như một nguồn hy vọng và ủi an. Công đồng Vatican II đã nhóm họp để làm mới lại khuôn mặt của Giáo Hội và trình bày chính mình như một Công đồng của tình yêu. Các tín hữu, các giám mục, và Đức Giáo Hoàng đã vâng lời Mẹ Thiên Chúa và toàn thể thế giới đã được thánh hiến cho Mẹ. Ở mọi nơi, các nhóm và các cộng đồng tín hữu tiếp tục tăng trưởng. Bừng tỉnh khỏi sự thờ ơ của ngày hôm qua, giờ đây họ tích cực hoạt động để trình bày trước thế giới bộ mặt đích thật của Kitô Giáo.
“Nếu họ làm những gì Mẹ nói với các con, thế giới sẽ có hòa bình”. Một trăm năm sau những cuộc hiện ra này, đúng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét, “với nhiều người hôm nay, hoà bình dường như là một ơn lành tự dưng mà có, vì người ta không phải nghĩ nhiều đến chuyện làm sao giành được nó, trong khi đối với đông đảo những người khác, hòa bình vẫn là một giấc mơ xa vời. Hàng triệu người vẫn phải sống giữa các xung đột vô nghĩa. Ngay cả ở những nơi từng được coi là an toàn, người ta vẫn thấy một cảm giác sợ hãi bao trùm. Chúng ta thường bị choáng ngợp bởi những hình ảnh về cái chết, bởi nỗi đau của những người nam nữ vô tội, những phụ nữ và trẻ em cầu xin giúp đỡ và an ủi, bởi nỗi thương tiếc của những người người thân đối với những người đã chết vì hận thù và bạo lực, và những hình ảnh của đoàn lũ những người tị nạn chạy trốn chiến tranh và những người di cư đang đối diện với những cái chết thảm khốc” (Diễn từ trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh ngày 9 tháng Giêng năm 2017). Trước những mối âu lo và sự bất định về tương lai, điều Fatima yêu cầu chúng ta là gì? Đó là sự bền đỗ trong việc thánh hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ, thể hiện hàng ngày qua việc đọc Kinh Mân Côi. Và nếu, bất chấp những lời cầu nguyện của chúng ta, chiến tranh vẫn tiếp tục thì sao? Ngay cả khi những kết quả tức thời có thể chưa nhìn thấy được, chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Cầu nguyện không bao giờ là vô ích. Sớm hay muộn, nó sẽ sinh hoa kết quả. Cầu nguyện là vốn liếng của chúng ta trong tay Thiên Chúa; Người đã biến nó thành một tài khoản tốt vào thời điểm thích hợp và theo cách của Ngài, rất khác với suy nghĩ của chúng ta.
Bài đáp ca sau bài đọc thứ nhất trình từ bài ca Magnificat, với sự tương phản rõ rệt giữa một bên là những câu chuyện về sự “vĩ đại” của các quốc gia cùng các cuộc xung đột của các dân nước, những câu chuyện về sự vĩ đại của các vương triều theo niên đại lịch sử và các vùng địa lý mà họ cát cứ; và một bên là lịch sử “bé nhỏ” của những người nghèo, những người khiêm tốn và bất lực. Những người thứ hai này được mời gọi làm việc cho hoà bình với một lực lượng khác, với những phương tiện xem ra vô dụng hoặc chẳng có hiệu quả gì, như là hoán cải, ăn năn đền bồi và tin tưởng phó thác. Họ được yêu cầu ngăn chặn sự lan tràn của cái ác bằng cách chìm đắm trong đại dương của Tình Yêu Thiên Chúa như là một sự chống đối - quyết liệt không đầu hàng – trước những điều tầm thường và vòng kiềm tỏa của cái ác.
Chúng ta phải làm gì? Hãy để tôi giải thích bằng một ví dụ đã được Eloy Bueno de la Fuente trình bày trong cuốn “Sứ Điệp Fatima: Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chiến thắng giữa những bi kịch của lịch sử” từ trang 235 đến trang 237. Nếu ai đó đưa cho chúng ta một tờ bạc giả, một phản ứng tự nhiên và hợp lý là làm mọi cách để đẩy nó sang người khác. Điều này cho thấy chúng ta đã sẵn sàng như thế nào để rơi vào một thứ logic ngớ ngẩn đang cố tóm lấy chúng ta và biến chúng ta thành một thứ công cụ lan truyền sự gian ác. Nếu tôi hành động theo logic này, tình hình của tôi hoàn toàn thay đổi. Tôi là một nạn nhân vô tội khi tôi nhận được tấm giấy bạc giả, tôi là một nạn nhân của cái ác do người khác thực hiện. Nhưng một khi tôi quyết định tống khứ tấm giấy bạc giả ấy cho người khác, tôi không còn là người vô tội nữa. Tôi đã bị sức mạnh quyến rũ của cái ác tóm lấy, để thông đồng với nó tạo ra một nạn nhân mới. Tôi đã trở thành một kẻ đồng loã với cái ác, giờ đây tôi bị ràng buộc trách nhiệm vào hành vi gian ác này, và trở thành kẻ có tội. Một cách hành động khác là ngăn chặn sự lây lan của cái ác, nhưng điều đó chỉ xảy ra được khi tôi bằng lòng trả giá cho sự lương thiện của mình bằng cách giữ tờ giấy bạc giả ấy, và do đó tôi giải phóng người khác khỏi sự lây lan của cái ác.
Đây là phản ứng duy nhất có thể ngăn chặn cái ác và ưu thế của nó. Con người giành được chiến thắng này khi họ có khả năng hy sinh để trở thành của lễ đền bù tội lỗi. Chúa Kitô đã thực hiện điều đó, và qua đó cho thấy cách thế yêu thương của Người là lòng thương xót. Tình yêu tột độ này có thể được nhìn thấy nơi thập giá của Chúa Giêsu. Ngài gánh lấy toàn bộ sức nặng của hận thù và bạo lực tuôn đổ xuống trên Ngài, không phản ứng lại bằng cách ăn miếng trả miếng hay đe doạ trả thù. Thay vào đó, Ngài tha thứ, và do đó cho thấy rằng có một tình yêu còn lớn hơn hận thù. Chỉ có Chúa mới có thể làm được điều này, là chặn lại “tờ bạc giả”, bẻ gãy cái luận lý ngớ ngẩn của bạo lực. Cái chết của Ngài là một chiến thắng trên cái ác đã được tung ra bởi những kẻ tra tấn Ngài, bao gồm tất cả chúng ta. Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh và sống lại, là hòa bình và là sự hòa giải của chúng ta (Ê-phê-sô 2:14, 2Cor 5:18).
“Bà đã cứu chúng tôi thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện vào đêm canh thức này như là một dân tộc hành hương vĩ đại, đang dõi theo bước chân của Chúa Giêsu Phục Sinh, soi sáng cho nhau và giúp đỡ nhau tiến lên, dựa trên đức tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Các Giáo Phụ của Giáo Hội cho chúng ta biết rằng Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu trước hết trong đức tin và sau đó là trong xác thịt, khi Mẹ nói tiếng “Xin Vâng” với lời mời gọi của Thiên Chúa qua thiên thần. Nhưng những gì diễn ra một cách đặc biệt nơi Đức Mẹ Đồng Trinh cũng diễn ra một cách thiêng liêng trong chúng ta bất cứ khi nào chúng ta nghe Lời Chúa và đưa Lời Người vào thực hành, như Phúc Âm đã nói (xem Lc 11:28). Khi bắt chước sự quảng đại và can đảm của Đức Maria, chúng ta hãy dâng thân xác của chúng ta lên Chúa Giêsu để Ngài có thể tiếp tục sống giữa chúng ta. Chúng ta hãy dâng đôi bàn tay lên Ngài để chăm sóc cho những đứa trẻ và người nghèo, hãy dâng đôi chân chúng ta khi gần gũi anh chị em của chúng ta, dâng cánh tay của chúng ta khi bảo vệ những người yếu đuối và khi chúng ta làm việc trong vườn nho của Chúa, dâng tâm trí chúng ta trong những suy nghĩ và kế hoạch dưới ánh sáng của Tin Mừng, và trên tất cả, hãy dâng lên Chúa con tim của chúng ta để yêu mến và đưa ra các quyết định theo thánh ý Chúa.
Chỉ có như thế, Đức Trinh Nữ mới có thể định hình chúng ta, đưa chúng ta vào Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Mẹ đã làm với Lucia, Phanxicô và Jacinta. Vào ngày kỷ niệm những cuộc hiện ra này, với lòng biết ơn đối với ân sủng mà sự kiện, sứ điệp và đền Fatima này đã mang đến cho thế giới trong suốt thế kỷ vừa qua, chúng ta hãy cùng hợp tiếng với Đức Trinh Nữ Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:46-50)
Lễ Vọng Mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima
VietCatholic Network
09:17 17/05/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau đó, vào lúc 9h30 tối, Đức Thánh Cha đã làm phép các ngọn nến tại nhà nguyện nơi Đức Mẹ đã hiện ra với các trẻ mục đồng Lúcia Santos, Jacinta và Francisco Marto. Rồi ngài chủ sự buổi đọc kinh Mân Côi với hàng triệu tín hữu hành hương.
Cuối buổi đọc kinh Mân Côi, giữa một rừng nến sáng lung linh trên quảng trường trước đền thờ Đức Mẹ Mân Côi, Đức Hồng Y Pietro Parolin là Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Tòa Thánh đã chủ sự Thánh Lễ Vọng Mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.
Giảng trong thánh lễ Đức Hồng Y nói: …
Kính thưa anh chị em tín hữu hành hương,
Với niềm vui và lòng biết ơn, chúng ta tập trung tại Đền thờ này để kỷ niệm những lần Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn cừu. Chúng ta tham gia vào đoàn lũ đông đảo những người hành hương, những người hàng trăm năm qua đã đến đây để tỏ lòng tín thác nơi Mẹ Thiên Đàng. Chúng ta đang cử hành Bí Tích Thánh Thể này để tôn vinh Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Trong bài đọc đầu tiên, chúng ta nghe người ta kêu lên: “bà đã cứu chúng ta thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” (Gdt 13:20). Những lời ngợi khen và lòng biết ơn này đã được dân thành Bethulia thốt lên để ca tụng Judith, nhà vô địch của họ, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặc!” (Gdt 13: 18). Nhưng những lời này thực sự chỉ đạt đến ý nghĩa viên mãn nơi Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhờ con mình là Đức Chúa Giêsu Kitô, Mẹ đã có thể “nghiền nát đầu” (xem Sáng thế ký 3:15) “con rắn cổ đại, là ma quỷ, là Satan, là kẻ lừa dối cả thế giới”. Satan tức giận với người phụ nữ, và gây chiến với những đứa con còn lại của bà, là những người giữ các điều răn của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Kh 12: 9.17).
Vì Mẹ Maria quan tâm đến những thử thách của con cái mình, nên Mẹ Maria xuất hiện ở đây với một sứ điệp an ủi và hy vọng cho một thế giới đang có chiến tranh và cho một Giáo Hội đang đau khổ: “Cuối cùng, Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917 ). Nói cách khác: “Các con hãy tin tưởng! Cuối cùng, tình yêu và hòa bình sẽ chiến thắng, bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh hơn sức mạnh của ma quỷ. Những gì dường như không thể đối với con người đều là có thể đối với Thiên Chúa”. Đức Mẹ cũng yêu cầu chúng ta tham gia vào trận chiến của Con Thiên Chúa của Mẹ, đặc biệt là trong việc đọc chuỗi Mân Côi hàng ngày cho hòa bình thế giới. Mặc dù tất cả mọi thứ phụ thuộc vào Thiên Chúa và ân sủng của Người, chúng ta vẫn cần phải hành động như thể mọi thứ phụ thuộc vào chúng ta, qua việc kêu cầu Đức Trinh Nữ Maria để con tim của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, lịch sử của các dân tộc và tình huynh đệ của toàn thể nhân loại được thánh hiến và bảo vệ và được đặt dưới sự hướng dẫn của Mẹ. Mẹ muốn mọi người có lòng cậy trông nơi Mẹ! “Nếu các con làm những gì Mẹ nói, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có được hòa bình” (Lần hiện ra tháng 7 năm 1917). Cuối cùng, chiến thắng sẽ thuộc về một trái tim: là Trái tim của Đức Mẹ trước hàng triệu con trai và con gái của Mẹ.
Tối nay, chúng ta cảm tạ và ngợi khen Ba Ngôi Cực Thánh vì sự dấn thân của rất nhiều người nam nữ trong sứ mệnh hòa bình được Mẹ Đồng Trinh giao phó. Từ Đông sang Tây, tình yêu của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria đã giành được một vị trí trong lòng các dân tộc như một nguồn hy vọng và ủi an. Công đồng Vatican II đã nhóm họp để làm mới lại khuôn mặt của Giáo Hội và trình bày chính mình như một Công đồng của tình yêu. Các tín hữu, các giám mục, và Đức Giáo Hoàng đã vâng lời Mẹ Thiên Chúa và toàn thể thế giới đã được thánh hiến cho Mẹ. Ở mọi nơi, các nhóm và các cộng đồng tín hữu tiếp tục tăng trưởng. Bừng tỉnh khỏi sự thờ ơ của ngày hôm qua, giờ đây họ tích cực hoạt động để trình bày trước thế giới bộ mặt đích thật của Kitô Giáo.
