Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời
Lm. Jude Siciliano, OP
06:38 12/08/2010
LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Kh 11: 19a; 12:1-6a, 10ab; Tv 45; I Cr 15: 20-27; Lc 1: 39-56
THIÊN CHÚA CHÚNG TA GIỜ ĐÂY BAN ƠN CỨU ĐỘ VÀ BIỂU DƯƠNG UY LỰC VỚI VƯƠNG QUYỀN
Chẳng mấy khi chúng ta hiểu được đoạn Khải Huyền được trích tuyển trong sách bài đọc của chúng ta. Cả như tôi, thì chắc khó lòng có người nào trong anh chị em giảng giải về bài đọc ấy nếu không muốn nói là chẳng có ai. Dẫu có chừa lại sách Khải Huyền thì có lẽ, việc đọc sách thánh của anh chị em cũng không hề gì! Tuy nhiên, đây là cơ hội để chúng ta cải thiện tình trạng đó, thế nên tôi sẽ tập trung vào bài đọc một và thêm vào một số chú thích mà tôi cho là hữu ích trong dịp lễ này.
Hồi còn làm tuyên úy trại giam ở San Quentin - California, tôi lấy làm ngạc nhiên bởi sao có lắm bạn tù đọc Kinh Thánh mà lại say mê với sách Khải Huyền đến thế. Ấy phải chăng là vì họ đã bắt được sức hấp dẫn mãnh liệt nơi chuỗi biểu tượng có tính phóng đại và nghiệt ngã của quyển sách thánh, mà xem ra, phần đông các Ki-tô hữu muốn lảng tránh! Dần dà, tôi nhận ra rằng, họ đã bị cuốn theo những dòng mô tả về cuộc chiến đấu khắc nghiệt giữa thiện và ác vốn tràn ngập trong toàn bộ quyển sách. Họ đã tìm thấy ở đó nguồn trợ lực để hy vọng rằng một ngày nào đó, hệ thống tù đày quy mô nơi họ sống sẽ bị phá hủy đi cùng với các thế lực của thế gian này. Đây vốn là thông tin thời sự giúp những Ki-tô hữu tiên khởi đã chịu đau khổ dưới sự bách hại của Rô-ma, cũng như những tù nhân trong trại tù North Bloc ở San Quentin cảm thấy yên lòng. Và ấy cũng là tin tức xoa dịu tất cả chúng ta, những người đấu tranh chống tại các thế lực của con “Mãng Xà” trong xã hội chúng ta.
Theo tôi, ra như có một sức hấp dẫn khác nữa đối với những bạn tù, ấy là vì họ tin rằng, họ đã nắm được mật mã; họ có thể luận đoán được các biểu tượng và lối nói ẩn dụ hết sức phổ biến trong sách Khải Huyền. Dù sao đi nữa, họ đã cảm thấy mình là người trong cuộc, còn hết thảy những người khác chỉ là người ngoài. Thậm chí họ đã sử dụng “sự am hiểu” này như một phương thức để chịu đựng tốt hơn những người đồng cảnh ngộ với họ. Tuy nhiên, bất chấp họ có thể giải thích sai điều gì trong sách Khải Huyền đi nữa, thì anh chị em cũng có thể hiểu được sự mê mẩn của họ đối với quyển sách nói về các thị kiến và những lời tiên báo này. Quyển sách nói với những người chịu đau khổ dưới những thái cực và sức ép từ bên ngoài.
Sách Khải huyền được viết cho các Ki-tô hữu tiên khởi, những người đã bị ép buộc phải tôn thờ hoàng đế. Nếu không làm theo như vậy, thì họ không chỉ bị xem là gây mất đoàn kết tôn giáo mà còn cả chính trị nữa. Các Ki-tô hữu buộc phải chọn Thiên Chúa để phụng sự như xưa nay họ vẫn chọn. Nếu họ chọn thuận theo niềm tin Ki-tô hữu của mình, thì họ phải trả giá bằng chính sự sống của họ. Khải Huyền không phải là một quyển sách trừu tượng với những hình ảnh dị thường và các sự kiện thuộc thế giới bên kia. Sách được viết nhằm giúp các Ki-tô hữu giữ vững niềm tin và tỏ ý đoan chắc rằng Con Chiên (hoặc như trong bài đọc hôm nay là “người con, một con trai”) sẽ chiến thắng khải hoàn.
Còn niềm tin của chúng ta thì sao, liệu có chút gì dễ dàng hay hứa hẹn hơn chăng? Lướt qua trang báo trong những ngày này, bất giác chúng ta nhận ra rằng, những vụ dùng xe hơi đánh bom tại Iraq và Afghanistan vẫn ngày càng gia tăng; những thiếu sinh quân bị giết hại tại Sudan; dân chúng thuộc thế giới thứ ba đang khổ sở trước nạn dịch AIDS vì thiếu thuốc chữa trị; rồi vụ tràn dầu làm có thể làm ô nhiễm Vịnh Mexico trong vòng nhiều năm tới… Chúng ta phải đặt ra câu hỏi, “Ai chịu trách nhiệm trước những điều này?” Nhìn ra thế giới xung quanh, chúng ta rùng mình trước mật độ thảm họa mà chúng ta được chứng kiến. Quyền lực nào sẽ thắng thế đây? Liệu chúng ta có phải là những người tin sẽ thuộc về phía chiến thắng, hay có lẽ nào sự nỗ lực bé nhỏ về phần con người của chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa trước “con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng”?
Sách Khải Huyền có ý quả quyết rằng, sự thiện sẽ chiến thắng. Giống như các Ki-tô hữu thời đầu, chúng ta có thể bị xúi giục để chối bỏ niềm tin vào nguồn sáng của mình, để rồi sa vào chước cám dỗ và sức mạnh của những thế lực chống đối. Đấng Tối Cao mà những người Ki-tô hữu chúng ta bước theo là Đấng nào? Thiên Chúa công bình như kinh thánh cho biết là Đấng sẽ chấn chỉnh mọi sự, đấy là Thiên Chúa chúng ta hằng mong ước và có thể đặt niềm tín trung. Thế nên, sách Khải Huyền mời gọi chúng ta sửa lại lối nhìn của mình, không phải là tập trung vào những thử thách đau thương của chúng ta, cho bằng biết hướng về Thiên Chúa. Sức mạnh của con thú thật đáng sợ, đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời. Thế nhưng người con được sinh ra sẽ được Thiên Chúa che chở và chiến thắng khải hoàn.
Trong khi chưa có một mật mã nào giúp chúng ta giải thích được quyển sách này, thì ngôn từ của của nó thu hút trí tưởng tượng của chúng ta và khiến chúng ta có thể vẽ ra nhiều cách lý giải. Đã hẳn chúng ta phải chiến đấu, thế nhưng cũng có một sự thực rất đáng ngại, ấy là sự dữ đang hằm hè như muốn nuốt lấy tất cả những gì là sự thiện. Một dân mới là cộng đồng Ki-tô hữu đã được sinh ra trong đau khổ và cuộc chiến đấu lớn lao. Thế nhưng, bất chấp những mối đe dọa đến sự tồn vong, đứa con này vẫn được Thiên Chúa gìn giữ an toàn. Không có độc giả kinh thánh nào có thể quên những lối ẩn dụ trong sách thánh Híp-ri. Cũng như Thiên Chúa của người Do-thái đã bảo vệ họ, thì Người cũng sẽ tiếp tục bảo vệ dân mới của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa không “chia ở thì quá khứ”, nhưng vẫn bảo vệ, tái tạo cộng đoàn trong hiện thực, vì Đức Giê-su đã hiến dâng mạng sống của Người cho cộng đoàn ấy.
Cộng đoàn mà Gio-an hướng đến đang trải nghiệm sự chống đối cùng cực. Nhờ quyển sách này, họ được động viên để tín thác rằng, Thiên Chúa thấu biết cảnh ngộ khốn khổ của họ và Người sẽ đến để cứu thoát họ. Sự dữ sẽ đại bại. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ khi trong thánh Lễ Đức Mẹ Lên Trời này, bài đọc một được nối kết với bài “Magnificat” của Đức Ma-ri-a. Niềm vui mừng hân hoan của Đức Ma-ri-a khi được Thiên Chúa bảo trợ: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế… dẹp tan phường lòng trí kiêu căng…” Đức Tin mà kinh thánh nói đến ở đây cho thấy hai mẫu thức và cung giọng khác nhau về cùng một niềm hy vọng nơi Thiên Chúa. Gio-an không viết lời tiên báo về những sự kiện cụ thể trong tương lai như một số người ngày hôm nay quả quyết, nhưng cố gắng để khuyến khích và an ủi các Ki-tô hữu vì nỗi khốn khổ rất cụ thể của họ. Gio-an viết để giúp họ cũng như chúng ta luôn biết tín trung, và còn để bảo đảm cho chúng ta rằng, đường lối và sự công chính của Thiên Chúa sẽ chiến thắng.
Chúng ta cũng hãy làm cho Đức Ki-tô giáng sinh vào xã hội của chúng ta nữa. Chúng ta được nhắc nhở rằng, qua cuộc khổ nạn, Đức Ki-tô vẫn được Thiên Chúa che chở an toàn, và để rồi Người sẽ trở lại và đem tất cả chúng ta đến nơi được bảo vệ an toàn và được sống. Do đó, con Mãng Xà sẽ không bao giờ chiến thắng được. Người Ki-tô hữu sẵn sàng để lên tiếng giữa cuộc chiến chống lại muôn vàn những cuộc thị uy của ma quỷ, “Thiên Chúa chúng ta giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền.” Thiên Chúa là Đấng bảo vệ chúng ta giờ đây tỏ ý trợ giúp chúng ta trong cuộc chiến hiện thời của chúng ta.
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp
Kh 11: 19a; 12:1-6a, 10ab; Tv 45; I Cr 15: 20-27; Lc 1: 39-56
THIÊN CHÚA CHÚNG TA GIỜ ĐÂY BAN ƠN CỨU ĐỘ VÀ BIỂU DƯƠNG UY LỰC VỚI VƯƠNG QUYỀN
Chẳng mấy khi chúng ta hiểu được đoạn Khải Huyền được trích tuyển trong sách bài đọc của chúng ta. Cả như tôi, thì chắc khó lòng có người nào trong anh chị em giảng giải về bài đọc ấy nếu không muốn nói là chẳng có ai. Dẫu có chừa lại sách Khải Huyền thì có lẽ, việc đọc sách thánh của anh chị em cũng không hề gì! Tuy nhiên, đây là cơ hội để chúng ta cải thiện tình trạng đó, thế nên tôi sẽ tập trung vào bài đọc một và thêm vào một số chú thích mà tôi cho là hữu ích trong dịp lễ này.
Hồi còn làm tuyên úy trại giam ở San Quentin - California, tôi lấy làm ngạc nhiên bởi sao có lắm bạn tù đọc Kinh Thánh mà lại say mê với sách Khải Huyền đến thế. Ấy phải chăng là vì họ đã bắt được sức hấp dẫn mãnh liệt nơi chuỗi biểu tượng có tính phóng đại và nghiệt ngã của quyển sách thánh, mà xem ra, phần đông các Ki-tô hữu muốn lảng tránh! Dần dà, tôi nhận ra rằng, họ đã bị cuốn theo những dòng mô tả về cuộc chiến đấu khắc nghiệt giữa thiện và ác vốn tràn ngập trong toàn bộ quyển sách. Họ đã tìm thấy ở đó nguồn trợ lực để hy vọng rằng một ngày nào đó, hệ thống tù đày quy mô nơi họ sống sẽ bị phá hủy đi cùng với các thế lực của thế gian này. Đây vốn là thông tin thời sự giúp những Ki-tô hữu tiên khởi đã chịu đau khổ dưới sự bách hại của Rô-ma, cũng như những tù nhân trong trại tù North Bloc ở San Quentin cảm thấy yên lòng. Và ấy cũng là tin tức xoa dịu tất cả chúng ta, những người đấu tranh chống tại các thế lực của con “Mãng Xà” trong xã hội chúng ta.
Theo tôi, ra như có một sức hấp dẫn khác nữa đối với những bạn tù, ấy là vì họ tin rằng, họ đã nắm được mật mã; họ có thể luận đoán được các biểu tượng và lối nói ẩn dụ hết sức phổ biến trong sách Khải Huyền. Dù sao đi nữa, họ đã cảm thấy mình là người trong cuộc, còn hết thảy những người khác chỉ là người ngoài. Thậm chí họ đã sử dụng “sự am hiểu” này như một phương thức để chịu đựng tốt hơn những người đồng cảnh ngộ với họ. Tuy nhiên, bất chấp họ có thể giải thích sai điều gì trong sách Khải Huyền đi nữa, thì anh chị em cũng có thể hiểu được sự mê mẩn của họ đối với quyển sách nói về các thị kiến và những lời tiên báo này. Quyển sách nói với những người chịu đau khổ dưới những thái cực và sức ép từ bên ngoài.
Sách Khải huyền được viết cho các Ki-tô hữu tiên khởi, những người đã bị ép buộc phải tôn thờ hoàng đế. Nếu không làm theo như vậy, thì họ không chỉ bị xem là gây mất đoàn kết tôn giáo mà còn cả chính trị nữa. Các Ki-tô hữu buộc phải chọn Thiên Chúa để phụng sự như xưa nay họ vẫn chọn. Nếu họ chọn thuận theo niềm tin Ki-tô hữu của mình, thì họ phải trả giá bằng chính sự sống của họ. Khải Huyền không phải là một quyển sách trừu tượng với những hình ảnh dị thường và các sự kiện thuộc thế giới bên kia. Sách được viết nhằm giúp các Ki-tô hữu giữ vững niềm tin và tỏ ý đoan chắc rằng Con Chiên (hoặc như trong bài đọc hôm nay là “người con, một con trai”) sẽ chiến thắng khải hoàn.
Còn niềm tin của chúng ta thì sao, liệu có chút gì dễ dàng hay hứa hẹn hơn chăng? Lướt qua trang báo trong những ngày này, bất giác chúng ta nhận ra rằng, những vụ dùng xe hơi đánh bom tại Iraq và Afghanistan vẫn ngày càng gia tăng; những thiếu sinh quân bị giết hại tại Sudan; dân chúng thuộc thế giới thứ ba đang khổ sở trước nạn dịch AIDS vì thiếu thuốc chữa trị; rồi vụ tràn dầu làm có thể làm ô nhiễm Vịnh Mexico trong vòng nhiều năm tới… Chúng ta phải đặt ra câu hỏi, “Ai chịu trách nhiệm trước những điều này?” Nhìn ra thế giới xung quanh, chúng ta rùng mình trước mật độ thảm họa mà chúng ta được chứng kiến. Quyền lực nào sẽ thắng thế đây? Liệu chúng ta có phải là những người tin sẽ thuộc về phía chiến thắng, hay có lẽ nào sự nỗ lực bé nhỏ về phần con người của chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa trước “con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng”?
Sách Khải Huyền có ý quả quyết rằng, sự thiện sẽ chiến thắng. Giống như các Ki-tô hữu thời đầu, chúng ta có thể bị xúi giục để chối bỏ niềm tin vào nguồn sáng của mình, để rồi sa vào chước cám dỗ và sức mạnh của những thế lực chống đối. Đấng Tối Cao mà những người Ki-tô hữu chúng ta bước theo là Đấng nào? Thiên Chúa công bình như kinh thánh cho biết là Đấng sẽ chấn chỉnh mọi sự, đấy là Thiên Chúa chúng ta hằng mong ước và có thể đặt niềm tín trung. Thế nên, sách Khải Huyền mời gọi chúng ta sửa lại lối nhìn của mình, không phải là tập trung vào những thử thách đau thương của chúng ta, cho bằng biết hướng về Thiên Chúa. Sức mạnh của con thú thật đáng sợ, đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời. Thế nhưng người con được sinh ra sẽ được Thiên Chúa che chở và chiến thắng khải hoàn.
Trong khi chưa có một mật mã nào giúp chúng ta giải thích được quyển sách này, thì ngôn từ của của nó thu hút trí tưởng tượng của chúng ta và khiến chúng ta có thể vẽ ra nhiều cách lý giải. Đã hẳn chúng ta phải chiến đấu, thế nhưng cũng có một sự thực rất đáng ngại, ấy là sự dữ đang hằm hè như muốn nuốt lấy tất cả những gì là sự thiện. Một dân mới là cộng đồng Ki-tô hữu đã được sinh ra trong đau khổ và cuộc chiến đấu lớn lao. Thế nhưng, bất chấp những mối đe dọa đến sự tồn vong, đứa con này vẫn được Thiên Chúa gìn giữ an toàn. Không có độc giả kinh thánh nào có thể quên những lối ẩn dụ trong sách thánh Híp-ri. Cũng như Thiên Chúa của người Do-thái đã bảo vệ họ, thì Người cũng sẽ tiếp tục bảo vệ dân mới của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa không “chia ở thì quá khứ”, nhưng vẫn bảo vệ, tái tạo cộng đoàn trong hiện thực, vì Đức Giê-su đã hiến dâng mạng sống của Người cho cộng đoàn ấy.
Cộng đoàn mà Gio-an hướng đến đang trải nghiệm sự chống đối cùng cực. Nhờ quyển sách này, họ được động viên để tín thác rằng, Thiên Chúa thấu biết cảnh ngộ khốn khổ của họ và Người sẽ đến để cứu thoát họ. Sự dữ sẽ đại bại. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ khi trong thánh Lễ Đức Mẹ Lên Trời này, bài đọc một được nối kết với bài “Magnificat” của Đức Ma-ri-a. Niềm vui mừng hân hoan của Đức Ma-ri-a khi được Thiên Chúa bảo trợ: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế… dẹp tan phường lòng trí kiêu căng…” Đức Tin mà kinh thánh nói đến ở đây cho thấy hai mẫu thức và cung giọng khác nhau về cùng một niềm hy vọng nơi Thiên Chúa. Gio-an không viết lời tiên báo về những sự kiện cụ thể trong tương lai như một số người ngày hôm nay quả quyết, nhưng cố gắng để khuyến khích và an ủi các Ki-tô hữu vì nỗi khốn khổ rất cụ thể của họ. Gio-an viết để giúp họ cũng như chúng ta luôn biết tín trung, và còn để bảo đảm cho chúng ta rằng, đường lối và sự công chính của Thiên Chúa sẽ chiến thắng.
Chúng ta cũng hãy làm cho Đức Ki-tô giáng sinh vào xã hội của chúng ta nữa. Chúng ta được nhắc nhở rằng, qua cuộc khổ nạn, Đức Ki-tô vẫn được Thiên Chúa che chở an toàn, và để rồi Người sẽ trở lại và đem tất cả chúng ta đến nơi được bảo vệ an toàn và được sống. Do đó, con Mãng Xà sẽ không bao giờ chiến thắng được. Người Ki-tô hữu sẵn sàng để lên tiếng giữa cuộc chiến chống lại muôn vàn những cuộc thị uy của ma quỷ, “Thiên Chúa chúng ta giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền.” Thiên Chúa là Đấng bảo vệ chúng ta giờ đây tỏ ý trợ giúp chúng ta trong cuộc chiến hiện thời của chúng ta.
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp
Lên trời với Mẹ
PM. Cao Huy Hoàng
13:06 12/08/2010
Chúa không muốn Mẹ Maria chịu cảnh hư nát trong mồ,
vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Mẹ Maria được Chúa đưa về trời.
Mẹ Maria được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác minh quyết rằng Mẹ Maria Vô Nhiễm Tội Truyền. Thân xác Mẹ đúng là thân xác của E và mới, E và của kỷ nguyên mới, của trời mới, đất mới, của bà Mẹ tinh tuyền, bà Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Thân xác Mẹ xứng đáng là thân xác Ái Nữ của Thiên Chúa Cha, thân xác Hiền Mẫu Ngôi Chúa Con, và mãi xứng đáng là cung ngà điện ngọc của Chúa Thánh Thần. Nơi Mẹ, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng ngự trị. Quả thật, ý định do lòng thương xót của Thiên Chúa Cha được thực hiện bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và Ngôi Chúa Con đã nhập thể trong cung lòng Maria trinh nữ và ra đời làm người. Mẹ Maria đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế cho nhân loại, và qua Chúa Giêsu Cứu Thế, con người được ơn phục hồi quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Việc ấy, đồng nghĩa với việc Mẹ Maria cũng đã sinh ra cho Thiên Chúa muôn ngàn con cái mới của Thiên Chúa trong triều đại Con của Mẹ, trong đó có mỗi chúng ta.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng thân xác của người Mẹ đã thai con trong tội là E và của chương trình sáng tạo ban đầu, người đã bằng lòng làm nô lệ cho ma quỷ, chịu sự khống chế của nó để cả loài người đều phải sống trong thân xác hay hư nát, trong đó cũng lại có mỗi chúng ta. Hơn thế nữa, tâm trí chúng ta cũng bị ảnh hưởng tồi tệ đến nỗi luôn nghiêng chiều về những thực tại hay hư nát mà quên rằng chúng ta đã được cứu thoát nhờ Con Thiên Chúa, qua Mẹ Maria Mẹ của Người.
Vì vậy, để được thoát khỏi cảnh hư nát trong mồ và xác loài người chúng ta được sống lại trong Nước Thiên Chúa, hẳn chúng ta phải biết chiến thắng những dục vọng hư hèn và luôn sống trong ơn nghĩa tử của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Ki-tô bằng cách noi gương các nhân đức của Mẹ và nhờ ơn Mẹ cầu bầu.
Mẹ lên trời cho chúng ta hình ảnh tương lai một Giáo Hội Chúa Kitô viên mãn trong Nước Thiên Chúa.
Nơi Mẹ về, không phải là một địa chỉ không gian cụ thể hay mơ hồ theo trí tưởng tượng của mỗi chúng ta, nhưng là một sự đoàn viên hoàn hảo trong gia đình của Thiên Chúa. Nơi gia đình ấy, có sự sống vĩnh cửu, có tình yêu tinh tuyền và hạnh phúc bất diệt. Mẹ là thụ tạo đầu tiên của Thiên Chúa đưa về nơi ấy cả hồn lẫn xác để củng cố cho mỗi tín hữu về một địa chỉ thường hằng của Thiên Chúa mà cũng là địa chỉ của mỗi người tin Chúa Kitô, con Mẹ.
Tín điều xác loài người sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên đàng, kẻ dữ xuống hỏa ngục… cho ta biết thân xác của chúng ta sẽ được sống lại để chịu phán xét; và có được sống lại đời đời trong Nước Thiên Chúa không là tùy vào việc lành việc dữ mà ta đã thực hiện trên đường lữ hành dương thế.
Mẹ Maria lên trời cả hồn lẫn xác là hình ảnh tương lai của những kẻ lành trong Hội Thánh Chúa. Cuộc sống con người chỉ được viên mãn thực sự khi được sống trong sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Cuộc sống ấy đã bắt đầu ngay ở trần gian nầy. Cuộc sống trần gian của Mẹ Maria trở nên mẫu gương của mỗi chúng ta để chúng ta có được cuộc sống Thiên Quốc.
Để được về trời cùng Mẹ
Chúa cho Mẹ về trời, đồng nghĩa với việc Chúa cho chúng ta một cơ hội suy gẫm và bắt chước các nhân đức của Mẹ, để chúng ta cũng được về trời như Mẹ.
Cũng là loài thụ tạo, Mẹ luôn gần gủi với thân phận loài người chúng ta. Và chúng ta có quyền tin tưởng Mẹ Maria luôn cảm thông với chúng ta và luôn là niềm an ủi, niềm hy vọng cho chúng ta trên cuộc lữ hành trần thế.
Noi gương sống của Mẹ và sống với Mẹ Maria, mỗi người nên tâm đắc một nhân đức của Mẹ. Và khi tâm đắc, hãy noi gương Mẹ sống với nhân đức ấy, ắt sẽ đạt được các nhân đức khác cách lạ lùng, nhất là những người nữ, những người đã chọn Mẹ Maria làm bổn mạng.
Có nhiều người đã tâm đắc lời “xin vâng” của Mẹ Maria và họ quyết tâm noi gương Đức Mẹ mà xây dựng đức khiêm nhường trong lòng. Và khi học được đức khiêm nhường của mẹ, họ cũng tỏa ngát hương thơm của đức khiết tịnh, rồi đức yêu người… Họ đang âm thầm làm việc với tư cách là Mẹ trong các gia đình công giáo. Tưởng là không đáng kể, nhưng thật ra, họ đang làm đảo lộn cả thế giới bằng chính cuộc sống xin vâng khiêm nhường và yêu người của họ, bắt đầu từ chính gia đình họ. Mẹ Maria cũng đang âm thầm giúp đỡ họ chu toàn vai trò của người sinh ra cho Thiên Chúa những con người và sinh ra cho Thiên Chúa những tín hữu đạo đức. Họ là những bà mẹ công giáo đạo đức theo khuôn mẫu của Mẹ Thánh Maria.
Tôi muốn đề cập đến chi tiết nầy, vì lễ Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, có thể nói là lễ bổn mạng của hầu hết các chị em phụ nữ trên thế giới. Tuy nhiên, cũng không thiếu những người nam thành tâm chạy đến với Mẹ ở Tàpao, ở Lavang, Trà Kiệu… hay ít là với Mẹ ở ngay giáo xứ mình. Họ xin Mẹ điều gì, nếu trước tiên không phải là xin noi gương sống của Mẹ để đẹp lòng Mẹ trước, và Mẹ sẽ nghe lời họ khấn xin mà chuyển cầu lên Thiên Chúa. Nhiều người vẫn được Mẹ ban ơn cách này cách khác, nhưng qua các ơn đã được, thiết tưởng phải nghiệm cho ra một ơn trọng là ơn bắt chước các nhân đức của Mẹ mà về trời với Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Chúa không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Vì thế Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời, là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Xin cho chúng con biết noi gương các nhân đức Mẹ mà sống với Chúa Giêsu con Mẹ, sống với Giáo Hội của Ngài, với niềm hy vọng sẽ được về trời hưởng tình yêu và hạnh phúc bất diệt trong Nước Thiên Chúa.
vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Mẹ Maria được Chúa đưa về trời.
Mẹ Maria được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác minh quyết rằng Mẹ Maria Vô Nhiễm Tội Truyền. Thân xác Mẹ đúng là thân xác của E và mới, E và của kỷ nguyên mới, của trời mới, đất mới, của bà Mẹ tinh tuyền, bà Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Thân xác Mẹ xứng đáng là thân xác Ái Nữ của Thiên Chúa Cha, thân xác Hiền Mẫu Ngôi Chúa Con, và mãi xứng đáng là cung ngà điện ngọc của Chúa Thánh Thần. Nơi Mẹ, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng ngự trị. Quả thật, ý định do lòng thương xót của Thiên Chúa Cha được thực hiện bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và Ngôi Chúa Con đã nhập thể trong cung lòng Maria trinh nữ và ra đời làm người. Mẹ Maria đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế cho nhân loại, và qua Chúa Giêsu Cứu Thế, con người được ơn phục hồi quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Việc ấy, đồng nghĩa với việc Mẹ Maria cũng đã sinh ra cho Thiên Chúa muôn ngàn con cái mới của Thiên Chúa trong triều đại Con của Mẹ, trong đó có mỗi chúng ta.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng thân xác của người Mẹ đã thai con trong tội là E và của chương trình sáng tạo ban đầu, người đã bằng lòng làm nô lệ cho ma quỷ, chịu sự khống chế của nó để cả loài người đều phải sống trong thân xác hay hư nát, trong đó cũng lại có mỗi chúng ta. Hơn thế nữa, tâm trí chúng ta cũng bị ảnh hưởng tồi tệ đến nỗi luôn nghiêng chiều về những thực tại hay hư nát mà quên rằng chúng ta đã được cứu thoát nhờ Con Thiên Chúa, qua Mẹ Maria Mẹ của Người.
Vì vậy, để được thoát khỏi cảnh hư nát trong mồ và xác loài người chúng ta được sống lại trong Nước Thiên Chúa, hẳn chúng ta phải biết chiến thắng những dục vọng hư hèn và luôn sống trong ơn nghĩa tử của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Ki-tô bằng cách noi gương các nhân đức của Mẹ và nhờ ơn Mẹ cầu bầu.
Mẹ lên trời cho chúng ta hình ảnh tương lai một Giáo Hội Chúa Kitô viên mãn trong Nước Thiên Chúa.
Nơi Mẹ về, không phải là một địa chỉ không gian cụ thể hay mơ hồ theo trí tưởng tượng của mỗi chúng ta, nhưng là một sự đoàn viên hoàn hảo trong gia đình của Thiên Chúa. Nơi gia đình ấy, có sự sống vĩnh cửu, có tình yêu tinh tuyền và hạnh phúc bất diệt. Mẹ là thụ tạo đầu tiên của Thiên Chúa đưa về nơi ấy cả hồn lẫn xác để củng cố cho mỗi tín hữu về một địa chỉ thường hằng của Thiên Chúa mà cũng là địa chỉ của mỗi người tin Chúa Kitô, con Mẹ.
Tín điều xác loài người sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên đàng, kẻ dữ xuống hỏa ngục… cho ta biết thân xác của chúng ta sẽ được sống lại để chịu phán xét; và có được sống lại đời đời trong Nước Thiên Chúa không là tùy vào việc lành việc dữ mà ta đã thực hiện trên đường lữ hành dương thế.
Mẹ Maria lên trời cả hồn lẫn xác là hình ảnh tương lai của những kẻ lành trong Hội Thánh Chúa. Cuộc sống con người chỉ được viên mãn thực sự khi được sống trong sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Cuộc sống ấy đã bắt đầu ngay ở trần gian nầy. Cuộc sống trần gian của Mẹ Maria trở nên mẫu gương của mỗi chúng ta để chúng ta có được cuộc sống Thiên Quốc.
Để được về trời cùng Mẹ
Chúa cho Mẹ về trời, đồng nghĩa với việc Chúa cho chúng ta một cơ hội suy gẫm và bắt chước các nhân đức của Mẹ, để chúng ta cũng được về trời như Mẹ.
Cũng là loài thụ tạo, Mẹ luôn gần gủi với thân phận loài người chúng ta. Và chúng ta có quyền tin tưởng Mẹ Maria luôn cảm thông với chúng ta và luôn là niềm an ủi, niềm hy vọng cho chúng ta trên cuộc lữ hành trần thế.
Noi gương sống của Mẹ và sống với Mẹ Maria, mỗi người nên tâm đắc một nhân đức của Mẹ. Và khi tâm đắc, hãy noi gương Mẹ sống với nhân đức ấy, ắt sẽ đạt được các nhân đức khác cách lạ lùng, nhất là những người nữ, những người đã chọn Mẹ Maria làm bổn mạng.
Có nhiều người đã tâm đắc lời “xin vâng” của Mẹ Maria và họ quyết tâm noi gương Đức Mẹ mà xây dựng đức khiêm nhường trong lòng. Và khi học được đức khiêm nhường của mẹ, họ cũng tỏa ngát hương thơm của đức khiết tịnh, rồi đức yêu người… Họ đang âm thầm làm việc với tư cách là Mẹ trong các gia đình công giáo. Tưởng là không đáng kể, nhưng thật ra, họ đang làm đảo lộn cả thế giới bằng chính cuộc sống xin vâng khiêm nhường và yêu người của họ, bắt đầu từ chính gia đình họ. Mẹ Maria cũng đang âm thầm giúp đỡ họ chu toàn vai trò của người sinh ra cho Thiên Chúa những con người và sinh ra cho Thiên Chúa những tín hữu đạo đức. Họ là những bà mẹ công giáo đạo đức theo khuôn mẫu của Mẹ Thánh Maria.
Tôi muốn đề cập đến chi tiết nầy, vì lễ Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, có thể nói là lễ bổn mạng của hầu hết các chị em phụ nữ trên thế giới. Tuy nhiên, cũng không thiếu những người nam thành tâm chạy đến với Mẹ ở Tàpao, ở Lavang, Trà Kiệu… hay ít là với Mẹ ở ngay giáo xứ mình. Họ xin Mẹ điều gì, nếu trước tiên không phải là xin noi gương sống của Mẹ để đẹp lòng Mẹ trước, và Mẹ sẽ nghe lời họ khấn xin mà chuyển cầu lên Thiên Chúa. Nhiều người vẫn được Mẹ ban ơn cách này cách khác, nhưng qua các ơn đã được, thiết tưởng phải nghiệm cho ra một ơn trọng là ơn bắt chước các nhân đức của Mẹ mà về trời với Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Chúa không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Vì thế Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời, là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Xin cho chúng con biết noi gương các nhân đức Mẹ mà sống với Chúa Giêsu con Mẹ, sống với Giáo Hội của Ngài, với niềm hy vọng sẽ được về trời hưởng tình yêu và hạnh phúc bất diệt trong Nước Thiên Chúa.
Nhân phẩm con người
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
14:55 12/08/2010
Nhân Phẩm Con Người
Ngày 01.11.1950 Đức giáo hoàng Pio thứ 12. công bố tín điều thứ tư về Đức Mẹ Maria: „Đức Mẹ Maria đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi chấm dứt cuộc sống trên trần gian, đã được đưa về trời vinh quang cả hồn lẫn thân xác“.
