Ngày 18-07-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:32 18/07/2009
N2T


BIẾT BAY

Con chim nói: “Tôi biết bay”

Hoa sen nói: “Tôi cũng biết bay”.

Con chim khinh miệt không thèm nhìn hoa sen, nói:

- “Mày (nói) có sai không? Mày đã bị đóng chết trên mặt đất, làm thế nào mà bay được chứ?”

Hoa sen vui vẻ, sung sướng trả lời rất tự nhiên:

- “Anh sử dụng cánh để bay, còn tôi dùng quả tim để bay”.

(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)

Suy tư:

Thiên Chúa ban cho mỗi người tài năng tri thức không giống nhau: có người thông thạo thiên văn địa lý, có người dạy học, có người làm hoạ sĩ, có người làm ruộng chân lấm tay bùn, có người buôn bán, có người làm linh mục, có người làm dì phước.v.v…

Ai cũng có tư cách và nhân phẩm của mình.

Ai cũng có khối óc để suy tư và quả tim để yêu thương.

Vậy thì, không có lý do gì mà ngăn cấm anh chị em thăng tiến, bay cao.
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 16 B)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:34 18/07/2009
CHỦ NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN

Tin Mừng: Mc 6, 30-34.

“Họ như bầy chiên không người chăn dắt.”


Bạn thân mến,

Có nhiều lần vì muốn kiếm nhiều tiền hoặc kinh tế suy thoái, nên bạn phải làm ngày làm đêm không ngơi nghỉ, cho nên một lúc nào đó kiệt quệ thân xác, bệnh hoạn đến, thì chính bản thân bạn sẽ không làm được gì cả, tiền bạc dành dụm làm ngày làm đêm cũng không đội nón ra đi theo cơn bệnh của bạn mà thôi.

1. Nghỉ ngơi của thế gian.

Nghỉ ngơi của bạn và tôi hoặc của những người thế gian là đóng cửa đi du lịch, đi nước ngoài, đi nhậu nhẹt với bạn bè, và có khi đắm mình trong những chơi bời hưởng thụ làm cho thân xác tâm hồn càng mệt hơn, tóm lại nghỉ ngơi của người thế gian là không làm việc gì cả, chỉ để nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi.

Sự nghỉ ngơi đó ngày càng được những đại gia có tiền, những người trung lưu đang coi như cái mốt của thời đại, họ nghỉ ngơi không phải để tinh thần và thể xác lại sức, nhưng là để hưởng thụ: hưởng thụ mọi thứ có thể, bởi vì họ quên mất mình là một con người có trí có óc, có tinh thần và thể xác. Lối hưởng thụ ấy làm cho họ ngày càng trở nên một kẻ nô lệ cho đồng tiền, bởi vì họ làm việc để có tiền và hưởng thụ, rồi sau đó lại nổ lực lao động mà không được nghỉ ngơi đúng nghĩa như Chúa Giê-su đã dạy.

2. Nghỉ ngơi của các môn đệ Chúa.

Có cách nghỉ ngơi khác, mà người thế gian cho là ngược đời, đó là sự nghỉ ngơi của người môn đệ Chúa Giê-su, nói chung là những người Ki-tô hữu, nói riêng là những người đã dâng mình làm tôi tớ Chúa trong thiên chức linh mục hoặc tu sĩ nam nữ.

Nghỉ ngơi của các môn đệ Chúa là để cho tâm hồn ở trạng thái lắng động, để tâm hồn yên tĩnh dễ dàng nghe suy tư, kiểm thảo và thấy mình hơn sau những tháng ngày mệt nhọc vì công việc tông đồ, mục vụ. Chúa Giê-su không nhìn thấy dân chúng nhiệt tình theo mình mà “ham” để rồi quên cả chính bản thân mình, nhưng Ngài rất biết muốn công việc lâu dài thì cần phải có thời gian ngơi nghỉ, và ngơi nghỉ trong Chúa là điều rất cần thiết cho người làm công tác tông đồ mục vụ.

Nghỉ ngơi của người môn đệ Chúa không như người thế gian, nhưng vượt qua tất cả những gì mà người thể gian đã làm khi nghỉ ngơi, đó là tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, thanh vắng chứ không nơi phố xá đông người, nghỉ ngơi chứ không phải nhậu nhẹt đình đám, đó là một thực tế mà Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ: anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.

Bạn thân mến,

Nghỉ ngơi là điều phải có trong cuộc sống của con người, nhưng cách nghỉ ngơi của người môn đệ Chúa thì có khác với người thế gian.

- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là để kiểm thảo lại cuộc sống của mình- người thế gian nghỉ ngơi là để có giờ chỉ trích người khác.

- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là để cầu nguyện bồi bổ sức cho tâm hồn và thân xác – người thế gian nghỉ ngơi là để hưởng thụ ăn uống chơi bời, có hại cho thân xác và tâm hồn.

- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là tìm nơi thanh vắng để dễ dàng nhìn thấy chính bản thân mình – người thế gian nghỉ ngơi là tìm nơi ồn ào náo nhiệt, không phải để thấy mình, nhưng để kết giao bạn bè và cùng với họ ăn uống chén tạc chén thù.

Chúa Giê-su là vị lương y tài giỏi về linh hồn cũng như thể xác, chính Ngài đã khuyên bảo các tông đồ nên kiếm nơi yên lặng nghỉ ngơi đôi chút, dù cho dân chúng đang hăng say nhiệt tình đang muốn nghe lời Ngài rao giảng.

Nghỉ ngơi là điều cẩn thiết, nhưng luôn nhớ rằng mình là môn đệ của Chúa Giê-su, tức là linh mục, tu sĩ nam nữ và là người Ki-tô hữu.

------------------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:37 18/07/2009
N2T


3. Khiêm tốn dù sâu thẳm cũng không sợ quá độ, kiêu ngạo dù nhỏ nhưng thật là đáng sợ; nếu cửa hẹp phải cúi đầu khom lưng mà vào thì không sợ bị thương tích; nhưng nếu vươn người ngẩng đầu mà vào, thì tất nhiên không tránh khỏi bị thương tích.

(Thánh Bernard)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:39 18/07/2009
N2T


176. Làm việc vượt qua trên sự hưởng thụ vật chất.

 
Chúa Giêsu Động Lòng Thương Cảm
Tuyết Mai
02:05 18/07/2009
Người bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. (Mc 6, 30-34).

Cảm tạ Thiên Chúa, luôn yêu thương, gìn giữ, và quan phòng cho con cái của Ngài, từ cái thuở mà Ngài chưa tạo dựng nên chúng ta, tình yêu của Ngài đã luôn bao la và vô tận cùng. Cảm tạ Thiên Chúa của chúng ta thay! Đã cho tất cả con cái của Ngài một ngày làm việc hôm nay thật đắc lực; thật có công ích; thật vui vẻ và thật lành mạnh!?? Vì sao được gọi là làm việc vất vả cật lực, đổ mồ hôi mồ kê, để kiếm được một ít tiền mua lương thực mà nuôi gia đình mình. Nhịn nhục anh chị em mình mọi lời nói, mọi hành động, mọi sự chướng mắt, mọi sự tranh dành, mà được gọi là lành mạnh ư!? Thưa có phải vì chúng ta muốn được bắt chước Thầy chí ái của mình là Chúa Giêsu, có phải Ngài luôn có sự thương cảm và động lòng thương chúng ta hay không!? Hay là vì mỗi một người chúng ta, mang danh nghĩa là một kitô hữu đích thực, chỉ mong và hy vọng được đi theo Ngài, học hỏi và được thấm nhuần mọi Lời dậy dỗ, mà Thầy Giêsu muốn cho con cái của Ngài sống một cuộc đời chủ đích không phải tìm kiếm cho đầy của cải thế gian, mà chất đống chất đầy, mà đánh mất đi linh hồn quý giá của mỗi một người chúng ta, nơi lửa của hỏa ngục. Một nơi mà đời đời, kiếp kiếp, khủng khiếp, rất kinh sợ ấy! Không ai trên thế gian có thể tưởng tượng và hình dung cho nổi là có thể sẽ chịu đựng được dù chỉ một ngày của thế gian. Lửa của kinh hoàng và khủng khiếp ấy, chúng sẽ muôn đời thiêu đốt linh hồn của chúng ta không có ngày ra!?

Cho nên mọi Lời dậy dỗ quý báu của Thầy Giêsu giúp cho chúng ta là làm sao, bằng cách nào, làm cho tâm hồn của chúng ta hằng ngày được ra thanh thản và nhẹ nhõm. Muốn làm môn đệ đích thực của Ngài, muốn được trở nên giống Ngài, và muốn được chung hưởng hạnh phúc bên Ngài suốt đời của ta trên trần gian này và chung hưởng muôn đời bên Ngài trên Nước Trời, có phải chúng ta luôn biết kính sợ Ngài và yêu thương anh chị em như yêu chính mình, và luôn phó mặc cuộc sống của chúng ta trong bàn tay quan phòng của Ba Ngôi Thiên Chúa hay không?

Lời Ngài thì như khuôn vàng thước ngọc. Vâng, Ngài luôn dậy dỗ chúng ta là những con chiên thương yêu của Ngài vì không có người chăn, thật là nhiều điều, nhưng tựu chung chỉ có quy về 2 điều này mà thôi! Là trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự; và sau lại yêu người như mình ta vậy! Con người trần gian của chúng ta thật là khó hiểu vô cùng, và hình như Thiên Chúa Cha Ngài còn không có thể ngờ được con người mà Ngài đã hối hận khi Ngài tạo dựng nên chúng ta!???? Bởi khi Ngài có ý tạo dựng nên tất cả con người nhân loại của chúng ta thì có phải Ngài chỉ muốn cho hết thảy chúng ta nên tốt và nên thật hoàn hảo, nên giống hình ảnh tốt đẹp và toàn thiện của Ngài!?.

Trong tận cùng con người của chúng ta, thật sự thì ai cũng có bản tánh lương thiện và hiền lành, nhưng khi chúng ta vô tình để cho tội lỗi len lỏi vào sâu tận con người của chúng ta thì cái bản tánh tốt lành có sẵn mà Thiên Chúa đã tác tạo đó, bị dìm sâu tận cõi lòng và như mất hút vào cõi thẳm sâu nào đó!?? Và chỉ khi nào, chúng ta nhớ đến Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy nhân lành và đầy thiện hảo, ăn năn sám hối, thật lòng muốn quay về cùng với Ngài, khi ấy thì tội lỗi của chúng ta, mới có thể mở trói cho Ngài và khi ấy có phải Ngài mới có thể giúp chúng ta tìm về cội nguồn của chúng ta đích thực là Chân, Thiện, Mỹ. Là Omega, là nguyên thủy, là vô tận cùng, là tất cả mọi điều của thiện hảo là Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta hay không!??. Con người của chúng ta khi khử trừ được mọi tội lỗi, thì khi ấy có phải tất cả chúng ta đều trở thành những thánh sống trên trần gian này hay không!? Và quả thật tình trong quá khứ đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng tuy dù con người đầy yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, nhưng nhờ vào sự kết hiệp với Thiên Chúa, Ngài đã ban thêm ơn cho chúng ta sức mạnh và lòng quả cảm để lướt thắng tất cả mọi cơn cám dỗ, thử thách, và chịu đựng những bệnh hoạn, và những bất toàn cho nên.

Chúa không trách chúng ta vì sự yếu đuối của chúng ta đâu! Bởi Ngài quá hiểu rõ thân phận con người như thế nào, vì chính Ngài đã mặc thân phận con người của chúng ta mà! Nhưng Ngài trách và buồn lòng chúng ta nhiều, vì chúng ta đã chê những ân huệ của Ngài ban cho nhưng không, mà lại chạy theo những gì Thế Gian ban tặng. Ngài đã buồn lòng vì con người cứng cỏi thiếu đức tin của chúng ta đã đành, mà Ngài buồn lòng hơn cả là lối sống và cách sống như không có ngày mai của chúng ta. Cho nên dù Chúa có ban cho chúng ta bao nhiêu nhưng không, chúng ta cũng cứ mãi chạy theo những ảo tưởng, những của phù du không có thật, đem chúng ta xa dần với hạnh phúc của Ngài.