“Nếu họ làm những gì Mẹ nói với các con, thế giới sẽ có hòa bình”. Một trăm năm sau những cuộc hiện ra này, đúng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét, “với nhiều người hôm nay, hoà bình dường như là một ơn lành tự dưng mà có, vì người ta không phải nghĩ nhiều đến chuyện làm sao giành được nó, trong khi đối với đông đảo những người khác, hòa bình vẫn là một giấc mơ xa vời. Hàng triệu người vẫn phải sống giữa các xung đột vô nghĩa. Ngay cả ở những nơi từng được coi là an toàn, người ta vẫn thấy một cảm giác sợ hãi bao trùm. Chúng ta thường bị choáng ngợp bởi những hình ảnh về cái chết, bởi nỗi đau của những người nam nữ vô tội, những phụ nữ và trẻ em cầu xin giúp đỡ và an ủi, bởi nỗi thương tiếc của những người người thân đối với những người đã chết vì hận thù và bạo lực, và những hình ảnh của đoàn lũ những người tị nạn chạy trốn chiến tranh và những người di cư đang đối diện với những cái chết thảm khốc” (Diễn từ trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh ngày 9 tháng Giêng năm 2017). Trước những mối âu lo và sự bất định về tương lai, điều Fatima yêu cầu chúng ta là gì? Đó là sự bền đỗ trong việc thánh hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ, thể hiện hàng ngày qua việc đọc Kinh Mân Côi. Và nếu, bất chấp những lời cầu nguyện của chúng ta, chiến tranh vẫn tiếp tục thì sao? Ngay cả khi những kết quả tức thời có thể chưa nhìn thấy được, chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Cầu nguyện không bao giờ là vô ích. Sớm hay muộn, nó sẽ sinh hoa kết quả. Cầu nguyện là vốn liếng của chúng ta trong tay Thiên Chúa; Người đã biến nó thành một tài khoản tốt vào thời điểm thích hợp và theo cách của Ngài, rất khác với suy nghĩ của chúng ta.
Bài đáp ca sau bài đọc thứ nhất trình từ bài ca Magnificat, với sự tương phản rõ rệt giữa một bên là những câu chuyện về sự “vĩ đại” của các quốc gia cùng các cuộc xung đột của các dân nước, những câu chuyện về sự vĩ đại của các vương triều theo niên đại lịch sử và các vùng địa lý mà họ cát cứ; và một bên là lịch sử “bé nhỏ” của những người nghèo, những người khiêm tốn và bất lực. Những người thứ hai này được mời gọi làm việc cho hoà bình với một lực lượng khác, với những phương tiện xem ra vô dụng hoặc chẳng có hiệu quả gì, như là hoán cải, ăn năn đền bồi và tin tưởng phó thác. Họ được yêu cầu ngăn chặn sự lan tràn của cái ác bằng cách chìm đắm trong đại dương của Tình Yêu Thiên Chúa như là một sự chống đối - quyết liệt không đầu hàng – trước những điều tầm thường và vòng kiềm tỏa của cái ác.
Chúng ta phải làm gì? Hãy để tôi giải thích bằng một ví dụ đã được Eloy Bueno de la Fuente trình bày trong cuốn “Sứ Điệp Fatima: Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chiến thắng giữa những bi kịch của lịch sử” từ trang 235 đến trang 237. Nếu ai đó đưa cho chúng ta một tờ bạc giả, một phản ứng tự nhiên và hợp lý là làm mọi cách để đẩy nó sang người khác. Điều này cho thấy chúng ta đã sẵn sàng như thế nào để rơi vào một thứ logic ngớ ngẩn đang cố tóm lấy chúng ta và biến chúng ta thành một thứ công cụ lan truyền sự gian ác. Nếu tôi hành động theo logic này, tình hình của tôi hoàn toàn thay đổi. Tôi là một nạn nhân vô tội khi tôi nhận được tấm giấy bạc giả, tôi là một nạn nhân của cái ác do người khác thực hiện. Nhưng một khi tôi quyết định tống khứ tấm giấy bạc giả ấy cho người khác, tôi không còn là người vô tội nữa. Tôi đã bị sức mạnh quyến rũ của cái ác tóm lấy, để thông đồng với nó tạo ra một nạn nhân mới. Tôi đã trở thành một kẻ đồng loã với cái ác, giờ đây tôi bị ràng buộc trách nhiệm vào hành vi gian ác này, và trở thành kẻ có tội. Một cách hành động khác là ngăn chặn sự lây lan của cái ác, nhưng điều đó chỉ xảy ra được khi tôi bằng lòng trả giá cho sự lương thiện của mình bằng cách giữ tờ giấy bạc giả ấy, và do đó tôi giải phóng người khác khỏi sự lây lan của cái ác.
Đây là phản ứng duy nhất có thể ngăn chặn cái ác và ưu thế của nó. Con người giành được chiến thắng này khi họ có khả năng hy sinh để trở thành của lễ đền bù tội lỗi. Chúa Kitô đã thực hiện điều đó, và qua đó cho thấy cách thế yêu thương của Người là lòng thương xót. Tình yêu tột độ này có thể được nhìn thấy nơi thập giá của Chúa Giêsu. Ngài gánh lấy toàn bộ sức nặng của hận thù và bạo lực tuôn đổ xuống trên Ngài, không phản ứng lại bằng cách ăn miếng trả miếng hay đe doạ trả thù. Thay vào đó, Ngài tha thứ, và do đó cho thấy rằng có một tình yêu còn lớn hơn hận thù. Chỉ có Chúa mới có thể làm được điều này, là chặn lại “tờ bạc giả”, bẻ gãy cái luận lý ngớ ngẩn của bạo lực. Cái chết của Ngài là một chiến thắng trên cái ác đã được tung ra bởi những kẻ tra tấn Ngài, bao gồm tất cả chúng ta. Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh và sống lại, là hòa bình và là sự hòa giải của chúng ta (Ê-phê-sô 2:14, 2Cor 5:18).
“Bà đã cứu chúng tôi thoát hoạ diệt vong, vì bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện vào đêm canh thức này như là một dân tộc hành hương vĩ đại, đang dõi theo bước chân của Chúa Giêsu Phục Sinh, soi sáng cho nhau và giúp đỡ nhau tiến lên, dựa trên đức tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Các Giáo Phụ của Giáo Hội cho chúng ta biết rằng Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu trước hết trong đức tin và sau đó là trong xác thịt, khi Mẹ nói tiếng “Xin Vâng” với lời mời gọi của Thiên Chúa qua thiên thần. Nhưng những gì diễn ra một cách đặc biệt nơi Đức Mẹ Đồng Trinh cũng diễn ra một cách thiêng liêng trong chúng ta bất cứ khi nào chúng ta nghe Lời Chúa và đưa Lời Người vào thực hành, như Phúc Âm đã nói (xem Lc 11:28). Khi bắt chước sự quảng đại và can đảm của Đức Maria, chúng ta hãy dâng thân xác của chúng ta lên Chúa Giêsu để Ngài có thể tiếp tục sống giữa chúng ta. Chúng ta hãy dâng đôi bàn tay lên Ngài để chăm sóc cho những đứa trẻ và người nghèo, hãy dâng đôi chân chúng ta khi gần gũi anh chị em của chúng ta, dâng cánh tay của chúng ta khi bảo vệ những người yếu đuối và khi chúng ta làm việc trong vườn nho của Chúa, dâng tâm trí chúng ta trong những suy nghĩ và kế hoạch dưới ánh sáng của Tin Mừng, và trên tất cả, hãy dâng lên Chúa con tim của chúng ta để yêu mến và đưa ra các quyết định theo thánh ý Chúa.
Chỉ có như thế, Đức Trinh Nữ mới có thể định hình chúng ta, đưa chúng ta vào Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Mẹ đã làm với Lucia, Phanxicô và Jacinta. Vào ngày kỷ niệm những cuộc hiện ra này, với lòng biết ơn đối với ân sủng mà sự kiện, sứ điệp và đền Fatima này đã mang đến cho thế giới trong suốt thế kỷ vừa qua, chúng ta hãy cùng hợp tiếng với Đức Trinh Nữ Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:46-50)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn Viết Chung, CM
Nguyễn Vĩnh Thân
07:00 17/05/2017
Thánh lễ an tang cha Augustinô Nguyễn Viết Chung, CM
“Một Bác sĩ Phật Tử đã trở thành Linh Mục vì người nghèo, bệnh nhân phong – Sida đã về với Chúa”
Xem Hình
Vào lúc 8g00 ngày 13/5, thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn viết Chung thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM), được cử hành tại nhà thờ giáo xứ Phát Diệm số 485 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận. Chủ tế thánh lễ do Đức Cha Aloisio Nguyễn Hùng Vị, Giám mục Giáo phận Kontum cử hành. Cùng đồng tế với ngài có khoảng 130 linh mục thuộc Dòng Truyền giáo thánh Vinh Sơn, quí cha hạt trưởng, quí cha thuộc các giáo phận Tp. HCM, Kontum... cùng với sự tham dự gần 1.000 người gốm: gia đình huyết tộc, quí tu sĩ nam nữ và bà con giáo dân khắp nơi về tham dự.
Sau thánh lễ, thi hài ngài được đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa. Trên đường đi, đoàn xe tang đã ghé qua nhà để được vĩnh biệt gia đình và bà cố đang nằm trên giường bệnh. Trước khi thân xác ngài trở về bụi tro
“Một Bác sĩ Phật Tử đã trở thành Linh Mục vì người nghèo, bệnh nhân phong – Sida đã về với Chúa”
Xem Hình
Sau thánh lễ, thi hài ngài được đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa. Trên đường đi, đoàn xe tang đã ghé qua nhà để được vĩnh biệt gia đình và bà cố đang nằm trên giường bệnh. Trước khi thân xác ngài trở về bụi tro
Cảm nhận ngày hành hương Đức Mẹ Banneux Bỉ quốc
Trầm Hương Thơ
16:46 17/05/2017
CẢM NHẬN NGÀY HÀNH HƯƠNG ĐỨC MẸ BANNEUX
Cuộc đời là chuyến hành hương
Ta đi đi mãi về đường tương lai
Tương lai là chốn vô thường
Là nơi bất diệt Thiên Đường Chúa ta
Vâng cuộc đời tôi là chuyến hành hương, hành hương để tìm đến nơi linh thiêng bình an cho cuộc đời tại thế và cho cả tương lai mai sau.
Hôm nay theo đoàn người lũ lượt tôi đi về Linh Địa Banneux Vương Quốc Bỉ để hành hương kính Đức Mẹ nhân ngày Hiền Mẫu. Hôm nay cũng là kỷ niệm 1 trăm năm Đức Mẹ đã hiện ra tại Linh Địa Fatima với 3 trẻ Phanxicô, Jaxinta, và Lucia. Ngày hôm qua 13.05.2017 Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên thánh cho hai trẻ khi xưa được gặp Đức Mẹ là Phanxicô và Jaxinta, đã có cả triệu người hành hương đến tham dự.
Xem Hình
Tôi lái xe 3 giờ đồng hồ để về viếng Đức Mẹ, mẹ tôi mất rất sớm khi tôi mới lên 5 nên tôi đã luôn kính xin nhận Đức Mẹ là mẹ tôi. Những ngày Hiền Mẫu hằng năm được qúy Lm. Âu châu tổ chức tại Linh Địa Banneux nên tôi thường tìm về bên Đức Mẹ, vì Mẹ là mẹ của con, và là Mẹ của người nghèo. Cái nghèo Đức Mẹ nói đây không phải chỉ là nghèo về vật chất, nhưng mà còn nghèo về tâm linh. v.v...
Ngày hành hương khắp muôn phương tìm đến
Suối Ơn Lành thánh hiến tại Banneux
Tâm nhúng xuống nguồn nước rửa bụi mờ
Bụi cuộc đời làm nhơ hồn lẫn xác
Linh địa Banneux hôm nay có khoảng 6-7 ngàn con dân Việt Nam đa số là thuyền nhân tỵ nạn cộng sản đã hành hương về đây để tôn kính Mẹ và để được Mẹ ủi an nhân ngày Hiền Mẫu tại Âu Châu. Theo tôi được biết đây cũng là năm thứ 8 đại hội hành hương Âu Châu nhằm vào ngày Hiền Mẫu. Ban Tổ Chức (BTC) cho biết số người tham dự năm nay có vẻ đông hơn năm trước, khoảng hơn 6 ngàn người. Tôi hòa nhập vào đoàn kiệu đông đảo kéo dài như bất tận, lời kinh kính mừng sốt sắng cất lên vang vọng khắp cả Linh Địa Banneux cảm xúc dâng trào hòa quyện vào những lời ca kính chào Nữ Vương, Nữ Vương Hòa bình, tôi rướm nước mắt nhìn về quê hương miền trung đang đau khổ không chỉ nắng cháy da người mà còn đầy dẫy chất độc dưới nước. Tôi cầu xin Mẹ giải thoát cho những người dân lành chài lưới sinh nhai đã bao đời nay, nay họ đang chết dần bởi chất độc của nhà máy Formosa và nhiều chỗ thải độc khác nữa, thật đau xót vô vàn. Xin ban cho quê hương Việt Nam chúng con sớm có bình an, Mẹ ơi!