Người tín hữu Công giáo tin trong tâm hồn và biều lộ niềm về linh hồn cùng thân xác qua lời tuyên xưng đọc trong kinh tin kính: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau“
Vậy đâu là ý nghĩa về niềm tin linh hồn và thân xác con người được sống lại như Đức Mẹ Maria?
1.Trong dòng lịch sử đời sống
Tuy không chứng minh rõ ràng bằng con số, bằng hình ảnh, bằng mầu sắc hay đơn vị đo lường, nhưng ai cũng tin nhận mỗi con người không chỉ có thân xác hình hài với tứ chi, cùng các cơn quan như một cỗ máy tinh vi bén nhậy, chạy sống động mà không cần phải bơm nhiên liệu thêm vào.
Chất nhiên liệu đó là phần tinh anh linh thiêng không nhìn thấy được bằng con mắt thường, mà người tín hữu Công giáo gọi là linh hồn linh thiêng.
Không có linh hồn linh thiêng, thân xác trở nên thiếu vắng không sống động được. Không có thân xác, linh hồn sự sống cũng không có nơi chốn định vị. Hai phần gắn bó liên kết khăng khít với nhau làm nên toàn thể nhân vị đời sống một con người.
Khi thân xác bên ngoài con người bị làm tổn thương, đồng thời linh hồn tinh anh, toàn thể con người cũng bị tổn thương đau buồn luôn.
Và những tâm tư tình cảm cuộn trào dâng lên từ trong thâm tâm đáy linh hồn, tỏ hiện ra bên ngoài qua thân xác mầu sắc của da thịt, qua gương mặt đôi mắt, qua tiếng nói nụ cười cùng dòng nước mắt.
Khi tạo dựng con người đầu tiên, Thiên Chúa đã lấy bùn đất nặn nên thân xác hình tượng một con người. Và Ngài thổi hơi vào mũi, con người liền có sự sống. Hơi thở của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa là linh hồn của con ngưòi. ( St 2,7 ).
Ngày lễ mừng kính Đức Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn thân xác muốn nói với con người: Trước mặt Thiên Chúa, đang khi còn sống trên mặt đất chúng ta là con người với toàn thể cả thân xác cùng linh hồn, và sau khi chết được cứu độ với lịch sử đời sống mỗi người với toàn thể thân xác cùng linh hồn.
Trong ngày sau cùng chấm dứt đời sống trên trần gian toàn thể thân xác cùng linh hồn con người trở về với Thiên Chúa, nguồn đời sống, là tất cả những gì xưa kia con người đã sống trải qua tình yêu và niềm vui, đau đớn và khổ nhục. Tất cả dòng lịch sử đời sống của mỗi người tuôn chảy về trước mặt Thiên Chúa, Đấng thẩm phán biến đổi cứu độ.
2.Thân xác con người
Về khoa vạn vật học, thân thể con người là một „cỗ máy“ với hình hài cấu trúc rất tinh vi có một không hai, và mỗi thân thể con người là một bản chính riêng biệt, không có bản phụ sao chép từ khuôn mặt, tới mầu da tóc, con mắt, dấu chỉ tay chân, những chiếc răng, tới âm thanh tiếng nói…
Về đạo đức học, thân xác con người là nơi chốn định vị thu thập cảm nghiệm về Thiên Chúa, và là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người cùng con người gặp gỡ Ngài qua những biến cố, biến chuyển thăng trầm trong đời sống.
Không có kinh nghiệm về thiên nhiên bằng con mắt thường nhìn từ bên ngoài, cũng không có cảm nghiệm tận thâm sâu trong tâm hồn.
Không có sự ngạc nhiên, niềm vui lòng phấn khởi lo âu sợ hãi trong kinh nghiệm cuộc sống hằng ngày, cũng không nảy sinh tâm tình cảm động về Thiên Chúa trong tâm hồn.
Mừng kính lễ Đức Mẹ Maria được đưa về trời cả thân xác lẫn linh hồn là lòng tin nhận về thân xác con người, một công trình thánh thiêng do Thiên Chúa tạo dựng.
Có suy tư ý kiến tiêu cực về thân xác con người. Vì cho thân xác con người là thù địch trong phương diện đạo đức. Nhưng không có thân xác làm sao một người có thể có mặt trên trái đất này được?
Thân xác con người có là do Thiên Chúa tạo thành cho sinh sống trên mặt đất, và khi chết Ngài sẽ cứu độ biến đổi theo như chương trình của Ngài đã hoạch định sẵn cho mỗi người.
Đức Mẹ Maria là hình ảnh nguyên thủy khởi đầu của công trình được Thiên Chúa cứu độ. Tín điều Đức Mẹ Maria được cứu độ đưa về trời cả thân xác lẫn linh hồn là sứ điệp tin mừng cho đời sống vĩnh cửu cho con người được Thiên Chúa sinh thành tạo dựng.
3. Cây cỏ như phương dược chữa lành.
Nhiều vùng xứ đạo Công giáo bên Âu châu có tập tục từ xa xưa, vào ngày lễ mừng kính Đức mẹ Maria về trời, ngày 15.08. hằng năm, hái những cây cỏ mọc ngoài thiên nhiên bó thành từng bó đem đến thánh đường để được làm phép, rồi đem về nhà treo trong nhà hay đem đặt trên nấm mộ người thân ngoài nghĩa trang.
Tập tục này ẩn chứa không chỉ lòng đạo đức, mà còn có điều khôn ngoan nữa.
Cây cỏ trong thiên nhiên là thảo mộc do Thiên Chúa dựng nên không chỉ có khía cạnh tô điểm cho vũ trụ được tốt đẹp xanh tốt, nhưng còn là thức ăn đồ gia vị cho mọi loài có sự sống, và cây cỏ còn ẩn chứa sức chữa lành bệnh tật con người nữa.
Ngành y khoa xưa nay đã và đang nghiên cứu phân chất để tìm chế biến ra thuốc chữa trị bệnh từ cây cối trong thiên nhiên. Ngành Đông Y dùng toàn cây lá làm thuốc chữa bệnh xưa nay thịnh hành bên Á châu.
Người tín hữu Chúa Kitô mang những bó cành lá cây cỏ tới thánh đường để được làm phép thánh hóa ngày lễ mừng kính Đức Mẹ hồn xác về trời, muốn nói lên tâm tình:
-Nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Maria xin Thiên Chúa chúc lành thánh hóa những cây cỏ như linh dược cho con người được chữa lành khoẻ mạnh. Và qua đó không chỉ muốn tỏ lòng kính trọng công trình sáng tạo của Chúa, nhưng còn nói lên nơi cây cỏ thiên nhiên có ẩn chứa chất thuốc chữa lành bệnh là biểu hiệu tình yêu của Thiên Chúa với con người.
-Sự chết không có sức mạnh quyền lực gì cả trên con người; sức mạnh chữa lành cùng biến đổi của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết.
Đức Mẹ Maria cả hồn lẫn thân xác về trời không chỉ là lễ về đức tin, nhưng còn là lễ của niềm hy vọng.
Đời sống của con ngưòi ở trần gian tựa như một chiếc thuyền lênh đênh trên dòng nước với nhiều đoạn uốn khúc lên xuống khác nhau. Sau khi con thuyền đời sống trải qua hết những khúc đoạn dòng sông nước như Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nuôi dưỡng con người, đón nhận cho vào cập bến bờ bình an.
Bến bờ bình an là được cứu độ trong nước Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống.
Lễ Đức Mẹ lên trời
Ngày 01.11.1950 Đức giáo hoàng Pio thứ 12. công bố tín điều thứ tư về Đức Mẹ Maria: „Đức Mẹ Maria đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi chấm dứt cuộc sống trên trần gian, đã được đưa về trời vinh quang cả hồn lẫn thân xác“.
Người tín hữu Công giáo tin trong tâm hồn và biều lộ niềm về linh hồn cùng thân xác qua lời tuyên xưng đọc trong kinh tin kính: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau“
Vậy đâu là ý nghĩa về niềm tin linh hồn và thân xác con người được sống lại như Đức Mẹ Maria?
1.Trong dòng lịch sử đời sống
Tuy không chứng minh rõ ràng bằng con số, bằng hình ảnh, bằng mầu sắc hay đơn vị đo lường, nhưng ai cũng tin nhận mỗi con người không chỉ có thân xác hình hài với tứ chi, cùng các cơn quan như một cỗ máy tinh vi bén nhậy, chạy sống động mà không cần phải bơm nhiên liệu thêm vào.
Chất nhiên liệu đó là phần tinh anh linh thiêng không nhìn thấy được bằng con mắt thường, mà người tín hữu Công giáo gọi là linh hồn linh thiêng.
Không có linh hồn linh thiêng, thân xác trở nên thiếu vắng không sống động được. Không có thân xác, linh hồn sự sống cũng không có nơi chốn định vị. Hai phần gắn bó liên kết khăng khít với nhau làm nên toàn thể nhân vị đời sống một con người.
Khi thân xác bên ngoài con người bị làm tổn thương, đồng thời linh hồn tinh anh, toàn thể con người cũng bị tổn thương đau buồn luôn.
Và những tâm tư tình cảm cuộn trào dâng lên từ trong thâm tâm đáy linh hồn, tỏ hiện ra bên ngoài qua thân xác mầu sắc của da thịt, qua gương mặt đôi mắt, qua tiếng nói nụ cười cùng dòng nước mắt.
Khi tạo dựng con người đầu tiên, Thiên Chúa đã lấy bùn đất nặn nên thân xác hình tượng một con người. Và Ngài thổi hơi vào mũi, con người liền có sự sống. Hơi thở của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa là linh hồn của con ngưòi. ( St 2,7 ).
Ngày lễ mừng kính Đức Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn thân xác muốn nói với con người: Trước mặt Thiên Chúa, đang khi còn sống trên mặt đất chúng ta là con người với toàn thể cả thân xác cùng linh hồn, và sau khi chết được cứu độ với lịch sử đời sống mỗi người với toàn thể thân xác cùng linh hồn.
Trong ngày sau cùng chấm dứt đời sống trên trần gian toàn thể thân xác cùng linh hồn con người trở về với Thiên Chúa, nguồn đời sống, là tất cả những gì xưa kia con người đã sống trải qua tình yêu và niềm vui, đau đớn và khổ nhục. Tất cả dòng lịch sử đời sống của mỗi người tuôn chảy về trước mặt Thiên Chúa, Đấng thẩm phán biến đổi cứu độ.
2.Thân xác con người
Về khoa vạn vật học, thân thể con người là một „cỗ máy“ với hình hài cấu trúc rất tinh vi có một không hai, và mỗi thân thể con người là một bản chính riêng biệt, không có bản phụ sao chép từ khuôn mặt, tới mầu da tóc, con mắt, dấu chỉ tay chân, những chiếc răng, tới âm thanh tiếng nói…
Về đạo đức học, thân xác con người là nơi chốn định vị thu thập cảm nghiệm về Thiên Chúa, và là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người cùng con người gặp gỡ Ngài qua những biến cố, biến chuyển thăng trầm trong đời sống.
Không có kinh nghiệm về thiên nhiên bằng con mắt thường nhìn từ bên ngoài, cũng không có cảm nghiệm tận thâm sâu trong tâm hồn.
Không có sự ngạc nhiên, niềm vui lòng phấn khởi lo âu sợ hãi trong kinh nghiệm cuộc sống hằng ngày, cũng không nảy sinh tâm tình cảm động về Thiên Chúa trong tâm hồn.
Mừng kính lễ Đức Mẹ Maria được đưa về trời cả thân xác lẫn linh hồn là lòng tin nhận về thân xác con người, một công trình thánh thiêng do Thiên Chúa tạo dựng.
Có suy tư ý kiến tiêu cực về thân xác con người. Vì cho thân xác con người là thù địch trong phương diện đạo đức. Nhưng không có thân xác làm sao một người có thể có mặt trên trái đất này được?
Thân xác con người có là do Thiên Chúa tạo thành cho sinh sống trên mặt đất, và khi chết Ngài sẽ cứu độ biến đổi theo như chương trình của Ngài đã hoạch định sẵn cho mỗi người.
Đức Mẹ Maria là hình ảnh nguyên thủy khởi đầu của công trình được Thiên Chúa cứu độ. Tín điều Đức Mẹ Maria được cứu độ đưa về trời cả thân xác lẫn linh hồn là sứ điệp tin mừng cho đời sống vĩnh cửu cho con người được Thiên Chúa sinh thành tạo dựng.
3. Cây cỏ như phương dược chữa lành.
Nhiều vùng xứ đạo Công giáo bên Âu châu có tập tục từ xa xưa, vào ngày lễ mừng kính Đức mẹ Maria về trời, ngày 15.08. hằng năm, hái những cây cỏ mọc ngoài thiên nhiên bó thành từng bó đem đến thánh đường để được làm phép, rồi đem về nhà treo trong nhà hay đem đặt trên nấm mộ người thân ngoài nghĩa trang.
Tập tục này ẩn chứa không chỉ lòng đạo đức, mà còn có điều khôn ngoan nữa.
Cây cỏ trong thiên nhiên là thảo mộc do Thiên Chúa dựng nên không chỉ có khía cạnh tô điểm cho vũ trụ được tốt đẹp xanh tốt, nhưng còn là thức ăn đồ gia vị cho mọi loài có sự sống, và cây cỏ còn ẩn chứa sức chữa lành bệnh tật con người nữa.
Ngành y khoa xưa nay đã và đang nghiên cứu phân chất để tìm chế biến ra thuốc chữa trị bệnh từ cây cối trong thiên nhiên. Ngành Đông Y dùng toàn cây lá làm thuốc chữa bệnh xưa nay thịnh hành bên Á châu.
Người tín hữu Chúa Kitô mang những bó cành lá cây cỏ tới thánh đường để được làm phép thánh hóa ngày lễ mừng kính Đức Mẹ hồn xác về trời, muốn nói lên tâm tình:
-Nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Maria xin Thiên Chúa chúc lành thánh hóa những cây cỏ như linh dược cho con người được chữa lành khoẻ mạnh. Và qua đó không chỉ muốn tỏ lòng kính trọng công trình sáng tạo của Chúa, nhưng còn nói lên nơi cây cỏ thiên nhiên có ẩn chứa chất thuốc chữa lành bệnh là biểu hiệu tình yêu của Thiên Chúa với con người.
-Sự chết không có sức mạnh quyền lực gì cả trên con người; sức mạnh chữa lành cùng biến đổi của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết.
Đức Mẹ Maria cả hồn lẫn thân xác về trời không chỉ là lễ về đức tin, nhưng còn là lễ của niềm hy vọng.
Đời sống của con ngưòi ở trần gian tựa như một chiếc thuyền lênh đênh trên dòng nước với nhiều đoạn uốn khúc lên xuống khác nhau. Sau khi con thuyền đời sống trải qua hết những khúc đoạn dòng sông nước như Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nuôi dưỡng con người, đón nhận cho vào cập bến bờ bình an.
Bến bờ bình an là được cứu độ trong nước Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống.
Lễ Đức Mẹ lên trời
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:22 12/08/2010
SỬ XANH
Thời cổ đại chưa có giấy, sử sách đều viết trên thanh trúc gọi là thẻ tre.
Nhưng vì mặt chính của trúc là màu xanh lục rất trơn nên nét chữ khó mà giữa được lâu, cho nên cách chế tạo thẻ tre là trước hết chặt trúc ra gọt thành từng tấm, sau đó dùng lửa hơ nóng để cho nước trong thẻ tre rỉ ra và khô ráo, một mặt là để tránh bị mục nát và mối mọt ăn khi để lâu ngày, mặt khác là có thể làm cho chữ trên thẻ tre giữ được rõ ràng.
Bởi vì khi hơ lửa thì màu xanh da trúc bị chảy nước, giống như con người hoặc động vật chảy mồ hôi vậy, cho nên người ta gọi sử sách hoặc thư tịch là thanh hãn (mồ hôi xanh) hoặc là thẻ hãn (thẻ mồ hôi) (“hãn汗” ở đây dùng làm động từ, ý nghĩa là trừ khử nước), mà những sách (thẻ) về lịch sử thì gọi là “sử xanh” vậy.
(Tống, Văn thiên Tường)
Suy tư:
Thời xa xưa trước Chúa giáng sinh, khi chưa có giấy thì người ta viết Thánh Kinh trên những tấm da dê; người Trung Quốc viết chữ trên những tấm thẻ tre khô.v.v...để lưu truyền lại cho hậu thế những công trình văn hóa hoặc khoa học, hoặc tôn giáo tín ngưỡng. Khi giấy được phát minh, thì người ta dùng giấy để truyền đạt ý tưởng, lịch sử, công trình, luận án, đề án.v.v...lại cho hậu thế.
Thời nay –thế kỷ 21- thống kê ở nước Mỹ cho thấy, người ta đọc tin tức văn học khoa học trên mạng lưới internet nhiều hơn là đọc những tờ báo viết trên giấy.
Thời nay, người ta ít gọi là sử xanh, nhưng tất cả các tài liệu về lịch sử đều được cho vào máy điện toán, và nếu ai biết sử dụng máy điện toán, thì cũng đều có thể đọc và học được lịch sử trên máy mà không cần vào các thư viện tìm tòi mất thời gian.
Giáo Hội mời gọi con cái mình sử dụng phương tiện truyền thông hiện đại để truyền giáo, đó là lời mời gọi phù hợp với sự đổi thay của thế giới, và là dấu chỉ cho thấy người Ki-tô hữu không phải đứng bên ngoài cuộc sống đi tới của xã hội, nhưng là men và muối trong thế giới ngày nay...
Có một vài linh mục coi thường internet và cho rằng mất thời gian, nên không biết gì bên ngoài xã hội và thế giới, ngoại trừ giáo xứ của mình; có vài linh mục lạc hậu hơn không biết cách sử dụng internet, khi được hỏi thì các ngài trả lời vì “quá bận” đi đây đi đó làm việc mục vụ; có một vài linh mục nói rằng mình không có tiền mua máy computer, nhưng các ngài thay đổi xe lên đời xe hơn những thanh niên ngoài đời.v.v...
Các cha sở hãy coi chừng, khi trình độ giáo dân ngày càng cao trong các lĩnh vực, thì đức tin của họ cũng có hai đường đi: một là thờ ơ với nhà thờ, hai là càng yêu mến Chúa hơn.
Nhưng cha sở chính là động lực lôi kéo họ đến với Chúa và cũng là nguyên nhân để họ thờ ơ với nhà thờ và xa Chúa. Tại sao vậy ? Thưa, vì cha sở không biết làm gì cả ngoài việc làm lễ và nhận bỗng lễ (lời tâm sự của một nam giáo dân trẻ).
Nếu cha sở biết sử dụng máy điện toán, thì chắc chắn ngài sẽ tìm được rất nhiều điều hữu ích trên máy để dạy dỗ giáo dân, để quản trị giáo xứ, để cập nhật hiểu biết tình hình Giáo Hội và thế giới, để mở mang kiến thức cho mình...
Mong thay.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Thời cổ đại chưa có giấy, sử sách đều viết trên thanh trúc gọi là thẻ tre.
Nhưng vì mặt chính của trúc là màu xanh lục rất trơn nên nét chữ khó mà giữa được lâu, cho nên cách chế tạo thẻ tre là trước hết chặt trúc ra gọt thành từng tấm, sau đó dùng lửa hơ nóng để cho nước trong thẻ tre rỉ ra và khô ráo, một mặt là để tránh bị mục nát và mối mọt ăn khi để lâu ngày, mặt khác là có thể làm cho chữ trên thẻ tre giữ được rõ ràng.
Bởi vì khi hơ lửa thì màu xanh da trúc bị chảy nước, giống như con người hoặc động vật chảy mồ hôi vậy, cho nên người ta gọi sử sách hoặc thư tịch là thanh hãn (mồ hôi xanh) hoặc là thẻ hãn (thẻ mồ hôi) (“hãn汗” ở đây dùng làm động từ, ý nghĩa là trừ khử nước), mà những sách (thẻ) về lịch sử thì gọi là “sử xanh” vậy.
(Tống, Văn thiên Tường)
Suy tư:
Thời xa xưa trước Chúa giáng sinh, khi chưa có giấy thì người ta viết Thánh Kinh trên những tấm da dê; người Trung Quốc viết chữ trên những tấm thẻ tre khô.v.v...để lưu truyền lại cho hậu thế những công trình văn hóa hoặc khoa học, hoặc tôn giáo tín ngưỡng. Khi giấy được phát minh, thì người ta dùng giấy để truyền đạt ý tưởng, lịch sử, công trình, luận án, đề án.v.v...lại cho hậu thế.
Thời nay –thế kỷ 21- thống kê ở nước Mỹ cho thấy, người ta đọc tin tức văn học khoa học trên mạng lưới internet nhiều hơn là đọc những tờ báo viết trên giấy.
Thời nay, người ta ít gọi là sử xanh, nhưng tất cả các tài liệu về lịch sử đều được cho vào máy điện toán, và nếu ai biết sử dụng máy điện toán, thì cũng đều có thể đọc và học được lịch sử trên máy mà không cần vào các thư viện tìm tòi mất thời gian.
Giáo Hội mời gọi con cái mình sử dụng phương tiện truyền thông hiện đại để truyền giáo, đó là lời mời gọi phù hợp với sự đổi thay của thế giới, và là dấu chỉ cho thấy người Ki-tô hữu không phải đứng bên ngoài cuộc sống đi tới của xã hội, nhưng là men và muối trong thế giới ngày nay...
Có một vài linh mục coi thường internet và cho rằng mất thời gian, nên không biết gì bên ngoài xã hội và thế giới, ngoại trừ giáo xứ của mình; có vài linh mục lạc hậu hơn không biết cách sử dụng internet, khi được hỏi thì các ngài trả lời vì “quá bận” đi đây đi đó làm việc mục vụ; có một vài linh mục nói rằng mình không có tiền mua máy computer, nhưng các ngài thay đổi xe lên đời xe hơn những thanh niên ngoài đời.v.v...
Các cha sở hãy coi chừng, khi trình độ giáo dân ngày càng cao trong các lĩnh vực, thì đức tin của họ cũng có hai đường đi: một là thờ ơ với nhà thờ, hai là càng yêu mến Chúa hơn.
Nhưng cha sở chính là động lực lôi kéo họ đến với Chúa và cũng là nguyên nhân để họ thờ ơ với nhà thờ và xa Chúa. Tại sao vậy ? Thưa, vì cha sở không biết làm gì cả ngoài việc làm lễ và nhận bỗng lễ (lời tâm sự của một nam giáo dân trẻ).
Nếu cha sở biết sử dụng máy điện toán, thì chắc chắn ngài sẽ tìm được rất nhiều điều hữu ích trên máy để dạy dỗ giáo dân, để quản trị giáo xứ, để cập nhật hiểu biết tình hình Giáo Hội và thế giới, để mở mang kiến thức cho mình...
Mong thay.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:23 12/08/2010
N2T |
7. Nếu yêu mến Thiên Chúa mà không chấp nhận đau khổ, thì biết rằng đó là xa lánh Thiên Chúa.
(Thánh Vincent de Paul)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:25 12/08/2010
N2T |
499. Đứng trước chọn lựa quyết định lớn lao, thì bình tĩnh là một cố vấn tốt nhất.
Chúng ta đang chờ Mẹ bảo lãnh
Gioan Lê Quang Vinh
21:26 12/08/2010
Năm đó chúng tôi không còn được tiếp tục học, nên phải chọn nghề đi làm về góp tiền để sống chung với nhau. Tôi chọn nghề đi làm chìa sửa khoá ở lề đường. Buổi trưa, mấy anh bạn làm nghề đạp xích lô, đẩy xe ba gác và tôi vào sân nhà thờ chính toà Đà nẵng ngồi ăn trưa và nghỉ ngơi mấy phút.
Hôm ấy có mấy người khác cũng vào sân nhà thờ, và họ tò mò đứng đọc bảng thông báo, giờ lễ ở cửa nhà thờ. Bỗng một ông trung niên, không có đạo, chỉ cho bạn mình lịch Lễ trong tuần: 15 tháng 8 Lễ trọng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Ông nói: linh hồn lên Trời thì hiểu được, sao xác lại có thể lên Trời? Rồi cả hai im lặng ra chiều suy nghĩ.
Sau này tôi không gặp lại những người đó bao giờ nữa, nhưng câu hỏi ấy tôi vẫn nhớ, và tôi tin rằng Mẹ sẽ có cách dạy bảo cho những người con thiện chí về những mầu nhiệm thiên linh.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đừng nói đến người ngoại giáo, ngay cả anh em Tin Lành cũng không chấp nhận chân lý này được. Thỉnh thoảng tôi đọc các trang web của anh em Tin Lành, thấy họ có vẻ rất bực bội trước những hồng ân Chúa ban cho Mẹ của Người.
Vài năm trước, cha Nguyễn Thanh Sơn ở Đà nẵng gọi điện thoại vào nhờ tôi giúp giáo lý cho Oliver Chapman, một giáo viên người Anh đang sinh sống tại Sàigòn. Oliver theo Anh giáo, và lúc đó muốn trở lại Công giáo. Giáo lý Anh giáo và Công giáo không khác nhau nhiều, nên anh chấp nhận mọi vấn đề một cách dễ dàng. Nhưng khi chúng tôi thảo luận về Đức Maria thì anh có vẻ rất thắc mắc.
Anh hỏi, như tất cả tín đồ các tôn giáo khác tin Chúa Giêsu: “Sao chúng ta phải tôn kính Bà Mary? Bà chỉ là mẹ sinh ra Chúa Giêsu ở trần gian”. Tôi giải thích cho anh, và đúng lúc đó anh nhận được thư và hình ảnh của mẹ anh từ quê nhà gửi sang. Anh khoe với tôi hình mẹ anh, và anh có vẻ nhớ nhà nhiều lắm. Tôi nói nhỏ: “Oliver này, tôi mến anh, như vậy tôi cũng mến mẹ anh nữa”. Oliver nhìn tôi, gật gù: “Đúng rồi, mình mến ai thì cũng mến người đã sinh ra người ấy”. Tin Mẹ Hồn Xác Lên Trời vì yêu mến và để yêu mến Đấng Cứu Thế hơn.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu của tôi là những buổi tối cùng với mọi người trong xứ đạo họp nhau lần lượt ở từng nhà để đọc kinh kính Mẹ vào tháng Hoa hay tháng Mân côi. Tiếng hát “Mẹ ơi, bao người lạc bước lưu đày…” trong những giờ kinh ấy đến tận bây giờ vẫn còn vang lên dịu dàng trong tâm hồn tôi. Phận người lưu đày còn gì diễm phúc hơn khi biết mình có một người Mẹ vẫn chờ đợi ở quê nhà.
Thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên Trời” (Phil. 3,20). Quê hương chúng ta có một người Cha nhân hậu vẫn chờ đợi chúng ta từng giây phút, và ngày Ngài đến phán xét, chúng ta sẽ run sợ biết bao trước sự công minh vô cùng của Ngài. Nhưng may mắn, chúng ta còn có một người Mẹ vẫn ở quê nhà chờ đón.
Giáo Hội không dạy, nhưng tôi vẫn tin rằng trong ngày phán xét chí thánh ấy, Mẹ hiền của chúng ta sẽ đến ngự bên Con của Mẹ, vị Thẩm Phán rất mực công minh và đầy yêu thương. Tin Mẹ Hồn Xác Lên Trời để vững tâm chờ ngày hồng phúc.
Biến cố 1975 dạy chúng ta nhiều bài học. Những bài học về việc tin tưởng để rồi bị lừa lọc. Những bài học về việc chạy theo một ảo ảnh và thấy mình cũng biến tan. Nhưng một bài học khác, cũng tuyệt vời, ấy là sự đợi chờ một viễn cảnh tuy xa mà rất gần gũi. Những người có thân nhân ở hải ngoại chờ được bảo lãnh. Những người ở phương Bắc có người thân vào Nam làm ăn, chuẩn bị nhà cửa để đón họ vào. Trong những người bảo lãnh ta ấy, nếu có mẹ ta thì mọi chuyện sẽ vô cùng nhanh chóng, vì mẹ muôn đời là mẹ. Chúa Giêsu về Trời, chắc chắn với uy quyền và lòng hiếu thảo, Người bảo lãnh Mẹ Người nhanh chóng. Và bây giờ đến lượt Mẹ, Mẹ đang bảo lãnh cho đoàn con. Và nếu hiểu một cách đơn sơ như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời mà không cần phải tìm bằng chứng sâu xa như các nhà thần học, và cũng không thắc mắc như những người chưa tin vào mầu nhiệm này.
Nhưng Mẹ không ở một nơi trên Trời để chỉ nghe con cái mà thôi. Mẹ hiện diện giữa đoàn con và Mẹ trực tiếp đưa tay nâng đỡ trong mọi tình huống. Giáo Hội dạy chúng ta về lòng sùng kính Mẹ "Các tín hữu hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta" (GH. Số 67).
Khi đọc lời răn dạy này, người ta thường né tránh những việc làm mang tính tình cảm, việc cầu nguyện với Mẹ lâu giờ, và nhất là người ta thường né tránh những hiện tượng lạ được một số người cho là Mẹ thực hiện ở trần gian. Nhưng Giáo Hội không cấm chúng ta sống tình cảm với Mẹ, Giáo Hội chỉ nhấn mạnh việc noi gương Mẹ để sống xứng phận làm con Chúa.
Nếu tình cảm chúng ta chân thật và dẫn đến việc sống lời Mẹ dạy, thì quả là điều tốt đẹp. Tình cảm mẹ con vẫn là tình cảm thiêng liêng nhất, và người ngoài cuộc không thể hiểu được bí mật giữa mẹ - con. Và nếu Mẹ làm phép lạ giữa đời sống thường nhật của con cái Mẹ, và nhờ những phép lạ này mà con cái Mẹ hoán cải cuộc sống, thì cũng là việc của tình mẹ con.
Mấy năm trước, khi nghe sự lạ “Đức Mẹ khóc” xảy ra nơi tượng Mẹ Hòa Bình trước nhà thờ Đức Bà Sàigòn, người ta phản ứng theo những cách thức trái ngược nhau. Nhiều người tin chắc chắn đó là phép lạ, không cần kiểm chứng. Một số người thì bán tin bán nghi, nhưng cũng nhất định chạy đến coi “sự thể ra làm sao”. Nhiều người khác thì không quan tâm chút nào đến những sự kiện lạ thường. Và đặc biệt là có một số người la toáng lên, mỉa mai niềm tin của những người Công giáo mà họ cho là ngây thơ, và lợi dụng dịp này để công kích Giáo Hội, công kích cả đến Giáo Hội bên trời Tây, nơi mà có lẽ người ta chưa kịp nghe về hiện tượng này.
Cả người trí thức cũng nhận định hiện tượng này một cách võ đoán. Lạ nữa là có hai ông linh mục quốc doanh leo lên TV tuyên bố y như hai ông là giáo hoàng của Giáo hội Việt nam kiêm luôn chức công an khu vực, bảo thiên hạ đừng tin. Có người trách hai ông linh mục ấy nặng lời, nhưng tôi chẳng trách mất công. Dễ gì được leo lên TV, đúng không nào? Bây giờ may ra người ta chỉ nhớ hai bản mặt già nua được quay cận cảnh, vậy là oai rồi, chứ đố ai nhớ hai ông nói gì. Mà cũng chả chắc hai ông có muốn nhớ không.
Sau đó mấy ngày, có một giảng viên đứng tuổi ở Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Sư phạm Sàigòn nói với các giảng viên khác “Làm sao một bức tượng bằng xi-măng có thể chảy nước mắt được?”. Nghe câu đó, tôi chỉ nói “có nhiều cách phê phán một sự kiện, nhưng nếu phê phán thì các thầy nên chọn cách nói sao cho người nghe có cảm tưởng là mình hiểu biết nhiều khía cạnh của vấn đề”.
Khi người ta nói đến việc Mẹ hiển linh ở Bạch Lâm, người thì tin tuyệt đối, người thì hững hờ hoặc trách móc dư luận. Nhưng tôi thì nghĩ đơn giản: ấy là việc của tình mẹ con. Hình ảnh hay cảnh phim cũng không chứng minh được gì. Có ai dùng hình ảnh chứng minh cho tình Mẹ bao giờ? Kinh Thánh với giá trị tuyệt đối mà vẫn chưa chứng minh được cho toàn thế giới về tình yêu của Đấng Tạo Hoá, huống chi chỉ là những mẩu vật chứng nho nhỏ. Tình yêu không hệ tại ở việc Mẹ hiển linh hay không, cũng chẳng liên quan gì đến phim ảnh. Nhưng (phải có chữ nhưng ở đây), phim ảnh cũng là điều để người ta nhìn và ngẫm nghĩ.?
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chúng ta nghĩ Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc, chúng ta quỳ ở xa xa chiêm ngắm và ca ngợi Mẹ. Tuyệt vời. Chúng ta biết Mẹ là Nữ Vương Hoà bình. Chúng ta đến với Mẹ và cảm được sự bình an. Tuyệt vời. Chúng ta biết Mẹ Hồn Xác Lên Trời, và Mẹ vẫn đi đi về về giữa Thiên Quốc, trần gian để che chở đoàn con, như Mẹ đã thực hiện qua muôn thế hệ, vì Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp. Và chúng ta thỏ thẻ với Mẹ mình. Không tuyệt vời hơn sao?
