Ngày 26-07-2022
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 27/07: Nước trời là kho tàng bền vững và Chúa Giêsu là viên ngọc quý đích thực – Lm. Giuse Phêrô Vũ Hải Đăng, SDD
Giáo Hội Năm Châu
03:08 26/07/2022


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

Khi ấy, Đức Giê-su kể cho dân chúng nghe dụ ngôn này: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”

Đó là lời Chúa
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:05 26/07/2022

13. Để chúng ta yêu Đấng chất chứa mọi thiện hảo là Thiên Chúa.

(Thánh Augustinus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(trích từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


------------

http://www.vietcatholic.org

http://facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:11 26/07/2022
51. HIỆN TƯỢNG PHỔ THÔNG

Con muỗi và con bọ chét đều hút máu người mà sống, nhưng muỗi cắn người thì thường bị người đánh chết, nhưng bọ chét thì có thể nhảy khắp nơi, người không dễ gì bắt được nó.

Bọ chét chế nhạo muỗi:

- “Anh rõ ràng là có hai cánh tại sao lại không dùng để bảo vệ tính mạng mình?”

Muỗi cũng không hiểu nỗi, bèn cầu cứu với sâu bọ.

Sâu bọ nói:

- “Anh không cần buồn phiền, hành vi của anh là bản sắc anh hùng: muốn hút máu người trước tiên phải la to lên, cho nên người đã chuẩn bị trước và đợi anh bay đi thì đột nhiên đánh anh, không như bọ chét hút máu người, nhưng lại lặng lẽ nhảy lên ăn một miếng thì vội nhảy đi, người làm sao có thể bắt được nó, đó là hành vi xảo quyệt trộm cắp ! Ái dà, lòng người bây giờ không còn cổ xưa nữa, nề nếp xã hội ngày nay đi xuống, người xảo quyệt đắc ý, anh hùng hảo hán khổ mệnh, đó là hiện tượng phổ thông, chứ không phải chỉ một mình anh bị oan ức mà thôi”.

(Yết hậu ngữ)

Suy tư 51:

Hiện tượng phổ thông của người có văn hóa là lời nói cám ơn và xin lỗi luôn ở trên môi miệng của họ; hiện tượng phổ thông của các quan tham là “thủ tục đầu tiên”, hiện tượng phổ thông của xã hội là di dân từ thôn quê đến thành thị; hiện tượng phổ thông bây giờ của thanh niên nam nữ là sống hưởng thụ và đua đòi...

Hiện tượng phổ thông của người Ki-tô hữu là đi lễ nhà thờ và tham gia các hội đoàn, nhưng cũng có một vài hiện tượng phổ thông nữa là chia bè chia cánh để tự tung tự tác trong giáo xứ, cũng như trong cộng đoàn, hiện tượng này làm cho người ta không thấy được sự hợp nhất của người Ki-tô hữu, cho nên họ không thấy được điều hay điều tốt nơi người Ki-tô hữu.

Nhìn thấy những hiện tượng phổ thông ấy để tự hỏi mình: tôi phải làm gì với những hiện tượng phổ thông đã và đang xảy ra chung quanh tôi?

Đó cũng chính là ưu tư của các chủ chăn trong Giáo Hội, của những người có trách nhiệm, và của những người Ki-tô hữu trong thế giới ngày nay vậy !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


--------------

http://www.vietcatholic.org

http://facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn từ của Đức Thánh Cha trong cuộc gặp gỡ các thổ dân và cộng đoàn Công Giáo địa phương tại nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
02:55 26/07/2022


Như chúng tôi đã tường trình, lúc 10g sáng ngày thứ Hai 25 tháng 7, Đức Thánh Cha đã thăm Maskwacis, ngôi nhà của trường dành cho người bản địa Ermineskine trước đây, một trong những trường lớn nhất trong nước, cách Edmonton khoảng 100 km. Tại đây, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các dân tộc First Nations, Métis và Inuit.

Sinh hoạt thứ hai trong ngày diễn ra lúc 4g45 chiều, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các thổ dân và cộng đoàn Công Giáo địa phương tại nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Tôi rất vui khi có mặt ở đây cùng anh chị em và một lần nữa được nhìn thấy khuôn mặt của những đại diện bản địa khác nhau đã đến thăm tôi ở Rôma vài tháng trước. Chuyến thăm đó có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, và bây giờ tôi đã đến thăm nhà của anh chị em, với tư cách là một người bạn và người hành hương trên đất của anh chị em, trong nhà thờ này, nơi mọi người tụ họp như anh chị em với nhau để ca ngợi Chúa. Tại Rôma, sau khi lắng nghe câu chuyện của anh chị em, tôi đã tuyên bố rằng “bất kỳ quá trình chữa lành muốn thực sự có hiệu quả đều cần phải có những hành động cụ thể” (Bài phát biểu trước Đại diện Người bản địa ở Canada, ngày 1 tháng 4 năm 2022). Vì vậy, tôi rất vui khi thấy rằng tại giáo xứ này, nơi những người thuộc các cộng đồng khác nhau của các Quốc gia thứ nhất, người Métis và người Inuit hội ngộ cùng với những người không phải bản địa từ khu vực địa phương và nhiều anh chị em nhập cư của chúng ta, nỗ lực này đã bắt đầu. Nơi đây là ngôi nhà dành cho tất cả mọi người, cởi mở và hòa nhập, đúng như Giáo Hội nên là, vì Giáo Hội là gia đình của con cái Chúa, nơi mà lòng hiếu khách và sự chào đón, những giá trị tiêu biểu của văn hóa bản địa, là điều cần thiết. Một ngôi nhà mà tất cả mọi người đều cảm thấy được chào đón, bất kể những trải nghiệm trong quá khứ và những câu chuyện cuộc sống cá nhân. Tôi cũng muốn cảm ơn anh chị em vì sự gần gũi cụ thể mà anh chị em thể hiện thông qua các hoạt động bác ái của anh chị em với nhiều người nghèo - vì họ rất nhiều, ngay cả ở đất nước giàu có này. Đó là điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta, vì như Người đã nói đi nói lại trong Tin Mừng: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).

Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng trong Giáo Hội cũng vậy, lúa tốt được trộn lẫn với cỏ lùng. Và chính vì những điều đó, tôi muốn thực hiện chuyến hành hương đền tội này, mà tôi đã bắt đầu vào sáng nay bằng cách nhớ lại những việc làm sai trái của nhiều Kitô Hữu đối với người dân bản địa và bằng cách cầu xin sự tha thứ với lòng đau khổ. Tôi thật đau lòng khi nghĩ rằng những người Công Giáo đã góp phần vào các chính sách đồng hóa và thực dân làm gia tăng cảm giác thấp kém, cướp đi bản sắc văn hóa và tinh thần của cộng đồng và cá nhân, cắt đứt cội nguồn và nuôi dưỡng thái độ thành kiến và phân biệt đối xử; và điều này cũng được thực hiện dưới danh nghĩa của một hệ thống giáo dục mang danh Kitô giáo. Giáo dục luôn phải bắt đầu từ sự tôn trọng và phát huy những tài năng đã có ở các cá nhân. Nó không phải là, cũng không bao giờ có thể là, một thứ gì đó được đóng gói sẵn và áp đặt. Giáo dục là một cuộc phiêu lưu, trong đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu và khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Tạ ơn Chúa, vì trong những giáo xứ như thế này, từng ngày, qua sự gặp gỡ, những nền tảng đang được đặt ra để hàn gắn và hòa giải.

Hòa giải. Chiều nay, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số suy ngẫm về từ này. Chúa Giêsu nói gì với chúng ta về sự hòa giải, và nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay? Anh chị em thân mến, sự hòa giải do Chúa Kitô mang lại không phải là thỏa thuận để duy trì hòa bình bên ngoài, một thỏa thuận của các quý ông nhằm giữ cho mọi người vui vẻ với nhau. Đó cũng không phải là một nền hòa bình từ trên trời rơi xuống, được áp đặt từ trên cao, hoặc bằng cách đồng hóa với nhau. Thánh Phaolô Tông đồ nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu hòa giải bằng cách quy tụ lại với nhau, bằng cách biến hai nhóm xa nhau thành một: một thực tại, một linh hồn, một dân tộc. Và làm thế nào để Người làm điều đó? Thưa: Qua thập giá (xem Ep 2,14). Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta với nhau trên thập tự giá, trên “cây sự sống”, như các Kitô hữu cổ đại yêu thích gọi như thế.

Anh chị em, những người anh chị em bản địa thân yêu của tôi, anh chị em có nhiều điều để dạy chúng tôi về biểu tượng và ý nghĩa quan trọng của cây. Được kết hợp với trái đất bởi rễ của nó, một cái cây cung cấp oxy qua lá và nuôi dưỡng chúng ta bằng quả của nó. Thật ấn tượng khi thấy biểu tượng của cái cây được phản ánh như thế nào trong kiến trúc của nhà thờ này, nơi một thân cây tượng trưng cho sự kết hợp trái đất bên dưới và bàn thờ trên đó Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trong Bí tích Thánh Thể trong “một hành động của tình yêu vũ trụ kết hợp giữa trời và đất, bao trùm và thâm nhập vào mọi tạo vật “(Laudato Si ', 236). Biểu tượng phụng vụ này làm tôi nhớ đến những lời tuyệt vời mà Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị đã nói ở đất nước này: “Chúa Kitô làm sống động chính trung tâm của mọi nền văn hóa. Như vậy, không chỉ Kitô giáo phù hợp với dân Da Đỏ, mà trong các chi thể của Thân thể Người, chính Chúa Kitô cũng là người Da Đỏ” (Phụng vụ Lời Chúa với Dân bản xứ Canada, ngày 15 tháng 9 năm 1984). Trên thập tự giá, Chúa Kitô đã hòa giải và gắn kết lại mọi điều tưởng như không thể tưởng tượng được và không thể tha thứ được; Ngài bao dung tất cả mọi người và mọi thứ. Mọi người và mọi thứ! Các dân tộc bản địa gán một ý nghĩa vũ trụ mạnh mẽ cho các điểm cốt yếu, không chỉ được coi là các điểm tham chiếu địa lý mà còn là các chiều kích bao trùm tất cả thực tại và chỉ ra cách để chữa lành nó, như được thể hiện bởi cái gọi là “bánh xe thuốc”. Nhà thờ này sử dụng tính biểu tượng đó của các điểm chính và cho nó một ý nghĩa Kitô học. Chúa Giêsu, qua bốn cực điểm của thập tự giá của mình, đã nắm lấy bốn điểm cốt yếu và đã quy tụ các dân tộc xa xôi nhất lại với nhau; Người đã đem lại sự chữa lành và bình an cho muôn vật (x. Ep 2,14). Trên thập giá, Người đã hoàn thành chương trình của Thiên Chúa là “hòa giải muôn vật” (x. Cl 1,20).

Anh chị em thân mến, điều này có ý nghĩa gì đối với những người đang mang trong mình những vết thương lòng đau đớn như vậy? Ngay cả khi nghĩ đến việc hoà giải, tôi có thể hình dung nỗ lực cần phải bỏ ra, đối với những người đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ vì những người nam nữ lẽ ra phải nêu gương sống đạo Chúa Kitô. Không gì có thể lấy đi sự vi phạm nhân phẩm, kinh nghiệm về điều ác, sự phản bội của lòng tin. Hoặc loại bỏ sự xấu hổ của chính chúng ta, với tư cách là những người có niềm tin. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tiến vào một cuộc sống mới, và Chúa Giêsu không dành cho chúng ta những lời tốt đẹp và ý định tốt, mà là thập giá: tình yêu tai tiếng khiến tay chân bị đâm xuyên, và đầu đội mão gai. Đây là con đường phía trước: cùng nhau nhìn về phía Chúa Kitô, Đấng đầy yêu thương bị phản bội và bị đóng đinh vì lợi ích của chúng ta; hãy nhìn lên Chúa Kitô, đã bị đóng đinh trong nhiều học sinh của các trường nội trú. Nếu chúng ta muốn được hòa giải với nhau và với chính mình, được hòa giải với quá khứ, với những sai trái đã phải chịu đựng và những kỷ niệm bị thương, với những kinh nghiệm đau thương mà không một sự an ủi nào của con người có thể chữa lành được, thì chúng ta phải ngước mắt lên nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh; hòa bình phải đạt được nơi bàn thờ thập tự giá của Ngài. Vì chính trên cây thập tự giá, nỗi buồn được biến thành tình yêu, sự chết thành sự sống, thất vọng thành hy vọng, từ bỏ thành tương giao, xa cách thành hiệp nhất. Sự hòa giải không chỉ đơn thuần là kết quả của những nỗ lực của chính chúng ta; đó là một ân sủng tuôn chảy từ Chúa chịu đóng đinh, một sự bình an tỏa ra từ trái tim của Chúa Giêsu, một ân sủng cần phải được tìm kiếm.

Có một khía cạnh khác của sự hòa giải mà tôi muốn đề cập. Thánh Phaolô Tông đồ giải thích rằng Chúa Giêsu, nhờ thập tự giá, đã hòa giải chúng ta trong một thân thể (xem Ê-phê-sô 2:14). Ngài đang nói về cơ thể nào vậy? Thưa: Đó là thân thể của Giáo Hội. Giáo Hội là cơ thể hòa giải sống động này. Nếu chúng ta nghĩ về nỗi đau lâu dài mà rất nhiều người trong các cơ sở Giáo Hội phải trải qua ở những nơi này, chúng ta không cảm thấy gì khác ngoài sự tức giận và xấu hổ. Điều đó xảy ra bởi vì các tín hữu bị thế tục hóa, và thay vì thúc đẩy sự hòa giải, họ đã áp đặt các mô hình văn hóa của riêng mình. Cũng từ quan điểm tôn giáo, thái độ này không dễ vượt qua. Thật vậy, việc ép buộc Chúa trên con người có vẻ dễ dàng hơn là để họ đến gần Chúa. Tuy nhiên, điều này không bao giờ hiệu quả, bởi vì đó không phải là cách Chúa muốn. Ngài không ép buộc chúng ta, Chúa Giêsu không đàn áp hoặc áp đảo; thay vào đó, Ngài yêu mến, Ngài giải phóng, Ngài để chúng ta tự do. Ngài không nâng đỡ qua Thánh Linh của Ngài những kẻ thống trị người khác, những kẻ đã nhầm lẫn Tin Mừng về sự hòa giải của chúng ta với chiêu dụ tín đồ. Người ta không thể tuyên xưng Thiên Chúa theo cách trái ngược với chính Thiên Chúa. Chưa hết, điều này đã xảy ra biết bao nhiêu lần trong lịch sử! Trong khi Thiên Chúa hiện diện một cách đơn giản và lặng lẽ, chúng ta luôn có cám dỗ để áp đặt Ngài, và áp đặt mình nhân danh Ngài. Cám dỗ của thế gian muốn Ngài bước xuống khỏi thập tự giá và thể hiện quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trên thập tự giá, không phải bằng cách xuống khỏi thập tự giá. Dưới chân thập giá, có những kẻ chỉ nghĩ đến mình và không ngừng cám dỗ Đức Kitô, bảo Người hãy tự cứu mình (x. Lc 23,35,36) và đừng nghĩ đến người khác. Nhân danh Chúa Giêsu, xin cho điều này không bao giờ xảy ra nữa trong Hội Thánh. Xin Chúa Giêsu được rao giảng như Ngài mong muốn, trong tự do và bác ái. Trong mỗi người bị đóng đinh mà chúng ta gặp gỡ, xin cho chúng ta thấy không phải là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được yêu thương, là xác thịt của Chúa Kitô được yêu thương. Xin cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là một thân thể sống động của sự hòa giải!

Từ “hòa giải” trên thực tế đồng nghĩa với từ “Giáo Hội”. Nó xuất phát từ thuật ngữ “cộng đồng”, và nó có nghĩa là “gặp lại nhau trong cộng đồng”. Nhà thờ là ngôi nhà nơi chúng ta “hòa giải” một lần nữa, nơi chúng ta gặp nhau để bắt đầu lại và cùng nhau phát triển. Đó là nơi mà chúng ta ngừng suy nghĩ với tư cách cá nhân và thừa nhận rằng chúng ta là anh chị em của nhau. Nơi chúng ta nhìn vào mắt nhau, chấp nhận lịch sử và văn hóa của người kia, và cho phép mầu nhiệm cùng nhau, rất đẹp lòng Chúa Thánh Thần, thúc đẩy việc chữa lành những ký ức bị thương. Đây là cách: không phải quyết định thay cho người khác, không phải nhốt tất cả mọi người trong phạm vi định kiến của chúng ta, nhưng là đặt mình trước Chúa bị đóng đinh và trước anh chị em của chúng ta, để học cách bước đi cùng nhau. Đó là điều mà Giáo Hội nên và luôn phải như vậy - nơi mà thực tế luôn vượt trội hơn so với các ý tưởng. Đó là điều mà Giáo Hội luôn phải như vậy - không phải là một tập hợp các ý tưởng và giới luật để đào sâu vào con người, mà là một ngôi nhà chào đón tất cả mọi người! Đó là điều mà Giáo Hội là, và luôn luôn phải như vậy: một tòa nhà với những cánh cửa luôn mở, nơi tất cả chúng ta, như những đền thờ sống động của Thần Khí, gặp gỡ nhau, phục vụ lẫn nhau và được hòa giải với nhau. Anh chị em thân mến: những cử chỉ và lời thăm hỏi có thể quan trọng, nhưng hầu hết những lời nói và hành động hòa giải diễn ra ở cấp địa phương, trong những cộng đồng như thế này, nơi các cá nhân và gia đình đi cùng nhau, ngày qua ngày. Cùng nhau cầu nguyện, giúp đỡ nhau, chia sẻ những câu chuyện cuộc sống, những niềm vui chung và những khó khăn chung: đây là điều mở ra cánh cửa cho công việc hòa giải của Thiên Chúa.

Một hình ảnh cuối cùng có thể giúp chúng ta trong việc này. Ở đây, trong nhà thờ này, phía trên bàn thờ và nhà tạm, chúng ta nhìn thấy bốn cột của một cái lều điển hình của người bản địa, một chiếc teepee. Teepee này có tính biểu tượng sâu sắc trong kinh thánh. Khi dân Israel hành trình trong sa mạc, Thiên Chúa ngự trong một cái lều được dựng lên mỗi khi dân chúng dừng lại và cắm trại: đó là Lều Họp. Teepee nhắc nhở chúng ta rằng Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta và rất thích gặp gỡ chúng ta cùng nhau, trong hội họp, trong cộng đồng. Và khi xuống thế làm người, Tin Mừng cho chúng ta biết, theo nghĩa đen, Ngài đã “dựng lều của mình giữa chúng ta” (x. Ga 1,14). Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự gần gũi, và trong Chúa Giêsu, Ngài dạy chúng ta ngôn ngữ của lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng. Đó là điều chúng ta nên ghi nhớ mỗi khi bước vào một nhà thờ, nơi Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm, một từ mà bản thân ban đầu có nghĩa là “lều”. Vì vậy, Thiên Chúa đã đặt lều của Ngài ở giữa chúng ta; Ngài đồng hành với chúng ta qua các sa mạc của chúng ta. Ngài không ở trong những dinh thự trên trời, nhưng ở trong Giáo Hội của chúng ta, nơi mà Ngài muốn trở thành một ngôi nhà hòa giải.

Lạy Chúa Giêsu, bị đóng đinh và sống lại, Chúa ngự ở đây, ở giữa dân tộc của Chúa, và Chúa muốn vinh quang của Chúa tỏa sáng qua các cộng đồng và trong các nền văn hóa của chúng ta. Xin Chúa nắm lấy tay chúng con, và thậm chí băng qua những sa mạc của lịch sử, tiếp tục hướng dẫn những bước đi của chúng con trên con đường hòa giải. Amen.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Không có hài cốt nào được khai quật từ các khu mộ trường học nội trú của Canada
Vũ Văn An
06:20 26/07/2022

Hãng tin CNA, ngày 25 tháng 7 hôm qua, cho đăng tải bài viết của hai ký giả Zelda Caldwell và Katie Yoder cho hay: Vào ngày 27 tháng 5 năm 2021, tin tức cho hay những ngôi mộ không được đánh dấu có chứa hài cốt của trẻ em bản địa đã được phát hiện trong khuôn viên của một trường nội trú cũ ở British Columbia.

Trường nội trú Kamloops dành cho người bản địa, hoạt động từ cuối thế kỷ 19 đến cuối những năm 1970, nằm trong số các trường được chính phủ Canada tài trợ do Giáo Hội Công Giáo điều hành để cưỡng bức đồng hóa trẻ em bản địa.

Hơn một năm sau, không có thi thể nào được phát hiện tại địa điểm Kamloops. Không rõ liệu những ngôi mộ được cho là đã được phát hiện ở đó có thực sự hiện hữu hay không.

Chủ đề về các trường học nội trú đã được tập chú trở lại vào dịp chuyến đi đền tội của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada. Khi xin lỗi về vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc vận hành hệ thống trường học nội trú do chính phủ Canada tài trợ, ngài lấy làm ân hận về “sự tiêu diệt văn hóa và sự đồng hóa cưỡng bức” đã gây ra cho người dân bản địa của đất nước. Trẻ em bản địa bị bắt khỏi gia đình và bị cấm nói ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng.

Như một “điểm khởi đầu”, Đức Giáo Hoàng kêu gọi “một cuộc điều tra nghiêm túc về các sự kiện của những gì đã xảy ra trong quá khứ và để hỗ trợ những người sống sót trong các trường học nội trú được chữa lành những chấn thương mà họ phải chịu.”

Truyền thông điên cuồng làm sai lệch kết quả ban đầu

Căn nguyên của cuộc tranh cãi là các khu được cho là chôn cất đã được phát hiện ra sao. Radar xuyên đất đã thu được các hình ảnh, nhưng vẫn cần phải xác định liệu những hình ảnh đó có phải là những ngôi mộ hay không.

Nhìn lại, việc thông báo kết quả kiểm tra của radar đã được đưa ra với một cảnh cáo (caveat). Nó được coi là một phát hiện "sơ bộ", nhưng các phương tiện truyền thông và các chính trị gia đã nghe theo câu chuyện cho rằng những ngôi mộ tập thể được tìm thấy tại địa điểm của một trường nội trú cũ.

"Cuối tuần qua, với sự giúp đỡ của một chuyên gia radar xuyên đất, sự thật rõ ràng của những phát hiện sơ bộ đã được đưa ra ánh sáng - xác nhận hài cốt của 215 trẻ em là học sinh của Trường Nội trú bản địa Kamloops", Giám đốc Rosanne Casimir của tổ chức Cộng đồng Tk'emlúps te Secwépemc cho biết như thế sau thông báo ban đầu.

“Hài cốt của 215 trẻ em được tìm thấy tại trường nội trú Kamloops cũ: Quốc gia đầu tiên,” một tiêu đề viết như thế trên tờ Vancouver Sun. Lời dẫn của câu chuyện viết: “Một Quốc gia Đầu tiên ở B.C. đã xác nhận rằng hài cốt của 215 trẻ em là học sinh của Trường Nội trú Bản địa Kamloops đã được tìm thấy trong khu bảo tồn bằng cách sử dụng radar xuyên đất. "

Câu chuyện của Associated Press vào tuần đó đã làm cho kết quả radar có vẻ có giá trị dứt khoát: “Hài cốt của 215 trẻ em, một số chỉ mới 3 tuổi, đã được tìm thấy được chôn cất tại khu vực từng là trường nội trú bản địa lớn nhất Canada - một trong những định chế đã lấy trẻ em khỏi các gia đình trên toàn quốc."