Mẹ ơi! đất nước tả tơi
Mẹ ơi! con Mẹ nghẹn lời khóc than
Mẹ ơi! cá chết tràn làn
Mẹ ơi! khắp nước giặc tràn quê hương
Mẹ ơi! đau đớn vô thường
Mẹ ơi! một lũ vô lương cướp quyền
Mẹ ơi! sao nỡ ngồi yên
Mẹ ơi! đau xót triền miên rã rời
Mẹ ơi! xin giúp đổi đời
Mẹ ơi! con Mẹ chẳng vơi nỗi sầu
Mẹ ơi! đất nước về đâu???
Theo đoàn kiệu Đức Mẹ tiến về ngôi Đại Thánh đường với 5 ngàn ghế ngồi nhưng không đủ chỗ nhiều người phải đứng cả chung quanh và gần cửa ra vào. Các em dâng hoa lên Đức Mẹ tôi lại nhớ đến những ngày xưa thân ái khi còn ở quê nhà, mỗi tháng năm về từng giáo xứ có dâng hoa. Chắc hoa ngày đó không rực rỡ như hoa ở Âu Châu hôm nay nhưng trong lòng ngày đó chắc chắn là êm ả hơn, và thân thương hơn.
Lm. Giuse Lê Thắng chia sẻ lời Chúa có đôi chút dí dỏm nhưng đơn sơ rất thật cho cuộc sống bình dị, ai cũng có thể thực hành được bằng kinh Kính Mừng v.v... tôi nhớ được câu chuyện như sau. Chuyện kể rằng: Một cô gái ngoan đạo nơi quê nhà quen biết với một chàng trai con cán bộ cs. ngoại đạo và quyết định tiến tới hôn nhân. Lẽ tất nhiên gia đình rất buồn phiền, nhất là bà mẹ cô dâu. Thời gian cưới về ở chung với gia đình bên chồng, cô hầu như không được đi đến nhà thờ. Mỗi ngày Chúa Nhật cô đều phải gói cái áo dài lại cầm đi đến nơi vắng người và lén mặc vào rồi vào dự lễ sau lễ lại tìm chỗ thay ra và đi về nhà. Cha mẹ cô cũng rất mắc cỡ và chỉ biết cầu nguyện thôi. Một thời gian sau 2 vợ chồng tìm cách đi hợp tác lao động sang ở bên đông Đức. Ngày ấy bên đông Đức có một Lm. dòng Ngôi Lời tình nguyện sang Đông Đức truyền giáo, không có giáo dân và giáo xứ cha mới viết một tấm giấy dán ngay trạm xe giới thiệu mình là Linh mục Công Giáo và muốn làm quen với những ai muốn tim hiểu đạo Công Giáo hoặc ai cần xin liên lạc số điện thoại...
Gia đình này khi sang đây một thời gian thì bức tường Bá Linh sụp đổ và quyết định ở lại gia đình gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, bất đồng gần như sắp đổ vỡ thì chị ta thấy cái số điện thoại gọi tìm đến vị Linh mục trẻ này xin Linh hướng, và nói mình là người Công Giáo, nhưng chồng thì không, vì là con của cán bộ cộng sản. Sau đó nhờ vị Linh Mục dạy đạo cho đứa con trai để xin rữa tội. Sau một thời gian gặp gỡ hai với hai vợ chồng, và theo mong ước của chị là dạy đạo cho cậu con trai để được gia nhập đạo, cho đến ngày gần rửa tội thì anh chồng cũng tự động xin vào đạo.
Ôi! còn niềm vui nào bằng cho người vợ, nhưng ngày rửa tội thì bà ngoại của cháu được tin còn mừng hơn cả vì từ ngày biết con gái quen với anh này mỗi ngày bà đều dâng lên Đức Mẹ một kinh Kính Mừng cho con gái mình vì bà tin rằng không có gì cầu xin liên lỉ lên Đức Mẹ mà không được. Câu chuyện đơn sơ nhưng là ý nghĩa thâm sâu của lời cầu nguyện.
Ôi! ơn Mẹ lớn vô cùng trọng đại
Cứu giúp con vụng dại bao tháng ngày
Con trở về ngày Hiền Mẫu hôm nay
Dưới chân Mẹ con say tình cảm mến
Con tạ ơn vì có Mẹ mang đến
Cõi nhân gian ngọn nến sáng đời con
Con xin hứa từ nay sống cho tròn
Sống xứng đáng làm con ngoan của Mẹ
Sau thánh lễ tôi ra ngoài gặp gỡ vạn niềm vui, người người chào hỏi nhau chia sẻ, ăn uống, tiếng cười, chụp ảnh v.v...
Tôi đi đến nguồn nước ơn lành nơi tượng Mẹ đứng đó, nhúng sâu hai bàn tay xuống để sám hối tội lỗi mình để trở về với Mẹ trong ngày Hiền Mẫu cho xứng và cho nên. Vì khi xưa Mẹ hiện ra 8 lần tại nơi linh địa Banneux này và dạy ta như thế.
Tầm hồn thật nhẹ nhàng thanh thản vui vẻ sau buổi suy niệm những chặng đàng Thánh Giá Chúa Kitô xưa chịu khổ ra sao để đi lên đồi thương khó. Ngài đã hoàn thành sau khi bước đi hết đoạn đường thương khó đó, và chỉ có bước qua đồi thương khó đó thì Ngài mới Phục Sinh quang vinh, trở về đại thánh đường dự giờ chầu Thánh Thể, rồi hôn xương thánh. Tôi cảm nhận và ý thức rõ ràng hơn rằng, đường đời ta đang đi hành hương nơi trần thế này cũng vậy thôi. Chỉ có bước theo chân Chúa Giêsu Kitô như các thánh Tử Đạo Việt Nam khi xưa thì mới ta mới được dự phần cùng Ngài mà thôi, không có con đường nào, lối tắt nào bước đi cả.
Kính Xin Đức Mẹ Banneux và các Thánh tử Đạo Việt Nam cứu giúp và bầu cử cho nước Việt Nam chúng con đang trên bờ vực thẳm của sự diệt vong bởi tà thuyết vô thần cộng sản đang tâm tham lam, tàn độc dâng hiến đất cho quan thầy tàu cộng.
Chấm dứt chương trình của ngày hành hương đã gần 18 giờ nhưng cũng còn rất nhiều người chưa ra về, còn quyến luyến nơi Mẹ và những bạn bè. Tôi cũng thế gặp phái đoàn các anh chị hành hương đến từ Áo Quốc, thăm hỏi chụp ảnh nơi đền Đức Mẹ, và hẹn nhau sẽ liên lạc. Bước ra gặp mấy sơ từ Việt Nam sang đây tu học, chào thăm, chia sẻ đồ ăn, chuyện trò rôm rả mãi đến gần 19giờ mới chia tay ra về với những bình, những chai nước Đức Mẹ trên tay.
Tôi bước vào nơi Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên trước nhà thị nhân Mariette Beco, chào Mẹ của tôi trước khi từ giã để lên đường trờ về nhà.
Hồn con đây trỗi dậy ngàn cung nhạc
Suối Ơn Lành rửa sạch những buồn đau
Ngàn cánh hoa bỗng lại nở tươi màu
Bởi bụi đời bám đầy thành ra xấu
Con dâng Mẹ hôm nay ngày Hiền Mẫu
Ngày tươi đẹp hòa tấu của tháng năm
Tháng mùa xuân bừng nở khắp xa xăm
Lòng thanh thản tâm an bình có Mẹ.
Xin cảm ơn Đức Mẹ đã hiện ra nơi đây để con có Mẹ trong những ngày Hiền Mẫu. Cảm ơn qúy Lm. tu sĩ và Ban Tổ Chức đã làm việc vất vả để kết nối, quy tụ những người Công Giáo Việt Nam Âu Châu hằng năm có cơ hội về đây gặp gỡi nhau dưới bóng Mẹ Hiền, cùng cảm ơn tất cả những anh chị em mà tôi đã được hân hạnh gặp gỡ quen biết trong ngày Hiền Mẫu tại Banneux.
Một chút cảm nghiệm trong ngày Hiền Mẫu tốt đẹp hằng năm như một truyền thống đạo đức gắn kết những người con của Mẹ lại với nhau dưới bóng mát "Nguồn Suối Ơn Lành Của Mẹ" để bước theo chân Mẹ về với Chúa và với nhau.
Kính xin Chúa qua Đức Mẹ Banneux chúc lành cho chúng con. Hẹn gặp lại năm sau ngày Hiền Mẫu 13.05.2018.
Kẻ Hành Hương (THT)
Ngày Hiền Mẫu Banneux 2017
Cuộc đời là chuyến hành hương
Ta đi đi mãi về đường tương lai
Tương lai là chốn vô thường
Là nơi bất diệt Thiên Đường Chúa ta
Vâng cuộc đời tôi là chuyến hành hương, hành hương để tìm đến nơi linh thiêng bình an cho cuộc đời tại thế và cho cả tương lai mai sau.
Hôm nay theo đoàn người lũ lượt tôi đi về Linh Địa Banneux Vương Quốc Bỉ để hành hương kính Đức Mẹ nhân ngày Hiền Mẫu. Hôm nay cũng là kỷ niệm 1 trăm năm Đức Mẹ đã hiện ra tại Linh Địa Fatima với 3 trẻ Phanxicô, Jaxinta, và Lucia. Ngày hôm qua 13.05.2017 Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên thánh cho hai trẻ khi xưa được gặp Đức Mẹ là Phanxicô và Jaxinta, đã có cả triệu người hành hương đến tham dự.
Xem Hình
Tôi lái xe 3 giờ đồng hồ để về viếng Đức Mẹ, mẹ tôi mất rất sớm khi tôi mới lên 5 nên tôi đã luôn kính xin nhận Đức Mẹ là mẹ tôi. Những ngày Hiền Mẫu hằng năm được qúy Lm. Âu châu tổ chức tại Linh Địa Banneux nên tôi thường tìm về bên Đức Mẹ, vì Mẹ là mẹ của con, và là Mẹ của người nghèo. Cái nghèo Đức Mẹ nói đây không phải chỉ là nghèo về vật chất, nhưng mà còn nghèo về tâm linh. v.v...
Ngày hành hương khắp muôn phương tìm đến
Suối Ơn Lành thánh hiến tại Banneux
Tâm nhúng xuống nguồn nước rửa bụi mờ
Bụi cuộc đời làm nhơ hồn lẫn xác
Linh địa Banneux hôm nay có khoảng 6-7 ngàn con dân Việt Nam đa số là thuyền nhân tỵ nạn cộng sản đã hành hương về đây để tôn kính Mẹ và để được Mẹ ủi an nhân ngày Hiền Mẫu tại Âu Châu. Theo tôi được biết đây cũng là năm thứ 8 đại hội hành hương Âu Châu nhằm vào ngày Hiền Mẫu. Ban Tổ Chức (BTC) cho biết số người tham dự năm nay có vẻ đông hơn năm trước, khoảng hơn 6 ngàn người. Tôi hòa nhập vào đoàn kiệu đông đảo kéo dài như bất tận, lời kinh kính mừng sốt sắng cất lên vang vọng khắp cả Linh Địa Banneux cảm xúc dâng trào hòa quyện vào những lời ca kính chào Nữ Vương, Nữ Vương Hòa bình, tôi rướm nước mắt nhìn về quê hương miền trung đang đau khổ không chỉ nắng cháy da người mà còn đầy dẫy chất độc dưới nước. Tôi cầu xin Mẹ giải thoát cho những người dân lành chài lưới sinh nhai đã bao đời nay, nay họ đang chết dần bởi chất độc của nhà máy Formosa và nhiều chỗ thải độc khác nữa, thật đau xót vô vàn. Xin ban cho quê hương Việt Nam chúng con sớm có bình an, Mẹ ơi!
Mẹ ơi! đất nước tả tơi
Mẹ ơi! con Mẹ nghẹn lời khóc than
Mẹ ơi! cá chết tràn làn
Mẹ ơi! khắp nước giặc tràn quê hương
Mẹ ơi! đau đớn vô thường
Mẹ ơi! một lũ vô lương cướp quyền
Mẹ ơi! sao nỡ ngồi yên
Mẹ ơi! đau xót triền miên rã rời
Mẹ ơi! xin giúp đổi đời
Mẹ ơi! con Mẹ chẳng vơi nỗi sầu
Mẹ ơi! đất nước về đâu???
Theo đoàn kiệu Đức Mẹ tiến về ngôi Đại Thánh đường với 5 ngàn ghế ngồi nhưng không đủ chỗ nhiều người phải đứng cả chung quanh và gần cửa ra vào. Các em dâng hoa lên Đức Mẹ tôi lại nhớ đến những ngày xưa thân ái khi còn ở quê nhà, mỗi tháng năm về từng giáo xứ có dâng hoa. Chắc hoa ngày đó không rực rỡ như hoa ở Âu Châu hôm nay nhưng trong lòng ngày đó chắc chắn là êm ả hơn, và thân thương hơn.