Mẹ ơi, năm tháng qua đi, kế hoạch cứu rỗi nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn chưa hoàn tất ở trần gian nhiều trắc trở này. Nhưng có một điểm trong kế hoạch ấy đã hoàn tất mỹ mãn, ấy là việc Chúa ban cho nhân loại chúng con một người Mẹ. Dưới chân Thập giá, Chúa Giêsu trối Mẹ cho Thánh Gioan, và cũng là trối Mẹ làm Mẹ loài người chúng con. Nhưng chúng con nghĩ thêm một chút. Trong Thánh Ý mầu nhiệm của Thiên Chúa, Mẹ đã là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại từ muôn đời. Chúa Giêsu không trối lại, mà Người công bố mầu nhiệm ấy. Chúng con hạnh phúc quá, Mẹ ơi. Xin cho chúng con yêu mến Mẹ và nhất là bắt chước nhân đức của Mẹ hoài, để yêu mến Chúa thật sự như Mẹ mong muốn.
Hôm ấy có mấy người khác cũng vào sân nhà thờ, và họ tò mò đứng đọc bảng thông báo, giờ lễ ở cửa nhà thờ. Bỗng một ông trung niên, không có đạo, chỉ cho bạn mình lịch Lễ trong tuần: 15 tháng 8 Lễ trọng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Ông nói: linh hồn lên Trời thì hiểu được, sao xác lại có thể lên Trời? Rồi cả hai im lặng ra chiều suy nghĩ.
Sau này tôi không gặp lại những người đó bao giờ nữa, nhưng câu hỏi ấy tôi vẫn nhớ, và tôi tin rằng Mẹ sẽ có cách dạy bảo cho những người con thiện chí về những mầu nhiệm thiên linh.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đừng nói đến người ngoại giáo, ngay cả anh em Tin Lành cũng không chấp nhận chân lý này được. Thỉnh thoảng tôi đọc các trang web của anh em Tin Lành, thấy họ có vẻ rất bực bội trước những hồng ân Chúa ban cho Mẹ của Người.
Vài năm trước, cha Nguyễn Thanh Sơn ở Đà nẵng gọi điện thoại vào nhờ tôi giúp giáo lý cho Oliver Chapman, một giáo viên người Anh đang sinh sống tại Sàigòn. Oliver theo Anh giáo, và lúc đó muốn trở lại Công giáo. Giáo lý Anh giáo và Công giáo không khác nhau nhiều, nên anh chấp nhận mọi vấn đề một cách dễ dàng. Nhưng khi chúng tôi thảo luận về Đức Maria thì anh có vẻ rất thắc mắc.
Anh hỏi, như tất cả tín đồ các tôn giáo khác tin Chúa Giêsu: “Sao chúng ta phải tôn kính Bà Mary? Bà chỉ là mẹ sinh ra Chúa Giêsu ở trần gian”. Tôi giải thích cho anh, và đúng lúc đó anh nhận được thư và hình ảnh của mẹ anh từ quê nhà gửi sang. Anh khoe với tôi hình mẹ anh, và anh có vẻ nhớ nhà nhiều lắm. Tôi nói nhỏ: “Oliver này, tôi mến anh, như vậy tôi cũng mến mẹ anh nữa”. Oliver nhìn tôi, gật gù: “Đúng rồi, mình mến ai thì cũng mến người đã sinh ra người ấy”. Tin Mẹ Hồn Xác Lên Trời vì yêu mến và để yêu mến Đấng Cứu Thế hơn.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu của tôi là những buổi tối cùng với mọi người trong xứ đạo họp nhau lần lượt ở từng nhà để đọc kinh kính Mẹ vào tháng Hoa hay tháng Mân côi. Tiếng hát “Mẹ ơi, bao người lạc bước lưu đày…” trong những giờ kinh ấy đến tận bây giờ vẫn còn vang lên dịu dàng trong tâm hồn tôi. Phận người lưu đày còn gì diễm phúc hơn khi biết mình có một người Mẹ vẫn chờ đợi ở quê nhà.
Thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên Trời” (Phil. 3,20). Quê hương chúng ta có một người Cha nhân hậu vẫn chờ đợi chúng ta từng giây phút, và ngày Ngài đến phán xét, chúng ta sẽ run sợ biết bao trước sự công minh vô cùng của Ngài. Nhưng may mắn, chúng ta còn có một người Mẹ vẫn ở quê nhà chờ đón.
Giáo Hội không dạy, nhưng tôi vẫn tin rằng trong ngày phán xét chí thánh ấy, Mẹ hiền của chúng ta sẽ đến ngự bên Con của Mẹ, vị Thẩm Phán rất mực công minh và đầy yêu thương. Tin Mẹ Hồn Xác Lên Trời để vững tâm chờ ngày hồng phúc.
Biến cố 1975 dạy chúng ta nhiều bài học. Những bài học về việc tin tưởng để rồi bị lừa lọc. Những bài học về việc chạy theo một ảo ảnh và thấy mình cũng biến tan. Nhưng một bài học khác, cũng tuyệt vời, ấy là sự đợi chờ một viễn cảnh tuy xa mà rất gần gũi. Những người có thân nhân ở hải ngoại chờ được bảo lãnh. Những người ở phương Bắc có người thân vào Nam làm ăn, chuẩn bị nhà cửa để đón họ vào. Trong những người bảo lãnh ta ấy, nếu có mẹ ta thì mọi chuyện sẽ vô cùng nhanh chóng, vì mẹ muôn đời là mẹ. Chúa Giêsu về Trời, chắc chắn với uy quyền và lòng hiếu thảo, Người bảo lãnh Mẹ Người nhanh chóng. Và bây giờ đến lượt Mẹ, Mẹ đang bảo lãnh cho đoàn con. Và nếu hiểu một cách đơn sơ như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời mà không cần phải tìm bằng chứng sâu xa như các nhà thần học, và cũng không thắc mắc như những người chưa tin vào mầu nhiệm này.
Nhưng Mẹ không ở một nơi trên Trời để chỉ nghe con cái mà thôi. Mẹ hiện diện giữa đoàn con và Mẹ trực tiếp đưa tay nâng đỡ trong mọi tình huống. Giáo Hội dạy chúng ta về lòng sùng kính Mẹ "Các tín hữu hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta" (GH. Số 67).
Khi đọc lời răn dạy này, người ta thường né tránh những việc làm mang tính tình cảm, việc cầu nguyện với Mẹ lâu giờ, và nhất là người ta thường né tránh những hiện tượng lạ được một số người cho là Mẹ thực hiện ở trần gian. Nhưng Giáo Hội không cấm chúng ta sống tình cảm với Mẹ, Giáo Hội chỉ nhấn mạnh việc noi gương Mẹ để sống xứng phận làm con Chúa.
Nếu tình cảm chúng ta chân thật và dẫn đến việc sống lời Mẹ dạy, thì quả là điều tốt đẹp. Tình cảm mẹ con vẫn là tình cảm thiêng liêng nhất, và người ngoài cuộc không thể hiểu được bí mật giữa mẹ - con. Và nếu Mẹ làm phép lạ giữa đời sống thường nhật của con cái Mẹ, và nhờ những phép lạ này mà con cái Mẹ hoán cải cuộc sống, thì cũng là việc của tình mẹ con.
Mấy năm trước, khi nghe sự lạ “Đức Mẹ khóc” xảy ra nơi tượng Mẹ Hòa Bình trước nhà thờ Đức Bà Sàigòn, người ta phản ứng theo những cách thức trái ngược nhau. Nhiều người tin chắc chắn đó là phép lạ, không cần kiểm chứng. Một số người thì bán tin bán nghi, nhưng cũng nhất định chạy đến coi “sự thể ra làm sao”. Nhiều người khác thì không quan tâm chút nào đến những sự kiện lạ thường. Và đặc biệt là có một số người la toáng lên, mỉa mai niềm tin của những người Công giáo mà họ cho là ngây thơ, và lợi dụng dịp này để công kích Giáo Hội, công kích cả đến Giáo Hội bên trời Tây, nơi mà có lẽ người ta chưa kịp nghe về hiện tượng này.
Cả người trí thức cũng nhận định hiện tượng này một cách võ đoán. Lạ nữa là có hai ông linh mục quốc doanh leo lên TV tuyên bố y như hai ông là giáo hoàng của Giáo hội Việt nam kiêm luôn chức công an khu vực, bảo thiên hạ đừng tin. Có người trách hai ông linh mục ấy nặng lời, nhưng tôi chẳng trách mất công. Dễ gì được leo lên TV, đúng không nào? Bây giờ may ra người ta chỉ nhớ hai bản mặt già nua được quay cận cảnh, vậy là oai rồi, chứ đố ai nhớ hai ông nói gì. Mà cũng chả chắc hai ông có muốn nhớ không.
Sau đó mấy ngày, có một giảng viên đứng tuổi ở Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Sư phạm Sàigòn nói với các giảng viên khác “Làm sao một bức tượng bằng xi-măng có thể chảy nước mắt được?”. Nghe câu đó, tôi chỉ nói “có nhiều cách phê phán một sự kiện, nhưng nếu phê phán thì các thầy nên chọn cách nói sao cho người nghe có cảm tưởng là mình hiểu biết nhiều khía cạnh của vấn đề”.
Khi người ta nói đến việc Mẹ hiển linh ở Bạch Lâm, người thì tin tuyệt đối, người thì hững hờ hoặc trách móc dư luận. Nhưng tôi thì nghĩ đơn giản: ấy là việc của tình mẹ con. Hình ảnh hay cảnh phim cũng không chứng minh được gì. Có ai dùng hình ảnh chứng minh cho tình Mẹ bao giờ? Kinh Thánh với giá trị tuyệt đối mà vẫn chưa chứng minh được cho toàn thế giới về tình yêu của Đấng Tạo Hoá, huống chi chỉ là những mẩu vật chứng nho nhỏ. Tình yêu không hệ tại ở việc Mẹ hiển linh hay không, cũng chẳng liên quan gì đến phim ảnh. Nhưng (phải có chữ nhưng ở đây), phim ảnh cũng là điều để người ta nhìn và ngẫm nghĩ.?
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chúng ta nghĩ Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc, chúng ta quỳ ở xa xa chiêm ngắm và ca ngợi Mẹ. Tuyệt vời. Chúng ta biết Mẹ là Nữ Vương Hoà bình. Chúng ta đến với Mẹ và cảm được sự bình an. Tuyệt vời. Chúng ta biết Mẹ Hồn Xác Lên Trời, và Mẹ vẫn đi đi về về giữa Thiên Quốc, trần gian để che chở đoàn con, như Mẹ đã thực hiện qua muôn thế hệ, vì Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp. Và chúng ta thỏ thẻ với Mẹ mình. Không tuyệt vời hơn sao?
Mẹ ơi, năm tháng qua đi, kế hoạch cứu rỗi nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn chưa hoàn tất ở trần gian nhiều trắc trở này. Nhưng có một điểm trong kế hoạch ấy đã hoàn tất mỹ mãn, ấy là việc Chúa ban cho nhân loại chúng con một người Mẹ. Dưới chân Thập giá, Chúa Giêsu trối Mẹ cho Thánh Gioan, và cũng là trối Mẹ làm Mẹ loài người chúng con. Nhưng chúng con nghĩ thêm một chút. Trong Thánh Ý mầu nhiệm của Thiên Chúa, Mẹ đã là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại từ muôn đời. Chúa Giêsu không trối lại, mà Người công bố mầu nhiệm ấy. Chúng con hạnh phúc quá, Mẹ ơi. Xin cho chúng con yêu mến Mẹ và nhất là bắt chước nhân đức của Mẹ hoài, để yêu mến Chúa thật sự như Mẹ mong muốn.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC: Người luôn cầu nguyện thì không bao giờ cô đơn
Pt Huỳnh Mai Trác
03:32 12/08/2010
Khi giải thích về đoạn Phúc Âm nói về việc các môn đệ xin Chúa dạy cho họ cầu nguyện, ĐTC chỉ ra nhận xét là Chúa Giêsu không đưa một công thức kỳ lạ hoặc khó hiểu bí nhiệm, nhưng trả lời họ rất đơn sơ và dạy cho họ Kinh Lạy Cha.. .
Anh Chị Em thân mến,
Bài Phúc Âm chủ nhật hôm nay trình bày Chúa Giêsu trầm tư cầu nguyện, hơi cách xa các môn đệ. Khi Chúa vừa cầu nguyện xong, một người trong các môn đệ lên tiếng: “Lạy Chúa xin dạy cho chúng con cầu nguyện (Lc 11,1). Chúa không từ chối, Chúa không đưa ra những công thức kỳ lạ hay bí nhiệm nhưng rất là đơn sơ, Chúa nói: Khi các ngươi cầu nguyện thì nói.. . ” và dạy cho họ đọc kinh Lạy Cha (Lc11,2-4) rút ra từ chính lời cầu nguyện của Chúa, khi Chúa cầu cùng Thiên Chúa, Đức Chúa Cha.
Thánh Luca truyền đến cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” ngắn gọn hơn trong Phúc Âm của thánh Matthêu mà chúng ta đọc ngày nay. Đó là những kinh đầu tiên từ Kinh Thánh mà chúng ta học từ thuở còn nhỏ. Những lời kinh đó nằm trong ký ức của chúng ta, vun đắp đời sống chúng ta và theo sát chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng. Những lời kinh đó cho chúng ta biết chúng ta chưa hoàn toàn là con cái của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải trở thành hoàn hảo hơn nhờ vào sự thông công sâu xa vớí Chúa Giêsu. Trở thành con Chúa có nghĩa là đi theo Chúa Kitô.
Bài kinh này đón nhận và bày tỏ những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người: “ Xin cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin tha tội cho chúng con. Và lẽ đương nhiên vì những nhu cầu và những khó khăn hằng ngáy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: Và Thầy, thầy bảo các ngươi: “Thế nên, Thầy bảo anh em, anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gỏ cửa thì mở cho. Vì hể ai xin thì nhận được, ai tim thì thấy, gỏ cửa thì mở cho.”
Không phải xin để thỏa mãn lòng ước muon của mình nhưng là để có mối liên lạc mật thiết với Thiên Chúa như được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh là “Chúa ban thánh thần cho ai cầu xin. Các thánh tổ phụ xưa ở trong sa mạc có kinh ngiệm là luôn luôn suy niệm. Và qua lời cầu nguyện họ trở thành những người bạn của Thiên Chúa, như Abraham cầu khẩn Chúa tha cho những người công chính khi Thiên Chúa hủy diệt thành Sodome.
“Thánh Terêxa Avila mời gọi hai nữ tu cùng cầu nguyện: “ Chúng ta phải cầu xin Chúa luôn luôn giải thoát chúng ta khỏi mọi sự hiểm nghèo và luônche chở chúng ta tránh mọi sự dữ, Và nếu như ước muốn của chúng ta không hoàn hảo, chúng ta cũng đừng cố chấp về lời cầu xin của chúng ta. Chúng ta phải trả giá như thế nào khi chúng ta đòi hỏi quá nhiều nơi Đấng Toàn Năng?”
Mỗi lần khi chúng ta đoc kinh Lạy Cha, lời kinh của chúng ta hiệp cùng lời kinh của Hội Thánh bởi vì kẻ nào cầu nguyện thi không lẻ loi, cô đơn. Moị người tín hữu phải tìm kiếm và sẽ tìm thấy sự thật về sự phong phú của sự cầu nguyện của người Kitô hữu đã được Giáo Hội truyền dạy.
Hôm nay chúng ta tôn kính thánh tông đồ Giacôbê còn được gọi là “thánh Cả”, ngài đả từ bỏ cha mình và công việc đánh cá để đi theo Chúa Giêsu như là người tông đồ đầu tiên và đã hy sinh mạng sống vì Chúa.
Tôi đưa ra một ý tưởng đặc biệt phát xuất từ trong tâm can và chuyển đến những người hành hương đến từ Saint Jacques de Compostelle! Xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ chúng ta khám phá vẽ đẹp và ý nghĩa sâu xa về lời cầu nguyện của người Kitô hữu” (Nguôn tin VIS).
Anh Chị Em thân mến,
Bài Phúc Âm chủ nhật hôm nay trình bày Chúa Giêsu trầm tư cầu nguyện, hơi cách xa các môn đệ. Khi Chúa vừa cầu nguyện xong, một người trong các môn đệ lên tiếng: “Lạy Chúa xin dạy cho chúng con cầu nguyện (Lc 11,1). Chúa không từ chối, Chúa không đưa ra những công thức kỳ lạ hay bí nhiệm nhưng rất là đơn sơ, Chúa nói: Khi các ngươi cầu nguyện thì nói.. . ” và dạy cho họ đọc kinh Lạy Cha (Lc11,2-4) rút ra từ chính lời cầu nguyện của Chúa, khi Chúa cầu cùng Thiên Chúa, Đức Chúa Cha.
Thánh Luca truyền đến cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” ngắn gọn hơn trong Phúc Âm của thánh Matthêu mà chúng ta đọc ngày nay. Đó là những kinh đầu tiên từ Kinh Thánh mà chúng ta học từ thuở còn nhỏ. Những lời kinh đó nằm trong ký ức của chúng ta, vun đắp đời sống chúng ta và theo sát chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng. Những lời kinh đó cho chúng ta biết chúng ta chưa hoàn toàn là con cái của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải trở thành hoàn hảo hơn nhờ vào sự thông công sâu xa vớí Chúa Giêsu. Trở thành con Chúa có nghĩa là đi theo Chúa Kitô.
Bài kinh này đón nhận và bày tỏ những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người: “ Xin cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin tha tội cho chúng con. Và lẽ đương nhiên vì những nhu cầu và những khó khăn hằng ngáy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: Và Thầy, thầy bảo các ngươi: “Thế nên, Thầy bảo anh em, anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gỏ cửa thì mở cho. Vì hể ai xin thì nhận được, ai tim thì thấy, gỏ cửa thì mở cho.”
Không phải xin để thỏa mãn lòng ước muon của mình nhưng là để có mối liên lạc mật thiết với Thiên Chúa như được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh là “Chúa ban thánh thần cho ai cầu xin. Các thánh tổ phụ xưa ở trong sa mạc có kinh ngiệm là luôn luôn suy niệm. Và qua lời cầu nguyện họ trở thành những người bạn của Thiên Chúa, như Abraham cầu khẩn Chúa tha cho những người công chính khi Thiên Chúa hủy diệt thành Sodome.
“Thánh Terêxa Avila mời gọi hai nữ tu cùng cầu nguyện: “ Chúng ta phải cầu xin Chúa luôn luôn giải thoát chúng ta khỏi mọi sự hiểm nghèo và luônche chở chúng ta tránh mọi sự dữ, Và nếu như ước muốn của chúng ta không hoàn hảo, chúng ta cũng đừng cố chấp về lời cầu xin của chúng ta. Chúng ta phải trả giá như thế nào khi chúng ta đòi hỏi quá nhiều nơi Đấng Toàn Năng?”
Mỗi lần khi chúng ta đoc kinh Lạy Cha, lời kinh của chúng ta hiệp cùng lời kinh của Hội Thánh bởi vì kẻ nào cầu nguyện thi không lẻ loi, cô đơn. Moị người tín hữu phải tìm kiếm và sẽ tìm thấy sự thật về sự phong phú của sự cầu nguyện của người Kitô hữu đã được Giáo Hội truyền dạy.
Hôm nay chúng ta tôn kính thánh tông đồ Giacôbê còn được gọi là “thánh Cả”, ngài đả từ bỏ cha mình và công việc đánh cá để đi theo Chúa Giêsu như là người tông đồ đầu tiên và đã hy sinh mạng sống vì Chúa.
Tôi đưa ra một ý tưởng đặc biệt phát xuất từ trong tâm can và chuyển đến những người hành hương đến từ Saint Jacques de Compostelle! Xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ chúng ta khám phá vẽ đẹp và ý nghĩa sâu xa về lời cầu nguyện của người Kitô hữu” (Nguôn tin VIS).
Tin Giáo Hội Việt Nam
Phái Đoàn Giáo Phận Lạng Sơn chào thăm Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt tại Dòng Xitô Châu Sơn
Giáo phận Lạng Sơn
12:23 12/08/2010
Lạng Sơn, 10.8.2010 (giaophanlangson.org) - Hay tin Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt – nguyên Tổng Giám Mục Hà Nội vừa về Việt Nam sau chuyến đi chữa bệnh ở nước ngoài. Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân – Giám Mục Lạng Sơn Cao Bằng cùng phái đoàn gồm: Cha Tổng Đại Diện, Cha Đại Diện Giám mục, quí Cha, quí Đại chủng sinh trong giáo phận lên đường tiến về Dòng Xitô Châu Sơn kính thăm Đức Tổng Giuse.
Trưa ngày 10/8 đoàn xe lăn bánh rời Toà Giám Mục Lạng Sơn nhắm hướng Ninh Bình trực chỉ. Trên hành trình dài, tất cả mọi người trên xe cùng sốt sáng lần hạt Mân Côi, để cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Tổng Giuse và hành trình bình an. Tình huynh đệ thân thương đối với Vị Tiền Nhiệm của Đức Giám Mục Lạng Sơn, tình hiếu thảo tin mến của quý Cha, và mọi người đối với Đức Cha Giuse nguyên Giám mục Lạng Sơn luôn là nghĩa cử đẹp, với biết bao kỉ niệm. Hơn nữa, hình ảnh của Đức Tổng Giuse - Người đã nổ lực kiến thiết, xây dựng và phát triển Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng khi Ngài lãnh nhận sứ vụ chủ chăn luôn là sự kính trọng và yêu mến của mọi thành phần dân Chúa nơi đây dành riêng cho Ngài.
16h45 phái đoàn GP Lạng Sơn đã tới Dòng Xitô Châu Sơn. Lát sau, trong bộ áo dòng trắng - viền tím với nụ cười thân thiện, Đức Tổng cùng với cha tân Viện trưởng Dòng Xitô và quí Cha đón chào phái đoàn, “ tay bắt mặt mừng” tình xưa nghĩa cũ ùa về trên những khuôn mặt, tạo nên một hình ảnh thật thân thương của tình thân nối kết tình thân, cảnh sum họp gia đình rộn rã tiếng cười nói tại khuôn viên Đan Viện.
Tại phòng khách của Dòng – Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân thân tặng Đức Tổng Giuse bó hoa biểu lộ niềm vui của sự gặp gỡ thật thân thương, cảm động. Đức Cha Giuse thay mặt Giáo phận Lạng Sơn chúc mừng Đức Tổng đã trở về bình an mạnh khỏe. Ngài trở về bình an là niềm vui và khích lệ cho mọi người, và trong hành trình mới là nguyện cầu liên lỉ, là hiệp nhất yêu thương để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội. Trong một sứ mệnh mới đó, lời cầu nguyện và chiêm niệm chẳng khác nào một người “giữ lửa” của Đức Tin, tăng thêm Tình mến và dấu chỉ niềm Hy vọng.
Đức Tổng Giuse ngỏ lời cám ơn Đức Cha Lạng Sơn và mọi người hiện diện, ngài bày tỏ sự biết ơn và nhớ tới toàn thể cộng đồng Dân Chúa Gíao phận Lạng Sơn - Cao Bằng. Những câu truyện chan hòa thân thương tăng thêm niềm vui trên khuôn mặt hiền lành của Đức Tổng Giuse.
Sau khi hiệp thông với Nhà Dòng trong giờ kinh chiều, phái đoàn giáo phận dùng cơm chung với Đức Tổng Giuse, Cha tân Viện trưởng, quý Cha dòng. Bữa cơm gia đình bao giờ cũng là hình ảnh của hiệp nhất và yêu thương. Đức Tổng chia sẻ những kinh nghiệm vui mà Ngài gặp trong chuyến đi nghỉ vừa rồi. Ngài cũng kể lại những câu chuyện hài dí dỏm nhà đạo của các Đấng Bậc tiền bối, làm mọi người vui cười tạo nên một buổi gặp gỡ thật đặc biệt. Chỉ có niềm tin, sự lạc quan trong cuộc sống mới làm nên những tiếng cười sảng khoái cho mình và cho mọi người như thế.
Màn đêm buông xuống như nhắc cho mọi người cuộc sum họp tạm kết thúc, vang lên tâm tình cùng hẹn một cuộc gặp gỡ mới, một thành quả mới trong trách vụ mà Thiên Chúa trao ban cho từng người. Đức Cha Giuse - Giám mục Lạng Sơn Cao Bằng thay mặt cộng đồng Dân Chúa Giáo phận tha thiết kính mời Đức Tổng trở về “chốn xưa”, nơi ấy biết bao người mong chờ trong tâm tình yêu mến. Đức Tổng Giuse đã cảm ơn lời mời của Đức Cha Giáo phận, cảm ơn chuyến viếng thăm của phái đoàn. Lời chúc bình an là nghi thức cuối cùng cho một cuộc gặp gỡ huynh đệ và đầy thân thương. Ngài cũng gửi lời cảm ơn và lời thăm hỏi tới mọi thành phần Dân Chúa Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng.
Nguyện xin Chúa gìn giữ nâng đỡ từng bước chúng con đi, từng việc chúng con làm, hầu trong mọi sự chúng con làm rạng rỡ danh Chúa và cứu giúp các linh hồn.
16h45 phái đoàn GP Lạng Sơn đã tới Dòng Xitô Châu Sơn. Lát sau, trong bộ áo dòng trắng - viền tím với nụ cười thân thiện, Đức Tổng cùng với cha tân Viện trưởng Dòng Xitô và quí Cha đón chào phái đoàn, “ tay bắt mặt mừng” tình xưa nghĩa cũ ùa về trên những khuôn mặt, tạo nên một hình ảnh thật thân thương của tình thân nối kết tình thân, cảnh sum họp gia đình rộn rã tiếng cười nói tại khuôn viên Đan Viện.
Đức Tổng Giuse ngỏ lời cám ơn Đức Cha Lạng Sơn và mọi người hiện diện, ngài bày tỏ sự biết ơn và nhớ tới toàn thể cộng đồng Dân Chúa Gíao phận Lạng Sơn - Cao Bằng. Những câu truyện chan hòa thân thương tăng thêm niềm vui trên khuôn mặt hiền lành của Đức Tổng Giuse.
Sau khi hiệp thông với Nhà Dòng trong giờ kinh chiều, phái đoàn giáo phận dùng cơm chung với Đức Tổng Giuse, Cha tân Viện trưởng, quý Cha dòng. Bữa cơm gia đình bao giờ cũng là hình ảnh của hiệp nhất và yêu thương. Đức Tổng chia sẻ những kinh nghiệm vui mà Ngài gặp trong chuyến đi nghỉ vừa rồi. Ngài cũng kể lại những câu chuyện hài dí dỏm nhà đạo của các Đấng Bậc tiền bối, làm mọi người vui cười tạo nên một buổi gặp gỡ thật đặc biệt. Chỉ có niềm tin, sự lạc quan trong cuộc sống mới làm nên những tiếng cười sảng khoái cho mình và cho mọi người như thế.
Nguyện xin Chúa gìn giữ nâng đỡ từng bước chúng con đi, từng việc chúng con làm, hầu trong mọi sự chúng con làm rạng rỡ danh Chúa và cứu giúp các linh hồn.
Những hoạt động mục vụ và văn hóa của LM Léopold-Michel Cadière trên đất Quảng Bình
Nguyễn Đức Cung
12:27 12/08/2010
NHỮNG HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ VÀ VĂN HÓA CỦA
LINH MỤC LÉOPOLD-MICHEL CADIÈRE (1869-1955)
TRÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH
Linh mục Léopold-Michel Cadière đối với dân tộc Việt Nam là một nhà thừa sai và một nhà bác học. Đối với Quảng Bình, hai ý nghĩa đó thật đã được thể hiện rõ nét, cụ thể trong cuộc đời của linh mục suốt hơn sáu mươi năm làm công tác mục vụ và nghiên cứu về đất nước Việt Nam. Tên Việt Nam của ngài là Cả, tục gọi cố Cả.
Georges Coedès, một nhà nhân chủng học có tiếng thế giới, khi nhận định về giá trị các công trình nghiên cứu khoa học của Léopold-Michel Cadière, đã viết rằng: « Công trình khoa học của cha Cadière không những có giá trị vì chứa đựng một kho tàng gồm có các sự kiện xã hội quan sát chính xác để cống hiến cho các nhà khảo cứu. Công trình ấy có giá trị như một gương mẫu khách quan hoàn toàn mả một nhà quan sát vô tư và bất vụ lợi có thể đạt tới được trong khi nghiên cứu một nhóm người thuộc một thế giới khác, bẩm sinh một tinh thần khác, theo một tôn giáo khác. » [1]
Linh mục Léopold-Michel Cadière sinh ngày 14-2-1869 tại Sainte-Anne-des-Pinchinats, gần Aix-en-Provence vùng cửa sông Rhône đông nam nước Pháp. Thuở nhỏ cậu bé Cadière học trường làng rồi sau chuyển lên Aix học trường trung học Bourbon, vào chủng viện Aix do các giáo sư Hội Xuân Bích (St. Sulpice) dạy. Trong hồi ký Souvenirs d’un vieil annamitisant, linh mục rất cảm phục các công trình nghiên cứu của các linh mục Tu hội Saint Sulpice và cho biết « dưới sự hướng dẫn của các bậc thầy thông minh, tôi đã đọc ngấu nghiến tác phẩm của các ngài và một ngày kia muốn trở nên như các ngài vậy. » [2] Ngài thọ phong linh mục ngày 4-9-1892, lúc 23 tuổi, và lên đường sang Việt Nam ngày 26-10-1892. Được Đức Cha Caspar bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu chủng viện An Ninh, ở Đất Đỏ, Cửa Tùng, Quảng Trị tháng 1-1893, linh mục Cadière phụ trách môn Tu từ học và Triết học và sau đó ngài được giao cho dạy Thần học ở Đại chủng viện Huế. Sau đó linh mục Cadière được bổ nhiệm làm cha sở tạm giáo xứ Tam Tòa, một họ đạo nằm giữa tỉnh lỵ và năm xóm (hameaux) với hơn một nghìn giáo hữu bên bờ sông Nhật Lệ, xây dựng trên một phần đất của Lũy Thầy, nơi có rất nhiều di tích lịch sử để lại cũng là yếu tố khiến linh mục Cadière phải chú tâm. Theo Louis Malleret, cách giáo xứ Tam Tòa vài cây số có một tấm bia ghi lại các biến cố chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã cung cấp cho cha Cadière một đề tài để nghiên cứu, và công trình đó đã được Viện Khoa Học Pháp (L’Institut de France) khen thưởng năm 1903 và ấn hành trên Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1906. Đây là công trình nghiên cứu lịch sử đầu tay của Cadière đã được đánh giá cao.[3]
Sau khi ở xứ đạo Tam Tòa được một năm, tháng 10 năm 1896 linh mục Cadière được thuyên chuyển đến Cù Lạc là một vùng thuộc tổng Cao Lao, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nằm trên hữu ngạn nguồn Son (sông Gianh). Cù Lạc là một xứ đạo ở phía bắc địa phận Huế, là một vùng gồm toàn rừng rậm và núi đá vôi, cả một vùng rộng lớn hầu như chưa có dấu tích khai phá. Chính nơi đây linh mục Cadière đã có dịp phát hiện được những liên hệ rất chặt chẽ giữa tiếng Mường với một thứ tiếng mà linh mục de Rhodes đã biết đến ở Bắc Kỳ trong thế kỷ XVII. Linh mục Cadière cũng còn nhận thấy các phong tục và truyền thống ở Cù-Lạc cũng là những chất liệu để giúp cho người thực hiện các công trình biên khảo về ngữ học và dân tộc học. Ngoài ra thứ tiếng Việt mà linh mục đã học để nói và viết trước đó đều là thứ tiếng Việt trong những cuốn kinh sách có ngữ pháp mô phỏng theo tiếng Pháp hay tiếng La-tinh [4] hoàn toàn khác với thứ tiếng ngoài dân gian. Do đó linh mục đã tìm mọi cơ hội đi ra ngoài dân chúng để học thứ tiếng Việt đó từ những người bán hàng rong, người tiều phu, dân làm ruộng v.v... và quyết công tìm ra những bí mật của thứ ngôn ngữ dân gian đó.