Thủ tướng Justin Trudeau đã sử dụng ngôn ngữ tương tự trong một tuyên bố mà ông đưa ra một ngày sau khi kết quả nghiên cứu được công bố: “Tin tức về hài cốt được tìm thấy tại trường nội trú Kamloops cũ làm trái tim tôi tan nát - đó là một lời nhắc nhở đau đớn về chương đen tối và đáng xấu hổ đó của lịch sử nước ta. Tôi nghĩ tới tất cả mọi người bị ảnh hưởng bởi tin tức đau buồn này. Chúng tôi ở đây vì các bạn."

Trong báo cáo của mình về điều được nó gọi là “khám phá rùng rợn”, tờ the New York Post gọi địa điểm bị nghi ngờ là địa điểm chôn cất là một “ngôi mộ tập thể”.

Tờ Post cho biết: “Một ngôi mộ tập thể chứa đầy hài cốt của 215 trẻ em bản địa, một số chỉ mới 3 tuổi, đã được tìm thấy trong khuôn viên của một trường nội trú cũ ở Canada, nơi được biết đến với các hành vi lạm dụng thể lý, tình cảm và tình dục”.

Trong một câu chuyện được xuất bản vào ngày 7 tháng 6 năm 2021, với tiêu đề “Làm thế nào hàng ngàn trẻ em bản địa đã bị biến mất ở Canada,” tờ The New York Times đưa tin, “Hài cốt của hơn 1,000 người, chủ yếu là trẻ em, đã được phát hiện trong khuôn viên của ba trường nội trú cũ ở hai tỉnh của Canada kể từ tháng Năm.”

Những người hoài nghi đặt câu hỏi về bằng chứng

Jacques Rouillard, giáo sư danh dự Khoa Lịch sử tại Đại học Montreal, có câu hỏi về tính hợp lệ của bằng chứng. Radar xuyên đất có thể đã phát hiện ra điều gì đó, nhưng không nhất thiết phải là bãi chôn cất, ông gợi ý trong một bài báo cho tờ Dorchester Review.

Rouillard khẳng định rằng trong trường hợp của trường nội trú Kamloops, radar xuyên đất có thể cho chúng ta biết rất ít về những gì thực sự nằm dưới mặt đất.

Ông viết, “Bằng cách không bao giờ chỉ ra rằng đó chỉ là vấn đề suy đoán hoặc tiềm năng, và vẫn chưa tìm thấy hài cốt, các chính phủ và giới truyền thông chỉ đơn giản là dành tính đáng tin cho điều thực sự là một luận đề: luận đề về sự 'mất tích' của những trẻ em từ trường nội trú”.

Ông lưu ý rằng Sarah Beaulieu, nhà nhân chủng học đã thực hiện cuộc thử nghiệm radar ban đầu, đã cố gắng kiềm chế sóng thần trên các phương tiện truyền thông trong một cuộc họp báo ngày 15 tháng 7 năm 2021.

“Chúng ta cần lùi lại một chút và nói rằng chúng 'có lẽ là nơi chôn cất có thể có’, chúng là ‘mục tiêu được lưu ý’ chắc chắn thế", Beaulieu nói như vậy, đồng thời nói thêm rằng các địa điểm "được nhiều chữ ký trình bầy giống như các nơi chôn cất", nhưng "chúng ta cần nói rằng chúng có tính cái nhiên, cho đến khi người ta khai quật được."

Rouillard viết: “Tất cả những điều này chỉ dựa trên những bất thường của đất đai có thể dễ dàng được gây ra bởi sự di chuyển của rễ cây, như các nhà nhân chủng học đã cảnh cáo”.

Ngay sau khi câu chuyện Kamloops nổ ra, câu chuyện thứ hai đã tạo ra nhiều hàng tít lớn: radar dò tìm mặt đất đã phát hiện ra 751 ngôi mộ tại Trường nội trú Marieval Indian ở Saskatchewan.

Tờ The New York times (“Lịch sử kinh hoàng”: Ngôi mộ tập thể của trẻ em bản địa được báo cáo ở Canada ”) đã sử dụng thuật ngữ “ngôi mộ tập thể” để mô tả những gì được tìm thấy ở nơi đã trở thành một phần của Khu bảo tồn Quốc gia Đầu tiên Cowessess”.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo bản địa đã nói rõ ràng rằng không có ngôi mộ tập thể nào tại địa điểm Marieval. Trưởng Cadmus Delorme nói với CBC News, "Đây không phải là một khu mộ tập thể. Đây là những ngôi mộ không được đánh dấu."

Trên tờ National Post, Nhà báo Terry Glavin đã chỉ ra rằng những ngôi mộ được phát hiện vì có một nghĩa trang hiện có ở đó, một nghĩa trang Công Giáo được kết nối với Phái bộ Truyền giáo Trái tim Vô nhiễm của Mẹ Maria ở Marieval. Gavin viết, đây là lời giải thích có thể có cho 751 ngôi mộ được phát hiện.

Các cuộc khai quật trong tương lai không chắc có

Các nghiên cứu hoặc khai quật thêm có thể làm sáng tỏ tình hình. Vào tháng 5, tờ The New York Post đã báo cáo rằng không có cuộc khai quật nào tại Kamloops - và không có thông báo về ngày bắt đầu một cuộc khai quật. Báo cáo trích dẫn một phát ngôn viên của Tk’emlúps te Secwépemc, một ban nhạc ở Kamloops, nói rằng cho đến nay chưa có gì được đào lên từ mặt đất.

CBC, cùng tháng đó, trích dẫn Rosanne Casimir, Trưởng của Tk'emlúps te Secwépemc, nói rằng công việc có thể sớm bắt đầu tại ngôi trường cũ để khai quật và xác định hài cốt.

Casimir nói: “Chúng tôi đang sử dụng khoa học để hỗ trợ từng bước khi chúng tôi tiến hành. Chúng tôi hiện có toán đặc nhiệm kỹ thuật đã được gom góp gồm các giáo sư khác nhau cũng như nhà địa chất học kỹ thuật và chúng tôi tiếp tục làm việc với các chuyên gia radar xuyên đất.”

CBC báo cáo rằng các cộng đồng địa phương đang bị giằng xé về việc có nên đào những ngôi mộ không được đánh dấu tại các trường học nội trú hay không. Trong khi một số người sống sót tại trường coi việc khai quật là một cách để tưởng nhớ các nạn nhân một cách thích đáng, những người khác lại muốn họ không bị quấy rầy.

Người sống sót tại trường Kamloops và nhà thơ Garry Gottfriedson nói với CBC rằng "Tất cả chúng tôi ở trường nội trú đó đều biết rằng [thi thể] họ ở đó."

“Bây giờ, giống như nói,’Bạn có tin chúng tôi không?’ Khai quật những thi thể đó và đại loại là một cách để nói ‘Bây giờ, nếu đó là 215 người thân của bạn được đưa vào một ngôi mộ tập thể như vậy, hãy nói cho tôi biết làm thế nào bạn sẽ vượt qua được việc này’''

Năm ngoái tờ the New York Times đưa tin, ở Ontario, cảnh sát và văn phòng điều tra những vụ chết bất thường đã nhận được yêu cầu từ cảnh sát bản địa hỗ trợ điều tra tại Trường nội trú Mohawk Institute, nơi hồ sơ ghi nhận 54 học sinh tử vong,

Cộng đồng địa phương cho biết, có các thi thể ở đó.

Theo các nhà lãnh đạo của Sáu Quốc Gia Đầu tiên của vùng the Grand River, nơi ngôi trường từng tọa lạc, xương người đã được khai quật vào những năm 1980 và sau đó được chôn lại mà không có cuộc điều tra chính thức nào.

Trẻ em tại các trường này chết vì nhiều lý do, bao gồm bệnh tật (dễ lây lan do suy dinh dưỡng và điều kiện vệ sinh), tai nạn và tự tử. Tờ the Washington Post đưa tin vào năm ngoái rằng Cựu chủ tịch Ủy ban Sự thật và Hòa giải ở Canada, Murray Sinclair, cũng nhớ đã nghe những người sống sót làm chứng về việc trẻ sơ sinh bị giết vốn do các cô gái trẻ sinh ra và do các linh mục là cha sinh học.

“Đối với nhiều người Canada và đối với người trên khắp thế giới, những sự tìm thấy những trẻ em của chúng ta gần đây - được chôn cất không tên, không dấu, thất lạc và không có nghi lễ là điều gây sốc và không thể tin được”, RoseAnne Archibald, Trưởng toàn quốc Hội đồng các Quốc gia Đầu tiên, một tổ chức vận động toàn quốc để thúc đẩy nguyện vọng tập thể của các Quốc gia Đầu tiên cá thể và cộng đồng khắp Canada, cho biết trong một tuyên bố vào năm ngoái.

Bà nói thêm: "Không phải cho chúng tôi, chúng tôi luôn được biết đến."
 
Tổ chức bác ái Công Giáo cho biết khủng hoảng ở Ukraine thúc đẩy nạn đói ở Nam Sudan
Đặng Tự Do
17:29 26/07/2022


Nam Sudan, một quốc gia đã phải vật lộn với một cuộc nội chiến kéo dài và ảnh hưởng tàn khốc của biến đổi khí hậu, đột nhiên thấy mình bị bỏ mặc để giải quyết một cuộc khủng hoảng lương thực ngày càng sâu sắc.

Chương trình Lương thực Thế giới đã thông báo rằng họ sẽ đình chỉ các chương trình chia khẩu phần lương thực ở các vùng của đất nước - một quyết định mà theo các chuyên gia, đã đưa cuộc khủng hoảng đói kém ở đất nước nghèo khó này trở nên tồi tệ hơn.

Adeyinka Badejo-Sanogo, giám đốc quốc gia của WFP tại Nam Sudan, cho biết: “Nam Sudan đang đối mặt với năm khắc nghiệt nhất kể từ khi độc lập.

Badejo-Sanogo nói với các phóng viên tại Geneva gần đây: “Chúng tôi đang ở trong một cuộc khủng hoảng, nhưng chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn tình hình trở nên bùng nổ hơn.

Ông cho biết việc giảm tài trợ và tăng chi phí hoạt động, bao gồm chi phí thực phẩm và nhiên liệu cao, đã buộc WFP phải đưa ra những quyết định cực kỳ khó khăn. Do khoảng cách kinh phí ngày càng lớn, WFP đã buộc phải đình chỉ hỗ trợ lương thực cho hơn một triệu người.

Badejo-Sanogo nói: “Chúng tôi vô cùng lo ngại về tác động của việc cắt giảm tài trợ đối với trẻ em, phụ nữ và nam giới, những người sẽ không có đủ ăn trong mùa đói kém.

“Những gia đình này đã hoàn toàn cạn kiệt các chiến lược đối phó của họ. Họ cần được hỗ trợ nhân đạo ngay lập tức để đưa thức ăn lên bàn trong thời gian ngắn hạn và xây dựng lại sinh kế và khả năng chống chọi với những cú sốc trong tương lai,” ông nói.

Giám đốc quốc gia về Dịch vụ Cứu trợ Công Giáo, gọi tắt là CRS, chi nhánh phát triển quốc tế của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, cũng đồng ý như vậy.

John O'Brien, đại diện của CRS tại Nam Sudan cho biết: “CRS ước tính trên các lĩnh vực hoạt động của mình, hơn 250.000 người, bao gồm các bà mẹ, trẻ em đi học và trẻ sơ sinh sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định này, với những hậu quả bi thảm có thể xảy ra”.

O'Brien nói với Crux rằng “hơn tám triệu người ở Nam Sudan đang trải qua tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng, con số tồi tệ nhất được ghi nhận kể từ khi độc lập.”

Ông nói rằng cuộc chiến ở Ukraine chịu trách nhiệm phần lớn cho nạn đói ngày càng trầm trọng ở một quốc gia cũng đang đối mặt với lũ lụt nghiêm trọng và hạn hán cục bộ.

“Cuộc khủng hoảng Ukraine đã làm tăng giá nhiên liệu và hàng hóa cơ bản. Việc tiếp tục chiến tranh ở Ukraine sẽ dẫn đến chi phí hoạt động nhân đạo cao và số lượng người có thể được hỗ trợ mà không cần tăng kinh phí sẽ giảm đi,” O'Brien nói.

Cùng với nạn đói kéo theo tệ nạn mất an ninh và trộm cắp.

“Đói chắc chắn là một mối quan tâm nghiêm trọng. Khi mức độ an ninh lương thực xấu đi ở Greater Jonglei, CRS đang nhận được ngày càng nhiều báo cáo về các cuộc tấn công bạo lực gia súc và hoạt động tội phạm, bao gồm cả việc trộm cắp đồ gia dụng và thực phẩm, cả trong và giữa các cộng đồng,” O'Brien nói với Crux.

“Dân thường ở Nam Sudan được trang bị vũ khí mạnh mẽ. Khi cuộc khủng hoảng đói tồi tệ hơn, những thường dân cầm vũ khí đang sử dụng chúng để chống lại nhau như một chiến lược sinh tồn, giành lấy thực phẩm, gia súc và các nguồn tài nguyên khác.”

Nam Sudan giành được độc lập từ Sudan vào năm 2011 nhưng sụp đổ trong cuộc nội chiến chỉ hai năm sau đó.
Source:Crux
 
Tổng giám mục Bogotá khuyến khích Colombia: Đừng bao giờ quên Chúa!
Đặng Tự Do
17:30 26/07/2022


Đức Tổng Giám Mục Luis José Rueda Aparicio của Bogotá, Colombia, đã khuyến khích các gia đình của đất nước “đừng bao giờ quên Chúa!” trong bài giảng của mình cho Thánh lễ và Te Deum cho Ngày Độc lập Colombia vào ngày 20 tháng 7.

“Colombia, đừng quên Chúa. Khi chúng ta quên Chúa, khi một quốc gia quên Chúa, nó sẽ đi đến sự hủy hoại; nó tự hủy,” Đức Tổng Giám Mục, cũng là chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia, nói.

Thánh lễ và Te Deum đánh dấu kỷ niệm 212 năm Colombia độc lập khỏi Tây Ban Nha được tổ chức tại thánh đường nguyên thủy ở Bogotá.

Vị giám mục nói rằng “tìm kiếm Chúa là tìm kiếm hy vọng thực sự. Như Đức Bênêđíctô XVI đã nói, niềm hy vọng này chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao trùm vũ trụ và là Đấng có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình đạt được “.

Ngài nhấn mạnh: “Các gia đình thân mến, quê hương Colombia thân yêu, để chúng ta có thể biến đạo đức hòa giải chiến thắng chiến tranh và bạo lực, bảo vệ cuộc sống và xây dựng hòa bình thành hiện thực, Colombia, đừng bao giờ quên Chúa”.

Tổng giám mục nhấn mạnh rằng có nhiều người Công Giáo đã được rửa tội đã gieo hạt giống Nước Chúa ở Colombia và thậm chí đã đi xa đến mức tử vì đạo, chẳng hạn như giám mục Arauca, chân phước Jesús Jaramillo Monsalve, và tổng giám mục Cali, Isaías. Duarte Cancino, “bị ám sát bởi bạo lực buôn bán ma túy ở đất nước chúng tôi.”

Đức Tổng Giám Mục Rueda cũng giải thích sự cần thiết của sự tha thứ và hòa giải để vượt qua hận thù và chiến tranh.

Quốc gia này đã “ở giữa một cuộc xung đột vũ trang kéo dài và đau đớn dường như không có hồi kết, mà gốc rễ của nó là sự bất bình đẳng xã hội, buôn bán ma túy, tham nhũng và phản văn hóa hận thù,” tổng giám mục nói.

“Đúng vậy, sự thù hận phản văn hóa đó dẫn đến việc chúng ta loại bỏ lẫn nhau và điều đó đã khiến nhiều gia đình ở Colombia rơi vào cảnh tang tóc. Ở đó, giữa xung đột đó và chiến tranh kinh hoàng mà chúng ta không thể làm quen được, các thành viên của Giáo hội đã gieo mầm cho vương quốc và đan xen với hy vọng một đạo đức về sự tha thứ, hòa giải và lòng thương xót. “

“Chúa nói với chúng ta: Hãy yêu kẻ thù của mình; làm điều tốt cho những người ghét anh chị em; chúc lành cho những người nguyền rủa anh chị em; cầu nguyện cho những người nói xấu anh chị em.”

Khi làm điều này, “chúng ta sẽ có thể đổi mới xã hội của mình một cách sâu sắc với sức mạnh của Tin Mừng, với sự hiện diện của Chúa Kitô”.

“Hôm nay tại Colombia, thưa các anh chị em thân mến, chúng ta được kêu gọi xây dựng một nền đạo đức mới, được Tin Mừng của Chúa Kitô sáng lập và soi sáng, nền đạo đức của sự hòa giải để đi với niềm hy vọng của Chúa Kitô trên khắp Colombia”

Sau khi khuyến khích bảo vệ sự sống trong “lòng mẹ trước sự sống của người già và bệnh nan y”, Đức Tổng Giám Mục của Bogotá đã khẩn cầu lời cầu bầu của Đức Trinh nữ Chiquinquirá, bổn mạng của Colombia, rằng hòa bình sẽ ngự trị: “Chúng ta xin Đức Mẹ Chiquinquirá rằng, trong các ngôi nhà của Colombia, chúng ta không nuôi dưỡng bạo lực, nhưng thay vào đó là Tin Mừng, là lời của sự sống, và nhờ Bí tích Thánh Thể, chúng ta mang lại sức mạnh cho cuộc hành trình ở Colombia.”
Source:National Catholic Register
 
Đức Phanxicô nói nhiều điều hơn là xin lỗi ở Canada
Vũ Văn An
18:20 26/07/2022

Theo Ed. Condon của The Pillar, hôm thứ Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Canada để thực hiện một “cuộc hành hương đền tội” kéo dài sáu ngày để chuộc tội cho việc đối xử tồi tệ trong quá khứ những người dân của Các Quốc gia Đầu tiên do Giáo hội và các định chế liên kết với Giáo hội thực hiện.



Ngày đầu tiên của chuyến viếng thăm đã thu hút sự chú ý rộng rãi của giới truyền thông vì lời xin lỗi sâu xa và đích thân được Đức Giáo Hoàng đưa ra tại một nghĩa trang của Người bản xứ ở Maskwacis, tại Nhà thờ Đức Mẹ Bảy Sự.

Đức Phanxicô không phải là vị giáo hoàng đầu tiên đưa ra lời xin lỗi ở Canada. Tuy nhiên, mặc dù những lời nói của ngài đã không được tiếp nhận mà không bị chỉ trích, nhưng đó vẫn là một thời điểm nổi bật, khi ngài cố gắng chuộc lỗi cho vai trò của Giáo hội trong một tình tiết của đời sống quốc gia của Canada, một tình tiết vẫn đang gây tranh cãi.

Đức Phanxicô nói hôm thứ Hai, “Tôi ở đây, bởi vì bước đầu tiên của cuộc hành hương đền tội của tôi giữa anh chị em là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, nói với anh chị em một lần nữa rằng tôi xin lỗi sâu xa.”

“Xin lỗi vì những cách thức trong đó, rất tiếc, nhiều Kitô hữu đã ủng hộ não trạng thực dân hóa của các thế lực đã đàn áp các dân tộc Bản địa. Tôi xin lỗi. Đặc biệt, tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đồng tu sĩ đã hợp tác, không ít một cách thờ ơ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường nội trú.”

Gói gọn trong ba câu trên là phần khá dài và đối với nhiều gia đình và dân tộc Bản địa, là một phần đau đớn sâu xa của lịch sử Canada, một lịch sử đã thu hút sự chú ý của quốc tế hồi năm ngoái, với việc phát hiện hơn 1,000 ngôi mộ không đánh dấu tại địa điểm của các trường học nội trú cũ.

Khi khám phá lần đầu tiên được công bố, đã có nhiều đồn đại và giả thuyết cho rằng nhiều ngôi trong số này là mộ tập thể của trẻ em bản địa đã chết và được chôn cất một cách phi nghi lễ bởi các trường nội trú do nhà nước bảo trợ, chủ yếu do Giáo Hội Công Giáo điều hành.

Các nhà thờ Công Giáo trên khắp Canada đã phải hứng chịu các cuộc tấn công đốt phá, và sự phản đối kịch liệt của công chúng vì cho rằng Giáo hội đã đồng lõa với hệ thống trường học nội trú - bao gồm chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo Các Quốc gia Đầu tiên tới Vatican để yêu cầu Đức Giáo Hoàng thay mặt Giáo hội xin lỗi, và đến thăm Canada để làm như vậy.

Điều, sau đó, trở nên rõ ràng là nhiều khu chôn cất được tìm thấy vào năm ngoái là các nghĩa trang, nơi các ngôi mộ cá nhân ban đầu được đánh dấu bằng các cột tưởng niệm bằng gỗ, đã bị cỏ mọc chen quá mức và bị mất do không được ai trông nom.

Mặc dù đó là một thực tại rất khác so với tin đồn cho rằng đây là những ngôi mộ tập thể chủ ý không được đánh dấu, nhưng điều đó không phủ nhận việc có một lịch sử đen tối cần phải đối đầu hoặc mục đích thực sự cho chuyến thăm đền tội của Đức Giáo Hoàng.

Nhưng bất chấp sự rõ ràng và đơn giản trong lời xin lỗi của Đức Giáo Hoàng hôm thứ Hai, lịch sử của chính các trường học này rất phức tạp.

Cho đến gần đây, một số cộng đồng bản địa vẫn bày tỏ những ký ức lẫn lộn về chúng, và các trường học không phải lúc nào cũng bị lên án một cách phổ quát, ngay cả bởi chính những học sinh cũ của chúng - một số cho biết họ đã có những trải nghiệm tích cực và vui mừng vì nền giáo dục Kitô giáo mà họ nhận được.

Vẫn có những người khác lập luận rằng sự can dự của Giáo hội vào hệ thống trường học nội trú đã bị sử dụng để làm chệch hướng việc người ta chú mục vào chính phủ, cơ quan có trách nhiệm tối hậu trong việc tạo ra chúng và ép buộc trẻ em khỏi gia đình của chúng, cũng như trong việc bỏ bê có tính định chế và thiếu cung cấp tài chính, một điều vốn khiến chúng thường xuyên bị nơi tập trung của nạn đói hoành hành, bệnh tật và sự bỏ bê, dẫn đến cái chết của nhiều trẻ em.

Nhưng việc chấp nhận di sản của hệ thống trường học nội trú là một câu chuyện phức tạp vẫn không làm giảm đi nhiều điều mà Giáo hội phải hối hận ăn năn - hoặc làm giảm đi những đóng góp mà cử chỉ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể thực hiện cho diễn trình hàn gắn.

Theo luật pháp Canada, hàng nghìn trẻ em của Các Quốc gia Đầu tiên bị buộc phải rời khỏi gia đình và chuyển đến các trường nội trú, chủ yếu do Giáo Hội điều hành, để được “trở thành văn minh”. Mặc dù chính sách đó là do chính phủ Canada tạo ra, không phải của Giáo hội, nhưng đó là một chính sách được quản lý phần lớn bởi các định chế của Giáo hội.

Đó cũng là một chính sách đi ngược lại sự hiểu biết của chính Giáo hội về phẩm giá con người, định chế tự nhiên của gia đình, và quyền của cha mẹ được yêu thương, chăm sóc và giáo dục con cái của họ - tất cả đều bị phủ nhận bởi một chính sách nhằm tận diệt Văn hóa bản địa, như Đức Giáo Hoàng đã thừa nhận vào hôm thứ Hai.