Lm. Giuse Lê Thắng chia sẻ lời Chúa có đôi chút dí dỏm nhưng đơn sơ rất thật cho cuộc sống bình dị, ai cũng có thể thực hành được bằng kinh Kính Mừng v.v... tôi nhớ được câu chuyện như sau. Chuyện kể rằng: Một cô gái ngoan đạo nơi quê nhà quen biết với một chàng trai con cán bộ cs. ngoại đạo và quyết định tiến tới hôn nhân. Lẽ tất nhiên gia đình rất buồn phiền, nhất là bà mẹ cô dâu. Thời gian cưới về ở chung với gia đình bên chồng, cô hầu như không được đi đến nhà thờ. Mỗi ngày Chúa Nhật cô đều phải gói cái áo dài lại cầm đi đến nơi vắng người và lén mặc vào rồi vào dự lễ sau lễ lại tìm chỗ thay ra và đi về nhà. Cha mẹ cô cũng rất mắc cỡ và chỉ biết cầu nguyện thôi. Một thời gian sau 2 vợ chồng tìm cách đi hợp tác lao động sang ở bên đông Đức. Ngày ấy bên đông Đức có một Lm. dòng Ngôi Lời tình nguyện sang Đông Đức truyền giáo, không có giáo dân và giáo xứ cha mới viết một tấm giấy dán ngay trạm xe giới thiệu mình là Linh mục Công Giáo và muốn làm quen với những ai muốn tim hiểu đạo Công Giáo hoặc ai cần xin liên lạc số điện thoại...
Gia đình này khi sang đây một thời gian thì bức tường Bá Linh sụp đổ và quyết định ở lại gia đình gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, bất đồng gần như sắp đổ vỡ thì chị ta thấy cái số điện thoại gọi tìm đến vị Linh mục trẻ này xin Linh hướng, và nói mình là người Công Giáo, nhưng chồng thì không, vì là con của cán bộ cộng sản. Sau đó nhờ vị Linh Mục dạy đạo cho đứa con trai để xin rữa tội. Sau một thời gian gặp gỡ hai với hai vợ chồng, và theo mong ước của chị là dạy đạo cho cậu con trai để được gia nhập đạo, cho đến ngày gần rửa tội thì anh chồng cũng tự động xin vào đạo.
Ôi! còn niềm vui nào bằng cho người vợ, nhưng ngày rửa tội thì bà ngoại của cháu được tin còn mừng hơn cả vì từ ngày biết con gái quen với anh này mỗi ngày bà đều dâng lên Đức Mẹ một kinh Kính Mừng cho con gái mình vì bà tin rằng không có gì cầu xin liên lỉ lên Đức Mẹ mà không được. Câu chuyện đơn sơ nhưng là ý nghĩa thâm sâu của lời cầu nguyện.
Ôi! ơn Mẹ lớn vô cùng trọng đại
Cứu giúp con vụng dại bao tháng ngày
Con trở về ngày Hiền Mẫu hôm nay
Dưới chân Mẹ con say tình cảm mến
Con tạ ơn vì có Mẹ mang đến
Cõi nhân gian ngọn nến sáng đời con
Con xin hứa từ nay sống cho tròn
Sống xứng đáng làm con ngoan của Mẹ
Sau thánh lễ tôi ra ngoài gặp gỡ vạn niềm vui, người người chào hỏi nhau chia sẻ, ăn uống, tiếng cười, chụp ảnh v.v...
Tôi đi đến nguồn nước ơn lành nơi tượng Mẹ đứng đó, nhúng sâu hai bàn tay xuống để sám hối tội lỗi mình để trở về với Mẹ trong ngày Hiền Mẫu cho xứng và cho nên. Vì khi xưa Mẹ hiện ra 8 lần tại nơi linh địa Banneux này và dạy ta như thế.
Tầm hồn thật nhẹ nhàng thanh thản vui vẻ sau buổi suy niệm những chặng đàng Thánh Giá Chúa Kitô xưa chịu khổ ra sao để đi lên đồi thương khó. Ngài đã hoàn thành sau khi bước đi hết đoạn đường thương khó đó, và chỉ có bước qua đồi thương khó đó thì Ngài mới Phục Sinh quang vinh, trở về đại thánh đường dự giờ chầu Thánh Thể, rồi hôn xương thánh. Tôi cảm nhận và ý thức rõ ràng hơn rằng, đường đời ta đang đi hành hương nơi trần thế này cũng vậy thôi. Chỉ có bước theo chân Chúa Giêsu Kitô như các thánh Tử Đạo Việt Nam khi xưa thì mới ta mới được dự phần cùng Ngài mà thôi, không có con đường nào, lối tắt nào bước đi cả.
Kính Xin Đức Mẹ Banneux và các Thánh tử Đạo Việt Nam cứu giúp và bầu cử cho nước Việt Nam chúng con đang trên bờ vực thẳm của sự diệt vong bởi tà thuyết vô thần cộng sản đang tâm tham lam, tàn độc dâng hiến đất cho quan thầy tàu cộng.
Chấm dứt chương trình của ngày hành hương đã gần 18 giờ nhưng cũng còn rất nhiều người chưa ra về, còn quyến luyến nơi Mẹ và những bạn bè. Tôi cũng thế gặp phái đoàn các anh chị hành hương đến từ Áo Quốc, thăm hỏi chụp ảnh nơi đền Đức Mẹ, và hẹn nhau sẽ liên lạc. Bước ra gặp mấy sơ từ Việt Nam sang đây tu học, chào thăm, chia sẻ đồ ăn, chuyện trò rôm rả mãi đến gần 19giờ mới chia tay ra về với những bình, những chai nước Đức Mẹ trên tay.
Tôi bước vào nơi Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên trước nhà thị nhân Mariette Beco, chào Mẹ của tôi trước khi từ giã để lên đường trờ về nhà.
Hồn con đây trỗi dậy ngàn cung nhạc
Suối Ơn Lành rửa sạch những buồn đau
Ngàn cánh hoa bỗng lại nở tươi màu
Bởi bụi đời bám đầy thành ra xấu
Con dâng Mẹ hôm nay ngày Hiền Mẫu
Ngày tươi đẹp hòa tấu của tháng năm
Tháng mùa xuân bừng nở khắp xa xăm
Lòng thanh thản tâm an bình có Mẹ.
Xin cảm ơn Đức Mẹ đã hiện ra nơi đây để con có Mẹ trong những ngày Hiền Mẫu. Cảm ơn qúy Lm. tu sĩ và Ban Tổ Chức đã làm việc vất vả để kết nối, quy tụ những người Công Giáo Việt Nam Âu Châu hằng năm có cơ hội về đây gặp gỡi nhau dưới bóng Mẹ Hiền, cùng cảm ơn tất cả những anh chị em mà tôi đã được hân hạnh gặp gỡ quen biết trong ngày Hiền Mẫu tại Banneux.
Một chút cảm nghiệm trong ngày Hiền Mẫu tốt đẹp hằng năm như một truyền thống đạo đức gắn kết những người con của Mẹ lại với nhau dưới bóng mát "Nguồn Suối Ơn Lành Của Mẹ" để bước theo chân Mẹ về với Chúa và với nhau.
Kính xin Chúa qua Đức Mẹ Banneux chúc lành cho chúng con. Hẹn gặp lại năm sau ngày Hiền Mẫu 13.05.2018.
Kẻ Hành Hương (THT)
Ngày Hiền Mẫu Banneux 2017
Cảm nhận ngày hành hương Đức Mẹ Banneux Bỉ quốc
Trầm Hương Thơ
17:03 17/05/2017
GM. Nguyễn Thái Hợp: Một chuyến đi đau lòng!
Đang trong chuyến đi vận động quốc tế ở châu Âu và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa, Giám mục Giáo phận Vinh Phaolo Nguyễn Thái Hợp nói với VOA rằng ông đau lòng khi phải thực hiện một chuyến đi mà lẽ ra là của những người cầm quyền.
“Đây là chuyến đi ngoài dự phóng cũng như chuyên môn của chúng tôi vì thực sự chúng tôi không được đào tạo để thực hiện những chuyến đi như vậy. Chúng tôi là những người làm mục vụ. Đáng lẽ những chuyến đi như vậy phải là của những người cầm quyền”.
Từ chối giúp đỡ của quốc tế
Trong chuyến đi kéo dài hai tuần tới Na Uy, Đức, Bỉ và Thụy Sĩ, phái đoàn của Giáo phận Vinh đã có những cuộc tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, một số Bộ Ngoại giao, các tổ chức thuộc Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức xã hội dân sự.
Chia sẻ với VOA về kết quả chuyến đi, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói các cuộc tiếp xúc với các tổ chức quốc tế càng khiến ông thêm đau lòng.
“Buồn vì cách xử sự của những người cầm quyền, của những người đại diện của dân. Chẳng hạn, một điều cụ thể mà chúng tôi nhận thấy, khi ở Việt Nam tôi cũng đã nghe, là một số nước muốn đến để giúp đỡ cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của thảm họa và nhất là xử lý thiên nhiên đã bị thảm họa đó bằng những phương pháp khoa học, kỹ thuật hiện đại để trả lại vùng biển miền Trung, và cho người dân biết thảm họa đến bao nhiêu, thảm họa kéo dài bao nhiêu, bao giờ có thể ăn cá được, bao giờ có thể đi ra biển được v.v.. Không những nhà nước đã từ chối một số nước, mà ngay cả cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng đã có những đề nghị đó mà không hiểu tại sao những người đại diện của dân cũng từ chối đề nghị của cơ quan Liên Hiệp Quốc. Điều đó khiến tôi cảm thấy đau lòng”.
Mị dân và vô trách nhiệm
Hơn một năm sau khi xảy ra thảm họa môi trường lịch sử, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói những câu hỏi rất căn bản của người dân như nguyên nhân của thảm họa, tác hại của nó thế nào, kéo dài bao lâu, khi nào biển miền Trung được khôi phục trở lại… vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
“Cho tới hôm nay, tôi thấy rằng chúng tôi chỉ gặp được những câu trả lời một cách rất mị dân và vô trách nhiệm. Chẳng hạn có những quan chức, khi thảm họa xảy ra ít lâu, đã xuống biển tắm để nói với dân rằng ‘Tắm đi!’. Có những người trả lời một cách vô trách nhiệm rằng biển miền Trung cũng như dân tộc Việt Nam oai hùng nên nó tự có thể tẩy xóa được thảm họa, những chất độc trở lại tình trạng ban đầu”.
Những “cuộc xung đột đau lòng”
Kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường ở vùng biển miền Trung hồi tháng 4/2016, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại địa phương và trên khắp các tỉnh thành đòi chính quyền và Formosa phải minh bạch thông tin về thảm họa và bồi thường xứng đáng cho người dân.
Mặc dù phía chính quyền nói đã phân phối số tiền đền bù 500 triệu đôla của Formosa tới các nạn nhân trực tiếp của thảm họa, nhưng nhiều người dân không đồng tình với cách giải quyết của chính quyền. Gần đây, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra, đặc biệt tại tỉnh Nghệ An.
“Nguyên nhân sâu xa vẫn là chưa đền bù xứng đáng. Có những người lẽ ra phải được đền bù xứng đáng thì vẫn chưa được vào danh sách [đền bù]. Có những người không liên quan gì đến thảm họa môi trường, không phải là nạn nhân thì đã được đền bù. Tại sao vậy? Phải chăng vì tham nhũng, vì lợi ích nhóm?”, Giám mục Nguyễn Thái Hợp đặt câu hỏi.
Tỉnh Nghệ An vốn không được chính quyền xếp vào danh sách bồi thường của thảm họa Formosa, nhưng nhiều người dân địa phương nói họ đã mất nguồn sinh kế, lâm vào cảnh nợ nần vì ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết ông đã hai lần làm việc với chính quyền tỉnh Nghệ An và được chính quyền tỉnh cho biết đã đề đạt ra trung ương để đưa một số khu vực ở Nghệ An vào danh sách nạn nhân cần được bồi thường. Tuy nhiên cho tới nay, ông vẫn chưa nhận được câu trả lời cho vấn đề này. Theo ông, chính sự phẫn uất của người dân đã dẫn đến những "cuộc xung đột đau lòng" giữa người dân và chính quyền.
“Chuyện này đáng lẽ giải quyết một cách êm thắm giữa người dân và chính quyền, mà cuối cùng không được giải quyết, đưa đến những cuộc xung đột. Những cuộc xung đột đó thật sự rất đau lòng. Càng đau lòng hơn khi người dân bị đánh đập trong khi họ là những nạn nhân cần được đền bù xứng đáng”.
Người dẫn đầu phái đoàn của Giáo phận Vinh cho biết chuyến đi vận động lần này là một chuyến đi “tiếp cận”, giúp cho các thành viên biết cách nghiên cứu, sắp xếp và đề đạt các thỉnh nguyện của người dân một cách cụ thể hơn để gửi tới nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế khác nhau, với mong muốn giúp cho các nạn nhân của Formosa sớm tìm được câu trả lời cho những băn khoăn của họ và được đền bù thỏa đáng.