Trên đời có bao nhiêu con người là thèm và khao khát có được những giấc mơ thật đẹp đẽ, thật tuyệt vời tuy dù biết rằng đó chỉ là mơ, một giấc mơ không bao giờ thành, cho nên ai ai cũng muốn mua vé số, để hy vọng rằng giấc mơ của mình biết đâu, trước khi nhắm mắt cũng còn một tí ti của niềm hy vọng???? Hay chỉ là tuyệt vọng???? Trên đời không biết có bao nhiêu người công nhận rằng mình dại dột không nhỉ!?

Ai khôn, ai dại?
Ai dại, ai khôn?

Ai khôn tích lũy của cải trên Trời.
Đời đời chung hưởng Thiên Nhan Chúa Trời.
Là người xây nhà trên Đá.

Ai dại xây lầu đài trên cát.
Sóng đánh vùi dập chết trắng tay.
Nhà không còn phải vất vưởng.
Linh hồn bị đầy xuống âm phủ.
Lửa nơi đây không bao giờ tắt.

Thay Đổi Cuộc Đời

Có khi nào anh thử tự tưởng tượng!?
Nằm giả chết không còn biết sự gì chung quanh!?
Anh thử tưởng tượng khi anh nhắm hai con mắt,
Nằm ngay đơ không cục cựa trong quan tài đẹp đẽ,
Bao nhiêu vòng hoa trang hoàng thật đẹp thật thơm tho,
Chung quanh anh hương thơm luôn tỏa ngát mùi.

Tưởng tượng xem gia đình đứng chung quanh anh,
Mặc một màu tang trắng phủ che kín mặt,
Khóc thương anh hỡi người chồng, bố, anh, em
Cậu, chú, ông nội, ông ngoại,....!

Điều gì sẽ làm anh xúc động và thương cảm?
Điều gì sẽ làm lương tâm anh cắn rứt?
Điều gì sẽ làm anh bực bội và cần phải lên tiếng?
Điều gì sẽ làm anh nuối tiếc vì anh chưa được làm?
Điều gì sẽ làm anh muốn đổi tất cả để chỉ mong được sống?

Một cuộc sống bình thường không tất bật vất vả.
Một cuộc sống không chủ đích muốn làm giầu.
Một cuộc sống chỉ cầu vừa đủ xài?
Một cuộc sống trong hòa bình và công chính.
Một cuộc sống hữu dụng và làm lợi cho đời và cho người.

Khi anh nằm với thân xác lạnh lẽo và bất động,
Anh nghĩ anh sẽ làm được gì để thay đổi gia đình anh?
Anh nghĩ anh sẽ làm được gì để thay đổi chính anh?
Anh nghĩ anh sẽ làm được những gì cho ai chung quanh anh?
Những người mà anh từng hiếp đáp và làm họ buồn lòng,
Anh có muốn xin lỗi họ không khi anh có thể!?

Bây giờ thì anh có quyền mở mắt ra,
Để thấy được sự sống,
Sự sống thật sự anh muốn sống.
Chúc anh thật hạnh phúc trong một con người,
Hoàn toàn đổi mới của anh.
Hãy trở về và làm lại cuộc đời,
Làm người thật hữu dụng cho anh,
Gia đình, Tổ Quốc, và tất cả mọi người chung quanh anh.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:25 18/07/2009
TÌM TÒI VẬN MỆNH

N2T


Chim quạ rất lưu tâm đến cái gọi là “vận mệnh”.

Nó cũng không ngừng trưng cầu cách nhìn của người khác đối với “vận mệnh”. Con cáo nói nó cũng không dám nghĩ đến vấn đề này, càng nghĩ càng hồ đồ, mà con rái cá có một bộ dạng mù tịt không biết tí gì, tự nó còn lo cho mình qua ngày đoạn tháng cũng chưa xong, vậy mà con chim quạ cũng mê hoặc nó.

Rốt cuộc, có hay không có “vận mệnh” chứ, tại sao càng tìm tòi, càng cảm thấy nó thất thường bất đắc dĩ ?

(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)

Suy tư:

Con người ta từ cổ chí kim, giàu hay nghèo, có học hay không có học, cũng đều muốn biết vận mệnh của mình như thế nào, vì thế, họ tìm cách sửa đổi vận mệnh của mình.

Nhưng chẳng mấy ai biết vận mệnh là gì cả.

Họ chỉ biết lúc nào làm ăn thua lỗ thì cho là vận xui; lúc nào công ty sạt nghiệp thì cho là thời vận chưa tới, vận xui; lật xe, con chết, vợ theo trai, họ cũng cho là vận xui...

Có người vì thấy thời vận của mình quá đen, quá hắc ám, nên không ngần ngại bỏ tiền ra để mua vận mệnh hên, nhưng rốt cuộc tiền mất mà vận xui vẫn cứ đuổi không đi.

Đố ai mà biết được vận mệnh của mình ? Trên đời này từ xưa đến nay chẳng có một người nào biết cả, ngoại trừ Thiên Chúa.

Nhưng cho dù là chúng ta không biết vận mệnh của mình ra sao, thì chúng ta cũng có thể an vui đi theo vận mệnh, đó là thực hành ý Chúa mọi ngày trong cuộc sống của mình.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:27 18/07/2009
N2T


4. Con người không thể nhất thời không khiêm tốn, con người phải hành thiện, nên lấy khiêm tốn mở đường. Khi hành thiện thì nên để khiêm tốn đi theo nâng đỡ.

(Thánh Augustine)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:28 18/07/2009
N2T


177. Học vấn là tài sản chúng ta mang bên mình, dù bất kì chúng ta ở đâu, thì học vấn của chúng ta cũng ở với chúng ta.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha Benedict XVI đang hồi phục sau vụ giải phẫu cổ tay
Bùi Hữu Thư
12:51 18/07/2009
AOSTA, Ý, ngày 17, tháng 7, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI đang phục hồi sau khi bị té gẫy cổ tay phải tại nhà nghỉ mát trên rặng núi Alps bên Ý.

Sáng nay, Đức Thánh Cha đã được giải phẫu tại bệnh viện Umberto Parini ở Aosta, theo thông cáo của Vatican.

Linh mục Dòng Tên Federico Lombardi, giám đốc văn phòng truyền thông Vatican cho hay Đức Thánh Cha vẫn có thể dâng Thánh Lễ và ăn điểm tâm buổi sớm trước khi đến bệnh viện lúc 9:45 sáng.

Phát ngôn viên cho hay Đức Thánh Cha “được giải phẫu để ráp lại các mảnh xương bị gẫy và hàn gắn lại theo phương pháp osteosynthesis, và sau đó được đắp bột."

Bác sĩ riêng của Đức Thánh Cha Benedict XVI', Patrizio Polisca, báo cáo là tình trạng nói chung của Đức Thánh Cha rất khả quan, và “ngài sẽ mau được trở về nhà nghỉ.”

Đức Thánh Cha đến Les Combes tại thị trấn Introd, nằm trong thung lũng Aosta phía Bắc Ý, ngày thứ hai vừa qua. Ngài sẽ ở lại nhà nghỉ này do các tu sĩ dòng Salêdiêng cai quản cho đến ngày 29 tháng 7.
 
Vị Thánh Phi Châu đầu tiên?
Bùi Hữu Thư
22:36 18/07/2009
Vụ án phong thánh Benedict Daswa được giáo phận gửi về Rôma

TZANEEN, Nam Phi, ngày 17 tháng 7, 2009 (Zenit.org).- Vụ án phong thánh cho một người bản xứ Phi Châu được trình duyệt trong khi các giới chức kết thúc cuộc điều tra cuả giáo phận về đời sống và cái chết của Người Đầy Tớ Thiên Chúa Benedict Daswa.

Một thông cáo của Hội Đồng Giám Mục Phi Châu cho hay việc điều tra đã kết thúc vào đầu tháng 7, và các tài liệu cuối cùng sẽ được gửi cho Đức Tổng Giám Mục Angelo Amato tại Bộ Phong Thánh.

Các tài liệu này gồm trên 850 trang về Benedict Daswa sẽ được Đức Tổng Giám Mục James Green, Khâm Sứ Toà Thánh tại Nam Phi mang về Rôma,.

Ngài sanh năm 1946 trong một gia đình truyền thống tại bộ lạc Lemba nhỏ bé, một nhóm thiểu số xuất thân từ nền văn hóa dân gian và có vài truyền thống giống như người Do Thái.

Benedict Daswa sống với người dân Venda tại tỉnh Limpopo, thuộc miền cực bắc của nước này.

Ngài đang chuẩn bị để trở thành một giáo viên tiểu học khi trở lại đạo Công Giáo.

Trong đời sống đức tin mới, ngài thấy có sự mâu thuẫn giữa các tín điều Công Giáo và các hình thức phù thủy ma thuật hiện diện trong nền văn hóa của ngài.

Do đó, Benedict Daswa cương quyết chống lại âm thầm cũng như công khai, và nói rằng ma thuật khiến cho nhiều người vô tội bị chết oan.

Ngài công khai chống đối việc dùng "muti" hay "dược phẩm" được chế tạo từ các vật liệu để “bảo vệ chống ma qủy hay để đạt được thành công trong các ngành thể thao và các hoạt động khác."

Hội Đồng Giám Mục cho hay chính lập trường này đã dẫn đưa đến cái chết của ngài.

Benedict Daswa bị ném đá và bị đập chết ngày 2 tháng 2 năm 1990, vài ngày sau ngài từ chối không đóng góp tiền cho các mục đích ma thuật.

Hội Đồng Giám Mục nói rằng tất cả mọi chứng cớ cho thấy Benedict Daswa đã sống một cuộc đời thánh thiện và đã chịu tử đạo vì đức tin.

Giờ đây, 5 năm sau việc khởi xướng cuộc điều tra của giáo phận, các thẻ kinh nguyện sẽ được soạn thảo để khuyến khích dân chúng cầu nguyện cho nhận được ơn thiêng liêng trợ giúp qua sự cầu bầu của ngài, điều này sẽ giúp cho việc phong Á Thánh của ngài tiến triển.

Một tiểu sử của ngài đang được phổ biến để làm cho Người Đầy Tớ của Thiên Chúa này được nhiều người biết đến hơn.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Năm Linh mục: đến thăm Giáo xứ sơn cước Ngọc Hồ thuộc TGP Huế
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
00:18 18/07/2009
HUẾ - Ngày 16 tháng 7 năm 2009, dịp Lễ Đức Mẹ Núi Camêlô, bảy anh em linh mục chúng tôi đang ở Toà Tổng Giám Mục, Trung Tâm Mục Vụ và Nhà Chung Huế, - cha Stanislaô Nguyễn Đức vệ, cha Antôn Nguyễn Văn Thăng, cha Bênêđitô Lê Quang Viên, cha Micae Phạm Ngọc Hải, cha Philipphê Hoàng Linh, cha Mathêô Trần Nguyên và cha Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang - đến thăm giáo xứ Ngọc Hồ, thuộc thôn Ngọc Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Giáo xứ Ngọc Hồ nằm trên tả ngạn thượng nguồn sông Hương. Đây là một trong những giáo xứ miền sơn cước của Tổng Giáo phận Huế, thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Những giáo xứ đó là: Ngọc Hồ, Ðá Hàn, Thiên An, An Vân, Bình Ðiền, Nguyệt Biều và Buồng Tằm.

Chúng tôi lên đường lúc 10 giờ. Trời dịu mát và mưa rơi nhè nhẹ. Chúng tôi được cha Giô-gi-ô Nguyễn Thành Phương, linh mục quản xứ Ngọc Hồ, đón tiếp tại cổng Nhà Thờ.

Đứng tại cổng Nhà Thờ Ngọc Hồ, ai cũng có thể dễ dàng nhìn thấy bên kia hữu ngạn sông Hương, nhiều danh lam thắng cảnh của thành phố Huế như Đồi Vọng Cảnh, Điện Hòn Chén.
Bước vào sân Nhà Thờ, chúng tôi vào ngay bên mặt để viếng Đài Đức Mẹ.

