Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa ban của ăn cho loài người
Lm Giuse Đinh lập Liễm
01:47 23/07/2009
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN B
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi hồn xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói:”Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Phép lạ của tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 cũng nói lên điều đó. Phép lạ làm cho bánh hoá nhiều trong bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyền năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của đoàn dân chúng đi theo Ngài cả ngày. Ngài ban cho họ lương thực phần xác nhưng cũng ban cho họ luơng thực phần hồn là những lời dạy dỗ của Ngài và nhắc nhở họ hãy tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta nhiều điều. Ngài kêu gọi chúng ta hãy cộng tác với Ngài trong việc phục vụ con người. Tuy việc cộng tác của chúng ta chỉ nhỏ nhoi như 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng với ngần ấy vật liệu rất nhỏ mọn, Ngài làm nên một phép lạ lớn lao: nuôi sống 5000 người đàn ông ăn no nê, còn thu lượm được 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Ngài còn dạy chúng ta phải biết chia sẻ cho nhau những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban, chúng ta đừng giữ lấy cho riêng mình. Sau cùng, Đức Giêsu khuyên chúng ta phải chú trọng đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn là Lời Chúa và phép Thánh Thể. Nhu cầu thiêng liêng phải vượt lên trên nhu cầu vật chất: ”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2V 4,42-44: Trích đoạn sách Các Vua trùng hợp với bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lúc ấy tại Israel xẩy ra nạn đói, tiên tri Êlisê làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hoá ra nhiều cho 100 người ăn no nê mà vẫn còn dư. Phép lạ này minh chứng cho lòng tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, Đấng ban phát của ăn cho mọi người. Bánh ăn vẫn còn dư nói lên lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa, đồng thời cũng nói lên tính cách dư dật của bữa ăn “thời cuối cùng” dành cho những người nghèo của Thiên Chúa (Is 65,13).
+ Bài đọc 2: Ep 4,1-6: Đọc những dòng này, chúng ta có thể đoán được các tín hữu ở Êphêsô đang chia rẽ nhau. Tuy đang ngồi trong tù, thánh Phaolô rất băn khoăn lo lắng cho họ nên đã viết thư khuyên họ hãy sống hoà thuận hiệp nhất với nhau, hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Theo Ngài, phương cách chữa trị sự chia rẽ đó là sống bác ái đối với nhau, chịu đựng lẫn nhau trong sự khiêm tốn, nhẫn nại và hiền hoà.
Sự hiệp nhất mà thánh Phaolô muốn họ xây dựng đã có sẵn, đó là sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại. Hay nói chính xác hơn, đó là sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp nhất chỉ tồn tại trong sự đa dạng triệt để của các Ngôi Vị.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,1-15: Chạnh lòng thương đoàn dân đã theo Ngài tự bên kia Biển hồ Tibériade, Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá cho 5000 người đàn ông ăn no, còn dư lại 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Đây là phép lạ duy nhất được bốn tác giả sách Tin mừng thuật lại. Trong trình thuật này, thánh Gioan không chú ý đến biến cố cho bằng nói lên ý nghĩa của nó. Phép lạ này gợi lên hình ảnh Manna trong sa mạc, một thứ bánh vật chất mau hư nát, còn thứ bánh mà Đức Giêsu ban cho là một thứ manna mới ban sự sống trường sinh.
Có nhiều chi tiết trong phép lạ này báo trước về phép Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ lập. Quả vậy, vài ngày sau phép lạ này, trong bài giảng thuyết về bánh sự sống, Ngài tuyên bố là Ngài sẽ ban thịt mình cho người ta ăn và máu Ngài cho người ta uống:”Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Các con hãy cho họ ăn.
I. PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU.
1. Đức Giêsu làm phép lạ.
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một chút sau cuộc truyền giáo đã thấm mệt, đồng thời Thầy trò trao đổi với nhau về công việc vừa qua, nhưng không thể được vì dân chúng kéo đến quá đông, khiến các Ngài không có thời giờ ăn uống. Đức Giêsu muốn đem các ông đến nơi thanh vắng để Thầy trò nghỉ ngơi và chỉ dẫn thêm cho các ông.
Nhưng vừa đến nơi thì dân chúng đã đến trước. Ngài chạnh lòng thương họ, bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ họ. Mà vì đây là nơi rừng vắng, nên dân chúng không tìm được thức ăn. Ngài thương họ đang đói khát nên làm phép lạ cho bánh hóa nhiều. Phép lạ này được kể trong thánh Marcô song Phụng vụ hôm nay mượn ở thánh Gioan.
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành.. Đám môn đệ giờ đây cũng mệt nhoài không hơn gì họ. Thế mà Đức Giêsu lại bảo các Tông đồ hãy cho họ ăn. Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn, giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn.
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
2. Sứ điệp Đức Giêsu gửi đến cho ta.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn mà Đức Giêsu muốn gửi cho chúng ta qua phép lạ này.
a) Tiên báo phép Thánh Thể.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi 5000 người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các” cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
b) Tình thương và quyền năng của Đức Giêsu.
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều của Tin mừng Gioan hôm nay – cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin mừng khác – đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay, thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Êlisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với tiên tri Êlisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: ”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Vietcatholic)
c) Tin vào Chúa quan phòng.
Theo sách Sáng thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý. Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn đdịa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng, phải làm việc cực nhọc mới có của ăn, nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn.
Vì thế, ta thấy tư tưởng này được viết trong sách Kinh Thư mà các dân tộc Đông phương vẫn tin tưởng:”Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc”: Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban cho. Thánh vịnh cũng có câu:”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”(Tv 144,16).
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì chỉ trong năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY CHÚNG TA.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều có mục đích thoả mãn cơn đói khát vật chất của đám dân chúng đi theo Chúa cả một ngày đàng, nhưng còn hơn thế nữa, phép lạ này còn đem lại cho chúng ta nhiều bài học thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
1. Cộng tác vào công trình của Chúa.
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh, nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu:”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”.
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: ”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Truyện: Mẹ Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng.. ..
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước ( Theo M. Link).
2. Cộng tác bằng việc làm cụ thể.
Lòng thương cảm là một tình cảm tốt. Nhưng thương cảm suông thì chưa có giá trị, chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng thương cảm nhiều khi trở thành hình thức hay giả dối, như người ta thường nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
Lòng cảm thương ấy cũng có, nhưng số người ra tay hành động vì lòng thương cảm lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu phương tiện. Các Tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói:”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu, và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Truyện: Thánh Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp mọt số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
3. Phải tiết kiệm những của Chúa ban.
Đức Giêsu đã nói:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận: Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban khi Ngài nói:”Tất cả là hồng ân”. Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy. Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các võ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy (Flor MacCarthy).
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú qúi. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào việc với niềm tin: dù chi với “năm chiếc bánh và 2 con cá”, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Ngài sẽ biến đổi khuôn mặt thế giới nên nhân bản hơn, Ngài sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tốt tươi hơn.
4. Phải tìm của ăn thiêng liêng.
Khi ma qủi đến cám dỗ Đức Giêsu đang chay tịnh trong bốn mươi ngày, Ngài đã trả lời cho hắn:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4). Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng.
Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần, nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất. Tuy người ta chê người lười biếng không chịu làm việc, nhưng cũng nói lên rằng: ăn ngon ngủ kỹ cũng chưa đủ mà còn phải có nhu cầu giải trí nữa:
Ăn no rồi lại nằm quèo,
Thấy giục trống chèo, bế bụng đi chơi.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển. Linh hồn có một nguồn lương thực dồi dào và không bao giờ cạn kiệt, đó là Lời Chúa và Thánh Thể:
- Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Lc 4,4).
- Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,54-55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh lễ Misa. Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ, Chúa ban cho chúng ta được dồi dào sự sống trong hai nguồn sống ấy.
Thánh lễ được chia ra hai phần:
- Phụng vụ lời Chúa: Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời:”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống”(Ga 6,63).
- Phụng vụ Thánh Thể: Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Chúa thiết tha mời gọi: ”Các con hãy nhận lấy mà ăn... Các con hãy nhận lấy mà uống”(Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).
Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Igatiô Loyola yêu chuộng:
“Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa” (M. Link).
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi hồn xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói:”Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Phép lạ của tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 cũng nói lên điều đó. Phép lạ làm cho bánh hoá nhiều trong bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyền năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của đoàn dân chúng đi theo Ngài cả ngày. Ngài ban cho họ lương thực phần xác nhưng cũng ban cho họ luơng thực phần hồn là những lời dạy dỗ của Ngài và nhắc nhở họ hãy tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta nhiều điều. Ngài kêu gọi chúng ta hãy cộng tác với Ngài trong việc phục vụ con người. Tuy việc cộng tác của chúng ta chỉ nhỏ nhoi như 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng với ngần ấy vật liệu rất nhỏ mọn, Ngài làm nên một phép lạ lớn lao: nuôi sống 5000 người đàn ông ăn no nê, còn thu lượm được 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Ngài còn dạy chúng ta phải biết chia sẻ cho nhau những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban, chúng ta đừng giữ lấy cho riêng mình. Sau cùng, Đức Giêsu khuyên chúng ta phải chú trọng đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn là Lời Chúa và phép Thánh Thể. Nhu cầu thiêng liêng phải vượt lên trên nhu cầu vật chất: ”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2V 4,42-44: Trích đoạn sách Các Vua trùng hợp với bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lúc ấy tại Israel xẩy ra nạn đói, tiên tri Êlisê làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hoá ra nhiều cho 100 người ăn no nê mà vẫn còn dư. Phép lạ này minh chứng cho lòng tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, Đấng ban phát của ăn cho mọi người. Bánh ăn vẫn còn dư nói lên lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa, đồng thời cũng nói lên tính cách dư dật của bữa ăn “thời cuối cùng” dành cho những người nghèo của Thiên Chúa (Is 65,13).
+ Bài đọc 2: Ep 4,1-6: Đọc những dòng này, chúng ta có thể đoán được các tín hữu ở Êphêsô đang chia rẽ nhau. Tuy đang ngồi trong tù, thánh Phaolô rất băn khoăn lo lắng cho họ nên đã viết thư khuyên họ hãy sống hoà thuận hiệp nhất với nhau, hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Theo Ngài, phương cách chữa trị sự chia rẽ đó là sống bác ái đối với nhau, chịu đựng lẫn nhau trong sự khiêm tốn, nhẫn nại và hiền hoà.
Sự hiệp nhất mà thánh Phaolô muốn họ xây dựng đã có sẵn, đó là sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại. Hay nói chính xác hơn, đó là sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp nhất chỉ tồn tại trong sự đa dạng triệt để của các Ngôi Vị.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,1-15: Chạnh lòng thương đoàn dân đã theo Ngài tự bên kia Biển hồ Tibériade, Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá cho 5000 người đàn ông ăn no, còn dư lại 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Đây là phép lạ duy nhất được bốn tác giả sách Tin mừng thuật lại. Trong trình thuật này, thánh Gioan không chú ý đến biến cố cho bằng nói lên ý nghĩa của nó. Phép lạ này gợi lên hình ảnh Manna trong sa mạc, một thứ bánh vật chất mau hư nát, còn thứ bánh mà Đức Giêsu ban cho là một thứ manna mới ban sự sống trường sinh.
Có nhiều chi tiết trong phép lạ này báo trước về phép Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ lập. Quả vậy, vài ngày sau phép lạ này, trong bài giảng thuyết về bánh sự sống, Ngài tuyên bố là Ngài sẽ ban thịt mình cho người ta ăn và máu Ngài cho người ta uống:”Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Các con hãy cho họ ăn.
I. PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU.
1. Đức Giêsu làm phép lạ.
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một chút sau cuộc truyền giáo đã thấm mệt, đồng thời Thầy trò trao đổi với nhau về công việc vừa qua, nhưng không thể được vì dân chúng kéo đến quá đông, khiến các Ngài không có thời giờ ăn uống. Đức Giêsu muốn đem các ông đến nơi thanh vắng để Thầy trò nghỉ ngơi và chỉ dẫn thêm cho các ông.
Nhưng vừa đến nơi thì dân chúng đã đến trước. Ngài chạnh lòng thương họ, bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ họ. Mà vì đây là nơi rừng vắng, nên dân chúng không tìm được thức ăn. Ngài thương họ đang đói khát nên làm phép lạ cho bánh hóa nhiều. Phép lạ này được kể trong thánh Marcô song Phụng vụ hôm nay mượn ở thánh Gioan.
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành.. Đám môn đệ giờ đây cũng mệt nhoài không hơn gì họ. Thế mà Đức Giêsu lại bảo các Tông đồ hãy cho họ ăn. Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn, giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn.
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
2. Sứ điệp Đức Giêsu gửi đến cho ta.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn mà Đức Giêsu muốn gửi cho chúng ta qua phép lạ này.
a) Tiên báo phép Thánh Thể.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi 5000 người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các” cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
b) Tình thương và quyền năng của Đức Giêsu.
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều của Tin mừng Gioan hôm nay – cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin mừng khác – đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay, thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Êlisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với tiên tri Êlisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: ”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Vietcatholic)
c) Tin vào Chúa quan phòng.
Theo sách Sáng thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý. Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn đdịa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng, phải làm việc cực nhọc mới có của ăn, nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn.
Vì thế, ta thấy tư tưởng này được viết trong sách Kinh Thư mà các dân tộc Đông phương vẫn tin tưởng:”Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc”: Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban cho. Thánh vịnh cũng có câu:”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”(Tv 144,16).
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì chỉ trong năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY CHÚNG TA.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều có mục đích thoả mãn cơn đói khát vật chất của đám dân chúng đi theo Chúa cả một ngày đàng, nhưng còn hơn thế nữa, phép lạ này còn đem lại cho chúng ta nhiều bài học thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
1. Cộng tác vào công trình của Chúa.
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh, nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu:”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”.
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: ”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Truyện: Mẹ Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng.. ..
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước ( Theo M. Link).
2. Cộng tác bằng việc làm cụ thể.
Lòng thương cảm là một tình cảm tốt. Nhưng thương cảm suông thì chưa có giá trị, chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng thương cảm nhiều khi trở thành hình thức hay giả dối, như người ta thường nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
Lòng cảm thương ấy cũng có, nhưng số người ra tay hành động vì lòng thương cảm lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu phương tiện. Các Tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói:”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu, và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Truyện: Thánh Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp mọt số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
3. Phải tiết kiệm những của Chúa ban.
Đức Giêsu đã nói:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận: Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban khi Ngài nói:”Tất cả là hồng ân”. Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy. Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các võ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy (Flor MacCarthy).
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú qúi. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào việc với niềm tin: dù chi với “năm chiếc bánh và 2 con cá”, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Ngài sẽ biến đổi khuôn mặt thế giới nên nhân bản hơn, Ngài sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tốt tươi hơn.
4. Phải tìm của ăn thiêng liêng.
Khi ma qủi đến cám dỗ Đức Giêsu đang chay tịnh trong bốn mươi ngày, Ngài đã trả lời cho hắn:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4). Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng.
Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần, nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất. Tuy người ta chê người lười biếng không chịu làm việc, nhưng cũng nói lên rằng: ăn ngon ngủ kỹ cũng chưa đủ mà còn phải có nhu cầu giải trí nữa:
Ăn no rồi lại nằm quèo,
Thấy giục trống chèo, bế bụng đi chơi.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển. Linh hồn có một nguồn lương thực dồi dào và không bao giờ cạn kiệt, đó là Lời Chúa và Thánh Thể:
- Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Lc 4,4).
- Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,54-55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh lễ Misa. Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ, Chúa ban cho chúng ta được dồi dào sự sống trong hai nguồn sống ấy.
Thánh lễ được chia ra hai phần:
- Phụng vụ lời Chúa: Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời:”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống”(Ga 6,63).
- Phụng vụ Thánh Thể: Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Chúa thiết tha mời gọi: ”Các con hãy nhận lấy mà ăn... Các con hãy nhận lấy mà uống”(Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).
Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Igatiô Loyola yêu chuộng:
“Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa” (M. Link).
Linh Mục và nguồn gốc trong Cựu Ước
LM Matthew Nguyễn Khắc Hy, S.S.
05:42 23/07/2009
Nhân dịp kỉ niệm 150 năm ngày chết của thánh Gioan Vianney, bổn mạng các linh mục, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã công bố Năm Linh Mục bắt đầu từ ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu 19-6-2009 đến 19-6-2010. Chúng tôi sẽ có một số những bài viết về nguồn gốc hình thành, lịch sử phát triển, nền tảng thần học, và những giáo huấn của giáo hội về chức năng Linh Mục trong suốt Năm Linh Mục này. Các bài viết do cha Matthew Nguyễn Khắc Hy S.S., giáo sư đại chủng viện và đại học St. Mary’s phụ trách.