Trong bài báo Đọc cuốn « Syntaxe de la langue Vietnamienne » đăng trên tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế, Giáo sư Trương Văn Chình, một nhà ngữ học Việt Nam, đã viết rằng: « Linh mục Cadière cũng như nhiều nhà nghiên-cứu ngữ-pháp Việt-Nam, chẳng hạn như ông Trần Trọng Kim, hay gần đây như giáo sư Honey, nhận định rằng không thể rập theo ngữ-pháp Pháp mà viết ngữ-pháp Việt-Nam...Nghiên cứu ngữ-pháp Việt-Nam, linh-mục Cadière lấy tài liệu ở ngôn ngữ hàng ngày hoặc của người có học (gens lettrés) hoặc của người thất học (gens sans culture), chứ không căn cứ vào văn chương cổ vì văn chương cổ có nhiều từ ngữ Hán-Việt. Tuy thế, linh mục nhận định rất đúng dù rằng văn-chương hay ngôn-ngữ thông thường, thì tiếng Việt cũng theo cùng một ngữ pháp. » [5]
Nhờ sống ở giáo xứ Cù-Lạc vốn trải dài trên nhiều cây số, cha Cadière phải đi lại thường xuyên trong các cuộc viếng thăm giáo dân ở những vùng chưa có ai bước chân tới và điều đó đã kích thích tính hiếu kỳ nơi ông. Qua các chuyến hành trình vất vả đó, linh mục Cadière đã khám phá động Phong-Nha nổi tiếng, ghi chú lại các dấu tích kỷ niệm về văn minh Chàm, tìm ra các giống thực vật lạ hiếm, khoái tìm hiểu dân Tắc-củi vốn là tộc người còn rất mọi rợ với cuộc sống thật bí hiểm mà nhiều người cho là như giống dân Pygmées. Chính là tại Cù-Lạc mà linh mục đã quen biết với Louis Finot, vị giám đốc đầu tiên của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1901, vì lý do sức khỏe, sau 6 năm sống tại Cù-Lạc, linh mục đã đi tĩnh dưỡng ở Hồng Kông. Xứ đạo Cù-Lạc được cắt ra làm hai gồm xứ Bồ-Khê và Cù-Lạc. Khi đi Hồng Kông về, linh mục Cadière được bổ làm cha xứ Bồ-Khê tức xã Thanh Trạch, trên hữu ngạn sông Gianh sát bờ bể. Ông ở đó hai năm và sau đó được bổ làm cha xứ Cổ vưu (Quảng Trị) kiêm hạt trưởng hạt Dinh Cát. Trong sách Sông Gianh Đàng Trong Giáo hạt Quảng-bình 1615-1975, các tác giả Nguyễn Thế Hùng, Hoàng Đình Hiếu cho biết linh mục Léopold Cadière có làm cha xứ Mỹ-Hòa, huyện Quảng-Trạch. Chúng tôi đã có dịp thảo luận lại với ông Hoàng Đình Hiếu và luận đoán rằng có lẽ giáo xứ Mỹ Hòa là một trong nhiều họ đạo được Linh mục Cadière kiêm nhiệm, và vì Mỹ Hòa chỉ cách Bồ Khê dòng sông Gianh nên đó là nơi linh mục Cadière hay đến làm công việc mục vụ, nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân gian. [6]
Một điều cần chú ý là những nơi linh mục Cadière được bổ nhiệm đến hầu hết là những nơi có ít nhiều dấu tích lịch sử, chẳng hạn như ở Dinh Cát vốn là nơi khởi đầu bước chân của Nguyễn Hoàng khi ông được Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa năm 1558 theo lời khuyên bí mật của Nguyễn Bỉnh Khiêm với câu nói để đời « Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân. .. », nơi đạo Công Giáo đã đi vào xứ An Nam với những người Công Giáo thuần thành tiên khởi đã có tiếng trong lịch sử như Minh Đức Vương Thái Phi, vợ của Nguyễn Hoàng và nơi còn để lại nhiều dấu tích của người Chăm-pa như ở Trung Đơn (Hải Lăng), Dương Lệ (Triệu Phong)...
Cuối năm 1910, sau gần bảy năm làm mục vụ ở Cổ vưu, xây nhà thờ, mở trường học, chăm sóc giáo dân, dạy dỗ trẻ em, linh mục cảm thấy sức khỏe suy sụp nên đã xin phép bề trên và được về nghỉ sức tại Pháp. Nhân chuyến này, ông tìm được các tài liệu bản thảo gốc cuốn từ điển của giáo sĩ Alexandre de Rhodes tại Rôma, thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn Ánh với các sĩ quan Pháp qua giúp ông ở Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII. Từ năm 1913 đến 1918, sau khi trở về Huế, cha Cadière được Đức Cha Allys (Lý) cử làm tuyên úy trường Pellerin và chính trong thời này ngài đã cộng tác với một số các nhà trí thức Pháp ở Huế thành lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ, ấn hành tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Hué). Tháng 9 năm 1918 cha Cadière được bổ làm cha sở giáo xứ Di Loan, trong thời gian này ngài được cử làm Hội viên Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Di Loan là nơi, năm 1849, Giám mục Pellerin đã lập một chủng viện tọa lạc ở trung tâm làng Di Loan, tứ phía rừng tre bao bọc để bảo đảm an toàn cho chủng viện. Hệ thống báo động được tổ chức chặt chẽ dựa vào sự che chở của giáo dân. Ở Di Loan, linh mục Cadière đã để công sưu tầm được rất nhiều loại thực vật và chính ngài đã gửi những loại cây mẫu về cho Bảo tàng lịch sử thiên nhiên ở Paris. Năm 1928 ngài về Pháp chữa bệnh tim và năm 1930 trở lại tiếp tục công tác mục vụ ở Di Loan.
Chính linh mục Cadière là người phụ trách Tạp chí Sacerdos Indosinensis (Linh mục Đông Dương) là cơ quan ngôn luận của giáo sĩ Việt Nam. Sự thông minh uyên bác và tinh thần tích cực hoạt động của linh mục đã biến ngài trở nên hội viên nòng cốt của một số hiệp hội khoa học lúc bấy giờ như Hội Viễn Đông Bác Cổ, Hội Ngôn Ngữ Á Châu, Hội Địa lý học Hà Nội, Hội Bách Thảo Paris, Hàn Lâm Viện Aix, Hàn Lâm Viện Khoa học Thuộc địa, Hội Giáo dục Tinh thần và Luân lý Việt Nam, Hội Thuần dưỡng Paris, Hội Đông Dương Học Sài Gòn, Hội viên Trường Nhân chủng học Đông Dương v.v... Chính Louis Malleret khẳng định rằng linh mục Cadière là người sáng lập thực sự của ngành thiểu số học ở Việt Nam và trong lãnh vực này ngài không bao giờ trở thành lỗi thời. [7]
Sau biến cố Nhật đảo chánh 9-3-1945, ngài bị Nhật quản thúc ở Huế và sau cuộc kháng chiến toàn quốc 19-12-1945, ngài bị chính quyền Việt Minh bắt cùng với 6 linh mục Pháp khác ra giam giữ tại Cầu Rầm (Vinh). Cuộc vây bắt linh mục Cadière tại giáo xứ Di-Loan diễn ra quyết liệt giữa công an Việt Minh và giáo dân vì giáo dân ở đây rất thương mến ngài nên đắp ụ đường chận xe công an từ phủ Vĩnh Linh xuống, kéo chuông nhà thờ, và đánh mõ, đánh trống huy động nhau ra ngăn cản và đã đánh trả quyết liệt với công an suốt ba lần tấn công vào giáo xứ, thật đúng với ca dao sau đây:
« Văn chương Xuân-mị
Lý sự Thị-Khê
Làm thuê Cam-Phổ
Ở lỗ (truồng) làng Tùng
Anh hùng Di-Loan. »
Một viên công an VM đeo súng lục, đi xe Traction màu đen có lẽ tịch thu được của người Pháp, chỉ huy cuộc vây bắt này. Trước khi cha Cadière bị bắt, ngài đã viết giấy để lại cho Dòng Thiên-An Huế toàn bộ sách vở của ngài tại Di-Loan, và khi Dòng này đưa ghe ra chở, giáo dân phải dùng xe bò chở sách từ nhà xứ xuống ghe đậu ngoài biển cửa Tùng mất đến ba ngày. Ngày 13-6-1953, cha được chính phủ Việt Minh trả tự do và ngài tình nguyện xin về lại giáo phận Huế. Chính phủ Việt Minh đưa ngài từ Quảng Bình vào Huế cùng với 14 linh mục ngoại quốc còn sống. Linh mục Cadière lưu lại tại Huế và mất ngày 10-7-1955, thọ 86 tuổi, an táng tại nghĩa trang Đại chủng viện Huế. [8]
Trong thời gian còn bị Việt Minh quản chế ở Vinh, linh mục Cadière đã viết như sau: « Tôi đã hiểu người Việt vì tôi nghiên cứu những gì liên quan đến họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng Việt ngay từ khi mới đến đây và tôi hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu (...) Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng lễ nghi tôn giáo, phong tục người Việt, tôi yêu mến người Việt. Tôi yêu mến người Việt vì họ thông minh xuất sắc và tinh thần linh lợi (...) Tôi yêu mến người Việt cũng vì họ trải qua nhiều đau khổ. » [9] Trong Hồi ký, linh mục Cadière đã viết những câu rất cảm động: « Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi những năm tháng thoát khỏi mọi công việc để chuyên tâm cầu nguyện. » [10]
Đó là cô đọng những lời tâm huyết mà linh mục Cadière sau thời gian 63 năm chung sống với người Việt đã quyết định gửi nắm xương tàn của ông ở lại Việt Nam cùng với tất cả cốt lõi tinh hoa trong tinh thần của mình trải rộng qua biết bao tác phẩm và công trình nghiên cứu về Việt Nam, đặc biệt về ba tỉnh Bình Trị Thiên và miền Trung mà ông đã bỏ công nghiên cứu và viết ra trên giấy trắng mực đen.
Một nhân chứng người giáo xứ Di-Loan, ông Hoàng Hữu Hiền hiện sống tại New Jersey cho biết năm 1955 có gặp lại linh mục Cadière tại Tòa Giám Mục Huế (Nhà Chung) và lúc bấy giờ lưng ngài còng hẳn xuống, thấp lại, bận một bộ áo bà ba nâu của dân quê xứ Nghệ Tĩnh.
Có lẽ xứ Tam Tòa nói riêng và đất Quảng Bình nói chung đã cho linh mục Cadière những dữ kiện tiên khởi để ông bắt đầu để tâm nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử Việt Nam. Nhờ nhận thấy trong tiếng Việt có những phương ngữ khác với thứ ngôn ngữ trong sách vở mình đã học trước kia nên linh mục đã viết được công trình Ngữ âm học Việt Nam gồm 2 cuốn: « Phương ngữ thượng du Trung Kỳ » xuất bản năm 1902, dày 113 trang, và « Phương ngữ trung du Trung Kỳ » xuất bản năm 1911, dày 44 trang. Chính Cadière cũng quan tâm đến ngôn ngữ Mường vùng thượng nguồn sông Gianh và là người đầu tiên nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi giữa tiếng Mường với tiếng Việt vùng bắc Trung Kỳ [11]. ( Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam, trong những tác phẩm đã xuất bản của Trường Viễn Đông Bác Cổ Vol. III. Paris Imprimerie Nationale, Ernest Leroux, rue Bonaparte, 28, 1902).
Theo Giáo sư Trương Văn Chình, « Linh mục Cadière phân biệt tiếng Bắc, tiếng Trung và tiếng Nam, và những tỉ dụ trong sách phần nhiều là tiếng Quảng Bình, nên ông đã định đặt tên sách là Syntaxe de la langue annamite suivant le dialecte du Haut-Annam (ngữ pháp Việt Nam theo thổ ngữ miền Bắc Trung-Việt). Nhưng linh mục nhận ra rằng tiếng nói ba miền chỉ có rất ít từ ngữ thông thường khác nhau, nên không hại gì đến nền duy nhất của tiếng Việt, mà ngữ-pháp từ Bắc chí Nam, đâu cũng như nhau. Vậy người soạn ngữ-pháp Việt-Nam, có thể lấy tài liệu ở bất cứ một nơi nào trên đất Việt. Điều này, linh mục nhận định cũng rất đúng. Người Việt-Nam dù có tiếng phát âm khác nhau, dù có nơi dùng một số thổ ngữ, nhưng hễ cấu tạo tiếng nói thành câu, thì đâu đâu cũng phải theo cùng một ngữ-pháp. » [12]
Tính từ năm 1898 khi linh mục Cadière đặt bút viết lá thư đề ngày 13-01-1898 nói về trận đói ở Quảng Bình gửi cho Tập san Missions Catholiques, Lyon 1898 cho đến năm 1955, trong vòng 57 năm, có cả thảy 245 tác phẩm của ngài được viết ra và ấn hành gồm rất nhiều sách, tập tham luận, bài nghiên cứu, bài sưu khảo từ lịch sử đến địa lý, địa lý học lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, khoa học tự nhiên, văn học và kiến thức tổng quát.
Riêng về tỉnh Quảng Bình, linh mục Cadière đã viết khoảng 17 quyển sách và tập tham luận, bài nghiên cứu trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng là Le mur de Dông-hới, Les lieux historiques du Quang-Binh, Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam, Coutumes populaires de la Vallée du Nguồn-Son, Géographie historique du Quang-Binh, Les Fougères du Quang-Binh v.v...
Có lẽ trong số những người viết về Quảng Bình nhiều người cảm thấy thân thiết, gần gũi với làng mạc ở đây, nhưng có lẽ không bằng linh mục Cadière khi chúng ta có cơ hội đọc lại những tác phẩm của ông như Les lieux historiques du Quang-Binh hay Le mur de Dong-hoi. Cây đa đầu làng là một hình ảnh rất quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam, nhất là ở Quảng Bình cho nên đó cũng là hình ảnh ghi nhận rõ nét dưới ngòi bút của Cadière. Ông gọi các làng như làng Trung-Bính nay thuộc xã Bảo-Ninh là « làng của những cây đa » (village des banians). [13]
Gốc tích của một làng, như làng Hữu Cung ở gần thị xã Đồng Hới chẳng hạn, cũng được linh mục Cadière viết lại tương đối rõ ràng, có thể giúp cho giới nghiên cứu sử học sau này nhiều thẩm định chính xác, lợi ích: « (...) Trước khi đi đến Đồng Hới, cần phải chỉ ra một địa điểm quân sự hình thành ra cái làng hiện nay, đó là làng Hữu Cung. Những địa điểm quân sự này, ít thấy ở phần phía bắc Quảng Bình, nhưng rất nhiều ở miền nam tỉnh này, ví dụ như làng Dinh Ngói mà chúng ta đã thấy. Địa danh của nó tự giải nghĩa cho nó. Những đồn lũy rải rác trên lãnh thổ Quảng Bình trước đây có nguồn gốc do những binh lính canh giữ một con đường hay một vị trí chiến lược, hoặc nhằm đẩy lùi những trận tấn công đầu tiên của đối phương. Về sau, tôi không hiểu chính xác niên đại nào nhưng chắc chắn là vào thời Gia Long hoặc sau này Minh Mạng, những binh lính giải ngũ định cư lập ấp thì đất đai thường thường cắt xén của những làng xã chung quanh, đôi khi làm rối tung lên một cách thô bạo đối với những đất đai bao gồm đồn trại của họ trước đó. Những làng xóm này thường giữ nguyên, hoặc sửa đổi đôi chút, tên các đơn vị thuyền, hoặc đội, hoặc cơ, cấu thành từ trước (...) Ngôi làng Hữu Cung, xưa kia còn gọi là Hữu Cai, thổ ngữ biến thành Hồ Cai, nguyên do thuyền cùng tên, đóng quân trên đất làng Phú Xá. Từ những điểm cao ấy mà bao quát cả cánh đồng lớn của Đồng Hới và những gò đồi cao nguyên trải dài ở phía bắc, người ta có thể canh chừng được sự đột nhập của đối phương, kháng cự với đội tiên phong của họ khi cần thiết. » [14] Một số chiến lũy dưới thời Trịnh Nguyễn ngày trước cũng được linh mục Cadière khôi phục lại: «. .. Sách địa lý An nam còn ghi chú rằng ở phía nam đồn Sa Phụ có một bức lũy dài chạy theo bờ biển đến làng Liêm Luật hiện nay còn nằm ở khoảng cửa sông Nhật Lệ và cửa sông Minh Linh, tức Cửa Tùng. Lũy này được gọi là lũy Trường Sa ». [15]
Đối với linh mục Cadière, một góc thành, một khoảnh phế lũy trên đất nước Quảng Bình đều là dấu tích của lịch sử, và ông trân trọng đưa vào trong sách vở với những ghi chú đầy đủ và phân tích thận trọng. Trong tác phẩm Les lieux historiques du Quang-Binh, ông viết về Thành Lồi ở Mỹ Thổ, chùa Phật ở làng Uẩn Áo, các di tích của Dinh Mười và Dinh Mới, các làng Võ Xá, Thạch Xá v.v... [16]
Những dữ kiện linh mục Cadière thu lượm được góp lại trong một số các công trình sưu khảo về lịch sử trên đất nước Quảng Bình nói chung đã giúp cho người đọc có dịp nhận định lại những điều do các sử sách trước đây đã viết, đối chiếu, suy luận để tiếp cận với sự thật lịch sử nhiều hơn.
Chính linh mục Cadière cũng cho một khái niệm khác biệt về đường biên giới phân chia Đàng Trong với Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Nguyễn, không đơn thuần là một con sông như sông Gianh mà là cả vùng thung lũng sông Gianh. [17]
Ngoài ra, linh mục Cadière cũng lưu tâm đến các hình thức tín ngưỡng dân gian hiện còn ghi lại trong sách vở của ngài. Trong tác phẩm Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, linh mục viết rằng: « Ở tỉnh Quảng bình, người ta tuồng như có thờ kính ông Trời. Trước mỗi nhà, đối diện với gian nhà giành để thờ kính tổ tiên, và trong sân, người ta trồng một trụ gỗ cao khoảng một mét đến hai mét, ở trên bày một tấm ván nhỏ làm thành một bàn thờ. Bàn thờ ấy thường được dựng vào chỗ đầu tiên nơi người ta muốn đặt, và có khi nhà cửa phá đi nhưng bàn thờ vẫn còn. Các nhà giàu có thường xây một trụ bằng vôi hồ trên một hốc tường. trên bàn thờ luôn có một bát nhang bằng đất cắm mấy que nhang. Theo một vị tú tài ở làng Đặng-đề thuộc tỉnh Quảng bình, người ta thờ ở đó Cửu Thiên Huyền Nữ. Người ta dâng đồ cúng ở đó cũng như ở trong nhà vào đêm giao thừa, ngày mồng năm tháng năm, ngày mười lăm tháng chín, và ngày rằm mỗi tháng. Tôi cho rằng, qua những tập tục lễ bái đó, dưới ảnh hưởng của Lão giáo, người ta muốn bày tỏ niềm tin đơn thuần của họ vào các vị thần linh hay vào ông Trời... » [18]
Các truyền thuyết dân gian như chú Cuội, cũng được linh mục ghi lại qua các câu ca dao nghe được ở Quảng bình:
Thằng móc thằng mách,
đứng trửa mặt trăng,
cầm rừa cầm rạ
đốn săng kiền kiền,
làm nốc làm thuyền,
cho thuê cho mượn,
té tiền mua ăn. [19]
Điệu hát ru con sau đây ở Quảng Bình cũng không thoát khỏi sự chú ý của linh mục Cadière:
Xít tù và !
Qua năm mới. - tới năm cũ;
Đào lỗ mà chôn, - Con chồn nhảy ra;
Con ma nhảy lại, - Mụ Đại đạp đi;
Mụ Nhị mần thịt; - Mụ Chịt nấu ăn ! [20]
Những hòn đá thiêng được gọi là Bụt mà linh mục Cadière đã gặp ở Ròn, vùng bắc Quảng Bình, hay không xa chỗ đó có một nơi gọi là Mả Cô (le Tombeau de la demoiselle) hoặc tảng đá Quán Bụt (Auberges du Buddha) ở làng Thủy-liên-hạ tục gọi Sen-hạ ở huyện Lệ Thủy, những chuyện ma và các tập tục mê tín của vùng thung lũng nguồn Son – sông Gianh, những câu hát đồng dao do các trẻ mục đồng cất lên trong buổi chiều lùa trâu về chuồng như:
Mê bẹ mê mê !
Con đi dọi mạ,
Cá đi dọi bầy.
Chớ lạc bầy ai,
Ăn ló ăn khoai !
Chặt tlốc chặt tai,
Vày vô nồi hai,
Tiêu hành nác mắm !
Mê bẹ mê mê ! [21]
vốn là những tư liệu văn hóa dân tộc đầy ắp trong các sách vở của linh mục ghi lại, và cần thiết biết bao cho những ai muốn tìm về cội nguồn của đất nước thân yêu.
Thật ra tấm lòng của linh mục Cadière không chỉ dàn trải với non sông Quảng Bình mà còn bao quát khắp mọi vùng đất nước Việt Nam. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, sâu sắc, uyên bác trong từng chủ đề, từng lãnh vực tri thức, có giá trị không những nhiều thập kỷ trước đây mà còn mãi cho tới bây giờ.
Ngày nay, đã có những nhận định về linh mục Léopold-Michel Cadière được viết ra ở trong nước cũng như ở hải ngoại, một việc làm rất đáng hoan nghênh để vinh danh những công lao vô giá của linh mục Cadière đối với nền văn hóa Việt Nam.
Trên Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc (số 854, ngày 26.4.1992), Võ Xuân Trang có viết một bài tựa đề « Léopold Cadière, một linh mục, một nhà khoa học, một con người gắn bó với Huế », với đoạn kết rằng: « Một số tài liệu di khảo chưa công bố, linh mục đã trối lại cho Dòng Thiên An cất giữ để hậu thế sử dụng, nhưng tiếc thay năm 1968 bom Mỹ đã đánh trúng thư viện dòng Thiên An (...) ». [22]
Trong bài « Tưởng nhớ nhà Huế học quá cố Léopold Cadière », đăng trong báo Lao Động (số 75/94 4016) ra ngày 23.6.1994, Nguyễn Đắc Xuân đã viết: « Huế đã được công nhận di sản thế giới. Để có được sự công nhận ấy một thế kỷ qua, nhiều nhà Huế học, nhà văn, nhà nghiên cứu đã đóng góp biết bao công trình để giới thiệu Huế với thế giới. Người được tôn là bậc thầy trong công việc này là Léopold Cadière (...) Duy có « một điều lạ » là không có mấy người biết về cuộc đời Léopold Cadière. Nguyên nhân vì đức khiêm tốn, lúc sinh thời ông cho rằng những gì nói về ông là không cần thiết. » [23]
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 6 năm 1995, cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, dưới bài viết nhan đề « Linh mục Cadière, một trong những người mở đầu môn Việt Nam học », Đào Hùng đã tổng kết rằng: « Có thể nói tư tưởng của linh mục Cadière đã mở đường cho những người nghiên cứu Việt Nam đầu thế kỷ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đáng cho tất cả những ai quan tâm đến môn Việt Nam học, dù là người Việt hay người nước ngoài, phải kính cẩn suy ngẫm. Ông đã đem lại những hiểu biết sâu sắc về dân tộc Việt Nam, một dân tộc mà nhiều nhà nghiên cứu trước đây từng nghĩ rằng đã hoàn toàn Hán hóa, không có cá tính... » [24]
Trong một tác phẩm có tên Nhân vật giáo phận Huế, Lê Ngọc Bích đã dành 14 trang sách lớn để viết về linh mục Léopold-Michel Cadière với những nghiên cứu chi tiết và giá trị để thiết lập một bản tiểu sử khá đầy đủ về linh mục Cadière. Trong phần kết luận, Lê Ngọc Bích đã viết rằng: « Léopold Cadière, một con người suốt đời gắn bó với Huế, nhà Huế học kiệt xuất bậc thầy, nhà Việt Nam học. Công lao của Cadière trong việc nghiên cứu về Huế hẳn nhiên nhiều người công nhận và trân trọng. Tuy nhiên, có một điều lạ là Huế chưa có con đường nào được mang tên Léopold Cadière, con người đã giới thiệu Huế với Thế giới. » [25]
Trên Tập san Định Hướng số 31 ra Mùa Hè năm 2002, Nguyễn Lý Tưởng đã viết một bài nhan đề «Léopold-Michel Cadière và những công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam ». Mở đầu bài viết này, Nguyễn Lý Tưởng cho biết một chi tiết khá đặc thù như sau: « Trước năm 1945, xe lửa chạy suốt Sài Gòn ra Hà Nội theo thông lệ, chỉ dừng lại ở các ga lớn của các thành phố, tỉnh lỵ quan trọng chứ không ngừng ở các trạm nhỏ. Nhưng có một làng nằm giữa đoạn đường Đông Hà (Quảng Trị) và Đồng Hới (Quảng Bình) là làng Di Loan, thuộc phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, đã được Toàn Quyền Đông Dương cho phép thiết lập một ga tạm nhỏ và xe lửa chạy suốt bắt buộc phải dừng lại đó trong 5 phút để cho một nhà thông thái, một nhà văn hóa kiêm sử gia và cũng là nhà ngôn ngữ học, bước lên tàu để ra Hà Nội họp tại trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Extrême Orient) hàng tháng: Đó là linh mục Léopold-Michel Cadière thường gọi là Cố Cả. »[26] Bài viết của Nguyễn Lý Tưởng cô đọng tất cả những nét chính trong công tác mục vụ và sự nghiệp văn hóa của linh mục Cadière trong suốt 57 năm sống trên đất nước Việt Nam.
Trong tập san « Pháp-Á » (France-Asie) số 112 tháng 5 năm 1955, Maurice Durand viết về linh mục Cadière rằng: « Những công cuộc khảo cứu của ngài chỉ là một phương tiện để tìm hiểu và yêu mến những linh hồn mà ngài có bổn phận chăn dắt. » [27]
Một linh mục Dòng Tên, Bernard Maitre đã ghi lại vài nét về quan điểm của cha Cadière khi sống và tiếp xúc với hàng giáo sĩ Việt Nam trong cuộc đời truyền giáo của ngài:
« Khi tôi tiếp nhận một vị linh mục Việt Nam, tôi nói với vị ấy: Hỡi cha thân mến, chúng ta sẽ chung sống năm hoặc sáu năm, chúng ta không muốn mà sẽ cùng nhau đau khổ, chỉ vỉ cha là người Việt và tôi là người Pháp; chúng ta hãy cố gắng tha thứ cho nhau những điều khốn đốn ấy, để sống cho bằng an. Thật thế, linh mục truyền giáo sống giữa một dân tộc khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục, tư tưởng không phải là không đau khổ về tinh thần, không phải là không đau khổ nhiều. Nhưng những niềm đau khổ hằng ngày ấy, lâu rồi ta cũng quen đi. Có một niềm đau khổ khó lòng mà quên được, ấy là khi lòng hăng hái của ta bị tê liệt, khi những cố gắng của ta trở nên vô hiệu vì thiếu thốn phương kế. » [28]
Đối với các chế độ mà ông phải sống và tiếp xúc với dân chúng trong đó để hoàn tất các nhiệm vụ tôn giáo và tâm linh của mình, linh mục Léopold-Michel Cadière cũng đã có những ý hướng rõ ràng được bày tỏ lại qua nhận xét của Bernard Maitre, như sau: « Rất kín đáo đối với các chính quyền được thiết lập, ngài [Cadière] đã tự nêu gương chứng minh rằng một vị linh mục truyền giáo có thể bảo toàn phẩm cách dưới bất cứ chế độ nào, đôi khi lại biết giúp chế độ đó nhận thức một vài thực tại mà linh mục có thể cảm nhận sâu sắc nhờ có dịp gần gũi người đời. Như ta đã thấy điều đó cũng không hề ngăn trở linh mục cương quyết đứng trong cương vị bênh vực hơn nữa phục hồi mọi giá trị thật sự của các văn hóa cổ truyền, trong công việc này, đứng trong cương vị thừa kế của Giáo hội. » [29]
Năm 1992, cơ quan Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Paris đã cho in lại rất nhiều tác phẩm của linh mục Léopold-Michel Cadière, trong đó có bộ Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens của ngài gồm ba tập hơn 850 trang sách khổ lớn, mà qua đó linh mục đã gửi gắm tất cả những công sức trí tuệ của ngài. Georges Coedès, một học giả mà những công trình nghiên cứu của ông về Đông Dương được đánh giá là rất có giá trị cho nhiều thế hệ, có lẽ là người cũng đã từng cộng tác với linh mục trong một số lãnh vực nghiên cứu, đã viết rằng: « Tôi tin rằng không hề gặp một lần nào ngài viết một từ có vẻ miệt thị là từ « ngoại giáo » để chỉ những người mà ngài mô tả các tín ngưỡng tôn giáo và các nghi thức thần bí. Nếu đối với vị linh mục truyền giáo, người Việt Nam chưa chịu phép thánh tẩy theo đúng nghĩa là người ngoại giáo, thì đối với nhà xã hội học, họ là những người bẩm sinh có phẩm cách nhân vị mà mọi người Kitô hữu tôn trọng, không phân biệt màu da, tín ngưỡng. » [30]
Đối với sự nghiệp văn hóa mà linh mục Léopold-Michel Cadière đã tận tụy một đời dâng hiến với hơn 245 công trình biên khảo dài có ngắn có, thuộc đủ mọi lãnh vực tri thức sử học, ngôn ngữ học, địa lý, dân tộc học v.v... đã giúp ích rất nhiều cho học giới suốt mấy chục năm qua, chính ngài đã khiêm tốn nói rằng: « Chúng tôi không có tham vọng viết sử, chúng tôi chỉ có lôi ra ánh sáng và thu thập cho thật nhiều tài liệu vững để giành cho các sử gia về sau. » [31]
Các công trình viết về Quảng Bình của linh mục Léopold-Michel Cadière xuất hiện trong các Tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1902 và sự gắn bó của người đối với cơ quan ngôn luận này cũng như sự tận tụy trong 30 năm để lo cho Tập san Đô Thành Hiếu Cổ từ năm 1914 đến 1944, cùng thông qua các ấn phẩm của ngài do các nơi khác in ấn, đã nói lên tất cả tấm lòng của ngài đối với đất nước Việt Nam. Ngày nay các công trình đó không những là các tư liệu vô cùng quý giá mà còn có khả năng soi sáng những vấn đề tồn động của lịch sử, văn học, địa lý rất có ích cho công tác nghiên cứu, học hỏi của nhiều thế hệ Việt Nam trước đây hàng mấy chục năm, bây giờ và cả sau này nữa.
Suy nghĩ về những đóng góp rất giá trị và nhiệt tình của linh mục Cadière đối với nền văn hóa Việt Nam, Giáo sư Trương Văn Chình đã viết: « Dẫu sao chăng nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn linh mục Cadière đã góp công vào môn ngữ học Việt Nam, không phải là nhỏ. Cuốn Syntaxe de la langue vietnamienne sẽ giúp ích rất nhiều cho người ngoại quốc nào biết tiếng Pháp, để học tiếng Việt, vì có nhiều tiết như tiết dạy về « thuộc tính của thể từ » (genre dans les substantifs), trang 12/14; dạy về cách dùng tiếng xưng hô, trang 47/51; dạy về cách dùng số đếm, trang 23/27; v.v., tuy không ích gì cho chúng ta, nhưng rất quý cho những người ấy.
Chúng ta còn phải cảm ơn linh mục, vì linh mục hiểu chân giá trị của tiếng Việt, và đã nói ra cái giá-trị ấy thế nào. Theo Paul Boudet [32], thì trong bữa tiệc mừng linh-mục sang Việt-Nam được 50 năm (1942), linh mục có nói rằng sở dĩ ông hiểu người Việt-Nam, là vì ông đã nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục, v.v., của người Việt-Nam. Linh mục nhận rằng cách cấu tạo tiếng Việt rất tinh vi, tế nhị, từ ngữ Việt-Nam rất phong phú, dồi dào; vậy không nên khinh miệt tiếng Việt như thường thấy [33]. Cảm động thay, những lời vàng ngọc ấy ! Linh mục nói đến những kẻ khinh miệt tiếng Việt, là ông ám chỉ số đông người Pháp ở đây hồi đó. Những người Pháp ấy, có người học tiếng Việt chăng, thì phần nhiều họ học những bồi bếp của họ, chứ ít có người để công nghiên cứu tiếng Việt như linh mục Cadière. Vậy thì họ khinh miệt tiếng Việt chăng nữa, tưởng rằng cũng không lấy gì làm lạ. » [34]
Riêng với giới nghiên cứu sử học, những công trình nghiên cứu của linh mục Léopold-Michel Cadière về lịch sử Việt-Nam vốn là những mách bảo quý giá, thận trọng và uyên bác. Ngoài ra đối với tỉnh Quảng-Bình, sự hiện diện của linh mục tại đây chính là một cơ duyên quý báu để giúp cho nhiều người tìm được ánh sáng chân lý Phúc Âm và để những chứng tích lịch sử được ngài chịu khó ghi lại trở nên hữu ích cho rất nhiều thế hệ trước kia và sau này.
New Jersey August 12, 2010
CHÚ THÍCH:
1.- Tạp chí MEP, số 92, tr. 497, dẫn theo Ngọc Bích, Nhân vật giáo phận Huế, tập hai, 2000, tr. 49.
2.- Léopold Cadière, Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, Tome III, Nxb. École francaise d’Extrême Orient, tr. 6.
3.- Louis Malleret, Notice sur la vie et les travaux du R.P. Léopold Cadière (1869-1955), in trong bộ Croyances et Pratiques reiligieuses des Vietnamiens (gồm 3 quyển), Sđd, tr. 8.
4.- Louis Malleret, Sđd, tr. 8.
5.- Trương Văn Chình, Đọc cuốn « Syntaxe de la langue Vietnamienne », Đại Học, Tạp chí nghiên cứu của Viện Đại Học Huế, Số 12, Tháng 11 năm 1959, tr. 15.