Bên trong Nhà Thờ là hình của một ngôi nhà rường rộng lớn, có những cột tròn to. Đây là một di tích nhà thờ còn lại, rất hiếm và rất quý.

Sau khi viếng Chúa trong Nhà Thờ, chúng tôi xuống nhà cha sở và trao đổi với nhau về những vấn đề mục vụ và loan báo Tin Mừng.

Giáo xứ Ngọc Hồ là một trong những vùng đất có đông người công giáo lâu đời. Ngay từ tháng 8 năm 1867, cách đây 142 năm, giáo xứ nầy đã có mặt, và là một giáo xứ thuộc địa sở Phủ Cam lúc đó.

Giáo xứ Ngọc Hồ đã có nhiều đời cha sở. Có nhiều cha sở Ngọc Hồ, sau khi qua đời, đã được an táng tại đây. Năm 1949, cha quản xứ Ngọc Hồ lúc bấy giờ, là cha Phêrô Ngô Văn Hiến, bị quân đội Pháp bắn chết vì ngộ sát. Xác ngài cũng đã được an táng tại đây.

Đặc biệt tại giáo xứ Ngọc Hồ nầy, có Nghĩa Trang Anh Hài phủ kín ba quả đồi. Đây là nghĩa trang dành riêng cho những hài nhi không bao giờ được sinh ra, nghĩa trang của các thai nhi vô tội, vì một lý do nào đó, đã bị tước đoạt sự sống từ trong lòng mẹ.

Nghĩa Trang Thai Nhi này được hình thành đầu tiên tại Việt Nam từ đầu năm 1992, do sự khởi xướng của một số linh mục giáo phận Huế.

Cọng tác với các linh mục, đặc biệt với linh mục quản xứ Ngọc Hồ, anh chị em giáo dân Ngọc Hồ lo lắng cho các thai nhi vô tội, có nơi an nghỉ trên bờ thượng nguồn sông Hương và dưới chân dãy núi Trường Sơn.

Công việc hy sinh cao cả và đầy ý nghĩa nầy cần có sự thông cảm và giúp đỡ của Quý Vị gần xa đối với anh chị em giáo dân giáo xứ Ngọc Hồ và linh mục quản xứ của họ.

Linh mục Giô-gi-ô Nguyễn Thành Phương, Quản xứ hiện nay của giáo xứ Ngọc Hồ, là một linh mục trẻ, chịu chức cách đây 6 năm (2003). Sau khi chịu chức linh mục, ngài làm cha phó xứ La Vang ba năm ba tháng, làm chánh xứ Mỹ Chánh hai mươi tháng, và ngày 29 tháng tư vừa rồi, ngài đảm nhiệm chức chánh xứ Ngọc Hồ. Ngài hiện nay là Trưởng Ban Giới Trẻ của Tổng Giáo Phận Huế. Ngoài ra, ngài còn đảm trách chức vụ Phó Giám Nguyền Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Tổng Giáo phận Huế. Địa chỉ liên lạc của linh mục Nguyễn thành Phương: Tổng giám Mục Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế; Email: georgesphuong@gmail.com, Đt: 054.3560.864; Dđ: 0914.156.634

Trên đường về, chúng tôi mang theo niềm vui lớn vì trong Năm Linh Mục nầy, anh em linh mục chúng tôi có dịp gặp nhau và thăm nhau ngay tại cánh đồng mục vụ và loan báo Tin Mừng của các linh mục quản xứ.

Để thông cảm với nhau hơn.
Để khuyến khích động viên nhau.
Để yêu thương nhau hơn.
Để trao đổi nhiều kinh nghiệm quý báu.
Để tận mắt nhìn thấy những nổ lực lớn lao của các nhân vật rất cần thiết, đó là các linh mục quản xứ.
Tạ ơn Chúa!
Tạ ơn Mẹ Giáo Hội!
Anh em linh mục chúng con đang có NĂM LINH MỤC trong năm 2009-2010 nầy!
 
Gương tốt của Linh mục Giuse Đinh Cao Thuấn
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh
16:00 18/07/2009
Linh muc Giuse Cao Đình Thuấn sinh năm 1925 tại Phú Nhai, giáo phận Bùi chu, chịu chức linh mục ngày 03-12-1954 tại Saigon, làm Cha phó Bùi Phát, Giáo sư Tiểu Chủng viện thánh Phanxicô, Tuyên uý quân đội (1959-1970), Hạt trưởng Hạt Hóc Môn kiêm Chánh xứ Bùi Môn, đã học tập cải tạo hơn 13 năm (1975-1988), linh mục Chánh xứ Xây Dựng 8 năm (1992-2000), hưu ỡ Nhà hưu dưỡng Linh mục Sài gòn (2000-2006) và hưu ở Giáo xứ Bùi Môn từ năm 2006, qua đời tại đó lúc 5 giờ 25 Chúa nhật ngày 12-7-2009, hưởng thọ 84 tuổi.

Cuộc đời của ngài là gương mẫu về đức vâng lời. Vâng lệnh Đức Tổng Giám mục Saigon, ngài đi làm tuyên uý quân đội với quân hàm Đại uý, rồi lên Thiếu tá làm Phó Tổng Tuyên uý, rồi lên Trung tá làm Tổng tuyên uý, cuối cùng lên đại tá, rồi từ chức Tổng tuyên uý, được cử làm tuyên uý cho Trung tấm huấn luyện sĩ quan tại Đà lạt, rồi giải ngũ về Bùi Môn.

Cha Thuấn đã giải ngũ từ lâu, đáng lẽ ra không phải đi học tập đợt đầu như những sĩ quan tại ngũ, nhưng ngài nghe lời bàn của một linh mục khác có thế giá bảo đi học tập chỉ có một tháng ở trường Tabert và ở Dòng Don Bosco Gò vấp. Không ngờ một tháng kéo mà kéo dài hơn 13 năm! Hầu hết các linh mục được cải tạo ở Sơn la Hà Tuyên. Công việc của Cha Thuấn là hằng ngày gánh nước (50 mươi gánh một ngày) từ giếng lên ngọn đồi cho anh em dùng, hoặc lấy nước vào thùng gánh, cho phân vào, quẫy đều rồi đưa đi tưới rau, hái rau cho anh em dùng. Cũng như anh em linh mục khác, lao động trong vui vẻ, chấp hành luật trại vì ý thức mình là linh mục khiến cán bộ phải nể. Dân vùng nầy nghèo nhưng họ thương “tù linh mục chính trị”, họ ném củ khoai lên đường cho, chẳng ai cúi xuống nhặt vì lệnh cấm mặc dầu bụng đang đói.

Rồi Cha Thuấn được đưa vào Thanh hoá, gia đình mới biết được tin, ra thăm ngài. Lần đầu, bà em ruột với người cháu dem 40 ký đi tiếp tế. Cán bộ cho nhận 20 ký, xin đưa cho cha Dư, họ không nhận. Cha Thuấn nói với bà em trước mặt cán bộ: “Về nói với người nhà cha Dư, cha Dư cần dược tiếp tế lắm”. Khi được tha về, cha Dư nói nếu không có mấy lần tiếp tế của người nhà chắc bị ốm chết”.

Đức Cha Phaolo Nguyễn văn Hoà, thời làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục, đã “báo cáo” lên Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II: “Không có linh mục nào đi học tập cải tạo bị vấp ngã”. Ngày Tết Nguyên đán, Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn văn Bình cũng đã đôi ba lần nói như sau: “Các cha đi học tập cải tạo sống, sống tốt quá, không biết khi về có sống tốt như vậy không?” Ai cũng biết Ngài nhắc nhở các linh mục đang ở nhà.

Khi cải tạo về, ba lần công an tới nói: “Linh mục thuộc diện được đi Mỹ”.

Ngài từ chối mặc dầu không biết tương lai mình thế nào (có được làm mục vụ không), lần thứ bốn, ngài trả lời: “Nếu Nhà nước bắt tôi di Mỹ, tôi sẽ đi, nhưng nếu cho tôi chọn, tôi chọn Việt nam…”.

Mấy năm sau, ngài được làm mục vụ, Đức Tổng Giám mục Phaolo Bình bổ nhiệm ngài làm chánh xứ giáo xứ Xây Dựng. Tuổi 65, khi đi nặng 75 ký, bây giờ còn 40 ký, về xứ, ngài bắt tay ngay cùng vời giáo dân và Hội Đồng Mục vụ “sửa sang” ngôi thánh đường, xin lại tầng một đang là trường mầm non Tuấn đức để làm hội trường, nơi sinh hoạt các đoàn thể, nơi tu học của các chủng sinh Bùi chu ở Bắc vào học, phát triển các hội đoàn (Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công giáo, Giới trẻ, Thiếu nhi, Ca đoàn Teresa). Để giáo dục đức tin cho thiếu nhi, ngài chuyển Kinh Thánh thành thơ ca (Tập Trường ca Cứu độ năm 1998 có 1206 câu, mỗi câu bốn hàng theo thơ lục bát):

Con đừng bắt chước người ta,
Toi công mất phúc trươc tòa hiển vinh,
Khi con cầu nguyện đọc kinh,
Vào phòng tĩnh lặng tâm tình cùng Cha
. (câu 403)

Chúa Trời lượng cả bao la,
Muôn vàn ơn phúc đồ ra thắm nồng.
Hãy cầu nguyện vơi tâm hồn,
Đừng nhiều lời quá mà lòng lại xa
. (câu 404)

Ngài còn sáng tác 917 bài thơ Tin Mừng làm thành tập thơ “Ca vang Lời Chúa”, tập Giáo lý (hỏi thưa), Sách Bài giảng được học giả Hoàng Xuân Việt trân trọng giới thiệu.

Như hình ngài làm việc quá sức, hai ba lần phải đưa ngài đi cấp cứu ở bệnh viện Thống Nhất và nghĩa tử của ngài đã xin Đức Tổng G.B Phạm Minh Mẫn cho ngài nghỉ hưu. Đức Tổng đã đánh gía rất cao công việc của của ngài phục vụ Chúa và địa phận.

Hưu ở nhà hưu Linh mục địa phận, như hình ngài khoẻ ra. Hôm về nhận xứ Xây dựng được hai ngày, tôi đến nhà hưu chào ngài. Ngài đưa tôi ra sân sau, chỉ cho bức phù điêu Chúa Giêsu vác lên vai con chiên lạc, chỉ cây hoa, chim cảnh. Ngài rất thích hình Chúa đi tìm chiên lạc, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về. Tại nhà hưu, ăn cơm với các bạn linh mục già, ngài đưa thức ăn lên, rổi hạ xuống nói … Mời ngồi giải tội, ngài đi liền, Đám trẻ rất thích ngài ngồi toà vì ngài dễ tha thứ.

Ngài về hưu ở Giáo xứ Bùi Môn từ năm 2006, qua đời tại đó lúc 5 giờ 25 Chúa nhật ngày 12-7-2009, hưởng thọ 84 tuổi. Thánh Lễ An Táng đã được cử hành vào lúc 9 giờ sáng thứ Tư 15/07/09. Xác ngài được an nghỉ tại khuôn viên Thánh Đường Giáo Xứ Bùi Môn, Sàigòn.

Một cuộc đời chăn chiên, vâng phục và trải qua nhiều thử thách. Xin kết thúc bài nầy bằng lời của thánh Phalo: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi để sức mạnh của Chúa Kytô ở mãi trong tôi.Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kytô.Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh “.(2 Cor 12, 9b-10, bản dịch PVGK)

Và thánh Giacôbê nói “: Anh em hãy tự cho mình được chan chứ niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì “(Gc I,2-4, PVGK).
 
Hội đồng Comitium Sài Gòn 2 tổ chức khóa tập huấn liên hạt Junior hè 2009 tại Lasan Mai Thôn
Phêrô Nguyễn Quang Ngọc
18:21 18/07/2009
SAIGÒN - Thứ bảy hôm nay ngày 18/07/2009 Hội đồng Comitium Sài Gòn 2 tổ chức khóa tập huấn liên hạt Junior hè 2009 tại Lasan Mai Thôn, quận Bình Thạnh, Saigòn.