Mở đầu
Trong tập sách nhỏ Được Kêu Gọi Hiệp Thông: Hiểu Về Giáo Hội Ngày Nay,[1] trong phần đầu của chương bốn, Hồng Y Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, đã viết đến những khó khăn khi tìm hiểu về nguồn gốc của chức linh mục. Phần lớn các tài liệu thần học nói đến chức linh mục đều bắt đầu trong thời kì Tân ước, hay đúng hơn là bắt đầu với Chúa Giêsu Kitô.
Sở dĩ như vậy vì chức năng linh mục mà chúng ta đọc thấy trong những giáo huấn hiện đại, hay trong cách hiểu của chúng ta hiện nay, đều nói đến tính cách giáo chức (ecclesiastical office) của chức năng này. Trong lịch sử, những giáo huấn hay cách hiểu này không trùng hợp với chức năng Tư Tế mà Do Thái giáo hiểu trong Cựu Ước. Và tác giả sách Tân Ước cũng không dùng từ “hiereus” để chỉ giáo chức như ta hiểu ngày nay.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái nhiều lần dùng từ “hiereus” là kết hợp sự hiểu biết giữa vai trò Tư Tế trong Cựu Ước với thần học cứu chuộc qua Cuộc Sống, Sự Chết và Sự Sống Lại của Đức Giêsu Kitô (mà thần học gọi tắt là Sự Kiện Vượt Qua – Paschal Event). Nghĩa là, tác giả thư này muốn nói đến Đức Giêsu Kitô là người thi hành chức năng của một Tư Tế được hiểu trong Cựu Ước: là việc Ngài dâng của lễ hi sinh lên Thiên Chúa để xin ơn tha tội.
Chỉ có điều là đến thời kì này, chính Đức Giêsu Kitô là vị Thượng Tế đã dâng của lễ là chính mình để đền tội cho loài người: “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dothái 9:14).[2]
Vì cách hiểu của tác giả Tân Ước khá xa lạ với những gì chúng ta đang hiểu về chức năng linh mục hiện tại, việc tìm hiểu và so sánh chức năng linh mục hiện tại với quá khứ cần được xác định rõ ràng.
Hơn nữa, để tìm lại nguồn gốc lịch sử chức linh mục, nhất là trong hai thế kỉ đầu của giáo hội, chúng ta gặp hai khó khăn chính: a) không có những tài liệu rõ ràng, chính xác và đáng tin cậy ghi lại sự hình thành chức vị này; và b) sự hình thành phẩm trật giáo hội Kitô giáo (hàng giám mục, phó tế và linh mục) diễn tiến theo hình thức đáp ứng những yêu cầu về tổ chức của giáo hội phát triển thời bấy giờ hơn là những gì đã có sẵn hay được ghi lại trong Bốn Tin Mừng.[3]
Trong những bài sắp tới, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguồn gốc hình thành, nền tảng thần học, lịch sử phát triển và những giáo huấn của giáo hội về chức năng và con người linh mục của giáo hội Công giáo. Đồng thời chúng ta cũng so sánh chức năng này giữa giáo hội Công giáo (La Mã) và những giáo phái khác trên thế giới. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu thêm sự khác nhau về căn tính linh mục mà tất cả các Kitô hữu đều lãnh nhận qua bí tích thanh tẩy (rửa tội), hay còn được gọi là “chức tư tế cộng đồng”, và chức linh mục của một số những người được chọn để lãnh nhận trong giáo hội (mà ta gọi là các linh mục/ các cha).
Từ Ngữ
Khó khăn đầu tiên khi học hỏi về chức năng linh mục là vấn đề danh xưng hay từ vựng được dùng để chỉ chức năng này. Trong thần học của giáo hội, những bản dịch kinh thánh sớm nhất từ Hi Lạp sang Latin, các dịch giả dùng từ “sacerdos” (Latin) để dịch từ “hiereus” (Hi Lạp) trong Tân Ước. Cả hai từ này đếu có mang ý nghĩa “hiến tế - cúng dâng lễ vật” và nói đến vai trò của các Tư Tế liên quan đến Đền thờ và các nghi thức tế lễ. Những yếu tố này liên quan đến hình ảnh Tư Tế quen thuộc của Do Thái giáo trong Cựu Ước, hình ảnh của các Tư Tế trong dòng dõi Lêvi dâng lễ trong các đền thờ.
Cũng trong những thế kỉ đầu của giáo hội, danh từ “presbyteros” (Hi Lạp) hay “presbyter” (Latin) được dùng đồng nghĩa với “hiereus” trong giáo hội Công giáo để chỉ những người làm chức năng tư tế.
Thực ra, danh từ “presbyteros” nguyên nghĩa là “người già/ người lớn tuổi” (mà thỉnh thoảng trong thánh kinh Việt Nam dịch là “trưởng lão”). Những “presbyteroi (số nhiều)” này không là những Tư Tế. Trong lịch sử Do Thái giáo, “presbyteros” đóng vai trò cố vấn hay lãnh đạo một cộng đoàn hơn là làm công việc tế tự (i.e, dâng của lễ). Vì thế, những Kitô hữu tiên khởi gọi những vị lãnh đạo trong giáo hội của họ là “presbyteros” hay “espiskopos” (từ episkopos ngày nay dịch là giám mục; từ presbyteros ngày nay ta thường lịch là linh mục. Trong thời kì đầu của giáo hội, hai danh từ này được dùng đồng nghiã với nhau để chỉ một chức vụ hay con người). [4]
Trở lại tiếng Việt Nam, chúng ta dùng danh từ “linh mục” để dịch từ “sacerdos” hay “presbyter” (mà tiếng Anh dịch ra là Priest và tiếng Pháp Prêtre) thì hoàn toàn không lột tả được những yêu cầu về ý nghiã thần học của nó. Vì từ “sacerdos” hay “presbyter” mang ý nghĩa Tư Tế, còn từ “linh mục” mang ý nghiã “coi sóc các linh hồn”. Từ “linh mục gắn liền với chức năng mục vụ (dịch sát nghiã theo danh từ “pastor” là người chăn chiên, là mục tử.)[5]
Vì tiếng Việt Nam đã dùng từ “Linh Mục” quá phổ biến để nói đến các “Priests - hay Prêtres”, người viết cũng sẽ dùng danh từ này cho quen thuộc với độc giả, mặc dù danh từ này không lột tả được ý nghĩa thần học muốn nói. Phần lớn ý nghĩa thần học của chức năng linh mục trong những bài viết này được hiểu theo nghiã Tư Tế hơn là Mục Tử.
Nguồn Gốc Chức Năng Linh Mục Trong Cựu Ước
Hầu hết các bài viết về thần học tìm hiểu chức năng linh mục như giáo hội Công giáo hiểu ngày nay đều bắt đầu bằng việc trở lại trong Tân Ước, vì hai lí do: (1) nói đến chức linh mục trong Tân Ước, tác giả thư gởi tín hữu Do thái liên kết chức năng này với Chúa Giêsu Kitô là vị Thượng Tế (Heb 3:1) (hay có người gọi là Chúa Kitô Linh Mục Thượng Phẩm); (2) hình ảnh và chức năng linh mục mà tác giả thư gởi Do Thái nói đến rất khác với hình ảnh và chức năng Tư Tế của Do thái giáo trong Cựu Ước.
Tuy nhiên, chúng ta không thể hiểu chức năng linh mục bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô Linh Mục trong Tân Ước, mà không thấy sự liên hệ của chức năng này trong Cựu Ước.
Trong Cựu Ước, chức năng Tư Tế có nhiều giai đoạn hình thành khác nhau nên được hiểu bằng nhiều cách khác nhau.
Trong thời kì sơ khai, chức Tư Tế không là một giai cấp riêng biệt. Thời kì các đấng tổ phụ, thường là những người cha trong gia đình, làm công việc của vị Tư Tế như dâng cúng lễ vật hi sinh (xem Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac trong Gen 22:2; hay Jacob dâng tế lễ Gen 31:54).[6] Khi xã hội Israel phát triển và có tổ chức chặt chẽ, dân Israel bắt đầu thiết lập phẩm trật với một chức năng Tư Tế riêng, và có tính cách chuyên môn.
Lần đầu tiên kinh thánh nhắc đến chức năng chuyên môn và riêng biệt của Tư Tế Aaron trong Sách Xuất Hành “Phần ngươi, hãy tách Aharon, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: Aharon và các con của Aharon là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma.” (Exo 28:1). Và luật lệ cũng qui định là chỉ có những người thuộc dòng dõi Aaron trong chi họ Levi mới được thực hiện những nghi lễ hiến tế trong Đền Thờ và trước Lều Tạm (Num 3:32; 25:11ff; 35:25, 38; Neh 12:10-12).
Câu hỏi được đặt ra là tại sao con cháu Aaron, chi họ Lêvi, được Thiên Chúa chọn? Có nhiều giải thích khác nhau, nhưng giải thích được nhiều người tán thành là vì chi họ Lêvi là những tôi tớ trung thành canh giữ Lều Tạm Chúa, và cũng là những người trung thành với Môisê khi nhiều người Israel bỏ Yahweh để thờ bò vàng (Exo 32:26-29). Lòng trung thành là nguyên nhân phần thưởng Chúa chọn.
Khi chức năng Tư Tế trở nên chuyên môn, bản thân các Tư Tế cũng đòi hỏi kiến thức và tài năng,[7] và một chi họ được Thiên Chúa chọn (họ Levi) để làm công việc này.[8]
Ý nghĩa thần học chức năng Tư Tế của chi họ Lêvi có nhiều liên quan đến việc tìm hiểu chức năng Tư Tế được nói đến trong Tân Ước.
Trong Cựu Ước, các chức năng Tiên tri, Quan Án và Vua không là “Ơn Gọi” hay “Đặc Sủng” (charism) như ta hiểu ngày nay. Họ là những người được Thiên Chúa ban cho những ân huệ và được Thiên Chúa gọi để làm các chức vụ này. Riêng với chức Tư Tế thì Thiên Chúa không chỉ chọn từng cá nhân mà chọn một dòng họ (chi họ) Levi. Vì thế Tư Tế phải là người sinh ra trong dòng họ Levi. Nếu hiểu theo nghĩa là Thiên Chúa chọn các Tư Tế thì phải hiểu là Ngài đã quan phòng cho họ được sinh ra trong dòng họ Levi. Có như thế ta mới hiểu được đoạn kinh thánh trong thư gởi tín hữu Do thái 5:1, 4 “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội….. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi.”
Cũng với quan niệm chức năng Tư Tế, trong Cựu Ước toàn dân Israel được gọi “là một vương quốc tư tế, một dân thánh.” (Exo 19:6). Vì thế, các vị Tư Tế, dù không được kêu gọi theo nghĩa “Ơn Kêu Gọi” ngày nay, các vị này cũng đòi hỏi phải sống thánh thiện, vì cả một dân tộc là thánh (Lev 19:2)
Hơn nữa, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lev 19:2), nên những nghi thức dâng lên Ngài đòi hỏi phải thánh. Nói chung, tất cả những gì liên quan đến nghi thức tế lễ cho Thiên Chúa đều phải được thánh hiến.
Quan trọng nhất là con người (các Tư Tế) phải là người của sự thánh thiện: Sách Lêvi nói: “Chúng sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên ĐỨC CHÚA các lễ hoả tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện…. Ngươi phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Đấng Thánh, Ta, ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá các ngươi.” (Levi 21:1-8). Họ buộc phải giữ mình thanh sạch trước khi dâng của lễ, như phải tắm rửa theo luật qui định, phải đeo dây hay mặc y phục như nghi thức đòi hỏi, họ phải kiêng khem việc vợ chồng trong thời gian thi hành chức vụ chủ lễ.
Công Việc của Các Tư Tế Trong Cựu Ước
Trong sách Đệ Nhị Luật, nói đến Ba chức năng căn bản của Tư Tế (Deut 33:8-10).
Thứ nhất là Kiếm Tìm Ý Chúa và Loan Báo cho dân biết. Trong cung thánh của Đền Thờ, các Tư Tế bốc thăm thẻ Urim và Thummin, đây là một hình thức tìm ý Chúa qua những lá thăm chọn lựa, muốn biết ý Chúa nói gì trong hoàn cảnh cụ thể (1 Sam 14:41-42). Với người dân Israel, họ vào cung thánh Đền Thờ là để “tìm kiếm ý Chúa” mà các Tư Tế là những dụng cụ Thiên Chúa dùng để mặc khải cho dân chúng.
Trong thời quân chủ, chức năng này mai một dần vì chức năng Tiên Tri chiếm dần vai trò bày tỏ ý định của Thiên Chúa cho dân hay cho nhà vua thay vì vị Tư Tế, nghĩa là những Ngôn Sứ này nói nhân danh Chúa. Đến thời kì gọi là Đền Thờ Thứ Hai (sau khi lưu đày ở Babaylon, khoảng 536 B.C) chức năng Tư Tế với tư cách “nói nhân danh Chúa” dần dần mất ảnh hưởng; và đến thể kỉ 2 B.C. thì gần như không còn nữa, nhường lại cho các Tiên Tri.[9]
Dù ngày nay chức năng Tư Tế trong Do thái giáo không còn là người truyền đạt ý định Thiên Chúa cho dân, nhưng ta cũng không quên là trong quá khứ, đây là một phần quan trọng cúa chức năng này. Và việc này ảnh hưởng đến cách thức Kitô hữu hiểu về chức năng Linh Muc sau này.
Thứ hai là chức năng Giảng Dạy được nhắc trong Đệ Nhị Luật 33:10 “Họ dạy những quyết định của Ngài cho nhà Giacóp, luật của Ngài cho Ítraen.” Luật của Thiên Chúa được các Tư Tế giảng dạy, truyền đạt cho dân (xem Jer 18:18). “Thật vậy, môi của tư tế chất chứa sự hiểu biết và người ta tìm điều Luật dạy nơi miệng nó.” (Mal 2:6).
Cũng nên biết rằng đối với đạo Do Thái, luật của Chúa là trọng tâm đời sống tín hữu. Luật được ghi khắc trong tâm khảm mọi người, là mẫu mực và luôn được nhắc đến trong mọi sinh hoạt cuộc sống. Có thế ta mới hiểu được tầm quan trọng của người dạy Luật cho dân chúng. Môisê nói: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em)…. Mệnh lệnh đó không ở trên trời…không ở bên kia biển… lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.” (Deut 30:11-14).
Và cũng vào cuối thời kì Đền Thờ Thứ Hai, chức năng Dạy này cũng mất dần, và chuyển sang cho một nhóm khác là Rabbi (nghĩa đen là Thầy Dạy). Chính Chúa Giêsu cũng được các môn đệ và người khác gọi là Rabbi - Thầy.
Điều đáng chú ý với giáo dân Do Thái bấy giờ là Tư Tế hay Rabbi, khi đã dạy thì không phân biệt đạo với đời, vì tôn giáo và xã hội được đồng hoá trong cùng một tổ chức. Vì thế Thầy Dạy được kính trọng như những người khai sáng tâm trí cho người khác cả đạo và đời.
Thứ ba là chức năng Dâng Cúng những lễ vật hi sinh và dâng hương lên Thiên Chúa. Trong Đệ Nhị Luật nói: “Họ dâng hương thơm để Ngài thưởng thức, và lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài” (Deut 33:10).
Vì hai chức năng trước đã chuyển qua cho Tiên Tri và các Rabbi, nên chỉ còn chức năng này là chính yếu cho công việc của các Tư Tế. Nhiều người chỉ hiểu một chức năng này của Tư Tế trong Cựu Ước, nên khi học về chức năng Linh Mục trong Tân Ước, họ lầm tưởng Linh Mục cũng chỉ hiến dâng lễ vật mà thôi.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái viết: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Heb 5:1). Tư tưởng “làm đại diện cho loài người" nói lên những đối tác giữa Thiên Chúa và con người.
Trong ba chức năng đã nói ở trên (Tìm kiếm và truyền đạt ý Chúa - Giảng Dạy – Dâng Hiến Lễ Vật), hai chức năng đầu nói đến tương quan theo chiều dọc từ trên xuống, nghĩa là từ Thiên Chúa đến với con người, và chức năng thứ ba là từ con người đến với Thiên Chúa.
Mẫu số chung của cả chức năng là vị Tư Tế chính là người trung gian, là nhịp cầu bang giao giữa Thiên Chúa và con người. Đây cũng là tư tưởng để hiểu chức năng Tư Tế của Chúa Giêsu, và với một hình thức mở rộng, của chức năng linh mục trong giáo hội ngày nay.