Tính đến sáng 18/5, thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa trên trang www.thamhoaformosa.com đã có trên 195.000 người ký tên.
Giáo phận Vinh có quyết định thành lập Ban Hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung vào tháng 9/2016, 5 tháng sau khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hải sản chết hàng loạt, khiến đời sống kinh tế trong khu vực gần như tê liệt.
“Đây là chuyến đi ngoài dự phóng cũng như chuyên môn của chúng tôi vì thực sự chúng tôi không được đào tạo để thực hiện những chuyến đi như vậy. Chúng tôi là những người làm mục vụ. Đáng lẽ những chuyến đi như vậy phải là của những người cầm quyền”.
Từ chối giúp đỡ của quốc tế
Trong chuyến đi kéo dài hai tuần tới Na Uy, Đức, Bỉ và Thụy Sĩ, phái đoàn của Giáo phận Vinh đã có những cuộc tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, một số Bộ Ngoại giao, các tổ chức thuộc Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức xã hội dân sự.
Chia sẻ với VOA về kết quả chuyến đi, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói các cuộc tiếp xúc với các tổ chức quốc tế càng khiến ông thêm đau lòng.
“Buồn vì cách xử sự của những người cầm quyền, của những người đại diện của dân. Chẳng hạn, một điều cụ thể mà chúng tôi nhận thấy, khi ở Việt Nam tôi cũng đã nghe, là một số nước muốn đến để giúp đỡ cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của thảm họa và nhất là xử lý thiên nhiên đã bị thảm họa đó bằng những phương pháp khoa học, kỹ thuật hiện đại để trả lại vùng biển miền Trung, và cho người dân biết thảm họa đến bao nhiêu, thảm họa kéo dài bao nhiêu, bao giờ có thể ăn cá được, bao giờ có thể đi ra biển được v.v.. Không những nhà nước đã từ chối một số nước, mà ngay cả cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng đã có những đề nghị đó mà không hiểu tại sao những người đại diện của dân cũng từ chối đề nghị của cơ quan Liên Hiệp Quốc. Điều đó khiến tôi cảm thấy đau lòng”.
Mị dân và vô trách nhiệm
Hơn một năm sau khi xảy ra thảm họa môi trường lịch sử, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói những câu hỏi rất căn bản của người dân như nguyên nhân của thảm họa, tác hại của nó thế nào, kéo dài bao lâu, khi nào biển miền Trung được khôi phục trở lại… vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
“Cho tới hôm nay, tôi thấy rằng chúng tôi chỉ gặp được những câu trả lời một cách rất mị dân và vô trách nhiệm. Chẳng hạn có những quan chức, khi thảm họa xảy ra ít lâu, đã xuống biển tắm để nói với dân rằng ‘Tắm đi!’. Có những người trả lời một cách vô trách nhiệm rằng biển miền Trung cũng như dân tộc Việt Nam oai hùng nên nó tự có thể tẩy xóa được thảm họa, những chất độc trở lại tình trạng ban đầu”.
Những “cuộc xung đột đau lòng”
Mặc dù phía chính quyền nói đã phân phối số tiền đền bù 500 triệu đôla của Formosa tới các nạn nhân trực tiếp của thảm họa, nhưng nhiều người dân không đồng tình với cách giải quyết của chính quyền. Gần đây, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra, đặc biệt tại tỉnh Nghệ An.
“Nguyên nhân sâu xa vẫn là chưa đền bù xứng đáng. Có những người lẽ ra phải được đền bù xứng đáng thì vẫn chưa được vào danh sách [đền bù]. Có những người không liên quan gì đến thảm họa môi trường, không phải là nạn nhân thì đã được đền bù. Tại sao vậy? Phải chăng vì tham nhũng, vì lợi ích nhóm?”, Giám mục Nguyễn Thái Hợp đặt câu hỏi.
Tỉnh Nghệ An vốn không được chính quyền xếp vào danh sách bồi thường của thảm họa Formosa, nhưng nhiều người dân địa phương nói họ đã mất nguồn sinh kế, lâm vào cảnh nợ nần vì ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết ông đã hai lần làm việc với chính quyền tỉnh Nghệ An và được chính quyền tỉnh cho biết đã đề đạt ra trung ương để đưa một số khu vực ở Nghệ An vào danh sách nạn nhân cần được bồi thường. Tuy nhiên cho tới nay, ông vẫn chưa nhận được câu trả lời cho vấn đề này. Theo ông, chính sự phẫn uất của người dân đã dẫn đến những "cuộc xung đột đau lòng" giữa người dân và chính quyền.
“Chuyện này đáng lẽ giải quyết một cách êm thắm giữa người dân và chính quyền, mà cuối cùng không được giải quyết, đưa đến những cuộc xung đột. Những cuộc xung đột đó thật sự rất đau lòng. Càng đau lòng hơn khi người dân bị đánh đập trong khi họ là những nạn nhân cần được đền bù xứng đáng”.
Người dẫn đầu phái đoàn của Giáo phận Vinh cho biết chuyến đi vận động lần này là một chuyến đi “tiếp cận”, giúp cho các thành viên biết cách nghiên cứu, sắp xếp và đề đạt các thỉnh nguyện của người dân một cách cụ thể hơn để gửi tới nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế khác nhau, với mong muốn giúp cho các nạn nhân của Formosa sớm tìm được câu trả lời cho những băn khoăn của họ và được đền bù thỏa đáng.
Tính đến sáng 18/5, thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa trên trang www.thamhoaformosa.com đã có trên 195.000 người ký tên.
Giáo phận Vinh có quyết định thành lập Ban Hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung vào tháng 9/2016, 5 tháng sau khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hải sản chết hàng loạt, khiến đời sống kinh tế trong khu vực gần như tê liệt.
Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm: Nữ tu Têrêsa Kim Dung Tuyên Khấn Trọn Đời ở tuổi 74.
Sr. Hồ Châu
20:45 17/05/2017
Tối ngày 12.5.2017 trong bầu không khí hân hoan vui mừng tại Hội trường, trường Tiểu học Thánh Gioan Phaolo II, ngoại ô Banksia Grove, Tây Úc; nữ tu Têrêsa Trần Kim Dung đã tuyên khấn trọn đời trong tay Nữ tu Maria Nguyễn Thị Ngoan, Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, trước sự chứng giám của Đức Giám Mục Phụ tá Donald Sproxton, quý Linh mục, quý tu sĩ Tổng giáo phận Perth và đông đảo anh chị em, bạn hữu, thân nhân và ân nhân của nữ tu Kim Dung.
Khác với những Thánh lễ tuyên khấn trọn đời chúng ta thường thấy khi các nữ tu trẻ tuyên khấn thuộc trọn vĩnh viễn trong một Hội dòng, Sơ Têrêsa Kim Dung đã bước qua thập niên 70 của đời mình khi Sơ nhận chiếc nhẫn khấn trong tay.
Đây quả là một câu chuyện đầy gợi hứng cho những ơn gọi trẻ tuổi.
Sr Kim Dung là một trong những nữ tu tuyên khấn trọn đời trong Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm vào năm 1973. Khi thời thế đất nước thay đổi sau năm 1975, Sơ Kim Dung cùng với mẹ và em trai tìm đường tị nạn tại thành phố Perth, Úc Châu.
Hơn 30 năm viễn xứ, lòng người nữ tu xưa vẫn ngong ngóng tìm về chốn cũ, vẫn ước ao thuộc trọn về Chúa trong Hội Dòng Mến Thánh Giá.
Sau khi đã hoàn tất nghĩa phận làm con với mẹ già và nghĩa tình với em trai, Sr Kim Dung đã quay lại Việt Nam để xin được gia nhập lại vào Hội dòng Mẹ. Sơ tuyên khấn lần đầu vào ngày 14.9.2012.
Với lời vĩnh khấn, cùng chiếc nhẫn trọn đời trong tay và cây thánh giá là biểu tượng của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá, Sơ Kim Dung đã hoàn thành nguyện ước của mình.
Với hồng ân cao quý này, Sơ Kim Dung chỉ biết dâng cảm tạ Thiên Chúa, và hết lòng ghi ơn Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đã đón nhận Sơ như một thành viên chính thức của Hội dòng.
Khác với những Thánh lễ tuyên khấn trọn đời chúng ta thường thấy khi các nữ tu trẻ tuyên khấn thuộc trọn vĩnh viễn trong một Hội dòng, Sơ Têrêsa Kim Dung đã bước qua thập niên 70 của đời mình khi Sơ nhận chiếc nhẫn khấn trong tay.
Đây quả là một câu chuyện đầy gợi hứng cho những ơn gọi trẻ tuổi.
Sr Kim Dung là một trong những nữ tu tuyên khấn trọn đời trong Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm vào năm 1973. Khi thời thế đất nước thay đổi sau năm 1975, Sơ Kim Dung cùng với mẹ và em trai tìm đường tị nạn tại thành phố Perth, Úc Châu.
Hơn 30 năm viễn xứ, lòng người nữ tu xưa vẫn ngong ngóng tìm về chốn cũ, vẫn ước ao thuộc trọn về Chúa trong Hội Dòng Mến Thánh Giá.
Sau khi đã hoàn tất nghĩa phận làm con với mẹ già và nghĩa tình với em trai, Sr Kim Dung đã quay lại Việt Nam để xin được gia nhập lại vào Hội dòng Mẹ. Sơ tuyên khấn lần đầu vào ngày 14.9.2012.
Với lời vĩnh khấn, cùng chiếc nhẫn trọn đời trong tay và cây thánh giá là biểu tượng của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá, Sơ Kim Dung đã hoàn thành nguyện ước của mình.
Với hồng ân cao quý này, Sơ Kim Dung chỉ biết dâng cảm tạ Thiên Chúa, và hết lòng ghi ơn Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đã đón nhận Sơ như một thành viên chính thức của Hội dòng.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
GM. Nguyễn Thái Hợp: Một chuyến đi đau lòng!
Khánh An / VOA
17:09 17/05/2017
GM. Nguyễn Thái Hợp: Một chuyến đi đau lòng!
Đang trong chuyến đi vận động quốc tế ở châu Âu và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa, Giám mục Giáo phận Vinh Phaolo Nguyễn Thái Hợp nói với VOA rằng ông đau lòng khi phải thực hiện một chuyến đi mà lẽ ra là của những người cầm quyền.
“Đây là chuyến đi ngoài dự phóng cũng như chuyên môn của chúng tôi vì thực sự chúng tôi không được đào tạo để thực hiện những chuyến đi như vậy. Chúng tôi là những người làm mục vụ. Đáng lẽ những chuyến đi như vậy phải là của những người cầm quyền”.
Từ chối giúp đỡ của quốc tế
Trong chuyến đi kéo dài hai tuần tới Na Uy, Đức, Bỉ và Thụy Sĩ, phái đoàn của Giáo phận Vinh đã có những cuộc tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, một số Bộ Ngoại giao, các tổ chức thuộc Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức xã hội dân sự.
Chia sẻ với VOA về kết quả chuyến đi, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói các cuộc tiếp xúc với các tổ chức quốc tế càng khiến ông thêm đau lòng.
“Buồn vì cách xử sự của những người cầm quyền, của những người đại diện của dân. Chẳng hạn, một điều cụ thể mà chúng tôi nhận thấy, khi ở Việt Nam tôi cũng đã nghe, là một số nước muốn đến để giúp đỡ cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của thảm họa và nhất là xử lý thiên nhiên đã bị thảm họa đó bằng những phương pháp khoa học, kỹ thuật hiện đại để trả lại vùng biển miền Trung, và cho người dân biết thảm họa đến bao nhiêu, thảm họa kéo dài bao nhiêu, bao giờ có thể ăn cá được, bao giờ có thể đi ra biển được v.v.. Không những nhà nước đã từ chối một số nước, mà ngay cả cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng đã có những đề nghị đó mà không hiểu tại sao những người đại diện của dân cũng từ chối đề nghị của cơ quan Liên Hiệp Quốc. Điều đó khiến tôi cảm thấy đau lòng”.
Mị dân và vô trách nhiệm
Hơn một năm sau khi xảy ra thảm họa môi trường lịch sử, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói những câu hỏi rất căn bản của người dân như nguyên nhân của thảm họa, tác hại của nó thế nào, kéo dài bao lâu, khi nào biển miền Trung được khôi phục trở lại… vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
“Cho tới hôm nay, tôi thấy rằng chúng tôi chỉ gặp được những câu trả lời một cách rất mị dân và vô trách nhiệm. Chẳng hạn có những quan chức, khi thảm họa xảy ra ít lâu, đã xuống biển tắm để nói với dân rằng ‘Tắm đi!’. Có những người trả lời một cách vô trách nhiệm rằng biển miền Trung cũng như dân tộc Việt Nam oai hùng nên nó tự có thể tẩy xóa được thảm họa, những chất độc trở lại tình trạng ban đầu”.
Phái đoàn của Giáo phận Vinh trong chuyến đi vận động quốc tế và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa.
Phái đoàn của Giáo phận Vinh trong chuyến đi vận động quốc tế và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa.