Xem hình ảnh

Tổng số tham dự trại 228 người, trong đó có 194 Junior và 34 Ủy viên các hội đồng hướng dẫn và tổ chức.

Đúng 8h00 anh Đôminicô Đỗ Ngọc Phác trưởng Senatus Legio Việt Nam khai mạc. Anh rất xúc động được chứng kiến Junior tham dự đông đủ với tinh thần hy sinh và vâng lời của các cháu đến học tập để trở thành một Kitô hữu tốt sau này. Trong khi đó có rất nhiều người trẻ đang còn ngồi ở nơi này nơi khác ăn chơi lãng phí, anh chúc mừng khóa tập luyện kết quả tốt đẹp và chúc các Junior thâu lượm được tinh thần sống đạo theo gương của Mẹ Maria.

Anh Giuse Maria Nguyễn Đức Lâm, trưởng ban chuyên trách giới trẻ Legio VN, tiếp theo lời khai mạc của anh trưởng Sanatus, gởi đến các Junior lời chào thân thương và lời ca ngợi tinh thần sống đạo dũng cảm. Anh cũng khuyên các Junior hãy tận dụng những cơ hội hiếm có trong khóa tập huấn để hiểu biết và thực hành lời Chúa trong cuộc sống.

Buổi tập huấn tập trung 02 đề tài chính.

1. Thực trạng giới trẻ ngày nay, chủ đích của Legio Marie đối với cấp Junior
2. Với vai trò là tông đồ trẻ của Mẹ Maria - Hội viên Junior có nhiệm vụ gì? Đối với gia đình và xã hội và Giáo Hội.

Khóa tập huấn diễn ra rất sinh động sôi nổi qua những bài hát, trò chơi, thảo luận có thưởng

Sau đó các Junior dùng cơm trưa tại chỗ và nghỉ trưa.

Tiếp tục buổi chiều cũng không kém buổi sáng, các cháu thi đua trao đổi và phát biểu.

Đúng 16h30 cùng ngày, mội Junior nhận quà lưu niệm của khóa tập huấn và đọc kinh Bế Mạc.

Mọi người ra về trong niềm vui hân hoan trong Tình Yêu của Đức Kitô.
 
Bế mạc khóa huấn luyện Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể Bắc Ninh
Nguyễn Xuân Trường
18:29 18/07/2009
BẮC NINH - Sáng ngày 18.7.2009, tại nhà thờ chính tòa Bắc Ninh đã diễn ra lễ bế mạc khóa huấn luyện Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể Bắc Ninh. Cha Giuse Nguyễn Đức Hiểu, linh mục Đại diện Giám mục về nội vụ, chủ tế. Cùng đồng tế với ngài có cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Huy Liệu, linh mục tuyên úy Thiếu Nhi Thánh Thể, cha Giuse Nguyễn Hồng Phước và cha Gioan B. Hoàng Xô Băng, DCTT, giảng viên khóa huấn luyện.

Xem hình ảnh

Khóa huấn luyện Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể được tổ chức tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận từ ngày 12 - 18.7.2009. Tất cả có 54 học viên từ các giáo xứ khác nhau trong giáo phận tới tham dự. Ban giảng huấn, ngoài quý cha DCCT, còn có anh Vincentê Nguyễn Văn Thành cùng cộng tác huấn luyện.

Đầu thánh lễ, cha chủ tế nhấn mạnh đến sứ mạng Chúa trao cho các huynh trưởng trong việc loan báo Tin Mừng và làm chứng cho tình yêu Chúa Giêsu Thánh Thể.

Trong bài giảng, cha Gioan B. Hoàng Xô Băng nói: “Ngày xưa Chúa Giêsu đã sai 72 môn đệ lên đường làm việc Tông Đồ, ngày nay Chúa cũng sai các bạn huynh trưởng đi làm chứng cho Chúa. Khi sai các môn đệ đi Chúa ban quyền năng cho các ông, nay sai các bạn đi Chúa cũng ban cho các bạn “quyền năng” là một trái tim yêu thương. Các bạn ra đi sẽ không tránh khỏi những khó khăn, nhưng các bạn hãy an tâm, vì có Chúa cùng đi với các bạn”. Tiếp theo, cha nói về ý nghĩa của khăn quàng và tầm quan trọng của Lời Chúa đối với huynh trưởng; Lời Chúa được sánh ví như một bức thư tình Chúa gửi cho con người. Cha giúp các huynh trưởng ý thức trách nhiệm của họ và cầu chúc các bạn tìm được niềm vui trong đời phục vụ. Cha cũng cảm ơn các bạn đã quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa và xin cộng đoàn cầu nguyện cho các bạn huynh trưởng trở nên những chứng nhân đức tin sống động cho thời đại hôm nay.

Sau bài giảng là Nghi thức Tuyên hứa và trao Khăn quàng cho các huynh trưởng. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Huy Liệu, linh mục tuyên úy Thiếu Nhi Thánh Thể giáo phận, xướng tên các ứng viên và xin cha Đại diện công nhận họ vào hàng ngũ huynh trưởng của liên đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể giáo phận Bắc Ninh. Sau đó, các huynh trưởng bước lên tuyên hứa nỗ lực hơn để thánh hóa bản thân trong đời sống nội tâm kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, hứa vâng phục bề trên và hợp tác rộng rãi với mọi thành phần của Giáo Hội một cách quảng đại và hăng hái, hứa cố gắng trau dồi thêm khả năng của mình để có thể phục vụ hữu hiệu cho tuổi trẻ.

Sau nghi thức tuyên hứa, Cha Đại diện trao khăn quàng và Kinh Thánh cho các huynh trưởng. Cha nói lên ý nghĩa của khăn quàng màu đỏ là màu của máu, diễn tả sự hi sinh gian khó và giá máu cứu độ của Chúa Giêsu. Khi trao Kinh Thánh, cha nhắn nhủ các bạn hãy nhận Kinh Thánh làm kim chỉ nam cho các bạn trên con được phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân; các bạn hãy để cho Lời Chúa hướng dẫn và ban thêm sức mạnh cho mình vì Lời Chúa là Lời Hằng Sống.

Cuối thánh lễ, một em đại diện lên bày tỏ niềm vui được tham dự khóa huấn luyện. Đồng thời, em cũng nói lời cảm ơn giáo phận, quý cha giảng huấn và quý ân nhân đã tạo những điều kiện thuận lợi để các em được hưởng một khóa huấn luyện tốt đẹp. Cuối thánh lễ, các huynh trưởng cùng chụp ảnh kỉ niệm với quý cha.

Hành trình đức tin của người Thiếu Nhi Thánh Thể là cuộc hành trình với Chúa Giêsu Thánh Thể, sống kết hợp mật thiết với Ngài qua đời sống cầu nguyện, rước lễ, hi sinh và làm việc tông đồ. Các huynh trưởng đóng vai trò quan trọng trong phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể. Xin cho các huynh trưởng hăng hái tập cho các em thiếu nhi biết tận tình mến Chúa qua các việc dâng ngày, sống cầu nguyện, hi sinh, vâng lời và kết hợp với Chúa nhờ rước lễ hằng ngày. Ước mong các huynh trưởng trở thành những chiến sĩ đức tin trong mọi môi trường mình sống. Nguyện xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp họ sống trung tín và can đảm bước trên đường hi sinh phụng sự Chúa và phục vụ Giáo Hội.
 
75 nữ tu Mến Thánh Giá Vinh lặp lại lời khấn
Anthony Hoàng
18:54 18/07/2009
VINH - “Trong hân hoan chúng con về đây, mang tin yêu mơ ước nồng say… ”. Lời ca Nhập lễ diễn tả đúng tâm trạng của 75 nữ tu trẻ trung của Dòng MTG Vinh, khi họ tiến vào cung thánh để lặp lại lời kết ước với Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu.

Xem hình ảnh

Quả thật, còn gì hạnh phúc cho bằng yêu và được yêu! Chỉ những ai đạt được hai chiều của tình yêu thì hạnh phúc mới được tròn đầy, và khi ấy lòng họ mới thực sự hát khúc hân hoan. 75 nữ tu Mến Thánh Giá Vinh vui mừng tiến vào Thánh điện là vì họ biết mình được chính Chúa Giêsu đã yêu thương họ: yêu thương họ từ thuở đời đời, yêu thương họ từ lúc chưa tượng thai trong lòng hiền mẫu, yêu cho đến ngày hôm nay và yêu cho đến tận cùng thời gian. Ít nhiều gì đó, họ đã có kinh nghiệm rằng “Con Người” ấy mãi mãi trọn tình với họ, dẫu đời họ có phong ba bão táp, có lao đao nghiêng ngã, có nghi ngại lưỡng lự… Và vì thế, sau một thời gian sống lời cam kết tu trì, lúc này họ vẫn và càng cảm thấy yêu mến Con Người ấy hơn, nên họ lại xin đại diện Giáo Hội cho họ được lặp lại lời kết ước với Thiên Chúa, để tiếp tục cùng Đấng Tình Quân Giêsu sống trong ân tình bao la của Thiên Chúa.

Dẫu là khấn lại một năm, nhưng với tôi đó cũng là một biến cố quan trọng, một điều hết sức có giá trị. Bởi có lẽ đối với Thiên Chúa thì thời gian dài ngắn không quan trọng cho bằng chất lượng sống của thời lượng. Dầu các nữ tu này chỉ lặp lại lời khấn một năm, và nếu như sau đó họ không tiếp tục cam kết nữa, thì trong một năm đó mà họ sống trọn vẹn Ba Lời Khuyên Phúc Âm, thì cũng đã làm cho Chúa vui lòng, cũng đáng cho chúng ta khâm phục, và tôi tin chắc họ góp phần cải thiện thế giới này không nhỏ. Bởi như Chúa nói: Nóng thì nóng hẳn, lạnh thì lạnh hẳn, còn hâm hâm thì Ta sẽ mửa ra (x. Kh 3,15-16).

Chính vì tầm quan trọng đó, nên Hội Dòng MTG Vinh đã chuẩn bị cho biến cố này rất chu đáo. Vừa là để tĩnh tâm năm cho các nữ tu thuộc giai đoạn Kinh Viện, vừa để chuẩn bị cho 75 chị (từ lớp mới khấn một năm đến lớp đã khấn năm năm) khấn lại, Dòng đã dành một tuần cho các đi vào trong tĩnh lặng và cầu nguyện. Trước đó, các chị cũng có bốn tuần học tập một số môn về thần học và tu đức, bổ sung và cập nhật những kiến thức cần thiết cho đời tu và cho sứ mạng tông đồ.

Cũng vì sự quan trọng và niềm vui đó, mà sáng nay ngày 18.07.2009, vào lúc 05 giờ, bên cạnh Cha Tổng Đại diện giáo phận Vinh Fx. Võ Thanh Tâm, với vai trò là Đấng Bản quyền hiện diện để nhận lời khấn của các chị, còn có cha giảng phòng Đôminicô Phạm Xuân Kế và linh mục sinh viên, cha Phaolô Nguyễn Văn Hiểu, vừa trở về từ Rôma trong kỳ nghỉ hè cũng đã đến đồng dâng Thánh lễ cầu nguyện cho Hội Dòng và 75 nữ tu này.

Giảng trong Thánh lễ, cha Tổng Đại diện đã nhắc lại ý nghĩa của ba lời khấn: Khiết Tịnh, Thanh Bần và Vâng Phục. Ngài còn nói rằng, giữa thế giới người ta chạy theo lạc thú, tiền tài, danh vọng, thì các chị hãy nỗ lực sống các lời khuyên Phúc Am để giữ lại thế quân bình cho trái đất này. Nếu không, thì giới này sẽ bị hủy diệt như thành Xơ-đôm...