6.- Nguyễn Thế Hùng – Hoàng Đình Hiếu, Sông Gianh Đàng Trong, Giáo hạt Quảng Bình, 1615- 1975, Tủ sách Sông Gianh Quê Hương Bọ Mạ xb., 2004, tr. 51. Trong Quê Hương Bọ Mạ tập 2, 1999, qua bài viết Người đã nạm vàng một chữ trung, tác giả Hoàng Đình Hiếu viết về linh mục Nguyễn Viết Cư, Tiến sĩ triết học, Giáo sư Đại chủng viện, và qua câu chuyện được biết linh mục Nguyễn Viết Cư cũng đã có những liên hệ rất mật thiết với linh mục Cadière trong thời gian ngài bị Việt Minh giam giữ ở Vinh.
7.- Louis Malleret, Sđd, tr. 14.
8.- Về ngày mất của linh mục Léopold-Michel Cadière, có nhiều tài liệu viết khác nhau. Tác giả Lê Ngọc Bích cho biết ngày 6.7.1955 linh mục đau nặng nằm liệt giường và ngày 10.7. 1955 thì qua đời, căn cứ theo « Lịch sử giáo phận Huế » tập 3, tr. 82 của LM Nguyễn Văn Hội viết theo hồ sơ văn phòng Tòa Tổng Giám Mục Huế. (Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 46, 47). Hai tác giả khác như Louis Malleret trong Notice sur la vie et les travaux du R.P. Léopold Cadière, ghi ngày mất của linh mục Cadière là ngày 6.7. 1955; Georges Lefas trong bài viết về cha Cadière trong « Tạp chí Truyền giáo Nước ngoài Paris » (chú thích tr. 5) cũng ghi ngày mất là 6.7.1955.
9.- Ngọc Quỳnh, « Hoài niệm Cố Cả », Nguyệt san Nguồn Sống, Địa phận Huế, số 1 ngày 15.7. 1958, tr. 45, dẫn theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 44.
10.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 44.
11.- Louis, Malleret, Sđd, tr. 9.
12.- Trương Văn Chình, Bđd, tr. 16.
13.- L. Cadière, Les lieux historiques du Quang-Binh, Bulletin de l’École Francaise d’Extrême Orient, 1903.
14.- L. Cadière, Sđd.
15.- L. Cadière, Sđd.
16.- L. Cadière, Sđd.
17.- L. Cadière, Sđd.
18.- L. Cadière, Croyances et Pratiques Religieuses Des Vietnamiens, École francaise d’Extrême-Orient, Tome III, 1992, tr. 53.
19.- L. Cadière, Sđd., tr. 73.
20.- L. Cadière., Sđd, tr. 188.
21.- L. Cadière, Sđd, Tome II, tr. 215.
22.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52. Tác giả Nguyễn Lý Tưởng trong bài « LM Léopold-Michel Cadière (1869- 1955): Nhà Huế học và là người có công lớn đối với sử học và ngôn ngữ học Việt Nam » trên nguyệt san Hiệp Nhất số 123, tháng 03-2003, tr. 66, đã có viết: « Trong biến cố Tết Mậu Thân (1968), Việt Cộng vào chiếm Dòng Thiên An, đặt súng phòng không trên nóc nhà thờ để bắn máy bay của Mỹ và VNCH đến giải tỏa quân Bắc Việt chiếm đóng thành phố Huế. Máy bay Mỹ đã ném bom tiêu diệt ổ phòng không của Việt Cộng tại Thiên An, làm thiêu hủy thư viện tại đây. »
23.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
24.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
25.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
26.- Nguyễn Lý Tưởng, Tlđd, tr. 60.
27.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 51.
28.- « Missions de Hué » trong « Annales de la Société des Missions Etrangères, 1911, tr. 14, tr. 307. Trong tập san MEP, bài của LM. Bernard Maitre, SJ, tr. 38- 39, dẫn lại theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 47.
29.- Bernard Maitre, Tlđd, theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 48.
30.- Tạp chí MEP. số 92, tr. 497, dẫn theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr 50.
31.- Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu xuất bản, tr. 71.
32.- Xem bài tựa của Paul Boudet viết trên đầu cuốn Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiennes, Publications de la Société des Etudes indochinoises; Imprimerie nouvelle d’Extreme-Orient Saigon, 1958.
33.- Nguyên văn: J’ai compris les Annamites parce que j’ai étudié ce qui les concerne. J’ai étudié leur langue, dès mon arrivée ici, et je continue à le faire à l’heure actuelle, et je me suis rendu compte que la langue annamite est d’une grande finesse au point de vue de la construction et que sa richesse au point de vue du vocabulaire ne doit pas être dédaignée, comme on le fait trop souvent. »
34.- Trương Văn Chình, Bđd, tr. 46.
* Tác giả Trương Văn Chình, tức Trình Quốc Quang, trước có hoạt động đảng phái ở ngoài Bắc sau vào Nam đổi tên, bạn với ông Nguyễn Đình Đầu, và lớn tuổi hơn ông Đầu (Nguyễn Đình Đầu năm nay cỡ 85 tuổi) khoảng năm 1959 là Giáo sư thỉnh giảng môn Ngữ học Việt Nam tại Viện Đại Học Huế, đã viết nhiều công trình biên khảo giá trị.
* Tạp chí Đại Học, cơ quan nghiên cứu của Viện Đại Học Huế xuất bản từ năm 1957 do giáo sư Nguyễn Văn Trung làm chủ bút, bài vở do các giáo sư thuộc Viện Đại Học Huế hay có khi Sài Gòn viết. Năm 1961, giáo sư Nguyễn Văn Trung chuyển vào Sài Gòn và công việc điều hành Tạp chí này giao lại cho giáo sư Trần Văn Toàn. Giáo sư Trần Văn Toàn, ngoài việc viết bài dẫn nhập từng kỳ báo còn đóng góp nhiều bài vở và nhất là mời các nhóm cộng tác như nhóm của linh mục Nguyễn Phương, giáo sư Trần Kinh Hòa (Đại Học Hương Cảng) và liên lạc với một số người viết qua ông Nguyễn Anh (trước đây được linh mục Cao Văn Luận biệt phái ra lo việc hành chánh cho tờ tạp chí này) là người liên lạc thẳng với cha Luận để lo trả tiền nhuận bút cho các tác giả. Sau đó ít lâu khi giáo sư Bùi Xuân Bào ở Pháp về, nhóm học trò cũ của ông Bào (cũng là học trò cũ của cha Luận; vì thế trước khi cha Luận đi khỏi Huế, họ có tặng cha 4 chữ Nho đầy ý nghĩa: Sự sinh đại nghĩa) là Lê Tuyên, Lê Văn, Lê Khắc Phò v.v... bàn với nhau và với cha Luận là để giáo sư Bùi Xuân Bào làm chủ trương biên tập thay giáo sư Toàn, nhưng sau không thấy gì vì giáo sư Bào ở lại Sài Gòn.
Sau khi linh mục Cao Văn Luận đi khỏi Viện Đại Học Huế (1964), không còn tiền nhuận bút nữa và Tòa Viện trưởng lại đưa ông Nguyễn Anh về làm ở Tòa Viện trưởng, Tạp chí Đại Học đã phải đình bản. Sau đó nhóm Lập Trường (chủ yếu là Lê Tuyên, Hoàng Văn Giàu dựa thế Phật Giáo ở Huế) nắm lấy nhà in Đại Học coi như là của riêng của họ. (Trao đổi với Giáo sư Trần Văn Toàn, tháng 10-2005, hiện ở Lambersant, Pháp.)
** Bình Nguyên Lộc, tên thật là Tô văn Tuấn, sinh ngày 7.3.1914 tại làngTân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Trước chiến tranh, ông làm công chức tại Tổng nha Ngân khố. Kể từ năm 1948, ông thôi làm công chức và chỉ chuyên viết văn viết báo mà thôi. Ông đã viết trên 100 tác phẩm, khoảng 40 cuốn đã được xuất bản, gồm hai loại tiểu thuyết, và khảo cứu dân tộc học, ngôn ngữ học. Những tác phẩm quan trọng của Bình Nguyên Lộc: Đò dọc (1959), Gieo gió gặt bão (1959), Ký thác (1960), Nhện chờ mối ai (1962), Xô ngã bức tường rêu (1963), Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (1963), Bóng ai qua ngoài song cửa (1963), Hoa hậu Bồ đào (1963), Mối tình cuối cùng (1963), Nửa đêm trảng sụp (1963), Tâm trạng hồng (1963), Đừng hỏi tại sao (1965), Mưa thu nhớ tằm (1965), Tình đất (1966), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Một nàng hai chàng (1967), Quán tai heo (1967), Thầm lặng (1967), Trăm nhớ ngàn thương (1967), Uống lôn thuốc tiên (1967), Đèn Cần giờ (1968), Diễm Phương (1968), Sau đêm bố ráp (1968), Cuống rún chưa lìa (1969), Khi Từ Thức về trần (1969), Nhìn xuân người khác (1969), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1973), Lột trần Việt ngữ (1973)... Tại hải ngoại, năm 1986 nhà xuất bản Văn Nghệ vừa cho tái bản tập truyện ngắn Ký Thác của nhà văn Bình Nguyên Lộc gồm một số những truyện ngắn xuất sắc trong 500 truyện ngắn ông đã viết...Bình Nguyên Lộc qua đời ngày 7.3.1987 tại Rancho Cordova, tiểu bang California, Hoa Kỳ, và được an táng tại nghĩa trang Sunset Lawn, Sacramento, California ngày 14.3.1987. (Theo tạp chí Văn Học số 18 tháng 7 năm 1987.)
LINH MỤC LÉOPOLD-MICHEL CADIÈRE (1869-1955)
TRÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH
Linh mục Léopold-Michel Cadière đối với dân tộc Việt Nam là một nhà thừa sai và một nhà bác học. Đối với Quảng Bình, hai ý nghĩa đó thật đã được thể hiện rõ nét, cụ thể trong cuộc đời của linh mục suốt hơn sáu mươi năm làm công tác mục vụ và nghiên cứu về đất nước Việt Nam. Tên Việt Nam của ngài là Cả, tục gọi cố Cả.
Georges Coedès, một nhà nhân chủng học có tiếng thế giới, khi nhận định về giá trị các công trình nghiên cứu khoa học của Léopold-Michel Cadière, đã viết rằng: « Công trình khoa học của cha Cadière không những có giá trị vì chứa đựng một kho tàng gồm có các sự kiện xã hội quan sát chính xác để cống hiến cho các nhà khảo cứu. Công trình ấy có giá trị như một gương mẫu khách quan hoàn toàn mả một nhà quan sát vô tư và bất vụ lợi có thể đạt tới được trong khi nghiên cứu một nhóm người thuộc một thế giới khác, bẩm sinh một tinh thần khác, theo một tôn giáo khác. » [1]
Linh mục Léopold-Michel Cadière sinh ngày 14-2-1869 tại Sainte-Anne-des-Pinchinats, gần Aix-en-Provence vùng cửa sông Rhône đông nam nước Pháp. Thuở nhỏ cậu bé Cadière học trường làng rồi sau chuyển lên Aix học trường trung học Bourbon, vào chủng viện Aix do các giáo sư Hội Xuân Bích (St. Sulpice) dạy. Trong hồi ký Souvenirs d’un vieil annamitisant, linh mục rất cảm phục các công trình nghiên cứu của các linh mục Tu hội Saint Sulpice và cho biết « dưới sự hướng dẫn của các bậc thầy thông minh, tôi đã đọc ngấu nghiến tác phẩm của các ngài và một ngày kia muốn trở nên như các ngài vậy. » [2] Ngài thọ phong linh mục ngày 4-9-1892, lúc 23 tuổi, và lên đường sang Việt Nam ngày 26-10-1892. Được Đức Cha Caspar bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu chủng viện An Ninh, ở Đất Đỏ, Cửa Tùng, Quảng Trị tháng 1-1893, linh mục Cadière phụ trách môn Tu từ học và Triết học và sau đó ngài được giao cho dạy Thần học ở Đại chủng viện Huế. Sau đó linh mục Cadière được bổ nhiệm làm cha sở tạm giáo xứ Tam Tòa, một họ đạo nằm giữa tỉnh lỵ và năm xóm (hameaux) với hơn một nghìn giáo hữu bên bờ sông Nhật Lệ, xây dựng trên một phần đất của Lũy Thầy, nơi có rất nhiều di tích lịch sử để lại cũng là yếu tố khiến linh mục Cadière phải chú tâm. Theo Louis Malleret, cách giáo xứ Tam Tòa vài cây số có một tấm bia ghi lại các biến cố chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã cung cấp cho cha Cadière một đề tài để nghiên cứu, và công trình đó đã được Viện Khoa Học Pháp (L’Institut de France) khen thưởng năm 1903 và ấn hành trên Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1906. Đây là công trình nghiên cứu lịch sử đầu tay của Cadière đã được đánh giá cao.[3]
Sau khi ở xứ đạo Tam Tòa được một năm, tháng 10 năm 1896 linh mục Cadière được thuyên chuyển đến Cù Lạc là một vùng thuộc tổng Cao Lao, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nằm trên hữu ngạn nguồn Son (sông Gianh). Cù Lạc là một xứ đạo ở phía bắc địa phận Huế, là một vùng gồm toàn rừng rậm và núi đá vôi, cả một vùng rộng lớn hầu như chưa có dấu tích khai phá. Chính nơi đây linh mục Cadière đã có dịp phát hiện được những liên hệ rất chặt chẽ giữa tiếng Mường với một thứ tiếng mà linh mục de Rhodes đã biết đến ở Bắc Kỳ trong thế kỷ XVII. Linh mục Cadière cũng còn nhận thấy các phong tục và truyền thống ở Cù-Lạc cũng là những chất liệu để giúp cho người thực hiện các công trình biên khảo về ngữ học và dân tộc học. Ngoài ra thứ tiếng Việt mà linh mục đã học để nói và viết trước đó đều là thứ tiếng Việt trong những cuốn kinh sách có ngữ pháp mô phỏng theo tiếng Pháp hay tiếng La-tinh [4] hoàn toàn khác với thứ tiếng ngoài dân gian. Do đó linh mục đã tìm mọi cơ hội đi ra ngoài dân chúng để học thứ tiếng Việt đó từ những người bán hàng rong, người tiều phu, dân làm ruộng v.v... và quyết công tìm ra những bí mật của thứ ngôn ngữ dân gian đó.
Trong bài báo Đọc cuốn « Syntaxe de la langue Vietnamienne » đăng trên tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế, Giáo sư Trương Văn Chình, một nhà ngữ học Việt Nam, đã viết rằng: « Linh mục Cadière cũng như nhiều nhà nghiên-cứu ngữ-pháp Việt-Nam, chẳng hạn như ông Trần Trọng Kim, hay gần đây như giáo sư Honey, nhận định rằng không thể rập theo ngữ-pháp Pháp mà viết ngữ-pháp Việt-Nam...Nghiên cứu ngữ-pháp Việt-Nam, linh-mục Cadière lấy tài liệu ở ngôn ngữ hàng ngày hoặc của người có học (gens lettrés) hoặc của người thất học (gens sans culture), chứ không căn cứ vào văn chương cổ vì văn chương cổ có nhiều từ ngữ Hán-Việt. Tuy thế, linh mục nhận định rất đúng dù rằng văn-chương hay ngôn-ngữ thông thường, thì tiếng Việt cũng theo cùng một ngữ pháp. » [5]
Nhờ sống ở giáo xứ Cù-Lạc vốn trải dài trên nhiều cây số, cha Cadière phải đi lại thường xuyên trong các cuộc viếng thăm giáo dân ở những vùng chưa có ai bước chân tới và điều đó đã kích thích tính hiếu kỳ nơi ông. Qua các chuyến hành trình vất vả đó, linh mục Cadière đã khám phá động Phong-Nha nổi tiếng, ghi chú lại các dấu tích kỷ niệm về văn minh Chàm, tìm ra các giống thực vật lạ hiếm, khoái tìm hiểu dân Tắc-củi vốn là tộc người còn rất mọi rợ với cuộc sống thật bí hiểm mà nhiều người cho là như giống dân Pygmées. Chính là tại Cù-Lạc mà linh mục đã quen biết với Louis Finot, vị giám đốc đầu tiên của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1901, vì lý do sức khỏe, sau 6 năm sống tại Cù-Lạc, linh mục đã đi tĩnh dưỡng ở Hồng Kông. Xứ đạo Cù-Lạc được cắt ra làm hai gồm xứ Bồ-Khê và Cù-Lạc. Khi đi Hồng Kông về, linh mục Cadière được bổ làm cha xứ Bồ-Khê tức xã Thanh Trạch, trên hữu ngạn sông Gianh sát bờ bể. Ông ở đó hai năm và sau đó được bổ làm cha xứ Cổ vưu (Quảng Trị) kiêm hạt trưởng hạt Dinh Cát. Trong sách Sông Gianh Đàng Trong Giáo hạt Quảng-bình 1615-1975, các tác giả Nguyễn Thế Hùng, Hoàng Đình Hiếu cho biết linh mục Léopold Cadière có làm cha xứ Mỹ-Hòa, huyện Quảng-Trạch. Chúng tôi đã có dịp thảo luận lại với ông Hoàng Đình Hiếu và luận đoán rằng có lẽ giáo xứ Mỹ Hòa là một trong nhiều họ đạo được Linh mục Cadière kiêm nhiệm, và vì Mỹ Hòa chỉ cách Bồ Khê dòng sông Gianh nên đó là nơi linh mục Cadière hay đến làm công việc mục vụ, nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân gian. [6]
Một điều cần chú ý là những nơi linh mục Cadière được bổ nhiệm đến hầu hết là những nơi có ít nhiều dấu tích lịch sử, chẳng hạn như ở Dinh Cát vốn là nơi khởi đầu bước chân của Nguyễn Hoàng khi ông được Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa năm 1558 theo lời khuyên bí mật của Nguyễn Bỉnh Khiêm với câu nói để đời « Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân. .. », nơi đạo Công Giáo đã đi vào xứ An Nam với những người Công Giáo thuần thành tiên khởi đã có tiếng trong lịch sử như Minh Đức Vương Thái Phi, vợ của Nguyễn Hoàng và nơi còn để lại nhiều dấu tích của người Chăm-pa như ở Trung Đơn (Hải Lăng), Dương Lệ (Triệu Phong)...
Cuối năm 1910, sau gần bảy năm làm mục vụ ở Cổ vưu, xây nhà thờ, mở trường học, chăm sóc giáo dân, dạy dỗ trẻ em, linh mục cảm thấy sức khỏe suy sụp nên đã xin phép bề trên và được về nghỉ sức tại Pháp. Nhân chuyến này, ông tìm được các tài liệu bản thảo gốc cuốn từ điển của giáo sĩ Alexandre de Rhodes tại Rôma, thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn Ánh với các sĩ quan Pháp qua giúp ông ở Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII. Từ năm 1913 đến 1918, sau khi trở về Huế, cha Cadière được Đức Cha Allys (Lý) cử làm tuyên úy trường Pellerin và chính trong thời này ngài đã cộng tác với một số các nhà trí thức Pháp ở Huế thành lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ, ấn hành tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Hué). Tháng 9 năm 1918 cha Cadière được bổ làm cha sở giáo xứ Di Loan, trong thời gian này ngài được cử làm Hội viên Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Di Loan là nơi, năm 1849, Giám mục Pellerin đã lập một chủng viện tọa lạc ở trung tâm làng Di Loan, tứ phía rừng tre bao bọc để bảo đảm an toàn cho chủng viện. Hệ thống báo động được tổ chức chặt chẽ dựa vào sự che chở của giáo dân. Ở Di Loan, linh mục Cadière đã để công sưu tầm được rất nhiều loại thực vật và chính ngài đã gửi những loại cây mẫu về cho Bảo tàng lịch sử thiên nhiên ở Paris. Năm 1928 ngài về Pháp chữa bệnh tim và năm 1930 trở lại tiếp tục công tác mục vụ ở Di Loan.
Chính linh mục Cadière là người phụ trách Tạp chí Sacerdos Indosinensis (Linh mục Đông Dương) là cơ quan ngôn luận của giáo sĩ Việt Nam. Sự thông minh uyên bác và tinh thần tích cực hoạt động của linh mục đã biến ngài trở nên hội viên nòng cốt của một số hiệp hội khoa học lúc bấy giờ như Hội Viễn Đông Bác Cổ, Hội Ngôn Ngữ Á Châu, Hội Địa lý học Hà Nội, Hội Bách Thảo Paris, Hàn Lâm Viện Aix, Hàn Lâm Viện Khoa học Thuộc địa, Hội Giáo dục Tinh thần và Luân lý Việt Nam, Hội Thuần dưỡng Paris, Hội Đông Dương Học Sài Gòn, Hội viên Trường Nhân chủng học Đông Dương v.v... Chính Louis Malleret khẳng định rằng linh mục Cadière là người sáng lập thực sự của ngành thiểu số học ở Việt Nam và trong lãnh vực này ngài không bao giờ trở thành lỗi thời. [7]
Sau biến cố Nhật đảo chánh 9-3-1945, ngài bị Nhật quản thúc ở Huế và sau cuộc kháng chiến toàn quốc 19-12-1945, ngài bị chính quyền Việt Minh bắt cùng với 6 linh mục Pháp khác ra giam giữ tại Cầu Rầm (Vinh). Cuộc vây bắt linh mục Cadière tại giáo xứ Di-Loan diễn ra quyết liệt giữa công an Việt Minh và giáo dân vì giáo dân ở đây rất thương mến ngài nên đắp ụ đường chận xe công an từ phủ Vĩnh Linh xuống, kéo chuông nhà thờ, và đánh mõ, đánh trống huy động nhau ra ngăn cản và đã đánh trả quyết liệt với công an suốt ba lần tấn công vào giáo xứ, thật đúng với ca dao sau đây:
« Văn chương Xuân-mị
Lý sự Thị-Khê
Làm thuê Cam-Phổ
Ở lỗ (truồng) làng Tùng
Anh hùng Di-Loan. »
Một viên công an VM đeo súng lục, đi xe Traction màu đen có lẽ tịch thu được của người Pháp, chỉ huy cuộc vây bắt này. Trước khi cha Cadière bị bắt, ngài đã viết giấy để lại cho Dòng Thiên-An Huế toàn bộ sách vở của ngài tại Di-Loan, và khi Dòng này đưa ghe ra chở, giáo dân phải dùng xe bò chở sách từ nhà xứ xuống ghe đậu ngoài biển cửa Tùng mất đến ba ngày. Ngày 13-6-1953, cha được chính phủ Việt Minh trả tự do và ngài tình nguyện xin về lại giáo phận Huế. Chính phủ Việt Minh đưa ngài từ Quảng Bình vào Huế cùng với 14 linh mục ngoại quốc còn sống. Linh mục Cadière lưu lại tại Huế và mất ngày 10-7-1955, thọ 86 tuổi, an táng tại nghĩa trang Đại chủng viện Huế. [8]
Trong thời gian còn bị Việt Minh quản chế ở Vinh, linh mục Cadière đã viết như sau: « Tôi đã hiểu người Việt vì tôi nghiên cứu những gì liên quan đến họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng Việt ngay từ khi mới đến đây và tôi hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu (...) Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng lễ nghi tôn giáo, phong tục người Việt, tôi yêu mến người Việt. Tôi yêu mến người Việt vì họ thông minh xuất sắc và tinh thần linh lợi (...) Tôi yêu mến người Việt cũng vì họ trải qua nhiều đau khổ. » [9] Trong Hồi ký, linh mục Cadière đã viết những câu rất cảm động: « Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi những năm tháng thoát khỏi mọi công việc để chuyên tâm cầu nguyện. » [10]
Đó là cô đọng những lời tâm huyết mà linh mục Cadière sau thời gian 63 năm chung sống với người Việt đã quyết định gửi nắm xương tàn của ông ở lại Việt Nam cùng với tất cả cốt lõi tinh hoa trong tinh thần của mình trải rộng qua biết bao tác phẩm và công trình nghiên cứu về Việt Nam, đặc biệt về ba tỉnh Bình Trị Thiên và miền Trung mà ông đã bỏ công nghiên cứu và viết ra trên giấy trắng mực đen.
Một nhân chứng người giáo xứ Di-Loan, ông Hoàng Hữu Hiền hiện sống tại New Jersey cho biết năm 1955 có gặp lại linh mục Cadière tại Tòa Giám Mục Huế (Nhà Chung) và lúc bấy giờ lưng ngài còng hẳn xuống, thấp lại, bận một bộ áo bà ba nâu của dân quê xứ Nghệ Tĩnh.
Có lẽ xứ Tam Tòa nói riêng và đất Quảng Bình nói chung đã cho linh mục Cadière những dữ kiện tiên khởi để ông bắt đầu để tâm nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử Việt Nam. Nhờ nhận thấy trong tiếng Việt có những phương ngữ khác với thứ ngôn ngữ trong sách vở mình đã học trước kia nên linh mục đã viết được công trình Ngữ âm học Việt Nam gồm 2 cuốn: « Phương ngữ thượng du Trung Kỳ » xuất bản năm 1902, dày 113 trang, và « Phương ngữ trung du Trung Kỳ » xuất bản năm 1911, dày 44 trang. Chính Cadière cũng quan tâm đến ngôn ngữ Mường vùng thượng nguồn sông Gianh và là người đầu tiên nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi giữa tiếng Mường với tiếng Việt vùng bắc Trung Kỳ [11]. ( Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam, trong những tác phẩm đã xuất bản của Trường Viễn Đông Bác Cổ Vol. III. Paris Imprimerie Nationale, Ernest Leroux, rue Bonaparte, 28, 1902).
Theo Giáo sư Trương Văn Chình, « Linh mục Cadière phân biệt tiếng Bắc, tiếng Trung và tiếng Nam, và những tỉ dụ trong sách phần nhiều là tiếng Quảng Bình, nên ông đã định đặt tên sách là Syntaxe de la langue annamite suivant le dialecte du Haut-Annam (ngữ pháp Việt Nam theo thổ ngữ miền Bắc Trung-Việt). Nhưng linh mục nhận ra rằng tiếng nói ba miền chỉ có rất ít từ ngữ thông thường khác nhau, nên không hại gì đến nền duy nhất của tiếng Việt, mà ngữ-pháp từ Bắc chí Nam, đâu cũng như nhau. Vậy người soạn ngữ-pháp Việt-Nam, có thể lấy tài liệu ở bất cứ một nơi nào trên đất Việt. Điều này, linh mục nhận định cũng rất đúng. Người Việt-Nam dù có tiếng phát âm khác nhau, dù có nơi dùng một số thổ ngữ, nhưng hễ cấu tạo tiếng nói thành câu, thì đâu đâu cũng phải theo cùng một ngữ-pháp. » [12]
Tính từ năm 1898 khi linh mục Cadière đặt bút viết lá thư đề ngày 13-01-1898 nói về trận đói ở Quảng Bình gửi cho Tập san Missions Catholiques, Lyon 1898 cho đến năm 1955, trong vòng 57 năm, có cả thảy 245 tác phẩm của ngài được viết ra và ấn hành gồm rất nhiều sách, tập tham luận, bài nghiên cứu, bài sưu khảo từ lịch sử đến địa lý, địa lý học lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, khoa học tự nhiên, văn học và kiến thức tổng quát.
Riêng về tỉnh Quảng Bình, linh mục Cadière đã viết khoảng 17 quyển sách và tập tham luận, bài nghiên cứu trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng là Le mur de Dông-hới, Les lieux historiques du Quang-Binh, Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam, Coutumes populaires de la Vallée du Nguồn-Son, Géographie historique du Quang-Binh, Les Fougères du Quang-Binh v.v...
Có lẽ trong số những người viết về Quảng Bình nhiều người cảm thấy thân thiết, gần gũi với làng mạc ở đây, nhưng có lẽ không bằng linh mục Cadière khi chúng ta có cơ hội đọc lại những tác phẩm của ông như Les lieux historiques du Quang-Binh hay Le mur de Dong-hoi. Cây đa đầu làng là một hình ảnh rất quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam, nhất là ở Quảng Bình cho nên đó cũng là hình ảnh ghi nhận rõ nét dưới ngòi bút của Cadière. Ông gọi các làng như làng Trung-Bính nay thuộc xã Bảo-Ninh là « làng của những cây đa » (village des banians). [13]
Gốc tích của một làng, như làng Hữu Cung ở gần thị xã Đồng Hới chẳng hạn, cũng được linh mục Cadière viết lại tương đối rõ ràng, có thể giúp cho giới nghiên cứu sử học sau này nhiều thẩm định chính xác, lợi ích: « (...) Trước khi đi đến Đồng Hới, cần phải chỉ ra một địa điểm quân sự hình thành ra cái làng hiện nay, đó là làng Hữu Cung. Những địa điểm quân sự này, ít thấy ở phần phía bắc Quảng Bình, nhưng rất nhiều ở miền nam tỉnh này, ví dụ như làng Dinh Ngói mà chúng ta đã thấy. Địa danh của nó tự giải nghĩa cho nó. Những đồn lũy rải rác trên lãnh thổ Quảng Bình trước đây có nguồn gốc do những binh lính canh giữ một con đường hay một vị trí chiến lược, hoặc nhằm đẩy lùi những trận tấn công đầu tiên của đối phương. Về sau, tôi không hiểu chính xác niên đại nào nhưng chắc chắn là vào thời Gia Long hoặc sau này Minh Mạng, những binh lính giải ngũ định cư lập ấp thì đất đai thường thường cắt xén của những làng xã chung quanh, đôi khi làm rối tung lên một cách thô bạo đối với những đất đai bao gồm đồn trại của họ trước đó. Những làng xóm này thường giữ nguyên, hoặc sửa đổi đôi chút, tên các đơn vị thuyền, hoặc đội, hoặc cơ, cấu thành từ trước (...) Ngôi làng Hữu Cung, xưa kia còn gọi là Hữu Cai, thổ ngữ biến thành Hồ Cai, nguyên do thuyền cùng tên, đóng quân trên đất làng Phú Xá. Từ những điểm cao ấy mà bao quát cả cánh đồng lớn của Đồng Hới và những gò đồi cao nguyên trải dài ở phía bắc, người ta có thể canh chừng được sự đột nhập của đối phương, kháng cự với đội tiên phong của họ khi cần thiết. » [14] Một số chiến lũy dưới thời Trịnh Nguyễn ngày trước cũng được linh mục Cadière khôi phục lại: «. .. Sách địa lý An nam còn ghi chú rằng ở phía nam đồn Sa Phụ có một bức lũy dài chạy theo bờ biển đến làng Liêm Luật hiện nay còn nằm ở khoảng cửa sông Nhật Lệ và cửa sông Minh Linh, tức Cửa Tùng. Lũy này được gọi là lũy Trường Sa ». [15]
Đối với linh mục Cadière, một góc thành, một khoảnh phế lũy trên đất nước Quảng Bình đều là dấu tích của lịch sử, và ông trân trọng đưa vào trong sách vở với những ghi chú đầy đủ và phân tích thận trọng. Trong tác phẩm Les lieux historiques du Quang-Binh, ông viết về Thành Lồi ở Mỹ Thổ, chùa Phật ở làng Uẩn Áo, các di tích của Dinh Mười và Dinh Mới, các làng Võ Xá, Thạch Xá v.v... [16]
Những dữ kiện linh mục Cadière thu lượm được góp lại trong một số các công trình sưu khảo về lịch sử trên đất nước Quảng Bình nói chung đã giúp cho người đọc có dịp nhận định lại những điều do các sử sách trước đây đã viết, đối chiếu, suy luận để tiếp cận với sự thật lịch sử nhiều hơn.
Chính linh mục Cadière cũng cho một khái niệm khác biệt về đường biên giới phân chia Đàng Trong với Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Nguyễn, không đơn thuần là một con sông như sông Gianh mà là cả vùng thung lũng sông Gianh. [17]
Ngoài ra, linh mục Cadière cũng lưu tâm đến các hình thức tín ngưỡng dân gian hiện còn ghi lại trong sách vở của ngài. Trong tác phẩm Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, linh mục viết rằng: « Ở tỉnh Quảng bình, người ta tuồng như có thờ kính ông Trời. Trước mỗi nhà, đối diện với gian nhà giành để thờ kính tổ tiên, và trong sân, người ta trồng một trụ gỗ cao khoảng một mét đến hai mét, ở trên bày một tấm ván nhỏ làm thành một bàn thờ. Bàn thờ ấy thường được dựng vào chỗ đầu tiên nơi người ta muốn đặt, và có khi nhà cửa phá đi nhưng bàn thờ vẫn còn. Các nhà giàu có thường xây một trụ bằng vôi hồ trên một hốc tường. trên bàn thờ luôn có một bát nhang bằng đất cắm mấy que nhang. Theo một vị tú tài ở làng Đặng-đề thuộc tỉnh Quảng bình, người ta thờ ở đó Cửu Thiên Huyền Nữ. Người ta dâng đồ cúng ở đó cũng như ở trong nhà vào đêm giao thừa, ngày mồng năm tháng năm, ngày mười lăm tháng chín, và ngày rằm mỗi tháng. Tôi cho rằng, qua những tập tục lễ bái đó, dưới ảnh hưởng của Lão giáo, người ta muốn bày tỏ niềm tin đơn thuần của họ vào các vị thần linh hay vào ông Trời... » [18]
Các truyền thuyết dân gian như chú Cuội, cũng được linh mục ghi lại qua các câu ca dao nghe được ở Quảng bình:
Thằng móc thằng mách,
đứng trửa mặt trăng,
cầm rừa cầm rạ
đốn săng kiền kiền,
làm nốc làm thuyền,
cho thuê cho mượn,
té tiền mua ăn. [19]
Điệu hát ru con sau đây ở Quảng Bình cũng không thoát khỏi sự chú ý của linh mục Cadière:
Xít tù và !