Tóm lại, dù chức năng Tư Tế trong Cựu Ước có nhiều điểm xa lạ đối với chức năng linh mục trong giáo hội ngày nay, chúng ta không thể hiểu chức năng Tư Tế của Chúa Giêsu nếu không hiểu chức năng Tư Tế trong Cựu Ước thế nào, và dĩ nhiên ta không thể hiểu chức năng linh mục ngày nay nếu không hiểu chức năng Tư Tế Chúa Giêsu thế nào.
Chú thích:
[1] Nguyên tác là “Zur Gemeinschaft gerufen: Kirche heute verstehen” (Herder, Freiburg im Breisgau, 1991).
[2] Chúng ta sẽ tìm hiếu thêm về chức năng Tư Tế mà tác giả nói đến Chúa Giêsu Kitô trong thư gởi Do Thái trong một bài sau này. Xin đọc thêm thêm Heb 9:11-14; 9:28; 10:8-18.
[3] Trong Bốn Tin Mừng (Mt, Mk, Lk, Jn) không hề nhắc đến từ “hiereus -Tư Tế” (priest) hay chức năng Tư Tế (priesthood) của Chúa Giêsu hay của các tông đồ, nhưng trong Công Vụ Tông Đồ và nhất là thư của Phaolô và Phêrô nói đến chức năng giám mục (episkopos) và phó tế (diakonos) khá rõ ràng. Chức linh mục (như “sacerdos” mà ta hiểu ngày nay) thì tìm thấy trong tài liệu các thánh Giáo phụ chứ không thấy trong Tân Ước.
[4] Trong những thư của thánh Phaolô, Ngài dùng danh từ “espiscopos” và không bao giờ dùng từ “presbyteros” để nói đến vai trò lãnh đạo của những “trưởng lão”, hay những người đứng đầu cộng đoàn. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, Luca dùng cả hai danh từ, nhưng từ “presbyteros” nhiều hơn “episkopos”. Trong những bài viết về lịch sử Linh Mục trong Tân Ước, tôi sẽ giải thích rõ hơn về mối tương quan của hai từ này.
[5] Người Công Giáo Trung Hoa gọi “Linh Mục” là 神父(神 có nghĩa là “thần” hay còn có nghĩa là “thiêng” như 精神的 hay灵性的. Còn từ 父 là “người cha.) Họ gọi linh mục là “người cha thiêng liêng”. Tiếng Việt cũng hiểu theo nghiã này: linh mục là người coi sóc thiêng liêng, hay coi sóc phần hồn. Từ “Linh Mục” được dịch nghiêng theo nghĩa của từ “Pastor (Latin)” có nghĩa là “vị mục tử” hơn là từ “sacerdos” có nghĩa là “một tư tế dâng hi lễ.” Một bên nặng về thần học nói đến chức năng cứu độ (Tư Tế), một bên nặng về quản trị mục vụ của cộng đoàn (Mục Tử chăn đoàn chiên).
[6] Ta có thể đọc thêm chuyện ông Micah trong sách Thủ Lãnh để biết ông đã đặt con trai ông là chức tư tế. Nhưng khi hay biết có một người dòng họ Lêvi ghé qua, ông đã trao trách vụ tế tự này cho người Lêvi đó (xem Thủ Lãnh 17:1-13). Hoặc chuyện Gideon (Thủ Lãnh 6:20-28) và tiên tri Elijah (I Các Vua 18:30-38) để biết rằng những người này dâng hiến lễ cho Chúa nhưng không là Tư Tế. Nhiều nhà chuyên môn cho rằng phẩm trật Tư Tế phát triển mạnh vào cuối thời kì gọi là Đền Thờ Thứ Nhất (khoảng thế kỉ 7 B.C.). Nhiều người khác cho rằng có sự khác nhau giữa vai trò người dân dâng hiến lễ và Tư Tế dâng hiến lễ trong một thời gian khá dài (từ thế kỉ 11 đến thế kỉ 7 B.C.). Với những người này, họ tin là người dâng có thể chủ sự dâng lễ vật trên các Bàn Thờ ngoài Đền Thờ. Đến thời kì cải cách tôn giáo của vua Josiah xứ Judah (khoảng 622 B. C.), những nghi thức dâng lễ vật trên bàn thờ ngoài đền thờ bị cấm, và những hi lễ phải được dâng trong Đền Thờ Jerusalem. Lúc này thì vai trò chủ lễ trong Đền Thờ chỉ dành cho Tư Tế mà thôi.
[7] Từ chuyên môn đây không có nghiã thương mại, nhưng nói đến người được giao trách nhiệm dành nhiều thời gian và trí lực cho việc nhà chúa. Họ nghi thức hoá các cách thức tế tự, và đưa thành luật hay lệ những cử điệu, trang phục, của lễ v.v…
[8] Khi chi tộc Levi được chọn làm chi tộc chuyên giữ chức vụ Tư Tế, họ sống nhờ vào chức năng chuyên môn Tư Tế của mình, nhờ vào tiền của dâng cúng của tín hữu, và không có tên trong danh sách chia Đất Hứa của dân Israel, vì không phải đất nhưng Chúa là gia nghiệp của họ. Sách Dân Số ghi: “ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron: "Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en. Đây Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp, vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ.” (Num 18:20-21).
[9] Vì thế chúng ta đọc thấy trong sách Ezra 2:63 và trong Nơkhemmia 7:65 ám chỉ: “Quan tổng đốc cấm họ không được ăn của thánh cho đến khi có một tư tế đứng lên xem thẻ xăm u-rim và tum-mim.”
Mở đầu
Trong tập sách nhỏ Được Kêu Gọi Hiệp Thông: Hiểu Về Giáo Hội Ngày Nay,[1] trong phần đầu của chương bốn, Hồng Y Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, đã viết đến những khó khăn khi tìm hiểu về nguồn gốc của chức linh mục. Phần lớn các tài liệu thần học nói đến chức linh mục đều bắt đầu trong thời kì Tân ước, hay đúng hơn là bắt đầu với Chúa Giêsu Kitô.
Sở dĩ như vậy vì chức năng linh mục mà chúng ta đọc thấy trong những giáo huấn hiện đại, hay trong cách hiểu của chúng ta hiện nay, đều nói đến tính cách giáo chức (ecclesiastical office) của chức năng này. Trong lịch sử, những giáo huấn hay cách hiểu này không trùng hợp với chức năng Tư Tế mà Do Thái giáo hiểu trong Cựu Ước. Và tác giả sách Tân Ước cũng không dùng từ “hiereus” để chỉ giáo chức như ta hiểu ngày nay.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái nhiều lần dùng từ “hiereus” là kết hợp sự hiểu biết giữa vai trò Tư Tế trong Cựu Ước với thần học cứu chuộc qua Cuộc Sống, Sự Chết và Sự Sống Lại của Đức Giêsu Kitô (mà thần học gọi tắt là Sự Kiện Vượt Qua – Paschal Event). Nghĩa là, tác giả thư này muốn nói đến Đức Giêsu Kitô là người thi hành chức năng của một Tư Tế được hiểu trong Cựu Ước: là việc Ngài dâng của lễ hi sinh lên Thiên Chúa để xin ơn tha tội.
Chỉ có điều là đến thời kì này, chính Đức Giêsu Kitô là vị Thượng Tế đã dâng của lễ là chính mình để đền tội cho loài người: “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dothái 9:14).[2]
Vì cách hiểu của tác giả Tân Ước khá xa lạ với những gì chúng ta đang hiểu về chức năng linh mục hiện tại, việc tìm hiểu và so sánh chức năng linh mục hiện tại với quá khứ cần được xác định rõ ràng.
Hơn nữa, để tìm lại nguồn gốc lịch sử chức linh mục, nhất là trong hai thế kỉ đầu của giáo hội, chúng ta gặp hai khó khăn chính: a) không có những tài liệu rõ ràng, chính xác và đáng tin cậy ghi lại sự hình thành chức vị này; và b) sự hình thành phẩm trật giáo hội Kitô giáo (hàng giám mục, phó tế và linh mục) diễn tiến theo hình thức đáp ứng những yêu cầu về tổ chức của giáo hội phát triển thời bấy giờ hơn là những gì đã có sẵn hay được ghi lại trong Bốn Tin Mừng.[3]
Trong những bài sắp tới, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguồn gốc hình thành, nền tảng thần học, lịch sử phát triển và những giáo huấn của giáo hội về chức năng và con người linh mục của giáo hội Công giáo. Đồng thời chúng ta cũng so sánh chức năng này giữa giáo hội Công giáo (La Mã) và những giáo phái khác trên thế giới. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu thêm sự khác nhau về căn tính linh mục mà tất cả các Kitô hữu đều lãnh nhận qua bí tích thanh tẩy (rửa tội), hay còn được gọi là “chức tư tế cộng đồng”, và chức linh mục của một số những người được chọn để lãnh nhận trong giáo hội (mà ta gọi là các linh mục/ các cha).
Từ Ngữ
Khó khăn đầu tiên khi học hỏi về chức năng linh mục là vấn đề danh xưng hay từ vựng được dùng để chỉ chức năng này. Trong thần học của giáo hội, những bản dịch kinh thánh sớm nhất từ Hi Lạp sang Latin, các dịch giả dùng từ “sacerdos” (Latin) để dịch từ “hiereus” (Hi Lạp) trong Tân Ước. Cả hai từ này đếu có mang ý nghĩa “hiến tế - cúng dâng lễ vật” và nói đến vai trò của các Tư Tế liên quan đến Đền thờ và các nghi thức tế lễ. Những yếu tố này liên quan đến hình ảnh Tư Tế quen thuộc của Do Thái giáo trong Cựu Ước, hình ảnh của các Tư Tế trong dòng dõi Lêvi dâng lễ trong các đền thờ.
Cũng trong những thế kỉ đầu của giáo hội, danh từ “presbyteros” (Hi Lạp) hay “presbyter” (Latin) được dùng đồng nghĩa với “hiereus” trong giáo hội Công giáo để chỉ những người làm chức năng tư tế.
Thực ra, danh từ “presbyteros” nguyên nghĩa là “người già/ người lớn tuổi” (mà thỉnh thoảng trong thánh kinh Việt Nam dịch là “trưởng lão”). Những “presbyteroi (số nhiều)” này không là những Tư Tế. Trong lịch sử Do Thái giáo, “presbyteros” đóng vai trò cố vấn hay lãnh đạo một cộng đoàn hơn là làm công việc tế tự (i.e, dâng của lễ). Vì thế, những Kitô hữu tiên khởi gọi những vị lãnh đạo trong giáo hội của họ là “presbyteros” hay “espiskopos” (từ episkopos ngày nay dịch là giám mục; từ presbyteros ngày nay ta thường lịch là linh mục. Trong thời kì đầu của giáo hội, hai danh từ này được dùng đồng nghiã với nhau để chỉ một chức vụ hay con người). [4]
Trở lại tiếng Việt Nam, chúng ta dùng danh từ “linh mục” để dịch từ “sacerdos” hay “presbyter” (mà tiếng Anh dịch ra là Priest và tiếng Pháp Prêtre) thì hoàn toàn không lột tả được những yêu cầu về ý nghiã thần học của nó. Vì từ “sacerdos” hay “presbyter” mang ý nghĩa Tư Tế, còn từ “linh mục” mang ý nghiã “coi sóc các linh hồn”. Từ “linh mục gắn liền với chức năng mục vụ (dịch sát nghiã theo danh từ “pastor” là người chăn chiên, là mục tử.)[5]
Vì tiếng Việt Nam đã dùng từ “Linh Mục” quá phổ biến để nói đến các “Priests - hay Prêtres”, người viết cũng sẽ dùng danh từ này cho quen thuộc với độc giả, mặc dù danh từ này không lột tả được ý nghĩa thần học muốn nói. Phần lớn ý nghĩa thần học của chức năng linh mục trong những bài viết này được hiểu theo nghiã Tư Tế hơn là Mục Tử.
Nguồn Gốc Chức Năng Linh Mục Trong Cựu Ước
Hầu hết các bài viết về thần học tìm hiểu chức năng linh mục như giáo hội Công giáo hiểu ngày nay đều bắt đầu bằng việc trở lại trong Tân Ước, vì hai lí do: (1) nói đến chức linh mục trong Tân Ước, tác giả thư gởi tín hữu Do thái liên kết chức năng này với Chúa Giêsu Kitô là vị Thượng Tế (Heb 3:1) (hay có người gọi là Chúa Kitô Linh Mục Thượng Phẩm); (2) hình ảnh và chức năng linh mục mà tác giả thư gởi Do Thái nói đến rất khác với hình ảnh và chức năng Tư Tế của Do thái giáo trong Cựu Ước.
Tuy nhiên, chúng ta không thể hiểu chức năng linh mục bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô Linh Mục trong Tân Ước, mà không thấy sự liên hệ của chức năng này trong Cựu Ước.
Trong Cựu Ước, chức năng Tư Tế có nhiều giai đoạn hình thành khác nhau nên được hiểu bằng nhiều cách khác nhau.
Trong thời kì sơ khai, chức Tư Tế không là một giai cấp riêng biệt. Thời kì các đấng tổ phụ, thường là những người cha trong gia đình, làm công việc của vị Tư Tế như dâng cúng lễ vật hi sinh (xem Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac trong Gen 22:2; hay Jacob dâng tế lễ Gen 31:54).[6] Khi xã hội Israel phát triển và có tổ chức chặt chẽ, dân Israel bắt đầu thiết lập phẩm trật với một chức năng Tư Tế riêng, và có tính cách chuyên môn.
Lần đầu tiên kinh thánh nhắc đến chức năng chuyên môn và riêng biệt của Tư Tế Aaron trong Sách Xuất Hành “Phần ngươi, hãy tách Aharon, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: Aharon và các con của Aharon là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma.” (Exo 28:1). Và luật lệ cũng qui định là chỉ có những người thuộc dòng dõi Aaron trong chi họ Levi mới được thực hiện những nghi lễ hiến tế trong Đền Thờ và trước Lều Tạm (Num 3:32; 25:11ff; 35:25, 38; Neh 12:10-12).
Câu hỏi được đặt ra là tại sao con cháu Aaron, chi họ Lêvi, được Thiên Chúa chọn? Có nhiều giải thích khác nhau, nhưng giải thích được nhiều người tán thành là vì chi họ Lêvi là những tôi tớ trung thành canh giữ Lều Tạm Chúa, và cũng là những người trung thành với Môisê khi nhiều người Israel bỏ Yahweh để thờ bò vàng (Exo 32:26-29). Lòng trung thành là nguyên nhân phần thưởng Chúa chọn.
Khi chức năng Tư Tế trở nên chuyên môn, bản thân các Tư Tế cũng đòi hỏi kiến thức và tài năng,[7] và một chi họ được Thiên Chúa chọn (họ Levi) để làm công việc này.[8]
Ý nghĩa thần học chức năng Tư Tế của chi họ Lêvi có nhiều liên quan đến việc tìm hiểu chức năng Tư Tế được nói đến trong Tân Ước.
Trong Cựu Ước, các chức năng Tiên tri, Quan Án và Vua không là “Ơn Gọi” hay “Đặc Sủng” (charism) như ta hiểu ngày nay. Họ là những người được Thiên Chúa ban cho những ân huệ và được Thiên Chúa gọi để làm các chức vụ này. Riêng với chức Tư Tế thì Thiên Chúa không chỉ chọn từng cá nhân mà chọn một dòng họ (chi họ) Levi. Vì thế Tư Tế phải là người sinh ra trong dòng họ Levi. Nếu hiểu theo nghĩa là Thiên Chúa chọn các Tư Tế thì phải hiểu là Ngài đã quan phòng cho họ được sinh ra trong dòng họ Levi. Có như thế ta mới hiểu được đoạn kinh thánh trong thư gởi tín hữu Do thái 5:1, 4 “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội….. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi.”
Cũng với quan niệm chức năng Tư Tế, trong Cựu Ước toàn dân Israel được gọi “là một vương quốc tư tế, một dân thánh.” (Exo 19:6). Vì thế, các vị Tư Tế, dù không được kêu gọi theo nghĩa “Ơn Kêu Gọi” ngày nay, các vị này cũng đòi hỏi phải sống thánh thiện, vì cả một dân tộc là thánh (Lev 19:2)
Hơn nữa, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lev 19:2), nên những nghi thức dâng lên Ngài đòi hỏi phải thánh. Nói chung, tất cả những gì liên quan đến nghi thức tế lễ cho Thiên Chúa đều phải được thánh hiến.
Quan trọng nhất là con người (các Tư Tế) phải là người của sự thánh thiện: Sách Lêvi nói: “Chúng sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên ĐỨC CHÚA các lễ hoả tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện…. Ngươi phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Đấng Thánh, Ta, ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá các ngươi.” (Levi 21:1-8). Họ buộc phải giữ mình thanh sạch trước khi dâng của lễ, như phải tắm rửa theo luật qui định, phải đeo dây hay mặc y phục như nghi thức đòi hỏi, họ phải kiêng khem việc vợ chồng trong thời gian thi hành chức vụ chủ lễ.
Công Việc của Các Tư Tế Trong Cựu Ước
Trong sách Đệ Nhị Luật, nói đến Ba chức năng căn bản của Tư Tế (Deut 33:8-10).
Thứ nhất là Kiếm Tìm Ý Chúa và Loan Báo cho dân biết. Trong cung thánh của Đền Thờ, các Tư Tế bốc thăm thẻ Urim và Thummin, đây là một hình thức tìm ý Chúa qua những lá thăm chọn lựa, muốn biết ý Chúa nói gì trong hoàn cảnh cụ thể (1 Sam 14:41-42). Với người dân Israel, họ vào cung thánh Đền Thờ là để “tìm kiếm ý Chúa” mà các Tư Tế là những dụng cụ Thiên Chúa dùng để mặc khải cho dân chúng.
Trong thời quân chủ, chức năng này mai một dần vì chức năng Tiên Tri chiếm dần vai trò bày tỏ ý định của Thiên Chúa cho dân hay cho nhà vua thay vì vị Tư Tế, nghĩa là những Ngôn Sứ này nói nhân danh Chúa. Đến thời kì gọi là Đền Thờ Thứ Hai (sau khi lưu đày ở Babaylon, khoảng 536 B.C) chức năng Tư Tế với tư cách “nói nhân danh Chúa” dần dần mất ảnh hưởng; và đến thể kỉ 2 B.C. thì gần như không còn nữa, nhường lại cho các Tiên Tri.[9]
Dù ngày nay chức năng Tư Tế trong Do thái giáo không còn là người truyền đạt ý định Thiên Chúa cho dân, nhưng ta cũng không quên là trong quá khứ, đây là một phần quan trọng cúa chức năng này. Và việc này ảnh hưởng đến cách thức Kitô hữu hiểu về chức năng Linh Muc sau này.
Thứ hai là chức năng Giảng Dạy được nhắc trong Đệ Nhị Luật 33:10 “Họ dạy những quyết định của Ngài cho nhà Giacóp, luật của Ngài cho Ítraen.” Luật của Thiên Chúa được các Tư Tế giảng dạy, truyền đạt cho dân (xem Jer 18:18). “Thật vậy, môi của tư tế chất chứa sự hiểu biết và người ta tìm điều Luật dạy nơi miệng nó.” (Mal 2:6).
Cũng nên biết rằng đối với đạo Do Thái, luật của Chúa là trọng tâm đời sống tín hữu. Luật được ghi khắc trong tâm khảm mọi người, là mẫu mực và luôn được nhắc đến trong mọi sinh hoạt cuộc sống. Có thế ta mới hiểu được tầm quan trọng của người dạy Luật cho dân chúng. Môisê nói: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em)…. Mệnh lệnh đó không ở trên trời…không ở bên kia biển… lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.” (Deut 30:11-14).
Và cũng vào cuối thời kì Đền Thờ Thứ Hai, chức năng Dạy này cũng mất dần, và chuyển sang cho một nhóm khác là Rabbi (nghĩa đen là Thầy Dạy). Chính Chúa Giêsu cũng được các môn đệ và người khác gọi là Rabbi - Thầy.
Điều đáng chú ý với giáo dân Do Thái bấy giờ là Tư Tế hay Rabbi, khi đã dạy thì không phân biệt đạo với đời, vì tôn giáo và xã hội được đồng hoá trong cùng một tổ chức. Vì thế Thầy Dạy được kính trọng như những người khai sáng tâm trí cho người khác cả đạo và đời.
Thứ ba là chức năng Dâng Cúng những lễ vật hi sinh và dâng hương lên Thiên Chúa. Trong Đệ Nhị Luật nói: “Họ dâng hương thơm để Ngài thưởng thức, và lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài” (Deut 33:10).
Vì hai chức năng trước đã chuyển qua cho Tiên Tri và các Rabbi, nên chỉ còn chức năng này là chính yếu cho công việc của các Tư Tế. Nhiều người chỉ hiểu một chức năng này của Tư Tế trong Cựu Ước, nên khi học về chức năng Linh Mục trong Tân Ước, họ lầm tưởng Linh Mục cũng chỉ hiến dâng lễ vật mà thôi.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái viết: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Heb 5:1). Tư tưởng “làm đại diện cho loài người" nói lên những đối tác giữa Thiên Chúa và con người.
Trong ba chức năng đã nói ở trên (Tìm kiếm và truyền đạt ý Chúa - Giảng Dạy – Dâng Hiến Lễ Vật), hai chức năng đầu nói đến tương quan theo chiều dọc từ trên xuống, nghĩa là từ Thiên Chúa đến với con người, và chức năng thứ ba là từ con người đến với Thiên Chúa.
Mẫu số chung của cả chức năng là vị Tư Tế chính là người trung gian, là nhịp cầu bang giao giữa Thiên Chúa và con người. Đây cũng là tư tưởng để hiểu chức năng Tư Tế của Chúa Giêsu, và với một hình thức mở rộng, của chức năng linh mục trong giáo hội ngày nay.
Tóm lại, dù chức năng Tư Tế trong Cựu Ước có nhiều điểm xa lạ đối với chức năng linh mục trong giáo hội ngày nay, chúng ta không thể hiểu chức năng Tư Tế của Chúa Giêsu nếu không hiểu chức năng Tư Tế trong Cựu Ước thế nào, và dĩ nhiên ta không thể hiểu chức năng linh mục ngày nay nếu không hiểu chức năng Tư Tế Chúa Giêsu thế nào.
Chú thích:
[1] Nguyên tác là “Zur Gemeinschaft gerufen: Kirche heute verstehen” (Herder, Freiburg im Breisgau, 1991).
[2] Chúng ta sẽ tìm hiếu thêm về chức năng Tư Tế mà tác giả nói đến Chúa Giêsu Kitô trong thư gởi Do Thái trong một bài sau này. Xin đọc thêm thêm Heb 9:11-14; 9:28; 10:8-18.
[3] Trong Bốn Tin Mừng (Mt, Mk, Lk, Jn) không hề nhắc đến từ “hiereus -Tư Tế” (priest) hay chức năng Tư Tế (priesthood) của Chúa Giêsu hay của các tông đồ, nhưng trong Công Vụ Tông Đồ và nhất là thư của Phaolô và Phêrô nói đến chức năng giám mục (episkopos) và phó tế (diakonos) khá rõ ràng. Chức linh mục (như “sacerdos” mà ta hiểu ngày nay) thì tìm thấy trong tài liệu các thánh Giáo phụ chứ không thấy trong Tân Ước.
[4] Trong những thư của thánh Phaolô, Ngài dùng danh từ “espiscopos” và không bao giờ dùng từ “presbyteros” để nói đến vai trò lãnh đạo của những “trưởng lão”, hay những người đứng đầu cộng đoàn. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, Luca dùng cả hai danh từ, nhưng từ “presbyteros” nhiều hơn “episkopos”. Trong những bài viết về lịch sử Linh Mục trong Tân Ước, tôi sẽ giải thích rõ hơn về mối tương quan của hai từ này.
[5] Người Công Giáo Trung Hoa gọi “Linh Mục” là 神父(神 có nghĩa là “thần” hay còn có nghĩa là “thiêng” như 精神的 hay灵性的. Còn từ 父 là “người cha.) Họ gọi linh mục là “người cha thiêng liêng”. Tiếng Việt cũng hiểu theo nghiã này: linh mục là người coi sóc thiêng liêng, hay coi sóc phần hồn. Từ “Linh Mục” được dịch nghiêng theo nghĩa của từ “Pastor (Latin)” có nghĩa là “vị mục tử” hơn là từ “sacerdos” có nghĩa là “một tư tế dâng hi lễ.” Một bên nặng về thần học nói đến chức năng cứu độ (Tư Tế), một bên nặng về quản trị mục vụ của cộng đoàn (Mục Tử chăn đoàn chiên).
[6] Ta có thể đọc thêm chuyện ông Micah trong sách Thủ Lãnh để biết ông đã đặt con trai ông là chức tư tế. Nhưng khi hay biết có một người dòng họ Lêvi ghé qua, ông đã trao trách vụ tế tự này cho người Lêvi đó (xem Thủ Lãnh 17:1-13). Hoặc chuyện Gideon (Thủ Lãnh 6:20-28) và tiên tri Elijah (I Các Vua 18:30-38) để biết rằng những người này dâng hiến lễ cho Chúa nhưng không là Tư Tế. Nhiều nhà chuyên môn cho rằng phẩm trật Tư Tế phát triển mạnh vào cuối thời kì gọi là Đền Thờ Thứ Nhất (khoảng thế kỉ 7 B.C.). Nhiều người khác cho rằng có sự khác nhau giữa vai trò người dân dâng hiến lễ và Tư Tế dâng hiến lễ trong một thời gian khá dài (từ thế kỉ 11 đến thế kỉ 7 B.C.). Với những người này, họ tin là người dâng có thể chủ sự dâng lễ vật trên các Bàn Thờ ngoài Đền Thờ. Đến thời kì cải cách tôn giáo của vua Josiah xứ Judah (khoảng 622 B. C.), những nghi thức dâng lễ vật trên bàn thờ ngoài đền thờ bị cấm, và những hi lễ phải được dâng trong Đền Thờ Jerusalem. Lúc này thì vai trò chủ lễ trong Đền Thờ chỉ dành cho Tư Tế mà thôi.
[7] Từ chuyên môn đây không có nghiã thương mại, nhưng nói đến người được giao trách nhiệm dành nhiều thời gian và trí lực cho việc nhà chúa. Họ nghi thức hoá các cách thức tế tự, và đưa thành luật hay lệ những cử điệu, trang phục, của lễ v.v…
[8] Khi chi tộc Levi được chọn làm chi tộc chuyên giữ chức vụ Tư Tế, họ sống nhờ vào chức năng chuyên môn Tư Tế của mình, nhờ vào tiền của dâng cúng của tín hữu, và không có tên trong danh sách chia Đất Hứa của dân Israel, vì không phải đất nhưng Chúa là gia nghiệp của họ. Sách Dân Số ghi: “ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron: "Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en. Đây Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp, vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ.” (Num 18:20-21).
[9] Vì thế chúng ta đọc thấy trong sách Ezra 2:63 và trong Nơkhemmia 7:65 ám chỉ: “Quan tổng đốc cấm họ không được ăn của thánh cho đến khi có một tư tế đứng lên xem thẻ xăm u-rim và tum-mim.”
Hãy đến ăn bánh sự sống
Lm. Jude Siciliano, OP
14:23 23/07/2009
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN B
2V 4:42-44; Tv 145; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15
Thử đặt chúng ta vào vai quần chúng trong khung cảnh của bài Phúc âm hôm nay, và có đoán ra được những thắc mắc của họ sau phép lạ bánh hóa ra nhiều không? Họ đói thật, nhưng họ cũng cần được xoa dịu vì những bận bịu của đời sống vật chất của họ. Dân chúng lúc đó đang còn sống dưới ách nô lệ của đế quốc La Mã. Thánh Gioan nhắn đến ngày lễ Vượt Qua là lúc dân Israel sống dưới ách nô lệ của Ai Cập. Thiên Chúa gọi Mô-sê cứu họ thoát ách nô lệ, Ngài cho họ của ăn trong sa mạc và đưa họ đến phần đất tự do. Mô-sê hứa là Thiên Chúa sẽ gọi đến cho họ một tiên tri như ông (Đnl 18:15).
Đám quần chúng theo Chúa Giêsu ngày hôm đó ao ước được thấy lời hứa của Mô-sê thực hiện. Họ mong đợi không những là một tiên tri khác, mà phải là một Tiên Tri đặc biệt. Vì thế họ tự hỏi liệu Chúa Giêsu có phải là vị Tiên Tri đặc biệt đó không? Có phải đó là vị Tiên Tri để đưa họ đến bữa tiệc cuối cùng, khi Thiên Chúa thắng quyền lực trần gian và đưa họ đến nơi an nghỉ, ăn uống, hỷ hoan đấy không?
Qua câu chuyện trên, Thánh Gioan muốn người đọc Phúc âm thấy được Thiên Chúa đang thực hiện lời hứa của Mô-sê. Hãy để ý Thánh Gioan nhắc đến lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu cũng như Mô-sê, đều cùng lên núi, và Ngài làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám dân chúng đông đảo theo Ngài. Cũng như tiên tri Ê-li-sa, trong bài đọc 1, Chúa Giêsu làm bánh lúa mạch; là bánh của người nghèo; hóa nhiều để nuôi đám dân chúng. Bài Phúc âm nói đến những người nghèo đang cần sự chú ý của chúng ta, nếu chúng ta là những người theo Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng nên để ý Thánh Gioan liên kết giữa phép lạ bánh hóa nhiều với bí tích Thánh Thể, bằng cách dùng lời văn quen thuộc của các Kitô hữu sử dụng trong phụng vụ khi họ hội họp nhau. Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” rồi phân phát cho những người ngồi đó. Sau khi mọi người ăn đầy đủ, Người bảo các môn đệ đi thu những miếng bánh thừa. Từ ngữ trong bản gốc là “miếng bánh vụn”, đó cũng là từ diễn tả bánh của phép Thánh Thể. (trong phúc âm tuần tới, Thánh Gioan sẽ nói nhiều hơn về phép Thánh Thể trong đoạn 6,33. “Bánh từ trời xuống, đem lại sự sống cho thế gian”)
Còn một cách “tụ họp” khác nữa vào lúc Chúa làm phép bánh hóa nhiều đó là trong phụng vụ hôm nay. Cũng như đám dân chúng trước kia, chúng ta đến từ nhiều nơi khác nhau, có nguồn gốc khác nhau. Nói chung chúng ta khác nhau trong sự thiếu thốn, và đang tản mác khắp nơi trong những mảnh vụn cuộc đời khác nhau vì tội lỗi, vì sai lầm trong lựa chọn, thiếu hiểu biết. Và hơn nữa, chúng ta từ các giáo xứ khác nhau đến, giáo xứ giàu hay nghèo, cùng một cộng đoàn hay bởi nhiều cộng đoàn khác nhau, chúng ta nói những thứ tiếng khác nhau, thành phần kinh tế khác nhau, giới tính khác nhau, thành phần chính trị khác nhau, giáo dục khác nhau, dân tộc khác nhau, người có gia đình, người độc thân v.v… Ai có thể thu hút chúng ta lại thành một cộng đoàn. Ai, nếu không phải là Chúa Kitô, Đấng có thể cho chúng ta của ăn và “tụ họp chúng ta lại với nhau”? Thư thánh Phaolo hôm nay nhắc chúng ta “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất”. Bằng cách sống khiêm tốn, với tấm lòng rộng mở chịu đựng và yêu mến nhau. Chúng ta là những mảnh vụn ráp lại với nhau hôm nay để nghe Lời Chúa, và lãnh nhận phép Thánh Thể nhờ đó sẽ thay đổi tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta liên kết với nhau mật thiết hơn.
Chúng Giêsu cùng dùng bữa hôm đó với nhiều người không phân biệt giai cấp. Mỗi khi chúng ta mừng lễ sinh nhật của ai, hoặc ngày lễ nào đó, chúng ta cố gắng tổ chức một bữa ăn thịnh soạn. và mời những người thân thuộc trong gia đình ăn những món đặc biệt mà ông bà cha mẹ đã dạy. Có người thường nói “đây là món ăn đặc biệt mẹ tôi thường làm mỗi khi có lễ sinh nhật, xin mời các bạn thử xem”. Hôm nay Chúng Giêsu cũng làm như vậy. Ngài ăn bữa tiệc với những người không cùng máu mủ với Ngài. Nhưng mọi người đều ăn chung một bữa với nhau, ai cũng như ai, và có thể trở nên một đại gia đình, gia đình của Chúa Giêsu. Đó là bữa Tiệc Thánh chúng ta được mời đến ăn và uống lương thực Thiên Chúa ban cho chúng ta từ trên núi này.
Hãy trở lại câu hỏi lúc đầu: Anh chị em có thể tự đặt mình vào hoàn cảnh những người được Chúa Giêsu cho ăn trên núi không? Và chúng ta có cảm nhận như họ đã nghĩ là mọi việc phải chăng đã đến hồi viên mãn? Vì sao chúng ta lại không để Chúa Kitô đến hôm nay và viết câu cuối cùng của lịch sử: không còn chiến tranh nữa, không còn đói khát nữa, không còn tranh chấp với nhau nữa, không còn bạo động và bất công nữa? Mỗi người trong chúng ta đều ao ước thấy được ngày chúng ta sẽ thở được một hơi nhẹ nhàng và nói “Thật rồi, mọi sự đã được hoàn tất! Thiên Chúa đã vinh quang, và đã xoa dịu mọi giọt nước mắt!”
Câu chuyện bánh hóa ra nhiều đều có trong bốn Phúc âm, đó là dấu chỉ về ý nghĩa quan trọng của câu chuyện cho các Kitô Hữu đầu tiên. Mỗi Phúc âm tường thuật câu chuyện một cách khác nhau. Nhưng chuyện gì đã xảy ra ngày hôm ấy, không phải là điều quan trọng. Trái lại, các thánh sử viết phúc âm muốn chúng ta tự vấn là “câu chuyện đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày hôm nay?” Khi nghe Phúc âm thánh Gioan hôm nay chúng ta thấy như thế nào. Chúng ta hãy đọc kỹ lại. Câu chuyện có hình ảnh và chi tiết nhiều hơn trong sách Tin Mừng Nhất Lãm làm cho chúng ta suy nghĩ. Trong đó Thánh Gioan nói nhiều đến Thánh Kinh Do Thái, nhắc lại cách Thiên Chúa nuôi dẫn họ qua sa mạc. Nhờ vậy sẽ giúp chúng ta suy niệm được nhiều hơn.
Anh chị em có thấy được vai trò của Chúa Giêsu trong câu chuyện của Phúc âm Thánh Gioan không? Trong đó Chúa Giêsu là nhân vật chính của bữa ăn trên sườn núi xa cách làng mạc. Ngài điều khiển mọi việc. Mặc dù Ngài hỏi ông Phi-líp-phê “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Thánh Gioan cho chúng ta biết ngay là Chúa Giêsu biết trước Ngài sẽ làm gì. Trong Tin Mừng Nhất Lãm viết: các môn đệ phát bánh, còn trong Phúc âm Thánh Gioan chính Chúa Giêsu phân phát bánh. Đúng thế, Ngài là người chủ tiệc, Đấng mà chúng ta tin tưởng. Ngài biết chúng ta đói khát thế nào, và chính Ngài đem của ăn đến trong mỗi bước đường đời của chúng ta, cho đến ngày cuối cùng là chúng ta về đến quê nhà bình an.
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
2V 4:42-44; Tv 145; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15
Thử đặt chúng ta vào vai quần chúng trong khung cảnh của bài Phúc âm hôm nay, và có đoán ra được những thắc mắc của họ sau phép lạ bánh hóa ra nhiều không? Họ đói thật, nhưng họ cũng cần được xoa dịu vì những bận bịu của đời sống vật chất của họ. Dân chúng lúc đó đang còn sống dưới ách nô lệ của đế quốc La Mã. Thánh Gioan nhắn đến ngày lễ Vượt Qua là lúc dân Israel sống dưới ách nô lệ của Ai Cập. Thiên Chúa gọi Mô-sê cứu họ thoát ách nô lệ, Ngài cho họ của ăn trong sa mạc và đưa họ đến phần đất tự do. Mô-sê hứa là Thiên Chúa sẽ gọi đến cho họ một tiên tri như ông (Đnl 18:15).
Đám quần chúng theo Chúa Giêsu ngày hôm đó ao ước được thấy lời hứa của Mô-sê thực hiện. Họ mong đợi không những là một tiên tri khác, mà phải là một Tiên Tri đặc biệt. Vì thế họ tự hỏi liệu Chúa Giêsu có phải là vị Tiên Tri đặc biệt đó không? Có phải đó là vị Tiên Tri để đưa họ đến bữa tiệc cuối cùng, khi Thiên Chúa thắng quyền lực trần gian và đưa họ đến nơi an nghỉ, ăn uống, hỷ hoan đấy không?
Qua câu chuyện trên, Thánh Gioan muốn người đọc Phúc âm thấy được Thiên Chúa đang thực hiện lời hứa của Mô-sê. Hãy để ý Thánh Gioan nhắc đến lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu cũng như Mô-sê, đều cùng lên núi, và Ngài làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám dân chúng đông đảo theo Ngài. Cũng như tiên tri Ê-li-sa, trong bài đọc 1, Chúa Giêsu làm bánh lúa mạch; là bánh của người nghèo; hóa nhiều để nuôi đám dân chúng. Bài Phúc âm nói đến những người nghèo đang cần sự chú ý của chúng ta, nếu chúng ta là những người theo Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng nên để ý Thánh Gioan liên kết giữa phép lạ bánh hóa nhiều với bí tích Thánh Thể, bằng cách dùng lời văn quen thuộc của các Kitô hữu sử dụng trong phụng vụ khi họ hội họp nhau. Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” rồi phân phát cho những người ngồi đó. Sau khi mọi người ăn đầy đủ, Người bảo các môn đệ đi thu những miếng bánh thừa. Từ ngữ trong bản gốc là “miếng bánh vụn”, đó cũng là từ diễn tả bánh của phép Thánh Thể. (trong phúc âm tuần tới, Thánh Gioan sẽ nói nhiều hơn về phép Thánh Thể trong đoạn 6,33. “Bánh từ trời xuống, đem lại sự sống cho thế gian”)
Còn một cách “tụ họp” khác nữa vào lúc Chúa làm phép bánh hóa nhiều đó là trong phụng vụ hôm nay. Cũng như đám dân chúng trước kia, chúng ta đến từ nhiều nơi khác nhau, có nguồn gốc khác nhau. Nói chung chúng ta khác nhau trong sự thiếu thốn, và đang tản mác khắp nơi trong những mảnh vụn cuộc đời khác nhau vì tội lỗi, vì sai lầm trong lựa chọn, thiếu hiểu biết. Và hơn nữa, chúng ta từ các giáo xứ khác nhau đến, giáo xứ giàu hay nghèo, cùng một cộng đoàn hay bởi nhiều cộng đoàn khác nhau, chúng ta nói những thứ tiếng khác nhau, thành phần kinh tế khác nhau, giới tính khác nhau, thành phần chính trị khác nhau, giáo dục khác nhau, dân tộc khác nhau, người có gia đình, người độc thân v.v… Ai có thể thu hút chúng ta lại thành một cộng đoàn. Ai, nếu không phải là Chúa Kitô, Đấng có thể cho chúng ta của ăn và “tụ họp chúng ta lại với nhau”? Thư thánh Phaolo hôm nay nhắc chúng ta “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất”. Bằng cách sống khiêm tốn, với tấm lòng rộng mở chịu đựng và yêu mến nhau. Chúng ta là những mảnh vụn ráp lại với nhau hôm nay để nghe Lời Chúa, và lãnh nhận phép Thánh Thể nhờ đó sẽ thay đổi tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta liên kết với nhau mật thiết hơn.
Chúng Giêsu cùng dùng bữa hôm đó với nhiều người không phân biệt giai cấp. Mỗi khi chúng ta mừng lễ sinh nhật của ai, hoặc ngày lễ nào đó, chúng ta cố gắng tổ chức một bữa ăn thịnh soạn. và mời những người thân thuộc trong gia đình ăn những món đặc biệt mà ông bà cha mẹ đã dạy. Có người thường nói “đây là món ăn đặc biệt mẹ tôi thường làm mỗi khi có lễ sinh nhật, xin mời các bạn thử xem”. Hôm nay Chúng Giêsu cũng làm như vậy. Ngài ăn bữa tiệc với những người không cùng máu mủ với Ngài. Nhưng mọi người đều ăn chung một bữa với nhau, ai cũng như ai, và có thể trở nên một đại gia đình, gia đình của Chúa Giêsu. Đó là bữa Tiệc Thánh chúng ta được mời đến ăn và uống lương thực Thiên Chúa ban cho chúng ta từ trên núi này.
Hãy trở lại câu hỏi lúc đầu: Anh chị em có thể tự đặt mình vào hoàn cảnh những người được Chúa Giêsu cho ăn trên núi không? Và chúng ta có cảm nhận như họ đã nghĩ là mọi việc phải chăng đã đến hồi viên mãn? Vì sao chúng ta lại không để Chúa Kitô đến hôm nay và viết câu cuối cùng của lịch sử: không còn chiến tranh nữa, không còn đói khát nữa, không còn tranh chấp với nhau nữa, không còn bạo động và bất công nữa? Mỗi người trong chúng ta đều ao ước thấy được ngày chúng ta sẽ thở được một hơi nhẹ nhàng và nói “Thật rồi, mọi sự đã được hoàn tất! Thiên Chúa đã vinh quang, và đã xoa dịu mọi giọt nước mắt!”
Câu chuyện bánh hóa ra nhiều đều có trong bốn Phúc âm, đó là dấu chỉ về ý nghĩa quan trọng của câu chuyện cho các Kitô Hữu đầu tiên. Mỗi Phúc âm tường thuật câu chuyện một cách khác nhau. Nhưng chuyện gì đã xảy ra ngày hôm ấy, không phải là điều quan trọng. Trái lại, các thánh sử viết phúc âm muốn chúng ta tự vấn là “câu chuyện đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày hôm nay?” Khi nghe Phúc âm thánh Gioan hôm nay chúng ta thấy như thế nào. Chúng ta hãy đọc kỹ lại. Câu chuyện có hình ảnh và chi tiết nhiều hơn trong sách Tin Mừng Nhất Lãm làm cho chúng ta suy nghĩ. Trong đó Thánh Gioan nói nhiều đến Thánh Kinh Do Thái, nhắc lại cách Thiên Chúa nuôi dẫn họ qua sa mạc. Nhờ vậy sẽ giúp chúng ta suy niệm được nhiều hơn.
Anh chị em có thấy được vai trò của Chúa Giêsu trong câu chuyện của Phúc âm Thánh Gioan không? Trong đó Chúa Giêsu là nhân vật chính của bữa ăn trên sườn núi xa cách làng mạc. Ngài điều khiển mọi việc. Mặc dù Ngài hỏi ông Phi-líp-phê “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Thánh Gioan cho chúng ta biết ngay là Chúa Giêsu biết trước Ngài sẽ làm gì. Trong Tin Mừng Nhất Lãm viết: các môn đệ phát bánh, còn trong Phúc âm Thánh Gioan chính Chúa Giêsu phân phát bánh. Đúng thế, Ngài là người chủ tiệc, Đấng mà chúng ta tin tưởng. Ngài biết chúng ta đói khát thế nào, và chính Ngài đem của ăn đến trong mỗi bước đường đời của chúng ta, cho đến ngày cuối cùng là chúng ta về đến quê nhà bình an.
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:34 23/07/2009
ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [1]
Có người hỏi bùn:
- “Anh lấy toàn bộ sinh mệnh bồi bổ cho sen, sen cao quý đẹp đẽ, hưởng hết vinh hoa phú quý của nhân gian, mà anh thì lại chịu đựng đủ điều chế giễu ghẻ lạnh, anh không ghen ghét, không vì thế mà uất ức sao?”
Bùn nói:
- “Xưa nay chưa từng có ai làm mẹ mà ghét bỏ con gái đi lấy chồng; cũng như từ trước đến nay không ai làm bố mà ghen ghét thành tựu của con cái vượt qua mình”.
Trong tình yêu nếu không có bao dung, thì yêu không trọn vẹn.
(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)
Suy tư:
Chữ “bao包”, có nghĩa là ôm, gói, bọc, đùm…
Chữ “dung容”, có nghĩa là chứa, đựng và cũng có nghĩa là dung thứ…
Giải thích theo nghĩa của tình yêu, bao dung là tha thứ, là khoan dung.
Vợ hoặc chồng dung thứ cho nhau nhiều lắm là ba lần, qua lần thứ tư thì đem nhau ra tòa ly dị.
Bố mẹ dung thứ cho con cái ngỗ nghịch, nhiều hơn vợ chồng dung thứ cho nhau nhiều lần, nhưng đứa con nào quá quắc, chịu không nỗi, bố mẹ mới đăng báo từ con.
Nhưng sự bao dung của Thiên Chúa thì không thể kể hết được, sư bao dung của Ngài rộng lớn vô cùng, trời đất vạn vật không thể chứa nỗi.
Chúng ta luôn xúc phạm đến tình yêu của Ngài, luôn ngỗ nghịch với Ngài, nhưng Ngài chẳng đăng báo từ con, cũng chẳng đưa ra toà ly dị, trái lại, Ngài vẫn luôn đợi chờ chúng ta, sẵn sàng đưa tay ra ôm chúng ta vào lòng.
Sự bao dung của Thiên Chúa thật là quá lớn, cho nên tình yêu của Ngài cũng vô bến bờ.
-------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có người hỏi bùn:
- “Anh lấy toàn bộ sinh mệnh bồi bổ cho sen, sen cao quý đẹp đẽ, hưởng hết vinh hoa phú quý của nhân gian, mà anh thì lại chịu đựng đủ điều chế giễu ghẻ lạnh, anh không ghen ghét, không vì thế mà uất ức sao?”
Bùn nói:
- “Xưa nay chưa từng có ai làm mẹ mà ghét bỏ con gái đi lấy chồng; cũng như từ trước đến nay không ai làm bố mà ghen ghét thành tựu của con cái vượt qua mình”.
Trong tình yêu nếu không có bao dung, thì yêu không trọn vẹn.
(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)
Suy tư:
Chữ “bao包”, có nghĩa là ôm, gói, bọc, đùm…
Chữ “dung容”, có nghĩa là chứa, đựng và cũng có nghĩa là dung thứ…
Giải thích theo nghĩa của tình yêu, bao dung là tha thứ, là khoan dung.
Vợ hoặc chồng dung thứ cho nhau nhiều lắm là ba lần, qua lần thứ tư thì đem nhau ra tòa ly dị.
Bố mẹ dung thứ cho con cái ngỗ nghịch, nhiều hơn vợ chồng dung thứ cho nhau nhiều lần, nhưng đứa con nào quá quắc, chịu không nỗi, bố mẹ mới đăng báo từ con.
Nhưng sự bao dung của Thiên Chúa thì không thể kể hết được, sư bao dung của Ngài rộng lớn vô cùng, trời đất vạn vật không thể chứa nỗi.
Chúng ta luôn xúc phạm đến tình yêu của Ngài, luôn ngỗ nghịch với Ngài, nhưng Ngài chẳng đăng báo từ con, cũng chẳng đưa ra toà ly dị, trái lại, Ngài vẫn luôn đợi chờ chúng ta, sẵn sàng đưa tay ra ôm chúng ta vào lòng.
Sự bao dung của Thiên Chúa thật là quá lớn, cho nên tình yêu của Ngài cũng vô bến bờ.
-------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:36 23/07/2009
N2T |
9. Người khiêm tốn thường hưởng bình an, trong lòng người kiêu ngạo thường có tình cảm oán hận ghen ghét.
(sách Gương Chúa Giê-su)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:38 23/07/2009
N2T |
182. Tiêu chuẩn để phân biệt một người có phải là vĩ đại không, chính là coi họ có vì công việc của mình mà bỏ ra loại hy sinh nào.
Năm linh mục: đọc lại ''Chia sẻ mục vụ Giáo Xứ trong thời đại ngày nay''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:49 23/07/2009
CHIA SẺ
CÔNG TÁC MỤC VỤ
GIÁO XỨ
TRONG THỜI ĐẠI NAY
Lời ngõ,
Công tác mục vụ tại giáo xứ hay tại bất cứ nơi đâu đều là bổn phận và trách nhiệm của các linh mục, là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để thay mặt Ngài thánh hóa, dạy dỗ và cai quản đoàn chiên mà Thiên Chúa đã trao cho các ngài coi sóc...
Công tác mục vụ là một công việc khó khăn đòi hỏi các linh mục không những cần có ân sủng của Thiên Chúa, mà còn cần phải có tri thức và văn hóa, cùng với những đức tính nhân bản mà các ngài đã học và trau dồi trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã được tiếp thu khi còn ở trong chủng viện, chỉ là một phần nhỏ của cái lớn lao khi chúng ta làm công tác mục vụ trong thực tế.
Với những suy tư và kinh nghiệm nho nhỏ, tôi xin chia sẻ với các anh em linh mục trẻ của tôi trong năm truyền giáo này của Giáo Hội Việt Nam chúng ta...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------------------------------------------------------------------------
A- GIÁO XỨ
1. Phải xác định cách tích cực Giáo xứ là đại gia đình của mình.
Chịu chức xong thì các linh mục trẻ đầy nhiệt tình sẽ được nhận bài sai của đấng bản quyền địa phương (giám mục địa phận, bề trên dòng...) để đi làm mục vụ, cũng có nghĩa là được chính thức sai đi đến một nơi mà khi còn học trong chủng viện các ngài hằng mong ứơc, đó là làm cha phó (hoặc cha xứ).
Giáo xứ mà các linh mục được sai đến không như trong sách vở mà các linh mục trẻ đã học, nhưng là một giáo xứ với những con người sống động, những con người mà họ rất kỳ vọng vào các linh mục trẻ của mình, với tác phong vui tươi cởi mở với tất cả mọi người, dù linh mục trẻ ấy là cha sở hay cha phó, hoặc bất cứ linh mục trẻ nào. Nơi giáo xứ có nhiều hạng người giàu cũng như nghèo, có người trí thức cũng như có người lao động, có người là giáo sư là bác sĩ.v.v... cũng có những thành phần trong Giáo Hội là các tu sĩ nam nữ, và có khi có gia đình có con cái làm linh mục hoặc tu sĩ trong một hội dòng... tóm lại là một giáo xứ với nhiều tính năng động của nó.
Giáo xứ là một Giáo Hội địa phương được trao phó cho linh mục coi sóc, để giáo xứ dưới sự lãnh đạo của các ngài ngày càng phát triển về đàng nhân đức cũng như về mặt xã hội, có nghĩa là các linh mục coi sóc giáo xứ -trước hết- trên phương diện tinh thần, hướng dẫn giáo dân sống và thực hành tinh thần Phúc Âm của Chúa Giê-su mà các ngài đã được huấn luyện, để trở thành vị mục tử chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa trao cho các ngài.
Cho nên, khi nhận được bài sai để đến một giáo xứ nào đó (dù lớn hay nhỏ) thì các linh mục phải cảm tạ ơn Thiên Chúa đã chọn ngài chứ không chọn ai khác để coi sóc giáo xứ ấy, và mau mắn lên đường làm nhiệm vụ...
Giáo xứ là một cộng đoàn lớn và phức tạp, cho nên để cho công việc mục vụ được dễ dàng thuận lợi, thì tâm tình trước tiên mà các linh mục phải có chính là biến cộng đoàn giáo xứ ấy trở thành gia đình của mình, một đại gia đình đúng nghĩa của nó, có như thế các ngài mới có thể vui vẻ lạc quan sống và làm việc bên cạnh các giáo dân của mình.
Có một vài linh mục trẻ khi được bài sai đến một giáo xứ nào đó, nếu giáo xứ giàu thì cười hả hê và thỏa mãn, nếu giáo xứ nghèo ở nơi khỉ ho cò gáy thì lại trách oán bề trên, những linh mục này sẽ không bao giờ coi giáo xứ của các ngài là một đại gia đình của mình, cho nên khi đến giáo xứ thì việc trước tiên là hạch sách giáo dân hoặc đòi điều kiện với cha sở là: chỗ ở phải tiện nghi có máy lạnh, phải có phòng ốc hẳn hoi, phải có chỗ vui chơi giải trí thì mới đến, bằng không thì mặc kệ, như thế tinh thần mục tử vì đàn chiên nơi các ngài không còn nữa, và như thế các ngài coi giáo xứ như là một công ty mà các ngài “buộc” phải đến làm việc, các ngài biến mình trở thành một công chức cao cấp để lãnh lương, chứ không phải là một linh mục đang làm trong vườn nho của Thiên Chúa...
Khi đã xác định được giáo xứ là đại gia đình của mình thì người linh mục không còn đòi hỏi phải có đầy đủ tiện nghi trong sinh hoạt, nhưng các ngài sẽ băn khoăn khi giáo dân của mình dân trí kém, cuộc sống khó khăn, có nhiều người rượu chè cờ bạc, và có nhiều tệ nạn xảy ra cần phải giáo dục họ họ sống đúng với tinh thần của Chúa Giêsu dạy: yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
2. Phải tâm niệm Giáo Xứ là cánh đồng truyền giáo của mình.
a. Thăm giáo dân (cày)
Chắc chắn các linh mục trẻ sẽ cười khi nghe câu ấy, bởi vì giáo xứ đã là nơi truyền giáo của các linh mục, bằng không thì làm linh mục để làm gì, hoặc đấng bản quyền sai mình đến đó để làm gì ! Nếu các linh mục trẻ hiểu được như thế thì Giáo Hội Việt Nam sẽ không lo âu vì các linh mục trẻ của mình ngày càng sống hưởng thụ hơn là làm việc truyền giáo, ngày càng sống xa hoa hơn là phục vụ.
Giáo xứ là cánh đồng truyền giáo của các linh mục, nhưng như thế nào là truyền giáo ? Có một vài linh mục khi đến giáo xứ thì “triển lãm” cái tính sống xa hoa của mình cho giáo dân thấy; có linh mục thì mới đến giáo xứ ngày hôm trước thì hôm sau đã phách lối nạt nộ giáo dân và đặt điều kiện này điều kiện nọ với họ, thì truyền giáo đâu chưa thấy chỉ thấy giáo dân than phiền: ông cha mới khó tính như ông cụ non ! Như thế thì sẽ không còn là truyền giáo nữa, nhưng là đến để làm ông chủ và “truyền” cá tính cộc cằn, hách dịch và kiêu căng của mình cho giáo dân, thật tội nghiệp cho họ, vì họ không nhìn thấy được Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhượng nơi vị mục tử trẻ trung của mình.
Muốn đồng ruộng tốt thì trước hết phải cày rồi sau mới “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Các linh mục cũng phải “cày” trên đồng ruộng giáo xứ của mình, các ngài phải “cày” ngay khi mới đến giáo xứ, “cày” tức là các ngài phải bỏ công sức là đi thăm giáo dân mà chúng ta gọi là “thăm mục vụ”, thăm giáo dân để biết tình trạng con chiên của mình như thế nào, nhà này ra sao nhà nọ thế nào, người này không bao giờ đến nhà thờ, người kia chưa một lần lên rước Mình Thánh khi đi dâng thánh lễ.v.v... đó là “cày” của các linh mục, việc này các linh mục trẻ dễ dàng làm hơn, vì sức còn mạnh và tay chân hoạt bát không ngại đường xa mưa gió nắng nôi...
Kinh nghiệm cho thấy, cha sở nào thường cùng với các đoàn thể (Legio Maria chẳng hạn...) đi thăm giáo dân của mình thì cha sở ấy đã thành công một nửa trong việc xây dựng giáo xứ của mình. Đi thăm giáo dân là để tìm hiểu cuộc sống tâm linh của họ, và có khi, cũng biết thêm đời sống vật chất của họ để thông cảm và khuyến khích họ sống tốt đẹp là một người Ki-tô hữu trong giáo xứ của mình.
Chí ít là một tuần đi thăm một vài gia đình, chương trình thăm ai, nhà nào thì nên có kế hoạch và bàn hỏi với đoàn thể mà mình cùng đi với họ đến thăm giáo dân, họ sẽ rất vui và cho mình biết hoàn cảnh của gia đình giáo dân mà mình đến thăm, nếu không có chuyện cấp bách về mục vụ (như xức dầu bệnh nhân...) thì không nên đi một mình và không nên ngồi quá lâu ở một nhà giáo dân, vì như thế sẽ không tốt cho các linh mục và ảnh hưởng đến công tác mục vụ của mình. Khi đến thăm nhà giáo dân thì thăm hỏi sức khoẻ của họ, phải tế nhị và đừng đụng chạm đến đời sống riêng tư của họ, nhưng hãy thật vui vẻ -có khi pha trò- để cuộc trò chuyện thêm tự nhiên xoá bỏ ngăn cách giữa linh mục và giáo dân. Đừng để họ bận rộn tiếp khách chuẩn bị thức ăn thức uống, nhưng cần phải nói ngay với họ rằng, chỉ uống một ly nước hoặc một ly cà phê (nếu có) và trò chuyện thân tình, rồi cáo từ sau năm hoặc mười phút trò chuyện. Tuy ngắn nhưng ảnh hưởng và ấn tượng lâu dài nơi giáo dân của mình...
Giáo dân cảm thấy xa cách cha sở -vị mục tử- của mình, vì các ngài không chịu bước ra khỏi nhà xứ để đến với họ, vì các ngài cảm thấy mình đến với giáo dân là quá hạ mình nên phải để giáo dân đến với mình trước !? Vì thế mà khi có nghe tin giáo dân nọ cần được xức dầu thì có một vài cha sở không biết giáo dân đó là ai !!!
Đừng ngại đi đến thăm giáo dân, cũng như người nông dân không ngại trời nắng trời mưa khi cày ruộng, bởi vì phải cày trước đã rồi mới gieo hạt hoặc cấy lúa, “cày” chính là việc đi thăm giáo dân của cha sở, bởi vì khi đi thăm giáo dân là cha sở đã làm một chiếc cầu bê tông cốt sắt chắc chắn để nối liền nhà thờ với họ, nối liền cha sở với giáo dân, mục tử với con chiên. Đi thăm giáo dân là “”cày” mảnh đất tâm hồn vủa họ cho tơi xốp, vì nó đã cứng khi không thấy được sự quan tâm của người mục tử, và cũng vì miếng cơm manh áo mà họ ít đến nhà thờ...
Đừng ngại đi thăm giáo dân nhưng hãy ngại là chỉ quen biết và đi thăm một hai gia đình thân thiết trong giáo xứ rồi thôi, bởi vì đôi lúc có một vài linh mục vì quá mệt và bận rộn với công việc giáo xứ, mà “trốn” đi đến một nhà giáo dân thân thiết để giải trí và thư giãn với cờ tướng hoặc tán dóc hoặc nghỉ ngơi cả buổi, lâu ngày làm cho giáo dân dị nghị và như thế việc truyền giáo và quản lý giáo xứ sẽ ảnh hưởng rất nhiều...
Khi đã “cày” xong thì chúng ta tiếp tục với câu tục ngữ của cha ông chúng ta “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” để áp dụng vào cánh đồng truyền giáo của chúng ta, đó là giáo xứ.
b. Cầu nguyện. (nhất nước)
Cầu nguyện, đó là một niềm vui của người Ki-tô hữu được “đặc ân” trò chuyện với Thiên Chúa, là một sức mạnh cho những người cảm thấy mình quá nhỏ bé trong cuộc sống. Các linh mục là những “nhà chuyên môn” của việc cầu nguyện, các ngài có thể cầu nguyện luôn luôn trong mọi lúc dưới bất cứ hình thức nào, vì các ngài là những thầy dạy giáo dân về việc cầu nguyện, khi mà người ta cảm thấy khó khăn khi cầu nguyện vì quá lo ra chia trí vì kế sinh nhai, vì thất tình lục dục, thì các linh mục là những con người mà họ cậy nhờ trong đời sống tâm linh của mình...
Có thể nói: cá cả ngày sống trong nước thế nào, thì các linh mục cả ngày sống trong ơn sủng của Thiên Chúa cũng như thế, tức là cầu nguyện.
Cầu nguyện rất cần thiết cho giáo xứ mình phục vụ cũng giống như nước rất cần cho đồng ruộng, không cầu nguyện thì các linh mục không thể làm cho tâm hồn tín hữu nguội lạnh thành nóng lên vì tình yêu của Thiên Chúa; không cầu nguyện thì các dự án, các cuộc thăm viếng chỉ là đánh trống bỏ dùi mà thôi, bởi vì cầu nguyện là “nước” nên nếu không nước thì đồng ruộng truyền giáo sẽ cháy khô.
Dâng thánh lễ là lúc cầu nguyện tuỵêt với nhất, và chỉ có khi dâng thánh lễ, thì người linh mục mới cảm thấy được hết tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã làm cho mình và cho nhân loại, đó chính là tình thương cao cả nhất mà chính linh mục là người thứ nhất cảm nghiệm được, bởi vì nếu khi linh mục dâng thánh lễ mà không cảm nhận được sự cao quý và cao cả của Thiên Chúa, thì chẳng khác chi một diễn viên sân khấu.
Bởi vì có một vài linh mục khi cử hành thánh lễ thì chỉ thích chú trọng đến những cử điệu bên ngoài: dang hai tay thật rộng hết cở khi đọc lời cầu nguyện, giọng nói uốn lưỡi mất tự nhiên và cung giọng lên xuống sao cho truyền cảm để thu hút mọi người, vì thế cho nên không lạ gì có một vài linh mục cử hành thánh lễ như là diễn kịch trên sân khấu, nhưng diễn cũng không đạt vì những cử chỉ mà các ngài làm đều không diễn tả được là hành vi thánh, đôi lúc làm cho giáo dân thấy việc cử hành thánh lễ là một việc làm bất đắc dĩ của các linh mục, làm cho xong, làm cho qua, làm cho mau để hết...cục nợ !
Cầu nguyện là nước tưới trên cánh đồng truyền giáo của các linh mục, kinh nghiệm của thánh Gioan Maria Vianney đã cho chúng ta thấy được điều ấy: từ một giáo xứ khô cằn (nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) ngài đã làm cho nó sinh động tốt tươi cách kỳ diệu bằng lời cầu nguyện liên lĩ của mình. Cũng vậy, cầu nguyện là một sức mạnh kỳ diệu làm đổi mới mọi sự, mà theo suy nghĩ của con người sẽ không bao giờ làm được, nhưng việc gì mà con người không thể làm được, thì Thiên Chúa lại làm được.
Thánh lễ là giây phút hạnh phúc nhất của người Ki-tô hữu nói chung, và của các linh mục nói riêng, bởi vì càng suy tư đến mầu nhiệm hiến tế nơi bàn thánh, thì chúng ta càng thấy được Thiên Chúa quá ư là khiêm tốn và rất mực yêu thương nhân loại, cách riêng các linh mục, bởi vì chính linh mục –chứ không ai khác- diễn tả lại cuộc hi tế ngày xưa trên đồi Golgôtha của Chúa Giê-su. Trong mỗi một thánh lễ mà chúng ta –những linh mục- dâng lên Thiên Chúa có biết bao là hồng ân mà nhân loại được hưởng nhờ, có biết bao linh hồn được ơn nhận biết Thiên Chúa là Cha rất nhân từ. Nói như thế để mỗi người trong chúng ta cảm nghiệm được rằng: tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng, một dụng cụ bất xứng, và là một con người đầy những xấu xa hơn tất cả mọi người trên thế gian, vậy mà Thiên Chúa đã chọn tôi như là một khí cụ tình yêu của Ngài.
Chúng ta phải lợi dụng hồng ân trong thánh lễ để cầu nguyện cho giáo xứ của mình, tức là cho cánh đồng truyền giáo, mà trên cánh đồng ấy có không biết bao nhiêu là cỏ dại, sâu trùng, bọ xít làm hư hoại những hạt lúa tốt tươi của chúng ta.
Trong thánh lễ, chúng cầu nguyện cho em bé lem luốt hôm qua đứng bên vệ đường khóc vì đói được cơm ăn; chúng ta nhớ đến khuôn mặt của một giáo dân ngày hôm qua đã bị mọi người chửi mắng vì say rượu để cầu nguyện cho họ; chúng ta cũng nhớ đến những cô gái đứng gốc cây bên đường chờ khách, để cầu nguyện cho họ được có cuộc sống tốt đẹp hơn, và còn biết bao nhiêu là những người mà chúng ta phải nhớ đến họ trong thánh lễ để cầu nguyện cho họ... Như thế, cầu nguyện là phương thế tuyệt vời nhất, để cho cánh đồng truyền giáo của chúng ta ngày càng xanh tươi tốt đẹp hơn, và sẽ không một cây lúa (giáo dân) nào mà không được mát lòng nhờ lời cầu nguyện của chúng ta.
Tiếp đến, Phụng Vụ các giờ kinh mà ngày xưa chúng ta gọi là kinh nhật tụng, đóng một vai trò quan trọng thứ hai sau thánh lễ trong việc cầu nguyện của các linh mục.
Thời nay Giáo Hội khuyên các tín hữu cũng nên đọc giờ kinh phụng vụ theo cách của giáo dân, bởi vì đó là những lời ca ngợi, tán tụng, tạ ơn và cầu xin tuyệt vời nhất, mà Giáo Hội đã yêu cầu các linh mục, là những người đã được tuyển chọn thay mặt nhân loại đọc để chúc tụng Thiên Chúa, cho nên nếu được thì trong giáo xứ của mình, cha sở có thể tổ chức để giáo dân yêu thích dùng phụng vụ các giờ kinh để cầu nguyện, và các ngài cũng nên đọc chung với giáo dân ít nữa là giờ Kinh Sáng sau (hoặc trong thánh lễ) và giờ Kinh Chiều.
Đây là cách cầu nguyện chung giữa cha sở với giáo dân của mình, bởi vì các linh mục rất ít khi đọc kinh chung với giáo dân, buổi sáng khi giáo dân cùng nhau đọc kinh lần chuổi thì không thấy cha sở hoặc cha phó cùng đọc chung với họ, chỉ đợi khi gần giờ lễ rồi mới ra khỏi phòng và đi thẳng vào phòng thánh để chuẩn bị dâng lễ, lễ xong thì cũng “biến” đâu mất, rất ít khi trò chuyện với giáo dân, hỏi thăm quan tâm: “ông X... đâu rồi, sao mấy ngày nay không thấy đến nhà thờ; bà H... nghe nói bệnh phải không; Anh B..., con anh ra sao rồi tìm được việc làm chưa.v.v...” Mấy câu hỏi quan tâm đơn sơ sau thánh lễ ấy, là chất xúc tác để giáo dân không còn thấy ông cha sở của mình là cao cao sang sang nữa, nhưng rất thân tình như người trong nhà và làm cho giáo dân yêu mến nhà thờ hơn, đó là bí quyết truyền giáo xưa cũng như nay: tiếp xúc và quan tâm đến mọi giáo dân của mình.
Đọc kinh Phụng Vụ chung với giáo dân là cầu nguyện chung với họ, là nói cho họ biết giáo xứ chúng ta cần thêm nhiều lời cầu nguyện của mọi người, để xin Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho mỗi con chiên của Ngài trong giáo xứ này, và thế là giáo dân “thấy” được trong tâm hồn của vị mục tử của mình đầy ắp sự lo lắng, thương yêu giáo dân của ngài, và chắc chắn Thiên Chúa cũng sẽ nhậm lời và chúc lành cho công cuộc truyền giáo của các ngài.
Nước cần thiết cho đồng ruộng như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng rất cần thiết cho việc truyền giáo như thế.
c. Tổ chức. (nhì phân)
Có một vài linh mục trẻ rất có óc tổ chức giáo xứ của mình, những linh mục này tôi biết là ngoài việc các ngài có thiên khiếu về tổ chức ra, thì trong số các ngài còn có một vài linh mục tham gia sinh hoạt phong trào hướng đạo, nên cách tổ chức của các ngài rất có thứ tự lớp lang đàng hoàng.
Một cánh đồng kiểu mẫu không những năng suất cao mà còn là cách phân bờ phân đê làm sao cho hợp lý, để khi nước được bơm vào thì cả cánh đồng đều có nước giống nhau, chứ không phải cùng một cánh đồng mà chỗ này bơm nước một ngày, chỗ kia bơm nước ngày khác, đó là vì nhà nông không được học qua kỷ thuật về nông nghiệp tiên tiến. Ở Đài Loan nền nông nghiệp của họ thật tuyệt vời, thấy ruộng đồng của họ mà mê tơi vì nó bằng phẳng, thứ tự lớp lang, sạch sẽ, nhìn thấy là muốn xuống ruộng làm nghề nông, đó chẳng qua là nền nông nghiệp của họ đã đạt đến mức hoàn hảo.
Trong một giáo xứ, việc tổ chức các đoàn thể là điều cần thiết, từ ban hành giáo cho đến các đoàn thể như Thiếu Nhi Thánh Thể, hội Lêgiô Maria, hội Con Đức Mẹ, hội các bà mẹ Công Giáo, hội cha gia đình, thanh niên.v.v... đều rất cần thiết cho sự truyền giáo của cha sở cũng như sự phát triển của giáo xứ, nhất là gây tình đoàn kết giữa các giáo dân với nhau cũng như giữa giáo dân và cha sở cha phó...
Có một vài cha trẻ nhưng tâm hồn thì đã già, cho nên thích an nhàn hưởng thụ hơn là tổ chức các sinh hoạt trong giáo xứ, mà nếu giáo xứ nào đã có các đoàn thể rồi, thì các ngài cũng ít quan tâm vì không phải “con của mình đẻ ra”, mặc kệ bây sinh hoạt hay không tuỳ tiện !?
Tổ chức là khâu quan trong trong việc quản lý cộng đoàn, cha sở phải làm sao để tất cả giáo dân của mọi thành phần trong giáo xứ tham gia các hội đoàn, để qua các sinh hoạt này mà cha sở truyền đạt lòng đạo đức kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân cho các con chiên của mình, bởi vì sẽ rất thiếu sót khi giáo dân thèm muốn có một hội đoàn hợp với lứa tuổi của mình, để chia sẻ những kinh nghiệm về cách sống đạo cho người khác, cũng như muốn học hỏi kinh nghiệm sống Lời Chúa nơi những giáo dân khác, mà cha sở thì cứ tà tà “để đó coi đã”, cái “tà tà” này là biểu hiệu của một tâm hồn không mấy thiết tha với giáo xứ mà mình đang coi sóc.
Tôi đã thấy một vài linh mục đã không làm gì sau mấy năm ở giáo xứ, bởi vì các ngài có một quan niệm rất “kỳ quặc” là mình không ở đời ở kiếp đây thì tổ chức đoàn thể này nọ làm gì cho mệt óc mệt xác chứ ! Thế là giáo xứ của các ngài ngày càng tẻ nhạt, giáo dân đến đi lễ vì bổn phận rồi về, họ không coi giáo xứ là nơi để họ lui tới học hỏi với cha sở cách sống đạo, cũng như nơi các giáo dân khác, bởi vì giáo xứ của họ không có một hội đoàn nào để họ tham gia sinh hoạt.
Thiên Chúa –đã vì thương yêu- mà chọn chúng ta làm những người thay mặt Ngài để dạy dỗ giáo dân biết sống đạo, và khi chọn ai thì nhất định Ngài cũng ban cho họ sự khôn ngoan để lãnh đạo, nghĩa là với sự khôn ngoan ấy, chúng ta tổ chức giáo xứ thành cánh đồng truyền giáo cho hợp với thời đại khoa học, hợp với đà tiến hoá của xã hội mà không làm cho giáo dân phải thốt lên: ông cha sở quá cấp tiến.
Khi đã tổ chức được các đoàn thể rồi thì cha sở phải hy sinh thêm rất nhiều thời gian cho các đoàn thể, bởi vì cha sở, cha phó là đầu tàu, là hạt nhân làm nổ tung các tâm hồn bấy lâu nguội lạnh với việc nhà Chúa, thì nay đã hăng hái tham giá cách tích cực các hội đoàn trong giáo xứ. Cha sở sẽ còn rất ít giờ để đọc sách và giải trí, nhưng tham gia sinh hoạt các đoàn thể là một niềm vui của ngài, bởi vì có việc để làm thì tốt hơn là không có việc gì để làm, rồi sinh ra những điều không tốt cho đời sống tu đức của linh mục.
Các linh mục là những người được đọc nhiều sách với nhiều đề mục, nhưng –đối với linh mục- thì tất cả đều là lý thuyết trên sách vở, duy chỉ có một điều đối với các ngài thì nó không còn là lý thuyết nữa nhưng là thực hành, đó là truyền giáo. Truyền giáo không phải là lý thuyết nhưng là phải thực hành, và đó chính là nghề chuyên môn của các ngài, do đó, người ta sẽ cừơi và trách các linh mục khi các ngài dửng dưng với công tác tổ chức các hội đoàn trong giáo xứ của mình.
Có một vài linh mục khi được phái đến coi sóc một giáo xứ nào đó thì thích xây dựng nhà thờ, phòng ốc, sân chơi, vườn hoa kiểng.v.v... đương nhiên tất cả những công việc này cũng đều là vì giáo xứ mà làm, để cho giáo xứ có bộ mặt đẹp đẽ và bề thế hơn. Nhưng, khi nhà thờ chưa xuống cấp mà đập tan nát ra xây lại; giáo dân không có chỗ để đi đứng sinh hoạt, thì lại xây cái vườn hoa kiểng to đùng đùng chiếm cả một khoảng lớn của nhà thờ; hoặc giáo dân thì nghèo cơm ngày ba bữa chưa đủ no, mà cha sở đập phá nhà thờ cũ để xây mới thì có hợp thời không...
Cái nên xây trước hết chính là xây dựng tâm hồn của giáo dân, làm cho tâm hồn của họ trở thành đền thờ của Thiên Chúa thật sự, chứ không phải chỉ đến nhà thờ đi lễ đi kiệu, nhưng khi ra khỏi nhà thờ thì tâm hồn của họ lại trở thành nơi ở của ma quỷ ? Xây dựng tâm hồn của các giáo hữu trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần thì không có gì hay cho bằng tổ chức các đoàn thể trong giáo xứ của mình, thông qua các đoàn thể chúng ta sẽ thấy nhiều điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm nơi họ. Tổ chức các cộng đoàn hoạt động hữu hiệu, thì cha sở sẽ có một ngày bội thu trong niềm vui của người ra đi gieo giống trên ruộng mình, và vui mừng gặt hái thành quả ôm trong lòng, vác trên vai mà đi về nhà Cha...
d. Làm việc không biết mệt. (tam cần)
Ruộng lúa, dù đã trổ đòng đòng, nhưng nếu không chuyên cần làm cỏ thì sẽ trở về với hai bàn tay trắng, cũng vậy, tổ chức thật khoa học nhưng không thường xuyên giáo huấn dạy dỗ quan tâm đến giáo dân thì cũng chẳng thu hoạch được gì.
Có những linh mục làm việc không biết mệt mỏi, các ngài làm việc bất kể ngày đêm, dù mưa to gió lớn, dù ban đêm hay ban ngày, mà hể có người cần đến các ngài là a lê đi ngay đến để ban các bí tích cho họ, sự chuyên cần này được Thiên Chúa trả công rất bội hậu, mà trước mắt là giáo xứ của các ngài ngày càng có nhiều người đến tham dự thánh lễ hơn, và chính bản thân của mỗi người giáo hữu cũng rất muốn cộng tác với một cha sở nhiệt thành, vì các linh hồn mà phải hy sinh tất cả những chuyện riêng tư cá nhân...
Không chuyên cần làm việc thì các linh mục cũng đừng trông mong giáo dân cộng tác với mình, và các ngài cũng đừng trách cứ giáo dân sao mà xao nhãng việc đạo đức, lễ lạy không đến nhà thờ; không làm việc cách tích cực thì cha sở đừng trông mong giáo dân thân thiện với ngài, bởi vì cha sở nhạy cảm một nhưng giáo dân nhạy cảm gấp đôi các ngài, nhất là trong việc nhìn xem cha sở mình có tích cực làm việc mục vụ hay không rồi sau đó mới cộng tác.
Có một vài linh mục trẻ khi được sai phái đến làm cha phó một họ đạo nào đó thì khoáng trắng cho cha sở, còn mình thì làm việc cách tiêu cực, cha sở phân công thì làm mà không phân công thì thôi, ngồi chơi xơi nước hoặc làm việc không mấy có trách nhiệm. Đương nhiên trách nhiệm là của cha sở, nhưng trên cương vị cha phó hay cha phụ tá cũng đều có trách nhiệm trong phạm vi của mình, mà trách nhiệm này trước hết chính là phần vụ của linh mục tức là làm công việc truyền giáo dù cho làm cha sở hay cha phó, cha phụ tá hay làm bất cứ chức vụ nào chăng nữa cũng đều phải làm bổn phận của một linh mục.
Chúa Giê-su đã làm việc không biết mệt mỏi, đôi chân Ngài rảo khắp miền Galilêa để rao giảng, tìm và chữa lành những người đau yếu tật nguyền, cho nên có rất nhiều người đã đi theo Ngài mà không thiết đến ăn uống sự chuyên cần tích cực này rất đáng để cho chúng ta noi theo, và coi đây là một phương pháp, một bí quyết để thành công trong việc truyền giáo của mình.
Làm việc tác dụng rất nhiều trên đời sống tu đức của các linh mục, khi làm việc với các đoàn thể trong giáo xứ các linh mục sẽ nhận ra giáo dân của mình có những khả năng mà mình không ngờ đến, họ có thể giúp đỡ mình trong việc điều hành giáo xứ. Một linh mục làm việc nhiều là một linh mục luôn nhạy bén ứng xử năng động trong mọi tình huống của giáo xứ, nhưng cái quan trọng hơn, khi một linh mục dành nhiều thời gian cho việc mục vụ để phát triển giáo xứ, thì chính các ngài đã cảm thấy có một nhu cầu bức thiết hơn xuất hiện trong nội tâm của mình, đó là nhu cầu cầu nguyện, bởi vì càng làm việc càng thấy gánh càng nặng, càng thấy mình quá bất lực, nên cần phải xin Thiên Chúa ban thêm ơn cho mình để điều hành giáo xứ, và chăm nom các linh hồn mà Thiên Chúa đã trao cho mình.
Truyền giáo là mệnh lệnh của Thầy chí thánh –Chúa Giê-su- đã truyền cho các môn đệ của Ngài, trong đó có chúng ta là những linh mục được tuyển chọn để -ưu tiên- thực hành mệnh lệnh ấy. Vì thế không có một lý do gì để chúng ta khoán trắng việc truyền giáo cho người khác, mà người khác ấy cụ thể là cha sở hay cha phó của mình, hoặc khoán trắng cho giáo dân mà cụ thể là ban hành giáo.
Có một vài giáo xứ có mới các thầy đại chủng viện đến giúp xứ để thực tập mục vụ như dạy giáo lý, tập hát, dạy giúp lễ.v.v... giúp cho cha sở nhiều trong vấn đề mục vụ, đây là việc làm đúng và rất có ích cho các thầy sau này. Nhưng các cha sở (cha phó) phải luôn xác định rằng: các thầy đến để thực tập chứ không phải là đến để làm cha sở hay cha phó, cho nên đừng mỗi cái mỗi giao cho các thầy làm, còn mình thì rảnh tay để đi đánh ping-pong hoặc đánh cờ, hoặc tán ngẫu ở nhà.
Tôi có thấy ở một giáo xứ nọ, trong nhà cha sở có hai, ba thầy giúp xứ, khi có đám tang thì cha sở chỉ dâng lễ an táng, còn liệm xác và đưa ra phần mộ thì ngài lại giao cho một trong các thầy ấy đi ra huyệt mộ làm các nghi thức, còn cha sở ở nhà uống trà. Giáo dân rất không thích như thế, bởi vì không có cha sở thì thôi, chứ đã có cha sở thì cha sở nên đưa ra đến huyệt mộ cho trọn tình trọn nghĩa với người chết là giáo dân của mình, hơn nữa cũng là một việc truyền giáo cho các giáo hữu còn sống, nhất là với gia đình tang chế...
Làm việc chuyên cần là cách khẳng định năng lực quản lý giáo xứ của mình, không một linh mục nào mới chịu chức mà giám mục giao trách nhiệm làm cha sở ngay (ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như tân linh mục đã giúp xứ quá lâu mười mấy hai chục năm, nay mới được chịu chức), cho nên phải tập làm việc ngay khi còn làm cha phó hay cha phụ tá, đừng nghĩ rằng bây giờ làm cha phó thì cứ tà tà mà làm, đợi đến khi làm cha sở rồi làm luôn thì lầm to, bởi vì không ai đưa một người không biết làm việc hoặc làm việc cách hời hợt lên làm cha sở, vì như thế có nghĩa là giám mục “đem gánh nặng trút lên đầu giáo dân, bắt họ chịu đựng một ông cha sở không biết làm việc mà chỉ biết hưởng thụ và đòi hỏi”. Do đó không một giám mục hay bề trên nào cho bài sai một linh mục mới chịu chức đi làm cha sở ngay, nhưng phải làm phó hoặc phụ tá một hai năm...
Thiên Chúa là tình yêu, vì yêu mà Ngài làm việc không ngơi nghỉ để giữ gìn công trình sáng tạo của Ngài trong vũ trụ, Ngài làm việc nơi những con người thành tâm thiện chí vì lẽ công bằng và vì tình yêu thương đồng loại, và đặc biệt Thiên Chúa làm việc không ngơi nghỉ nơi các linh mục, là những người cộng tác đắc lực nhất của Ngài. Do đó, khi một linh mục không cảm thấy mình có trách nhiệm chu toàn bổn phận, thì là lãng phí ơn riêng của Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Đừng sợ mình không có tài mà không làm, và cũng đừng lo là mình không có khả năng để làm, nhưng hãy mạnh dạn bắt tay vào việc với tinh thần vui tươi và lạc quan, Thiên Chúa sẽ gởi người tới phụ giúp chúng ta hoàn thành công tác, bởi vì không một người cha nào nhìn thấy con cái vất vả làm không xong việc mà không ra tay giúp đỡ ! Thiên Chúa chắc chắn là một người cha tuyệt vời hơn tất cả mọi người cha trên thế gian này.
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”. Vâng, đó là kinh nghiệm của người xưa và người thời nay, thử hỏi các linh mục lớn tuổi (cha sở) ngài sẽ chia sẻ cho những kinh nghiệm mục vụ đầy những mồ hôi và nước mắt, hãy nhìn những thành quả trong giáo xứ của chúng ta, thì thấy các cha sở trước đã vất vả như thế nào để xây dựng giáo xứ đẹp đẽ như ngày hôm nay, để thấy câu thánh vịnh trên đây thật chí lý và khích lệ cho chúng ta.
e. Suy tư. (tứ giống)
Các linh mục trẻ thân mến,
Có một vài anh em linh mục trẻ khi lên toà giảng để giảng thì giáo dân không biết ngài giảng cái gì, bởi vì ngài quá ỷ y vào tài lợi khẩu của mình nên chỉ một câu nói mà cứ nói lui nói tới, nói lòng vòng không đầu không đuôi; có một vài linh mục trẻ khi giảng thì không biết đối tượng mình giảng là ai, nên các ngài trích dẫn hết lập luận này đến lập luận kia, hết tổng luận thần học rồi đến tư duy triết lý, làm cho giáo dân nghe ngài giảng mà không hiểu gì cả, thật uổng công cho các ngài soạn bài giảng, và uổng công cho các giáo dân náo nức nghe cha giảng...
Sống là giảng và giảng là sống, sống sao giảng vậy, thì thu hút và đánh động tâm hồn người khác, hơn là lấy y chang bài giảng của người khác để giảng, bởi vì bài giảng của người khác thì chỉ gợi ý cho chúng ta mà thôi, chứ không như chúng ta sống, cho nên một linh mục thiếu suy tư thì cũng rất ít sống theo tinh thần Phúc Âm, và chắc chắn là các ngài không có chất liệu gì của mình để giảng dạy cho giáo dân.
Ruộng cày thật tơi xốp, nước nôi đầy đủ, chuyên cần có thừa, nhưng lúa giống không có hoặc giống xấu thì không thể đạt năng xuất được. Cũng vậy, trên cánh đồng truyền giáo mọi thứ đều được chuẩn bị đầy đủ, cha sở thức khuya dậy sớm để lo việc tổ chức mà không còn giờ để suy niệm về Lời Chúa, hay nói cách khác, cha sở không đào sâu kho tàng ân sủng của Thiên Chúa trong thánh kinh cũng như trong các loại sách thiêng liêng, thì không thể hướng dẫn giáo dân hăng hái tiến bước trên con đường mà mình đã làm sẵn cho họ đi.
Có giáo dân mỗi lần đi họp Legio Mariae về thì nói với nhau: cha linh hướng hôm nay nói gì đâu không ăn nhằm gì tới Legio; có các bạn trẻ thanh niên mỗi lần đến họp hành cũng chẳng thấy cha tuyên uý của mình nói câu gì cho mơi mới chút xíu, cứ lui tới nhắc nhở các bạn trẻ sống làm gương tốt, mà ngài thì không đưa ra những hình ảnh và phương pháp cụ thể để cho các bạn thấy mà học theo...
Suy tư, không nhất thiết là phải ngồi lỳ đóng cửa cả ngày trong phòng để tìm ý tưởng; suy tư, cũng không nhất thiết là phải tra cứu sách này sách nọ cho nó oai, để khi giáo dân có hỏi thì nói mình dọn bài dọn vở để soạn bài giảng căng thẳng cả đầu óc ! Nhưng bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể suy tư và áp dụng vào trong cuộc sống của mình:
-Suy tư khi thấy một tai nạn.
-Suy tư khi thấy một đám ma.
-Suy tư khi thấy một em bé đang khóc vì đói.
-Suy tư khi đọc được một câu chuyện hay.
-Suy tư khi nghe một lời chửi bới của bạn bè.
-Suy tư khi nghe hát một bài hát...
Tóm lại là bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể suy tư, và những suy tư ấy sẽ rất có ích cho cá nhân của mình, cũng như cho cộng đoàn mà mình đang phục vụ.
Càng suy tư thì càng có chất liệu để giảng dạy, mà chất liệu hiệu quả nhất chính là mình sống những gì mình đã suy tư và cảm nghiệm, bởi vì không ai cho cái mà mình không có...
Một linh mục luôn suy tư là một linh mục dễ dàng thông cảm với những khuyết điểm của người khác nhất.
Một linh mục luôn suy tư là một linh mục luôn hoà nhã với mọi người.
Một linh mục luôn suy tư là một linh mục luôn có “bảo bối” là Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để hướng dẫn người khác đi theo mục đích mà Chúa Giê-su cũng như Giáo Hội của Ngài mong muốn.
Trong suy tư các ngài cảm nghiệm được tính liên đới mình với người khác, cảm nghiệm được những thiếu sót sai lầm của người khác cũng chính là thiếu sót và sai lầm của mình hôm qua cũng như ngày mai, và như thế các ngài rất dễ dàng nhận thấy vai trò linh mục mục tử của mình có ý nghĩa phục vụ hơn là lãnh đạo, tìm và chữa lành hơn là trừng phạt và răn đe, yêu thương hơn là kiểu cách, cũng có nghĩa là các ngài sẽ khiêm tốn hơn khi vấp phải vấn đề tế nhị giữa mục tử và giáo dân trong việc quản trị và điều hành giáo xứ.
Một trong những bổn phận của linh mục là giảng dạy, ngoài việc giảng dạy trên toà giảng thì các ngài cũng sẽ giảng dạy nơi các đoàn thể trong giáo xứ như hội Legio Mariae, hội Con Đức Mẹ, đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, hội Vinh Sơn.v.v... do đó mà các ngài cần phải suy tư nhiều hơn nữa về vai trò mục tử của mình, về những vấn nạn mà các đoàn thể đã và đang gặp phải...
Có những anh em linh mục trẻ chuẩn bị bài giảng trước cả mười ngày rất công phu, có những linh mục trẻ rất lo lắng khi soạn bài giảng, tất cả các anh em linh mục trẻ này đều có ý thức về bài giảng của mình, ngược lại có một vài anh em linh mục trẻ thấy mình đã đạt đến mức độ xuất khẩu thành bài giảng nên không chuẩn bị bài giảng gì cả, cứ lên toà giảng thì nói thao thao không ý không tứ, không đầu không đuôi và cuối cùng thì giảng như máy bay không có bãi đáp.
Nhưng tệ hơn là có một vài linh mục không thích suy tư, không thích soạn bài giảng, và nếu có soạn thì chỉ chú trọng đến bài giảng ngày chủ nhật mà thôi, cho nên khi họp các đoàn thể thì không có những lời lẽ để giáo huấn họ, mà nếu có nói thì nói chung chung kỳ họp trước cũng như kỳ họp này, không có ý tưởng đào sâu, làm cho giáo dân cảm thấy đơn điệu, và không lạ gì khi các thành viên của các đoàn thể đi họp rời rạc và ngày càng ít đi, dĩ nhiên là có những lý do khách quan khác, nhưng lý do “đi họp chán quá” cũng là vấn đề làm cho chúng ta –các cha sở- phải xét lại cách giáo huấn dạy dỗ của mình.
Tôi thấy có một vài anh em linh mục trẻ, sau khi dâng lễ sáng xong thì xách xe chạy một lèo đến chiều tối mới về, không ngồi yên ở nhà được; có anh em linh mục thì không bao giờ cầm đến một tờ báo hay đọc một cuốn sách thiêng liêng, nếu có đọc thì chỉ năm phút sau là...ngủ gật, thật uổng phí thời giờ. Theo kinh nghiệm bản thân mình, các cha sở (cha phó) nên kiếm việc mà làm hoặc phát huy khả năng của mình như sáng tác nhạc, viết sách, dịch sách; hoặc tay nghề của mình như làm thợ sửa cái bục giảng đang hư, sơn lại cái ghế quỳ.v.v... những công việc ấy sẽ giúp cho các linh mục rất nhiều trong cuộc sống tu đức, những lúc công việc nhà xứ rỗi rảnh thì bắt tay vào làm những việc ấy, để không còn thời gian để suy nghĩ lung tung, xách xe chạy đi tán dóc, coi xi nê, đánh cờ tướng mất cả ngày giờ mà không ích lợi gì cho công tác mục vụ của mình.
Mỗi ngày bỏ ra ít là một giờ để đọc sách và viết xuống những suy tư của mình, một tháng sau đọc lại thì thấy ý tưởng của mình tiến bộ, ý lực dồi dào và súc tích hơn, và mỗi năm sẽ tích luỹ được nhiều vốn liếng suy tư, thì lo gì mà không có chất liệu để giảng dạy chứ, đó là kinh nghiệm mà tôi thường chia sẻ với các anh em linh mục trẻ trong dòng của chúng tôi, và kinh nghiệm này đã giúp tôi có những suy tư rất đời thường nhưng rất thực tế, có ảnh hưởng trên đời sống giáo dân khi giảng dạy.
Suy tư là hạt giống để gieo vào mảnh đất truyền giáo của giáo xứ của mình, bởi vậy nó có giá trị không những cho đời sống tu đức của linh mục, mà còn có ích cho đời sống tâm linh của giáo dân trong giáo xứ của mình.
Có giáo dân than phiền về bài giảng của các linh mục trẻ quá dài và quá thiên về lý thuyết thần học triết lý, mà không đi vào thực tế sống đạo của người Ki-tô hữu, do đó mà họ cảm thấy rất “mệt” khi nghe các ngài giảng.
Tôi còn nhớ sau khi tốt mãn khóa học tại đại chủng viện thánh Tôma (Đài Bắc-Đài Loan) trở về nhà dòng và được sai đi giúp xứ, sau thánh lễ chủ nhật tôi đang ở trong phòng mặc áo của nhà thờ, thì có một giáo dân trung niên đến nói với tôi như sau: “Thưa thầy, nếu sau này thầy làm linh mục, khi giảng lễ thì xin thầy giảng Phúc Âm cách thực tế trong cuộc sống, để chúng tôi còn hiểu được và dễ thực hành, thầy đừng như cha sở hôm nay giảng gì mà tụi tôi không hiểu gì cả...” – Và kể từ hôm đó cho đến nay (và mãi sau này) tôi vẫn luôn nhớ đến lời góp ý chân thành của người giáo dân ấy, thế là tôi bắt đầu suy tư cách thực tế của đời sống làm người với tinh thần Phúc Âm là sống, là chia sẻ, là cảm nghiệm chứ không phải là lý thuyết sách vở...
Giáo dân không hiểu bài giảng của linh mục, thì không thể bắt họ sống tốt tinh thần Phúc Âm của Chúa Giê-su, linh mục giảng mà không có tâm tình chia sẻ thực tế, thì không phải là bài giảng “nhớ đời” của giáo dân khi nghe các ngài giảng.
B. GIÁO DÂN
Linh mục được sai đi để phục vụ chứ không để được phục vụ, cho nên linh mục phải xác định cho rõ ràng đối tượng mà mình phục vụ chính là giáo dân, họ là những thành phần của dân Thiên Chúa tức là Hội Thánh địa phương mà mình đang phục vụ.
Giáo dân là thành phần dân của Thiên Chúa, tức là những thành phần được tuyển chọn để trở thành một dân tộc thánh, dân tộc được cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giê-su, cho nên họ cũng có những đặc ân mà Thiên Chúa ban cho họ qua bí tích Rửa Tội và các bí tích khác mà họ đã lãnh nhận, cho nên linh mục được sai đến là đến với họ, cũng có nghĩa là từ giây phút này đây tôi được sai đến đây để phục vụ, và cộng đoàn giáo xứ này chính là gia đình của tôi chứ, không phải là cộng đoàn mà tôi phục vụ trước đó.
Có một vài linh mục đang phục vụ ở giáo xứ này mà lòng vẫn còn nghĩ đến giáo xứ trước đó, nên một vài tháng lại ghé đến thăm một nhà giáo dân mà mình quen thân và ở đó trọn ngày, hoặc là thỉnh thoảng giáo dân ở giáo xứ ấy có tổ chức gì thì mời riêng ngài đến tham dự...
Tình cảm giáo dân dành cho cha sở cũ của mình là điều đáng quý và đáng trân trọng, nhưng đa phần giáo dân không biết luật lệ Giáo Hội, cho nên có khi tình cảm đi quá đà mà quên mất ngài bây giờ không còn là cha sở của mình nữa, nhưng giáo xứ mình bây giờ đã có mục tử (linh mục) khác coi sóc, cho nên các linh mục trẻ cần phải để ý trong vấn đề rất tế nhị này, bằng không sẽ mang tiếng là cha sở không mặn nồng với giáo xứ mà ngài mới được sai đến.
Tất cả mọi giáo dân trong giáo xứ đều là con chiên bổn đạo của mình, cho nên, họ có quyền đòi hỏi cha sở (cha phó) đối xử bình đẳng với họ như mọi người, họ cảm thấy bức xúc khi cha sở của mình hể rảnh rỗi là đến nhà ông nọ bà kia ăn uống giải trí mà không đi đến các nhà khác. Trong cách đối xử này của cha sở (cha phó) sẽ làm cho việc truyền giáo của ngài, cụ thể là lời giảng dạy- sẽ mất đi sức thu hút và giảm đi sự kính mến của giáo dân nơi các ngài.
1. Kính trọng giáo dân lớn tuổi
Các bạn linh mục trẻ thân mến,
Một lần nọ, có giáo dân nói với tôi: “Linh mục X... tuy còn trẻ, tuổi chỉ đáng làm cháu bà Y..., vậy mà lớn tiếng la lối với bà ngay trong nhà thờ sau thánh lễ, không biết linh mục ấy có học nhân bản không ?”
Tôi có thể chia sẻ với các linh mục trẻ rằng, phách lối la mắng những giáo dân lớn tuổi đều là thái độ của ma quỷ đội lốt linh mục, bởi vì linh mục là thầy dạy nhân đức, tức là dạy giáo dân của mình biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người, chứ không phải dạy con người ta làm điều xấu xa, mà cái xấu xa nổi bật nhất của ma quỷ chính là dạy con người ta làm đảo lộn trật tự tự nhiên của Thiên Chúa đã đặt sẵn trong vũ trụ và trên con người, mà cái trật tự tự nhiên là con cái phải yêu thương và thảo kính cha mẹ, người nhỏ tuổi phải biết kính nhường người lớn tuổi, trẻ em phải biết lễ phép, mọi người đều phải biết tôn trọng lẫn nhau...
Tôi đã thấy một linh mục trẻ nọ nói với giáo dân đáng tuổi của bố mình rằng : “Ông là đứa ngu, không biết gì cả”. Ông giáo dân tội nghiệp ấy “ngu” cũng phải, vì ông đâu có học phụng vụ như cha sở để thành thạo giúp lễ cho ngài. Chúa Giêsu đã nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta: “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng” , lời này của Chúa Giê-su không một ai được miễn trừ, không một ai được viện cớ chức này chức nọ mà mắng anh em chị em là đồ ngu, bởi vì tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau trước mặt Thiên Chúa.
Linh mục là người cần phải có thái độ kính trọng những người lớn tuổi hơn mình, bất luận họ là giáo dân hay người ngoại giáo, tuổi đời của họ cũng đều đáng để cho chúng ta kính trọng; linh mục không kính trọng người lớn tuổi thì không thể dạy giáo dân mình thảo kính cha mẹ; linh mục không tôn trọng người già thì đừng mong giáo xứ của mình có tôn ti trật tự.
Một linh mục biết kính trên nhường dưới là một linh mục rất dễ dàng thân cận với giáo dân của mình, bởi vì nơi ngài người ta thấy được chức linh mục cao quý chứ không thấy con người phàm tục của các ngài, trái lại một linh mục luôn xấc láo với người già cả, kẻ cả với người trang lứa, thì người ta sẽ không nhìn thấy chức linh mục nơi các ngài, nhưng người ta sẽ nhìn thấy ngài là con người với những thói xấu sân si như người thường mà thôi.
Kính trọng người già cả còn là hợp với đạo lý của người Việt Nam chúng ta kính lão đắc thọ, thọ đây có thể là sống lâu ở đời này cũng như được hưởng phúc trường sinh mai sau trên thiên đàng với Thiên Chúa. Là nhà mô phạm, các linh mục luôn tự nói với mình rằng: tôi sẽ là tấm gương sáng cho giáo dân noi theo trong việc kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, do đó mà người linh mục luôn trở thành ngọn đèn sáng, hướng dẫn giáo dân của mình đi theo con đường của Phúc Âm của Chúa Giêsu dạy.
Kính trọng người già cả là biểu lộ một tâm hồn khiêm cung nơi các linh mục, yêu mến và thân tình với họ chính là việc làm chính đáng của người môn đệ Chúa Giê-su, cho nên sẽ rất phản giáo dục và trái với đạo đức nếu chúng ta –các linh mục trẻ- coi thường và khinh dể các vị cao niên trong cộng đoàn giáo xứ của mình.
(còn tiếp)
[Sách có bán tại các nhà sách Công Giáo Saigon]
-------------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com