Những “cuộc xung đột đau lòng”
Kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường ở vùng biển miền Trung hồi tháng 4/2016, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại địa phương và trên khắp các tỉnh thành đòi chính quyền và Formosa phải minh bạch thông tin về thảm họa và bồi thường xứng đáng cho người dân.
Mặc dù phía chính quyền nói đã phân phối số tiền đền bù 500 triệu đôla của Formosa tới các nạn nhân trực tiếp của thảm họa, nhưng nhiều người dân không đồng tình với cách giải quyết của chính quyền. Gần đây, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra, đặc biệt tại tỉnh Nghệ An.
“Nguyên nhân sâu xa vẫn là chưa đền bù xứng đáng. Có những người lẽ ra phải được đền bù xứng đáng thì vẫn chưa được vào danh sách [đền bù]. Có những người không liên quan gì đến thảm họa môi trường, không phải là nạn nhân thì đã được đền bù. Tại sao vậy? Phải chăng vì tham nhũng, vì lợi ích nhóm?”, Giám mục Nguyễn Thái Hợp đặt câu hỏi.
Tỉnh Nghệ An vốn không được chính quyền xếp vào danh sách bồi thường của thảm họa Formosa, nhưng nhiều người dân địa phương nói họ đã mất nguồn sinh kế, lâm vào cảnh nợ nần vì ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết ông đã hai lần làm việc với chính quyền tỉnh Nghệ An và được chính quyền tỉnh cho biết đã đề đạt ra trung ương để đưa một số khu vực ở Nghệ An vào danh sách nạn nhân cần được bồi thường. Tuy nhiên cho tới nay, ông vẫn chưa nhận được câu trả lời cho vấn đề này. Theo ông, chính sự phẫn uất của người dân đã dẫn đến những "cuộc xung đột đau lòng" giữa người dân và chính quyền.
“Chuyện này đáng lẽ giải quyết một cách êm thắm giữa người dân và chính quyền, mà cuối cùng không được giải quyết, đưa đến những cuộc xung đột. Những cuộc xung đột đó thật sự rất đau lòng. Càng đau lòng hơn khi người dân bị đánh đập trong khi họ là những nạn nhân cần được đền bù xứng đáng”.
Người dẫn đầu phái đoàn của Giáo phận Vinh cho biết chuyến đi vận động lần này là một chuyến đi “tiếp cận”, giúp cho các thành viên biết cách nghiên cứu, sắp xếp và đề đạt các thỉnh nguyện của người dân một cách cụ thể hơn để gửi tới nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế khác nhau, với mong muốn giúp cho các nạn nhân của Formosa sớm tìm được câu trả lời cho những băn khoăn của họ và được đền bù thỏa đáng.
Tính đến sáng 18/5, thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa trên trang www.thamhoaformosa.com đã có trên 195.000 người ký tên.
Giáo phận Vinh có quyết định thành lập Ban Hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung vào tháng 9/2016, 5 tháng sau khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hải sản chết hàng loạt, khiến đời sống kinh tế trong khu vực gần như tê liệt.
“Đây là chuyến đi ngoài dự phóng cũng như chuyên môn của chúng tôi vì thực sự chúng tôi không được đào tạo để thực hiện những chuyến đi như vậy. Chúng tôi là những người làm mục vụ. Đáng lẽ những chuyến đi như vậy phải là của những người cầm quyền”.
Từ chối giúp đỡ của quốc tế
Trong chuyến đi kéo dài hai tuần tới Na Uy, Đức, Bỉ và Thụy Sĩ, phái đoàn của Giáo phận Vinh đã có những cuộc tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, một số Bộ Ngoại giao, các tổ chức thuộc Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức xã hội dân sự.
Chia sẻ với VOA về kết quả chuyến đi, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói các cuộc tiếp xúc với các tổ chức quốc tế càng khiến ông thêm đau lòng.
“Buồn vì cách xử sự của những người cầm quyền, của những người đại diện của dân. Chẳng hạn, một điều cụ thể mà chúng tôi nhận thấy, khi ở Việt Nam tôi cũng đã nghe, là một số nước muốn đến để giúp đỡ cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của thảm họa và nhất là xử lý thiên nhiên đã bị thảm họa đó bằng những phương pháp khoa học, kỹ thuật hiện đại để trả lại vùng biển miền Trung, và cho người dân biết thảm họa đến bao nhiêu, thảm họa kéo dài bao nhiêu, bao giờ có thể ăn cá được, bao giờ có thể đi ra biển được v.v.. Không những nhà nước đã từ chối một số nước, mà ngay cả cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng đã có những đề nghị đó mà không hiểu tại sao những người đại diện của dân cũng từ chối đề nghị của cơ quan Liên Hiệp Quốc. Điều đó khiến tôi cảm thấy đau lòng”.
Mị dân và vô trách nhiệm
Hơn một năm sau khi xảy ra thảm họa môi trường lịch sử, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói những câu hỏi rất căn bản của người dân như nguyên nhân của thảm họa, tác hại của nó thế nào, kéo dài bao lâu, khi nào biển miền Trung được khôi phục trở lại… vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
“Cho tới hôm nay, tôi thấy rằng chúng tôi chỉ gặp được những câu trả lời một cách rất mị dân và vô trách nhiệm. Chẳng hạn có những quan chức, khi thảm họa xảy ra ít lâu, đã xuống biển tắm để nói với dân rằng ‘Tắm đi!’. Có những người trả lời một cách vô trách nhiệm rằng biển miền Trung cũng như dân tộc Việt Nam oai hùng nên nó tự có thể tẩy xóa được thảm họa, những chất độc trở lại tình trạng ban đầu”.
Phái đoàn của Giáo phận Vinh trong chuyến đi vận động quốc tế và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa.
Phái đoàn của Giáo phận Vinh trong chuyến đi vận động quốc tế và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa.
Những “cuộc xung đột đau lòng”
Kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường ở vùng biển miền Trung hồi tháng 4/2016, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại địa phương và trên khắp các tỉnh thành đòi chính quyền và Formosa phải minh bạch thông tin về thảm họa và bồi thường xứng đáng cho người dân.
Mặc dù phía chính quyền nói đã phân phối số tiền đền bù 500 triệu đôla của Formosa tới các nạn nhân trực tiếp của thảm họa, nhưng nhiều người dân không đồng tình với cách giải quyết của chính quyền. Gần đây, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra, đặc biệt tại tỉnh Nghệ An.
“Nguyên nhân sâu xa vẫn là chưa đền bù xứng đáng. Có những người lẽ ra phải được đền bù xứng đáng thì vẫn chưa được vào danh sách [đền bù]. Có những người không liên quan gì đến thảm họa môi trường, không phải là nạn nhân thì đã được đền bù. Tại sao vậy? Phải chăng vì tham nhũng, vì lợi ích nhóm?”, Giám mục Nguyễn Thái Hợp đặt câu hỏi.
Tỉnh Nghệ An vốn không được chính quyền xếp vào danh sách bồi thường của thảm họa Formosa, nhưng nhiều người dân địa phương nói họ đã mất nguồn sinh kế, lâm vào cảnh nợ nần vì ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết ông đã hai lần làm việc với chính quyền tỉnh Nghệ An và được chính quyền tỉnh cho biết đã đề đạt ra trung ương để đưa một số khu vực ở Nghệ An vào danh sách nạn nhân cần được bồi thường. Tuy nhiên cho tới nay, ông vẫn chưa nhận được câu trả lời cho vấn đề này. Theo ông, chính sự phẫn uất của người dân đã dẫn đến những "cuộc xung đột đau lòng" giữa người dân và chính quyền.
“Chuyện này đáng lẽ giải quyết một cách êm thắm giữa người dân và chính quyền, mà cuối cùng không được giải quyết, đưa đến những cuộc xung đột. Những cuộc xung đột đó thật sự rất đau lòng. Càng đau lòng hơn khi người dân bị đánh đập trong khi họ là những nạn nhân cần được đền bù xứng đáng”.
Người dẫn đầu phái đoàn của Giáo phận Vinh cho biết chuyến đi vận động lần này là một chuyến đi “tiếp cận”, giúp cho các thành viên biết cách nghiên cứu, sắp xếp và đề đạt các thỉnh nguyện của người dân một cách cụ thể hơn để gửi tới nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế khác nhau, với mong muốn giúp cho các nạn nhân của Formosa sớm tìm được câu trả lời cho những băn khoăn của họ và được đền bù thỏa đáng.
Tính đến sáng 18/5, thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa trên trang www.thamhoaformosa.com đã có trên 195.000 người ký tên.
Giáo phận Vinh có quyết định thành lập Ban Hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung vào tháng 9/2016, 5 tháng sau khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hải sản chết hàng loạt, khiến đời sống kinh tế trong khu vực gần như tê liệt.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hạt Kinh
Joseph Ngọc Phạm
18:10 17/05/2017
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Nhớ lời Đức Mẹ ân cần !
Mân Côi lần hạt xin đừng lãng quên
Sẽ luôn có Mẹ kề bên
Mân Côi suy gẫm Phúc Âm bởi trời
Kinh Mân Côi thật tuyệt vời !
(Trích thơ của Trần Đình Phan Tiến)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 11-17/05/2017: 100 năm sứ điệp Fatima
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:51 17/05/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Từ hôm thứ Sáu 12 tháng 5, điện tặc đã tấn công vào một con số khổng lồ các máy điện toán trên thế giới bằng một chương trình gọi là WannaCry có khả năng lây lan rất nhanh trên máy tính cá nhân và trên những networks rất lớn. Cuộc tấn công này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế nhưng có thể gây ra cả các trường hợp tử vong vì các bệnh viện tại Anh đã phải từ chối các bệnh nhân mới và nhiều ca phẫu thuật đã phải đình hoãn.
Máy điện toán của những nạn nhân bị tấn công bị khóa không thể làm gì cả cho đến khi nạn nhân trả một số tiền chuộc là 300 Mỹ Kim qua phương thức thanh toán BitCoin. Khi con số các nạn nhân gia tăng, số tiền chuộc đã tăng gấp đôi là 600 Mỹ Kim vào hôm thứ Hai 15 tháng 5.
Các chuyên viên điện toán cho rằng cuộc tấn công này xuất phát từ Bắc Hàn. Thông tấn xã Reuters ước lượng hơn 300,000 máy điện toán trên thế giới đã bị tấn công tại 150 quốc gia trên thế giới kể từ hôm thứ Sáu.
Lý do người ta nghi cho Bắc Hàn là vì nhiều đoạn thảo chương tìm thấy trong chương trình WannaCry này là những đoạn thảo chương đã được dùng bởi nhóm Lazrus. Nhóm này được nhiều người xác định là một hoạt động điện tặc của Bắc Hàn.
Các cuộc tấn công cuối tuần qua được ghi nhận là một trong các chiến dịch làm tiền lây lan nhanh nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, một số chuyên viên khác thì cho rằng còn quá sớm để đi đến kết luận là Bắc Hàn có dính líu vào cuộc tấn công này.
Trước đây nhóm Lazarus đã từng bị cáo buộc lấy cắp 81 triệu Mỹ Kim từ ngân hàng Trung Ương của Bangladesh.
Hoa Kỳ cũng cáo buộc nhóm này tấn công vào Sony Pictures vào năm 2014.
Thủ đoạn tấn công điện toán và đòi tiền chuộc này được gọi là Ransomware đã bắt đầu xảy ra vào năm 2005 và ngày càng trở nên tinh vi. Hiện nay, các ransomware không chỉ có khả năng tấn công các máy desktop và laptop, mà còn có thể tấn công cả những điện thoại di động.
In 2015, một loại ransomware được ngụy trang dưới hình thức một chương trình ứng dụng tên là Porn Droid, hứa hẹn sau khi cài đặt các điện thoại cầm tay có thể truy nhập miễn phí vào các hình ảnh khiêu dâm. Tuy nhiên, ứng dụng này sau khi cài đặt đã khóa điện thoại của nạn nhân, thay đổi PIN number và đòi 500 Mỹ Kim tiền chuộc.
Bi hài đến mức khó tin được là cả cảnh sát Mỹ cũng phải đóng tiền chuộc. Thật vậy, một máy tính cảnh sát ở Swansea, Massachusetts cũng bị tấn công và sở cảnh sát đã quyết định trả tiền chuộc khoảng $750.
Thanh tra cảnh sát Gregory Ryan của Swansea nói với tờ Herald News:
“Virus này rất phức tạp và thành công nên chúng tôi đành phải mua những Bitcoins trả tiền chuộc, là điều chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến”.
Để tránh khỏi bị tấn công, bạn đừng bao giờ mở xem những files đính kèm trong một email không hề mong đợi, đặc biệt nếu nó đến từ một người chưa hề quen biết. Bạn cũng đừng lang thang quá nhiều trên Net. Đừng vào những web sites lạ. Thế giới sa ngã này đầy rẫy những hình ảnh dâm dục trên Net. Xem những hình ảnh ấy là một tội lỗi với các hậu quả nghiêm trọng.