Qua năm mới. - tới năm cũ;
Đào lỗ mà chôn, - Con chồn nhảy ra;
Con ma nhảy lại, - Mụ Đại đạp đi;
Mụ Nhị mần thịt; - Mụ Chịt nấu ăn ! [20]
Những hòn đá thiêng được gọi là Bụt mà linh mục Cadière đã gặp ở Ròn, vùng bắc Quảng Bình, hay không xa chỗ đó có một nơi gọi là Mả Cô (le Tombeau de la demoiselle) hoặc tảng đá Quán Bụt (Auberges du Buddha) ở làng Thủy-liên-hạ tục gọi Sen-hạ ở huyện Lệ Thủy, những chuyện ma và các tập tục mê tín của vùng thung lũng nguồn Son – sông Gianh, những câu hát đồng dao do các trẻ mục đồng cất lên trong buổi chiều lùa trâu về chuồng như:
Mê bẹ mê mê !
Con đi dọi mạ,
Cá đi dọi bầy.
Chớ lạc bầy ai,
Ăn ló ăn khoai !
Chặt tlốc chặt tai,
Vày vô nồi hai,
Tiêu hành nác mắm !
Mê bẹ mê mê ! [21]
vốn là những tư liệu văn hóa dân tộc đầy ắp trong các sách vở của linh mục ghi lại, và cần thiết biết bao cho những ai muốn tìm về cội nguồn của đất nước thân yêu.
Thật ra tấm lòng của linh mục Cadière không chỉ dàn trải với non sông Quảng Bình mà còn bao quát khắp mọi vùng đất nước Việt Nam. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, sâu sắc, uyên bác trong từng chủ đề, từng lãnh vực tri thức, có giá trị không những nhiều thập kỷ trước đây mà còn mãi cho tới bây giờ.
Ngày nay, đã có những nhận định về linh mục Léopold-Michel Cadière được viết ra ở trong nước cũng như ở hải ngoại, một việc làm rất đáng hoan nghênh để vinh danh những công lao vô giá của linh mục Cadière đối với nền văn hóa Việt Nam.
Trên Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc (số 854, ngày 26.4.1992), Võ Xuân Trang có viết một bài tựa đề « Léopold Cadière, một linh mục, một nhà khoa học, một con người gắn bó với Huế », với đoạn kết rằng: « Một số tài liệu di khảo chưa công bố, linh mục đã trối lại cho Dòng Thiên An cất giữ để hậu thế sử dụng, nhưng tiếc thay năm 1968 bom Mỹ đã đánh trúng thư viện dòng Thiên An (...) ». [22]
Trong bài « Tưởng nhớ nhà Huế học quá cố Léopold Cadière », đăng trong báo Lao Động (số 75/94 4016) ra ngày 23.6.1994, Nguyễn Đắc Xuân đã viết: « Huế đã được công nhận di sản thế giới. Để có được sự công nhận ấy một thế kỷ qua, nhiều nhà Huế học, nhà văn, nhà nghiên cứu đã đóng góp biết bao công trình để giới thiệu Huế với thế giới. Người được tôn là bậc thầy trong công việc này là Léopold Cadière (...) Duy có « một điều lạ » là không có mấy người biết về cuộc đời Léopold Cadière. Nguyên nhân vì đức khiêm tốn, lúc sinh thời ông cho rằng những gì nói về ông là không cần thiết. » [23]
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 6 năm 1995, cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, dưới bài viết nhan đề « Linh mục Cadière, một trong những người mở đầu môn Việt Nam học », Đào Hùng đã tổng kết rằng: « Có thể nói tư tưởng của linh mục Cadière đã mở đường cho những người nghiên cứu Việt Nam đầu thế kỷ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đáng cho tất cả những ai quan tâm đến môn Việt Nam học, dù là người Việt hay người nước ngoài, phải kính cẩn suy ngẫm. Ông đã đem lại những hiểu biết sâu sắc về dân tộc Việt Nam, một dân tộc mà nhiều nhà nghiên cứu trước đây từng nghĩ rằng đã hoàn toàn Hán hóa, không có cá tính... » [24]
Trong một tác phẩm có tên Nhân vật giáo phận Huế, Lê Ngọc Bích đã dành 14 trang sách lớn để viết về linh mục Léopold-Michel Cadière với những nghiên cứu chi tiết và giá trị để thiết lập một bản tiểu sử khá đầy đủ về linh mục Cadière. Trong phần kết luận, Lê Ngọc Bích đã viết rằng: « Léopold Cadière, một con người suốt đời gắn bó với Huế, nhà Huế học kiệt xuất bậc thầy, nhà Việt Nam học. Công lao của Cadière trong việc nghiên cứu về Huế hẳn nhiên nhiều người công nhận và trân trọng. Tuy nhiên, có một điều lạ là Huế chưa có con đường nào được mang tên Léopold Cadière, con người đã giới thiệu Huế với Thế giới. » [25]
Trên Tập san Định Hướng số 31 ra Mùa Hè năm 2002, Nguyễn Lý Tưởng đã viết một bài nhan đề «Léopold-Michel Cadière và những công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam ». Mở đầu bài viết này, Nguyễn Lý Tưởng cho biết một chi tiết khá đặc thù như sau: « Trước năm 1945, xe lửa chạy suốt Sài Gòn ra Hà Nội theo thông lệ, chỉ dừng lại ở các ga lớn của các thành phố, tỉnh lỵ quan trọng chứ không ngừng ở các trạm nhỏ. Nhưng có một làng nằm giữa đoạn đường Đông Hà (Quảng Trị) và Đồng Hới (Quảng Bình) là làng Di Loan, thuộc phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, đã được Toàn Quyền Đông Dương cho phép thiết lập một ga tạm nhỏ và xe lửa chạy suốt bắt buộc phải dừng lại đó trong 5 phút để cho một nhà thông thái, một nhà văn hóa kiêm sử gia và cũng là nhà ngôn ngữ học, bước lên tàu để ra Hà Nội họp tại trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Extrême Orient) hàng tháng: Đó là linh mục Léopold-Michel Cadière thường gọi là Cố Cả. »[26] Bài viết của Nguyễn Lý Tưởng cô đọng tất cả những nét chính trong công tác mục vụ và sự nghiệp văn hóa của linh mục Cadière trong suốt 57 năm sống trên đất nước Việt Nam.
Trong tập san « Pháp-Á » (France-Asie) số 112 tháng 5 năm 1955, Maurice Durand viết về linh mục Cadière rằng: « Những công cuộc khảo cứu của ngài chỉ là một phương tiện để tìm hiểu và yêu mến những linh hồn mà ngài có bổn phận chăn dắt. » [27]
Một linh mục Dòng Tên, Bernard Maitre đã ghi lại vài nét về quan điểm của cha Cadière khi sống và tiếp xúc với hàng giáo sĩ Việt Nam trong cuộc đời truyền giáo của ngài:
« Khi tôi tiếp nhận một vị linh mục Việt Nam, tôi nói với vị ấy: Hỡi cha thân mến, chúng ta sẽ chung sống năm hoặc sáu năm, chúng ta không muốn mà sẽ cùng nhau đau khổ, chỉ vỉ cha là người Việt và tôi là người Pháp; chúng ta hãy cố gắng tha thứ cho nhau những điều khốn đốn ấy, để sống cho bằng an. Thật thế, linh mục truyền giáo sống giữa một dân tộc khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục, tư tưởng không phải là không đau khổ về tinh thần, không phải là không đau khổ nhiều. Nhưng những niềm đau khổ hằng ngày ấy, lâu rồi ta cũng quen đi. Có một niềm đau khổ khó lòng mà quên được, ấy là khi lòng hăng hái của ta bị tê liệt, khi những cố gắng của ta trở nên vô hiệu vì thiếu thốn phương kế. » [28]
Đối với các chế độ mà ông phải sống và tiếp xúc với dân chúng trong đó để hoàn tất các nhiệm vụ tôn giáo và tâm linh của mình, linh mục Léopold-Michel Cadière cũng đã có những ý hướng rõ ràng được bày tỏ lại qua nhận xét của Bernard Maitre, như sau: « Rất kín đáo đối với các chính quyền được thiết lập, ngài [Cadière] đã tự nêu gương chứng minh rằng một vị linh mục truyền giáo có thể bảo toàn phẩm cách dưới bất cứ chế độ nào, đôi khi lại biết giúp chế độ đó nhận thức một vài thực tại mà linh mục có thể cảm nhận sâu sắc nhờ có dịp gần gũi người đời. Như ta đã thấy điều đó cũng không hề ngăn trở linh mục cương quyết đứng trong cương vị bênh vực hơn nữa phục hồi mọi giá trị thật sự của các văn hóa cổ truyền, trong công việc này, đứng trong cương vị thừa kế của Giáo hội. » [29]
Năm 1992, cơ quan Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Paris đã cho in lại rất nhiều tác phẩm của linh mục Léopold-Michel Cadière, trong đó có bộ Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens của ngài gồm ba tập hơn 850 trang sách khổ lớn, mà qua đó linh mục đã gửi gắm tất cả những công sức trí tuệ của ngài. Georges Coedès, một học giả mà những công trình nghiên cứu của ông về Đông Dương được đánh giá là rất có giá trị cho nhiều thế hệ, có lẽ là người cũng đã từng cộng tác với linh mục trong một số lãnh vực nghiên cứu, đã viết rằng: « Tôi tin rằng không hề gặp một lần nào ngài viết một từ có vẻ miệt thị là từ « ngoại giáo » để chỉ những người mà ngài mô tả các tín ngưỡng tôn giáo và các nghi thức thần bí. Nếu đối với vị linh mục truyền giáo, người Việt Nam chưa chịu phép thánh tẩy theo đúng nghĩa là người ngoại giáo, thì đối với nhà xã hội học, họ là những người bẩm sinh có phẩm cách nhân vị mà mọi người Kitô hữu tôn trọng, không phân biệt màu da, tín ngưỡng. » [30]
Đối với sự nghiệp văn hóa mà linh mục Léopold-Michel Cadière đã tận tụy một đời dâng hiến với hơn 245 công trình biên khảo dài có ngắn có, thuộc đủ mọi lãnh vực tri thức sử học, ngôn ngữ học, địa lý, dân tộc học v.v... đã giúp ích rất nhiều cho học giới suốt mấy chục năm qua, chính ngài đã khiêm tốn nói rằng: « Chúng tôi không có tham vọng viết sử, chúng tôi chỉ có lôi ra ánh sáng và thu thập cho thật nhiều tài liệu vững để giành cho các sử gia về sau. » [31]
Các công trình viết về Quảng Bình của linh mục Léopold-Michel Cadière xuất hiện trong các Tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1902 và sự gắn bó của người đối với cơ quan ngôn luận này cũng như sự tận tụy trong 30 năm để lo cho Tập san Đô Thành Hiếu Cổ từ năm 1914 đến 1944, cùng thông qua các ấn phẩm của ngài do các nơi khác in ấn, đã nói lên tất cả tấm lòng của ngài đối với đất nước Việt Nam. Ngày nay các công trình đó không những là các tư liệu vô cùng quý giá mà còn có khả năng soi sáng những vấn đề tồn động của lịch sử, văn học, địa lý rất có ích cho công tác nghiên cứu, học hỏi của nhiều thế hệ Việt Nam trước đây hàng mấy chục năm, bây giờ và cả sau này nữa.
Suy nghĩ về những đóng góp rất giá trị và nhiệt tình của linh mục Cadière đối với nền văn hóa Việt Nam, Giáo sư Trương Văn Chình đã viết: « Dẫu sao chăng nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn linh mục Cadière đã góp công vào môn ngữ học Việt Nam, không phải là nhỏ. Cuốn Syntaxe de la langue vietnamienne sẽ giúp ích rất nhiều cho người ngoại quốc nào biết tiếng Pháp, để học tiếng Việt, vì có nhiều tiết như tiết dạy về « thuộc tính của thể từ » (genre dans les substantifs), trang 12/14; dạy về cách dùng tiếng xưng hô, trang 47/51; dạy về cách dùng số đếm, trang 23/27; v.v., tuy không ích gì cho chúng ta, nhưng rất quý cho những người ấy.
Chúng ta còn phải cảm ơn linh mục, vì linh mục hiểu chân giá trị của tiếng Việt, và đã nói ra cái giá-trị ấy thế nào. Theo Paul Boudet [32], thì trong bữa tiệc mừng linh-mục sang Việt-Nam được 50 năm (1942), linh mục có nói rằng sở dĩ ông hiểu người Việt-Nam, là vì ông đã nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục, v.v., của người Việt-Nam. Linh mục nhận rằng cách cấu tạo tiếng Việt rất tinh vi, tế nhị, từ ngữ Việt-Nam rất phong phú, dồi dào; vậy không nên khinh miệt tiếng Việt như thường thấy [33]. Cảm động thay, những lời vàng ngọc ấy ! Linh mục nói đến những kẻ khinh miệt tiếng Việt, là ông ám chỉ số đông người Pháp ở đây hồi đó. Những người Pháp ấy, có người học tiếng Việt chăng, thì phần nhiều họ học những bồi bếp của họ, chứ ít có người để công nghiên cứu tiếng Việt như linh mục Cadière. Vậy thì họ khinh miệt tiếng Việt chăng nữa, tưởng rằng cũng không lấy gì làm lạ. » [34]
Riêng với giới nghiên cứu sử học, những công trình nghiên cứu của linh mục Léopold-Michel Cadière về lịch sử Việt-Nam vốn là những mách bảo quý giá, thận trọng và uyên bác. Ngoài ra đối với tỉnh Quảng-Bình, sự hiện diện của linh mục tại đây chính là một cơ duyên quý báu để giúp cho nhiều người tìm được ánh sáng chân lý Phúc Âm và để những chứng tích lịch sử được ngài chịu khó ghi lại trở nên hữu ích cho rất nhiều thế hệ trước kia và sau này.
New Jersey August 12, 2010
CHÚ THÍCH:
1.- Tạp chí MEP, số 92, tr. 497, dẫn theo Ngọc Bích, Nhân vật giáo phận Huế, tập hai, 2000, tr. 49.
2.- Léopold Cadière, Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, Tome III, Nxb. École francaise d’Extrême Orient, tr. 6.
3.- Louis Malleret, Notice sur la vie et les travaux du R.P. Léopold Cadière (1869-1955), in trong bộ Croyances et Pratiques reiligieuses des Vietnamiens (gồm 3 quyển), Sđd, tr. 8.
4.- Louis Malleret, Sđd, tr. 8.
5.- Trương Văn Chình, Đọc cuốn « Syntaxe de la langue Vietnamienne », Đại Học, Tạp chí nghiên cứu của Viện Đại Học Huế, Số 12, Tháng 11 năm 1959, tr. 15.
6.- Nguyễn Thế Hùng – Hoàng Đình Hiếu, Sông Gianh Đàng Trong, Giáo hạt Quảng Bình, 1615- 1975, Tủ sách Sông Gianh Quê Hương Bọ Mạ xb., 2004, tr. 51. Trong Quê Hương Bọ Mạ tập 2, 1999, qua bài viết Người đã nạm vàng một chữ trung, tác giả Hoàng Đình Hiếu viết về linh mục Nguyễn Viết Cư, Tiến sĩ triết học, Giáo sư Đại chủng viện, và qua câu chuyện được biết linh mục Nguyễn Viết Cư cũng đã có những liên hệ rất mật thiết với linh mục Cadière trong thời gian ngài bị Việt Minh giam giữ ở Vinh.
7.- Louis Malleret, Sđd, tr. 14.
8.- Về ngày mất của linh mục Léopold-Michel Cadière, có nhiều tài liệu viết khác nhau. Tác giả Lê Ngọc Bích cho biết ngày 6.7.1955 linh mục đau nặng nằm liệt giường và ngày 10.7. 1955 thì qua đời, căn cứ theo « Lịch sử giáo phận Huế » tập 3, tr. 82 của LM Nguyễn Văn Hội viết theo hồ sơ văn phòng Tòa Tổng Giám Mục Huế. (Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 46, 47). Hai tác giả khác như Louis Malleret trong Notice sur la vie et les travaux du R.P. Léopold Cadière, ghi ngày mất của linh mục Cadière là ngày 6.7. 1955; Georges Lefas trong bài viết về cha Cadière trong « Tạp chí Truyền giáo Nước ngoài Paris » (chú thích tr. 5) cũng ghi ngày mất là 6.7.1955.
9.- Ngọc Quỳnh, « Hoài niệm Cố Cả », Nguyệt san Nguồn Sống, Địa phận Huế, số 1 ngày 15.7. 1958, tr. 45, dẫn theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 44.
10.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 44.
11.- Louis, Malleret, Sđd, tr. 9.
12.- Trương Văn Chình, Bđd, tr. 16.
13.- L. Cadière, Les lieux historiques du Quang-Binh, Bulletin de l’École Francaise d’Extrême Orient, 1903.
14.- L. Cadière, Sđd.
15.- L. Cadière, Sđd.
16.- L. Cadière, Sđd.
17.- L. Cadière, Sđd.
18.- L. Cadière, Croyances et Pratiques Religieuses Des Vietnamiens, École francaise d’Extrême-Orient, Tome III, 1992, tr. 53.
19.- L. Cadière, Sđd., tr. 73.
20.- L. Cadière., Sđd, tr. 188.
21.- L. Cadière, Sđd, Tome II, tr. 215.
22.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52. Tác giả Nguyễn Lý Tưởng trong bài « LM Léopold-Michel Cadière (1869- 1955): Nhà Huế học và là người có công lớn đối với sử học và ngôn ngữ học Việt Nam » trên nguyệt san Hiệp Nhất số 123, tháng 03-2003, tr. 66, đã có viết: « Trong biến cố Tết Mậu Thân (1968), Việt Cộng vào chiếm Dòng Thiên An, đặt súng phòng không trên nóc nhà thờ để bắn máy bay của Mỹ và VNCH đến giải tỏa quân Bắc Việt chiếm đóng thành phố Huế. Máy bay Mỹ đã ném bom tiêu diệt ổ phòng không của Việt Cộng tại Thiên An, làm thiêu hủy thư viện tại đây. »
23.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
24.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
25.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 52.
26.- Nguyễn Lý Tưởng, Tlđd, tr. 60.
27.- Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 51.
28.- « Missions de Hué » trong « Annales de la Société des Missions Etrangères, 1911, tr. 14, tr. 307. Trong tập san MEP, bài của LM. Bernard Maitre, SJ, tr. 38- 39, dẫn lại theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 47.
29.- Bernard Maitre, Tlđd, theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr. 48.
30.- Tạp chí MEP. số 92, tr. 497, dẫn theo Lê Ngọc Bích, Sđd, tr 50.
31.- Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu xuất bản, tr. 71.
32.- Xem bài tựa của Paul Boudet viết trên đầu cuốn Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiennes, Publications de la Société des Etudes indochinoises; Imprimerie nouvelle d’Extreme-Orient Saigon, 1958.
33.- Nguyên văn: J’ai compris les Annamites parce que j’ai étudié ce qui les concerne. J’ai étudié leur langue, dès mon arrivée ici, et je continue à le faire à l’heure actuelle, et je me suis rendu compte que la langue annamite est d’une grande finesse au point de vue de la construction et que sa richesse au point de vue du vocabulaire ne doit pas être dédaignée, comme on le fait trop souvent. »
34.- Trương Văn Chình, Bđd, tr. 46.
* Tác giả Trương Văn Chình, tức Trình Quốc Quang, trước có hoạt động đảng phái ở ngoài Bắc sau vào Nam đổi tên, bạn với ông Nguyễn Đình Đầu, và lớn tuổi hơn ông Đầu (Nguyễn Đình Đầu năm nay cỡ 85 tuổi) khoảng năm 1959 là Giáo sư thỉnh giảng môn Ngữ học Việt Nam tại Viện Đại Học Huế, đã viết nhiều công trình biên khảo giá trị.
* Tạp chí Đại Học, cơ quan nghiên cứu của Viện Đại Học Huế xuất bản từ năm 1957 do giáo sư Nguyễn Văn Trung làm chủ bút, bài vở do các giáo sư thuộc Viện Đại Học Huế hay có khi Sài Gòn viết. Năm 1961, giáo sư Nguyễn Văn Trung chuyển vào Sài Gòn và công việc điều hành Tạp chí này giao lại cho giáo sư Trần Văn Toàn. Giáo sư Trần Văn Toàn, ngoài việc viết bài dẫn nhập từng kỳ báo còn đóng góp nhiều bài vở và nhất là mời các nhóm cộng tác như nhóm của linh mục Nguyễn Phương, giáo sư Trần Kinh Hòa (Đại Học Hương Cảng) và liên lạc với một số người viết qua ông Nguyễn Anh (trước đây được linh mục Cao Văn Luận biệt phái ra lo việc hành chánh cho tờ tạp chí này) là người liên lạc thẳng với cha Luận để lo trả tiền nhuận bút cho các tác giả. Sau đó ít lâu khi giáo sư Bùi Xuân Bào ở Pháp về, nhóm học trò cũ của ông Bào (cũng là học trò cũ của cha Luận; vì thế trước khi cha Luận đi khỏi Huế, họ có tặng cha 4 chữ Nho đầy ý nghĩa: Sự sinh đại nghĩa) là Lê Tuyên, Lê Văn, Lê Khắc Phò v.v... bàn với nhau và với cha Luận là để giáo sư Bùi Xuân Bào làm chủ trương biên tập thay giáo sư Toàn, nhưng sau không thấy gì vì giáo sư Bào ở lại Sài Gòn.
Sau khi linh mục Cao Văn Luận đi khỏi Viện Đại Học Huế (1964), không còn tiền nhuận bút nữa và Tòa Viện trưởng lại đưa ông Nguyễn Anh về làm ở Tòa Viện trưởng, Tạp chí Đại Học đã phải đình bản. Sau đó nhóm Lập Trường (chủ yếu là Lê Tuyên, Hoàng Văn Giàu dựa thế Phật Giáo ở Huế) nắm lấy nhà in Đại Học coi như là của riêng của họ. (Trao đổi với Giáo sư Trần Văn Toàn, tháng 10-2005, hiện ở Lambersant, Pháp.)
** Bình Nguyên Lộc, tên thật là Tô văn Tuấn, sinh ngày 7.3.1914 tại làngTân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Trước chiến tranh, ông làm công chức tại Tổng nha Ngân khố. Kể từ năm 1948, ông thôi làm công chức và chỉ chuyên viết văn viết báo mà thôi. Ông đã viết trên 100 tác phẩm, khoảng 40 cuốn đã được xuất bản, gồm hai loại tiểu thuyết, và khảo cứu dân tộc học, ngôn ngữ học. Những tác phẩm quan trọng của Bình Nguyên Lộc: Đò dọc (1959), Gieo gió gặt bão (1959), Ký thác (1960), Nhện chờ mối ai (1962), Xô ngã bức tường rêu (1963), Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (1963), Bóng ai qua ngoài song cửa (1963), Hoa hậu Bồ đào (1963), Mối tình cuối cùng (1963), Nửa đêm trảng sụp (1963), Tâm trạng hồng (1963), Đừng hỏi tại sao (1965), Mưa thu nhớ tằm (1965), Tình đất (1966), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Một nàng hai chàng (1967), Quán tai heo (1967), Thầm lặng (1967), Trăm nhớ ngàn thương (1967), Uống lôn thuốc tiên (1967), Đèn Cần giờ (1968), Diễm Phương (1968), Sau đêm bố ráp (1968), Cuống rún chưa lìa (1969), Khi Từ Thức về trần (1969), Nhìn xuân người khác (1969), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1973), Lột trần Việt ngữ (1973)... Tại hải ngoại, năm 1986 nhà xuất bản Văn Nghệ vừa cho tái bản tập truyện ngắn Ký Thác của nhà văn Bình Nguyên Lộc gồm một số những truyện ngắn xuất sắc trong 500 truyện ngắn ông đã viết...Bình Nguyên Lộc qua đời ngày 7.3.1987 tại Rancho Cordova, tiểu bang California, Hoa Kỳ, và được an táng tại nghĩa trang Sunset Lawn, Sacramento, California ngày 14.3.1987. (Theo tạp chí Văn Học số 18 tháng 7 năm 1987.)
Kết thúc khoá tập huấn đầu tiên của Caritas Giáo Phận Hải Phòng
Liên Nguyễn
12:35 12/08/2010
Sau 3 ngày hăng say học tập 24, 25, 26 tháng 06 năm 2010 khoá tập huấn đầu tiên nhằm “xây dựng năng lực cho các tình nguyện viên của Caritas Giáo Phận Hải Phòng” đã kết thúc bằng thánh lễ và nghi thức sai đi do Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên chủ tế và cha trưởng Ban Gioan baotixita Vũ Văn Kiện.
Sau thánh lễ và ghi thức sai đi các học viên đều cảm thấy vui vẻ hào hứng và đầy nhiệt huyết mau mắn được lên đường làm công tác Bác Ái Xã Hội ( BAXH). Nhìn mỗi học viên cầm cây nến và gói muối nhỏ trên tay với nụ cười rạng rỡ. Ban đại diện Caritas Hải Phòng không thể không hy vọnng sẽ có những bước ngoặt mới trong công tác BAXH của Giáo Phận.
Thật vây, mục tiêu của lớp tập huấn là nhằm cung cấp một cách có hệ thống những kiến thức khoa học về công tác BAXH với kỳ vọng sẽ giúp các thành viên Caritas Giáo Xứ tăng cường thêm sự hiểu biết, kỹ năng và phương pháp thực hành công tác BAXH trên địa bàn Giáo Xứ, sự chia sẻ kinh nghiệm làm công tác BAXH.
Để thực hiện được công việc nói trên, sau một thời gian chuẩn bị, văn phòng Caritas giáo phận Hải Phòng đã tổ chức khoá tập huấn đầu tiên cho các thành viên Caritas Giáo Xứ với chủ đề “Tổng quan công tác xã hội trên địa bàn giáo xứ”, giáo trình này do Tiến sĩ Vũ Nhi Công biên soạn và giảng dạy, phần thứ hai là “công tác xã hội với người nghèo - Tiết kiện tín dụng cho người nghèo” do cô Nguyễn Thị Kim Dung - tổ chức NGO biên soạn và trình bày.
Tham dự khoá tập huấn trong 3 ngày nói trên tại hội trường Toà Giám Mục, có hơn 80 học viên là những người phụ trách hoạt động BAXH tại 78 Giáo Xứ thuộc 3 giáo hạt Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh của Giáo Phận Hải Phòng và còn có thêm một số người làm công tác bác ái của tôn giáo bạn.
Ngay trong bài đầu tiên của buổi khai mạc Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên đã nhấn mạnh đến xứ vụ làm công tác BAXH của Giáo Hội.
Chính vì vậy mà Ngài kêu mời mọi người tham gia làm công tác bác ái không kể nghành nghề, lứa tuổi. Hãy làm với tinh thần của Đức Kitô. Làm công tác BAXH không khó chỉ cần chúng ta có tấm lòng, Caritas giáo phận sẵn sàng cung cấp kiến thức, kỹ năng để mọi người có thể làm tốt xứ vụ này.
Nhờ sự động viên của Đức Cha cùng với Cha trưởng Ban và Cha phó Ban, mặc dù thời tiết nóng bức, 3 ngày qua lại mất điện liên tục, điều kiện học tập, ăn nghỉ còn hạn chế. Nhưng dưới sự hướng dẫn rất chuyên nghiệp và tận tình của TS Vũ Nhi Công lớp tập huấn đã diễn ra rất sôi động, phấn khởi và hoà hứng. Các học viên tham gia thảo luận nhóm xây dựng kế hoạch và tổ chức báo cáo, chia sẻ rất sôi nổi, tích cực và thực tế. “Tôi chưa thấy một khoá học nào có tinh thần học tập sôi động và nhiệt tình đến vậy, tôi cảm nhận thấy tình yêu mến và sự gần gũi của các học viên trao cho nhau rất thực lòng”(lời của thầy Thích Giới Định – Chùa Vẽ cũng tham gia khóa tập huấn nhận xét ).
Đúng như vậy trong khi học tập các học viên cùng giải quyết những khó khăn thực tế. Từ đó các học viên đã rút ra bài họ là cần phải làm việc chung với nhau “ Bàn bạc công việc chung với nhau, hợp tác với các nhóm công tác xã hội trong giáo xứ và tại cộng đồng”.
Thông qua hình thức học tập có sự tham gia của các học viên đã tạo lên sự gắn kết với nhau, giao lưu với nhau, đồng thời đưa ra nhiều ý kiến bổ ích hướng giải quyết vấn đề cho những Giáo Xứ đã mạnh dạn chia sẻ khó khăn trong khi làm việc thực tế còn tồn tại đã được đưa ra bàn luận và giải quyết.
Trong dịp gặp gỡ này các học viên có cơ hội trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm quý báu mà họ đã tích luỹ trong quá trình hoạt động BAXH tại Giáo Xứ mình.
Điều đặc biệt có sự trùng lặp mà chúng tôi cảm nhận đó là thánh ý của Thiên Chúa dành cho Caritas Giáo Phận và các học viên khi “nhóm Công tác xã hội sài gòn” gồm 8 người cũng ra Hải Phòng “họp quốc gia một số vấn đề về công tác xã hội” vào đúng 3 ngày khóa tập huấn diễn ra lên văn phòng Caritas Giáo Phận đã mời nhóm tới chia sẻ kinh nghiệm làm việc vào buổi tối ngày 25 và buổi sáng ngày 26.
Điều thú vị là những người trong nhóm công tác xã hội sài gòn đa số họ là những người công giáo (ở các giáo xứ như Lạng Sơn, Thạch Đà) chính vì thế mà sự chia sẻ của họ có ý nghĩa rất to lớn đối với lớp học.Nhóm đã chia sẻ về kinh nghiệm làm việc với người nghèo, kinh nghiệm làm việc với người nghiệm ma tuý, HIV, phụ nữ nghèo, trẻ em nghèo…phần sinh động và ý nghĩa hơn cả mà đoàn công tác xã hội sài gòn đem lại là sự trình bày của Cô MariaNguyễn Thị Kim Dung ( thuộc mạng lưới Tình Thân) cô đã có một tiết trình bày rất bổ ích về “Tiết kiệm tín dụng dành cho người nghèo”. Sau phần trình bày của cô mọi người đều thấy có ý nghĩa thực tế rất cao. Các học viên đều mong muốn áp dụng mô hình tiết kiệm tín dụng tại giáo xứ mình.
Theo như lời nhận xét của các học viên trong phiếu đánh giá cuối ngày thì “đây là việc làm rất cụ thể mang tính phát triển bền vững”, từ tiết kiệm tín dụng chúng ta có thể tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau chính vì vậy việc thực hiện thành công “tiết kiệm tín dụng” là một mô hình rất hay để các giáo xứ có thể làm để thể hiện tinh thần BAXH của Chúa Kitô một cách trọn vẹn. Bởi chính những người, như ma tuý, HIV/ AIDS, trẻ vị thành niên, các chị em phụ nữ nghèo khó khăn về tâm lý tinh thần, bị bạo lực gia đình,v..v mới cần đến chúng ta. Thông qua tiết kịêm tín dụng tại cộng đồng chúng ta có thể đến với họ.
Kết thúc lớp tập huấn các học viên đã hiểu rõ về Caritas, mục đích và tuân chỉ hoạt động. Qua khoá học này mọi người có thêm kỹ năng, kiến thức, để công việc BAXH được tổ chức khoa học, mang lại hiệu quả thiết thực. Thể hiện tinh thần bác ái hiệp thông của người Công Giáo trong điều kiện thực tế hiện nay. ( Qua khoá tập huấn này chúng tôi thấy không những được cung cấp kiến thức kỹ năng làm việc mà chúng tôi còn được hâm nóng tinh thần làm việc BAXH theo tinh thần của Chúa Giêsu”( lời của một học viên chia sẻ tại lớp học)
Sau khóa học đầu tiên này các thành viên Caritas giáo xứ đã nói lên mong muốn được học thêm nhiều lớp học về các kiến thức kỹ năng cụ thể để làm việc với những vấn đề cụ thể.
Lớp tập huấn đầu tiên này được đánh dấu như một sự chuyển mình mạnh mẽ trong việc xây dựng năng lực cho mạng lưới Caritas giáo phận Hải Phòng
Sau thánh lễ và ghi thức sai đi các học viên đều cảm thấy vui vẻ hào hứng và đầy nhiệt huyết mau mắn được lên đường làm công tác Bác Ái Xã Hội ( BAXH). Nhìn mỗi học viên cầm cây nến và gói muối nhỏ trên tay với nụ cười rạng rỡ. Ban đại diện Caritas Hải Phòng không thể không hy vọnng sẽ có những bước ngoặt mới trong công tác BAXH của Giáo Phận.
Thật vây, mục tiêu của lớp tập huấn là nhằm cung cấp một cách có hệ thống những kiến thức khoa học về công tác BAXH với kỳ vọng sẽ giúp các thành viên Caritas Giáo Xứ tăng cường thêm sự hiểu biết, kỹ năng và phương pháp thực hành công tác BAXH trên địa bàn Giáo Xứ, sự chia sẻ kinh nghiệm làm công tác BAXH.