Và ngoài sự bất công mang tính hệ thống đó - trong khi chắc chắn có những giáo phẩm có ý hướng tốt nhằm phục vụ trong bối cảnh trường học nội trú, thì cũng có những hành vi lạm dụng cá nhân và sao lãng nhiều trường hợp đặc thù trong đó những hành vi bất công riêng rẽ đã được thực hiện.

Nhắc lại vào hôm thứ Hai một cuộc gặp gỡ vào tháng Ba với các nhà lãnh đạo của các Quốc gia Đầu tiên ở Rome, Đức Phanxicô cho biết ngài đã được tặng “hai đôi giày da đanh như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, nhất là những em không bao giờ trở lại trường nội trú.”

“Tôi đã được yêu cầu trả lại đôi giày da đanh khi tôi đến Canada, và tôi sẽ làm như vậy vào cuối diễn từ ngắn ngủi này,” Đức Giáo Hoàng nói thế, trong khi nói với đám đông rằng họ đã gợi hứng một cảm thức “đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ” trong những tháng dẫn tới chuyến đi của ngài.

Lời xin lỗi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đối với “não trạng thực dân hóa” vốn nằm bên dưới các trường học và những gì chúng tìm cách đạt được không đơn giản chỉ là một câu hỏi yêu cầu sự tha thứ cho một trong nhiều nỗi kinh hoàng gây ra cho một nền văn hóa hoặc con người bởi một quyền lực định chế.

Các quyền tự nhiên và phẩm giá của gia đình, của mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái của họ, là trọng tâm của sự bất công nơi hệ thống trường nội trú Canada. Sự liên kết của Giáo hội với việc cố ý từ chối những quyền đó thể hiện sự lật đổ nhiều giáo lý vững chắc nhất của Giáo hội, những giáo lý có tính rất trung tâm đối với điều được Giáo hội cho là việc xếp đặt tự nhiên chính đáng của xã hội.

Một số nhà bình luận đã lập luận rằng những bất công của hệ thống trường nội trú là “thứ yếu” so với cơ hội mà chúng cung cấp cho việc Kitô hóa các trẻ em Bản địa. Nhưng những lập luận này cũng làm nổi bật tầm quan trọng và mức độ liên quan của lời xin lỗi của Đức Phanxicô.

Giáo Hội dạy rằng việc truyền bá Tin Mừng là một hành vi yêu thương, và công việc truyền giáo phải là để làm chứng cho tình yêu đó. Khái niệm “hoán cải” trong tâm trí của Giáo hội, ở một mức độ nào đó, tùy thuộc vào tính khả tín của chứng tá đó, nhưng nó tuyêt đối giả định sự lựa chọn tự do và ý chí của người bước vào đức tin - một sự lựa chọn đã bị từ chối đối với rất nhiều học sinh của các trường nội trú.

Từ góc độ này, lời xin lỗi của Đức Phanxicô hôm thứ Hai không phải là sự thừa nhận sai lầm cho bằng là một suy tư về một não trạng, ở nhiều nơi khác ngoài Canada, đã xác định các định chế mà nó hỗ trợ ở những nơi khác nhau và vốn thách thức sự khả tín hiện sinh của công trình truyền giáo của Giáo hội.

Khác xa với việc kết thúc trang sách nói về những gì đã xảy ra trong quá khứ, “chuyến tham quan xin lỗi” của Đức Phanxicô - như một số người đã gọi - dường như hướng tới một ý tưởng đầy đủ hơn, có tính Kitô giáo hơn là sự hòa giải.

Tại một giáo xứ của Các Quốc gia Đầu tiên hôm thứ Hai, Đức Phanxicô cho biết “Đây là con đường phía trước: cùng nhau nhìn lên Chúa Kitô, yêu thương Đấng bị phản bội và bị đóng đinh vì chúng ta.”

Đề nghị chứng tá của Chúa Kitô như một câu trả lời cho đau khổ vốn là trọng tâm của sứ điệp Kitô giáo. Việc Giáo hội đã đóng một vai trò trong việc gây ra đau khổ đó khiến cho việc công bố của mình càng trở nên cấp thiết hơn, những lời sám hối của Đức Giáo Hoàng càng chủ yếu hơn. Và nó làm cho chứng tá của những người Công Giáo thuộc các Quốc gia Đầu tiên khi chấp nhận chúng trở thành một chứng tá truyền giáo thực sự.
 
Bài giảng của Đức Thánh Cha lễ hai thánh Gioakim và Anna trong chuyến tông du Canada
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
20:43 26/07/2022


Như chúng tôi đã tường trình, lúc 10g sáng ngày thứ Hai 25 tháng 7, Đức Thánh Cha đã thăm Maskwacis, ngôi nhà của trường dành cho người bản địa Ermineskine trước đây, một trong những trường lớn nhất trong nước, cách Edmonton khoảng 100 km. Tại đây, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các dân tộc First Nations, Métis và Inuit.

Sau đó, lúc 4g45 chiều, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các thổ dân và cộng đoàn Công Giáo địa phương tại nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton.

Ngày thứ Ba 26 tháng 7, lễ kính Hai Thánh Joachim và Anna, Đức Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ tại sân vận động của Edmonton - có sức chứa 65,000 người vào lúc 10g15 sáng.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay chúng ta mừng lễ ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Chúa đã tập hợp tất cả chúng ta lại với nhau một cách chính xác vào dịp này, là dịp lễ rất yêu quý đối với anh chị em và đối với tôi. Chính tại nhà của hai thánh Gioakim và Anna, Chúa Giêsu đã làm quen với những người họ hàng lớn tuổi của mình và cảm nhận được sự gần gũi, tình yêu thương dịu dàng và sự khôn ngoan của ông bà mình. Chúng ta hãy nghĩ về ông bà của chúng ta, và suy ngẫm về hai điều quan trọng.

Thứ nhất: chúng ta là những đứa con của một lịch sử cần được bảo tồn. Chúng ta không phải là những cá thể biệt lập, những hòn đảo. Không ai bước vào thế giới này tách rời khỏi những người khác. Nguồn gốc của chúng ta, tình yêu đã chờ đợi chúng ta và chào đón chúng ta vào thế giới, gia đình mà chúng ta lớn lên, là một phần của lịch sử độc đáo đã đi trước chúng ta và cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã không chọn lịch sử đó; chúng ta đã nhận nó như một ân sủng, một món quà mà chúng ta được kêu gọi trân trọng, vì như Sách Huấn Ca nhắc nhở chúng ta, chúng ta là “con cháu” của những người đi trước chúng ta; chúng ta là “cơ nghiệp” của các ngài (Hc 44:11). Một sự thừa kế, không phải là kế thừa uy tín hoặc quyền lực, trí thông minh hoặc sự sáng tạo trong các bài hát hoặc thơ ca, nhưng tập trung vào sự công chính, vào lòng trung thành với Thiên Chúa và thánh ý của Ngài. Đây là những gì họ đã truyền lại cho chúng ta. Để chấp nhận con người thật của chúng ta và biết rằng chúng ta quý giá như thế nào, chúng ta cần phải chấp nhận rằng mình là một phần của chính những người nam nữ mà chúng ta là con cháu. Họ không đơn giản chỉ nghĩ về bản thân, mà đã truyền lại cho chúng ta kho báu của cuộc sống. Chúng ta có mặt ở đây là nhờ cha mẹ của chúng ta, nhưng cũng cảm ơn ông bà của chúng ta, những người đã giúp chúng ta cảm thấy được chào đón trên thế giới. Thường thì họ là những người yêu thương chúng ta vô điều kiện, không mong nhận lại bất cứ điều gì. Họ đã nắm tay chúng ta khi chúng ta sợ hãi, trấn an chúng ta trong bóng tối của đêm đen, khích lệ chúng ta trong ánh sáng ban ngày khi chúng ta phải đối mặt với những quyết định quan trọng của cuộc đời. Nhờ ông bà, chúng ta đã nhận được một sự vuốt ve từ lịch sử đi trước: chúng ta học được rằng lòng tốt, tình yêu dịu dàng và trí tuệ là cội rễ vững chắc của nhân loại. Chính trong nhà của ông bà, nhiều người trong chúng ta đã hít thở hương thơm của Tin Mừng, sức mạnh của một đức tin khiến chúng ta cảm thấy như ở nhà. Nhờ họ, chúng ta đã khám phá ra loại đức tin “quen thuộc”, một đức tin tại gia. Bởi vì đó là cách đức tin được truyền lại một cách căn bản, tại gia đình, thông qua tiếng mẹ đẻ, với tình cảm và sự khích lệ, quan tâm và gần gũi.

Đây là lịch sử của chúng ta, mà chúng ta là người thừa kế và chúng ta được kêu gọi bảo tồn. Chúng ta là con cái bởi vì chúng ta là cháu chắt. Ông bà của chúng ta đã để lại một dấu ấn riêng cho chúng ta bằng cách sống của họ; họ đã cho chúng ta phẩm giá và sự tự tin vào bản thân và những người khác. Họ đã ban tặng cho chúng ta thứ gì đó không bao giờ có thể lấy đi được từ chúng ta và điều đó đồng thời cho phép chúng ta trở nên độc nhất, nguyên bản và tự do. Từ ông bà chúng ta, chúng ta học được rằng tình yêu không bao giờ bị ép buộc; nó không bao giờ tước đi tự do nội tâm của người khác. Đó là cách Gioakim và Anna yêu mến Đức Maria và Chúa Giêsu; và đó là cách mà Mẹ Maria đã yêu Chúa Giêsu, với một tình yêu không bao giờ bóp chết hay kìm hãm Người, nhưng đã đồng hành với Người trong việc thực hiện sứ mệnh mà Người đã đến trong thế gian. Chúng ta hãy cố gắng học hỏi điều này, với tư cách cá nhân và với tư cách là một Giáo hội. Mong sao chúng ta học cách không bao giờ gây áp lực lên lương tâm của người khác, không bao giờ hạn chế quyền tự do của những người xung quanh, và trên hết, đừng bao giờ thất bại trong việc yêu thương và tôn trọng những người đi trước và được giao phó cho chúng ta chăm sóc. Vì họ là một kho tàng quý báu lưu giữ một lịch sử vĩ đại hơn chính họ.

Sách Huấn ca cũng cho chúng ta biết rằng việc bảo tồn lịch sử đã cho chúng ta sự sống không có nghĩa là che lấp “vinh quang” của tổ tiên chúng ta. Chúng ta không nên đánh mất ký ức về các ngài, cũng như không nên quên lịch sử đã sinh ra cuộc đời của chính chúng ta. Chúng ta nên luôn nhớ đến những người chìa bàn tay ra âu yếm chúng ta và những người đã ôm chúng ta trong vòng tay của họ; vì trong lịch sử này, chúng ta có thể tìm thấy niềm an ủi trong những lúc nản lòng, một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta và can đảm đối mặt với những thử thách của cuộc sống. Tuy nhiên, bảo tồn lịch sử đã cho chúng ta sự sống cũng có nghĩa là liên tục trở lại ngôi trường đó, nơi chúng ta lần đầu tiên học cách yêu. Nó có nghĩa là tự hỏi bản thân, khi đối mặt với những lựa chọn hàng ngày, điều khôn ngoan nhất của những người lớn tuổi mà chúng ta từng biết sẽ làm khi các ngài ở trong tình thế của chúng ta, ông bà và ông bà cố của chúng ta sẽ đưa ra lời khuyên gì cho chúng ta.

Vì vậy, anh chị em thân mến, chúng ta hãy tự hỏi: con cháu chúng ta có đủ khả năng bảo vệ kho tàng mà chúng ta được thừa hưởng này không? Chúng ta có nhớ những lời dạy tốt đẹp mà chúng ta đã nhận được không? Chúng ta có nói chuyện với người lớn tuổi và dành thời gian để lắng nghe họ không? Và, trong những ngôi nhà ngày càng được trang bị đầy đủ, hiện đại và tiện dụng, chúng ta có biết dành một không gian xứng đáng để lưu giữ ký ức của các ngài, một vị trí đặc biệt, một đài tưởng niệm nhỏ của gia đình mà thông qua những bức ảnh và đồ vật quý giá, chúng ta có thể ghi nhớ trong lời cầu nguyện những người đã đi trước chúng ta? Chúng ta có lưu giữ Kinh thánh, và chuỗi hạt Mân Côi của các ngài chưa? Trong lớp sương mù của sự lãng quên che mờ thời kỳ hỗn loạn của chúng ta, điều cần thiết là anh chị em, hãy chăm sóc cội nguồn của chúng ta, cầu nguyện và cùng với các bậc tiền nhân của chúng ta, dành thời gian để tưởng nhớ và bảo vệ di sản của các ngài. Đây là cách một cây gia đình phát triển; đây là cách tương lai được xây dựng.

Bây giờ chúng ta hãy nghĩ đến điều quan trọng thứ hai. Ngoài việc là những đứa con của một lịch sử cần được bảo tồn, chúng ta còn là tác giả của một lịch sử chưa được viết ra. Mỗi chúng ta đều có thể nhận ra bản thân mình là ai và là gì, được đánh dấu bằng cả ánh sáng và bóng tối, và bằng tình yêu mà chúng ta đã hoặc chưa nhận được. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống con người: tất cả chúng ta đều là con của một người nào đó, được sinh ra và uốn nắn bởi người khác, nhưng khi chúng ta trở thành người lớn, chúng ta cũng được kêu gọi để trao ban sự sống, làm cha, làm mẹ hoặc ông bà cho người khác. Hãy nghĩ về con người chúng ta ngày nay, chúng ta muốn làm gì với bản thân? Những ông bà đi trước, những người cao tuổi, những người luôn mơ ước và hy vọng cho chúng ta, và đã hy sinh rất nhiều cho chúng ta, đặt ra cho chúng ta một câu hỏi thiết yếu: chúng ta muốn xây dựng một xã hội như thế nào? Chúng ta đã nhận được rất nhiều từ bàn tay của những người đi trước. Đến lượt mình, chúng ta muốn để lại điều gì cho những người đến sau chúng ta? Đức tin “nước hoa hồng”, đó là một đức tin loãng, hay một đức tin sống động? Một xã hội được thành lập dựa trên lợi nhuận cá nhân hay dựa trên tình huynh đệ? Một thế giới có chiến tranh hay một thế giới hòa bình? Một tạo vật bị tàn phá hay một ngôi nhà tiếp tục được chào đón?

Chúng ta đừng quên rằng nhựa sống đi từ rễ đến cành, đến lá, đến hoa, rồi đến quả của cây. Truyền thống đích thực được thể hiện theo chiều dọc này: từ dưới lên. Chúng ta cần phải cẩn thận kẻo rơi vào một bức tranh biếm họa của truyền thống, không phải theo chiều dọc - từ rễ đến trái - mà là chiều ngang - tiến và lùi. Truyền thống được hình thành theo cách này chỉ dẫn chúng ta đến một loại “văn hóa ngược”, nơi ẩn náu của tính tự cao, là thứ chỉ đơn giản là nuôi dưỡng hiện tại, nhốt nó trong tâm lý nói rằng, “Chúng ta luôn làm theo cách này”.

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng các ông có phúc vì được thấy và nghe điều mà biết bao ngôn sứ và những người công chính chỉ có thể hy vọng (x. Mt 13, 16-17). Nhiều người đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa về Đấng Mêsia sẽ đến, đã dọn đường cho Ngài và báo tin Ngài sẽ đến. Nhưng bây giờ Đấng Mêsia đã đến, những ai có thể nhìn thấy và nghe thấy Ngài được kêu gọi để chào đón Ngài và công bố sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta.

Thưa anh chị em, điều này cũng áp dụng cho chúng ta. Những người đi trước chúng ta đã truyền cho chúng ta một niềm đam mê, một sức mạnh và một khao khát, một ngọn lửa mà chúng ta có thể thắp lại. Vấn đề không phải là bảo quản tro cốt, mà là thắp lại ngọn lửa mà họ đã thắp lên. Ông bà và những người lớn tuổi của chúng ta muốn thấy một thế giới công bằng, huynh đệ và đoàn kết hơn, và họ đã chiến đấu để mang lại cho chúng ta một tương lai. Bây giờ, chúng ta đừng để họ thất vọng. Việc tiếp nhận truyền thống đã nhận được là tùy thuộc vào chúng ta, bởi vì truyền thống đó là đức tin sống động của những người đã khuất của chúng ta. Chúng ta đừng biến nó thành “chủ nghĩa truyền thống”, tức là đức tin đã chết của người sống, như một tác giả đã từng nói. Được những người là cội rễ của chúng ta vun đắp, giờ đến lượt chúng ta đơm hoa kết trái. Chúng ta là những cành phải nở hoa và gieo rắc những hạt giống mới của lịch sử. Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình một vài câu hỏi cụ thể. Là một phần của lịch sử cứu rỗi, dưới ánh sáng của những người đi trước tôi và yêu thương tôi, tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có một vai trò độc đáo và không thể thay thế trong lịch sử, nhưng tôi sẽ để lại dấu ấn gì? Tôi đang truyền lại điều gì cho những người sẽ đến sau tôi? Tôi đang cho cái gì của bản thân? Thông thường, chúng ta đo lường cuộc sống của mình dựa trên thu nhập, loại nghề nghiệp, mức độ thành công và cách người khác nhìn nhận về chúng ta. Tuy nhiên, đây không phải là những tiêu chí mang lại sự sống. Câu hỏi thực sự là: tôi có đang trao ban cuộc sống không? Tôi có mở ra lịch sử của một tình yêu mới và tái tạo mà trước đây không có? Tôi có đang loan báo Tin Mừng trong khu phố của tôi không? Tôi có đang tự do phục vụ người khác, như cách mà những người đi trước đã làm cho tôi không? Tôi đang làm gì cho Giáo hội, thành phố, xã hội của mình? Thưa anh chị em, thật dễ dàng để chỉ trích, nhưng Chúa không muốn chúng ta chỉ là những người chỉ trích hệ thống, hoặc khép kín và “nhìn ngược lại”, như tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói (xem 10: 39). Thay vào đó, Thánh Phaolô muốn chúng ta trở thành những nghệ nhân của một lịch sử mới, những người dệt nên hy vọng, những người xây dựng tương lai, những người kiến tạo hòa bình.

Mong hai thánh Gioakim và Anna cầu bầu cho chúng ta. Mong các ngài giúp chúng ta trân trọng lịch sử đã cho chúng ta sự sống, và về phần chúng ta, xây dựng một lịch sử để lại sự sống. Mong chúng nhắc nhở mình về bổn phận thiêng liêng của chúng ta là kính trọng ông bà và những người lớn tuổi của chúng ta, quý trọng sự hiện diện của các ngài giữa chúng ta để tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn. Một tương lai mà người cao tuổi không bị gạt sang một bên vì theo quan điểm “thực tế”, họ “không còn hữu ích nữa”. Một tương lai không đánh giá các giá trị của con người chỉ đơn giản bằng những gì họ có thể tạo ra. Một tương lai không thờ ơ với nhu cầu được quan tâm và lắng nghe của người già. Một tương lai mà lịch sử bạo lực và thiệt thòi mà các anh chị em bản xứ của chúng ta phải gánh chịu sẽ không bao giờ lặp lại. Tương lai đó là khả thi nếu với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, chúng ta không cắt đứt mối dây liên kết giữa chúng ta với những người đi trước, và nếu chúng ta thúc đẩy đối thoại với những người sẽ đến sau chúng ta. Già trẻ lớn bé, ông bà và con cháu nội ngoại. Chúng ta hãy cùng nhau tiến về phía trước, và cùng nhau, chúng ta hãy cùng ước mơ. Ngoài ra, chúng ta đừng quên lời khuyên của Phaolô đối với môn đệ Timôthê: Hãy nhớ đến mẹ và bà của anh (xem 2 Ti 1: 5).
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Ngày Thế giới Ông Bà tại Giáo xứ Tụy Hiền Tgp. Hà Nội
BTTGx.Tụy Hiền
08:58 26/07/2022
Ngày Thế giới Ông Bà tại Giáo xứ Tụy Hiền Tgp. Hà Nội

Hưởng ứng sáng kiến của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Cha Antôn Nguyễn Văn Độ đã qui tụ ông bà trong hai giáo xứ Vạn Thắng và Tụy Hiền tại giáo họ Hà Đoạn để dâng thánh lễ cầu nguyện cho ông bà. Trước đó, cha xứ đã nói về ý tưởng của Đức Giáo Hoàng với chủ đề “Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả” (Tv 92, 15). Khơi dậy lòng kính trọng ông bà và khuyến khích con cháu thăm hỏi ông bà, nhất là đưa ông bà đi lễ.

Xem Hình

Cha Antôn đã tổ chức cho các em thiếu nhi, giới trẻ là những đứa con, cháu trong gia đình đi thăm hỏi, động viên, tặng quà các ông bà và nghe ông bà chia sẻ những câu chuyện cuộc đời, kinh nghiệm sống và giữ đức tin.

Đúng 8 giời 30 sáng ngày 24-7-2022, Thánh lễ cầu nguyện cho Ông bà và Người Cao niên diễn ra tại giáo họ Hà Đoạn. Hiệp dâng Thánh lễ có cha Micae Nguyễn Hoàng Nam – Phó xứ Xuân Bảng, thường trực tại Tân Lang, cùng với đông đảo quý cụ, ông bà của hai giáo xứ Tụy Hiền, Vạn Thắng và năm giáo họ trực thuộc.

Mở đầu Thánh lễ, Cha xứ Antôn đã gợi lại ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi tổ chức ngày thế giới ông bà. Đồng thời ngài tôn vinh và khẳng định các ông bà chính là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho gia đình, giáo họ và giáo xứ. Qua đó, ngài gửi lời nhắn gửi tới những người làm con, cháu hãy trân trọng và bày tỏ lòng hiếu thảo đối với bố mẹ già và những người cao niên, đừng để những lời yêu thương trở thành lời chết trên phiến đá.

Trong bài giảng, Cha Micae nhắn gửi cộng đoàn “đã làm ông bà thì không ai là không muốn cho con cái cháu chắt của mình mạnh khỏe, thành đạt và đức tin vững mạnh. Nhưng để được như thế thì chính những bậc cha mẹ, ông bà phải giáo dục con cháu mình... ”. Bài giảng của cha Micae thật dí dỏm, đơn sơ nhưng ý nghĩa và sâu sắc.

Kết thúc bài giảng, Cha xứ Antôn đã cử hành Bí tích Xức dầu cho ông bà già yếu tham dự Thánh lễ hôm nay. Sau đó, mọi người sốt sáng bước vào phần phụng vụ Thánh thể.

Kết thúc Thánh lễ, cộng đoàn nhìn lại hành trình thăm viếng ông bà của các em thiếu nhi, giới trẻ cách đó hai ngày qua một video ngắn. Kế đến là nghe các cụ kể chuyện đời mình với những câu hỏi xoay quanh gia đình như: sự khác biệt giữa người già và người trẻ; Làm sao để người trẻ có thể đón nhận tính cách, thể lý và suy nghĩ của người già? Tương quan giữa mẹ chồng nàng dâu; giữa bố vợ và con rể… nội dung thì phong phú và thực tế.

Cuối cùng là tôn vinh và trao quà cho ông bà. Cùng với phần quà là những bó hoa tươi thắm kèm theo những lời chúc tốt đẹp của con cháu trong gia đình gửi tới ông bà hôm nay. Đây là hình ảnh rất đẹp, một dịp thuận lợi để cháu con bày tỏ lòng hiếu thảo, lời động viên và niềm an ủi cho tuổi già của các ông bà và người cao niên.