2. Đối với nhiều người thời tiết tại Fatima hôm thứ Bẩy 13 tháng 5 là một phép lạ nhãn tiền
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Như Kim Thúy đã tường thuật, trong những ngày qua thời tiết tại Fatima có vẻ không thuận lợi. Từ hôm thứ Tư, trời u ám nhiều mây với những cơn mưa nhẹ. Nhiệt độ xuống thấp đến 10o C và cao nhất cũng chỉ đến 15o C.
Đài khí tượng thủy văn Lisbon tiên đoán sáng thứ Bẩy thế nào cũng có mưa. Nhưng buổi lễ tuyên thánh cho Jacinta và Francesco Marto đã diễn ra dưới bầu trời nắng ráo. Nhiều người qua đêm ngay tại quảng trường đền thờ, quấn mình trong những chiếc chăn cho biết trời về đêm rất lạnh và họ nghĩ rằng ngày mai thế nào cũng có mưa.
Khoảng gần 10 giờ sáng, Đức Phanxicô đến kính viếng mộ hai anh em ruột Francisco và Jacinta Marto trong Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi.
Trong khi ấy, một đám đông vĩ đại đã tụ tập bên ngoài quảng trường, nơi thánh tượng Trinh Nữ Maria đã được long trọng cung nghinh, dưới ánh sáng mặt trời reo vui và những cánh hoa do con cái ngài tung lên. Các viên chức ước lượng số người tham dự có thể là 1 triệu.
Hơn 10 giờ sáng, Đức Phanxicô từ trong Vương Thánh Đường buớc xuống các bực thềm dẫn tới khán đài cử hành Thánh Lễ. Trong Thánh Lễ, ngài đã phong hiển thánh cho hai chân phúc Francisco và Jacinta, những vị đã được thị kiến Trinh Nữ Maria và đã thực tâm và hết lòng thực hành các điều ngài yêu cầu. Các tín hữu hoan hô vang dội sau khi Đức Giáo Hoàng tuyên thánh cho hai vị.
3. Các Giám Mục Venezuela kêu gọi dân chúng quyết liệt phản đối các âm mưu mới của Maduro trong hòa bình
Các giám mục Venezuela đã chỉ trích mạnh mẽ lời kêu gọi của Tổng thống Nicolas Maduro muốn hình thánh một “Quốc Hội lập hiến” để thay thế Quốc Hội hiện hành, trong đó đa số ghế thuộc phe đối lập. Quốc Hội hiện hành đã bị Maduro giải tán.
Các giám mục kêu gọi người Venezuela cầu nguyện và “lên tiếng phản kháng” nhưng trong vòng ôn hòa.
Trích dẫn bản chất “áp bức của chính phủ thông qua việc dập tắt những phản đối chính đáng bằng một thứ bạo lực quá mức và vô nhân đạo”, các giám mục nói rằng họ không thể làm ngơ trước “nỗi buồn và những đau khổ mà chế độ này đang gây ra cho nhân dân Venezuela”.
4. Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về thiên văn
Đức Thánh Cha khuyến khích các nhà khoa học kiên trì tìm kiếm chân lý và đừng bao giờ sợ sự thật.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 12-5, dành cho các tham dự viên vừa kết thúc 4 ngày Hội nghị quốc tế về khoa học và tôn giáo tổ chức tại Đài thiên văn Vatican ở Castel Gandolfo.
Hội nghị có chủ đề là “Những lỗ đen, các sóng hấp lực và đặc điểm không gian - thời gian”, và nhắm chứng tỏ khoa học và tôn giáo không đối nghịch nhau, nhưng liên kết trong sự liên tục tìm kiếm chân lý trong việc khám phá những mầu nhiệm của vũ trụ.
Đức Thánh Cha cho biết Giáo Hội cũng quan tâm đến những vấn đề như sự khởi đầu của vũ trụ và những tiến hóa sau đó, cơ cấu sâu xa của không gian và thời gian... Đây là những đề tài đặc biệt quan trọng đối với khoa học, triết học, thần học và cả đời sống tu đức nữa. Chúng là một thao trường trong đó các bộ môn gặp gỡ và nhiều khi đụng độ nhau.
5. Một giáo sĩ Hồi Giáo Ai Cập lên đài truyền hình mạ lị Kitô Giáo và Do Thái Giáo
Chính quyền Ai Cập đã đình chỉ các hoạt động tôn giáo của một giáo sĩ Hồi giáo, sau khi ông này lên án các Kitô hữu và người Do Thái là những “kẻ ngoại đạo.”
Trong một chương trình truyền hình, Salem Abdel Galil đã đề cập đến Kitô Giáo và Do Thái Giáo như là các tín ngưỡng “băng hoại”, mà các tín đồ không thể được lên thiên đường.
Những lời bình luận của ông đã bị các nhà lãnh đạo Hồi giáo khác chỉ trích. Các quan sát viên nhân quyền tại Ai Cập cho rằng ngôn ngữ của ông này cũng tương tự như các nhà truyền giáo cực đoan, là những người đã kích động bạo lực chống lại thiểu số Kitô giáo ở nước này.
Để bào chữa cho mình, Galil nói rằng ông tin rằng các Kitô hữu và người Do Thái có “các giáo thuyết băng hoại” – và điều này cũng giống như các Kitô hữu và tín hữu Do Thái tin rằng giáo thuyết Hồi Giáo là băng hoại. Cho nên, ông từ chối rút lại tuyên bố của mình.
Bộ tôn giáo vụ Ai Cập - nơi Galil đã từng làm việc - tuyên bố rằng giáo sĩ này không thể thực hiện các chương trình truyền hình hay chủ sự các buổi cầu nguyện công khai cho đến khi nào ông ta chịu xin lỗi vì những lời bình luận của mình.
Đài truyền hình đã phát sóng các bài giảng của Galil, đã đưa ra lời xin lỗi của đài.
Galil cũng phải đối mặt với một cáo buộc hình sự, theo luật chống lại sự phỉ báng tín ngưỡng tôn giáo. Naguib Gobrali, một luật sư người Kitô giáo, đã đệ đơn khiếu nại, nói rằng những lời của Galil “đã cấu thành một sự bôi nhọ tôn giáo.” Một phiên tòa đã nhận đơn kiện và sẽ xét xử vụ này vào tháng Sáu tới đây.
6. Ý kiến của Đức Thánh Cha về việc Đức Mẹ hiện ra ở Medjugorje
Trên chuyến máy bay từ Bồ Đào Nha trở lại Vatican, Đức Phanxicô đã dành cho các nhà báo một cuộc phỏng vấn về đủ mọi vấn đề thời sự. Khi được hỏi về việc Đức Mẹ hiện ra ở Medjugorje, ngài nói rằng những cuộc hiện ra lúc ban đầu cách nay hơn 3 thập niên thì đáng được nghiên cứu thêm, nhưng những thị kiến sau đó thì rất đáng hồ nghi. Theo ngài, căn cứ vào bản tường trình của ủy ban điều tra do Đức Bênêđíctô XVI thiết lập, được đệ nạp cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, thì ta cần phân biệt hai loại hiện ra.
“Đối với các cuộc hiện ra thứ nhất, với các trẻ em, bản tường trình ít nhiều cho rằng loại này cần được tiếp tục nghiên cứu” nhưng còn đối với “những cuộc hiện ra được giả định là vẫn đang tiếp diễn, thì bản tường trình tỏ ý hồ nghi”.
Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng: “bản thân tôi còn hồ nghi hơn thế, tôi thích coi Đức Mẹ là Mẹ, Mẹ của chúng ta, hơn là một phụ nữ đứng đầu một văn phòng ngày nào cũng gửi đi một tin nhắn vào một giờ nhất định. Đó không phải là Mẹ Chúa Giêsu. Những cuộc hiện ra như thế vô giá trị”.
Ngài minh xác rằng đây chỉ là “ý kiến riêng” của ngài, nhưng nói thêm rằng Đức Bà không hề hành động bằng cách nói rằng “ngày mai vào giờ này, con hãy đến và ta sẽ trao tin nhắn cho những người ấy”.
7. Giám mục mặc áo trắng và sứ điệp hòa bình
Một ký giả hỏi ngài về sứ điệp hòa bình, ngài cho hay: Fatima chắc chắn có một sứ điệp hòa bình và ngài hân hoan được đến đây để tuyên thánh cho Francisco và Jacinta, một việc chỉ mới được lên kế hoạch gần đây thôi khi “bỗng nhiên” có cơ hội. Ngài hân hoan vì thế giới vốn đang mong ước hòa bình và hòa bình là điều ngài sẽ luôn nói với bất cứ ai. Ngài có ý ám chỉ Ông Trump, người mà ngài sẽ gặp vào ngày 24 tháng này.
Nhân dịp này, ngài nhắc lại một sự kiện mới xẩy ra tại Castel Gandolfo, nơi ngài tiếp kiến các khoa học gia thế giới tụ tập nhau tại Đài Thiên Văn Vatican: một nhà khoa học vô thần xin ngài nói với các Kitô hữu rằng “họ nên yêu mến sứ điệp hòa bình của họ hơn nữa”.
Trả lời một ký giả khác hỏi về việc ngài tự mô tả mình như “giám mục mặc áo trắng”, ngài cho rằng trắng nói lên khát vọng hòa bình. Ngài bảo: “tôi không viết câu ấy… đền thánh viết nó ra… Quả có một nối kết ở đây với mầu trắng. Giám mục áo trắng, Đức Mẹ áo trắng, mầu trắng sáng ngời của tuổi thơ trong trắng sau khi chịu Phép Rửa… có sự nối kết với mầu trắng trong lời cầu nguyện ấy. Tôi tin, vì tôi không viết ra nó, nhưng tôi tin rằng với mầu trắng họ thực sự muốn nói lên khát vọng trong trắng, khát vọng hòa bình… không làm tổn thương người khác… không tạo ra tranh chấp…”. Chứ ngài không muốn ví mình như vị giám mục áo trắng của bí mật Fatima thứ ba.
8. Huynh Đoàn Thánh Piô X
Đối với câu hỏi về Huynh Đoàn Thánh Piô X, Đức Phanxicô cho biết: Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đang nghiên cứu các tài liệu về vấn đề này. Trong khi ấy, liên hệ đôi bên hiện rất huynh đệ.
Năm ngoái, ngài cho phép các linh mục của huynh đoàn được quyền giải tội. Huynh Đoàn Thánh Piô X cũng đệ trình lên Tòa Thánh xin giải quyết nhiều vụ: một số vụ về hôn nhân, các vụ lạm dụng tình dục, việc hoàn tục các linh mục.
Đức Cha Fellay duy trì mối liên hệ tốt, được ngài nói chuyện nhiều lần…Nhưng ngài không vội vàng, cứ từ từ mà bước. Đây không phải là việc người thắng kẻ thua, mà là việc anh em cần bước đi với nhau, tìm ra một công thức nhằm thúc đẩy sự việc tiến triển.
9. Ông Trump và cánh cửa hé mở
Vì câu ngài khuyên tín hữu đạp đổ các bức tường, ngược với chủ trương của Tổng Thống Trump, người mà ngài sắp sửa gặp mặt, một ký giả hỏi ngài mong gì ở cuộc gặp gỡ sắp tới, ngài cho biết: “tôi không bao giờ phán đoán ai mà không lắng nghe họ. Tôi tin tôi không nên làm như vậy. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi, sự việc sẽ diễn ra, tôi sẽ nói điều tôi nghĩ, ông ấy sẽ nói điều ông ấy nghĩ, nhưng tôi không bao giờ, không bao giờ muốn phán đoán ai mà chưa nghe họ nói”.
Còn về câu hỏi ngài mong gì từ một quốc trưởng luôn nghĩ trái ngược với ngài, Đức Phanxicô cho rằng: “Luôn có những cánh cửa không đóng. Hãy tìm cho ra các cánh cửa chỉ hé mở một chút, hãy bước vào và nói về những điều chung rồi ra đi.Từng bước một. Hoà bình là thuật thủ công. Nó được làm hàng ngày. Cũng thế, tình thân hữu giữa con người, việc biết nhau, qúy mến nhau, cũng là thuật thủ công. Nó được làm hàng ngày. Hãy tôn trọng người khác, hãy nói điều mình nghĩ, nhưng với lòng tôn trọng, tuy nhiên, hãy cùng bước với nhau… người ta nghĩ cách này hay cách khác, nhưng hãy nói điều đó… Hãy thành thật với điều mình nghĩ, đúng không?”.
Có hy vọng gì làm dịu các quyết định của Trump? Ngài trả lời: “Đây là một bài toán chính trị mà ngài không tự cho phép mình làm”.
10. Hai mươi lăm năm giám mục của Đức Thánh Cha Phanxicô
Được hỏi về sự trùng hợp giữa ngày Đức Mẹ hiện ra lần đầu ở Fatima, 13 tháng 5 năm 1917 và ngày 13 tháng 5 cách nay 25 năm, lúc ngài được sứ thần Tòa Thánh thông báo sẽ nhận chức vụ giám mục phụ tá của Buenos Aires, Đức Phanxicô cho hay: ngài chỉ nghĩ đến sự trùng hợp này khi đứng cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ tại Fatima. Ngài có thưa chuyện này với Đức Mẹ và xin Đức Mẹ tha thứ mọi lỗi lầm.