Kính chúc các chị sống trọn tâm tình như ca khúc Không lấy Gì Hơn của nhạc sĩ Ân Đức mà các chị hát lúc hiệp lễ: “Không lấy gì quý hơn mối tình Chúa Kitô. Tình yêu tuyệt vời, tuyệt vời biết mấy. Có tình yêu nào trên đời này quý hơn mối tình tên là Giêsu?”, để từ đó các chị dám: “Con xin đánh đổi tất cả Chúa ơi. Để con chẳng còn chi, để còn chẳng tìm gì ngoài Chúa… Chúa chính là gia nghiệp của con.”

Nhân đây, chúng tôi cũng xin giới thiệu sơ lược về Hội Dòng MTG Vinh và chương trình đào tạo của Dòng.

Lược sử Dòng Mến Thánh Giá (MTG) Vinh

Dòng MTG Vinh hiện diện trên địa hạt Nghệ Tĩnh Bình, tức là lãnh thổ giáo phận Vinh ngày nay, trước khi giáo phận được thành lập vào năm 1846. Khi thành lập giáo phận, thống kê có 220 chị em trong 8 tu sở.

Ngày 11-02-1936, Đức Cha Eloy Bắc công nhận Hội Dòng thuộc quyền giáo phận. Tuy nhiên, lúc đó các sở dòng vẫn còn sinh hoạt độc lập với nhau.

Năm 1952, Đức cha G.B. Trần Hữu Đức đã cải tổ Hội Dòng đúng theo tinh thần của Đức cha Lambert de Lamote. Từ đó, Dòng có lời khấn theo Giáo luật.

Do hoàn cảnh xã hội và thời cuộc chiến tranh, Hội Dòng MTG trải qua bao gian nan khốn khó: nhiều cơ sở phải giải thể, nhiều cộng đoàn phải sơ tán vào nhà dân, cuộc sống thiếu thốn mọi điều kiện, các sinh hoạt hầu như ngưng hẳn.

Vào ngày 14/9/1991, Dòng nhận hiến chương mới, và từ đây, dù khó khăn chưa hết nhưng Dòng đã đón nhận nhiều ơn gọi và có điều kiện phát triển hơn. Và từ năm 1993, tập viện được tái lập.

Trải qua thăng trầm của thời gian, hiện nay Hội Dòng có 209 khấn trọn, 153 khấn tạm, 54 tập sinh, 29 thỉnh sinh và gần 400 đệ tử.

Chương trình huấn luyện

Hội Dòng có năm giai đoạn đào tạo ơn gọi

1. Đệ Tử

Hội Dòng tiếp nhận ơn gọi sau khi thỉnh sinh tốt nghiệp PTTH, và số lượng nhiều ít, thi vào hay không thi vào là tuỳ mỗi cộng đoàn. Và giai đoạn này thông thường là trên 3 năm.

2. Tiền Tập:

Sau thời gian Đệ Tử, ứng sinh hội đủ điều kiện theo Hiến Chương, sẽ được mời gọi bước vào giai đoạn Tiền Tập. Đây là giai đoạn các em được tham gia đầy đủ về đời sống cầu nguyện và gắn bó hơn với sinh hoạt của Hội Dòng. Giai đoạn này trải dài trong 2 năm.

3. Tập Viện

Sau thời gian Tiền Tập Viện, ứng sinh bước vào giai đoạn quan trọng nhất trong hành trình huấn luyện của Hội Dòng. Đây là thời gian đào luyện đặc biệt và thánh thiêng, chú trọng vào đời sống cầu nguyện và gặp gỡ Chúa, để có kinh nghiệm về ơn gọi. Thời gian này là 1 năm.

4. khấn sinh:

Kết thúc Năm Tập theo giáo luật, nếu Tập sinh thấy mình phù hợp với ơn gọi, và được bề trên chấp thuận thì sẽ tuyên khấn lần đầu. Từ đây, các Khấn Sinh sống Ba Lời Khuyên Phúc Am, tích cực dấn thân làm chứng nhân cho Chúa trong mọi môi trường mình hiện diện.

5. Kinh viện

Sau khi tiên khấn, các Khấn Sinh sẽ bắt đầu giai đoạn Kinh Viện là thời gian kiện toàn việc huấn luyện các nữ tu khấn tạm. Thời gian này tối thiểu là 5 năm và tối đa là 6 năm. Cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng không bao giờ quá 9 năm. Và sau giai đoạn Kinh Viện, nếu Khấn sinh thấy phù hợp với ơn gọi và được Bề trên chấp thuận, thì sẽ khấn trọn đời.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Biển Đông: Máu, nước mắt và còn điều gì phía sau hậu trường?
Trần Văn, phóng viên RFA
00:11 18/07/2009
Sáng 16 tháng 7, chín ngư dân của con tàu đánh cá mang số hiệu QNg 2203 TS đã về đến bến Cổ Lũy, thuộc xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Trước đó, vào lúc rạng sáng ngày 15 tháng 7, tàu của họ đã bị một tàu “lạ” đâm chìm trong Biển Đông.

Theo tờ Tuổi Trẻ, chỉ trong vòng hai tháng qua, riêng tỉnh Quảng Ngãi đã có ba tàu đánh cá bị tàu “lạ” đâm chìm. Đó là chưa kể những nhân họa khác.

Dù thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng có nhiều yếu tố cho thấy, biển Đông không còn là nơi an toàn cho ngư dân Việt Nam và điều gì đang diễn ra ở những nơi xa hơn, phía trong đất liền?

Liên tục bị tấn công, đuổi bắt

Theo lời ông Lê Văn Khách, một thuỷ thủ của tàu QNg 2001 TS, kể với tờ Tuổi Trẻ thì rạng sáng 15 tháng 7, một con tàu “lạ” đã đâm thẳng vào đuôi tàu của họ lúc họ đang nghỉ ngơi... Tàu vỡ, nước biển tràn vào và chín người trên tàu chỉ còn kịp vơ vội phao hoặc can nhựa rồi thoát ra khỏi tàu.

May mắn là trước khi rời tàu, ông Đặng Nam - chủ tàu đã kịp gọi một tàu đánh cá khác ở cùng quê tiếp cứu... song hơn ba giờ sau, con tàu tiếp cứu mới đến được hiện trường.

Tờ Tuổi Trẻ tường thuật rằng, ngoài ba ngư dân bị thương rất nặng cần cấp cứu, do kiệt sức, khi vào tới bờ, sáu người còn lại cũng đã được đưa vào bệnh viện để chăm sóc sức khoẻ.

Trong vài năm qua, chuyện tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị nhiều con tàu “lạ” đâm chìm trên biển Đông không phải là hiếm nhưng rất ít người tin đó là các vụ tai nạn hàng hải thuần tuý.

Những con tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị nhiều tàu “lạ” đâm chìm chỉ diễn ra sau một chuỗi các tuyên bố cũng như những hành động khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông.

Ngoài việc bị tàu lạ đụng chìm, ngư dân Việt Nam còn bị bắn. Hồi tháng 1 năm 2005, cảnh sát biển của Trung Quốc đã xả súng vào bốn tàu đánh cá Việt Nam, khiến 9 ngư dân ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá thiệt mạng, năm người bị trọng thương, tám người khác và một con tàu bị bắt giữ.

Ngư dân Việt Nam cũng đang là đối tượng thường xuyên bị đuổi bắt, bị tịch thu tàu, ngư cụ, hải sản, bị giam giữ và tống tiền. Hãy nghe bà Võ Thị Thịnh, vợ một ngư dân ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, kể: “Hồi giờ mấy năm nay cũng làm miết ở Hoàng Sa đó nhưng giờ sợ quá không dám. Sợ ra rồi họ bắt.”

Còn đây là tâm sự của bà Lương Thị Hoa, vợ thuyền trưởng một tàu đánh cá ở quận Thanh Khê, Đà Nẵng: “Nói chung làm ăn mà nghe Trung Quốc bắt thì phải lo. Có một nỗi lo đó đó. Bữa ni làm thì tổn phí nhiều mà mỗi đợt đi ra lại nghe Trung Quốc dí. Điện về ở nhà cũng lo, ăn không được, ngủ không được. Bởi làm ăn khổ!”

Ai bảo vệ ngư dân?

Việt Nam cũng có hải quân, có cảnh sát biển, có bộ đội biên phòng, những lực lượng này làm gì khi ngư dân thường bị săn đuổi, bị bắt, bị bắn và gặp những tai nạn trên biển?

Chúng tôi đã gọi điện thoại nêu thắc mắc này với Đồn 248 thuộc lực lượng Biên phòng Đà Nẵng và được một sĩ quan tại đây trả lời: “Có việc chi thì anh phải làm việc cụ thể chứ không thể thông qua điện thoại nhá! Chúng tôi chỉ làm trực tiếp thôi nhá! “

Riêng ngư dân và thân nhân của họ thì giải đáp cặn kẽ hơn: “Ở ngoài biển phần ai nấy biết chứ mô có ai bảo vệ. Bảo vệ là hồi bão tố, biên phòng ở trong bờ điện ra nhắc chừng, bảo là Đài báo bão, bảo phải cập bến thì họ kêu gọi mình vô bờ thôi chứ ngoài đó làm chi có ai bảo vệ. Làm ăn ngoài biển mạnh anh mô lo anh nấy. Lo làm ăn thế thôi chứ không có ai bảo vệ hết.”

Không có ai bảo vệ nên ngày 16 tháng 6, thêm ba tàu đánh cá và 37 ngư dân ở huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi bị hải quân Trung Quốc bắt.

Hành xử của chính quyền?Một tuần sau khi báo chí cả trong lẫn ngoài Việt Nam cùng loan tin và bình luận về sự kiện này, ngày 22 tháng 6, Bộ Ngoại giao Việt Nam mới lên tiếng phản đối Trung Quốc “vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông”.

Ba ngày sau khi có sự phản đối vừa kể, phía Trung Quốc thả 25 ngư dân, trả lại một tàu nhưng việc thả người, trả tàu là để các nạn nhân trực tiếp mang về thông điệp, đòi các chủ tàu và thân nhân của ngư dân phải nộp 210.000 nhân dân tệ tiền phạt thì mới thả tiếp 12 ngư dân và trả hai tàu còn lại.

Cùng thời điểm này, trên Internet xuất hiện một video clip ghi lại cảnh các ngư dân Việt Nam đang vái lạy lực lượng vũ trang của Trung Quốc khi bị lực lượng này bắt giữ.

Phản ứng sau đó của chính quyền Việt Nam thế nào?

Ngày 9 tháng 7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao là ông Lê Dũng cho biết: “Phía Trung Quốc đã ghi nhận yêu cầu của phía Việt Nam và sự việc đang được giải quyết thông qua con đường ngoại giao”.

Trên thực tế, sự ghi nhận này được thể hiện thế nào? Mới đây, trả lời Đài chúng tôi, một số viên chức chính quyền địa phương ở Lý Sơn, Quảng Ngãi và thân nhân của các ngư dân đang bị cầm giữ cho biết, phía Trung Quốc vừa bảo rằng sẽ giảm tiền phạt nhưng chưa cho biết mức phạt mới.

Đáng lưu ý là cũng ngày 9 tháng 7, thời điểm mà ông Lê Dũng cho biết vụ 12 ngư dân và hai tàu đánh cá ở Lý Sơn, Quảng Ngãi “đang được giải quyết thông qua con đường ngoại giao”, một số tờ báo ở Việt Nam loan tin, 15 ngư dân của hai tàu đánh cá thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An vừa trở về nhà, sau khi bị cảnh sát biển Trung Quốc giam giữ 45 ngày. Để 15 ngư dân này có tự do, hai chủ tàu và thân nhân của các ngư dân đã phải nộp cho cảnh sát biển Trung Quốc 180 triệu đồng.

Tại sao ông Lê Dũng chỉ đòi trả 12 ngư dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi mà không đả động gì đến 15 ngư dân ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An cũng đang trong tình trạng tương tự? Chưa ai có câu trả lời chính xác.

Theo một báo cáo của Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Ngãi, phát hành hồi đầu tháng trước mà chúng tôi được đọc, việc Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippines, Campuchia tổ chức tuần tra, xua đuổi, bắt giữ ngư dân và tàu đánh cá trên biển Đông, không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế, khiến ngư dân hoang mang, lo sợ mà đáng ngại là, số vụ bắt giữ, phạt tiền của năm sau luôn cao hơn năm trước.