Để thực hiện được công việc nói trên, sau một thời gian chuẩn bị, văn phòng Caritas giáo phận Hải Phòng đã tổ chức khoá tập huấn đầu tiên cho các thành viên Caritas Giáo Xứ với chủ đề “Tổng quan công tác xã hội trên địa bàn giáo xứ”, giáo trình này do Tiến sĩ Vũ Nhi Công biên soạn và giảng dạy, phần thứ hai là “công tác xã hội với người nghèo - Tiết kiện tín dụng cho người nghèo” do cô Nguyễn Thị Kim Dung - tổ chức NGO biên soạn và trình bày.
Tham dự khoá tập huấn trong 3 ngày nói trên tại hội trường Toà Giám Mục, có hơn 80 học viên là những người phụ trách hoạt động BAXH tại 78 Giáo Xứ thuộc 3 giáo hạt Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh của Giáo Phận Hải Phòng và còn có thêm một số người làm công tác bác ái của tôn giáo bạn.
Ngay trong bài đầu tiên của buổi khai mạc Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên đã nhấn mạnh đến xứ vụ làm công tác BAXH của Giáo Hội.
Chính vì vậy mà Ngài kêu mời mọi người tham gia làm công tác bác ái không kể nghành nghề, lứa tuổi. Hãy làm với tinh thần của Đức Kitô. Làm công tác BAXH không khó chỉ cần chúng ta có tấm lòng, Caritas giáo phận sẵn sàng cung cấp kiến thức, kỹ năng để mọi người có thể làm tốt xứ vụ này.
Nhờ sự động viên của Đức Cha cùng với Cha trưởng Ban và Cha phó Ban, mặc dù thời tiết nóng bức, 3 ngày qua lại mất điện liên tục, điều kiện học tập, ăn nghỉ còn hạn chế. Nhưng dưới sự hướng dẫn rất chuyên nghiệp và tận tình của TS Vũ Nhi Công lớp tập huấn đã diễn ra rất sôi động, phấn khởi và hoà hứng. Các học viên tham gia thảo luận nhóm xây dựng kế hoạch và tổ chức báo cáo, chia sẻ rất sôi nổi, tích cực và thực tế. “Tôi chưa thấy một khoá học nào có tinh thần học tập sôi động và nhiệt tình đến vậy, tôi cảm nhận thấy tình yêu mến và sự gần gũi của các học viên trao cho nhau rất thực lòng”(lời của thầy Thích Giới Định – Chùa Vẽ cũng tham gia khóa tập huấn nhận xét ).
Đúng như vậy trong khi học tập các học viên cùng giải quyết những khó khăn thực tế. Từ đó các học viên đã rút ra bài họ là cần phải làm việc chung với nhau “ Bàn bạc công việc chung với nhau, hợp tác với các nhóm công tác xã hội trong giáo xứ và tại cộng đồng”.
Thông qua hình thức học tập có sự tham gia của các học viên đã tạo lên sự gắn kết với nhau, giao lưu với nhau, đồng thời đưa ra nhiều ý kiến bổ ích hướng giải quyết vấn đề cho những Giáo Xứ đã mạnh dạn chia sẻ khó khăn trong khi làm việc thực tế còn tồn tại đã được đưa ra bàn luận và giải quyết.
Trong dịp gặp gỡ này các học viên có cơ hội trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm quý báu mà họ đã tích luỹ trong quá trình hoạt động BAXH tại Giáo Xứ mình.
Điều thú vị là những người trong nhóm công tác xã hội sài gòn đa số họ là những người công giáo (ở các giáo xứ như Lạng Sơn, Thạch Đà) chính vì thế mà sự chia sẻ của họ có ý nghĩa rất to lớn đối với lớp học.Nhóm đã chia sẻ về kinh nghiệm làm việc với người nghèo, kinh nghiệm làm việc với người nghiệm ma tuý, HIV, phụ nữ nghèo, trẻ em nghèo…phần sinh động và ý nghĩa hơn cả mà đoàn công tác xã hội sài gòn đem lại là sự trình bày của Cô MariaNguyễn Thị Kim Dung ( thuộc mạng lưới Tình Thân) cô đã có một tiết trình bày rất bổ ích về “Tiết kiệm tín dụng dành cho người nghèo”. Sau phần trình bày của cô mọi người đều thấy có ý nghĩa thực tế rất cao. Các học viên đều mong muốn áp dụng mô hình tiết kiệm tín dụng tại giáo xứ mình.
Theo như lời nhận xét của các học viên trong phiếu đánh giá cuối ngày thì “đây là việc làm rất cụ thể mang tính phát triển bền vững”, từ tiết kiệm tín dụng chúng ta có thể tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau chính vì vậy việc thực hiện thành công “tiết kiệm tín dụng” là một mô hình rất hay để các giáo xứ có thể làm để thể hiện tinh thần BAXH của Chúa Kitô một cách trọn vẹn. Bởi chính những người, như ma tuý, HIV/ AIDS, trẻ vị thành niên, các chị em phụ nữ nghèo khó khăn về tâm lý tinh thần, bị bạo lực gia đình,v..v mới cần đến chúng ta. Thông qua tiết kịêm tín dụng tại cộng đồng chúng ta có thể đến với họ.
Sau khóa học đầu tiên này các thành viên Caritas giáo xứ đã nói lên mong muốn được học thêm nhiều lớp học về các kiến thức kỹ năng cụ thể để làm việc với những vấn đề cụ thể.
Lớp tập huấn đầu tiên này được đánh dấu như một sự chuyển mình mạnh mẽ trong việc xây dựng năng lực cho mạng lưới Caritas giáo phận Hải Phòng
Giáo xứ Chính Tâm, Phan Thiết trao phần thưởng cho học sinh giỏi năm 2009-2010
Tâm PHúc
12:56 12/08/2010
Sáng Chúa Nhật 8.8.2010, trong bầu khí từng bừng chuẩn bị bước vào năm học mới 2010-2011, Giáo xứ Chính Tâm, GP Phan Thiết đã tổ chức lễ Tổng Kết và Phát thưởng cho 361 em học sinh khá giỏi trong giáo xứ không phân biệt lương giáo. Đây là công việc hằng năm của giáo xứ nhằm khích lệ tinh thần hiếu học của các em.
Giáo xứ Chính Tâm thuộc xã Trà Tân I, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Nhà thờ Chính Tâm cách quốc lộ 1A chừng 17 Km, trên đường từ Ngã Ba Ông Đồn, Thị trấn Gia Ray đi Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Ta Pao. Từ ngày giải phóng 1975, đây là vùng kinh tế mới, đến nay sau gần 35 năm, đời sống người dân cũng vẫn loay hoay chưa thoát ra khỏi nghèo khó. Những đợt di dân về lập khu kinh tế mới hàng ngàn người khiến cho quỹ đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Phần đông lớp thanh niên kéo về Sài Gòn và các khu công nghiệp kiếm việc làm hoặc làm thuê cho các công ty cao su gần đó.
Trong giáo xứ thường trong năm chỉ còn người già và trẻ em. Chính Tâm hiện có 1201 hộ với 5388 nhân khẩu, từ khi giáo xứ được tái lập năm 1990, các cha quản xứ đều chú tâm đến việc động viên khuyến khích đốc thúc bà con giáo dân nâng cao văn hoá học vấn cho lớp trẻ. Được biết, trong tổng số khoảng 1200 học sinh thuộc xã Trà Tân I thì có đến 900 em là con chiên của Giáo xứ. Mặc dù đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần bác ái chia sẻ, hằng năm, giáo xứ kết hợp với Hội khuyến học đều tổ chức phát thưởng cho các em học sinh đạt thành tích khá giỏi và hỗ trợ một số em học sinh nghèo có điều kiện đến trường.
Theo truyền thống tốt đẹp đó, năm nay, với sự quan tâm và hỗ trợ nhiệt tình của cha quản xứ Giuse Phạm Thọ, giáo xứ đã tổ chức lễ Tổng kết và phát thưởng cho các em học sinh khá giỏi không phân biệt lương giáo từ cấp I đến Cấp III trong giáo xứ với tổng giá trị là 12 triệu đồng. Đối với những em học sinh hiếu học có hoàn cảnh khó khăn, giáo xứ cũng có chương trình hỗ trợ học bổng tạo điều kiện cho các em tiếp tục đến trường với số tiền khoảng 18 triệu đồng. Những học sinh có giấy báo Trúng tuyển Đại Học năm nay, cha quản xứ và giáo xứ cũng có phần thưởng động viên các em.
Bên cạnh đó, giáo xứ và cha quản xứ cũng quan tâm xây dựng đời sống đạo cho Giáo dân qua việc tích cực tham gia các chương trình học hỏi Lời Chúa, mở phòng khám chữa bệnh bằng thuốc nam và các lớp thể dục dưỡng sinh chăm sóc sức khoẻ cho bà con trong địa phương.
Giáo xứ Chính Tâm thuộc xã Trà Tân I, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Nhà thờ Chính Tâm cách quốc lộ 1A chừng 17 Km, trên đường từ Ngã Ba Ông Đồn, Thị trấn Gia Ray đi Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Ta Pao. Từ ngày giải phóng 1975, đây là vùng kinh tế mới, đến nay sau gần 35 năm, đời sống người dân cũng vẫn loay hoay chưa thoát ra khỏi nghèo khó. Những đợt di dân về lập khu kinh tế mới hàng ngàn người khiến cho quỹ đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Phần đông lớp thanh niên kéo về Sài Gòn và các khu công nghiệp kiếm việc làm hoặc làm thuê cho các công ty cao su gần đó.
Trong giáo xứ thường trong năm chỉ còn người già và trẻ em. Chính Tâm hiện có 1201 hộ với 5388 nhân khẩu, từ khi giáo xứ được tái lập năm 1990, các cha quản xứ đều chú tâm đến việc động viên khuyến khích đốc thúc bà con giáo dân nâng cao văn hoá học vấn cho lớp trẻ. Được biết, trong tổng số khoảng 1200 học sinh thuộc xã Trà Tân I thì có đến 900 em là con chiên của Giáo xứ. Mặc dù đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần bác ái chia sẻ, hằng năm, giáo xứ kết hợp với Hội khuyến học đều tổ chức phát thưởng cho các em học sinh đạt thành tích khá giỏi và hỗ trợ một số em học sinh nghèo có điều kiện đến trường.
Theo truyền thống tốt đẹp đó, năm nay, với sự quan tâm và hỗ trợ nhiệt tình của cha quản xứ Giuse Phạm Thọ, giáo xứ đã tổ chức lễ Tổng kết và phát thưởng cho các em học sinh khá giỏi không phân biệt lương giáo từ cấp I đến Cấp III trong giáo xứ với tổng giá trị là 12 triệu đồng. Đối với những em học sinh hiếu học có hoàn cảnh khó khăn, giáo xứ cũng có chương trình hỗ trợ học bổng tạo điều kiện cho các em tiếp tục đến trường với số tiền khoảng 18 triệu đồng. Những học sinh có giấy báo Trúng tuyển Đại Học năm nay, cha quản xứ và giáo xứ cũng có phần thưởng động viên các em.
Bên cạnh đó, giáo xứ và cha quản xứ cũng quan tâm xây dựng đời sống đạo cho Giáo dân qua việc tích cực tham gia các chương trình học hỏi Lời Chúa, mở phòng khám chữa bệnh bằng thuốc nam và các lớp thể dục dưỡng sinh chăm sóc sức khoẻ cho bà con trong địa phương.
Bài giảng thánh lễ tạ ơn của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, Quy Nhơn
Lm. Phao-lô Trịnh Duy Ri
15:03 12/08/2010
THÁNH LỄ TẠ ƠN KỶ NIỆM 11 NĂM TẤN PHONG GIÁM MỤC CỦA ĐỨC CHA PHÊ-RÔ NGUYỄN SOẠN, GIÁM MỤC GIÁO PHẬN QUI NHƠN 12/8/1999 – 12/8/2010
Kính thưa Cộng đoàn thân mến,
Với trình thuật Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta vừa nghe hôm nay, khi ý thức mình chỉ là "nữ tỳ hèn mọn" trước một Thiên Chúa là "Ðấng cứu độ", là "Ðấng toàn năng" và là “Ðấng chí thánh chí tôn", Đức Maria dạt dào niềm vui, chỉ biết ca ngợi, tạ ơn, tôn vinh kỳ công Người đang thực hiện nơi Mẹ. Việc Chúa làm trong Mẹ vượt quá mọi suy tưởng phàm nhân, vì không một thọ tạo nào, dù công chính ra sao, hoặc do công trạng riêng, lại dám tơ hào mơ nghĩ sẽ lãnh nhận "bao điều cao cả" và được Chúa sủng ái! Hơn ai hết, Ðức Maria đã cảm nhận sâu sa "tất cả là hồng ân" cho mọi điều xảy đến trong đời Mẹ. Tâm tình sâu đậm này đã được Ðức Maria bày tỏ qua lời Kinh Magnificat (Lc 1:47-55) khi Mẹ đến viếng thăm người chị họ Êlizabeth: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hớn hở trong Thiên Chúa Đấng Cứu Chuộc tôi.”
Có lẽ đây cũng chính là tâm tình ca ngợi và tạ ơn mà Đức Cha Phê-rô và mỗi người chúng ta đang hiệp dâng lên Chúa nhân dịp kỷ niệm 11 năm ngày tấn phong Giám Mục của Ngài, một ngày rất có ý nghĩa sâu xa trong cuộc đời của Ngài và của Giáo phận Qui Nhơn chúng ta.
Trước hết, chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô tạ ơn Chúa vì chức Giám Mục là một ơn gọi và là một ân huệ đặc biệt mà Chúa trao ban cho Giáo Hội và cho Giáo phận. Chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy ý nghĩa này trong Lời mở đầu Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của các Giám Mục trong Giáo hội như Công đồng Vatican II đã xác định: “Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, đã đến để giải cứu dân mình khỏi tội lỗi và để thánh hóa mọi người: như Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai các Tông Đồ như vậy, và đã thánh hóa họ khi trao ban Chúa Thánh Thần cho họ, để chính họ làm vinh danh Chúa Cha nơi trần gian, và cứu độ loài người “nhằm xây dựng thân thể Chúa Ki-tô” (Eph. 4,12) là Giáo Hội… Các Giám Mục cũng thế, chính các ngài được Chúa Thánh Thần đặt lên kế vị các Tông Đồ như chủ chăn các linh hồn và được ủy thác sứ mệnh duy trì mãi mãi công việc của Chúa Ki-tô, chủ chăn đời đời…”.
Đồng thời, chúng ta cũng không thể quên rằng nếu chức Giám Mục cao cả vì là người kế vị các Tông Đồ, thì nhiệm vụ của Giám Mục cũng thật nặng nề trong một Giáo phận được trao phó cho ngài. Điều này cũng được Công đồng nhắc đến trong số 16 của Sắc lệnh nêu trên: “Trong khi thi hành nhiệm vụ người cha và chủ chăn, các Giám Mục hãy sống giữa dân mình như những người phục vụ, nghĩa là như những chủ chăn hiền từ biết các con chiên mình và con chiên cũng biết chủ chăn; như những người cha đích thực tỏ lòng yêu thương và lo lắng cho hết mọi người và mọi người tỏ lòng tri ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho các ngài”. Đây cũng chính là lý do tạ ơn mà chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô dâng lên Chúa hôm nay vì trải qua thời gian dài với một trách nhiệm khó khăn và nặng nề, với tuổi đời chồng chất và những thử thách của sức khỏe, Chúa vẫn tiếp tục ban ơn để Đức Cha lèo lái Giáo phận cho đến ngày nay.
Có thể nói như người cha trong đại gia đình, Đức Cha đã hướng dẫn các thành viên trong ngôi nhà Giáo phận, đã lắng nghe và chia sẻ những vui buồn, những thành bại, những lo âu và hy vọng, chia sẻ cả sự mỏng giòn của cộng đoàn mình, giống như Thánh Phao-lô đã nói với cộng đoàn Côrintô rằng: “Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?" (2 Cr 11,29).
Như thế, ngoài tâm tình tạ ơn Chúa, đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ tâm tình tri ân đối với những hy sinh lo lắng mà Đức Cha đã dành cho Giáo phận và cho chúng ta. Để minh họa điều này, xin được kể lại câu chuyện sau đây mà có lẽ nhiều người đã biết:
Một bà mẹ đã hỏi con trai của mình: “Theo con, trong con người, phần thân thể nào là cần thiết nhất ?” - Đôi mắt, vì nhờ có đôi mắt con mới thấy mẹ. - Chưa đúng ! - Lỗ tai, vì có lỗ tai con mới có thể nghe tiếng chim hót, nghe tiếng mẹ gọi, nghe tiếng mẹ nói “mẹ yêu con”! - Cũng chưa đúng - Vậy thì đôi chân, vì có đôi chân con mới có thể đến trường để học và sau này có thể đi làm để nuôi mẹ. - Cũng chưa đúng. - Thôi con chỉ nói một lời cuối cùng nữa thôi: Trái tim, vì có trái tim con mới có thể yêu mẹ. - Cũng chưa đúng! - Vậy thì con đành “bó tay”! - Bấy giờ người mẹ mới nhẹ nhàng trả lời: "Bờ vai, bởi vì tất cả các phần thân thể vừa kể là cần thiết, rất cần thiết, nhưng là cần thiết cho chính mình, còn bờ vai thì lại cần thiết cho người khác. Sở dĩ mẹ có tư tưởng đó là nhờ ngày ông nội của con mất. Lúc đó cơn đau đã làm cho ba con không còn đứng nỗi nữa. Ba con khóc. Khóc nhiều. Khóc lớn. Và khi ba con biết rằng mình không còn có thể chịu nỗi cơn đau nữa mới quờ quạng tìm mẹ, không phải tìm đôi mắt của mẹ, đôi chân của mẹ, cũng chẳng tìm con tim của mẹ, mà tìm.... . chính bờ vai của mẹ, rồi tựa đầu vào đó. Và rồi ba con bớt khóc, ba con bớt đau. Từ đó mẹ mới chợt nhận ra rằng: bờ vai không quan trọng cho mình nhưng quan trọng cho người khác biết bao!
Như thế, chúng ta có thể mạo muội nói rằng nếu trong các hội nghị, người ta thường vẽ hình ảnh đôi bàn tay siết chặt vào nhau; nếu trong ngày lễ hôn phối, người ta thường khắc họa hình hai trái tim quyện vào nhau, thì trong ngày lễ TẠ ƠN hôm nay, có lẽ một trong những hình ảnh được nhắc đến, phải là hình ảnh của bờ vai, một bờ-vai-cho-người-khác, bờ vai mang nặng gánh mục vụ, bờ vai của Người Mục Tử vác chiên lạc về ràn, bờ vai của Đấng Cứu Thế vác lấy Thập Giá đi lên đồi Can-vê, bờ vai yêu thương với những hy sinh âm thầm mà Đức Cha Phê-rô đã và đang dành cho chúng ta, cho Giáo phận, cho Giáo Hội Chúa Ki-tô đúng với khẩu hiệu Giám Mục mà ngài đã chọn: “Thầy biết con yêu Thầy” (Tu scis quia amo te) (Yn. 21,17).
Kính thưa Cộng đoàn,
Hồng ân thì vô vàn vô số, không bút nào tả xiết, không miệng lưỡi nào có thể kể hết được. Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả. Ngài biết và gọi mỗi người bằng tên gọi riêng… Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta. Ngài có thể vẽ đường thẳng trên những nét cong của cuộc đời chúng ta. Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương. Cũng chính thánh nhân đã nói: "Tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa".
Vì thế, tiếp tục dâng Thánh lễ Tạ ơn hôm nay, chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô dâng lời cảm tạ tình yêu của Chúa về ơn gọi cao cả của chức Giám Mục, về những ân huệ nhưng không, dư tràn và vô vị lợi của Chúa trên đời sống chúng ta. Xin Chúa ban cho Đức Cha được ơn khôn ngoan và sức khỏe tốt để Ngài tiếp tục chu toàn nhiệm vụ Chủ chăn trong Giáo phận (Ad Multos Annos!), đồng thời xin cho mỗi người chúng ta cũng biết thông cảm, yêu thương và chìa vai chia sẻ gánh nặng với Ngài trong các công việc mục vụ của gia đình Giáo phận thân yêu này. Amen.
12-8-2010
Kính thưa Cộng đoàn thân mến,
Với trình thuật Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta vừa nghe hôm nay, khi ý thức mình chỉ là "nữ tỳ hèn mọn" trước một Thiên Chúa là "Ðấng cứu độ", là "Ðấng toàn năng" và là “Ðấng chí thánh chí tôn", Đức Maria dạt dào niềm vui, chỉ biết ca ngợi, tạ ơn, tôn vinh kỳ công Người đang thực hiện nơi Mẹ. Việc Chúa làm trong Mẹ vượt quá mọi suy tưởng phàm nhân, vì không một thọ tạo nào, dù công chính ra sao, hoặc do công trạng riêng, lại dám tơ hào mơ nghĩ sẽ lãnh nhận "bao điều cao cả" và được Chúa sủng ái! Hơn ai hết, Ðức Maria đã cảm nhận sâu sa "tất cả là hồng ân" cho mọi điều xảy đến trong đời Mẹ. Tâm tình sâu đậm này đã được Ðức Maria bày tỏ qua lời Kinh Magnificat (Lc 1:47-55) khi Mẹ đến viếng thăm người chị họ Êlizabeth: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hớn hở trong Thiên Chúa Đấng Cứu Chuộc tôi.”
Có lẽ đây cũng chính là tâm tình ca ngợi và tạ ơn mà Đức Cha Phê-rô và mỗi người chúng ta đang hiệp dâng lên Chúa nhân dịp kỷ niệm 11 năm ngày tấn phong Giám Mục của Ngài, một ngày rất có ý nghĩa sâu xa trong cuộc đời của Ngài và của Giáo phận Qui Nhơn chúng ta.
Trước hết, chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô tạ ơn Chúa vì chức Giám Mục là một ơn gọi và là một ân huệ đặc biệt mà Chúa trao ban cho Giáo Hội và cho Giáo phận. Chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy ý nghĩa này trong Lời mở đầu Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của các Giám Mục trong Giáo hội như Công đồng Vatican II đã xác định: “Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, đã đến để giải cứu dân mình khỏi tội lỗi và để thánh hóa mọi người: như Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai các Tông Đồ như vậy, và đã thánh hóa họ khi trao ban Chúa Thánh Thần cho họ, để chính họ làm vinh danh Chúa Cha nơi trần gian, và cứu độ loài người “nhằm xây dựng thân thể Chúa Ki-tô” (Eph. 4,12) là Giáo Hội… Các Giám Mục cũng thế, chính các ngài được Chúa Thánh Thần đặt lên kế vị các Tông Đồ như chủ chăn các linh hồn và được ủy thác sứ mệnh duy trì mãi mãi công việc của Chúa Ki-tô, chủ chăn đời đời…”.
Đồng thời, chúng ta cũng không thể quên rằng nếu chức Giám Mục cao cả vì là người kế vị các Tông Đồ, thì nhiệm vụ của Giám Mục cũng thật nặng nề trong một Giáo phận được trao phó cho ngài. Điều này cũng được Công đồng nhắc đến trong số 16 của Sắc lệnh nêu trên: “Trong khi thi hành nhiệm vụ người cha và chủ chăn, các Giám Mục hãy sống giữa dân mình như những người phục vụ, nghĩa là như những chủ chăn hiền từ biết các con chiên mình và con chiên cũng biết chủ chăn; như những người cha đích thực tỏ lòng yêu thương và lo lắng cho hết mọi người và mọi người tỏ lòng tri ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho các ngài”. Đây cũng chính là lý do tạ ơn mà chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô dâng lên Chúa hôm nay vì trải qua thời gian dài với một trách nhiệm khó khăn và nặng nề, với tuổi đời chồng chất và những thử thách của sức khỏe, Chúa vẫn tiếp tục ban ơn để Đức Cha lèo lái Giáo phận cho đến ngày nay.
Có thể nói như người cha trong đại gia đình, Đức Cha đã hướng dẫn các thành viên trong ngôi nhà Giáo phận, đã lắng nghe và chia sẻ những vui buồn, những thành bại, những lo âu và hy vọng, chia sẻ cả sự mỏng giòn của cộng đoàn mình, giống như Thánh Phao-lô đã nói với cộng đoàn Côrintô rằng: “Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?" (2 Cr 11,29).
Như thế, ngoài tâm tình tạ ơn Chúa, đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ tâm tình tri ân đối với những hy sinh lo lắng mà Đức Cha đã dành cho Giáo phận và cho chúng ta. Để minh họa điều này, xin được kể lại câu chuyện sau đây mà có lẽ nhiều người đã biết:
Một bà mẹ đã hỏi con trai của mình: “Theo con, trong con người, phần thân thể nào là cần thiết nhất ?” - Đôi mắt, vì nhờ có đôi mắt con mới thấy mẹ. - Chưa đúng ! - Lỗ tai, vì có lỗ tai con mới có thể nghe tiếng chim hót, nghe tiếng mẹ gọi, nghe tiếng mẹ nói “mẹ yêu con”! - Cũng chưa đúng - Vậy thì đôi chân, vì có đôi chân con mới có thể đến trường để học và sau này có thể đi làm để nuôi mẹ. - Cũng chưa đúng. - Thôi con chỉ nói một lời cuối cùng nữa thôi: Trái tim, vì có trái tim con mới có thể yêu mẹ. - Cũng chưa đúng! - Vậy thì con đành “bó tay”! - Bấy giờ người mẹ mới nhẹ nhàng trả lời: "Bờ vai, bởi vì tất cả các phần thân thể vừa kể là cần thiết, rất cần thiết, nhưng là cần thiết cho chính mình, còn bờ vai thì lại cần thiết cho người khác. Sở dĩ mẹ có tư tưởng đó là nhờ ngày ông nội của con mất. Lúc đó cơn đau đã làm cho ba con không còn đứng nỗi nữa. Ba con khóc. Khóc nhiều. Khóc lớn. Và khi ba con biết rằng mình không còn có thể chịu nỗi cơn đau nữa mới quờ quạng tìm mẹ, không phải tìm đôi mắt của mẹ, đôi chân của mẹ, cũng chẳng tìm con tim của mẹ, mà tìm.... . chính bờ vai của mẹ, rồi tựa đầu vào đó. Và rồi ba con bớt khóc, ba con bớt đau. Từ đó mẹ mới chợt nhận ra rằng: bờ vai không quan trọng cho mình nhưng quan trọng cho người khác biết bao!
Như thế, chúng ta có thể mạo muội nói rằng nếu trong các hội nghị, người ta thường vẽ hình ảnh đôi bàn tay siết chặt vào nhau; nếu trong ngày lễ hôn phối, người ta thường khắc họa hình hai trái tim quyện vào nhau, thì trong ngày lễ TẠ ƠN hôm nay, có lẽ một trong những hình ảnh được nhắc đến, phải là hình ảnh của bờ vai, một bờ-vai-cho-người-khác, bờ vai mang nặng gánh mục vụ, bờ vai của Người Mục Tử vác chiên lạc về ràn, bờ vai của Đấng Cứu Thế vác lấy Thập Giá đi lên đồi Can-vê, bờ vai yêu thương với những hy sinh âm thầm mà Đức Cha Phê-rô đã và đang dành cho chúng ta, cho Giáo phận, cho Giáo Hội Chúa Ki-tô đúng với khẩu hiệu Giám Mục mà ngài đã chọn: “Thầy biết con yêu Thầy” (Tu scis quia amo te) (Yn. 21,17).
Kính thưa Cộng đoàn,
Hồng ân thì vô vàn vô số, không bút nào tả xiết, không miệng lưỡi nào có thể kể hết được. Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả. Ngài biết và gọi mỗi người bằng tên gọi riêng… Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta. Ngài có thể vẽ đường thẳng trên những nét cong của cuộc đời chúng ta. Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương. Cũng chính thánh nhân đã nói: "Tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa".
Vì thế, tiếp tục dâng Thánh lễ Tạ ơn hôm nay, chúng ta cùng với Đức Cha Phê-rô dâng lời cảm tạ tình yêu của Chúa về ơn gọi cao cả của chức Giám Mục, về những ân huệ nhưng không, dư tràn và vô vị lợi của Chúa trên đời sống chúng ta. Xin Chúa ban cho Đức Cha được ơn khôn ngoan và sức khỏe tốt để Ngài tiếp tục chu toàn nhiệm vụ Chủ chăn trong Giáo phận (Ad Multos Annos!), đồng thời xin cho mỗi người chúng ta cũng biết thông cảm, yêu thương và chìa vai chia sẻ gánh nặng với Ngài trong các công việc mục vụ của gia đình Giáo phận thân yêu này. Amen.
12-8-2010
Cuộc hội ngộ Liên đoàn Thiếu nhi Thánh Thể Bắc Ninh
Giuse Đinh Ngôn
16:08 12/08/2010
Ngày 07/08/2010, cuộc hội ngộ của các thành viên Liên đoàn Thiếu nhi Thánh Thể Giuse Hoàng Lương Cảnh, giáo phận Bắc Ninh, đã diễn ra tại quảng trường tòa giám mục và nhà thờ chính toà Bắc Ninh. Đây là cuộc hội ngộ Thiếu nhi Thánh Thể cấp giáo phận lần đầu tiên kể từ khi liên đoàn chính thức được thành lập. Cuộc hội ngộ diễn ra ngay sau hai khóa đào tạo tổng cộng 206 huynh trưởng tại Trung tâm Mục vụ giáo phận. Có tới 2.300 em từ bốn giáo hạt Tây Bắc, Tây Nam, Bắc Giang và Bắc Ninh quy tụ về mái nhà cha chung của giáo phận.
Xem hình ảnh
Nhìn dòng thiếu nhi từ khắp các ngả đường chảy về tụ lại Tòa giám mục làm tôi liên tưởng đến hình ảnh những mạch máu tươi đỏ chảy về con tim nóng ấm. Khuôn mặt rạng rỡ vui tươi của các em thể hiện sức sống tràn đầy và đức tin lớn mạnh của Liên đoàn thiếu nhi Thánh Thể Bắc Ninh! Và dường như Thiên Chúa rất ưu ái thương yêu những đứa con nhỏ dễ thương của Ngài khi ban tặng cho các em một ngày tiết trời dịu mát.
Chủ đề của cuộc hội ngộ được lấy ý từ Tin Mừng Thánh Gioan “Giêsu Thánh Thể, Nguồn Sống Yêu Thương” (Ga 5,61). Tất cả các hoạt động của cuộc hội ngộ đều tập trung và làm nổi bật chủ đề này.
Đúng 8g30 hơn hai ngàn khuôn mặt trẻ thơ xinh xắn, dễ thương hân hoan vui mừng chào đón Đức cha Cosma, Cha Tổng đại diện Giuse, Cha Tuyên úy Đaminh và quý cha về tham dự ngày họp mặt. Sau lời giới thiệu của cha Trợ úy, cha Tuyên úy Liên đoàn giới thiệu về lịch sử tiến bước của Phong trào TNTT Bắc Ninh. Tiếp theo là nghi thức chào cờ thật trang nghiêm và cảm động.
Tiếp theo là một loạt các hoạt động của cuộc hội ngộ với đủ thể loại như: thi giáo lý, trò chơi, văn nghệ… Khi đã thấm mệt với các hoạt động đa dạng sinh động thì cũng là lúc đến giờ ăn trưa. Các em cùng nhau chia sẽ những chiếc bánh mỳ, bánh ngọt, sữa, hoa quả. Ước mong sao các em Thiếu nhi Thánh Thể cũng biết hi sinh trở thành những tấm bánh mang lại niềm vui hạnh phúc cho người khác như gương Thầy Giêsu Thánh Thể.
Sau bữa tiệc vật chất dành cho xác thân, các em đi vào tham dự bữa tiệc thần linh Lời Chúa và Thánh Thể trong thánh lễ nơi nhà thờ chính tòa Bắc Ninh. Đức cha chủ tế đã khơi gợi cho các em ý thức về tầm quan trọng và hạnh phúc cao cả khi được gặp gỡ và đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lúc 16g, cuộc hội ngộ kết thúc, các em nói với nhau những lời chào chúc tạm biệt và chia tay ra về. Ra về, thân xác các em rời xa nhau, nhưng những kỉ niệm đẹp, những lời chia sẻ dặn dò mãi còn đọng lại nơi các em. Tâm hồn các em vẫn rất gần nhau, và càng gần nhau hơn nữa khi các em nhớ đến trong những giờ phút trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Xin Trái Tim Thánh Thể tràn đầy yêu thương ôm ấp lấy tất cả các em trong liên đoàn Thiếu nhi Thánh Thể Giuse Hoàng Lương Cảnh, giáo phận Bắc Ninh.
Xem hình ảnh
Nhìn dòng thiếu nhi từ khắp các ngả đường chảy về tụ lại Tòa giám mục làm tôi liên tưởng đến hình ảnh những mạch máu tươi đỏ chảy về con tim nóng ấm. Khuôn mặt rạng rỡ vui tươi của các em thể hiện sức sống tràn đầy và đức tin lớn mạnh của Liên đoàn thiếu nhi Thánh Thể Bắc Ninh! Và dường như Thiên Chúa rất ưu ái thương yêu những đứa con nhỏ dễ thương của Ngài khi ban tặng cho các em một ngày tiết trời dịu mát.