BTTGx. Tụy Hiền
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Biên Niên Biểu Cha Trần Lục
Pt. Phạm Bá Nha
17:03 26/07/2022
Biên Niên Biểu Cha Trần Lục (1825 - 1899)

1825. Trần Lục (tên trong gia đình là Phêrô Hữu) sinh tại Mỹ Quan, Nga Sơn, Thanh Hóa.

Con ông bà Trần Văn Nhu. Cha quê Nam Định, mẹ quê Ninh Bình. Từ 1820, gia đình lập nghiệp tại Thanh Hóa.

-Trong gia đình có 5 trai, 2 gái. Anh cả tên Khánh mất sớm. Hữu là con thứ hai. Người thứ ba là Jean Pháp, chủng sinh, chết rũ tù, tử đạo tại Lạng Sơn. Người em khác là Nguyên, làm phó tổng.

-Thấy hoàn cảnh gia đình nghèo, bà dì ở Quảng Công, Bạch Bát, Ninh bình, luân phiên đem Hữu và các em về bên ngoại nuôi cho ăn học.

1836. Năm 11 tuổi, ông thân sinh bị bệnh, Hữu bỏ Ninh Bình về Thanh Hóa phụ giúp mẹ trong gia đình.

1840. Hữu có ý định đi ẩn tu. Cha Tiếu, chính xứ Bạch Bát chọn Hữu đem vào nhà xứ giáo dục, học Latinh, chuẩn bị nhập chủng viện.

1845. * Năm 20 tuổi, Hữu nhập học tiểu chủng viện Vĩnh Trị. Hữu được đổi tên là Triêm. Vì trùng tên với học sinh khác. Triêm được họ lớp tư, thay vì lớp sáu. Cuối năm nào Triêm cũng được xếp hạng nhất về hạnh kiểm và học vấn.

* Tình hình cấm đạo gay gắt, Vĩnh Trị phải phân tán làm bốn nơi: Long Soán, Ban Phết, Kẻ Báng và Hoàng Nguyên. Triêm chuyển qua học ở Hoàng Nguyên.

* Vĩnh Trị có tòa giám mục, luôn bị theo dõi ngày đêm. Đời sống chủng sinh bị giao động vì tình hình bắt bớ và giam cầm của các anh hùng tử đạo.

1850. * Mãn chủng viện Hoàng Nguyên, thày Triêm được chọn làm giáo sư dạy học ngay tại chủng viện Vĩnh Trị. Thày Triêm làm việc chung, cộng tác rất đắc lực trong việc giáo dục chủng sinh với thánh Lê Bảo Tịnh, khi làm giám đốc từ 1849 đến 1852.

* Ở Vĩnh Trị, Thày Triêm được chứng kiến nhiều cuộc mai táng của các thánh tử đạo, như: thánh Augustinô Scheffier Đông, thánh Gioan Bornis Bonnard Hương

1855. Thày Triêm học triết và thần học tại đại chủng viện Kẻ Non. Ông thân sinh qua đời Năm thày chịu chức Tư. Về quê chịu đại tang cha. Jean Pháp nhập tiểu chủng viện Vĩnh Trị. Cha thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh bị bắt và được tử đạo (1858)

Ngày 12-7, Thày Triêm được lãnh nhận chức Năm và Sáu.Từ đây người ta quen gọi thày là Cụ Sáu. Làm việc bên cạnh Đức cha Charles Hubert Jeantet Khiêm.

* Chủng sinh Jean Trần Văn Pháp (em thày Triêm), Phaolo Bột (học sinh lớp bảy,18 tuổi) cùng bị bắt với hai chûng sinh khác và 14 giáo dân. Jean Pháp bị đánh đập tàn nhẫn, bắt quì trên ván đóng đinh, bị kìm nung đỏ kẹp thịt. Pháp cương quyết không chối đạo. Chú bị đày lên Lạng Sơn. Phaolo Bột bị tra tấn trót dại bị lính khiêng qua Thánh giá.

Nhờ Cụ Sáu và mẹ khuyên giải, Bột ăn năn hối cải, trở lại hoán cải nộp mình cho voi giày, tử đạo, tại Nam Định.

* Tại La Mát, Đức cha Retord Liêu và Cụ Sáu đang trốn, làng bị bao vây chặt chẽ. Cụ Sáu gỉa mặc áo giám mục, đeo thánh gía trước ngực, ra trước quân lính, tự nộp mình. Quân lính tưởng là giám mục thật, liền trói Cụ Sáu lại. Đức cha trốn thoát trốn đi đàng khác. Cụ Sáu dược đm xuống thuyền giải về và tạm giam tại Hà Nôi.

* Thời gian ở trại giam, Cụ Sáu bị căng người ra mặt đất, bị đánh cùng khắp thân thể. Đau không đi được. Lính phải khiêng Cụ về chỗ giam. Nhiều lần, người ta dùng kìm nung đỏ kẹp thịt, giật ra, máu chảy lai láng. Cụ vẫn can đảm không kêu ca.

* Dù bao nhiêu lời đe dọa, dụ dỗ, hứa hẹn với những trận đòn ghê gớm. Cụ nhất mực không chối đạo. Biết không thuyết phúc được ý chí cương quyết của con người đanh thép gan dạ này. Quan ra lệnh đày Cụ lên trại Lạng Sơn.

* Lạng Sơn, nơi chuyên nhốt những tín hữu bị khắc chữ ‘tả đạo’. Cụ Sáu là người lãnh đạo tinh thần và vật chất cho trong và ngoài trại. Được quan trọng dụng cho vào dinh dạy học cho con các quan. Coi như giam lỏng. Cụ Sáu có nhiệm vụ coi sóc cả các cộng đoàn trong vùng.

1859.Cuối năm, Cụ nhận được thư với 3 nén bạc của Đức Cha, trở về Kẻ Trợ chuẩn bị chịu chức linh mục

1860. Giữa tháng Giêng, Đc Khiêm truyền chức linh mục cho Cụ Sáu. Tân linh mục trở ngay Lạng Sơn. Với chức vụ linh mục, Cha Sáu ngày đêm lặn lội sống chết bất kể mưa nắng với đồng bào ba tỉnh Lạng Sơn, Tuyên Quang và Thái Nguyên.

1862. Vua Tự Đức ban hành sắc lệnh ‘tự do tôn giáo’. Cha Trần Lục rời Lạng Sơn với trọng trách mới làm mục vụ ba xứ Thanh Hóa, Mỹ Điện và Kẻ Dừa.

1865. Được bổ nhiệm làm chính xứ Phát Diệm, vùng hẻo lánh sình lầy, cỏ sậy. Cha tổ chức khai khẩn ruộng đất, đắp đập ngăn chận nước mặn. Mỗi năm số lượng canh tác tăng thêm.

1872. Khởi công thu góp vật liệu, xây cất giáo khu Phát Diệm, gồm : nhà thờ chính tòa, phương đình, 5 nhà thờ nhỏ và 3 núi đá, theo kiến trúc Đông Phương. Vật liệu xây cất bằng đá và gỗ qúi. Song song với công tác xây cất, khai khẩn ruộng đất hoang, cha còn sáng tác thơ văn dưới dạng ca vè, sách kinh, vãn và tuồng kịch…

1891. Toàn khu nhà thờ hoàn tất. Cha chuyên lo tổ chức cơ sở, phân chia giáo xứ, tuyển chọn và huấn luyện giáo chức, lập hội đoàn và mở nghĩa trang.

1899. Ngày 6.7, Cha Trần Lục qua đời cách êm ái rất thánh thiện tại Phát Diệm. Đám táng được tổ chức trọng thể, với 40.000 người tham dự, cả lương giáo. Theo di chúc ‘chôn thân xác tôi ở chỗ nào cho người ta dày xéo lên’. Hiện giờ ngôi mộ Cụ Sáu được đặt giữa sân nhà thờ Chính Tòa và Phương Đình Phát Diệm.

Cha Trần Lục được ân hưởng Huy Chương

1875 : Kim Khánh và Kim Tiền của Vua Tự Đức

1884 : Đệ Ngũ Bắc Đẩu Bội Tinh (La Croix de Chevalier de la Légion d’honneur) của chính phủ Pháp

1885 : Vua Đồng Khánh phong chức Tham Tri Bộ Lễ và Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ

1889 : Vua Khải Định phong tước Phẩm Thượng Thư, Nam Tước Phát Diệm.
 
Văn Hóa
Quan tâm đền người khác
Lm. Đan Vinh
05:51 26/07/2022

BÀI 16
VĂN HOÁ ỨNG XỬ - QUAN TÂM ĐẾN NGƯỜI KHÁC

1. LỜI CHÚA : Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói : ”Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (Mt 15,32).

2. CÂU CHUYỆN : TÊN ÔNG GÁC CỔNG TRƯỜNG LÀ GÌ?

Khóa sư phạm mầm non được tổ chức vào mỗi dịp hè để bồi dưỡng kiến thức sư phạm cho các thầy cô giáo sắp tới lúc kết thúc. Nhà trường đã tổ chức một cuộc thi mãn khóa. Học viên chúng tôi đã rất ngỡ ngàng khi đọc được câu hỏi cuối cùng trong bài thi : ”Bạn hãy cho biết tên ông gác cổng trường của chúng ta là gì?”. Một câu hỏi không có trong các đề tài đã học suốt khóa. Ai cũng nghĩ đây chỉ là câu hỏi phụ thêm và sẽ không được tính điểm cho bài kiểm tra cuối khóa.

Thực ra bác gác cổng là một người tóc hoa râm khoảng 62 tuổi, tính tình dễ mến thể hiện qua nét mặt luôn tươi cười mỗi khi tiếp xúc với chúng tôi. Thế nhưng cũng như hầu hết các học viên khác, tôi không bao giờ nghĩ đến việc hỏi tên của ông. Hôm ấy, nhiều học viên trong đó có tôi, đành phải bỏ không trả lời câu hỏi cuối này. Sau đó, vào lúc cuối giờ, một học viên đã hỏi giáo sư chủ nhiệm rằng : ”Liệu câu hỏi cuối cùng về tên người gác cổng có được tính điểm vào bài thi hay không, thì được vị này trả lời : ”Chắn chắn là có tính điểm rồi”. Ông nói tiếp : ”Trong việc giáo dục con em, các anh chị là những thầy cô giáo sẽ phải tiếp xúc với nhiều hạng người khác nhau, và họ đều quan trọng cho sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp giáo dục của chúng ta. Do đó họ rất xứng đáng nhận được sự quan tâm biết tên và gia cảnh của họ. Chúng ta cũng cần nở nụ cười thân thiện hay nói một câu chào hỏi mỗi khi tiếp xúc với họ”.

3. SUY NIỆM :

Từ ngày ấy, tôi không bao giờ quên bài học này là : phải biết quan tâm đến những người đã cộng tác giúp đỡ trong đời nhà giáo của tôi. Tôi cũng không bao giờ quên được tên của bác Tiến, nhân viên bảo vệ nhà trường trong khóa bồi dưỡng năm đó. Cũng nhờ biết quan tâm nghĩ đến người khác như thế, mà tôi đã thành công khi gây được thiện cảm của các bậc phụ huynh và những người làm việc trong cùng mái trường với tôi sau này.

4. SINH HOẠT : Bạn có thường quan tâm đối xử tốt đối với những người thua kém bạn về địa vị xã hội hay không? Bạn sẽ làm gì trong những ngày sắp tới để nên người trưởng thành về nhân cách?

5. LỜI CẦU :

Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết quan tâm đến mọi người chung quanh, và sẵn sàng giúp đỡ phục vụ họ với hết khả năng của mình, để nên người trưởng thành về nhân cách, và được thành công trong mọi công việc.- AMEN.






 
Hình thành văn hóa xếp hàng
Lm. Đan Vinh
05:56 26/07/2022
BÀI 17

VĂN HOÁ ỨNG XỬ - HÌNH THÀNH VĂN HOÁ XẾP HÀNG

1. LỜI CHÚA: Tô-bi-a cha khuyên con: “Điều con ghét chớ làm cho ai” (Tb 4,15a).

2. CÂU CHUYỆN: VỀ LỐI SỐNG VĂN MINH LỊCH SỰ.



Những ai có dịp đi du lịch tại đảo quốc Sư Tử (Xanh-ga-po) đều có một đánh giá chung: người dân ở đất nước tuy nhỏ bé về hình thể này nhưng lại có nếp sống văn minh lịch sự cao, thể hiện qua việc xếp hàng: Họ làm gì cũng đều xếp hàng. Thói quen xếp hàng nơi công cộng ngày nay tại Xanh-ga-po không phải dễ dàng đạt được, nhưng là kết quả của một quá trình giáo dục cộng đồng liên tục suốt 30 năm qua. Chiến dịch “sống văn minh lịch sự tòan quốc” lúc đầu do Cục Xúc Tiến Du Lịch Xanh-ga-po khởi xướng nhằm vận động dân chúng cư xử lịch sự và thân thiện với du khách để thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Về sau nhận thấy không nên chỉ gói gọn trong việc đối xử tử tế đối với du khách, nên ngày 1/7/1979 cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã phát động chiến dịch Văn Minh Lịch Sự ra tòan xã hội và chọn tháng 7 hằng năm để mọi người “nghĩ đến nhau và đối xử tử tế với nhau”. Chiến dịch Văn Minh Lịch Sự cũng có một lô-gô là Mặt cười Smiley với khẩu hiệu: “Hãy biến sự văn minh lịch sự trở thành lối sống của chúng ta”. Đến năm 1982, biểu tượng lô-gô “Mặt cười smiley” được thay bằng “Chú sư tử Singa”. Từ 1985, việc thực hiện nếp sống Văn Minh Lịch Sự trở thành chiến dịch kéo dài suốt năm với kinh phí lên đến 700.000 đô-la Xanh mỗi năm. Từ ngày 1/3/2001, chiến dịch “Nếp sống văn minh lịch sự quốc gia” đổi thành phong trào “Xanh-ga-po tử tế” kéo dài đến nay.

3. SUY NIỆM:

1) Làm gì để hình thành văn hoá xếp hàng:

Ngày nay tại Việt Nam chúng ta Văn Hóa Xếp Hàng nói chung vẫn chưa được ngừơi dân coi trọng. Nhiều nơi vẫn xảy ra hiện tượng giành chỗ trước khi mua vé tàu hay tiến hành làm thủ tục tại sân bay, khiến nhiều du khách nước ngòai bất bình và có ấn tượng không tốt về trình độ văn hóa ứng xử của người Việt chúng ta.

Muốn có văn hóa xếp hàng thì cần bắt đầu bằng việc giáo dục nhân bản. Có lẽ trong một thời gian dài do phải lo đối phó với các vấn đề cấp bách của cuộc chiến giành độc lập, rồi sau đó lại phải đương đầu với vấn đề “cơm áo gạo tiền”… nên các người có trách nhiệm đã quên giáo dục nhân bản cho thế hệ con em như: Giữ tôn ti trật tự trong gia đình, biết kính trên nhường dưới, biết quan tâm đến người khác và tôn trọng tha nhân… thể hiện qua thái độ: Giữ thinh lặng tại nơi chung; Giữ gìn vệ sinh công cộng và ý thức bảo vệ của chung… Cũng do không được giáo dục nhân bản nên giới trẻ hiện nay có nhiều biểu hiệu thiếu văn hóa như: Tranh giành chỗ đứng khi mua vé xe, vé vào rạp hát hoặc mua hàng trong siêu thị …

2) Trách nhiệm của gia đình, trường học và xã hội:

Muốn có được văn hóa xếp hàng như người dân các nước văn minh khác trong khu vực, chúng ta cần bắt đầu giáo dục từ gia đình, đến nhà trường và ra xã hội:

- Trong gia đình: bà mẹ phải dạy con ứng xử vị tha thay cho vị kỷ, cần dạy con học thuộc và thực hành theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cha mẹ không được chiều con quá mức. Vì nếu đứa trẻ trong gia đình “muốn gì được nấy”, thì nó sẽ không ý thức phải nhường nhịn tha nhân. Từ ý thức ích kỷ sẽ biến thành hành vi tranh giành rồi thành thói quen chụp giật và thành tính cách coi thường luật pháp trong xã hội.

- Tạị trường học: Thầy cô giáo cần dạy học sinh văn hóa ứng xử qua thái độ tôn trọng tha nhân, tuân giữ kỷ luật học đường… Nên cho học sinh xếp hàng đầu giờ trước khi vào lớp, tập thói quen xếp hàng khi nộp học phí hay khi đến xin giải quyết công việc tại nhà trường…

- Ngoài xã hội: Tại các cơ quan nhà nước hay nơi phục vụ công cộng cần theo nguyên tắc “đến trước phục vụ trước”. Các nhân viên phải cương quyết không giải quyết cho ai không xếp hàng nghiêm túc. Hiện nay tại các ngân hàng, cơ sở khám bệnh hay giao dịch công ty đã có đổi mới là: Khách đến làm việc sẽ nhận một vé thứ tự tự động và làm theo hướng dẫn hiển thị trên màn hình.

3) Vai trò của các phương tiện truyền thông:

Báo chí truyền thanh truyền hình cũng phải tích cực góp phần vào việc giáo dục công dân bằng các khẩu hiệu, các tiểu phẩm phản bác thói ưa tranh giành, bằng những bài nói chuyện của các chuyên gia giáo dục xã hội trên truyền hình…

Tuy nhiên, ngoài các điều trên còn cần áp dụng biện pháp răn đe: Tại Xanh-ga-po du khách mới đến đã được hướng dẫn viên du lịch nhắc nhở phải bỏ rác vào thùng rác. Ai xả rác bừa bãi sẽ bị cảnh sát phạt đến 500 đô-la Xanh. Điều này cũng có tác dụng răn đe rất lớn khiến ai nấy đều sẵn sàng chấp hành kỷ luật.

4. SINH HOẠT: Bạn sẽ làm gì để huấn luyện người dưới quyền về văn hóa xếp hàng?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa. Xin giúp các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng và quan tâm dạy dỗ con cái biết ứng xứ có văn hoá trong mọi hoàn cảnh ngay từ khi chúng còn thơ bé.

Xin cho các thày cô giáo tại nhà trường ý thức tầm quan trọng của việc giáo dục nhân cách cho học trò, để quan tâm nhiều hơn về môn công dân giáo dục, và áp dụng bài học ứng xử có văn hoá trong các sinh hoạt học đường …

Xin cho các nhà quản lý xã hội biết tạo điều kiện để công dân biết ứng xử văn minh trật tự, nhất là văn hoá xếp hàng… nhờ đó sẽ có thể nâng cao uy tín dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.- AMEN.
 
Những cử đẹp trong cuộc sống
Lm. Đan Vinh
06:02 26/07/2022

BÀI 18
VĂN HOÁ ỨNG XỬ - NHỮNG CỬ CHỈ ĐẸP TRONG CUỘC SỐNG

1. LỜI CHÚA : “Con người đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

2. CÂU CHUYỆN : NHƯỜNG GHẾ CHO NGƯỜI GIÀ, TRẺ EM.

Trong tháng qua, tôi có dịp đi chơi cuối tuần tại Lái Thiêu, Bình Dương với mấy người bạn. Thay vì dùng xe hai bánh như mọi khi, chúng tôi đã rủ nhau cùng đi xe búyt để vừa an tòan không sợ tai nạn, tránh bị mưa nắng. Tuy nhiên, trong chuyến đi này tôi đã được tận mắt chứng kiến những cử chỉ không mấy tốt đẹp như sau :
Thực vậy, mặc dù đã có một tấm bảng nhỏ kẻ dòng chữ “Hãy nhường ghế cho người già, trẻ em và phụ nữ mang thai” được gắn ngay phía đầu xe, vậy mà vẫn có một chàng thanh niên thản nhiên ngồi trên ghế, đang khi một cụ bà đang đứng ngay bên ! Cũng vậy, một anh thanh niên khác vẫn tỉnh bơ ngồi giữa một số khá đông quý bà quý cô phải đứng suốt quãng đường dài gần 30 cây số. Dọc đường, tôi thấy xe dừng lại đón một cụ bà bước lên. Đầu tiên bà đưa mắt nhìn lướt qua các hàng ghế để mong tìm được một chỗ trống. Nhưng mọi chỗ trên xe đều chật cứng người ngồi và không ai chịu đứng lên nhường chỗ. Cuối cùng bà cụ đành phải rút dép ra kê và ngồi bệt ngay dưới sàn xe. Bấy giờ một chị trung niên do thương hại bà cụ nên đứng dậy nhường ghế cho bà, rồi chị lần bước đến ngồi trên thùng máy phía cuối xe. Một anh thanh niên thấy vậy cũng noi gương đứng lên và đi về phía đầu xe đứng. Một anh khác ở hàng ghế sau cũng đứng dậy để nhường chỗ. Hai anh nhìn nhau mỉm cười ý nhị, quên cả việc mời bà kia ngồi vào ghế của mình. Ngay lúc đó, thật đáng tiếc, một chàng thanh niên đang đứng gần bên vội bước lại dành chỗ. Rồi khi vừa có người xuống trạm thì một ông đi nạng khập khễnh bước lên xe. Nhưng không một ai quan tâm để đứng lên nhường chỗ cho người bị què cụt này…

3. SUY NIỆM :
Trong cuộc sống thường ngày, nếu biết quan tâm đến người bên cạnh, chắc chắn chúng ta sẽ không thiếu những cơ hội thể hiện tinh thần phục vụ bằng những cử chỉ đẹp như : nhặt một cái đinh trên đường đi để xe đi sau khỏi bị sì lốp giữa đường; Vứt một mảnh sành vào thùng rác để tránh cho người đi đường khỏi dẫm đạp lên; Dùng một vật để làm hiệu nắp ga bị bể, hầu tránh cho người khác phía sau khỏi sụt hầm; Phụ giúp một người đang khiêng một vật nặng lên xe; Báo cho người có trách nhiệm an ninh khi phát hiện có kẻ gian rình rập một ngôi nhà vắng chủ… Và còn rất nhiều cử chỉ đẹp mà các bạn trẻ chúng ta có thể làm để nói lên tinh thần yêu thương : sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

4. SINH HOẠT : Bạn có thường tự nguyện giúp đỡ người khác khi họ bất chợt gặp sự số, hay chỉ chịu giúp khi được họ năn nỉ nhờ cậy?

5. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho con luôn vị tha khi biết nghĩ đến người khác và sẵn sàng trợ giúp tha nhân khi cần với hết khả năng. Nhờ đó chúng con sẽ nên người trưởng thành về nhân cách và gây được thiện cảm với mọi người.- AMEN.
 
Giá trị tích cực của một cử chỉ đẹp
Lm. Đan Vinh
06:06 26/07/2022

BÀI 19
VĂN HOÁ ỨNG XỬ - GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA MỘT CỬ CHỈ ĐẸP
1. LỜI CHÚA : Chúa phán : ”Điều gì con muốn cho người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

2. CÂU CHUYỆN : SỨC LÔI CUỐN CỦA CỬ CHỈ ĐẸP.

- Bà PHO-RƠ-MEN dừng chiếc xe hơi của mình trước một trạm thu phí giao thông trên xa lộ cao tốc. Liếc mắt qua kính chiếu hậu, bà thấy cả một dẫy dài xe hơi nối đuôi phía sau xe mình. Bà chợt nảy ra một ý vui vui. Bà hạ kính xe xuống, trao cho nhân viên bán vé một tờ 10 đô-la và bảo : ”Chú ơi. Tôi mua một vé. Còn lại tôi mua thêm 9 vé cho 9 chiếc xe sau tôi. Chỗ dư tôi xin biếu cho chú đó !”
Không chờ để người bán vé kịp thắc mắc thể hiện qua nét mặt của anh ta, bà Pho-rơ-men quay kính xe, đạp ga và lái xe đi ngay. Bà hình dung ra trong đầu cũng sự ngạc nhiên đầy thú vị ấy nơi khuôn mặt của 9 người lái xe phía sau mà bà không hề quen biết. Bà không cần những lời cảm ơn. Chỉ là một “cử chỉ đẹp” nho nhỏ thôi mà. Có đáng gì dâu !
- Về đến nhà, bà Pho-rơ-men vừa làm bếp vừa tủm tỉm cười một mình vì nhớ lại chuyện sáng nay trên đường. Ông chồng già để ý rất lấy làm lạ. Đến bữa ăn trưa, ông lựa lời hỏi, bà mới kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đến phiên ông cũng cảm thấy vui lây niềm vui nho nhỏ ấy của bà…
Buổi chiều, đến trường dạy môn giáo dục công dân, ông Pho-rơ-men quyết định làm một “cử chỉ đẹp” bằng cách dùng chính câu chuyện về “cử chỉ đẹp” của bà vợ để dẫn nhập vào bài học. Các học sinh trung học của ông lặng đi một thóang rồi đồng lọat vỗ tay tán thưởng, Cuối cùng thầy giáo Pho-rơ-men kết thúc bài học như sau : ”Các em hãy nhớ : niềm vui sống khởi đi từ những chuyện bình thường nho nhỏ như thế. Mỗi ngày ước gì mỗi người chúng ta đều làm được ít nhất một “cử chỉ đẹp” tương tự, các em nhé !”
- Ở lớp học hôm ấy có cô bé Ma-ry, vốn là một học sinh cá biệt và bướng bỉnh lì lợm, và lười biếng không bao giờ làm việc nhà. Cô bé về nhà trong tâm trạng hết sức hân hoan phấn khởi và quyết định sẽ làm một cử chỉ đẹp để cho cha mẹ ngạc nhiên. Cô lặng lẽ làm việc nhà : quét tước nhà cửa và nấu nướng giặt ủi quần áo mà mẹ cô vẫn làm hằng ngày, trước khi mẹ cô từ xưởng thợ và cha cô ở tòa báo trở về nhà. Chập tối, khi hai ông bà bước vào nhà thấy sự sạch sẽ ngăn nắp trong nhà thì đã đoán chừng có sự đổi thay kỳ lạ nào đó nơi cô con gái cưng đang tuổi dậy thì ! Hỏi mãi cô bé mới kể lại câu chuyện về “cử chỉ đẹp” mà cô đã nghe thầy Pho-rơ-men kể ở lớp. Cô hứa với bố mẹ tất cả các việc cô làm trong nhà hôm nay không phải là “cử chỉ đẹp” duy nhất, nhưng sẽ được tiếp tục thực hiện trong những ngày sắp tới.
- Sau bữa cơm chiều thật vui vẻ đầm ấm, ông En-phông-sơ cha của Ma-ry, vốn là một phóng viên của tờ báo địa phương, khoan khóai ngồi vào bàn làm việc. Ông quyết định phải viết ngay một bài báo về câu chuyện “cử chỉ đẹp”… Chỉ đến chiều hôm sau là cả miền đều xôn xao khi đọc được bài báo. Người ta bảo nhau, ít nhất mỗi ngày, hãy nhớ làm một “cử chỉ đẹp” nho nhỏ cho nhau, cho cuộc sống thêm niềm vui…
- Cha xứ đưa câu chuyện vào bài giảng thánh lễ Chúa Nhật kế đó. Một diễn giả chọn câu chuyện làm chủ đề chính cho một buổi mạn đàm ở hội trường lớn của thị trấn. Một bà mẹ kể lại cho đứa con như một chuyện cổ tích để ru nó vào giấc ngủ ngon. Một đôi bạn trẻ đang yêu nhau cũng thỏa thuận từ nay sẽ dành cho nhau những “cử chỉ đẹp” thay vì những trò giận dỗi vô bổ. Ngòai đường phố, người ta thôi không vứt bã kẹo cao-su bừa bãi. Trẻ em ngưng trò đá banh trên đường phố hoặc đi bấm chuông ngoài cổng để chọc phá nhà hàng xóm.
- Những người lái xe cố gắng tránh không làm tạt những vũng nước dơ trên đường lên khách bộ hành. Một cậu Sói Con bước ra khỏi nhà, thắt một chiếc nút nhỏ ở chéo đuôi khăn quàng trên ngực, tự nhủ sẽ làm một “cử chỉ đẹp” trên đường đến công viên họp bạn Hướng Đạo. Trong nhà giam, viên cai ngục vốn bẳn tính quyết định sẽ có những “cử chỉ đẹp” đối với các tù nhân. Người đi mua hàng ở tiệm tạp hóa biết mở miệng nói lời cám ơn lịch sự. Còn cô bán hàng thường hay cau có đã biết nở nụ cười khả ái đáp lại khách hàng. Một cầu thủ bóng đá vốn nổi tiếng chơi xấu ngáng chân kéo áo, giờ đây trong trận đấu cuối tuần, đã biết chạy lại đỡ nâng cầu thủ đội bạn bị té ngã đứng dậy kèm theo lời xin lỗi…

3. SUY NIỆM :

Một “cử chỉ đẹp”. Vâng, chỉ cần một “cử chỉ đẹp” nho nhỏ mỗi ngày thôi, cũng đủ làm cho cuộc sống chung quanh chúng ta thêm ý nhị đậm đà. Và niềm vui do thái độ yêu thương và quan tâm đến nhau sẽ được nhen nhúm, rồi bùng cháy thành một đám lửa hồng, lan tỏa ngọn lửa yêu thương đến cho mọi người.

4. SINH HOẠT :

Bạn thấy “cử chỉ đẹp” của bà Pho-rơ-men trong câu chuyện trên có giá trị tích cực thế nào? Trong những ngày này bạn quyết tâm sẽ làm “cử chỉ đẹp” nào cho người thân trong gia đình, bạn bè nơi trường học hay xưởng làm và mọi người có dịp tiếp xúc?

5. LỜI CẦU :

Lạy Chúa Giê-su. Qua câu chuyện “Giá Trị tích cực của một cử chỉ đẹp”, chúng con hiểu được sức mạnh của một cử chỉ đẹp, dù nhỏ bé nhưng lại có sức lôi cuốn được nhiều người khác làm theo. Xin giúp chúng con thực hiện mỗi ngày một cử chỉ đẹp, để gây thiện cảm với người khác. Hy vọng cử chỉ đẹp giống như ánh lửa tin yêu sẽ truyền ánh sáng và sức nóng cho người khác, để biến đổi môi trường là gia đình, khu xóm, trường học và xưởng làm… ngày một ấm áp tình người hơn và nên thiên đường hạ giới ngay từ hôm nay.- AMEN.
 
Lịch sự tế nhị với mọi người
Lm. Đan Vinh
06:10 26/07/2022

BÀI 20
VĂN HOÁ ỨNG XỬ - LỊCH SỰ TẾ NHỊ VỚI MỌI NGƯỜI

1. LỜI CHÚA : Thánh Phao-lô khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Hãy thận trọng trong mọi sự” (2 Tm 4,5).

2. CÂU CHUYỆN : THÁI ĐỘ TÔN TRỌNG NGƯỜI HÀNH KHẤT.

“Một hôm trên đường đi tập thể dục buổi sáng, tôi đã gặp một người hành khất cao niên. Với cặp mắt đỏ hoe, nước mắt giàn giụa, đôi môi tái nhợt và áo quần tả tơi, ông lão chìa đôi tay ra xin tôi giúp đỡ. Tôi lục hết từ túi quần đến túi áo mà không tìm được một đồng nào để giúp đỡ ông. Dù vậy ông lão ăn xin vẫn kiên nhẫn đứng đợi. Sau đó tôi không biết làm gì khác hơn là nắm lấy hai bàn tay run rẩy vì lạnh của ông và nói : “Xin ông thứ lỗi. Hôm nay cháu đi tập thể dục nên không mang tiền theo”.
Tôi thấy đôi môi của ông lão chợt nở ra một nụ cười tươi và ông nói với tôi rằng : “Cảm ơn cháu nhé ! Hôm nay cháu đã cho ông một món quà quý giá nhất, là thái độ lịch sự tế nhị của cháu, mà trước đến giờ ông chưa gặp được”. Bấy giờ tôi chợt nhận ra : Chính tôi cũng nhận được một món quà quý giá của ông lão vừa cho tôi là lòng biết ơn.” (Viết theo Tuốc-ghê-nhép).

3. SUY NIỆM :

1) Thế nào là thái độ ứng xử lịch sự tế nhị? :
- Lịch sự là những cử chỉ, hành vi giao tiếp ứng xử phù hợp với quy định của xã hội, với truyền thống đạo đức dân tộc. Tế nhị là sự khéo léo sử dụng những cử chỉ, ngôn ngữ trong giao tiếp ứng xử, biểu lộ một con người hiểu biết và có văn hóa.
- Lịch sự tế nhị được biểu lộ qua lời nói và cách ứng xử khi giao tiếp, trong các qui định phép tắc xã hội khi quan hệ giữa người với người, nói lên sự tôn trọng tha nhân. Lịch sự tế nhị cho thấy trình độ văn hóa và đạo đức của một con người.

2) Hiệu quả của thái độ ứng xử tế nhị :
- Người biết cách cư xử lịch sự tế nhị sẽ sống hòa thuận với người chung quanh, trong lòng luôn cảm thấy vui vẻ bình an, đang khi kẻ bất lịch sự thiếu văn hóa lại luôn mang tâm trạng bất an do phải đối phó với nhiều kẻ thù ghét mình.
- Ngừơi lịch sự tế nhị sẽ biết giữ thể diện cho người khác và đổi lại họ cũng được người khác tôn trọng. Họ luôn đối xử chân thành và tôn trọng tha nhân, nên được nhiều người yêu mến và kết thân, là điều kiện để thành công trong mọi công việc.

3) Chúng ta phải làm gì để trở nên lịch sự tế nhị trong lời nói, cử chỉ và hành động?
+ LỜI NÓI LỊCH SỰ TẾ NHỊ :
Ngừơi lịch sự sẽ không nói những lời tục tĩu, không nói to giữa nơi đông người; biết chào hỏi người khác; biết nói cám ơn xin lỗi; biết khen nhiều hơn chê; biết tự nhận lỗi; luôn suy nghĩ cẩn thận trước khi nói… để tránh nói ra những lời bất lợi cho bản thân và cho tha nhân.
+ THÁI ĐÔ LỊCH SỰ TẾ NHỊ :
Thái độ của mỗi người cũng là một cách nói. Qua thái độ tế nhị, người đối diện sẽ cảm thấy mình được tôn trọng và sẵn sàng kết thân giao hảo.
+ HÀNH ĐỘNG LỊCH SỰ TẾ NHỊ :
Ngừơi lịch sự tế nhị sẽ không tò mò tọc mạch đế tìm hiểu những chuyện riêng tư của người khác; Không cười nhạo tật xấu của tha nhân; Không tự tiện lục túi xách, đọc trộm nhật ký và thư riêng, nghe lén hay đọc tin nhắn trong điện thọai của người khác… khi chưa được chủ nhân cho phép… Không nói ra những điều bí mật bất lợi cho người khác…

4. SINH HOẠT :

Giáo viên phụ trách khoá giáo lý dự tòng và hôn phối sẽ ứng xử cách tế nhị lịch sự thế nào đối với các học viên thường hay đi đến trễ?
Hãy chọn một trong các cách ứng xử sau và cho biết lý do tai sao ứng xử như vậy?
+ Phê bình kẻ đi học trễ với thái độ và lời lẽ gay gắt để họ sửa lại.
+ Lờ đi và coi như không có chuyện gì.
+ Xử lý không cho làm bài thi cuối khoá.
+ Nhắc nhở chung các học viên tránh đi trễ.
+ Tìm hiểu nguyên nhân học viên đến trễ và đề ra giải pháp hữu hiệu để khắc phục.

5. LỜI CẦU :

Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con biết ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Xin cho chúng con luôn biết ăn nói tế nhị, ứng xử lịch sự với mọi người. Xin cho chúng con biết khôn ngoan và bao dung khi sửa lỗi cho kẻ làm sai… Nhờ đó chúng con sẽ tạo được bầu khí an vui trong môi trường sống và làm việc của chúng con.- AMEN.


 
VietCatholic TV
Diễn từ đầu tiên của Đức Thánh Cha trong chuyến tông du Canada: Tôi chân thành xin lỗi
VietCatholic Media
00:48 26/07/2022

Lúc 9g sáng Chúa Nhật 24 tháng 7, Đức Thánh Cha đã khởi hành từ phi trường Fiumicino của Rôma trong chuyến tông du Canada từ ngày 24 đến ngày 30 tháng Bẩy. Đây là chuyến tông du thứ 37 của Đức Thánh Cha trong triều Giáo Hoàng của ngài, và là chuyến tông du thứ năm sau khi đại dịch coronavirus bùng phát trên thế giới làm gián đoạn các chuyến tông du của ngài trong 15 tháng. Đây cũng là chuyến tông du thứ hai của ngài trong năm nay, sau khi đã viếng thăm Malta trong hai ngày mùng 2 vả 3 tháng Tư vừa qua.

Lúc 11:20 máy bay đã hạ cánh xuống sân bay Edmonton, tỉnh Alberta.

Lúc 10g sáng ngày thứ Hai 25 tháng 7, Đức Thánh Cha đã thăm Maskwacis, ngôi trường dành cho người bản địa Ermineskine trước đây, một trong những trường lớn nhất trong nước, cách Edmonton khoảng 100 km. Ngài đã gặp gỡ các dân tộc First Nations, Métis và Inuit. Tòa nhà gần đây đã được phục hồi sau trận hỏa hoạn kinh hoàng vào năm 2020.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Thưa Bà Toàn quyền,

Thưa Ngài Thủ tướng,

Kính gửi những người dân bản địa của Maskwacis và của vùng đất Canada này,

Anh chị em thân mến!

Tôi đã chờ đợi để đến đây và được ở với anh chị em! Ở đây, từ nơi gắn liền với những kỷ niệm đau thương, tôi xin bắt đầu điều mà tôi coi là một cuộc hành hương, một cuộc hành hương đền tội. Tôi đã đến quê hương của anh chị em để nói với anh chị em về nỗi buồn của tôi, để cầu xin sự tha thứ của Chúa, ơn chữa lành và hòa giải, để bày tỏ sự gần gũi của tôi và cầu nguyện với anh chị em và cho anh chị em.

Tôi nhớ lại những cuộc họp chúng ta đã có ở Rôma bốn tháng trước. Vào thời điểm đó, tôi đã được tặng hai đôi giày da thú như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những đứa trẻ không may trở về từ các các trường nội trú dành cho người bản địa. Tôi được yêu cầu trả lại đôi giày da này khi đến Canada; Tôi đã mang chúng đến, và tôi sẽ trả lại chúng khi kết thúc vài lời này, trong đó tôi muốn suy ngẫm về biểu tượng này, biểu tượng mà trong vài tháng qua đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về những đứa trẻ đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để bảo đảm rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình yêu thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những chiếc giày da thú đó cũng nói cho chúng ta biết một con đường phải theo đuổi, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau bước đi, cùng nhau cầu nguyện và làm việc cùng nhau, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, hàn gắn và hòa giải.

Đó là lý do tại sao phần đầu tiên của cuộc hành hương của tôi giữa anh chị em diễn ra ở vùng đất này, nơi mà từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta; những vùng đất làm chúng ta ghi nhớ.

Hãy nhớ rằng: thưa anh chị em, anh chị em đã sống trên những vùng đất này hàng ngàn năm, tuân theo những cách sống tôn trọng trái đất mà anh chị em đã nhận được như một di sản từ các thế hệ trước và đang lưu giữ cho những người chưa tới. Anh chị em đã coi nó như một món quà của Đấng Tạo Hóa để được chia sẻ với những người khác và được nâng niu trong sự hài hòa với tất cả những gì tồn tại, trong mối tương giao sâu sắc với tất cả thụ tạo. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, cũng như xây dựng mối liên kết bền vững giữa các thế hệ, tôn trọng người lớn tuổi và quan tâm đến những trẻ nhỏ của anh chị em. Một kho tàng các phong tục và giáo lý đúng đắn, tập trung vào sự quan tâm đến người khác, sự trung thực, lòng dũng cảm và sự tôn trọng, sự khiêm tốn, thật thà và trí tuệ thực tế!

Thật đáng buồn là trái với những bước đầu tiên được thực hiện trên những vùng đất này, con đường của sự hồi tưởng sẽ dẫn chúng ta đến những nẻo đường tiếp theo. Nơi mà chúng ta đang tụ họp làm dấy lên trong tôi cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà tôi đã cảm thấy trong những tháng qua. Tôi nghĩ lại những tình huống bi thảm mà rất nhiều người trong số anh chị em, gia đình và cộng đồng của anh chị em đã biết; những gì anh chị em đã chia sẻ với tôi về những đau khổ mà anh chị em phải chịu đựng ở các các trường nội trú. Đây là những chấn thương một cách nào đó được đánh thức lại bất cứ khi nào đối tượng xuất hiện; Tôi cũng nhận ra rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay có thể gợi lại những kỷ niệm cũ và đau đớn, và nhiều người trong số anh chị em có thể cảm thấy không thoải mái ngay cả khi tôi đang nói. Tuy nhiên, đúng là phải nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến sự thờ ơ và, như đã nói, “đối lập của tình yêu không phải là hận thù, đó là sự thờ ơ… và đối diện của sự sống không phải là cái chết, đó là sự thờ ơ” (E. WIESEL). Nhắc nhớ những kinh nghiệm tàn khốc đã xảy ra trong các các trường nội trú làm đau đớn, tức giận, gây đau thương, nhưng nó là cần thiết.

Cần phải nhớ rằng các chính sách đồng hóa và khai phóng, bao gồm cả hệ thống trường học nội trú, đã tàn phá như thế nào đối với người dân ở những vùng đất này. Khi những người thực dân Âu Châu lần đầu tiên đến đây, có một cơ hội tuyệt vời để mang lại một cuộc gặp gỡ hiệu quả giữa các nền văn hóa, truyền thống và các hình thức tâm linh. Tuy nhiên, phần lớn điều đó đã không xảy ra. Một lần nữa, tôi nghĩ lại những câu chuyện mà anh chị em đã kể: các chính sách đồng hóa đã gạt các dân tộc bản địa ra ngoài lề một cách có hệ thống; thông qua hệ thống trường học nội trú, ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em bị gièm pha và đàn áp như thế nào; trẻ em bị lạm dụng thể chất, lời nói, tâm lý và tinh thần ra sao; họ bị bắt khỏi nhà của họ khi còn nhỏ như thế nào, và những chính sách ấy xóa nhòa vĩnh viễn mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, ông bà và con cháu ra sao.

Tôi cảm ơn anh chị em đã cho tôi biết điều này, đã cho tôi biết về những gánh nặng mà anh chị em vẫn phải gánh, đã chia sẻ với tôi những kỷ niệm cay đắng này. Hôm nay tôi ở đây, ở mảnh đất này, cùng với những ký ức xa xưa, lưu giữ những vết thương lòng vẫn còn nguyên những vết sẹo. Tôi ở đây bởi vì bước đầu tiên của cuộc hành hương đền tội của tôi giữa anh chị em là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, để nói với anh chị em một lần nữa rằng tôi vô cùng xin lỗi. Xin lỗi vì những cách thức mà trong đó, đáng tiếc là nhiều Kitô hữu đã ủng hộ tâm lý thực dân hóa của các thế lực áp bức dân bản địa. Tôi xin lỗi. Đặc biệt, tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đồng tôn giáo đã hợp tác, đặc biệt là thông qua sự thờ ơ của họ, trong các dự án phá hủy văn hóa và đồng hóa cưỡng bức do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học khu nội trú.

Mặc dù các tổ chức bác ái Kitô giáo không vắng mặt, và có nhiều trường hợp nổi bật về sự tận tâm và chăm sóc trẻ em, nhưng tác động tổng thể của các chính sách liên quan đến trường học nội trú là rất thảm khốc. Điều mà đức tin Kitô của chúng ta cho chúng ta biết rằng đây là một sai lầm tai hại, không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi nghĩ đến việc đất đai vững chắc của các giá trị, ngôn ngữ và văn hóa tạo nên bản sắc đích thực của các dân tộc anh chị em đã bị xói mòn như thế nào, và anh chị em đã tiếp tục phải trả giá cho điều này. Trước sự xấu xa đáng trách này, Giáo hội quỳ gối trước Thiên Chúa và cầu xin Ngài tha thứ cho tội lỗi của con cái mình (xem JOHN PAUL II, Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể [29/11/1998], 11: AAS 91 [1999], 140). Bản thân tôi muốn khẳng định lại điều này, với sự xấu hổ và minh bạch. Tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều Kitô hữu chống lại người dân bản địa.

Anh chị em thân mến, nhiều anh chị em và đại diện của anh chị em đã nói rằng việc cầu xin sự tha thứ không phải là kết thúc của vấn đề. Tôi hoàn toàn đồng ý: đó chỉ là bước đầu tiên, điểm khởi đầu. Tôi cũng nhận ra rằng, “nhìn về quá khứ, mọi nỗ lực cầu xin sự tha thứ và tìm cách sửa chữa những tổn hại đã gây ra đều là không đủ” và rằng, “nhìn về phía trước tương lai, không thể chừa ra bất cứ nỗ lực nào nhằm tạo ra một nền văn hóa có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy xảy ra “(Thư gửi dân Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018). Một phần quan trọng của quá trình này sẽ là tiến hành một cuộc điều tra nghiêm túc về sự thật của những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những nạn nhân trong các trường nội trú trải qua việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng.

Tôi tin tưởng và cầu nguyện rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự ở vùng đất này có thể phát triển khả năng chấp nhận và tôn trọng bản sắc cũng như kinh nghiệm của các dân tộc bản địa. Tôi hy vọng rằng có thể tìm ra những cách cụ thể để làm cho những dân tộc đó được biết đến nhiều hơn và được quý trọng hơn, để tất cả có thể học cách bước đi cùng nhau. Về phần mình, tôi sẽ tiếp tục khuyến khích nỗ lực của tất cả những người Công Giáo để hỗ trợ người dân bản địa. Tôi đã làm như vậy trong những dịp khác và ở những nơi khác nhau, qua các cuộc họp, những lời kêu gọi và cũng như qua việc viết một Tông Huấn. Tôi nhận ra rằng tất cả những điều này sẽ đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn. Chúng ta đang nói đến những quá trình phải thâm nhập vào trái tim. Sự hiện diện của tôi ở đây và sự cam kết của các Giám mục Canada là minh chứng cho ý chí kiên trì của chúng ta trên con đường này.

Anh chị em thân mến, cuộc hành hương này diễn ra trong nhiều ngày và ở những nơi cách xa nhau; mặc dù vậy, nó sẽ không cho phép tôi chấp nhận nhiều lời mời mà tôi đã nhận được để đến thăm các trung tâm như Kamloops, Winnipeg và những nơi khác nhau ở Saskatchewan, Yukon và các Lãnh thổ Tây Bắc. Mặc dù điều đó là không thể, nhưng xin hãy biết rằng tất cả anh chị em đang ở trong suy nghĩ của tôi và trong lời cầu nguyện của tôi. Hãy biết rằng tôi nhận thức được những đau khổ và tổn thương, những khó khăn và thử thách mà người dân bản địa ở mọi miền trên đất nước này phải trải qua. Những lời tôi nói trong suốt hành trình sám hối này có ý nghĩa đối với mọi cộng đồng và người bản xứ. Tôi ôm tất cả anh chị em với tình cảm.