Đối với Phong Trào Cải Cách, “đã có những bước tiến vĩ đại… chúng ta nghĩ tới tuyên bố đầu tiên về công chính hóa, từ đó, cuộc hành trình chưa bị đình trệ… cuộc tông du Thụy Điển rất có ý nghĩa… cả lễ kỷ niệm ở Thụy Điền nữa… lại còn ý nghĩa của đại kết đồng hành… nghĩa là đi với nhau, trong cầu nguyện, trong tử đạo, trong các công trình bác ái, các công trình thương xót. Và ở phương diện này, Cơ Quan Caritas của Giáo Hội Luthêrô và cơ quan Caritas của Giáo Hội Công Giáo đã thỏa thuận làm việc chung với nhau. Đây là một bước vĩ đại. Nhưng bước đi luôn cần được chờ đợi. Chúng ta biết: Thiên Chúa luôn là Thiên Chúa của bất ngờ. Nhưng ta không bao giờ được dừng lại. Phải luôn tiếp tục tiến bước. Cầu nguyện với nhau, làm chứng với nhau và làm các việc thương người với nhau, những việc này công bố tình thương của Chúa Giêsu Kitô, công bố rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, là Đấng Cứu Độ độc nhất, và ơn thánh chỉ từ Người mới có. Và trên đường đi này, các nhà thần học sẽ tiếp tục nghiên cứu, nhưng đường đi thì lúc nào cũng phải đi tới. Còn lòng ta thì mở ra chào đón các ngạc nhiên”.
Đức Phanxicô còn trả lời hai câu hỏi nữa về các lời tố cáo của Bà Marie Collins khi bà này từ chức khỏi ủy ban giáo hoàng về lạm dụng tình dục trẻ em, và về sự băng hoại trong xã hội Bồ Đào Nha. Về câu hỏi đầu, ngài cho Bà Collins có lý một phần. Chung quy là do hồ sơ ứ đọng, ít nhân viên. Tòa Thánh đang cố gắng tăng thêm nhân viên cho lãnh vực này. Về câu hỏi sau, ngài bảo có hai khía cạnh: chính trị và đào tạo lương tâm. Điều sau thuộc trách nhiệm của Giáo Hội.
11. Nghi thức tuyên thánh cho Jacinta và Francesco Marto
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Sinh hoạt thứ nhất của Đức Thánh Cha vào sáng thứ Bẩy 13 tháng 5 là cuộc họp vào lúc 9h10 sáng với thủ tướng Bồ Đào Nha António Costa tại nhà thờ Đức Mẹ Núi Carmêlô ở Fatima.
Lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha Phanxicô đến kính viếng mộ hai Chân Phước anh em ruột Francisco và Jacinta Marto trong Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi, là hai vị mà ngài sắp sửa ghi vào sổ bộ các bậc hiển thánh của Giáo Hội.
Trong khi ấy, một đám đông vĩ đại đã tụ tập bên ngoài quảng trường, nơi thánh tượng Trinh Nữ Maria đã được long trọng cung nghinh, dưới ánh sáng mặt trời reo vui và những cánh hoa do con cái ngài tung lên. Các viên chức ước lượng số người tham dự có thể là 1 triệu.
Hơn 10 giờ sáng, Đức Phanxicô từ trong Vương Thánh Đường buớc xuống các bực thềm dẫn tới khán đài cử hành Thánh Lễ.
Sau các lời chào Phụng Vụ, cộng đoàn đã cùng hát bài Veni, Creator Spiritus – Thánh Thần Hãy Xin Ngự Đến xin Ngài trợ giúp Hội Thánh trong quyết định quan trọng sắp diễn ra.
Sau khi cộng đoàn kết thúc kinh cầu xin Chúa Thánh Thần. Đức Cha António Augusto dos Santos Marto, là Giám Mục Leiria-Fatima và các cáo thỉnh viên trong vụ án phong thánh tiến lên trước Đức Thánh Cha
Ngài nói:
Trọng Kính Đức Thánh Cha,
Giáo Hội Mẹ Thánh tha thiết khẩn xin Đức Thánh Cha ghi vào sổ bộ các Thánh hai vị Chân Phước Jacinta và Francisco Marto để các ngài có thể được kêu cầu như thế bởi tất cả các tín hữu Kitô.
Rồi ngài đọc tiểu sử chính thức của hai vị Chân Phước sắp được tuyên thánh.
Trong một cử chỉ khiêm nhường và cảm động, cộng đoàn cùng đọc kinh Cầu Các Thánh, xin Chúa đoái thương gìn giữ Giáo Hội của Người trong quyết định long trọng sắp diễn ra.
Kết thúc kinh cầu các thánh Đức Thánh Cha đọc lời nguyện sau:
Lậy Chúa nhân từ, xin nghe lời dân Chúa cầu xin và xin chiếu dọi ánh sáng Thần Linh Chúa vào tâm trí chúng con, để việc phụng thờ của chúng con làm đẹp lòng Chúa và cho Giáo Hội được thêm phát triển. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Rồi Đức Thánh Cha long trọng đọc công thức phong thánh.
Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, để phát huy đức tin Công Giáo và củng cố đời sống Kitô hữu, với quyền lực của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô và của riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, cũng như đã nhiều lần cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham khảo ý kiến của nhiều Chư huynh Giám mục, tôi quyết định tuyên bố:
Các Chân Phước Jacinta và Francisco Marto là Thánh và được ghi vào sổ bộ các Thánh và truyền rằng ngài được tôn kính như vậy bởi toàn thể Giáo Hội.
Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen
Đức Cha António Augusto dos Santos Marto tiến lên trước Đức Thánh Cha. Ngài nói:
Trọng kính Đức Thánh Cha, nhân danh Hội Thánh con cảm ơn Đức Thánh Cha đã công bố điều này và khiêm tốn thỉnh cầu ngài truyền rằng một tông thư liên quan đến hành động tuyên Thánh này được thảo ra.
Đức Thánh Cha đã bày tỏ sự đồng thuận.
12. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và các bệnh nhân tại Fatima
“Hãy sống cuộc sống của anh chị em như một ân sủng, và đừng xấu hổ vì anh chị em là một kho báu quý giá của Giáo Hội.”
Đức Thánh Cha đã nói như trên với các bệnh nhân tại Fatima sau thánh lễ tuyên thánh cho Jacinta và Francesco Marto hôm thứ Bẩy 13 tháng 5.
Đức Thánh Cha nhắc nhở các bệnh nhân, bằng tiếng Bồ Đào Nha, về cách thế Chúa “an ủi và ban sức mạnh cho chúng ta, như ngài đã thực hiện với hai Thánh Francisco và Jacinta Marto, và các thánh thuộc mọi thời đại và ở mọi nơi mọi chốn.”
Ngài cũng nhắc nhở các bệnh nhân về “thừa tác vụ của Giáo Hội”, mà ngài nói bao gồm việc “kêu cầu Chúa an ủi những người đau khổ như anh chị em, và Chúa thực sự an ủi anh chị em, thậm chí qua những cách thức anh chị em không thể nhìn thấy.”
“Người an ủi anh chị em ở sâu thẳm trái tim của anh chị em và Người an ủi anh chị em với ân sủng là sức mạnh.”
Đức Trinh Nữ Maria, “đã yêu cầu tất cả chúng ta cùng một câu hỏi, cách đây một trăm năm, khi Mẹ hỏi những trẻ chăn cừu: “Các con có muốn dâng mình cho Chúa không?” Họ trả lời rằng “Vâng, chúng con muốn!”. Xin Chúa cho chúng ta hiểu và bắt chước cuộc sống của họ.
“Tôi mời gọi anh chị em hãy sống cuộc sống của mình như một ân sủng.”
“Cũng như những đứa trẻ chăn cừu, chúng ta hãy nói cho Đức Mẹ biết rằng chúng ta muốn dâng lên Thiên Chúa hết lòng mình. Đừng nghĩ rằng anh chị em chỉ là những người nhận được lòng bác ái liên đới, nhưng hãy cảm thấy rằng anh chị em chia sẻ đầy đủ trong cuộc đời và sứ mệnh của Giáo Hội”
Đức Thánh Cha mời gọi các bệnh nhân hãy phó thác cho Chúa những nỗi buồn, đau khổ và sự mệt mỏi của họ.
“Hãy trông cậy nơi lời cầu nguyện của Giáo Hội, từ mọi nơi trên thế giới, dâng lên tới thiên đàng cho anh chị em và với anh chị em.”
Đức Thánh Cha kết luận:
“Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ quên anh chị em.”
13. Tất cả các tường thuật về Fatima chỉ là rác rưởi nếu chúng ta không dám nói rằng hỏa ngục là có thật.
Liên quan đến biến cố 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Giáo sư Stephen Bullivant là Giáo sư Thần Học tại St. Mary’s University, Twickenham, Anh quốc có bài nhận định sau:
Ngày 13 tháng 7, Đức Mẹ đã cảnh báo ba trẻ mục đồng tại Fatima rằng nếu thế giới không ăn năn, và hoán cải thì cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất sẽ được tiếp nối bằng một cuộc chiến tranh thứ hai còn kinh hoàng hơn nữa. Điều này sẽ được báo trước bởi một “dấu hiệu vĩ đại” trên bầu trời. Nhìn lại, nhiều người quả quyết là dấu hiệu vĩ đại này chính là hiện tượng nhật thực vào tháng Giêng năm 1938.
Đức Mẹ đã yêu cầu nước Nga phải được thánh hiến cho Trái tim Vô Nhiễm Nguyên tội của Mẹ và các ngày thứ Bảy đầu tháng phải được dành cho việc rước lễ đền tạ trong. Nếu nhân loại đáp ứng lời kêu gọi của Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ truyền bá những thuyết sai lầm trên toàn thế giới, sẽ gây ra nhiều cuộc chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Kẻ lành sẽ chịu tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, nhiều quốc gia sẽ bị hủy diệt. Nhưng sau cùng, Trái tim Mẹ sẽ toàn thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng nước Nga cho Mẹ. Nước Nga sẽ trở lại và nhân loại sẽ được Chúa ban cho một thời hòa bình.
Đối với những người đón nhận sứ điệp Fatima một cách nghiêm túc, đây là một trường hợp rất rõ ràng về một lời tiên tri đã trở thành hiện thực một cách nhãn tiền. Vì những yêu cầu của Đức Mẹ đã không được chú ý, nước Nga thực sự đã truyền bá ảnh hưởng của nó trên toàn thế giới, gây ra chiến tranh, bắt bớ và tử đạo trên quy mô rộng lớn, cùng với sự hủy diệt của nhiều quốc gia.
Đứng trước thực tại đó, các vị Giáo Hoàng đã nhiều lần dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, mặc dù đôi khi kín đáo, vì các nhạy cảm chính trị và ngoại giao. Tuy nhiên, chính chị Lucia đã xác nhận rằng hành động đó đã thực sự được thực hiện.
Và đúng như lời Đức Mẹ nói nước Nga đã trở lại. Tôn giáo được hồi sinh tại quốc gia này. Và mặc dù mong manh, thế giới sau năm 1991 đã thực sự hưởng được một giai đoạn hòa bình.
Nhiều người Công Giáo thích nói về biến cố nước Nga trở lại này. Tuy nhiên, cũng vào ngày 13 tháng 7 năm 1917, Đức Mẹ còn nói về một điều còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đó là hỏa ngục. Không những nói, Đức Mẹ còn cho 3 trẻ mục đồng được thị kiến về hỏa ngục. Sơ Lucia cho biết như sau: “Thị kiến đó chỉ kéo dài trong một lát ... Nếu không, tôi nghĩ chúng tôi sẽ chết vì sợ hãi.”
Ngày nay, người ta né tránh không muốn nói về hỏa ngục, đặc biệt là theo những cách thức mà sơ Lucia đã kể lại trong hồi ký của mình. Trong một cuốn sách về thần học, một thần học gia Công Giáo quả quyết rằng không hề có hoả ngục vì theo ông “nói cho cùng, ý tưởng về hoả ngục không xứng đáng với Chúa Giêsu”.
Điều rắc rối là, chính Chúa Giêsu không đồng ý với nhà thần học này. Mô tả của chính Chúa, rất là cụ thể. Khi Đức Mẹ Fatima nói về “những ngọn lửa hỏa ngục”, Mẹ chỉ đơn giản lặp lại những hình ảnh đã được chính Con Mẹ thường xuyên sử dụng.
“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt.” (Mc 9:43).
“Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 13:42)
“Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính,50 rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 13:49-50)
“Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.’” (Mt 25:41)
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã quở trách những người yêu cầu “một dấu hiệu từ trời” (Mc 8:11) với nhận xét rằng “chỉ có một thế hệ gian ác và tà dâm” (Mt 12:39) mới cần một dấu lạ như vậy.
Khi chúng ta cử hành kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, chúng ta có thể suy nghĩ – dù không thoải mái - về câu hỏi: liệu thế giới hiện đại này còn cần thêm những dấu chỉ nào nữa khi không phải chỉ một dấu hiệu, mà là cơ man những dấu chỉ từ trời như thế đã xảy ra?