Nếu năm 2005, chỉ có 7 tàu với 75 ngư dân bị bắt giữ thì năm 2006 có tới 10 tàu với 104 ngư dân bị bắt giữ. Sang năm 2007, con số này tăng lên 23 tàu với 215 ngư dân. Năm 2008 là 26 tàu với 227 ngư dân.

Trong quí 1 năm 2009 đã có 8 tàu với 93 ngư dân bị bắt giữ. Cũng theo báo cáo này, hiện còn tới 15 tàu và 46 ngư dân đang bị ngước ngoài giam giữ. Trong đó có trường hợp tàu và ngư dân bị giam giữ suốt từ năm 2006 tới nay.

Đây chỉ là số liệu ở riêng Quảng Ngãi. Còn số liệu chung về tình trạng này trên toàn Việt Nam? Rất ít người biết bởi người phát ngôn Bộ Ngoại giao chưa loan báo hoặc lên tiếng phản đối.
 
Tổng Thống Abraham Lincoln, Internet, Sách Giáo Khoa và Đề Thi Đại Học tại Việt Nam
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA, Bangkok
00:18 18/07/2009
Thiếu trách nhiệm hay thiếu trình độ

2009-07-17


Trong kỳ thi tuyển sinh đại học vừa qua, đề thi môn ngữ văn yêu cầu thí sinh bình luận một đoạn văn nổi tiếng có tựa đề:”Thư gửi thầy hiệu trưởng” được cho là của Tổng Thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln.

Ngay sau đó nhiều phụ huynh đã phát hiện ra bức thư này không phải do Tổng Thống Abraham Lincoln viết mà là của một người khác. Dư luận tỏ ra nghi ngờ tính chất chuyên nghiệp và mức độ tin cậy của các tác giả soạn sách giáo khoa cho học sinh của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo.

Giá trị của sách giáo khoa VN

Tựa đề thi môn ngữ văn kỳ thi đại học năm 2009 như sau: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mỹ A. Lin-côn (1809-1865) viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi.” Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết 1 bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.

Chính bản thân đề thi không có vấn đề gì nhưng nội dung trích dẫn thì lại vấp vào một sai phạm lớn. Bộ sách giáo khoa Ngữ Văn Lớp 10 trích lại nguyên văn bức thư từ Internet và ghi tên người sáng tác là Tổng Thống Abraham Lincoln.

Thế nhưng nhiều người quan tâm đến vấn đề đã cất công tìm hiểu sự thật qua nhiều nguồn khác nhau mà trong đó có anh Nguyễn Đình Nam, thành viên sáng lập một trang web có tên vanhocmang.net.

Anh Nam chứng minh rằng ngôn ngữ bức thư không nằm trong giai đoạn nó được sáng tác tức là năm mà Tổng Thống Abraham Lincoln còn tại chức.

Thời gian sáng tác bức thư rất gần với đương đại. Anh Nam còn cất công truy tìm những tài liệu lịch sử của Mỹ tại Tiểu Bang Illinois nơi có Thư Viện Tổng Thống Lincoln.

Nhà sử học Thomas F. Schwartz, Bang Illinois, chuyên nghiên cứu về Lincoln, là Giám Đốc Thư Viện và Bảo Tàng Viện Tổng Thống Lincoln. Trong 16 năm lại đây, ông đã xuất bản rất nhiều sách về Tổng Thống Lincoln, cho biết "Lincoln chưa bao giờ nói vậy". TS Thomas F. Schwartz khẳng định rằng bức thư này là 1 trong 10 điều mà ông Lincoln chưa bao giờ nói hay viết, nhưng bị gán cho ông.

Sau khi mọi việc đã được chứng minh, GS Phan Trọng Luận, tổng chủ biên sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, trả lời với báo chí rằng nếu thông tin về bức thư này sai thì đính chính. Theo GS Luận, khi biên soạn, những nhà làm sách đã lấy nguồn bức thư này trong cuốn sách của NXB Trẻ in năm 2004 trích lại từ Internet, do vậy, NXB Trẻ phải chịu trách nhiệm trước tính xác thực của thông tin.

Câu trả lời thiếu thuyết phục này khiến dư luận một lần nữa dấy lên làn sóng phản đối mạnh hơn. Là người viết sách giáo khoa có nghĩa đã được xã hội tin cậy đặt vào tay mình chức năng hướng dẫn nhiều thế hệ sinh viên mài luyện tri thức với tính chuyên nghiệp và trách nhiệm tuyệt đối.

Nhà xuất bản Trẻ không thể chịu trách nhiệm khi chính ban soạn thảo sách giáo khoa tự ý mua về trích dẫn và đưa toàn bộ văn bản vào đề thi.

Trách nhiệm tối thiểu mà giảng đường đại học luôn hướng dẫn cho sinh viên là cẩn thận khi trích nguồn vì tính chất đáng tin cậy tùy thuộc vào nơi được trích.

Có nhiều trường hợp, nguồn trích từ Internet không được giáo sư đại học chấp nhận cho sinh viên làm bài thực tập, vì đơn giản đây là nơi trôi nổi biết bao thông tin không chính xác mà nếu thiếu cẩn trọng sẽ mang lại tác hại khôn lường.

Bất cẩn đến mức báo động

Sách giáo khoa lại càng không thể trích từ nguồn Internet. Việc xác minh khá dễ dàng của anh Nguyễn Đình Nam đã cho thấy sự bất cẩn của ban biên soạn sách giáo khoa lên đến mức báo động. Việc sai và sửa như một điệp khúc không mệt mỏi có vẻ không còn hợp thời nữa khi dư luận ngày một đòi hỏi những cán bộ soạn sách giáo khoa phải chịu trách nhiệm cụ thể hơn và nhất là phải biết cách cáng đáng một công việc có quan hệ sống còn đối với tri thức của bao thế hệ.

Giáo sư Văn Như Cương người cũng từng tham gia biên soạn sách giáo khoa bộ môn toán cho biết:

- Tôi thấy lời in ở trong sách giáo khoa nhầm lẫn từ đề của Lincoln đã nói. Mọi người đều không kiểm tra lại. Thực ra là không phải (của Lincoln). Đấy là một thiếu sót quá lớn, không biết trích dẫn từ nguồn ở đâu ra mà xem bức thư ấy là của Lincoln.

Bây giờ tác giả phải trả lời là tác giả căn cứ vào đâu. Hình như cũng có căn cứ vào một nguồn nào khác nhưng không chính xác, không kiểm tra cho thực sự cẩn thận. Không kiểm tra cẩn thận nguồn gốc cho nó thực đúng. Cái đề thi này mà nhầm lẫn như thế thì cũng là tai hại.

Giáo sư Phạm Phụ, người có tâm huyết đối với việc dạy và học của học sinh thì thấy đây là một việc làm tắc trách:

- Sách giáo khoa là mẫu mực để cho người ta học mà làm như vậy thì nó qua bất tiện đi. Cũng cái anh gì phó hội đồng khảo thí thì nói là nó không ảnh hưởng đến bài thi; thực ra nói như vậy nó không đúng. Chỗ này, theo tôi, là một vấn đề rất là không nên. Đứng về mặt ảnh hưởng trong thực tế tôi cho là cũng không phải lớn. Đó là một cách rất dở nhưng không phải lớn.

Một điều mà Giáo sư Phạm Phụ quan tâm hơn nữa là chương trình bậc trung học mà học sinh Việt Nam đang hàng ngày được huấn luyện. Ông nói:

- Thực ra vấn đề hiện nay sai lầm lớn nhất là ở chương trình giáo dục phổ thông. Việt Nam còn lao động phổ thông hết sức đơn giản này, học làm người, học biết nói lời xin lỗi, biết nói lời cảm ơn, thì gần như không có học, không biết gì hết.

Ngồi đây giải phương trình bậc hai, rồi điểm cực đại, rồi cực tiểu, thậm chí học tích phân, nó quá hàn lâm, nó không tương thích, theo tôi đó mới là vấn đề cần một cuộc cách mạng thật sự trong giáo dục phổ thông.


Giáo dục Việt Nam đang dẫn đầu về những bất cẩn so với các nước trong khu vực. Nhiều trí thức từng lên tiếng khá gay gắt về sách giáo khoa vẫn không thể hiểu nổi tại sao Bộ Giáo Dục và Đào Tạo không mạnh dạn chắt lọc những sai phạm đã được chứng minh nhằm từng bước sửa sai một cách thiện chí trong tinh thần lắng nghe và cầu thị.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Vòng Thời Gian
Đặng Đức Cương
06:07 18/07/2009

VÒNG THỜI GIAN



Ảnh của Đặng Đức Cương

Bốn mùa mưa nắng lại nắng mưa

Vô thường thử hỏi đã tỉnh chưa

Sinh diệt, diệt sinh đà thấy rõ

Giữ lòng thanh thản giữa nắng mưa.

(Trích thơ của Nhu Minh)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
 
Từ Điển Thuật Ngữ Công Giáo
Từ Điển Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo: House of Gold – Hysteron Proteron
Nguyễn Trọng Đa
00:03 18/07/2009
House Of Gold
Đền vàng. Là một tước hiệu của Đức Trinh Nữ trong Kinh cầu Đức Bà Loreto. Tước hiệu này mô tả sự trọn lành cá nhân của Đức Mẹ và đặc ân được làm mẹ của Chúa. Đức Mẹ chính là ngôi nhà (ngôi đền) cho Chúa ở trong chín tháng trong cùng lòng Mẹ, và vì Chúa, Đức Mẹ là một đền vàng, được Chúa Tạo Thành trang điểm với các nhân đức quý giá nhất.
House, Religious
Nhà Dòng. Nói chung, là nơi ở của bất cứ dòng tu nam hay nữ nào. Đây là một nhà Dòng chính thức (domus formata) nếu có ít nhất sáu tu sĩ đã khấn cư ngụ trong đó. Trong trường hợp là một nhà Dòng giáo sĩ, ít nhất bốn trong sáu tu sĩ phải là linh mục.
Huguenots
Tin lành Pháp. Từ ngữ này được sử dụng sau năm 1560 để chỉ người Tin lành Pháp trong các thế kỷ 16 và 17. Từ ngữ phát sinh từ tên của một trong các thủ lĩnh của họ, là Besançon Hugues. Người Tin lành Pháp lấy sự cảm hứng và cách tổ chức của John Calvin, người được chấp nhận tại Pháp, nơi đức tin Công giáo bị suy yếu do Đại ly khai Tây Phương, sự phát triển của chủ nghĩa Pháp giáo, Sắc lệnh Vua ban năm 1438, và sự chống đối của Liên minh thánh với Đức Giáo hòang Julius II. Năm 1598, Henry of Navarre, với Chỉ dụ Nantes, 1598, ban cho họ được tự do giữ đạo của họ. Nhưng họ chưa thỏa mãn, họ tìm quyền lực chính trị, được vũ khí hỗ trợ. Sức mạnh của họ bị dẹp tan năm 1628 khi La Rochelle đầu hàng. Vua Louis XIV thu hồi Chỉ dụ Nantes năm 1685. Nhiều người Tin lành Pháp bỏ chạy trốn qua Anh, Nam Phi, Hà Lan và Bắc Mỹ.
Humanae Personae Dignitatem
Văn kiện Humanae Personae Dignitatem. Là văn kiện do Hội đồng giáo hòang đặc trách người vô tín ngưỡng công bố. Mục đích của văn kiện này là đưa ra các nguyên tắc tổng quát và các qui phạm đặc biệt cho người Công giáo, khi đi vào đối thoại riêng tư và công khai với người vô tín ngưỡng, chẳng hạn người Cộng sản Marxist. Trong số các qui phạm đặc biệt, qui phạm thực tiễn nhất ảnh hưởng đến các cuộc đối thọai công khai, vốn là chính thức hay không chính thức, do giáo quyền tổ chức. Về đối thọai chính thức “rất hiếm khi có các điều kiện để cuộc đối thọai có thể diễn ra giữa Kitô hữu và người vô tín ngưỡng.” Trên tất cả, các cuộc đối thoại không chính thức đòi hỏi rằng các đại diện Công giáo phải “là chuyên viên về giáo lý, có đời sống luân lý tốt và là người ăn nói giỏi” (ngày 28-8-1968).
Humanae Vitae
Tông thư Humanae Vitae (Sự sống con người). Tông thư của Đức Giáo hòang Phaolô VI, có phụ đề “Trật tự đúng cần theo trong việc lưu truyền đời sống.” Có bốn phần trong tông thư: 1. các khía cạnh mới của vấn đề; 2. quyền hạn của giáo quyền để giải quyết vấn đề; 3. các nguyên tắc giáo lý; và 4. các hướng dẫn mục vụ. Một trong các điểm lớn được Đức Giáo hòang Phaolô VI tái tuyên bố là Giáo hội có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng trong các vấn đề luân lý, không chỉ khi các vấn đề ấy được mặc khải chính thức, mà còn khi các vấn đề ấy “liên quan đến luật luân lý tự nhiên” nữa (ngày 25-7-1968).
Humanism
Học thuyết nhân bản, học thuyết nhân văn, lòng nhân. Nguyên thủy từ ngữ này là dành cho các phong trào trí thức, văn chương và khoa học từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 16. Mục đích của chúng là dựa mỗi ngành học trên nền văn hóa Hi Lạp cổ điển và Roma cổ đại. Phía người ngọai đạo, học thuyết nhân bản tán dương các tác giả không Kitô, vì họ nhấn mạnh đến sự phát triển đầy đủ của bản tính con người, vốn chỉ được quan tâm mù mờ về sự sống sau khi chết. Phía người Kitô giáo, các nhà nhân bản có đức tin cổ vũ việc sử dụng tự do các đồ vật quý thời cổ đại, mà không thỏa hiệp các chân lý của Tin mừng. Học thuyết nhân văn Kitô giáo bắt đầu với Dante (1265-1321), trong khi học thuyết nhân bản ngọai giáo đạt đỉnh cao với Petrarch (1304-74). Các Đức Giáo hòang Piô II, Sixtus IV, và Leo X ủng hộ học thuyết nhân văn Kitô giáo và cổ vũ nhiều cho nó. Thánh Thomas More (1478-1535) là điển hành tinh thần tốt nhất của chủ nghĩa này tại Anh. Sau cuộc Cách mạng Pháp, tinh thần nhân văn cực đoan nổi lên chống lại mặc khải Kitô giáo và Giáo hội.
Humanitarianism
Chủ nghĩa nhân đạo. Là một hệ thống đạo đức đặt phúc lợi trần thế của lòai người thành mục đích độc quyền của nỗ lực con người, và là tiêu chuẩn cơ bản về xử sự. Nó làm cho ích lợi cá nhân và ích lợi xã hội của con người trở thành đối tượng đầu tiên của cuộc sống con người, và đưa việc thờ phượng Chúa lệ thuộc vào quyền lợi của con người, nếu nó xem xét việc này.
Humanity
Nhân loại, nhân tính, lòng nhân đạo. Là tất cả mọi người. Nhân tính là điều kiện để làm con người. Là một nhân đức, lòng nhân đạo là phẩm chất sống tình người cách dễ thương, hiểu sự yếu đuối và các hạn chế của con người, từ kinh nghiệm riêng tư và tự nhận thức của mình.
Human Nature
Bản tính con người. Là bản tính của lòai người được xem xét cách trừu tượng, và tách khỏi sự nâng lên bởi ân sủng đến tình trạng siêu nhiên, với vận mệnh hạnh phúc thiên đàng. Là bản tính con người, vì có xác có hồn, có khả năng tư duy theo lý trí và lấy quyết định theo ý chí. Thực ra bản tính con người không bao giờ hiện hữu độc lập với vận mệnh siêu nhiên, hoặc độc lập với sự chấp thuận hay bác bỏ lời mời gọi siêu nhiên của ơn Chúa.
Human Positive Law
Nhân luật tích cực. Là luật do chính quyền đặt ra, thực hiện luật tự nhiên. Nó lấy một trong hai hình thức, là bằng luật công bố hay là luật đặc thù. Các luật công bố chỉ tuyên bố điều mà luật tự nhiên đã qui định, hoặc rút ra kết luận có thể có từ luật tự nhiên. Đó là các luật cấm giết người, trộm cắp hoặc thề gian thề dối. Chúng khác với luật tự nhiên ở cách thức công bố, là do Nhà nước công bố, chứ không chỉ bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí. Còn các luật đặc thù xác định hoặc thiết lập cách thức riêng để hành động, sao cho phù hợp với luật tự nhiên, nhưng không kết luận trực tiếp từ luật này. Đó là luật giao thông, luật thu thuế, và các điều kiện làm hợp đồng chính đáng. Không nhân luật nào mâu thuẫn với luật tự nhiên là một luật đích thực, nhưng nó không cần dội lại luật tự nhiên một cách đơn thuần.
Humeral Veil
Khăn vai, khăn phủ vai. Một tấm vải dài có hình thuông hay một đoạn vải áo được thêu hoặc trang trí thật đẹp, được khoác lên vai và phủ tay của linh mục, khi ngài nâng Mặt nhật Mình thánh lên cho mọi người bái thờ khi chầu Thánh Thể (Sắc lệnh Eucharistiae Sacramentum, 1973, III, 92). Khăn vai cũng được dùng khi linh mục bưng cầm chén lễ có Mình Thánh để chuyển từ một Nhà tạm đến một nơi khác, hoặc khi rước kiệu Mình Thánh. (Từ nguyên Latinh humerus, vai.)
Humiliati
Humiliati, Hội Anh em Khiêm hạ. Là một hội giáo dân đền tội được thành lập khoảng năm 1150. Một số tù nhân được Hoàng đế Henry II đưa từ Lombardy về Đức đã tự nguyện làm công tác từ thiện và đền tội, và họ được gọi là Barrettini. Khi họ được cho phép trở về Ý, họ tiếp tục phương pháp sống như tại Đức, như một nghề làm ăn, và họ tự gọi là Humiliati, và cũng như một lối cầu nguyện, rồi họ chọn luật sống theo thánh Biển Đức. Năm 1134 họ xây dựng tu viện đầu tiên tại Milan. Thánh Charles Borromeo, trong khi cố gắng khử trừ một số lạm dụng xấu xa vốn đã diễn ra trong nhóm, đã bị tấn công đến chết bởi một số người trong nhóm ấy, và năm 1571 hội đã bị xóa bỏ. Vợ của các Humiliati này đã thiết lập một cộng đòan, dưới quyền của Clara Blassoni, và chăm sóc người phung. Họ được biết đến với tên gọi Tu sĩ Cứu tề Tuân thủ, và tiếp tục họat động cả sau khi hội Humiliati bị xóa bỏ. Một số nhà của họ làm công tác điều dưỡng y tế vẫn còn hiện diện ngày nay tại Ý.
Humility
Khiêm nhượng, khiêm hạ, khiêm tốn. Là nhân đức luân lý giúp một người kềm giữ không vượt quá chính mình. Đây là nhân đức làm giảm sự thèm khát bất chính về sự cao cả bản thân, và dẫn con người đến sự yêu thương mình một cách trật tự, dựa vào sự đánh giá đích thực về vị trí của mình đối với Chúa và đối với người khác. Tính khiêm nhượng tôn giáo nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa; tính khiêm nhượng luân lý nhìn nhận mình là bình đẳng với mọi người. Khiêm nhượng không chỉ đối nghịch với kiêu ngạo; nó còn đối nghịch với sự tự hạ mình quá mức, vốn không nhận biết ơn Chúa ban và sử dụng chúng theo ý Chúa nữa. (Từ nguyên Latinh humilitas, sự làm nhục, khiêm nhượng, từ chữ humus, đất đai.)
Hur
Hur, ông Khua. Là một người Do thái phụ tá cho ông Moses (Mô-sê). Trong một trận đánh với người Amalekite (A-ma-lếch), dân Do thái chiến đấu dũng mãnh khi Moses đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa. Khi nào ông Moses giơ tay lên, thì dân Do Thái thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì quân Amalekite thắng thế. Nhưng ông Moses mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron (A-ha-ron), em trai ông, và ông Hur thì đỡ tay ông, mỗi người một bên, để cây gậy luôn đưa cao (Xh 17:10-12). Trận chiến kết thúc với chiến thắng của người Do Thái. Có thêm một bằng chứng cho sự tin tưởng của Moses vào ông Hur: khi Đức Chúa triệu tập Moses lên núi để nhận luật và các điều răn, Moses để lại chỉ thị rằng trong thời gian ông vắng mặt, ai có việc gì cần cứ đến với hai ông Aaron và Hur để được giải quyết (Xh 24:14).
Husband
Chồng, phu quân. Là một người nam kết hợp với một người nữ trong hôn nhân hợp pháp. Các trách nhiệm của người chồng đối với vợ mình đã được diễn tả trong lời nguyện chúc hôn, mà linh mục khẩn nguyên trong lễ cưới: “Xin cho anh (ông) T. biết trọn niềm tin tưởng ở chị (bà) T., nhìn nhận chị (bà) là người bạn bình đẳng, và cũng được thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Xin cho anh (ông) biết luôn luôn kính trọng và yêu thương chị (bà) như Ðức Kitô yêu thương Giáo Hội.”
Hussites
Người theo phái John Hus. Là các đồ đệ của John Hus (1369-1415), người đã thành lập một giáo phái ở Bohemia đầu thế kỷ 15. Họ tuyên xưng thuyết Lưỡng hình, nghĩa là cần phải rước lễ dưới hai hình Bánh và Rượu. Việc này được rao giảng bởi Hus, người nói với các đồ đệ rằng các tín hữu đích thực của Chúa Kitô và thánh Phaolô phải rước Máu thánh nữa. Công đồng Constance ra lệnh xóa bỏ lạc giáo này. Giới quý tộc ở Bohemia và Moravia nghĩ là có việc nói bóng gió trong cuộc phản công và nhục mạ lạc giáo này, và họ thành lập một liên minh bất đồng với Giáo hội. Với các quan điểm khác nhau, phái Hus chia thành phái Toborita (phái quá khích) và phái Chén thánh (tức phái ôn hòa). Dưới sự chỉ huy của Jan _iška, họ hợp nhất để đánh với quân đội hòang gia, và Thập tự chinh của Giáo hòang được phái tới để khuất phục họ. Trong 15 năm, họ tàn phá miền Bohemia. Cuối cùng trong năm 1433 hòa bình mới đến nhờ Compactata (Hiệp ước Prague), vốn cho phép Rước lễ dưới hai hình, miễn là người rước lễ tuyên bố rằng Chúa Kitô trọn vẹn hiện diện cả dưới hình bánh và cả dưới hình rượu. Đây là một sự rút ngắn lại của luận đề cơ bản của phái Hus, vốn nói rằng việc Rước lễ dưới hai hình là cần thiết cho được ơn cứu độ. Một số người hài lòng với điểm này, nhưng phái quá khích Toborita thì không, và sau cùng phái này biến mất sau thất bại tại trận chiến ở Lipany năm 1434. Compactata (hiệp ước) được chấp thuận năm 1436. Tuy nhiên lộn xộn vẫn tiếp diễn với xung đột vũ trang đến nỗi Đức Giáo hòang Piô II phải hủy bỏ nghi lễ Lưỡng hình. Năm 1485 Vua Wladislau ban quyền bình đẳng cho mọi phe phái. Tuy nhiên hạt giống chia rẽ đã được gieo sẽ được thu họach trong thế kỷ sau, với sự chỗi dậy của phong trào Cải cách.
Hylomorphism
Mô chất thuyết, hình chất thuyết. Là thuyết cho rằng mọi hữu thể hữu hình được hình thành với hai nguyên lý hiện hữu: nguyên liệu, là chất đầu tiên chưa được định nghĩa, và một hình bản thể, vốn là dạng hiện hữu rõ ràng. Hai nguyên lý này có tương quan với nhau như tiềm thể với hiện thể. Thuyết này đuợc thánh Tôma nhìn nhận từ triết học của triết gia Aristotle, dựa vào hai đặc điểm vốn là đặc tính của mọi hữu thể hữu hình: tính có thể thay đổi và các cá nhân khác nhau của một lòai. Hai đặc điểm này chỉ có thể giải thích dựa trên giả thiết rằng mọi hữu thể hữu hình trong bản tính sâu xa nhất của chúng gồm có hai yếu tố: nguyên liệu, vốn vẫn là bền vững trong bất cứ thay đổi nào, và tạo cá nhân tính cho mỗi hữu thể; và hình bản thể, vốn là quan trọng cho sự hiện hữu thật sự của các hữu thể khác, các đặc điểm của chúng, và sự biến đổi sâu xa xảy ra khi một bản thể đổi thành bản thể khác. (Từ nguyên Hi Lạp hyl_, chất + morphe, hình.)
Hylotheism
Vật thần thuyết. Thuyết phiếm thần duy vật, vốn đồng hóa Thượng đế với vũ trụ vật chất của thời gian và không gian. (Từ nguyên Hi Lạp hyl_, chất + theos, thần.)
Hylozoism
Vật hoạt thuyết. Là một thuyết cổ xưa của Hi Lạp, sau này được phái Khắc kỷ bênh vực và trong thời cận đại được chủ nghĩa duy vật Pháp bênh vực, cho rằng mọi vật là linh họat trong một mức độ nào đó. Không chấp nhận thuyết cơ giới thuần túy, họ bác bỏ sự phân biệt rõ ràng giữa vật chất và tinh thần. Gần gũi với thuyết này là thuyết vật họat phiếm thần thời Phục Hưng của các triết gia chủ nghĩa thiên nhiên như Paracelsus, Cardanus và Giordano Bruno. Họ chủ trương rằng mọi sự là linh họat như sự phóng xạ của thần linh. Triết gia Spinoza (1632-77) phối hợp các hình thức duy vật và phiếm thần của vật họat thuyết, và hạ giảm mọi sự trong vũ trụ thành các thuộc tính của một bản thể vô cùng. (Từ nguyên Hi Lạp hyl_, chất + z__, sự sống.)
Hymn
Thánh thi, thánh ca. Một thánh ca để chúc tụng và tôn vinh, hoặc một lời cầu xin với Chúa hay các thánh. Các thánh thi chỉ định dùng trong phụng vụ được lấy chủ yếu từ Thánh Kinh, hoặc dựa vào một mầu nhiệm nào đó của đức tin như Giáo hội đã dạy. Mọi thánh ca sử dụng trong phụng vụ phải được giáo quyền chuẩn thuận. (Từ nguyên Latinh hymnus, bài hát ca ngợi.)
Hymnody
Thơ tôn giáo, thi ca tôn giáo. Thi ca tôn giáo khác biệt với thiên anh hùng ca, và phân biệt với thi ca thế tục. Thi ca Công giáo được chia thành thi ca phụng vụ và không phụng vụ. Thi ca phụng vụ là các thánh thi thuộc về bản tính của Hy tế Thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ, như được thấy trong sách Nhật tụng. Còn thi ca không phụng vụ là các bài thơ dùng trong các hình thức đạo đức cá nhân, hoặc trong phụng vụ khi chúng được giám mục chuẩn thuận.
Hypapante
Lễ Hypapante, Lễ Dâng Chúa trong Đền thờ theo nghi lễ Byzantine. Tên này phát sinh từ cuộc gặp gỡ (hypapante) của Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ với ông Simeon (Si-mê-ôn) và nữ ngôn sứ Anna trong Đền thờ.
Hyperdulia
Biệt tôn. Là sự tôn kính đặc biệt dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Biệt tôn là thấp hơn cultus latria (thờ phượng, tôn thờ), vốn chỉ dành cho Chúa mà thôi. Nhưng biệt tôn là cao hơn so với cultus dulia (tôn kính), vốn dành cho các thiên thần và các thánh. Như Giáo hội hiểu sự biệt tôn với Đức Mẹ, sự biệt tôn là rất gần gũi nhưng là thấp hơn sự thờ phượng Chúa Con. “Giáo Hội đã chấp nhận nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu; những hình thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh, và tuân giữ giới răn Chúa Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành (x. Cl 1,15-16) và nơi Người, Chúa Cha hằng hữu ‘muốn có đầy đủ mọi sự’ (Cl 1,19).” (Công đồng chung Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, VII, 66). (Từ nguyên Latinh hyperdulia, nhân đức phục tùng sâu xa.)
Hypnotism
Thuật thôi miên. Là hiện tượng của sự ngủ được gây nên cách nhân tạo, làm cho nạn nhân cởi mở cho sự gợi ý của người khác một cách bất thường. Nạn nhân của thôi miên có xu hướng bị thống trị bởi ý tưởng và gợi ý của người thôi miên, trong khi thôi miên và sau đó. Theo nguyên tắc Công giáo, thuật thôi miên tự thân là không sai trái, do đó nó được phép thực hiện trong một số hoàn cảnh. Nhưng bởi vì nó tước đi sự sử dụng hoàn toàn lý trí và ý chí của người bị thôi miên, một nguyên nhân biện minh là cần thiết để cho phép nó được thực hiện. Hơn nữa, do thuật thôi miên đặt ý chí của người bị thôi miên trong quyền lực của người thôi miên, một số đề phòng là cần thiết để bảo vệ đức hạnh của người bị thôi miên, và bảo vệ người ấy cùng những người khác khỏi nguy hiểm phạm tội. Vì các lý do nghiêm trọng, chẳng hạn để chữa người nghiện rượu hoặc người có mặc cảm tự tử, thì được phép thực hiện việc thôi miên, miễn là cần đề phòng rằng nó được thực hiện bởi một người thôi miên đứng đắn và giỏi, trước sự chứng kiến của một người chứng đáng tin tưởng. Và phải có sự thỏa thuận, ít là đoán chừng, của người sắp bị thôi miên. Nhiều văn kiện của Tòa Thánh đã nêu ra các qui tắc cần tuân theo, trong việc sử dụng thuật thôi miên (Bộ thánh vụ, ngày 4-8-1956; ngày 26-7-1899).
Hypocrisy
Đạo đức giả, thái độ giả hình. Là một hình thức nói dối, trong đó một người giả vờ có các nhân đức hay các phẩm chất luân lý, mà thực ra người ấy không có. Động lực của việc này là sự kiêu ngạo, và sự xấu của nó tùy thuộc vào mức độ kiêu ngạo và vào hậu quả xấu đi kèm theo, khi người ta xem người ấy là tốt về luân lý, và có thể tin người ấy với niềm tin và trách nhiệm, mà người ấy không đáng hưởng. Tuy nhiên không phải là giả hình khi người ta cử xử tốt nhất với người khác, để chỉ muốn gây ấn tượng một cách thuận lợi cho mình. Cũng không phải là giả hình khi một người, do sự yếu đuối con người, không sống đúng theo các nguyên tắc của mình, hoặc không theo sự tuyên xưng đức tin của mình. (Từ nguyên Latinh hypocrita, giả hình; từ chữ Hi Lạp hypokrit_s, diễn viên, giả hình.)
Hypostasis
Ngôi vị, bản vị, bản thể. Là một bản thể đầy đủ và cá nhân, hiện diện đầy đủ trong chính nó; là một bản thể bất khả thông. Giáo hội dùng từ ngữ này để xác định các ngôi vị trong Ba Ngôi, và sự kết hiệp hai bản tính trong một ngôi vị trong Chúa Kitô. Một nhân vị là một bản vị được phú cho lý trí. Hơn nữa, ngôi vị và bản tính có tương quan với nhau, theo cách thức ngôi vị là chủ thể quản thủ của bản tính và là chủ thể của toàn hữu thể và hành động, trong khi bản tính là cái qua đó ngôi vị hiện hữu và hành động. (Từ nguyên Latinh hypostasis, nền tảng; một bản thể; nhân vị; chữ Hi Lạp hypostasis, nền tảng, bản chất, nền móng.)
Hypostatic Union
Ngôi hiệp. Là sự kết hiệp bản tính con người và bản tính Thiên Chúa trong một ngôi vị của Chúa Kitô. Tại công đồng Chalcedon (năm 451), Giáo hội tuyên bố rằng hai bản tính của Chúa Kitô được liên kết “trong một nhân vị và một ngôi vị” (Denzinger 302), ở đây ngôi vị có nghĩa là một bản thể. Từ ngữ này được sử dụng để trả lời sai lầm của thuyết Nestorius về sự kết hiệp thuần túy ngẫu nhiên của hai bản tính trong Chúa Kitô. Cụm từ “Ngôi hiệp” được chọn sau một thế kỷ, tại công đồng chung thứ năm ở Constantinople (năm 533). Đây là từ ngữ diễn tả thích hợp của giáo lý công giáo về Chúa Giêsu Kitô rằng có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người trong Chúa Kitô; rằng ngôi vị Thiên Chúa cần đến chính mình, đưa bản tính con người vào ngôi vị của mình; rằng Chúa Con nhập thể là một bản thể cá nhân và trọn vẹn; và rằng sự kết hiệp hai bản tính này là có thật (chống thuyết Arius), không là sự cư ngụ thuần túy ngẫu nhiên của Chúa trong một con người (chống thuyết Nestorius), và có một linh hồn có lý trí (chống thuyết Apollinaris), và thiên tính không hề thay đổi (chống thuyết Eutyches).
Hypothesis
Giả thuyết. Là sự giải thích có điều kiện các sự kiện nhận thức được, hoặc mối quan hệ giữa chúng. Do đó, giả thuyết không bao giờ xung khắc với các chân lý đã được thiết định chắc chắn, hoặc không hề được xem như đã chắc chắn hoặc đã dứt khoát rồi. Chức năng của giả thuyết là cung cấp một sự giải thích thăm dò, nhằm gợi ý cần thử nghiệm thêm và bằng chứng xác minh nữa. (Từ nguyên Hi Lạp hypothesis, giả thiết, giả định.)
Hyssop
Hương thảo. Một cây chưa rõ loại, được nêu tên trong Kinh thánh. Nó có nhiều ở Ai Cập, Sinai, và Canaan, được dùng để rảy máu lên con chiên vượt qua hoặc lễ vật hy tế. Nó được nhắc đến trong thánh vịnh Miserere (Tv 51 Xin xót thương con) và trong các kinh nguyện của Giáo hội.
Hysterectomy
Cắt bỏ tử cung. Là cắt bỏ tử cung một phần hay toàn bộ. Nói chung, việc giải phẫn này là biện minh được về luân lý, nếu việc cắt bỏ là cần thiết vì các lý do y học nghiêm trọng. Nhưng nó không thể được biện minh, nếu mục đích là triệt sản trực tiếp.
Hysteria
Cuồng loạn, loạn thần kinh. Là một rối loạn cảm xúc, vốn có thể coi thường sự chẩn đoán sẵn sàng và ảnh hưởng sâu xa trách nhiệm luân lý của người cuồng loạn. Nò có thể mặc nhiều hình thức, nhất là: 1. cuồng loạn chuyển biến, ở đó các xung đột trong tâm trí trở thành tàn tật ở thân xác, chẳng hạn bị liệt, mù mắt, hoặc thiếu cảm giác; 2. mộng du; 3. lẩn trốn, người ấy mất mọi trí nhớ của quá khứ; 4. đa nhân cách hay nhân cách phân chia, khi cá nhân trở nên lần lượt những người khác, mà không ý thức được sự nối kết giữa các tình trạng tiếp diễn ấy. Chứng cuồng loạn đã được biết từ nhiều thế kỷ qua, và là một đối tượng của việc Giáo hội quan tâm đặc biệt trong sự điều tra những người nổi tiếng về thánh thiện, và nhiều phép lạ được trình để loại trừ sự “chữa trị” chứng loạn thần kinh.
Hysteron Proteron
Hysteron Proteron, phương pháp nghịch đảo sau-trước. Trong luận lý học, đây là một lý luận sai lầm, trong đó người ta thừa nhận điều mình đang giả định để chứng minh.