Trong bước đầu tiên của cuộc hành trình, tôi muốn tạo không gian cho ký ức. Ở đây, hôm nay, tôi ở cùng anh chị em hồi tưởng lại quá khứ, cùng đau buồn với anh chị em, cùng cúi đầu trong thinh lặng và cầu nguyện trước những ngôi mộ. Chúng ta hãy cho phép những khoảnh khắc im lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Im lặng. Và lời cầu nguyện. Trước sự dữ, chúng con cầu xin Chúa nhân lành; Đối mặt với cái chết, chúng ta cầu nguyện với Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã lấy một ngôi mộ, nơi dường như là nơi chôn cất mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại nỗi buồn, nỗi đau và sự cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, khởi đầu của lịch sử cuộc sống mới và hòa giải phổ quát. Những nỗ lực riêng của chúng ta không đủ để đạt được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan thầm lặng và mạnh mẽ của Thánh Linh, tình yêu dịu dàng của Đấng An Ủi. Cầu mong Người làm viên mãn những mong đợi sâu sắc nhất trong trái tim của chúng ta. Cầu mong Người nắm lấy tay chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình của mình.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Putin dồn dập tin buồn: Thêm một Trung Tá tử trận. Hàng trăm lính Nga ngã gục vì truyền thông Moscow
VietCatholic Media
03:10 26/07/2022


1. Nga dồn dập tin buồn: Tư Lệnh Trung Đoàn tử trận

Theo tờ Newsweek, Trung tá Sergei Mikhaylov, 42 tuổi, Tư Lệnh Trung Đoàn súng trường cơ giới Bryansk, cũng bị giết ở Ukraine nhưng trong một biến cố khác với cái chết của hai sĩ quan cấp tá của lực lượng Không Quân là Trung Tá Potyomin và Đại Tá Stasyukevich.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Euromaidan Press ngày 25/7, Đại tá Anatoly Stefan của Lực lượng Vũ trang Ukraine cho biết một cách mỉa mai như sau: “Trong cuộc chiến của Liên bang Nga chống lại Ukraine, Trung tá Sergei Mikhailov, Trung Đoàn Trưởng đã bị thanh lý. Trung tá Sergei Mikhailov, đã thực hiện một ‘bước thiện chí’ - chính thức được phi quân sự hóa và phi Quốc Xã hóa.”

Trung tá Sergei Mikhaylov được tường trình đã bị loại khỏi vòng chiến ở Novotoshkovka. Ông đã tham gia cuộc chiến chống lại Ukraine từ ngày đầu tiên của cuộc xâm lược toàn diện của Liên bang Nga và bị giết trong vùng Luhansk.

Các phương tiện truyền thông Nga cho biết vị trung tá 42 tuổi, được truy tặng hai huân chương - từ Tổng thống Nga Vladimir Putin và thủ lĩnh Leonid Pasechnik của cái gọi là Cộng Hòa Nhân Dân Luhansk.

Thị trưởng thành phố Klimovo cho biết “Trung tá Mikhailov Sergei Nikolayevich, sinh năm 1980 tại Chuvash, Klimovo, trong vùng Bryansk. Từ khi bắt đầu cuộc hành quân đặc biệt, anh ấy đã tham gia vào các trận chiến chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc và tử trận tại Novotoshkovka, vùng Luhansk.”

Một tấm bảng tưởng niệm vị trung tá xấu số được dựng lên tại ngôi trường ở quê nhà. Như thường lệ ở Nga, trong các bài phát biểu “thương tiếc” dành riêng cho quân nhân tử trận, họ mô tả những “khía cạnh tích cực” của anh ta: như “anh ta học xuất sắc ở trường”, “là nhà vô địch của các cuộc thi đấu vật tự do.”

“Anh ấy thăng lên cấp trung tá khi chỉ huy một Trung Đoàn súng trường cơ giới. Anh ấy đã vinh dự được tham gia hai cuộc diễn binh Chiến thắng trên Quảng trường Đỏ ở Mạc Tư Khoa. Ngay từ những ngày đầu tiên của chiến dịch đặc biệt ở Ukraine, Trung Đoàn súng trường cơ giới dưới quyền chỉ huy của anh đã tham gia và đã chiến thắng oanh liệt trong các trận chiến chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc.”

Theo tờ Newsweek, HIMARS hay Hệ thống Hỏa tiễn Pháo binh Cơ động Cao của phương Tây, đang cho phép người Ukraine thực hiện một loạt các cuộc tấn công tàn khốc vào các mục tiêu của Nga ở Ukraine, mà chính quyền nước này tuyên bố đã giết chết hàng loạt các thành viên trong giới tinh hoa quân sự của Nga.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và các quan chức của ông từ lâu đã yêu cầu Mỹ gửi cho Kyiv những vũ khí tối tân để giúp quân đội Ukraine có thể tiếp cận các mục tiêu của Nga sâu bên trong các chiến tuyến của quân Nga và tương xứng với hỏa lực của Mạc Tư Khoa. Vào tháng 6, Mỹ cuối cùng đã đồng ý với yêu cầu của Zelenksy.

HIMARS đã được gọi là yếu tố thay đổi cuộc chơi trong chiến tranh và đã củng cố sức mạnh quân sự của Kyiv. Chỉ khoảng một tháng sau khi Ukraine nhận được hệ thống HIMARS đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Oleksii Reznikov cho biết họ đã tạo ra một sự khác biệt “rất lớn” trên chiến trường.

Kể từ khi nhận được vũ khí, một số cuộc tấn công được cho là do HIMARS của Mỹ đã được báo cáo tại các khu vực bị chiếm đóng của Ukraine, một số cuộc tấn công được cho là đã giết chết một số quân nhân cấp cao của Nga.

Ngày 27/6, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng một cuộc tấn công của Ukraine sử dụng hệ thống hỏa tiễn tầm xa HIMARS của Mỹ đã khiến hơn 40 binh sĩ thiệt mạng sau khi làm nổ tung một căn cứ gần thành phố Izyum ở vùng Donbas.

Lực lượng vũ trang Ukraine cho biết một đại tá nằm trong số những người thiệt mạng trong cuộc tấn công. Vào đêm cùng ngày Ukraine tấn công Izyum, truyền thông Nga đã xác nhận cái chết của Đại Tá Andrei Vasilyev, Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù tinh nhuệ của Nga.

Từ đó liên tục xảy ra các báo cáo về các sĩ quan quân đội hàng đầu của Nga thiệt mạng do các cuộc tấn công của HIMARS.

Vào ngày 11 tháng 7, các bản tin cho biết các lực lượng vũ trang của Ukraine đã giết chết 12 sĩ quan Nga trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn nhằm vào một sở chỉ huy ở sân bay Chornobaivka gần thành phố bị chiếm đóng Kherson. Sân bay này, được đánh chiếm sớm trong cuộc chiến chống Ukraine của Nga, là một căn cứ quân sự quan trọng của quân đội Nga khi chiếm đóng thành phố miền nam Ukraine.

Vào ngày 12 tháng 7, các nguồn tin bao gồm các báo Guardian, Telegraph và Daily Mail của Anh đưa tin rằng các cuộc không kích của Ukraine đã giết chết ít nhất bảy người tại một kho đạn ở Nova Kakhovka, Kherson.

Một tuyên bố liên quan đến những người thiệt mạng được đưa ra bởi chính quyền của thành phố do Nga cài đặt, cho rằng các cuộc tấn công là do vũ khí HIMARS mà Kyiv nhận được gần đây.

Trong số các nạn nhân của cuộc tấn công có Tham mưu trưởng Quân đoàn 22 của Lực lượng vũ trang Liên bang Nga, Thiếu tướng Artem Nasbulin. Vị tướng này là vị tướng thứ 12 của Nga bị giết kể từ đầu cuộc chiến vào ngày 24/2.

Cuối tuần qua, cái chết của thêm ba thành viên trong giới tinh hoa quân sự của Nga được cho là do các cuộc tấn công HIMARS của Ukraine.

Cái chết của trung tá Maksim Potyomin được cho là do các cuộc tấn công HIMARS. Cha ông là Alexey Potyomin, người nói với truyền thông địa phương rằng xe của con trai ông “bị trúng hỏa tiễn HIMARS” ở Donetsk vào ngày 8 tháng 7.

Một sĩ quan hàng đầu khác của Nga, Đại tá Anatoly Stasyukevich, được cho là đã thiệt mạng trong cùng một vụ tấn công khiến Potyomin mất mạng. Hai người được cho là đều là phi công chiến đấu đóng tại Krymsk, vùng Krasnodar.

Trung tá Sergei Mikhaylov, 42 tuổi, Tư Lệnh Trung Đoàn súng trường cơ giới Klimovo, cũng bị giết ở Ukraine nhưng trong một biến cố khác với cái chết của hai sĩ quan cấp tá Không Quân là Trung Tá Potyomin và Đại Tá Stasyukevich.

Các phương tiện truyền thông Nga, như thường lệ, đã cáo buộc Hoa Kỳ cung cấp các tin tình báo để hướng dẫn Ukraine bắn vào các sở chỉ huy. Đi xa hơn nữa, có nhà lập pháp Nga còn cho rằng chính người Mỹ bắn. Thật vậy, trong một nhận xét hàm ý khinh miệt khả năng của quân đội Ukraine, Andrei Kartapolov, người đứng đầu Ủy ban Quốc phòng Hạ Viện Nga, nói với TASS hôm thứ Năm 21 tháng 7 rằng người Ukraine không có khả năng điều khiển các hệ thống HIMARS. Ông nói: “Đồng thời, tôi muốn nhấn mạnh rằng chính các chuyên gia nước ngoài, hay vắn tắt là lính đánh thuê, là những xạ thủ. Tôi không loại trừ những quân nhân Mỹ đang làm việc ở đó”.

Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Ukraine và Nga để yêu cầu xác nhận tất cả các trường hợp tử vong được báo cáo trong bài báo này.

2. Truyền thông Nga nổ quá lớn về Luhansk, sĩ quan chịu áp lực cố chiếm trọn vùng này. Kết quả là một nghĩa trang mênh mông các tử sĩ

Hôm 5 tháng 7, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu đã có một cuộc họp với Putin để báo cáo về chiến thắng tại Lysychansk. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông Nga kháo rằng quân Nga đã chiếm được toàn bộ vùng Luhansk.

Điều đó không đúng sự thật. Quân Ukraine vẫn còn giữ được một phần. Trong cuộc họp báo chung với Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin hôm 20 tháng 7, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ, Tướng Mark Milley khẳng định Ukraine vẫn còn giữ được một phần của vùng Luhansk. Các khu vực do Ukraine kiểm soát ở Luhansk hầu hết là đất nông nghiệp với những khoảnh rừng và bị chia cắt bởi sông Seversky Donets - nơi bị quân đội Ukraine bắn liên tục – rất khó có thể vượt qua.

Người Nga đã thành công trong việc chiếm được Lysychansk chỉ sau khi dùng pháo hạng nặng tấn công các vị trí của Ukraine và tiến được tối đa là một km trong một hoặc hai ngày. Họ đã chiếm được Lysychansk với các tổn thất rất nặng nề. Tuy nhiên, quân Nga đã thất bại trong việc bao vây một nhóm lớn quân Ukraine chỉ cách Lysychansk vài km về phía nam. Quân Ukraine rút lui chủ yếu là đi bộ dưới hỏa lực dày đặc - đến những ngọn đồi xung quanh các thành phố Seversk và Bakhmut.

Sau khi quân Nga chiếm được Lysychansk vào ngày 2 tháng 7, một tuần sau đó Putin đã ra lệnh cho họ tạm nghỉ để tái phối trí các lực lượng. Giờ đây, dưới áp lực của các phương tiện truyền thông diều hâu của Nga, các sĩ quan Nga đang tung ra những nỗ lực chiếm nốt phần còn lại của Luhansk bằng mọi giá.

Nhưng những gì phía trước quân đội Nga ở Donetsk phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cần nhớ rằng Ukraine vẫn kiểm soát gần một nửa khu vực Donetsk - và đã dành gần 8 năm để xây dựng các tuyến phòng thủ ở đó.

Trong bản báo cáo chiều thứ Hai 25 tháng 7, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết từ hôm Chúa Nhật, quân Nga đã tiến hành ba cuộc tấn công bằng trọng pháo, hai cuộc tấn công bằng súng cối và ba cuộc tấn công bằng xe tăng vào các vị trí còn lại của Lực lượng vũ trang Ukraine ở vùng Luhansk, trước khi tấn công bằng bộ binh. Tuy nhiên, tất cả đều bị đẩy lui.

Ông Serhiy Haidai, Thống Đốc khu vực Luhansk, cho biết: “Quân xâm lược Nga không từ bỏ ý định phát triển một cuộc tấn công vào phần còn lại của Luhansk để chiếm các thành phố lớn của vùng Donetsk, nhưng hiện tại họ bị kẹt cứng trong khu vực của chúng tôi. Họ chết mà không bao giờ được nhìn thấy vùng lân cận. Họ tấn công từ nhiều hướng cùng một lúc, cố gắng phân tán hàng phòng thủ của chúng tôi. Chiến lược này không hoạt động. Vào ngày 24 tháng 7, họ lại rút lui khi chịu tổn thất quá lớn”

Bao nhiêu quân Nga tử trận ở Verkhniokamyanka, Verkhniokamyanske, Bilohorivka, Ivano, Daryivka vẫn chưa kiểm đếm được. Nhưng theo Ông Serhiy Haidai, đó là một con số “đáng kể”.

3. Hệ thống phòng không Stormer HVM đầu tiên đến Ukraine

Trong bản báo cáo sáng thứ Ba 26 tháng 7, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết sáu hệ thống phòng không Stormer HVM đầu tiên đã đến Ukraine và đang được sử dụng trên tiền tuyến.

Phát ngôn nhân Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine nói: “Sáu hệ thống phòng không Stormer HVM đầu tiên đã đến mặt trận ở Ukraine. Các hệ thống phòng không Stormer HVM 'tàng hình' của Anh có thể 'nhìn thấy' máy bay tấn công của đối phương ở khoảng cách lên tới 18 km.”

Theo báo cáo, các hệ thống này được gọi là “tàng hình” vì khả năng dẫn đường cho hỏa tiễn tới mục tiêu ở chế độ bán tự động.

Báo cáo cho biết: “Điều này làm cho hệ thống phòng không là 'vô hình' theo nghĩa đen của từ này đối với các cảm biến trên máy bay trực thăng và máy bay của đối phương”.

4. Lực lượng Ukraine vừa bắn hạ thêm một máy bay chiến đấu Su-25, 85 triệu USD, của Nga

Một đơn vị phòng không thuộc Sư Đoàn Dù Ukraine đã bắn hạ một máy bay cường kích Su-25 của Nga.

Trong bản báo cáo sáng thứ Ba 26 tháng 7, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết: “Một chiếc Su-25 Grach thù địch khác đã xuống địa ngục nhờ hoạt động tinh vi của một đơn vị phòng không thuộc Lữ đoàn Dù Sicheslav biệt lập số 25 thuộc Lực lượng tấn công đường không của Lực lượng vũ trang Ukraine”

Như thế tính từ ngày 24/7 đến nay, đơn vị phòng không thuộc Lữ đoàn Dù Sicheslav số 25 đã tiêu diệt hai máy bay chiến đấu Su-25 của Nga.

5. Zelenskiy gặp tổng thống Guatemala tại Kyiv

Các cuộc đàm phán quan trọng cho sự phát triển quan hệ song phương giữa Ukraine và Guatemala đã được tổ chức trong chuyến thăm của Tổng thống Guatemala Alejandro Giammattei tới Ukraine.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã cho biết như trên trong video gởi quốc dân đồng bào.

“Rất vui được chào đón Tổng thống Guatemala Alejandro Giammattei đến Kyiv! Đây là chuyến thăm đầu tiên của một nhà lãnh đạo từ Mỹ Latinh tới Ukraine không chỉ kể từ ngày 24/2 mà còn trong vòng 12 năm qua. Chúng tôi đang tổ chức các cuộc đàm phán quan trọng để phát triển quan hệ song phương giữa hai quốc gia.”

Vào ngày 25 tháng 7, tổng thống Giammattei đã đến thăm các thị trấn bị chiến tranh tàn phá bao gồm Borodianka, Bucha và Irpin trong vùng Kyiv.
 
Tông Du Canada: ĐTC gặp gỡ cộng đoàn Công Giáo Edmonton tại nhà thờ Thánh Tâm
VietCatholic Media
05:55 26/07/2022

Như chúng tôi đã tường trình, lúc 10g sáng ngày thứ Hai 25 tháng 7, Đức Thánh Cha đã thăm Maskwacis, ngôi nhà của trường dành cho người bản địa Ermineskine trước đây, một trong những trường lớn nhất trong nước, cách Edmonton khoảng 100 km. Tại đây, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các dân tộc First Nations, Métis và Inuit.

Sinh hoạt thứ hai trong ngày diễn ra lúc 4g45 chiều, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các thổ dân và cộng đoàn Công Giáo địa phương tại nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Tôi rất vui khi có mặt ở đây cùng anh chị em và một lần nữa được nhìn thấy khuôn mặt của những đại diện bản địa khác nhau đã đến thăm tôi ở Rôma vài tháng trước. Chuyến thăm đó có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, và bây giờ tôi đã đến thăm nhà của anh chị em, với tư cách là một người bạn và người hành hương trên đất của anh chị em, trong nhà thờ này, nơi mọi người tụ họp như anh chị em với nhau để ca ngợi Chúa. Tại Rôma, sau khi lắng nghe câu chuyện của anh chị em, tôi đã tuyên bố rằng “bất kỳ quá trình chữa lành muốn thực sự có hiệu quả đều cần phải có những hành động cụ thể” (Bài phát biểu trước Đại diện Người bản địa ở Canada, ngày 1 tháng 4 năm 2022). Vì vậy, tôi rất vui khi thấy rằng tại giáo xứ này, nơi những người thuộc các cộng đồng khác nhau của các Quốc gia thứ nhất, người Métis và người Inuit hội ngộ cùng với những người không phải bản địa từ khu vực địa phương và nhiều anh chị em nhập cư của chúng ta, nỗ lực này đã bắt đầu. Nơi đây là ngôi nhà dành cho tất cả mọi người, cởi mở và hòa nhập, đúng như Giáo Hội nên là, vì Giáo Hội là gia đình của con cái Chúa, nơi mà lòng hiếu khách và sự chào đón, những giá trị tiêu biểu của văn hóa bản địa, là điều cần thiết. Một ngôi nhà mà tất cả mọi người đều cảm thấy được chào đón, bất kể những trải nghiệm trong quá khứ và những câu chuyện cuộc sống cá nhân. Tôi cũng muốn cảm ơn anh chị em vì sự gần gũi cụ thể mà anh chị em thể hiện thông qua các hoạt động bác ái của anh chị em với nhiều người nghèo - vì họ rất nhiều, ngay cả ở đất nước giàu có này. Đó là điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta, vì như Người đã nói đi nói lại trong Tin Mừng: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).

Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng trong Giáo Hội cũng vậy, lúa tốt được trộn lẫn với cỏ lùng. Và chính vì những điều đó, tôi muốn thực hiện chuyến hành hương đền tội này, mà tôi đã bắt đầu vào sáng nay bằng cách nhớ lại những việc làm sai trái của nhiều Kitô Hữu đối với người dân bản địa và bằng cách cầu xin sự tha thứ với lòng đau khổ. Tôi thật đau lòng khi nghĩ rằng những người Công Giáo đã góp phần vào các chính sách đồng hóa và thực dân làm gia tăng cảm giác thấp kém, cướp đi bản sắc văn hóa và tinh thần của cộng đồng và cá nhân, cắt đứt cội nguồn và nuôi dưỡng thái độ thành kiến và phân biệt đối xử; và điều này cũng được thực hiện dưới danh nghĩa của một hệ thống giáo dục mang danh Kitô giáo. Giáo dục luôn phải bắt đầu từ sự tôn trọng và phát huy những tài năng đã có ở các cá nhân. Nó không phải là, cũng không bao giờ có thể là, một thứ gì đó được đóng gói sẵn và áp đặt. Giáo dục là một cuộc phiêu lưu, trong đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu và khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Tạ ơn Chúa, vì trong những giáo xứ như thế này, từng ngày, qua sự gặp gỡ, những nền tảng đang được đặt ra để hàn gắn và hòa giải.

Hòa giải. Chiều nay, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số suy ngẫm về từ này. Chúa Giêsu nói gì với chúng ta về sự hòa giải, và nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay? Anh chị em thân mến, sự hòa giải do Chúa Kitô mang lại không phải là thỏa thuận để duy trì hòa bình bên ngoài, một thỏa thuận của các quý ông nhằm giữ cho mọi người vui vẻ với nhau. Đó cũng không phải là một nền hòa bình từ trên trời rơi xuống, được áp đặt từ trên cao, hoặc bằng cách đồng hóa với nhau. Thánh Phaolô Tông đồ nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu hòa giải bằng cách quy tụ lại với nhau, bằng cách biến hai nhóm xa nhau thành một: một thực tại, một linh hồn, một dân tộc. Và làm thế nào để Người làm điều đó? Thưa: Qua thập giá (xem Ep 2,14). Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta với nhau trên thập tự giá, trên “cây sự sống”, như các Kitô hữu cổ đại yêu thích gọi như thế.

Anh chị em, những người anh chị em bản địa thân yêu của tôi, anh chị em có nhiều điều để dạy chúng tôi về biểu tượng và ý nghĩa quan trọng của cây. Được kết hợp với trái đất bởi rễ của nó, một cái cây cung cấp oxy qua lá và nuôi dưỡng chúng ta bằng quả của nó. Thật ấn tượng khi thấy biểu tượng của cái cây được phản ánh như thế nào trong kiến trúc của nhà thờ này, nơi một thân cây tượng trưng cho sự kết hợp trái đất bên dưới và bàn thờ trên đó Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trong Bí tích Thánh Thể trong “một hành động của tình yêu vũ trụ kết hợp giữa trời và đất, bao trùm và thâm nhập vào mọi tạo vật “(Laudato Si ', 236). Biểu tượng phụng vụ này làm tôi nhớ đến những lời tuyệt vời mà Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị đã nói ở đất nước này: “Chúa Kitô làm sống động chính trung tâm của mọi nền văn hóa. Như vậy, không chỉ Kitô giáo phù hợp với dân Da Đỏ, mà trong các chi thể của Thân thể Người, chính Chúa Kitô cũng là người Da Đỏ” (Phụng vụ Lời Chúa với Dân bản xứ Canada, ngày 15 tháng 9 năm 1984). Trên thập tự giá, Chúa Kitô đã hòa giải và gắn kết lại mọi điều tưởng như không thể tưởng tượng được và không thể tha thứ được; Ngài bao dung tất cả mọi người và mọi thứ. Mọi người và mọi thứ! Các dân tộc bản địa gán một ý nghĩa vũ trụ mạnh mẽ cho các điểm cốt yếu, không chỉ được coi là các điểm tham chiếu địa lý mà còn là các chiều kích bao trùm tất cả thực tại và chỉ ra cách để chữa lành nó, như được thể hiện bởi cái gọi là “bánh xe thuốc”. Nhà thờ này sử dụng tính biểu tượng đó của các điểm chính và cho nó một ý nghĩa Kitô học. Chúa Giêsu, qua bốn cực điểm của thập tự giá của mình, đã nắm lấy bốn điểm cốt yếu và đã quy tụ các dân tộc xa xôi nhất lại với nhau; Người đã đem lại sự chữa lành và bình an cho muôn vật (x. Ep 2,14). Trên thập giá, Người đã hoàn thành chương trình của Thiên Chúa là “hòa giải muôn vật” (x. Cl 1,20).

Anh chị em thân mến, điều này có ý nghĩa gì đối với những người đang mang trong mình những vết thương lòng đau đớn như vậy? Ngay cả khi nghĩ đến việc hoà giải, tôi có thể hình dung nỗ lực cần phải bỏ ra, đối với những người đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ vì những người nam nữ lẽ ra phải nêu gương sống đạo Chúa Kitô. Không gì có thể lấy đi sự vi phạm nhân phẩm, kinh nghiệm về điều ác, sự phản bội của lòng tin. Hoặc loại bỏ sự xấu hổ của chính chúng ta, với tư cách là những người có niềm tin. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tiến vào một cuộc sống mới, và Chúa Giêsu không dành cho chúng ta những lời tốt đẹp và ý định tốt, mà là thập giá: tình yêu tai tiếng khiến tay chân bị đâm xuyên, và đầu đội mão gai. Đây là con đường phía trước: cùng nhau nhìn về phía Chúa Kitô, Đấng đầy yêu thương bị phản bội và bị đóng đinh vì lợi ích của chúng ta; hãy nhìn lên Chúa Kitô, đã bị đóng đinh trong nhiều học sinh của các trường nội trú. Nếu chúng ta muốn được hòa giải với nhau và với chính mình, được hòa giải với quá khứ, với những sai trái đã phải chịu đựng và những kỷ niệm bị thương, với những kinh nghiệm đau thương mà không một sự an ủi nào của con người có thể chữa lành được, thì chúng ta phải ngước mắt lên nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh; hòa bình phải đạt được nơi bàn thờ thập tự giá của Ngài. Vì chính trên cây thập tự giá, nỗi buồn được biến thành tình yêu, sự chết thành sự sống, thất vọng thành hy vọng, từ bỏ thành tương giao, xa cách thành hiệp nhất. Sự hòa giải không chỉ đơn thuần là kết quả của những nỗ lực của chính chúng ta; đó là một ân sủng tuôn chảy từ Chúa chịu đóng đinh, một sự bình an tỏa ra từ trái tim của Chúa Giêsu, một ân sủng cần phải được tìm kiếm.

Có một khía cạnh khác của sự hòa giải mà tôi muốn đề cập. Thánh Phaolô Tông đồ giải thích rằng Chúa Giêsu, nhờ thập tự giá, đã hòa giải chúng ta trong một thân thể (xem Ê-phê-sô 2:14). Ngài đang nói về cơ thể nào vậy? Thưa: Đó là thân thể của Giáo Hội. Giáo Hội là cơ thể hòa giải sống động này. Nếu chúng ta nghĩ về nỗi đau lâu dài mà rất nhiều người trong các cơ sở Giáo Hội phải trải qua ở những nơi này, chúng ta không cảm thấy gì khác ngoài sự tức giận và xấu hổ. Điều đó xảy ra bởi vì các tín hữu bị thế tục hóa, và thay vì thúc đẩy sự hòa giải, họ đã áp đặt các mô hình văn hóa của riêng mình. Cũng từ quan điểm tôn giáo, thái độ này không dễ vượt qua. Thật vậy, việc ép buộc Chúa trên con người có vẻ dễ dàng hơn là để họ đến gần Chúa. Tuy nhiên, điều này không bao giờ hiệu quả, bởi vì đó không phải là cách Chúa muốn. Ngài không ép buộc chúng ta, Chúa Giêsu không đàn áp hoặc áp đảo; thay vào đó, Ngài yêu mến, Ngài giải phóng, Ngài để chúng ta tự do. Ngài không nâng đỡ qua Thánh Linh của Ngài những kẻ thống trị người khác, những kẻ đã nhầm lẫn Tin Mừng về sự hòa giải của chúng ta với chiêu dụ tín đồ. Người ta không thể tuyên xưng Thiên Chúa theo cách trái ngược với chính Thiên Chúa. Chưa hết, điều này đã xảy ra biết bao nhiêu lần trong lịch sử! Trong khi Thiên Chúa hiện diện một cách đơn giản và lặng lẽ, chúng ta luôn có cám dỗ để áp đặt Ngài, và áp đặt mình nhân danh Ngài. Cám dỗ của thế gian muốn Ngài bước xuống khỏi thập tự giá và thể hiện quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trên thập tự giá, không phải bằng cách xuống khỏi thập tự giá. Dưới chân thập giá, có những kẻ chỉ nghĩ đến mình và không ngừng cám dỗ Đức Kitô, bảo Người hãy tự cứu mình (x. Lc 23,35,36) và đừng nghĩ đến người khác. Nhân danh Chúa Giêsu, xin cho điều này không bao giờ xảy ra nữa trong Hội Thánh. Xin Chúa Giêsu được rao giảng như Ngài mong muốn, trong tự do và bác ái. Trong mỗi người bị đóng đinh mà chúng ta gặp gỡ, xin cho chúng ta thấy không phải là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được yêu thương, là xác thịt của Chúa Kitô được yêu thương. Xin cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là một thân thể sống động của sự hòa giải!

Từ “hòa giải” trên thực tế đồng nghĩa với từ “Giáo Hội”. Nó xuất phát từ thuật ngữ “cộng đồng”, và nó có nghĩa là “gặp lại nhau trong cộng đồng”. Nhà thờ là ngôi nhà nơi chúng ta “hòa giải” một lần nữa, nơi chúng ta gặp nhau để bắt đầu lại và cùng nhau phát triển. Đó là nơi mà chúng ta ngừng suy nghĩ với tư cách cá nhân và thừa nhận rằng chúng ta là anh chị em của nhau. Nơi chúng ta nhìn vào mắt nhau, chấp nhận lịch sử và văn hóa của người kia, và cho phép mầu nhiệm cùng nhau, rất đẹp lòng Chúa Thánh Thần, thúc đẩy việc chữa lành những ký ức bị thương. Đây là cách: không phải quyết định thay cho người khác, không phải nhốt tất cả mọi người trong phạm vi định kiến của chúng ta, nhưng là đặt mình trước Chúa bị đóng đinh và trước anh chị em của chúng ta, để học cách bước đi cùng nhau. Đó là điều mà Giáo Hội nên và luôn phải như vậy - nơi mà thực tế luôn vượt trội hơn so với các ý tưởng. Đó là điều mà Giáo Hội luôn phải như vậy - không phải là một tập hợp các ý tưởng và giới luật để đào sâu vào con người, mà là một ngôi nhà chào đón tất cả mọi người! Đó là điều mà Giáo Hội là, và luôn luôn phải như vậy: một tòa nhà với những cánh cửa luôn mở, nơi tất cả chúng ta, như những đền thờ sống động của Thần Khí, gặp gỡ nhau, phục vụ lẫn nhau và được hòa giải với nhau. Anh chị em thân mến: những cử chỉ và lời thăm hỏi có thể quan trọng, nhưng hầu hết những lời nói và hành động hòa giải diễn ra ở cấp địa phương, trong những cộng đồng như thế này, nơi các cá nhân và gia đình đi cùng nhau, ngày qua ngày. Cùng nhau cầu nguyện, giúp đỡ nhau, chia sẻ những câu chuyện cuộc sống, những niềm vui chung và những khó khăn chung: đây là điều mở ra cánh cửa cho công việc hòa giải của Thiên Chúa.

Một hình ảnh cuối cùng có thể giúp chúng ta trong việc này. Ở đây, trong nhà thờ này, phía trên bàn thờ và nhà tạm, chúng ta nhìn thấy bốn cột của một cái lều điển hình của người bản địa, một chiếc teepee. Teepee này có tính biểu tượng sâu sắc trong kinh thánh. Khi dân Israel hành trình trong sa mạc, Thiên Chúa ngự trong một cái lều được dựng lên mỗi khi dân chúng dừng lại và cắm trại: đó là Lều Họp. Teepee nhắc nhở chúng ta rằng Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta và rất thích gặp gỡ chúng ta cùng nhau, trong hội họp, trong cộng đồng. Và khi xuống thế làm người, Tin Mừng cho chúng ta biết, theo nghĩa đen, Ngài đã “dựng lều của mình giữa chúng ta” (x. Ga 1,14). Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự gần gũi, và trong Chúa Giêsu, Ngài dạy chúng ta ngôn ngữ của lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng. Đó là điều chúng ta nên ghi nhớ mỗi khi bước vào một nhà thờ, nơi Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm, một từ mà bản thân ban đầu có nghĩa là “lều”. Vì vậy, Thiên Chúa đã đặt lều của Ngài ở giữa chúng ta; Ngài đồng hành với chúng ta qua các sa mạc của chúng ta. Ngài không ở trong những dinh thự trên trời, nhưng ở trong Giáo Hội của chúng ta, nơi mà Ngài muốn trở thành một ngôi nhà hòa giải.

Lạy Chúa Giêsu, bị đóng đinh và sống lại, Chúa ngự ở đây, ở giữa dân tộc của Chúa, và Chúa muốn vinh quang của Chúa tỏa sáng qua các cộng đồng và trong các nền văn hóa của chúng ta. Xin Chúa nắm lấy tay chúng con, và thậm chí băng qua những sa mạc của lịch sử, tiếp tục hướng dẫn những bước đi của chúng con trên con đường hòa giải. Amen.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Chấn động Moscow: Giám đốc chế tác vũ khí Nga hối hận, lìa đời. Tổng kho xăng dầu Nga nổ cả một ngày
VietCatholic Media
17:26 26/07/2022


1. Tổng kho xăng dầu của Cộng hòa Nhân dân Donetsk trúng HIMARS cháy suốt ngày

Trong bản báo cáo chiều thứ Ba 26 tháng 7, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết Tổng kho xăng dầu của cái gọi là Cộng hòa Nhân dân Donetsk tự xưng đã trúng hỏa tiễn HIMARS vào đầu ngày thứ Ba và đang bốc cháy kinh hoàng.

Video trên mạng xã hội cho thấy một đám cháy lớn bùng phát vào sáng sớm ngày thứ Ba ở thành phố Donetsk, miền đông Ukraine, do phe ly khai thân Nga của Cộng hòa Nhân dân Donetsk tự xưng, gọi tắt là DPR, kiểm soát.

Hãng thông tấn TASS của nhà nước Nga đưa tin, ngọn lửa bùng phát tại một tổng kho xăng dầu ở quận Budennovsky. Hãng tin này thừa nhạn nhà máy đã quân Ukraine bắn cháy.

Quân đội Ukraine hiếm khi bình luận về các cuộc tấn công nhằm vào cơ sở hạ tầng ở Donetsk, ngoại trừ một số kho chứa nhiên liệu và đạn dược trên lãnh thổ do DPR nắm giữ nhằm phục vụ chiến tranh.

Các quan chức Ukraine cho biết, với việc nhận được trọng pháo và pháo tầm xa từ phương Tây, quân đội đang tập trung tấn công các vị trí hậu cần và các sở chỉ huy của Nga.

Một phóng viên của TASS ở Donetsk cho biết ngọn lửa có thể được nhìn thấy ở một số khu vực của thành phố, “với ngọn lửa cao tới vài chục mét.”

TASS cho biết các thùng nhiên liệu và dầu nhớt đã bốc cháy. Chiều ngày thứ Ba khói vẫn bốc lên từ địa điểm này, hàng chục giờ sau khi đám cháy bắt đầu.

2. Nhà thiết kế vũ khí hàng đầu của Putin, 46 tuổi, qua đời trong hoàn cảnh bí ẩn khi 'đang điều trị chứng lo âu và trầm cảm' vì chiến tranh hoành hành ở Ukraine

Một trong những nhà thiết kế vũ khí hàng đầu của Vladimir Putin đã qua đời trong hoàn cảnh bí ẩn khi ông 'trải qua quá trình điều trị để chống lại chứng rối loạn lo âu và trầm cảm'.

Dmitry Konoplev, 46 tuổi, lãnh đạo Cục thiết kế thiết bị Shipunov liên quan đến quốc phòng, là đơn vị đứng sau hệ thống hỏa tiễn Pantsir gây chết người được sử dụng trong cuộc chiến ở Ukraine.

Tổng cộng, tổ chức này chịu trách nhiệm về hơn 150 loại vũ khí và thiết bị quân sự được Quân đội Nga sử dụng.

Tờ Izvestia cho biết từ khi cuộc xâm lược Ukraine xảy ra, Dmitry Konoplev rơi vào tình trạng hoang mang, lo lắng, u buồn. Anh đang được điều trị bằng phương pháp Xenon đeo mặt nạ dưỡng khí tại một phòng khám đặc biệt ở Mạc Tư Khoa, thì bị 'đau tim cấp tính' và qua đời rất nhanh chóng.

Các bác sĩ điều trị cho rằng bệnh nhân hít phải một liều lượng lớn Xenon, là chất có các đặc tính tương tự như thuốc chống trầm cảm, được sử dụng để chống lại sự lo lắng, xuống tinh thần, các bệnh thần kinh và các vấn đề về giấc ngủ.

Với chiến tranh do Putin nổ ra ở Ukraine, Konoplev được cho là đã bị lo lắng và đau đầu.

Chưa có bình luận chính thức về nguyên nhân cái chết.

Tuy nhiên, cựu vệ sĩ và là bạn thân của Putin, Alexey Dyumin - thống đốc vùng Tula, nơi đặt trụ sở của phòng thiết kế vũ khí - cho biết Konoplev 'đã đóng góp rất nhiều cho ngành công nghiệp quốc phòng của đất nước'.

Cục Thiết kế Thiết bị Shipunov, còn được gọi là Cục Thiết kế Thiết bị KBP, đứng sau một loạt các loại vũ khí được sử dụng bởi các lực lượng xâm lược Ukraine của Putin.

Chúng bao gồm hệ thống hỏa tiễn chống tăng, tổ hợp vũ khí trang bị cho xe tăng và xe bọc thép hạng nhẹ, hệ thống pháo vũ khí dẫn đường, hệ thống phòng không, hệ thống hỏa tiễn, súng nhỏ và súng phóng lựu.

Văn phòng của ông được mô tả là nhà phát triển vũ khí phức hợp hàng đầu của Putin, điều phối công việc của một số lượng lớn các doanh nghiệp và tổ chức, bao gồm các viện của Viện Hàn lâm Khoa học Nga và của Bộ Quốc phòng.

3. Bộ trưởng Ngoại giao Đức cho biết Âu Châu sẽ không bị chia rẽ bởi sự khan hiếm khí đốt do Nga áp đặt mà họ phải đối mặt.

Hôm thứ Ba 26 tháng 7, Ngoại trưởng Đức Annalena Baerbock nói: “Chúng tôi nhấn mạnh rằng chúng tôi sẽ không để mình bị chia rẽ, chúng tôi với tư cách là các quốc gia Liên Hiệp Âu Châu cũng nguy cơ hành động chống lại nhau vì khí đốt khan hiếm, nhưng chúng tôi đang sát cánh cùng nhau và đó là tín hiệu quan trọng nhất đối với Tổng thống Nga”.

Bà nói: “Về dài hạn, con đường là rõ ràng: Âu Châu sẽ giành được chủ quyền thông qua việc mở rộng năng lượng tái tạo”.

Bà nói thêm rằng, với mỗi tuabin gió và nhà máy năng lượng mặt trời mà Âu Châu lắp dựng, chúng tôi sẽ có được “tự do” và “cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn”.

Baerbock nhấn mạnh rằng: “Điều này cũng có nghĩa là chúng tôi cần nhanh chóng mở rộng cơ sở hạ tầng ở Âu Châu, nơi chúng tôi vận chuyển năng lượng.”

Ngoại trưởng Baerbock cho biết, thách thức đối với tất cả các nước Âu Châu là duy trì sự an toàn về nguồn cung cấp và lưu ý rằng khí đốt chứ không phải điện mới là nguồn cung cấp nhiệt chính ở Đức.

4. Người Nga bắt cóc 63 quan chức, khoảng 300 nhà hoạt động ở vùng Kherson

Quân xâm lược Nga Nga đã bắt cóc 63 đại diện của các cơ quan chính quyền địa phương và khoảng 300 nhà hoạt động ở vùng Kherson.

Dmytro Butrii, người đứng đầu chính quyền quân sự khu vực Kherson, cho biết điều này tại một cuộc họp báo tại Trung tâm Truyền thông Ukraine - Ukrinform vào chiều thứ Hai, ngày 25 tháng 7.

“Chúng tôi đang theo dõi thông tin này. Thiếu thông tin vì lãnh thổ của chúng tôi đang bị chiếm đóng tạm thời. Nhưng một cơ sở dữ liệu đã được hình thành từ những báo cáo được cung cấp bởi những người cụ thể. Hôm nay, có 63 đại diện của các cơ quan tự quản địa phương và khoảng 300 nhà hoạt động thân Ukraine bị bắt,” Butrii nói.

Ông nói rằng đây là những người đã được xác nhận.

Theo Butrii, số người bị bắt cóc thực sự còn cao hơn nhiều, vì quân xâm lược Nga tăng cường khủng bố nhằm vào dân thường. Họ kiểm tra xe hơi, đồ dùng cá nhân, điện thoại, đàn ông buộc phải cởi quần áo, và nếu quân đội Nga không thích thứ gì đó trên điện thoại, hình xăm thì “mọi người sẽ bị bắt đi”.

Butrii nói rằng không phải lúc nào cũng có thể xác nhận tên tuổi cụ thể của một người bị bắt cóc.

5. Cứ bốn ngày lại có một nhà báo bị người Nga giết, 37 đại diện truyền thông trong 5 tháng qua

Năm tháng sau khi Nga xâm lược Ukraine, quân đội Nga đã giết chết 37 nhân viên truyền thông. Chủ tịch hội nhà báo quốc gia Ukraine đã cho biết như trên.

“Trong số những người thiệt mạng có 8 nhà báo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của họ, 12 nhân viên truyền thông thiệt mạng là nạn nhân dân sự, 17 đại diện truyền thông đại chúng khác đã thiệt mạng sau khi được điều động đi cùng các Lực lượng Phòng vệ Ukraine trong tư cách là các phóng viên và đôi khi họ cũng cầm súng chiến đấu”.

Cứ 4 ngày lại có một nhà báo thiệt mạng do chiến tranh của Nga ở Ukraine.

Nạn nhân mới nhất của sự xâm lược của Nga là Mykola Rachok, một tác giả và biên tập viên tin tức của InfoCar, người đã chết trong trận chiến với lính đánh thuê Wagner PMC của Nga.

Theo Serhiy Tomilenko, chủ tịch hội nhà báo quốc gia Ukraine, “Các nhà báo Ukraine chủ yếu là công dân Ukraine. Vì vậy, muốn bảo vệ Tổ quốc của mình, nhiều nhân viên truyền thông đã bỏ lại bút, sổ tay và cầm súng trên tay. Chúng tôi bày tỏ sự kính trọng đối với những người đồng nghiệp như vậy của mình.”

“Những người khác tiếp tục chiến đấu với quân Nga trên mặt trận thông tin - cả ở hậu phương và tiền tuyến. Thật không may, trong cuộc chiến này, do giặc Nga gây ra, có rất nhiều nạn nhân vô tội. Mỗi người trong số họ sẽ mãi mãi nằm trong ký ức của đồng nghiệp, bạn bè và toàn thể người dân Ukraine”, ông Tomilenko nhấn mạnh.

Vào ngày 21 tháng 7, Mykola Rachok, một nhà báo của InfoCar, đã hy sinh trong cuộc chiến với quân xâm lược Nga. Mykola đã gia nhập quân đội để bảo vệ Ukraine trước sự bùng nổ của cuộc chiến toàn diện. Theo tổng biên tập của tờ báo này, trong năm tháng bị Nga xâm lược, lòng yêu nước, động lực và sự kiên cường đã khiến ông trở thành một chiến binh.

Vào ngày 5 tháng 7, phát ngôn nhân của Bộ Nội vụ, Aliona Matveyeva, cho biết Cảnh sát Quốc gia đã bắt đầu 46 cuộc điều tra về các tội ác của quân đội Nga đối với các nhà báo.

6. Tướng Mỹ cho rằng HIMARS là thích hợp nhất cho chiến trường Ukraine

Tướng quân đội Mỹ đã nghỉ hưu Mark Hertling cho biết hệ thống hỏa tiễn tầm xa được cung cấp cho quân đội Ukraine nhanh hơn các hệ thống phóng hỏa tiễn khác và mang lại lợi thế cho nước này đối với Nga. Tướng Hertling đã đưa ra nhận xét trên trong một cuộc hội thảo về Hệ thống Hỏa tiễn Pháo binh Cơ động Cao, gọi tắt là HIMARS.

Kể từ khi Mỹ đồng ý cung cấp hệ thống hỏa tiễn HIMARS, các lực lượng Ukraine cho biết họ đã sử dụng nó rất hiệu quả chống lại quân đội Nga đông quân hơn và được trang bị tốt hơn.

Từng là chỉ huy của Lục quân Âu Châu và Quân đoàn 7 của Mỹ, Tướng Hertling đã trao đổi với Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Oleksiy Reznikov, người đã khen ngợi độ chính xác của hệ thống hỏa tiễn HIMARS.

“Các xạ thủ của chúng tôi sử dụng HIMARS một cách rất tinh vi — giống như một bác sĩ phẫu thuật với con dao mổ đang làm việc,” Reznikov nói trên truyền hình quốc gia.

Ông Reznikov cho biết độ chính xác của hệ thống hỏa tiễn này đã cho phép lực lượng Ukraine phá hủy các cầu vượt, cũng như các kho đạn và sở chỉ huy của Nga. Ông nói, những cuộc pháo kích thành công đó đã tước đi khả năng tiến hành các hoạt động chiến đấu của lực lượng Nga.

Ukraine đã phụ thuộc rất nhiều vào viện trợ quân sự từ Mỹ và các cường quốc phương Tây khác. Vào tháng 6, Mỹ đã đồng ý trao cho Ukraine HIMARS. Reznikov cho biết trong tháng này rằng nó đã tạo ra một sự khác biệt “rất lớn” và các lực lượng Ukraine đã báo cáo sử dụng chúng để giết một số quan chức quân sự cấp cao của Nga.

Tướng Hertling đã chia sẻ trên Twitter rằng Ukraine ban đầu đã yêu cầu các đơn vị Hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt MLRS. Nhưng Hertling cho biết M270 MLRS là “một chiếc xe bánh xích” được thiết kế để theo kịp xe tăng trên địa hình gồ ghề. Ông cho biết M142 HIMARS là một chiếc xe bánh lốp di chuyển nhanh, có tốc độ di chuyển 60 dặm / giờ trở lên trên đường và 30 dặm / giờ trên địa hình gồ ghề.

Hertling nói: “MLRS khó sửa chữa hơn, có nhiều phần hơn. HIMARS về cơ bản là một chiếc xe tải với hỏa tiễn.”

MLRS có hai bệ hỏa tiễn và 12 quả hỏa tiễn so với bệ phóng sáu hỏa tiễn của HIMARS, nhưng Hertling cho biết việc huấn luyện một tổ vận hành HIMARS dễ dàng hơn, mà theo ông có thể “bắn, bắn, và nạp đạn nhanh hơn” với một tổ xạ thủ ít người hơn.

HIMARS được bảo dưỡng ít hơn và khả năng cơ động nhanh chóng của nó ở miền đông Ukraine, nơi Nga đã tập trung lại các nỗ lực chiến tranh, cũng tạo ra sự khác biệt, Hertling nói thêm. Trong điều kiện quân Nga có các hệ thống phòng không có khả năng phản kích rất mau chóng, bắn xong chạy thiệt lẹ là yếu tố thành công.

Ông cho biết, với 16 HIMARS trong tay các lực lượng Ukraine, mỗi chiếc chỉ cần bắn hai lố đạn mỗi ngày, thì 5.800 hỏa tiễn được phóng đi trong một tháng. Ông nói, hỏa tiễn tầm xa được dẫn đường bằng GPS có tỷ lệ chính xác là 90%, như thế tiêu diệt được 5.200 mục tiêu tấn công trong một tháng.

Newsweek đã liên hệ với Ngũ Giác Đài để đưa ra bình luận.

7. Bản tin cập nhật mới nhất của Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Anh

Hôm thứ Ba 26 tháng 7, Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Anh đã đưa ra bản nhận định toàn văn như sau:

Vào ngày 24 tháng 7 năm 2022, hỏa tiễn hành trình của Nga đã bắn trúng bến tầu ở Cảng Odesa của Ukraine. Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố đã bắn trúng một tàu chiến Ukraine và một kho hỏa tiễn chống hạm. Không có dấu hiệu nào cho thấy những mục tiêu đó đã ở vị trí hỏa tiễn rơi xuống.

Nga gần như chắc chắn coi hỏa tiễn chống hạm là mối đe dọa chính đang hạn chế hiệu quả của Hạm đội Hắc Hải của họ. Điều này đã làm suy yếu đáng kể kế hoạch xâm lược tổng thể, vì Nga không thể thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ để chiếm Odesa.

Nga sẽ tiếp tục ưu tiên các nỗ lực làm suy giảm và phá hủy khả năng chống hạm của Ukraine. Tuy nhiên, các quy trình tấn công của Nga rất có thể thường xuyên bị phá hoại bởi thông tin tình báo lỗi thời, lập kế hoạch kém và đường lối hoạt động từ trên xuống.

8. Các bà mẹ Nga sang Ukraine đưa con trai về Nga

Các binh sĩ Nga từ chối chiến đấu trên các chiến tuyến của Ukraine đang bị vây bắt và giam giữ, khiến các thành viên trong gia đình của họ cố gắng đi giải cứu họ.

Các binh sĩ, những người nghĩ rằng họ có thể quyết định rời khỏi lực lượng Nga sau một hợp đồng ba tháng chiến đấu trong cuộc chiến Ukraine. Nhưng thay vào đó, họ đã được gửi đến một trung tâm giam giữ tạm thời ở Bryanka, trong vùng Luhansk mà Mạc Tư Khoa cho biết hiện đang kiểm soát.

Những người thân nói với The Insider, một trang web điều tra độc lập bằng tiếng Nga, rằng có một số lượng lớn binh sĩ mà Bộ chỉ huy quân sự của Mạc Tư Khoa không cho phép trở về nhà vì sợ những người khác sẽ noi gương họ, cũng như e ngại họ sẽ nói ra thực tế chiến trường.

Cha của một người lính Nga nói với báo chí rằng những người lính muốn bỏ cuộc đã bị bắt nạt phải trở lại tiền tuyến. Những người khác bị giam giữ trong những không gian chật chội, nơi họ phải đối mặt với những điều kiện khắc nghiệt, lao động cưỡng bức và đôi khi bị tra tấn.

Người thân và cha mẹ của các binh sĩ đã đến một tòa nhà hành chính ở Cộng hòa Nhân dân Luhansk tự xưng, nơi các binh sĩ đã bị giam giữ để cố gắng tìm câu trả lời từ chính quyền, tờ The Insider đưa tin.

Cho đến nay, các nỗ lực xông vào tòa nhà bị khóa chưa thành công, trong khi các nhà chức trách từ chối cung cấp thông tin về quân đội.

“Chúng tôi cần phải làm gì đó, chúng tôi cần đưa lũ trẻ ra khỏi đó và ngăn chặn tình trạng vô pháp luật”, một bà mẹ được The Insider nêu tên là Maria nói với tờ báo, “Nếu chúng tôi là người đầu tiên, thì những người khác sẽ làm theo. Tôi không biết chính xác có bao nhiêu người trong chúng tôi, nhưng tôi biết có rất nhiều.”

Tờ Nestka đưa tin vào tuần trước rằng một trung tâm ở vùng Luhansk là nơi hàng trăm binh sĩ từ chối chiến đấu đã bị bắt, với nhiều người bị giam giữ trong các tầng hầm và nhà để xe.

Sự tồn tại của các trại tra tấn và trung tâm giam giữ ở Bryanka vẫn chưa được xác minh, mặc dù tờ The Insider đã đưa tin một số câu chuyện từ những người lính Nga đào thoát được kẻ về việc đối xử tệ bạc với những người lính từ chối chiến đấu.

Ngày càng có nhiều gia đình Nga yêu cầu Điện Cẩm Linh trả lời về những người lính mất tích. Đầu tháng này, một phụ nữ có con trai bị giết ở Ukraine nói với BBC rằng nhiều bà mẹ đổ lỗi cho Điện Cẩm Linh về cái chết của những người thân yêu của họ và sẽ nổi dậy chống lại Tổng thống Vladimir Putin.
 
Hi hữu: Tân Hồng Y trẻ nhất trong GH đã từng trừ tà cho nhiều người Mông Cổ không Công Giáo
VietCatholic Media
17:28 26/07/2022


1. Tổ chức bác ái Công Giáo cho biết khủng hoảng ở Ukraine thúc đẩy nạn đói ở Nam Sudan

Nam Sudan, một quốc gia đã phải vật lộn với một cuộc nội chiến kéo dài và ảnh hưởng tàn khốc của biến đổi khí hậu, đột nhiên thấy mình bị bỏ mặc để giải quyết một cuộc khủng hoảng lương thực ngày càng sâu sắc.

Chương trình Lương thực Thế giới đã thông báo rằng họ sẽ đình chỉ các chương trình chia khẩu phần lương thực ở các vùng của đất nước - một quyết định mà theo các chuyên gia, đã đưa cuộc khủng hoảng đói kém ở đất nước nghèo khó này trở nên tồi tệ hơn.

Adeyinka Badejo-Sanogo, giám đốc quốc gia của WFP tại Nam Sudan, cho biết: “Nam Sudan đang đối mặt với năm khắc nghiệt nhất kể từ khi độc lập.

Badejo-Sanogo nói với các phóng viên tại Geneva gần đây: “Chúng tôi đang ở trong một cuộc khủng hoảng, nhưng chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn tình hình trở nên bùng nổ hơn.

Ông cho biết việc giảm tài trợ và tăng chi phí hoạt động, bao gồm chi phí thực phẩm và nhiên liệu cao, đã buộc WFP phải đưa ra những quyết định cực kỳ khó khăn. Do khoảng cách kinh phí ngày càng lớn, WFP đã buộc phải đình chỉ hỗ trợ lương thực cho hơn một triệu người.

Badejo-Sanogo nói: “Chúng tôi vô cùng lo ngại về tác động của việc cắt giảm tài trợ đối với trẻ em, phụ nữ và nam giới, những người sẽ không có đủ ăn trong mùa đói kém.

“Những gia đình này đã hoàn toàn cạn kiệt các chiến lược đối phó của họ. Họ cần được hỗ trợ nhân đạo ngay lập tức để đưa thức ăn lên bàn trong thời gian ngắn hạn và xây dựng lại sinh kế và khả năng chống chọi với những cú sốc trong tương lai,” ông nói.

Giám đốc quốc gia về Dịch vụ Cứu trợ Công Giáo, gọi tắt là CRS, chi nhánh phát triển quốc tế của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, cũng đồng ý như vậy.

John O'Brien, đại diện của CRS tại Nam Sudan cho biết: “CRS ước tính trên các lĩnh vực hoạt động của mình, hơn 250.000 người, bao gồm các bà mẹ, trẻ em đi học và trẻ sơ sinh sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định này, với những hậu quả bi thảm có thể xảy ra”.

O'Brien nói với Crux rằng “hơn tám triệu người ở Nam Sudan đang trải qua tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng, con số tồi tệ nhất được ghi nhận kể từ khi độc lập.”

Ông nói rằng cuộc chiến ở Ukraine chịu trách nhiệm phần lớn cho nạn đói ngày càng trầm trọng ở một quốc gia cũng đang đối mặt với lũ lụt nghiêm trọng và hạn hán cục bộ.

“Cuộc khủng hoảng Ukraine đã làm tăng giá nhiên liệu và hàng hóa cơ bản. Việc tiếp tục chiến tranh ở Ukraine sẽ dẫn đến chi phí hoạt động nhân đạo cao và số lượng người có thể được hỗ trợ mà không cần tăng kinh phí sẽ giảm đi,” O'Brien nói.

Cùng với nạn đói kéo theo tệ nạn mất an ninh và trộm cắp.

“Đói chắc chắn là một mối quan tâm nghiêm trọng. Khi mức độ an ninh lương thực xấu đi ở Greater Jonglei, CRS đang nhận được ngày càng nhiều báo cáo về các cuộc tấn công bạo lực gia súc và hoạt động tội phạm, bao gồm cả việc trộm cắp đồ gia dụng và thực phẩm, cả trong và giữa các cộng đồng,” O'Brien nói với Crux.

“Dân thường ở Nam Sudan được trang bị vũ khí mạnh mẽ. Khi cuộc khủng hoảng đói tồi tệ hơn, những thường dân cầm vũ khí đang sử dụng chúng để chống lại nhau như một chiến lược sinh tồn, giành lấy thực phẩm, gia súc và các nguồn tài nguyên khác.”

Nam Sudan giành được độc lập từ Sudan vào năm 2011 nhưng sụp đổ trong cuộc nội chiến chỉ hai năm sau đó.
Source:Crux

2. Tổng giám mục Bogotá khuyến khích Colombia: 'Đừng bao giờ quên Chúa!'

Đức Tổng Giám Mục Luis José Rueda Aparicio của Bogotá, Colombia, đã khuyến khích các gia đình của đất nước “đừng bao giờ quên Chúa!” trong bài giảng của mình cho Thánh lễ và Te Deum cho Ngày Độc lập Colombia vào ngày 20 tháng 7.

“Colombia, đừng quên Chúa. Khi chúng ta quên Chúa, khi một quốc gia quên Chúa, nó sẽ đi đến sự hủy hoại; nó tự hủy,” Đức Tổng Giám Mục, cũng là chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia, nói.

Thánh lễ và Te Deum đánh dấu kỷ niệm 212 năm Colombia độc lập khỏi Tây Ban Nha được tổ chức tại thánh đường nguyên thủy ở Bogotá.

Vị giám mục nói rằng “tìm kiếm Chúa là tìm kiếm hy vọng thực sự. Như Đức Bênêđíctô XVI đã nói, niềm hy vọng này chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao trùm vũ trụ và là Đấng có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình đạt được “.

Ngài nhấn mạnh: “Các gia đình thân mến, quê hương Colombia thân yêu, để chúng ta có thể biến đạo đức hòa giải chiến thắng chiến tranh và bạo lực, bảo vệ cuộc sống và xây dựng hòa bình thành hiện thực, Colombia, đừng bao giờ quên Chúa”.

Tổng giám mục nhấn mạnh rằng có nhiều người Công Giáo đã được rửa tội đã gieo hạt giống Nước Chúa ở Colombia và thậm chí đã đi xa đến mức tử vì đạo, chẳng hạn như giám mục Arauca, chân phước Jesús Jaramillo Monsalve, và tổng giám mục Cali, Isaías. Duarte Cancino, “bị ám sát bởi bạo lực buôn bán ma túy ở đất nước chúng tôi.”

Đức Tổng Giám Mục Rueda cũng giải thích sự cần thiết của sự tha thứ và hòa giải để vượt qua hận thù và chiến tranh.

Quốc gia này đã “ở giữa một cuộc xung đột vũ trang kéo dài và đau đớn dường như không có hồi kết, mà gốc rễ của nó là sự bất bình đẳng xã hội, buôn bán ma túy, tham nhũng và phản văn hóa hận thù,” tổng giám mục nói.

“Đúng vậy, sự thù hận phản văn hóa đó dẫn đến việc chúng ta loại bỏ lẫn nhau và điều đó đã khiến nhiều gia đình ở Colombia rơi vào cảnh tang tóc. Ở đó, giữa xung đột đó và chiến tranh kinh hoàng mà chúng ta không thể làm quen được, các thành viên của Giáo hội đã gieo mầm cho vương quốc và đan xen với hy vọng một đạo đức về sự tha thứ, hòa giải và lòng thương xót. “

“Chúa nói với chúng ta: Hãy yêu kẻ thù của mình; làm điều tốt cho những người ghét anh chị em; chúc lành cho những người nguyền rủa anh chị em; cầu nguyện cho những người nói xấu anh chị em.”

Khi làm điều này, “chúng ta sẽ có thể đổi mới xã hội của mình một cách sâu sắc với sức mạnh của Tin Mừng, với sự hiện diện của Chúa Kitô”.

“Hôm nay tại Colombia, thưa các anh chị em thân mến, chúng ta được kêu gọi xây dựng một nền đạo đức mới, được Tin Mừng của Chúa Kitô sáng lập và soi sáng, nền đạo đức của sự hòa giải để đi với niềm hy vọng của Chúa Kitô trên khắp Colombia”

Sau khi khuyến khích bảo vệ sự sống trong “lòng mẹ trước sự sống của người già và bệnh nan y”, Đức Tổng Giám Mục của Bogotá đã khẩn cầu lời cầu bầu của Đức Trinh nữ Chiquinquirá, bổn mạng của Colombia, rằng hòa bình sẽ ngự trị: “Chúng ta xin Đức Mẹ Chiquinquirá rằng, trong các ngôi nhà của Colombia, chúng ta không nuôi dưỡng bạo lực, nhưng thay vào đó là Tin Mừng, là lời của sự sống, và nhờ Bí tích Thánh Thể, chúng ta mang lại sức mạnh cho cuộc hành trình ở Colombia.”
Source:National Catholic Register

3. Vị tân Hồng Y trẻ nhất của Giáo hội đã là một nhà trừ quỷ trong hơn 20 năm

Francisco Veneto của Aleteia, tường thuật câu truyện lý thú về vị giám mục truyền giáo vừa được Đức Phanxicô nâng lên hàng Hồng Y cho một đất nước chỉ có 1,500 người Công Giáo.

Ngoài việc lập kỷ lục về tuổi tác, vị giám mục trẻ tuổi này còn là một nhà trừ tà trong hơn 20 năm!

Vị tân Hồng Y trẻ nhất của Giáo hội cũng là một nhà trừ quỷ: Giám mục Giorgio Marengo, 47 tuổi, người Ý, làm giám mục truyền giáo ở Mông Cổ xa xôi, sẽ chính thức trở thành “Hồng Y trẻ nhất” kể từ ngày 27 tháng 8.

Trong mật nghị dự kiến vào ngày đó, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ trao cho ngài chiếc mũ zucchetto màu đỏ nổi tiếng tượng trưng cho lòng can đảm và sẵn sàng chịu tử đạo vì Chúa Kitô nếu cần thiết.

Một nhà truyền giáo trẻ ở những vùng đất xa xôi

Ngoài tuổi đời còn trẻ của ngài - hầu hết các Hồng Y đều trên 60 tuổi - một “sự thật thú vị” khác xung quanh vị giám mục trẻ đã thu hút sự chú ý của người Công Giáo: đất nước mà ngài thực thi sứ mệnh của mình, Mông Cổ, có ít hơn 1,500 người Công Giáo.

Lịch sử Mông Cổ được đặc trưng bởi sự cô lập lớn đối với ảnh hưởng của phương Tây. Trong số dân tự nhận có tôn giáo, một phần lớn thuộc các truyền thống bản địa địa phương, đặc biệt là đạo Shaman: họ có hơn 10,000 tín đồ, nhiều gấp sáu lần số người Công Giáo. Hơn nữa, trong thế kỷ 20, Mông Cổ phải chịu sự đàn áp dưới chế độ độc tài cộng sản, vốn chính thức cấm việc thờ phượng tôn giáo.

Vị tân Hồng Y, thuộc tu hội Thừa sai Consolata, nói về việc được bổ nhiệm làm Hồng Y: “Đối với tôi, sống ơn gọi mới này có nghĩa là tiếp tục trên con đường nhỏ bé, khiêm nhường và đối thoại.”

Còn trẻ, nhưng có kinh nghiệm lâu năm trong thừa tác vụ trừ tà

Giờ đây, một thông tin khác về Giám mục Marengo đang gây tò mò nơi người Công Giáo: vị giám mục trẻ tuổi này đã là nhà trừ quỷ hơn 20 năm. Và không chỉ vậy: ngài còn là một điểm tham chiếu trong số các linh mục được ủy quyền thực hiện thừa tác vụ trừ tà.

Giám mục Marengo là một trong những người giảng dạy tại lớp XVI của Khóa học về Trừ tà và Cầu nguyện Giải thoát, được tổ chức hàng năm tại Giáo hoàng Học viện Regina Apostolorum ở Rôma. Trước đây ngài đã tham gia cùng một khóa học này trong tư cách học viên.

Vị giám mục và vị Hồng Y tương lai đã nói về “Vai trò của giám mục trong chức vụ trừ quỷ,” bất chấp ở các nền văn hóa phương Tây hay ở các xứ truyền giáo. Thực thế, ngài nói trong bài giảng của ngài rằng những người không phải là Kitô giáo thường đến gặp ngài để xin ngài giải cứu họ “khỏi hành động của ma quỷ”, điều này cho thấy họ nhận ra quyền năng của các thừa tác viên của Chúa Kitô chống lại hành động của điều ác.

Theo Giám mục Marengo, ma quỷ là “kẻ chia rẽ chuyên ngăn cản mối liên hệ của chúng ta với Chúa Kitô,” trong khi Giáo hội thúc đẩy mối liên hệ với Chúa Kitô qua việc loan báo Tin Mừng và hành động bí tích.

Mê tín như một chướng ngại cho đức tin

Theo vị giám mục truyền giáo, những người chuẩn bị chịu phép rửa ở Mông Cổ phải chịu những trở ngại đặc biệt cho thấy hành động của kẻ ác, điều này khiến họ chuyển hướng theo những thực hành của tổ tiên không phù hợp với Mạc khải của Chúa Kitô. Giám mục Marengo nhắc lại rằng kể từ những ngày đầu của Giáo hội, sự phản kháng này đã phổ biến: các linh mục Công Giáo cần lặp lại “hoạt động của các Tông đồ của Chúa Giêsu”, vốn “bao gồm việc xua đuổi ma quỷ và chữa lành bệnh tật.”

Tuy nhiên, không chỉ Mông Cổ, nơi có sự thách thức của những trò mê tín cố hữu: đối với Giám mục Marengo, sự ngoại giáo hóa mới của các xã hội trên toàn thế giới là một dấu hiệu cho thấy hành động của ma quỷ đối với các linh hồn khiến họ lạc hướng khỏi Sự thật.

Giám mục Marengo nói: “Lý do để lên án những mê tín dị đoan luôn giống nhau và cũng áp dụng cho chúng ta ngày nay: những thực hành này giả thiết chúng ta thiếu đức tin, và chúng ta nhờ cậy đến chúng để thoát khỏi sự bất trắc”.

Ngược lại, Chúa Kitô “hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Cha” và “theo cùng một cách, sự khiêm nhường của những người tin vào Chúa Kitô giả thiết sự tin cậy hoàn toàn nơi Người.”

Năm biện pháp để chiến đấu với ma quỷ

Đức Hồng Y tương lai Marengo đã nêu bật 5 biện pháp để chiến đấu với ma quỷ:

1. “Con đường chính là cầu nguyện. Và trong lãnh vực này, việc tôn thờ Thánh Thể và các hình thức khác nhau của lòng sùng kính Đức Mẹ nổi bật “. Ngài yêu cầu đặc biệt chú ý đến các lời cầu nguyện phụng vụ với các bản văn nhắc đến việc chữa lành, luôn tôn trọng các quy tắc phụng vụ thích đáng. Và, liên quan đến Mông Cổ, ngài làm chứng: “Mọi sự đang thay đổi sau khi việc tôn thờ Thánh Thể lan rộng”.

2. “Dạy giáo lý đầy đủ về hành động của ma quỷ và cách đối đầu với hắn.”

3. “Cơ hội để chia sẻ nơi các vấn đề về ma qủy học có thể nảy sinh trong cuộc đối thoại.”

4. “Cử hành lễ trừ tà khi cần thiết,” luôn tôn trọng các quy tắc của Giáo hội.

5. “Đào tạo các linh mục và tu sĩ liên quan đến sức khỏe tâm thần và cuộc chiến chống lại ma quỷ.”

Mầu nhiệm tình yêu chiến thắng mầu nhiệm sự ác

Còn nhớ, theo Aleteia, trong đại hội trừ tà năm 2017 tại Manila, Đức Hồng Y Tagle nói với đại hội những người trừ tà rằng: mầu nhiệm tình yêu chiến thắng mầu nhiệm sự ác.

Đức Hồng Y nói rằng sự ác là một mầu nhiệm, tội lỗi là phi luận lý và phi lý thế mà chúng ta lại không chống lại nó.

Nhưng tình yêu cũng là một mầu nhiệm - Thiên Chúa vẫn thành tín dù biết rằng nhân loại sẽ không trung thành. Và mầu nhiệm tình yêu chiến thắng mầu nhiệm sự ác.

Đức Hồng Y Tagle khẳng định rằng bất chấp cái ác, cuộc sống con người vẫn tươi đẹp.

Luận lý học có thể ra lệnh chúng ta phải loại bỏ tội nhân để làm cho thế giới tươi đẹp, nhưng “thế giới thực sự tươi đẹp bởi vì Thiên Chúa đáp ứng điều đó. Thiên Chúa mạnh hơn sự ác. Đó là bí quyết của vẻ đẹp thế giới. “

Đức Hồng Y Tagle đã suy gẫm về lịch sử lâu dài của sự ác và loài người, và làm thế nào Satan đã có thể giành được sự hợp tác của con người ngay từ đầu.

Đức Hồng Y nói: “Chúng ta bị mê hoặc bởi mầu nhiệm sự ác”. Và “điều này phi luận lý. Điều này phi lý. Nhưng tội lỗi, sự ác, không hợp lý”. Con người không hiểu những lựa chọn của chính mình và do đó sự ác là một mầu nhiệm.

Nhưng mầu nhiệm lớn hơn là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử lâu dài của sự hợp tác của con người với sự ác được đáp lại bằng sự đáp trả liên tục của Thiên Chúa. “Người ta sẽ hướng về Người trong tuyệt vọng, Thiên Chúa sẽ đáp ứng, con người sẽ lại bỏ rơi Người, Thiên Chúa sẽ bị tổn thương,” nhưng sẽ ở lại với dân Người, dân mà Người không thể từ bỏ.

“Đây cũng là mầu nhiệm xót thương và cảm thương bất tận của Thiên Chúa. Mầu nhiệm tình yêu này chiến thắng sự ác. Và không có cách nào khác để chiến thắng sự ác ngoài tình yêu Thiên Chúa.”