Chủ đề của cuộc hội ngộ được lấy ý từ Tin Mừng Thánh Gioan “Giêsu Thánh Thể, Nguồn Sống Yêu Thương” (Ga 5,61). Tất cả các hoạt động của cuộc hội ngộ đều tập trung và làm nổi bật chủ đề này.
Đúng 8g30 hơn hai ngàn khuôn mặt trẻ thơ xinh xắn, dễ thương hân hoan vui mừng chào đón Đức cha Cosma, Cha Tổng đại diện Giuse, Cha Tuyên úy Đaminh và quý cha về tham dự ngày họp mặt. Sau lời giới thiệu của cha Trợ úy, cha Tuyên úy Liên đoàn giới thiệu về lịch sử tiến bước của Phong trào TNTT Bắc Ninh. Tiếp theo là nghi thức chào cờ thật trang nghiêm và cảm động.
Tiếp theo là một loạt các hoạt động của cuộc hội ngộ với đủ thể loại như: thi giáo lý, trò chơi, văn nghệ… Khi đã thấm mệt với các hoạt động đa dạng sinh động thì cũng là lúc đến giờ ăn trưa. Các em cùng nhau chia sẽ những chiếc bánh mỳ, bánh ngọt, sữa, hoa quả. Ước mong sao các em Thiếu nhi Thánh Thể cũng biết hi sinh trở thành những tấm bánh mang lại niềm vui hạnh phúc cho người khác như gương Thầy Giêsu Thánh Thể.
Sau bữa tiệc vật chất dành cho xác thân, các em đi vào tham dự bữa tiệc thần linh Lời Chúa và Thánh Thể trong thánh lễ nơi nhà thờ chính tòa Bắc Ninh. Đức cha chủ tế đã khơi gợi cho các em ý thức về tầm quan trọng và hạnh phúc cao cả khi được gặp gỡ và đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lúc 16g, cuộc hội ngộ kết thúc, các em nói với nhau những lời chào chúc tạm biệt và chia tay ra về. Ra về, thân xác các em rời xa nhau, nhưng những kỉ niệm đẹp, những lời chia sẻ dặn dò mãi còn đọng lại nơi các em. Tâm hồn các em vẫn rất gần nhau, và càng gần nhau hơn nữa khi các em nhớ đến trong những giờ phút trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Xin Trái Tim Thánh Thể tràn đầy yêu thương ôm ấp lấy tất cả các em trong liên đoàn Thiếu nhi Thánh Thể Giuse Hoàng Lương Cảnh, giáo phận Bắc Ninh.
Thánh lễ ban bí tích Thêm Sức và Rước lễ lần đầu tại giáo xứ Hà Nội, Xóm Mới
Giuse Nguyễn Quang Ngọc
17:18 12/08/2010
Sài Gòn, vào lúc 17h00 thứ năm ngày 12 tháng 08 năm 2010, tại Giáo xứ Hà Nội hạt Xóm Mới, Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu, Giám mục Phụ tá Giáo Phận Xuân Lộc, đã đến thăm mục vụ và ban Bí Tích Thêm Sức cho 39 em Thiếu nhi và 54 em Rước Lễ Lần Đầu trong Giáo xứ.
Hình ảnh Thánh lễ
Đúng 16h45, tiếng chuông nhà thờ trên cao vang vọng, hòa trong âm vang của Ban Kèn Tây, tiếng vỗ tay vang rền của các em Thiếu nhi và Cộng đoàn kéo dài liên tiếp khi chiếc xe con chở Đức Cha Phụ tá Tôma xuất hiện trước cổng nhà thờ. Đón tiếp Ngài ngay khi vừa xuống xe có cha sở Đaminh Đinh Ngọc Lễ, kiêm Hạt Trưởng hạt Xóm Mới, Cha phụ tá, quý ông trong Hội Đồng Mục Vụ, các em Thiếu nhi đứng thành hai hàng trong bộ đồng phục thật đẹp, cùng toàn thể anh chị Huynh Trưởng – Giáo Lý Viên hân hoan vui mừng đón chào Đức Cha. Đây thật sự là một ngày hồng phúc đối với Giáo xứ.
Quả thật là một ngày phúc lành khi Giáo xứ Hà Nội được đón tiếp Đức Cha Phụ Tá Tôma lần thứ nhất. Được biết, buổi sáng nay, Ngài vừa đi ban Bí Tích Thêm Sức ở Giáo xứ, thuộc Giáo hạt Phương Lâm Giáo Phận Xuân Lộc, với bao sự mệt nhọc của lịch mục vụ nhưng Ngài vẫn cố gắng đến với Giáo xứ Hà Nội trong dịp trọng đại này.
Đúng giờ, Thánh lễ được diễn ra, cuộc rước bắt đầu từ nhà xứ đi bên hông nhà thờ để tiến vào tiền sảnh thánh đường. Tham dự đoàn rước có quý ông thừa tác viên, các em sắp được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, các anh chị Giáo Lý Viên, Hội đồng Mục vụ giáo xứ, quý thầy giúp lễ, quý cha đồng tế, cha phụ tá, cha sở và Đức Cha Tôma. Hòa trong tiếng kèn rộn rã lên đền thánh, đoàn rước diễn ra thật trang nghiêm và sốt sắng.
Truớc khi bước vào Thánh lễ, cha sở Đaminh nói lên lời chào mừng Đức Cha, quý cha đồng tế, quý sơ dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, và toàn thể Cộng đoàn dân Chúa Giáo xứ Hà Nội.
Trong bài giảng, Đức Cha Tôma đã chia sẽ ước mong chúng con hãy luôn mở rộng tâm hồn, khát mong và thiết tha cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, để xin Ngài luôn ở lại cũng như hoạt động trong tâm hồn chúng con. Chúng con hãy để tâm lắng nghe lời Ngài, và hãy mau mắn thực thi những gì Ngài dạy bảo chúng con, chúng con hãy gieo mình vào lòng Ngài, và xin Ngài biến đổi để chúng con trở thành những chứng nhân đích thật của Chúa Giêsu, đặc biệt bằng chính đời sống trung thực, trong sạch, chúng con sống yêu thương, phục vụ tất cả mọi người chung quanh chúng con. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến, và đổ tràn tình yêu của Người trên tất cả chúng con, và biến đổi, canh tân chúng con trở nên những Kitô hữu thánh thiện, những người sống đức tin trưởng thành, và là những người biết loan truyền tin mừng của Chúa cho tất cả mọi người chung quanh chúng con.
Kế tiếp, Đức Cha đã lần lượt trao ban ấn tín Chúa Thánh Thần cho 39 em Thiếu nhi trong xứ.
Sau đó, Thánh lễ được tiếp nối với phần lời nguyện tín hữu, dâng lễ vật, hiệp lễ.
Cuối lễ, trước khi Đức Cha ban phép lành để lãnh nhận ơn toàn xá, ông chủ tịch Hội đồng mục vu, đại diện cho Giáo xứ dâng lời cám ơn lên Đức Cha Tôma, cha sở, cha phụ tá, quý cha đồng tế, quý sơ và toàn thể Cộng đoàn. Đồng thời, các em vừa lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, kính dâng lên Đức Cha, quý cha, những bó hoa tươi thắm tượng trưng tấm lòng thành, đơn sơ nhỏ bé của Giáo xứ. Và trong bầu không khí linh thiêng, một em Thiếu nhi đại diện nói lên lời cám ơn ba mẹ, để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với ba mẹ, các em gởi trọn tâm tình của các em qua bài hát “cầu cho cha mẹ” để nói lên lòng yêu thương và biết ơn chân thành.
Sau Thánh lễ, Đức Cha Tôma, quý cha đồng tế, cùng chụp hình lưu niệm với các em, vừa lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu, trong ngày ân sủng bình an của Chúa Thánh Thần.
Hình ảnh Thánh lễ
Đúng 16h45, tiếng chuông nhà thờ trên cao vang vọng, hòa trong âm vang của Ban Kèn Tây, tiếng vỗ tay vang rền của các em Thiếu nhi và Cộng đoàn kéo dài liên tiếp khi chiếc xe con chở Đức Cha Phụ tá Tôma xuất hiện trước cổng nhà thờ. Đón tiếp Ngài ngay khi vừa xuống xe có cha sở Đaminh Đinh Ngọc Lễ, kiêm Hạt Trưởng hạt Xóm Mới, Cha phụ tá, quý ông trong Hội Đồng Mục Vụ, các em Thiếu nhi đứng thành hai hàng trong bộ đồng phục thật đẹp, cùng toàn thể anh chị Huynh Trưởng – Giáo Lý Viên hân hoan vui mừng đón chào Đức Cha. Đây thật sự là một ngày hồng phúc đối với Giáo xứ.
Quả thật là một ngày phúc lành khi Giáo xứ Hà Nội được đón tiếp Đức Cha Phụ Tá Tôma lần thứ nhất. Được biết, buổi sáng nay, Ngài vừa đi ban Bí Tích Thêm Sức ở Giáo xứ, thuộc Giáo hạt Phương Lâm Giáo Phận Xuân Lộc, với bao sự mệt nhọc của lịch mục vụ nhưng Ngài vẫn cố gắng đến với Giáo xứ Hà Nội trong dịp trọng đại này.
Đúng giờ, Thánh lễ được diễn ra, cuộc rước bắt đầu từ nhà xứ đi bên hông nhà thờ để tiến vào tiền sảnh thánh đường. Tham dự đoàn rước có quý ông thừa tác viên, các em sắp được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, các anh chị Giáo Lý Viên, Hội đồng Mục vụ giáo xứ, quý thầy giúp lễ, quý cha đồng tế, cha phụ tá, cha sở và Đức Cha Tôma. Hòa trong tiếng kèn rộn rã lên đền thánh, đoàn rước diễn ra thật trang nghiêm và sốt sắng.
Truớc khi bước vào Thánh lễ, cha sở Đaminh nói lên lời chào mừng Đức Cha, quý cha đồng tế, quý sơ dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, và toàn thể Cộng đoàn dân Chúa Giáo xứ Hà Nội.
Trong bài giảng, Đức Cha Tôma đã chia sẽ ước mong chúng con hãy luôn mở rộng tâm hồn, khát mong và thiết tha cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, để xin Ngài luôn ở lại cũng như hoạt động trong tâm hồn chúng con. Chúng con hãy để tâm lắng nghe lời Ngài, và hãy mau mắn thực thi những gì Ngài dạy bảo chúng con, chúng con hãy gieo mình vào lòng Ngài, và xin Ngài biến đổi để chúng con trở thành những chứng nhân đích thật của Chúa Giêsu, đặc biệt bằng chính đời sống trung thực, trong sạch, chúng con sống yêu thương, phục vụ tất cả mọi người chung quanh chúng con. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến, và đổ tràn tình yêu của Người trên tất cả chúng con, và biến đổi, canh tân chúng con trở nên những Kitô hữu thánh thiện, những người sống đức tin trưởng thành, và là những người biết loan truyền tin mừng của Chúa cho tất cả mọi người chung quanh chúng con.
Kế tiếp, Đức Cha đã lần lượt trao ban ấn tín Chúa Thánh Thần cho 39 em Thiếu nhi trong xứ.
Sau đó, Thánh lễ được tiếp nối với phần lời nguyện tín hữu, dâng lễ vật, hiệp lễ.
Cuối lễ, trước khi Đức Cha ban phép lành để lãnh nhận ơn toàn xá, ông chủ tịch Hội đồng mục vu, đại diện cho Giáo xứ dâng lời cám ơn lên Đức Cha Tôma, cha sở, cha phụ tá, quý cha đồng tế, quý sơ và toàn thể Cộng đoàn. Đồng thời, các em vừa lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, kính dâng lên Đức Cha, quý cha, những bó hoa tươi thắm tượng trưng tấm lòng thành, đơn sơ nhỏ bé của Giáo xứ. Và trong bầu không khí linh thiêng, một em Thiếu nhi đại diện nói lên lời cám ơn ba mẹ, để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với ba mẹ, các em gởi trọn tâm tình của các em qua bài hát “cầu cho cha mẹ” để nói lên lòng yêu thương và biết ơn chân thành.
Sau Thánh lễ, Đức Cha Tôma, quý cha đồng tế, cùng chụp hình lưu niệm với các em, vừa lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu, trong ngày ân sủng bình an của Chúa Thánh Thần.
Bài chúc mừng ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn 11 năm tấn phong Giám Mục Giáo Phận Quy Nhơn
+GM. Matthêu Nguyễn Văn Khôi
19:42 12/08/2010
Bài của Đức Cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi chúc mừng ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn 11 năm tấn phong Giám Mục Giáo Phận Quy Nhơn
Thân lạy Đức Cha Phêrô kính yêu,
Đối với Giáo Hội Việt Nam, năm 2010 là Năm Thánh, là thời gian đặc biệt của ân sủng. Trong bối cảnh này, từng chi tiết của cuộc sống, từng biến cố lịch sử của cá nhân và Giáo Hội đều được nhìn trong viễn tượng ân sủng và trong tâm tình tạ ơn.
Hôm nay giáp 11 năm ngày Đức Cha được tấn phong Giám Mục Chính Tòa giáo phận Qui Nhơn (12/08/1999-12/08/2010), toàn thể cộng đoàn Dân Chúa giáo phận Qui Nhơn trước hết xin hiệp ý với Đức Cha dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Giám Mục mà Ngài đã ban cho Đức Cha và đã giúp Đức Cha sử dụng hồng ân ấy để phục vụ đoàn chiên giáo phận trong suốt 11 năm qua.
Qua thánh lễ tấn phong được cử hành cách trọng thể hôm 12/08/1999, Đức Cha đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức một cách trọn vẹn và trở nên thành viên của Giám Mục Đoàn trên toàn thế giới. Đồng thời, Đức Cha là nguyên lý và nền tảng của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương. Trong số các thừa tác vụ khác nhau của Giáo Hội, thừa tác vụ Giám Mục chiếm địa vị đầu tiên.
Với tư cách Giám Mục, Đức Cha là người kế vị các Thánh Tông Đồ, là người rao giảng và tiến sĩ đích thực của đức tin, là chứng nhân cho chân lý thần linh và Công Giáo và là chứng nhân của Đức Kitô trước mặt nhân loại. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Cha đứng đầu đoàn chiên, dạy giáo thuyết, chăm lo phụng tự thánh với tư cách thượng tế và lãnh đạo Dân Chúa với tư cách thừa tác viên, hiểu biết các con chiên, bảo đảm sự hiện diện của Đức Kitô giữa các tín hữu và sự vĩnh cửu của công trình Đức Kitô.
Đức Cha là chủ chăn với quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp, để thi hành nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và cai quản trên đoàn chiên giáo phận Qui Nhơn được trao phó cho Đức Cha.
Công việc nặng nề chồng chất trên vai Đức Cha, những ưu tư lo lắng cho đoàn chiên giáo phận đè nặng trên con tim Đức Cha, khiến cho sức khỏe của Đức Cha bị giảm sút, mặc dù tinh thần của Đức Cha vẫn sang suốt. Người ta vẫn thường nói: “Lực bất tòng tâm”, để chỉ những điều mình muốn mà không làm được. Tuy nhiên, chúng con tin rằng Thiên Chúa luôn luôn nâng đỡ Đức Cha, như Ngài đã nói với thánh Phaolô: “Ơn Ta đủ cho con’.
Chúng con cám ơn Đức Cha vì tình yêu mục tử Đức Cha đã dành cho chúng con và những gì Đức Cha đã làm cho chúng con trong suốt bao nhiêu năm qua. Xin Đức Cha vui lòng đón nhận tâm tình tri ân hiếu thảo của chúng con. Chúng con nguyện xin Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi Đức Cha trong ngày tấn phong Giám Mục. Xin Ngài tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ, chăm sóc và yêu thương chúng con như người mục tử nhân hiền đối với đoàn chiên.
Cuối cùng, chúng con xin dâng lên Đức Cha những đóa hoa tươi thắm tượng trưng tâm tình tri ân thảo kính của chúng con đối với Đức Cha. Kính xin Đức Cha vui nhận.
Thân lạy Đức Cha Phêrô kính yêu,
Đối với Giáo Hội Việt Nam, năm 2010 là Năm Thánh, là thời gian đặc biệt của ân sủng. Trong bối cảnh này, từng chi tiết của cuộc sống, từng biến cố lịch sử của cá nhân và Giáo Hội đều được nhìn trong viễn tượng ân sủng và trong tâm tình tạ ơn.
Hôm nay giáp 11 năm ngày Đức Cha được tấn phong Giám Mục Chính Tòa giáo phận Qui Nhơn (12/08/1999-12/08/2010), toàn thể cộng đoàn Dân Chúa giáo phận Qui Nhơn trước hết xin hiệp ý với Đức Cha dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Giám Mục mà Ngài đã ban cho Đức Cha và đã giúp Đức Cha sử dụng hồng ân ấy để phục vụ đoàn chiên giáo phận trong suốt 11 năm qua.
Qua thánh lễ tấn phong được cử hành cách trọng thể hôm 12/08/1999, Đức Cha đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức một cách trọn vẹn và trở nên thành viên của Giám Mục Đoàn trên toàn thế giới. Đồng thời, Đức Cha là nguyên lý và nền tảng của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương. Trong số các thừa tác vụ khác nhau của Giáo Hội, thừa tác vụ Giám Mục chiếm địa vị đầu tiên.
Với tư cách Giám Mục, Đức Cha là người kế vị các Thánh Tông Đồ, là người rao giảng và tiến sĩ đích thực của đức tin, là chứng nhân cho chân lý thần linh và Công Giáo và là chứng nhân của Đức Kitô trước mặt nhân loại. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Cha đứng đầu đoàn chiên, dạy giáo thuyết, chăm lo phụng tự thánh với tư cách thượng tế và lãnh đạo Dân Chúa với tư cách thừa tác viên, hiểu biết các con chiên, bảo đảm sự hiện diện của Đức Kitô giữa các tín hữu và sự vĩnh cửu của công trình Đức Kitô.
Đức Cha là chủ chăn với quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp, để thi hành nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và cai quản trên đoàn chiên giáo phận Qui Nhơn được trao phó cho Đức Cha.
Công việc nặng nề chồng chất trên vai Đức Cha, những ưu tư lo lắng cho đoàn chiên giáo phận đè nặng trên con tim Đức Cha, khiến cho sức khỏe của Đức Cha bị giảm sút, mặc dù tinh thần của Đức Cha vẫn sang suốt. Người ta vẫn thường nói: “Lực bất tòng tâm”, để chỉ những điều mình muốn mà không làm được. Tuy nhiên, chúng con tin rằng Thiên Chúa luôn luôn nâng đỡ Đức Cha, như Ngài đã nói với thánh Phaolô: “Ơn Ta đủ cho con’.
Chúng con cám ơn Đức Cha vì tình yêu mục tử Đức Cha đã dành cho chúng con và những gì Đức Cha đã làm cho chúng con trong suốt bao nhiêu năm qua. Xin Đức Cha vui lòng đón nhận tâm tình tri ân hiếu thảo của chúng con. Chúng con nguyện xin Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi Đức Cha trong ngày tấn phong Giám Mục. Xin Ngài tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ, chăm sóc và yêu thương chúng con như người mục tử nhân hiền đối với đoàn chiên.
Cuối cùng, chúng con xin dâng lên Đức Cha những đóa hoa tươi thắm tượng trưng tâm tình tri ân thảo kính của chúng con đối với Đức Cha. Kính xin Đức Cha vui nhận.
Đức TGM Hà Nội ban phép Thêm sức tại giáo xứ Kim Bảng, TGP Hà Nội
Phạm Nam
19:53 12/08/2010
HÀ NỘI - Sáng ngày 11 tháng 8 năm 2010, giáo xứ Kim Bảng hân hoan chào đón Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM GP Hà Nội, đã về thăm mục vụ và chủ tế thánh lễ ban phép Thêm Sức cho 280 em thiếu nhi của 3 giáo xứ trong miền là Kim Bảng – Đại Phú và Tân Lang. Cùng đồng tế thánh lễ còn có cha Giuse Vũ Quang Học – phụ trách giáo lý giáo phận, cha xứ Phêrô, 2 cha phó, quý cha khách cùng đông đảo quý phụ huynh và bà con giáo dân trong giáo miền.
Hình ảnh Lễ Thêm Sức
Mặc dù thánh lễ bắt đầu vào lúc hơn 9 giờ, nhưng ngay từ 7 giờ các em chịu phép Thêm Sức cùng cha mẹ đỡ đầu đã tề tựu đông đủ tại nhà thờ giáo xứ Kim Bảng để chuẩn bị và ôn tập lại nghi thức.
Khoảng 8 giờ 15, Đức Tổng Giám mục Phêrô đã về tới giáo xứ trong sự chào đón hân hoan của cộng đoàn dân Chúa. Đúng giờ quy định, Đức Tổng Phêrô, quý cha và đoàn rước tiến vào thánh đường.
Sau bài Tin mừng, với cung giọng trầm ấm, hiền hòa, Đức Tổng Giám mục Phêrô đã quảng diễn tâm tình Lời Chúa mà ngài kín múc từ trong 03 bài Sách Thánh hôm nay, với chủ đề: “ Chúa Thánh Thần và tín hữu ”. Ngài dặn dò cộng đoàn đặc biệt là các em được lãnh nhận Bí tích Thêm sức hãy noi gương Chúa Thánh Thần để sống đời chứng nhân giữa đời thường. Đặc biệt, ngài tha thiết mời gọi mọi người hãy nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn đời mình, để tất cả hiệp nhất nên một, đoàn kết yêu thương nhau…
Thánh lễ tiếp tục với nghi thức ban Bí tích Thêm Sức, nghi thức diễn ra trong bầu khí thánh thiêng, trật tự và sốt sắng. Trước khi ban phép lành trọng thể, Đức Tổng Giám mục Phêrô một lần nữa dặn dò các em thiếu nhi, và không quên khích lệ các gia đình. Ngài nhấn mạnh đến vai trò của các gia đình trong việc giáo dục con cái trong những chặng đường tiếp theo của các em.
Cuối lễ, một vị phụ huynh đã đại diện lên tri ân Đức Tổng Giám mục Phêrô, quý cha cùng quý cộng đoàn tham dự.
Thánh lễ kết thúc 11giờ00. Mọi người ra về trong hân hoan vì được tham dự thánh lễ ban bí tích Thêm Sức rất long trọng do tay vị chủ chăn của Giáo phận. Nhất là các em được lãnh bí tích Thêm Sức, lòng tràn ngập niềm vui vì đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, để từ nay, các em sẽ là chiến sĩ của Chúa Kitô, làm chứng cho Ngài trong gia đình, trong Giáo xứ, trong trường học và trong mọi nơi các em đến.
Sau bữa cơm trưa tại giáo xứ Kim Bảng, đáp lại lời mời của cha xứ, Đức Tổng giám mục Phêrô đã đi thăm giáo họ Bình Chính – là nơi cha già cố Giuse Nguyễn Văn Bàng đã sống và làm việc mục vụ trong suốt 32 năm chịu quản thúc trong khi ngài đang là cha chính xứ Phủ Lý.
Đức Tổng ra về để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bà con giáo dân về một vị chủ chăn gần gũi, giản dị, quan tâm đến đoàn chiên. Sự hiện diện của ngài đã giúp cho bà con giáo dân hăng say nhiệt tình hơn trong đời sống đạo, chung tay xây dựng giáo hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Hình ảnh Lễ Thêm Sức
Mặc dù thánh lễ bắt đầu vào lúc hơn 9 giờ, nhưng ngay từ 7 giờ các em chịu phép Thêm Sức cùng cha mẹ đỡ đầu đã tề tựu đông đủ tại nhà thờ giáo xứ Kim Bảng để chuẩn bị và ôn tập lại nghi thức.
Khoảng 8 giờ 15, Đức Tổng Giám mục Phêrô đã về tới giáo xứ trong sự chào đón hân hoan của cộng đoàn dân Chúa. Đúng giờ quy định, Đức Tổng Phêrô, quý cha và đoàn rước tiến vào thánh đường.
Sau bài Tin mừng, với cung giọng trầm ấm, hiền hòa, Đức Tổng Giám mục Phêrô đã quảng diễn tâm tình Lời Chúa mà ngài kín múc từ trong 03 bài Sách Thánh hôm nay, với chủ đề: “ Chúa Thánh Thần và tín hữu ”. Ngài dặn dò cộng đoàn đặc biệt là các em được lãnh nhận Bí tích Thêm sức hãy noi gương Chúa Thánh Thần để sống đời chứng nhân giữa đời thường. Đặc biệt, ngài tha thiết mời gọi mọi người hãy nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn đời mình, để tất cả hiệp nhất nên một, đoàn kết yêu thương nhau…
Thánh lễ tiếp tục với nghi thức ban Bí tích Thêm Sức, nghi thức diễn ra trong bầu khí thánh thiêng, trật tự và sốt sắng. Trước khi ban phép lành trọng thể, Đức Tổng Giám mục Phêrô một lần nữa dặn dò các em thiếu nhi, và không quên khích lệ các gia đình. Ngài nhấn mạnh đến vai trò của các gia đình trong việc giáo dục con cái trong những chặng đường tiếp theo của các em.
Cuối lễ, một vị phụ huynh đã đại diện lên tri ân Đức Tổng Giám mục Phêrô, quý cha cùng quý cộng đoàn tham dự.
Thánh lễ kết thúc 11giờ00. Mọi người ra về trong hân hoan vì được tham dự thánh lễ ban bí tích Thêm Sức rất long trọng do tay vị chủ chăn của Giáo phận. Nhất là các em được lãnh bí tích Thêm Sức, lòng tràn ngập niềm vui vì đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, để từ nay, các em sẽ là chiến sĩ của Chúa Kitô, làm chứng cho Ngài trong gia đình, trong Giáo xứ, trong trường học và trong mọi nơi các em đến.
Sau bữa cơm trưa tại giáo xứ Kim Bảng, đáp lại lời mời của cha xứ, Đức Tổng giám mục Phêrô đã đi thăm giáo họ Bình Chính – là nơi cha già cố Giuse Nguyễn Văn Bàng đã sống và làm việc mục vụ trong suốt 32 năm chịu quản thúc trong khi ngài đang là cha chính xứ Phủ Lý.
Đức Tổng ra về để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bà con giáo dân về một vị chủ chăn gần gũi, giản dị, quan tâm đến đoàn chiên. Sự hiện diện của ngài đã giúp cho bà con giáo dân hăng say nhiệt tình hơn trong đời sống đạo, chung tay xây dựng giáo hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Thông Báo
Thành Kính Phân Ưu - Bà Cố của Sr Marie Phạm Thị Hiền, Tổng Phụ Trách. HD. MTG Chợ Quán
Lm Francis Lý văn Ca
20:40 12/08/2010
PHÂN ƯU
Nhận được tin
Bà Cố Ane Nguyễn Thị Nhi
(1925-2010)
Là thân mẫu của Sr Marie Phạm Thị Hiền
Tổng Phụ Trách Hội Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán
đã qua đời lúc 7giờ 30 sáng ngày 11.8.2010, hưởng thọ 85 tuổi,
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Quận 5, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Nghi thức tẩm liệm lúc 20 giờ ngày 11.8.2010
tại tư gia số 97 Đường 1, Xã Phong Phú, Huyện Bình Chánh
Lễ An Táng sẽ được cử hành lúc 8giờ sáng ngày thứ Bảy 14.8.2010
tại Nhà Thờ Bình Hưng,
Địa chỉ: A 24/09, Quốc Lộ 50, Ấp 1, Xã Bình Hưng,
Huyện Bình Chánh, tp Hồ Chí Minh.
Xin thành kính phân ưu cùng Sr Marie Hiền, Anh Chị Em, các cháu trong gia đình cùng bà con thân thuộc.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho Bà Ane được nghỉ yên trong Nhà Chúa muôn đời.
Thay mặt Anh Em Linh Mục, Tu Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại
và Giáo Dân thuộc họ đạo Thủ Ngữ, Địa Phận Mỹ Tho
Thàh Kính Phân Ưu
Lm Francis Lý văn Ca
Giáo Xứ Chúa Chiên Lành
Tổng Giáo Phận Perth, Western Australia
Nhận được tin
Bà Cố Ane Nguyễn Thị Nhi
(1925-2010)
Là thân mẫu của Sr Marie Phạm Thị Hiền
Tổng Phụ Trách Hội Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán
đã qua đời lúc 7giờ 30 sáng ngày 11.8.2010, hưởng thọ 85 tuổi,
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Quận 5, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Nghi thức tẩm liệm lúc 20 giờ ngày 11.8.2010
tại tư gia số 97 Đường 1, Xã Phong Phú, Huyện Bình Chánh
Lễ An Táng sẽ được cử hành lúc 8giờ sáng ngày thứ Bảy 14.8.2010
tại Nhà Thờ Bình Hưng,
Địa chỉ: A 24/09, Quốc Lộ 50, Ấp 1, Xã Bình Hưng,
Huyện Bình Chánh, tp Hồ Chí Minh.
Xin thành kính phân ưu cùng Sr Marie Hiền, Anh Chị Em, các cháu trong gia đình cùng bà con thân thuộc.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho Bà Ane được nghỉ yên trong Nhà Chúa muôn đời.
Thay mặt Anh Em Linh Mục, Tu Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại
và Giáo Dân thuộc họ đạo Thủ Ngữ, Địa Phận Mỹ Tho
Thàh Kính Phân Ưu
Lm Francis Lý văn Ca
Giáo Xứ Chúa Chiên Lành
Tổng Giáo Phận Perth, Western Australia
Văn Hóa
Mẹ lên trời
Mic. Cao Danh Viện
12:59 12/08/2010
Người nghe thấy các tầng trời rộn rả
Sáng hôm nay chờ phúc cả kỳ duyên
Chị mặt trăng lúng liếng nét trinh nguyên
Chờ nâng gót sen hồng Hoàng Thái Hậu
Anh mặt trời gom hào quang quý báu
Dệt xiêm y bằng bạch ngọc thiên đàng
Mười hai sao làm vương miện cao sang
Chờ thời khắc Đấng đăng quang lịch sử
Anh mây về vai mang Một Người Nữ
Rất tinh tuyền! Cha sủng ái mê ly!
Anh gió thổi bài giao hưởng thần kỳ
Nâng gót ngọc giữa hai hàng thiên sứ
Cửa thiên đàng chị hoa cười tình tứ
Chị hương thơm ngây ngất đến mê say
Trong yêu thương Cha ngự đến cầm tay
Dìu Trinh Nữ vào ngai tòa Thánh Mẫu
Người uy nghi thơ tôi nào tả thấu
Khi xiêm y và vương miện được trao
Cả thiên cung phủ phục cất tiếng chào
Ave Maria-Lạy Mẫu Nghi cao cả!
Lạy Mẫu Nghi! Mẹ tràn ơn phước lạ!
Đã một đời tay chạm đến vô biên
Mẹ tiên phong giữa nhân loại hư huyền
Mẹ minh chứng tình yêu Cha rất thật
Xin giúp con chu toàn việc dưới đất
Được lên trời cùng Mẹ, phúc hiển vinh.
12-8-2010
Sáng hôm nay chờ phúc cả kỳ duyên
Chị mặt trăng lúng liếng nét trinh nguyên
Chờ nâng gót sen hồng Hoàng Thái Hậu
Anh mặt trời gom hào quang quý báu
Dệt xiêm y bằng bạch ngọc thiên đàng
Mười hai sao làm vương miện cao sang
Chờ thời khắc Đấng đăng quang lịch sử
Anh mây về vai mang Một Người Nữ
Rất tinh tuyền! Cha sủng ái mê ly!
Anh gió thổi bài giao hưởng thần kỳ
Nâng gót ngọc giữa hai hàng thiên sứ
Cửa thiên đàng chị hoa cười tình tứ
Chị hương thơm ngây ngất đến mê say
Trong yêu thương Cha ngự đến cầm tay
Dìu Trinh Nữ vào ngai tòa Thánh Mẫu
Người uy nghi thơ tôi nào tả thấu
Khi xiêm y và vương miện được trao
Cả thiên cung phủ phục cất tiếng chào
Ave Maria-Lạy Mẫu Nghi cao cả!
Lạy Mẫu Nghi! Mẹ tràn ơn phước lạ!
Đã một đời tay chạm đến vô biên
Mẹ tiên phong giữa nhân loại hư huyền
Mẹ minh chứng tình yêu Cha rất thật
Xin giúp con chu toàn việc dưới đất
Được lên trời cùng Mẹ, phúc hiển vinh.
12-8-2010
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Nét Vô Thường
Nguyễn Ngọc Danh
22:15 12/08/2010
NÉT VÔ THƯỜNG
Ảnh của Nguyễn Ngọc Danh
Lấy nét vô thường của mênh mông
Chúa đem tô điểm nụ sen hồng
Phật đi khất thực qua xóm vắng
Đứng ngắm nụ cười nở hư không.
(ND)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Chân Dung Bông Cỏ Dại
Joseph Nguyễn Tro Bụi
22:18 12/08/2010
CHÂN DUNG BÔNG CỎ DẠI
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Hình như có mầm của cỏ
Lách lên từ kẽ đất cằn
Chỉ là tình yêu được thế
Hoang sơ chân tóc nỗi niềm.
(Trích thơ của Bùi Kim Anh)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền