Ngày 15-08-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mừng Nữ Vương lên trời
Mặc Trầm Cung
01:37 15/08/2009
Hòm giao ước vào thành Đa-vít,
Dân Ích-Diên cung kính reo vang.
Gia-Liêm thiên quốc hợp hoan,
Đón chào Trinh Nữ vinh quang khải hoàn.

Cả vũ trụ hợp đoàn cung chúc,
Nhạc thiên cung tấu khúc uy hùng.
Vua trời ngự giữa không trung,
Cùng đoàn Thiên sứ tháp tùng giáng lâm.

Kính chào Mẹ Hòm Bia giao ước,
Cung nghinh Mẹ hưởng phước vinh quang.
Đông qua sương giá đã tan,
Bồ Câu dời núi Li-Ban về trời.

Cả thiên đình vui tươi hoan lạc,
Các thiên thần ngơ ngác hỏi nhau.
Nữ Nhân ngự giá từ đâu?
Tinh tuyền, diễm lệ, ngọc châu tuyệt trần.

Cửa Thiên đàng chư thần diện kiến,
Mừng Mẹ yêu vinh hiển thắm xinh.
Khởi đầu các Thánh Đồng Trinh,
Chúc tụng Mẹ đức Khiết Trinh rạng ngời.

Phút tao phùng thỏa lời chúc tụng,
Thánh Hiển Tu sung sướng tung hô.
Nữ Vương tuyệt thánh vô bờ,
Tiếp lời các Thánh Tông Đồ ca vang.

Triều thiên Mẹ hào quang lấp lánh,
Đến khấu đầu các Thánh Tiên Tri.
Các Thánh Tử Đạo bái quỳ,
Các Thánh Tổ Phụ phục uy Mẹ hiền.

Kìa nguyên tổ Adam cung tiến,
Cả Evà chung tiếng ngợi khen.
Nhờ Con khiêm hạ, thấp hèn,
Cứu nguy nhân loại thoát phen đọa đày.

Lời chào đón nồng say ngọc quế,
Mừng Con yêu giòng lệ tuôn sa.
Gioankim cùng Thánh Anna,
Hỉ hoan chúc tụng dáng ngà trinh trong.

Thánh Giuse bạn lòng công chính,
Mừng Hiền Thê cung kính tri ân.
Nhờ bạn tôi được thông phần,
Đồng Công Cứu Chuộc góp phần dưỡng nuôi

Tình nhiệm mầu Ba Ngôi Chí Thánh,
Chúa Cha mừng Ái Nữ dấu yêu.
Chúa Con mừng Mẹ diễm kiều,
Thánh Linh mừng Bạn Thánh yêu thắm tình.

Mẹ thánh thiện cúi mình cung kính,
Bái gối lạy Thiên Chúa uy nghi.
Khiêm cung thân phận nữ tì,
Ngất ngây lòng mến đắm chìm tri ân.

Mẹ diệu hiền hồng ân vinh thắng,
Chúa Ba Ngôi phong tặng Nữ Vương.
Ngai tòa Mẹ ngự tuyên dương,
Nữ Vương vũ trụ thiên đường cao sang.

Tôn vinh Mẹ thiên đàng, trần thế,
Thương đoàn con bốn bể năm châu.
Xin Mẹ giáng phúc, cầu bầu,
Chở che nâng đỡ khấu đầu tri ân.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:40 15/08/2009
HOA PHONG TÍN TỬ MẤT HỒN

N2T


Phong tín tử bị lún trong ái tình mật ngọt, mỗi ngày trong đầu óc nó luôn nghĩ đến hình dáng đẹp đẽ của con bươm bướm, miệng nó luôn tỉ tỉ tê tê những điều toàn là về con bướm. Người bên cạnh chịu không được, tức cười nói:

- “Quái lạ, người này làm gì mà giống như mất hồn vậy?”

Đấng tạo hóa cũng cười nói:

- “Khi con đã yêu, thì tình yêu liền hình thành một xiềng xích vô hình, bắt con ràng buộc trong thành trì nho nhỏ. Ngoài việc yêu bản thân ra, thì con không nhìn thấy người nào khác!”

(Trích "Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay")

Suy tư:

Bạn đã thấy người ta thất tình chưa ?

Còn tôi thì thấy rồi.

Khi thất tình thì người ta đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, mặt mày ngơ ngơ ngác ngác, miệng luôn nói lảm nhảm những câu mà thường ngày họ hay nói với người yêu v.v… lại còn khóc, cười, hát hò thất thường. Tóm lại, họ là những con người đáng thương.

Tại sao họ thất tình?

Thưa, là vì họ đã bị người yêu ruồng bỏ, nói văn hoa hơn là họ bị phụ tình, người mà họ đã trao cho tất cả con tim, trao cho cả tình yêu giờ đã cao bay xa chạy theo mối tình khác. Người yêu là hạnh phúc, là niềm vui, là cuộc sống, mà con người sống là nhờ những yếu tố ấy, bây giờ những thứ ấy không còn nữa thì làm sao mà sống chứ ?

Họ đã thất tình vì họ đã quá đặt tin tưởng vào người mà họ yêu.

Thất tình, nói theo tâm lý học thì là trạng thái mất quân bình của tâm sinh lý, thế thôi, thật đơn giản.

Thánh Phao-lô đã không vì thập giá mà điên đó sao ? Ngài nói ngài yêu thập giá đến điên rồ! Nhưng cái điên của thánh Phao-lô là cái điên hạnh phúc, điên vì đựơc yêu khi mình không đáng để được yêu.

Một anh chàng nhà quê mà đựơc một công chúa yêu, thì quả là sung sướng phát điên lên đi chứ, hoặc một người mang án tử mà được khoan hồng thì sung sướng như điên phải không nào ?

Và như thế thì chúng ta –những người Ki-tô hữu- cũng là những kẻ điên, vì chúng ta chẳng đáng đựơc yêu mà lại đựơc yêu vô cùng; chúng ta là những tử tội nhưng được khoan hồng, lại còn được gọi Thiên Chúa là cha nữa chứ !

Đối với thế gian, họ cho rằng chúng ta là những tên điên điên khùng khùng, bởi vì họ thấy chúng ta yêu thương kẻ ghét mình, làm ơn cho những kẻ bắt bớ đánh đập mình, lại còn cầu nguyện cho họ nữa...

Đúng là cái điên hạnh phúc!
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 20 B)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:42 15/08/2009
CHỦ NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN

Tin Mừng: Ga 6, 51-58.

“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.”


Bạn thân mến,

Tiếp tục Tin Mừng tuần trước, hôm nay Chúa Giê-su nhấn mạnh đến tính cách bất tử của bánh trường sinh: Mình và Máu Thánh của Ngài chính là lương thực thần thiêng cho những kẻ tin vào Ngài để họ được sống đời đời.

Mình Máu Thánh Chúa Giê-su là lương thực hằng sống.

Bánh hằng sống bởi trời xuống chính là Chúa Giê-su, đây là điều mà không một người công giáo nào lại không biết, nhưng có nhiều lúc bạn và tôi và những người Ki-tô hữu khác viện lí do này hay lí do nọ, mà chối bỏ tính thực tại thần thiêng nơi bánh sự sống này, bởi vì con người tự đem cái thông minh của mình đặt trên sự thông hiểu của Thiên Chúa, và vì con người đem cái kiêu ngạo cố hữu của mình, để so sánh với mầu nhiệm tình yêu khiêm nhường sâu thẳm của Thiên Chúa, nên con người không thể nào hiểu thấu được bánh hằng sống ấy chính là Mình và Máu thật của Chúa Giê-su Ki-tô.

Con người thời nay -trong đó có bạn và tôi- cũng giống như những người Do Thái vào thời của Chúa Giê-su, cũng đã ngạc nhiên đến sững sờ rồi từ bỏ Chúa Giê-su khi Ngài tuyên bố một thông điệp của tình yêu, một phương thuốc nhiệm mầu để chữa lành mọi tật bệnh tâm hồn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình...”

Con người thời nay không nhận ra được Chúa Giê-su là Đấng cứu chuộc nhân loại, thì lại càng không thể chấp nhận việc ăn thịt một con người mà được sống đời đời. Nhưng bạn và tôi là những người có đức tin, những người đã được diễm phúc ăn và uống Thịt Máu thánh của Chúa Giê-su trong thánh lễ tạ ơn, chúng ta càng cảm nghiệm ra được rằng: đây là một hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta hơn những người khác, hồng ân bởi vì đây chính là Bánh Thiên Thần mà lại đem tặng cho những con người tội lỗi và bất xứng là chúng ta ăn.

Làm theo ý Chúa cũng là lương thực hằng sống.

Lương thực hằng sống cũng chính là làm theo ý của Cha trên trời, con cái biết nghe lời cha mẹ là con cái ngoan, biết nghe lời cha mẹ thì tránh được nhiều điều không tốt sẽ xảy đến cho đứa trẻ. Làm theo ý của Cha trên trời cũng chính là nghe và làm theo lời dạy của Chúa Giê-su, đó là thực hành đức ái ngay trong cuộc sống của chúng ta. Bánh hằng sống được trao ban cho nhân loại cũng bởi vì yêu thương, Lời được trao tặng cũng là vì yêu thương mà có, đây cũng chính là tâm điểm của người Ki-tô hữu chúng ta.

Ai ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su nhưng không thực hành lời của Ngài, thì cũng giống như người vô ơn bội nghĩa, chỉ biết ăn mà không biết làm; ai thực hành Lời Chúa mà không thiết tha gì đến, hoặc coi thường việc rước lễ thì chẳng khác chi xây nhà cao tầng đẹp đẽ trên bờ đê bị nước xói mòn bên dưới nền, không biết lúc nào sẽ bị lún ngập chìm sâu trong lòng nước xoáy đời đời...

Cho nên Lời Chúa cũng chính là lương thực hằng sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, nếu bạn và tôi không biết hoặc không thích nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta sẽ không nhận ra được bí tích Thánh Thể là cao trọng đến mức nào cho phần rỗi linh hồn của chúng ta.

Bạn thân mến,

Chúng ta sống ở đời này, dù là đời tạm, nhưng không phải vì thế mà chúng ta phớt lờ những sự việc xảy ra chung quanh chúng ta, những sự việc ấy chính là người anh em bên cạnh chúng ta đang đói ăn phần xác và bệnh hoạn phần hồn, chúng ta không thể an vui tự tại ngồi rung đùi hưởng thụ sự no ấm phần xác cũng như phần hồn, nhưng như Chúa Giê-su đã làm là đem thân xác của mình để nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng đem hết sức lực, tri óc của mình ra để kiến tạo một xã hội vui tươi lành mạnh, đem lại niềm an ủi cho người bất hạnh bằng chính cuộc sống dấn thân phục vụ của mình.

Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.

--------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:45 15/08/2009
N2T


26. Các vị thánh lớn đều dùng những công nghiệp rầm rộ để quang vinh Thiên Chúa, nhưng sự cố gắng của một linh hồn dù cho nhỏ bé, cũng làm cho Thiên Chúa vui thích.

(Thánh Terese of Lisieux)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:47 15/08/2009
N2T


199. Con người ta một khi bắt buộc nhận tinh thần trách nhiệm, thì có thể sáng tạo ra nhiều kì tích.

 
Tâm Sự Với Chúa Mỗi Ngày - Tuần 20 Thường Niên B
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
05:43 15/08/2009
Thứ hai sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 19,16-22

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa là tấm bánh dưỡng nuôi hồn xác chúng con. Xin cho chúng con được nên một với Chúa trong suy nghĩ và hành động. Xin giúp chúng con cũng biết bẻ tấm bánh đời mình nên nguồn vui và hạnh phúc cho anh em chúng con.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, chúng con đã tiếp nhận cuộc sống từ chính Chúa và qua bao người khác đã làm nên cuộc đời chúng con. Sự sống chúng con là của Chúa ban tặng. Cuộc sống này tiếp tục được nuôi dưỡng bởi cha mẹ, ông bà. Cuộc sống này tiếp tục được sống sung mãn ngập tràn hạnh phúc nhờ biết bao người yêu thương chúng con đã tạo dựng cho chúng con. Xin giúp chúng con một khi biết hân hoan đón nhận cuộc sống với bao niềm vui và đến lượt chúng con cũng biết hiến trao cho anh em trong bài học cho đi. Cho đi bản thân của mình để mang lại hạnh phúc cho tha nhân. Cho đi thời giờ của mình để nâng đỡ ủi an những ai cơ hàn. Cho đi khả năng của mình để phục vụ một cách quảng đại và vô vị lợi. Cho đi cả tài sản của mình để chúng con có được những bạn hữu của Nước Trời là những người nghèo khó lầm than.

Lạy Chúa là Đấng chúng con tôn thờ trên hết mọi sự, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa với trọn tâm hồn và thân xác chúng con. Amen

Thứ Ba sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 19,23-30

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa đã tận hiến chính mình trở nên của ăn nuôi dưỡng hồn xác chúng con. Chúa đã đi qua kiếp người trong hy sinh từ bỏ để trở nên mọi sự cho mọi người. Chúa không có của cải nhưng có cả một con người quảng đại phục tha nhân. Chúa không giữ lại gì cho riêng mình để có thể trao ban cả cuộc sống cho nhân loại chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa dạy chúng con biết sống một cuộc đời biết cho đi hơn nhận lãnh, biết phục vụ hơn được phục vụ.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã sống nghèo để dạy chúng con biết thanh thoát với của cải trần gian. Của cải trần gian mang lại cho con người niềm vui chốc lát, nhưng có thể giam hãm con người trong tham lam ích kỷ, trong lo âu sợ hãi, khiến mất bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Có nhiều người giầu có nhưng lòng bất an. Có nhiều người tiền dư bạc để nhưng lại mất bạn bè người thân. Có nhiều người chỉ biết giữ tiền nhưng không giữ được người thân. Họ mất bạn bè. Họ mất người thân. Họ đánh mất chính mình khi họ đề cao của cải hơn mọi mối quan hệ giữa người với người.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết chọn lựa sự sống đời đời hơn là của cải mau qua đời nay. Xin dạy chúng con biết gìn giữ trân trọng tình người hơn là có tiền mà đánh mất bạn bè. Xin dạy chúng con biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Amen

Thứ Tư sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 20,1-16a

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa là Đấng giầu lòng quảng đại. Chúa thi ân giáng phúc cho mọi người. Chúa cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành người dữ. Chúa chăm sóc mọi loài trong tình yêu quan phòng của Chúa. Xin dạy chúng con biết sống tâm tình tri ân và tín thác vào Chúa. Xin dạy chúng con biết cùng nhau ca ngợi, tôn vinh tình thương của Chúa.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, tình yêu Chúa luôn vượt qua mọi tính toán của con người. Chúa không suy tính thiệt hơn khi ban phát tình yêu. Chúa thi ân mà chẳng cần đền đáp lại. Tình yêu Chúa luôn vô vị lợi và cho đi không ngừng. Nhưng Chúa ơi, ở đời chúng con thường hay ganh tị nhau. Ở đời chúng con thường ích kỷ và tham lam. Sự ganh tị, ích kỷ và tham lam đã làm cho chúng con xa lìa nhau, đôi khi chống đối lẫn nhau. Xin Chúa giúp chúng con biết học nơi Chúa tình yêu ban tặng nhưng không. Xin giúp chúng con biết sống chia sẻ cảm thông với nhau thay cho những ganh tị tầm thường. Xin dạy chúng con có một tình yêu như Chúa để chúng con luôn biết vui với người vui, biết cùng nhau cám tạ ơn Chúa, biết thể hiện tình yêu hiệp thông và chia sẻ với nhau trong tinh thần hiệp nhất anh em con một Cha trên trời.

Lạy Chúa, là Đấng giầu lòng thương xót, xin dạy chúng con biết rộng lòng thương xót nhau trong tình nghĩa anh em một nhà. Amen

Thứ năm sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 22,1-14

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc mà Chúa đã dọn sẵn cho chúng con. Bàn tiệc này, Chúa bảo luôn đủ chỗ cho mọi người. Bàn tiệc thánh của Chúa không dành cho một đối tượng ưu đãi nào hay thành phần cốt lõi nào. Bàn tiệc của Chúa luôn rộng mở đón chào mọi người. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã thương quy tụ chúng con quanh bàn tiệc của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống tình huynh đệ với nhau trong sự chia sẻ, cảm thông, yêu thương và phục vụ.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa hằng lo lắng cho từng người chúng con. Chúa hối hả sai các gia nhân ra tận cùng các ngõ hẻm để tìm kiếm chúng con. Chúa không muốn bàn ăn thiếu một người nào trong chúng con. Chúa gọi tên, điểm mặt từng người trước khi bàn tiệc bắt đầu. Tấm lòng Chúa thật bao la hải hà. Chúng con xin ca ngợi tình thương Chúa. Nhưng Chúa ơi, nhiều lần chúng con lại quá thiếu sót khi lơ là tham dự bàn tiệc thánh. Nhiều lần chúng con còn khoác trên mình tấm áo đã dơ bẩn bụi trần. Chúng con đã không có thái độ kính trọng đối với bàn tiệc thánh của Chúa. Chúng con đến dự miễn cưỡng. Chúng con thiếu tấm lòng hân hoan khi cùng nhau chia sẻ quanh bàn tiệc của Chúa. Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Xin giúp chúng con canh tân đổi mới cuộc đời hầu luôn xứng đáng tham dự bàn tiệc của Chúa.

Lạy Chúa, Ước gì chúng con luôn được vui mừng hoan hỉ trong bàn tiệc Thánh Thể của Chúa hôm nay để mai sau chúng con được thông dự bàn tiệc cưới muôn đời trong Nước Chúa. Amen

Thứ sáu sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 22,34-40

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Vì yêu thương chúng con, Chúa đã không chỉ trao ban cuộc sống của Chúa cho nhân loại mà còn thí mạng sống vì chúng con. Chúa không chỉ trao lời hằng sống mà còn tặng ban chính Mình Máu Chúa nên của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng con, để rồi Chúa cũng mời gọi chúng con “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, là ky-tô hữu Chúa mời gọi chúng con họa lại chân dung tình yêu của Chúa cho thế gian. Xin cho chúng con trong đời sống hằng ngày luôn biết từ bỏ cái tôi ích kỷ để mở rộng tâm hồn đến với tha nhân. Xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con luôn nhạy cảm trước nhu cầu của tha nhân. Xin ban cho chúng con tấm lòng của Chúa để chúng con yêu thương phục vụ mọi người. Sống bao dung. Sống độ lượng. Sống vâng phục để ý Chúa được nên trọn. Lấy nhân nghiã làm nền tảng để cư xử tốt với mọi người. Chọn sống thanh bần mà hòa mình với tha nhân. Xem chữ tín như mối dây liên kết với đồng loại.

Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Xin cho chúng con biết dùng tình yêu làm biểu tượng cho cuộc sống của mình. Xin cho chúng con biết sống và yêu như Chúa đã sống để yêu thương chúng con. Amen

Thứ bảy sau Chúa nhật 20 thường niên

Mt 23,1-12

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúng con thật hạnh phúc vì được kết hợp nên một trong Chúa. Chúa là tình yêu. Chúng con được sống trong tình yêu của Chúa. Chúa là sự sống đời đời. Chúng con được tháp nhập nên một thân thể duy nhất của Chúa, để chúng con cũng được nuôi dưỡng bởi sự sống đời đời. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết họa lại tình yêu của Chúa cho nhân loại chúng con.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa không thích chúng con nói mà không làm. Chúa càng không thích lối sống giả tạo của chúng con. Xin Chúa hãy giúp chúng con biết kiện toàn đời sống của mình theo tin mừng của Chúa. Xin Chúa hãy giúp chúng con can đảm làm chứng cho tình yêu của Chúa. Một tình yêu dấn thân đến nỗi quên cả tính mạng mình. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu chân thành để có thể cúi mình phục vụ mà không so đo tính toán. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn để sống gần gũi, hòa đồng với nhau. Xin loại trừ nơi chúng con thái độ kẻ cả, tự cao tự đại để chúng con luôn là người dễ mến của tha nhân.

Lạy Chúa, Chúa là Đấng hiền lành và rất mực khiêm nhường, xin dạy chúng con biết đối xử với nhau trong khiêm tốn hiền hòa. Amen

Lm.Jos Tạ duy Tuyền
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:30 15/08/2009
ĐẸP NHẤT VÀ XẤU NHẤT

N2T


Hướng dương hỏi:

- “Trên đời thứ gì đẹp nhất?”

Đấng tạo hóa hoàn toàn không do dự, trả lời:

- “Tâm hồn”.

- “Như vậy thì thứ gì xấu nhất?”

- “Cũng là tâm hồn”.


(Trích "Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay")

Suy tư:

Chỉ có Thiên Chúa là lành thánh tốt đẹp.

Chỉ có ma quỷ là xấu xa đê tiện.

Và con người chỉ có một tâm hồn.

Thiên Chúa rất yêu thương con người, và luôn muốn cư ngụ trong tâm hồn của con người, để ban ơn, để thánh hoá, để dạy dỗ…

Ma quỷ cũng khoái ở trong tâm hồn của con người, nhưng không phải là để ban ơn ích gì cả, mà thích ở, chẳng qua là ghen ghét Thiên Chúa mà thôi.

Như vậy tâm hồn của chúng ta là “bãi chiến trường” giữa thiện và ác.

Nếu chúng ta về “phe” của sự thiện, thì chiến đấu với sự ác bằng các vũ khí như: cầu nguyện, hy sinh, tham dự thánh lễ, rước lễ.

Nếu chúng ta về “phe” ma quỷ, tức là sự ác, thì khỏi chiến đấu làm chi cho mệt, vì chúng ta đã thua rồi, đầu hàng rồi.

Vậy, xấu cũng là ta, mà tốt cũng là ta chứ còn ai nữa!

-----------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:34 15/08/2009
N2T


27. Người khiêm tốn thì không sợ gì cả, người lương thiện thì sẽ biết chịu đựng.

(Thánh John Berchmans)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:37 15/08/2009
N2T


200. Con người ta cần phải có một sự nghiệp không thể lìa bỏ, không thể tránh được, thì mới có thể biến đổi vô cùng lớn mạnh.

 
Mười nguyên tắc vui vẻ
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:38 15/08/2009
MƯỜI NGUYÊN TẮC VUI VẺ

1. Mỗi buổi sáng, cần phải trung tín cầu xin Thiên Chúa ban cho sự vui vẻ.

2. Bất luận gặp bất cứ chuyện không vui nào, thì cũng phải giữ gìn sự yên lặng và mĩm cười.

3. Thường nhủ thầm trong lòng rằng: Thiên Chúa yêu tôi, mãi mãi không rời khỏi tôi.

4. Luôn luôn thức tỉnh mình, và phải luôn chú ý đến ưu điểm của người khác.

5. Khi buồn lo đến, thì nên –ngay từ trong tâm hồn- xua tan nó không chút thương tiếc.

6. Nên tránh những lời oán trách và phê bình, bởi vì không có gì làm hao tổn tinh thần và hại người cho bằng những việc ấy.

7. Khi làm việc phải có một quả tim vui vẻ và phấn khởi.

8. Đối với người đến thăm, nên luôn nhiệt thành tiếp đón.

9. Khi khuyến khích an ủi những người gặp hoạn nạn, thì phải hoàn toàn quên mình.

10. Gieo rắc vui vẻ mọi nơi mọi lúc, như thế bạn nhất định sẽ được trước sự vui vẻ.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Dịch từ tiếng Hoa.

-----------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời
Tuyết Mai
18:50 15/08/2009
Mẹ nhân loại của chúng con ơi!
Quả tuyệt diệu thay!
Quả nhân đức tuyệt vời của Mẹ thay!
Quả Mẹ đáng được Thiên Chúa Cha,
Tác tạo và yêu thương cách riêng,
Quả Mẹ đáng được Thiên Chúa Cha,
Chọn làm Mẹ của Thiên Chúa Con Giêsu,
Là Chúa Con duy nhất của Đức Chúa Cha,
Đấng muôn đời quyền năng của trên Trời và dưới đất.

Không ngày Lễ Nào của Mẹ lại quan trọng cho bằng,
Hạnh phúc cho bằng Mẹ được Thiên Chúa đón Mẹ trở về,
Một Nơi mà Mẹ sẽ muôn đời được ở cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mẹ sẽ muôn đời không xa cách Chúa Con Giêsu của Mẹ nữa!
Mẹ sẽ muôn đời được ấm áp bên tình yêu vô cùng và vô tận,
Của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Mẹ Maria của chúng con ơi!
Chúng con là con cái Mẹ trên khắp cùng trái đất,
Hết thảy chúng con muốn được cùng chung vui với Mẹ,
Trong ngày vui trọng đại của Mẹ.
Vì Mẹ được Thiên Chúa tưởng thưởng,
Vì hết thảy trên Trời,
Từ Ba Ngôi Thiên Chúa,
Toàn thể các đạo binh,
Các tổng lãnh Thiên Thần,
Triều Thần, Quản Thần,
Các Thánh Nam Nữ,
Cùng tất cả anh chị em chúng con trên Trời.
Đang nôn nao trông chờ để được chào đón Mẹ.

Mẹ có nghe tiếng chúng con đang cùng hợp dâng lên Mẹ
Những ca khúc vui tươi,
Những vũ điệu nhẹ nhàng, và
Những Lời Kinh có giai âm điệu trầm bổng,
Cùng khí cụ nhịp nhàng hòa theo tiếng hát xướng
Của chúng con không!?

Chúng con là con cái Mẹ cùng khắp nơi trên địa cầu!
Xin được dâng lên Mẹ tất cả tấm chân tình,
Của những đứa con đau yếu đang rất cần đến Mẹ,
Vì chúng con có mỗi một Mẹ,
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết bám víu vào ai!?
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết cậy nhờ ai!?
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết nương nhờ ai đây!?

Mẹ ơi! Hãy luôn thương hãy ghé mắt đến chúng con Mẹ nhé!
Không bao giờ chúng con có thể sống thiếu Mẹ được đâu!
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ không có người dậy dỗ.
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ cấu xé lẫn nhau.
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ vô cùng có cơ nguy.
Bước vào con đường của nguy hiểm của chết chóc.

Bởi chúng con như đàn gà con khờ dại,
Thiếu vắng Mẹ chúng con sẽ tan tác lạc mất Mẹ ơi!
Xin Mẹ đừng bỏ chúng con đi lâu Mẹ nhé!
Nếu có thể được, Mẹ xin phép Chúa cho được trở về,
Cùng chung sống với chúng con.
Hay ít nhất thỉnh thoảng hãy về lại thăm chúng con.
Vì chúng con chưa được trưởng thành!?
Vì chúng con đã quen sống trong hư hỏng,
Trong sự ỷ lại vì luôn có Mẹ bên cạnh.
Nay Chúa gọi Mẹ về Trời chúng con cũng buồn lắm Mẹ ơi!

Biết khi nào chúng con mới được đoàn tụ lại với Mẹ được đây!?
Để hưởng mọi phúc vinh và sự sống muôn đời!?
Biết đến khi nào. ... biết đến khi nào!??

Mẹ Maria ơi!
Chúng con luôn là những đứa con yếu đuối,
Trong ngày Trọng Đại và vui vẻ của Mẹ,
Chúa ban cho Mẹ Hồn Xác được Lên Trời.
Chúng con chẳng có gì đáng để dâng lên Mẹ!?
Ngoài tấm lòng chân thật và tâm hồn rách nát của chúng con.
Để Mẹ hiểu rằng chúng con luôn cần đến Mẹ.
Dẫu biết rằng bây giờ Mẹ không còn ở với chúng con nữa!
Chẳng phải bằng xương bằng thịt,
Nhưng mắt Mẹ vẫn mãi dõi trông chừng chúng con.
Nhất là những đứa con có nhu cầu.
Nhất là những đứa con không cha không mẹ,
Tật nguyền khốn khổ, thiếu thốn tình thương, suốt cả một đời.
Là những đứa con sống lạc loài giữa chợ đời,
Thiếu thốn đủ mọi thứ mọi điều.
Lại còn bị xã hội khi dể, coi rẻ, và đuổi xua.

Chúng con toàn thể con cái nhân loại của Mẹ!
Chúc Mẹ Maria mãi mãi luôn luôn tuyệt vời,
Trong tình yêu hải hà của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Để Mẹ luôn được Chúa thương.
Để Mẹ cùng xin với Chúa cho tất cả chúng con,
Cũng được thứ tự về Trời,
Cùng được hưởng cuộc sống hạnh phúc miên viễn
Muôn đời bên Mẹ, Mẹ ơi!. Amen.
 
Tranh luận khôn-khờ
Anmai, CSsR
18:53 15/08/2009
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN B (Cn 9, 1-6; Ep 5,15-20; Ga 6, 51-58)

Ở đời, quan trọng nhất đó là chuyện khờ và chuyện khôn. Thật sự ra mà nói, khôn khờ nó cũng là từ, cũng là nhận định chủ quan chứ khó mà đúng hoàn toàn được. Với người này, chuyện đó người này cho là đúng, cho là tốt còn với người kia thì cho rằng chuyện đó là dở, là dại. Chuyện khôn và chuyện khờ ấy diễn ra hết sức là thường ngày trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nếu gặp người nhẹ nhàng thì họ sẽ tranh luận nhẹ nhàng còn nếu gặp phải người khó chịu và to tiếng thì họ sẽ to tiếng để nói cho người khác biết là họ là khôn con người kia là khờ.

Khôn ngoan là nghệ thuật sống tốt, nó tìm tòi những gì đưa tới sự sống chứ không dẫn tới sự chết. Nó là suy tư về những vấn đề lớn của con người như sống, chết, yêu thương, đau khổ, sự dữ, tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân, cuộc sống xã hội...

Người khôn ngoan là kẻ cố gắng sống tốt, biết tìm tòi những gì có ích cho cuộc sống chứ không dẫn tới sự chết. Vì thế người khôn ngoan suy tư về những vấn đề lớn của con người như: sống, chết, tình yêu, đau khổ, sự dữ... đời người có nghĩa gì không ? ý nghĩa đó là gì ?.. Và mỗi người theo trình độ của mình, người trẻ và kẻ già, ông giáo sư và người thợ thủ công hoặc bà nội trợ, ai cũng làm triết lý, ai cũng có sự khôn ngoan và nghệ thuật sống của mình.

Với Israel, từ lúc dân tộc của họ có, họ đã tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống, họ suy tư về những vấn đề lớn và chúng ta đã thấy chẳng hạn tường thuật về tạo dựng là "một suy tư khôn ngoan". Họ đã diễn đạt những suy tư ấy ra thành châm ngôn và những lời cầu nguyện, tức là những phác thảo của những tác phẩm.

Như thế rốt cục sự thật - nguồn cội của khôn ngoan - chính là Thiên Chúa; và cách duy nhất để có được khôn ngoan chính là liên hệ mật thiết và kính cẩn với Thiên Chúa, điều mà Thánh Kinh gọi là "lòng kính sợ Chúa".

Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay hình như nói về chuyện khôn và chuyện khờ của cuộc đời. Nhẹ nhàng một chút là lời nói của Đức Khôn Ngoan trong sách châm ngôn, mạnh hơn một chút là lời khuyên của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô và mạnh hơn nữa là những người Do Thái to tiếng tranh luận với Chúa Giêsu.

Sách khôn ngoan mà chúng ta vừa được nghe là: “Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: "Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây !" Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: "Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế ! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết." (Cn 9 1-6).

Thật sự ra, để mà trích có vài ba câu như thế này thì không thể nào thấy được hết nét hay vẻ đẹp và thâm thuý nội dung của sách Châm Ngôn. Nếu có giờ, đọc lại toàn bộ tác phẩm Châm Ngôn, chúng ta sẽ thấy sách ấy cực kỳ hay, như là một chỉ nam cho cuộc đời mỗi người. Đọc và suy từng lời, từng câu, từng chữ trong sách ấy ta mới cảm nhận được sự khôn ngoan mà Đức Khôn ngoan hướng dẫn như đoạn sách ngắn mà chúng ta vừa nghe: Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống.

Trong hành trình lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, sự khôn ngoan sẽ dẫn con người ta đến đường sống và khờ dại sẽ dẫn đến sự diệt vong.

Kinh nghiệm về sự diệt vong hay sự sống đó được nhiều và nhiều người để và kể lại cho chúng ta. Cách riêng với tông đồ Phaolô. Phaolô đã cảm nghiệm một cách hết sức sâu sắc về sự điên rồ của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của con người. Với thập giá, con người cho đó chính là sự điên rồ nhưng với Thiên Chúa thì ngược lại. Phaolô cảm nhận sâu sắc đến độ trong lá thư thứ hai của mình gửi cho giáo đoàn Côrintô Phaolô không ngần ngại viết: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”. (1 Cr 1,22-25).

Ngài xác tín mạnh mẽ đến độ “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,1-2).

Hôm nay, Thánh Phaolô lại mời gọi chúng ta: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí”. (Ep 5,15-18). Giọng văn của Ngài ban đầu còn nhè nhẹ nhưng sau đó hình như khẳng khái hơn: Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. Vì sao Ngài khẳng khái như vậy ? Chính vì Ngài tin và Ngài xác tín vào Chúa Giêsu nên Ngài mới nói như vậy.

Nói đến Thánh Phaolô, chúng ta không nên quên những người Do Thái chính hiệu vì lẽ thánh Phaolô đã hơn một lần Ngài khẳng định rằng Ngài có nguồn gốc từ người Do Thái. Người Do Thái trong tin mừng của vài tuần nay như thế nào chúng ta đã rõ. Mấy tuần nay nếu để ý, ta nghe thấy người Do Thái xầm xì khi nghe Chúa Giêsu nói Chúa là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, bánh ấy không phải như bánh mà cha ông của họ đã ăn trong sa mạc và đã chết. Hôm nay chúng ta vừa nghe đấy, họ không còn xầm xì nữa và họ đã tranh luận một cách hết sức sôi nổi: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? " (Ga 6, 52). Chúa Giêsu thì chẳng lạ lẫm gì và cũng chẳng ngại ngần gì với thái độ cứng lòng của những người tranh luận với Chúa Giêsu nên Chúa Giêsu cũng nói một cách khẳng khái với họ rằng: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6, 53-58)

Thiên Chúa muốn loài người được sống. Ngôi Lời nhập thể đã thực hiện Thánh ý của Chúa Cha bằng cách giảng dạy (Ga 6, 47) và ban thịt và máu của Người để thế gian ăn uống mà được sống. Thịt và Máu Người ban tặng đây không phải là thịt và máu bình thường, nhưng thịt và máu Người sẽ dâng lên Chúa Cha làm hy lễ khi Người được giương cao trên Thập giá.

Như vậy, ăn bánh của Thiên Chúa (6, 32) là tin vào Đức Giê-su (6, 47), mà còn là ăn thịt và uống máu của Đức Giê-su (6, 51). Khi ăn thịt và uống máu của Người, chúng ta kết hiệp với Người. Và, vì kết hiệp với Người, chúng ta thông phần vào sự sống của Người, sự sống mà Chúa Cha đã ban cho Người (6,56-57).

Chúng ta tưởng rằng chỉ có người Do Thái ngày xưa thời Chúa Giêsu mới tranh luận với Chúa về vấn đề khôn ngoan và khờ dại, về Bánh Trường Sinh và man-na về sự điên rồ của thập giá và sự khôn ngoan của con người. Chúng ta ngày hôm nay không tranh luận ngoài môi ngoài miệng nhưng thái độ thờ ơ, nguội lạnh của chúng ta với Bí Tích Thánh Thể còn cay đắng hơn là tranh luận. Người Do Thái họ chỉ không tin vào Chúa Giêsu nhưng tin vào Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đôi khi còn bi đát hơn họ là chẳng tin vào Chúa Giêsu mà cũng chẳng tin vào Thiên Chúa. Hậu quả của những kẻ kém lòng tin như thế nào hẳn chúng ta đã biết.

Làm sao mà đầu óc chúng ta có thể khôn hơn một Thiên Chúa toàn năng và quyền phép được. Đừng tranh luận với Thiên Chúa nữa.

Thôi thì hãy quay về với Thiên Chúa, trở lại với Ngài và đừng cứng lòng tin nữa, đừng tranh luận nữa mà hãy ngoan nguỳ sống theo lời mời gọi của Thánh Phaolô: Anh em hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Castrillon nói chuyện điện thoại với thủ lĩnh lực lượng nổi dậy FARC
Peter Nguyễn Minh Trung
01:31 15/08/2009
BOGOTÁ, COLOMBIA (CNA) - Mới đây, Đức Hồng Y Dario Castrillon Hoyos, nguyên Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng Ecclesia Dei, đã xác nhận với các phóng viên rằng ngài đã trò chuyện qua điện thoại với thủ lĩnh lực lượng phiến quân giải phóng nổi dậy FARC Guillermo Leon Sanchez, hay còn được biết đến với cái tên khác là "Alfonso Cano".

Sau cuộc gặp gỡ với tổng thống Colombia ông Alvaro Uribe, Đức Hồng Y đã trả lời báo giới rằng: "Vâng, tôi đã nói chuyện điện thoại với Alfonso Cano và với một thủ lĩnh cao cấp khác của nhóm này mà tôi không nhớ tên."

Trong cuộc đối thoại với Đức Hồng Y, những thủ lĩnh cao cấp nhất của FARC trình bày với ngài rằng họ dự định đàm phán với chính phủ về một thỏa thuận hòa bình.

Hồi tháng tư, tổng thống Colombia Alvaro Uribe đã tuyên bố rằng các giáo chức của Giáo hội Công giáo và Tổ chức Chữ Thập Đỏ Quốc tế là những người duy nhất được ủy thác để liên lạc với FARC và thiết lập các thỏa thuận về trả tự do cho các tù nhân. Tuy nhiên, hai tháng sau ông lại ủy thác thêm nhà làm luật đối lập Piedad Cordoba liên lạc với nhóm phiến quân.

(Nguồn: http://www.catholicnewsagency.com/new.php?n=16847)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Âu lo ''thế giới ảo''
Hai Tôm Cần Giờ
01:28 15/08/2009
Không ai phủ nhận phát triển về khoa học kỹ thuật đã góp một phần rất lớn cho đời sống con người. Thế nhưng, những phát triển ấy có lúc làm tổn hại con người không thể tưởng tượng được. Có những phát minh phát minh ra làm tăng thêm phần âu lo cho con người.

Hơn lúc nào hết, thế giới đang phải đối diện với một thế giới gọi là thế giới ảo trên chiếc máy vi tính. Người ta có thể ngồi “chát - chít” với nhau hàng giờ và thậm chí hàng ngày nhưng có khi lại chẳng khi nào thấy khuôn mặt thật của nhau. Hơn nữa, dù họ có nói biết bao nhiêu lời hoa mỹ, dùng bao nhiêu lời tán tỉnh cho nhau nhưng không thể nào biết được con người thật của nhau.

Người ta quen nhau hàng năm trời vậy mà còn chưa đi đến đâu vậy mà có những mối tình vài phút, vài giờ. Có trường hợp hẹn hò nhau trên mạng qua vài phút “chat - chit” để rồi gây ra không biết bao nhiêu hậu quả cho gia đình, cho xã hội: cướp bóc, phá thai …

Có những trường hợp quen nhau do “chát - chít” trên mạng, sau cái ngày hò hẹn thì cả hai bên đều “tá hoả tam tinh” vì lẽ đối phương mà mình gặp khác xa với người mà mình “gặp gỡ” hàng ngày trên chiếc máy tính. Người mà mình gặp trong máy tính sao mà dễ thương quá, sao mà có cảm tình và mong mau được làm quen quá nhưng thực tế lại không phải như vậy. Cũng na ná giống một số người vì lý do nào đó trang điểm cho mình một bộ mặt thật là đẹp bởi những lớp phấn đường son thật đẹp nhưng sau khi rửa đi những lớp phấn - đường son loè loẹt ấy lại là một khuôn mặt mà chẳng ai dám nhìn cả.

Mới đây, một cô bé ở vùng đất nghèo của Hai Tôm ở đã làm cho bao chàng trai chưng hửng.

Chuyện là cô bé ấy không được may mắn hơn các bạn cùng trang lứa, tính tình cũng hơi bị khác thường một chút. Cô bé ấy đã tìm mua báo Phụ Nữ, cô vào ngay cái trang mà có mục “tìm bạn bốn phương” quen thuộc của tờ báo ấy và bắt đầu làm quen. Bên đầu dây bên kia nghe giọng nói ngọt ngào của cô gái ấy nên nhiều và nhiều chàng trai thành phố nao nức xuống tận Cần Giờ. Quá vất vả để qua được cái phà Bình Khánh cộng với con đường đầy ổ voi và bụi mù trời để tìm đến với cai giọng nói quá dễ thương trên chiếc điện thoại. Tiếc thay sự hồ hởi, sự háo hưng, sự chờ đợi “người đẹp” trên chiếc điện thoại nay bỗng tan tành mây khói. Các chàng trai ấy không thể nào hình dung ra trước mặt mình là một cô bé ốm nhom, miệng thì móm sọm !!! Chưa đầy 5 phút, các chàng trai phải tìm cách để rút êm với cô bạn ảo mà bấy lâu nay mình mong đợi.

Chắc có lẽ cô bé này không phải là trường hợp duy nhất trong xã hội hôm nay. Còn nhiều và nhiều trường hợp ảo như vậy đang diễn ra trong xã hội. Cũng vui thật khi không ít người thích thú với kiểu ảo chứ không thật này.

Bắt nhịp với xu hướng của xã hội, với một số người chạy theo thế giới ảo, mới đây có vài công ty mở ra hướng kinh doanh mới là “chuyên cung cấp vợ - chồng tạm” cho những người có nhu cầu ! Cũng vui đấy chứ ! Chỉ cần bỏ ra vài ba trăm ngàn là ta có thể có một người “chồng ảo” hay một người “vợ ảo” để cặp kè dạo phố hay để “lở mày lở mặt” với người khác.

Hoá ra là người nữ nào cần có một người đàn ông bên cạnh để cho đủ “đội hình” thì thuê một người nào đó làm chồng trong vài giờ (dĩ nhiên là có những quy định trong bản hợp đồng “vợ - chồng” mà hai bên đã thoả thuận). Ngược lại, người đàn ông trong hoàn cảnh nào đó mà không có vợ thì có thể thuê một người nữ để làm vợ trong vài giờ ?

Thật ra, đây cũng là giải pháp tạm bợ, giải pháp tức thời cho những ai có nhu cầu để bù trừ những khoảng trống của những người bị thiếu thốn. Hậu quả của những người đóng vai làm chồng, làm vợ ảo này thì khó có thể lường được.

Cái giằng co lớn về ảo và thực nó luôn thôi thúc bên trong con người. Hỏi thăm thì ai ai cũng muốn mình thích thực chứ không thích ảo, thích thực hành hơn là lý thuyết nhưng khi đối diện với thực tại thì người ta lại chạy theo thế giới ảo chứ không theo thế giới thực như lòng họ mong ước. Con người, nếu như cứ để cho cái ảo quấn lấy mình, ôm lấy mình thì sẽ lãnh nhận những hậu quả khôn lường.

Nhìn những mảnh ruộng, những vuông tôm ở Cần Giờ, Hai Tôm không khỏi chạnh lòng vì nó đang nằm chơ vơ không người chăm sóc vì lẽ nó không còn ở cái giá thực của nó vì nó đã trót vào tay thế giới ảo. Mảnh ruộng, vuông tôm ấy với giá trị thực chẳng là bao so với cái giá trị ảo mà người ta gắn vào nó để rồi chẳng ai mua làm chi mảnh đất ấy.

Mảnh đất nhiễm phèn ấy đáng giá vài chục triệu thôi nhưng do cơn sốt đất, do chạy theo giá trị ảo nay nó có giá đến vài trăm triệu. Giá đất thì cao nhưng rồi hoa lợi từ mảnh đất ấy chẳng có gì cả vì quanh năm nhiễm phèn nhiễm mặn. Ngậm ngùi cay đắng thay cho tình trạng ảo.

Có biết bao gia đình, biết bao nhiêu con người ngày đêm đang phải khốn đốn với chuyện ảo và chuyện thực nhưng đau đớn là họ vẫn bỏ cái giá trị thực mà chạy theo giá trị ảo.
 
Năm Linh Mục: 150.000 người hành hương thánh địa La Vang ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời
Trương Trí
16:24 15/08/2009
LA VANG - Cũng như mọi năm khác, năm nay hành hương La Vang mặc dù là hành hương thường niên nhưng số lượng người tràn về viếng Mẹ vẫn đông đảo. Vào thời điểm mừng lễ vọng Đức Mẹ hồn xác lên trời chiều ngày 14 tháng 8 cũng khoảng chừng 100 ngàn người từ Nam ra và từ Bắc vào. Số lượng khách hành hương năm nay cũng được dự báo trước sẽ ít hơn, do Đức Giám mục Giáo phận Vinh kêu gọi mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận tập trung về Xã Đoài trong dịp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, quan thầy của giáo phận để hiệp dâng lời cầu nguyện cho giáo xứ Tam Tòa.

Xem hình ảnh

Giáo phận Vinh là một trong 2 giáo phận có số lượng giáo dân đông nhất của giáo hội công giáo Việt Nam ( gần 500 ngàn người) lại ở gần với Trung Tâm Thánh Mẫu LaVang. Riêng tại thành phố Huế, từ khoảng 3 giờ sáng, từng đoàn xe máy liên tục nối đuôi nhau hướng về thánh địa. Theo ghi nhận của phóng viên chúng tôi, thánh lễ mừng kính trọng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời vào sáng ngày 15.8 có khỏang trên 150 ngàn người tham dự.

Giáo hội Việt Nam từ khi đón nhận Đức Tin đến nay đã trải qua biết bao biến cố đau thương, biết bao cuộc bách hại, biết bao ngôi nhà thờ bị triệt phá, thậm chí có những ngôi nhà thờ bị hỏa thiêu cùng với hàng trăm giáo dân trong đó. Đức tin của người Công Giáo không vì thế mà bị mai một, càng bị bách hại, các tín hữu càng tin tưởng Thiên Chúa và mẹ Maria sẽ chở che và nâng đỡ cho đàn con. Khi mà khổ đau tuyệt vọng, con người cảm thấy mình bé mọn và phó dâng cho Mẹ, cầu bầu cùng Mẹ. Có nhiều người quan niệm rằng ở đâu cũng có Mẹ, nhưng chính lời Mẹ đã phán: “Những ai đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ ban cho như ý nguyện”. Xác tín lời của Mẹ, càng ngày mọi người càng ao ước để đến được với Mẹ tại Linh địa La Vang này. Và càng ngày càng có nhiều người không công giáo đến viếng Mẹ và với một lòng thành khẩn thiết tha, nhiều người đã được hồng ân Mẹ ban.

Thánh lễ Vọng Đức Mẹ hồn xác về trời do Đức Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng chủ sự, cùng với chừng 200 linh mục đồng tế, giáo dân tham dự thật sốt sắng. Năm nay là năm linh mục, cộng đoàn với tinh thần cầu nguyện cho các linh mục, phó dâng các ngài cho Mẹ.

Đêm canh thức bên Mẹ với chủ đề: Linh mục với bí tích Thánh thể. Đoàn kiệu Thánh thể do linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải cầm Thánh giá đi đầu, hai linh mục cầm đèn hầu. Theo sau là linh mục đoàn mặc áo Alba và mang dây stola, thật sốt sắng và trang nghiêm. Mình Thánh Chúa được cung kính đặt trong Hào quang do Đức Thánh Cha gửi tặng nhân dịp phái đoàn Tòa Thánh viếng Thánh địa La Vang ngày 13-06-2008. Mình Thánh Chúa được đặt trước linh đài Mẹ và cung kính chầu Thánh Thể. Các linh mục quỳ gối quanh linh đài, một bầu khí thiêng liêng hơn bao giờ hết bao trùm Thánh địa. Một vài tiếng khóc thổn thức không nén nổi xúc động, một vài người trong tột cùng đau khổ thầm thì trong nghẹn ngào dâng lên Mẹ nỗi tuyệt vọng của minh, xin Mẹ dìu dắt. Sau phiên chầu Thánh thể, các linh mục noi gương Thánh linh mục Gioan Maria Vianey, vị Thánh của bí tích hòa giải, với 150 tòa giải tội được đặt dọc theo con đường trước Linh đài và Tháp cổ, Đức Giám mục Phụ tá cùng các linh mục đã ngồi giải tội cho những ai có nhu cầu. Trời đã khuya, những các ngài cũng không cảm thấy mỏi mệt, nhờ ơn Mẹ LaVang.

Thánh lễ mừng kính trọng thể Đức Mẹ Hồn xác lên trời do Đức Tổng Giám mục Giáo phận Huế chủ sự, cùng đồng tế có Đức Tổng Giám mục Giáo phận Đà Nẵng, Đức Giám mục Phụ tá Tổng Giáo Phận Huế, Đức Đan viện phụ Đan viện Thiên An với chừng 200 linh mục trong và ngoài nước. Trong bầu khí thánh thiêng và an lành nơi Thánh địa, đoàn đồng tế từ nhà thờ trung tâm tiến về linh đài giữa tiếng kèn trống vang lừng uy nghiêm.

Mở đầu thánh lễ, Đức Tổng Giám mục đã nói: Nơi Mẹ, Hội Thánh tán tụng và ngưỡng mộ thành quả tuyệt vời của công trình cứu chuộc và Hội Thánh vui mừng chiêm ngưỡng hình ảnh tinh tuyền tuyệt hảo nơi Mẹ. Mầu nhiệm Mẹ về trời nói lên niềm cậy trông đức tin Kitô giáo vì tương lai chung cuộc của mỗi người chúng ta sẽ được vinh quang như Mẹ, nếu chúng ta biết sống qua các chặng đường Vui, Sáng, Thương, Mừng. Trong năm linh mục, chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo hội nhiều linh mục để phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục càng ngày càng trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành.

Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám mục đã nhấn mạnh về hình ảnh một người phụ nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.Ước mơ về một tương lai sáng lạng, một trời mới đất mới, một thế giới hòa bình yên vui. Lúc đó, bê ở chung với sói, trẻ thơ đùa chơi với rắn, tất cả đều hòa hợp với nhau không có hận thù giết chóc. Cái nhìn đức tin cho chúng ta chứa chan niềm hi vọng. Ác thú 7 đầu và 10 sừng tượng trưng cho cái ác và tội lỗi rồi cũng bị khuất phục. Để cuối cùng Chúa Giêsu dâng lên Đức Chúa Cha một bản giao hưởng hài hòa giữa trời đất và con người được cứu độ. Thánh Phaolô đã nói: Con người vì liên đới với Ađam và Êva mà phải chết, và nay con người nhờ liên quan với Đức Kitô mà được sống. Đức Maria trong lần đi thăm người chị họ đang mang thai, chỉ một lời chào của Mẹ mà cả người chị họ lẫn đứa con đang mang thai trong bụng đã nhảy nhót vui mừng hớn hở. Bà chị họ Êlisabet thì xác tín Đức Kitô hiện diện nơi Mẹ: “Em thật có phúc, vì Thiên Chúa ở cùng em”.

Hôm nay chúng ta cùng nhau mừng Đức Mẹ được Thiên Chúa cho về trời sau một cuộc sống âm thầm lặng lẽ, lan tỏa một tin mừng trong mỗi một người, xin Mẹ cho chúng con được noi gương của Mẹ. Sống đời bác ái yêu thương.

Sau thánh lễ cũng là kết thúc hành hương, linh mục quản nhiệm La Vang Giacôbê Lê Sĩ Hiền đã thay mặt ban tổ chức cảm ơn Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, Đức Giám mục Giáo phận Đà Nẵng, Đức Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Huế, Đức Đan viện phụ Đan viện Thiên An, các linh mục đã quy tụ về Linh địa La Vang để viếng Mẹ và dâng thánh lễ. Cảm ơn cộng đoàn dân Chúa từ khắp nơi không quản ngại xa xôi cách trở đã vì một lòng tin yêu mà về bên Mẹ. Ngài cũng đã cảm ơn chính quyền các cấp đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho những ngày hành hương tốt đẹp.

Qua những ngày hành hương đều an bình. Tuy nhiên không tránh khỏi những nhếch nhác mà tất cả mọi nơi hành hương thường xảy ra đó là nạn ăn xin và móc túi. Về mặt tôn giáo thì Thánh địa LaVang là một Trung tâm hành hương không những toàn quốc mà còn cả thế giới. Trong những cuộc hành hương đã có rất nhiều khách nước ngoài. Do đó về phương diện du lịch, chính quyền từ trung ương đến địa phương cần có những phương án tốt hơn để chấn chỉnh tệ nạn lợi dụng chốn đông người làm hoen ố nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

 
Lễ khánh thành trụ sở mới của Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục tại thành phố Đà Lạt
Chi Lăng Dalat
16:48 15/08/2009
ĐÀLẠT - Sau 41 năm (2.9.1968-2009) hiện diện tại thành phố Hoa Đàlạt, khu nhà Dòng mới rộng rãi khang trang của Tu xá Mân Côi được Đức Cha Đà Lạt làm phép khánh thành hôm nay, ngày 15.8.2009 lễ Đức Maria lên Trời. Khu nhà dòng mới Khu Nhà Dòng mới địc chỉ tại 36 Ngô văn Sở,Chi Lăng, Tp ĐàLạt. Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục do Cha Giuse Toản thành lập.

Xem hình ảnh

Hôm nay, vào lúc 9giờ30,Đức Giám Mục Dalat, cùng 12 linh mục đồng tế, đã làm phép nhà nguyện và

Đức Cha Đà Lạt làm phép Tu viện mới với lời nguyện như sau: "Nơi nào có hai hay ba người tụ họp nhân danh Chúa Kitô, ở đó chính Chúa Kitô đến giữa họ. Chúng ta làm phép Tu Viện này, để những người được tình yêu Chúa Kitô quy tụ nên một, đến đây để trung thành và mau mắn theo sát Người trong đức Ái và khiết tịnh,trong thanh bần và vâng lời…"

Lạy chúa là Đấng gợi lên và hình thành mọi ý hướng tốt đẹp, xin đoái nghe lời chúng con nguyện cầu mà rộng lòng ban ơn cho những người cư ngụ trong nhà này: để tại nơi đây,họ hăng say suy niệm Lời chúa,yêu thương nhau,hăng hái siêng năng và ân cần đối xử với nhau như chị em,để những ai đã hiến thân cho chúa Kitô đều biết làm cho mọi người nhận thấy Chứng Tá sống động về cuộc đời tận hiến của mình…”

Thánh lễ cảm tạ hồng ân thiên Chúa do Đức Cha giáo phận Đả Lạt tổ chức và có 12 linh mục đồng tế với sự tham dự của chị em trong Dòng và các giáo dân bà còn thân hữu và ân nhân.

Nhân năm Linh Mục, các nữ tu dòng này chủ trương: "Được sống hạnh phúc trong ơn gọi của Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục,nhất là những giây phút thật thân thương bên THÁNH THỂ…được nếm thử sự ngọt ngào tuyệt vời ấy trong những giây phút thinh lặng bên lòng Chúa,để cầu nguyện cho các linh mục.Người mời gọi bạn nhìn vào đời sống các linh mục bằng ánh mắt kính yêu và cảm thông,các Ngài tuy lãnh nhận thiên chức Linh mục,nhưng lại mang thân phận mỏng dòn của chiếc bình sành dễ vỡ và được đặt giữa lòng đời với biết bao khó khăn thử thách...” (Lời mời gọi Hội dòng) Chi Lăng Dalat
 
Dòng Đa Minh Việt Nam có thêm các tân khấn sinh
Nguyễn Tiến Đức
16:55 15/08/2009
BIÊN HÒA - Từ đêm hôm trước ngày 14/08, nhiều người đã kéo tới nguyện đường Đền thánh Mactinô, Hố Nai, để tham dự lễ khấn lần đầu của 16 tân khấn sinh dòng Đa Minh.

Giám tỉnh và 16 anh em tuyên khấn lần đầu
Đúng 6g sáng, đòan rước bắt đầu tiến vào nguyện đường. Dẫn đầu đòan là 16 tân khấn sinh cùng với bố mẹ, gia đình, thân nhân và khỏang 60 linh mục đồng tế dưới sự chủ tọa của cha Giuse Ngô Sĩ Đình, Giám tỉnh tỉnh dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Sau phần Phụng Vụ Lời Chúa là nghi thức tuyên khấn. Từng khấn sinh trong 16 anh em đến đặt tay mình trong lòng bàn tay cha Giám Tỉnh Giuse, thay mặt cho cha Bề trên Tổng Quyền Dòng với lời thề hứa vâng phục. Cha Giám tỉnh thay mặt cho dòng nhận lời tuyên khấn của anh em.

Sau một năm tập, 16 anh em sau khi đã suy nghĩ và chọn lựa tuyên khấn lần đầu trong dòng Anh Em Thuyết Giáo. Những anh em này đã nguyện hiến tế chính mình như hy tế của Đức Giêsu trên thập giá. 16 anh em này nguyện hy sinh tuổi xuân để làm nhân chứng cho tình yêu của Đức Kitô giữa lòng xã hội hôm nay.

Biên Hòa_ Vào lúc 10g sáng cùng ngày tại nhà nguyện của tu viện Mactinô, dòng Đa Minh, cha giám tỉnh tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam đã đón nhận và trao tu phục cho 16 anh em bước vào năm tập.

Cha Giám đốc thỉnh viện và 16 tập sinh
Sau khi cử hành nghi thức phụng vụ Lời Chúa thật trang nghiêm, 16 anh em đã nằm phủ phục để xin lòng thương xót Chúa và tỉnh dòng đón nhận anh em. Cha giám tỉnh Giuse đã trao tu phục cho anh em mặc trong năm tập. Sau đó, các anh em dòng đang hiện diện, từng người một đến ôm hôn các em tập sinh với ý nghĩa vui mừng đón nhận các em vào dòng để cùng đi chung với nhau một hành trình ơn gọi, trên một chuyến đò Đa Minh.

Sau 2 năm tìm hiểu tại thỉnh viện Tam Hà, hôm nay 16 anh em chính thức chuyển sang một bước ngoặc mới tại tập viện Mactinô, Hố Nai. 16 anh em đã chuyển đổi bộ áo đời là áo sơ-mi trắng và quần tây bằng bộ áo dòng Đa Minh với hai màu đen trắng. Ý nghĩa màu trắng áo dòng là màu tinh tuyền, màu sáng tỏ của chân lý. Còn màu đen không phải là màu trắng. Bộ áo dòng này mang ý nghĩa phục vụ cho chân lý. Dù chiếc áo dòng không làm nên thầy tu, nhưng khoác lên người bộ áo dòng là họ đã mặc chiếc áo của người tu sĩ, và hơn thế nữa là mặc lấy chính Đức Kitô, qua khổ giá mới tới vinh quang.

Sài Gòn_Trong nắng sớm ngày 15/08, vào lúc 8g sáng thánh lễ khấn trọng thể đã diễn ra tại nguyện đường giáo xứ thuộc tu viện Mân Côi, Gò Vấp dòng Đa Minh.

Dẫn đầu đoàn rước là 17 tân khấn sinh với khoảng 100 linh mục đồng tế. Cha Giám tỉnh tỉnh dòng Đa Minh đã chủ sự thánh lễ và nhận lời tuyên khấn của 17 anh em.

Cha Giám sư và 17 anh em tân khấn sinh
Lần khấn trọng thể này làm nổi bật lên ý nghĩa: từ nay, 17 anh em khước từ thế gian để vĩnh viễn thuộc trọn vẹn về Chúa và hội dòng Đa Minh. Những anh em này khấn vâng phục cho tới chết, giữ khiết tịnh trọn vẹn và thanh bần vui tươi. Các anh em sẽ đấu tranh cho tới cùng trong việc học hành để truy tìm chân lý, chống lại sai lầm và đấu tranh cho sự thiện toàn thắng cái ác.

16 anh em lãnh nhận tu phục, 16 anh em tuyên khấn lần đầu và 17 anh em tuyên khấn trọn đời lần này là những chàng thanh niên với tuổi đời còn ươm nhiều mộng ước. Họ đã có bằng đại học về khoa học tự nhiên và xã hội. Nhiều người đã có ngành nghề trong xã hội và kiếm tiền dễ dàng cũng như có thể kiếm bạn gái để kết hôn. Nhưng không, những chàng thanh niên này giống như Samuel năm xưa, đã nghe theo tiếng Chúa kêu mời để sống theo 3 lời khuyên phúc âm. Họ biết rằng hôm nay Chúa vẫn cần những trái tim con người để thể hiện lòng thương xót Chúa; Chúa vẫn cần đến ngôn ngữ con người để rao giảng về tình thương cứu độ. Thế là họ bước đi trên con đường mà chẳng mấy ai đi!

Hình ảnh thầy cả Hê-li với cậu Samuel có thể được sánh ví hôm nay với lịch sử gần 800 năm tuổi của dòng Đa Minh với các anh em trẻ hôm nay tiếp bước theo ơn gọi dòng Đa Minh. Những anh em trẻ này gia nhập dòng để thể hiện ước mơ tông đồ của mình đồng thời cũng làm phong phú thêm cho dòng Đa Minh Việt Nam.

Được biết, hiện thỉnh viện Tam Hà vần còn khỏang 36 em đang muốn tìm hiểu ơn gọi dòng Đa Minh. Thật kỳ lạ, giữa lòng xã hội hôm nay, vẫn còn nhiều bạn trẻ Việt Nam đang muốn hiến thân cho Chúa và Giáo Hội, nhằm đáp trả tiếng Chúa kêu mời đi làm nhân chứng cho tình yêu Chúa!
 
Giáo xứ Vĩnh Hòa, Saigòn, mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Phêrô Nguyễn Quang Ngọc
19:50 15/08/2009
SAIGÒN -- vào lúc 5h ngày 15/08/2009, các đoàn thể, các bà mẹ, các em thiếu nhi, ban lễ sinh, ca đoàn truyền tin... tập chung trong sân nhà thờ để rước kiệu xung quanh Giáo xứ mừng kính Đức Mẹ hồn xác lên trời, bổn mạng giáo họ MôngTriệu. Có khoảng 600 giáo dân đến tham dự Thánh Lễ.

Xem hình ảnh

Truớc Thánh Lễ,ông trùm khu Mông Triệu Giuse Phạm Văn An đã đọc bài dẫn Lễ Mẹ lên trời: Maria - với một tâm hồn khiêm tốn và rộng mở,cả cuộc sống.Mẹ đã đón nhận tình yêu qua tiếng"xin vâng". Mẹ đã gắn kết với Chúa Giêsu như một người Mẹ và" bạn đường quảng đại " để cộng tác cách độc đáo vào công cuộc cứu thế. Mừng Lễ Mẹ hôm nay,chúng ta được mời gọi sống cho tình yêu Thiên Chúa một cách trọn vẹn hơn,và làm cho tình yêu đó được nảy sinh trong thế giới hôm nay,để như Mẹ, chúng ta cũng được hưởng hạnh phúc mai sau trên quê Trời.

Bài chia sẻ Phúc âm trong Thánh Lễ, Cha Gioan Baotixita đã nêu lên nội dung trang Tin Mừng hôm nay đó chính là kinh Manigficat của Mẹ Maria. Chúng ta vui mừng vì trong giáo xứ, từ ông lão, bà lão đến trẻ em, ai cũng thuộc lời kinh này. Nhờ đó, mọi người sẽ bắt chước Đức Mẹ để tán dương Chúa.

Trong 1 năm, Giáo Hội dành nhiều ngày lễ kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu khác nhau. Ngoài ra, chúng ta có cả tháng 5 để dâng hoa kính Đức Mẹ và trọn vẹn tháng 10 với những lời kinh Mân Côi dâng lên Mẹ. Đặc biệt, trong tháng 8 được Giáo Hội xem là tháng dành cho những cuộc hành hương. Giáo Hội ở Pháp tổ chức rất trọng thể cuộc hành hương viếng Đức Mẹ nhân dịp 150 năm Mẹ đã hiện ra ở Lộ Đức. Chắc chắn rằng, vào những ngày này số lượng người rất đông đổ về Lộ Đức để kính viếng Đức Mẹ. Ở Việt Nam chúng ta cũng vậy, những chuyến xe đầy ắp người đổ xô về Đức Mẹ La Vang hết nhóm này đến nhóm kia, hết hội đoàn này đến hội đoàn nọ. Không chỉ dừng lại ở La Vang, đông đảo thành phần tín hữu cũng hành hương về Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ núi rừng Tà Pao, Đức Mẹ của Bãi Dâu, Đức Mẹ của Bình Triệu,... rất nhiều Kitô hữu đã đến bên Mẹ để xin ơn. Qua đó, chúng ta thấy được tâm tình con thảo luôn biết tìm và chạy đến bên Mẹ, luôn sống noi gương Đức Mẹ. Điều này còn được thể hiện ngay đầu thánh lễ, hết thảy mọi người trong giáo xứ chúng ta đã cung nghinh Đức Mẹ xung quanh nhà thờ để bày tỏ tấm lòng dõi bước từng nhịp chân của Mẹ trên con đường tiến về quê trời.

Ngược dòng lịch sử thời gian, vào ngày lễ các thánh năm 1920, ĐGH Pio XII đã định tín: Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ trọn đời đồng trinh sau khi sống cuộc đời trần thế đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang Thiên Chúa. Đây thực sự là điều vui mừng lớn lao cho toàn thể nhân loại. Đức Mẹ chính là nụ cười của Thiên Chúa trong lời kinh “Xin Vâng”, Mẹ đã trọn đời luôn vâng theo thánh ý Chúa bằng cách suy đi nghĩ lại trong lòng mọi lúc mọi nơi hai tiếng thân thưa ấy.

Vì thế, ngày hôm nay chúng ta cũng luôn biết noi gương Đức Mẹ vang lên hai tiếng “Xin Vâng” với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta khi vui cũng như lúc buồn, khi bệnh hoạn cũng như lúc thử thách gian nan để nhận ra thánh ý của Chúa. Nếu sống được như vậy, coi như chúng ta đã phác họa lại cuộc đời Đức Mẹ trong đời sống mỗi người chúng ta và nhờ đó, khi Mẹ được về trời vinh hiển thì chúng ta cũng sẽ theo gót Đức Mẹ lên trời trong vinh quang nước Chúa.

Sau Thánh Lễ,Cha chúc mừng ngày bổn mạng họ đạo Mông Triệu,xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bầu cho chúng ta,biết yêu mến những sự trên trời và để sống như đang sống với Mẹ ở trên trời vậy.
 
Các Cộng Đoàn Mến Thánh Giá Đà Lạt tại Hoa Kỳ
Bùi Hữu Thư
21:51 15/08/2009
Các sơ Tĩnh Tâm với Cha Giáo Nguyễn Khắc Hy


  • 1. Đấng Sáng lập: Đức Cha Lambert de La Motte
  • 2. Đấng Cải Tổ: Đức Cha Louis de Cooman
  • 3. Nguồn gốc:
  • - Năm 1932: Hội dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa được tách ra từ Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm
  • - Năm 1954: đa số chị em Mến Thánh Giá Thanh Hóa di cư vào miền Nam. Cơ sở chính của Hội Dòng được đặt tại vùng đất cao nguyên Lâm Đồng thuộc Giáo phận Đàlạt
  • - Ngày 02 tháng 02 năm 2002: Hội dòng được chính thức mang tên: Hội Dòng Mến Thánh Giá Đàlạt.


4. Chân tính:

  • - Linh Đạo: tập trung vào khuôn mặt Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh và mầu nhiệm Thánh Giá của Người, thể hiện qua ba chiều kích: chiêm niệm, khổ chế và tông đồ.
  • - Mục đích: hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Đức Giêsu-Kitô, bằng chuyên chú suy niệm, tưởng nhớ và noi theo cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người.
  • - Sứ mạng:
  • - cầu xin Thiên Chúa ban ơn ăn năn trở lại cho những người chưa biết Chúa;
  • - dấn thân phục vụ ưu tiên nữ giới, giới trẻ trong lãnh vực văn hóa, xã hội, y tế, luân lý và đức tin.


5. Tại bang Virginia ở miền Đông Hoa Kỳ cũng có Dòng Mến Thánh Giá Dalat với 6 nữ tu đang điều hành một nhà trẻ Busy Bee Child Care Center. Nữ tu Elizabeth Liên, bề trên cho biết Dòng Mẹ ở Oregon với Sơ Nguyễn Thị Trinh làm bề trên. Dòng được thiết lập tại Hoa Kỳ năm 1979.

Nhân dịp Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt kỷ niệm 30 năm phục vụ tại Hoa Kỳ, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ban cho Nhà Dòng đặc ân là những ai đến viếng Nhà Nguyện các Sơ Mến Thánh Giá Đà Lạt tại ba nhà Dòng sau đây:

  • 1. Cộng Đoàn Virginia: 10917 Marilta Court, Fairfax, VA 22030, Đỉện Thoại: (703) 591-0862
  • 2. Cộng Đoàn Sacramento: 8201 Florin Road, Sacramento, CA 95828, Điện Thoại: 916-383-3278
  • 3. Cộng Đoàn Nhà Chính và Tập Viện: 7408 SE Alder St., Portand, OR 97215, ĐT: 503-254-3284


  • 4. Đệ Tử Viện: 7437 SE Alder Street, Portland, OR 97215, Điện Thoại: 503-262-0190


sẽ được lãnh ơn toàn xá với điều kiện: Xưng Tội, Rước Lễ, Cầu Nguyện theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng, đọc Kinh Tin Kính, Lạy Cha và 3 Kinh Kính Mừng vào những ngày sau đây:

Các ngày lễ:

  • 15 / 8 / 2009: Đức Mẹ Lên Trời
  • 14 / 9 / 2009: Suy Tôn Thánh Giá Chúa Kitô
  • 01 / 11/ 2009: Các Thánh Nam Nữ
  • 21/ 11/ 2009: Đức Mẹ Dâng Mình trong Đền thánh
  • 24 / 11/ 2009: Anrê Dũng Lạc & Các Bạn Tử Đạo
  • 01 / 01 / 2010: Mẹ Thiên Chúa
  • 19 / 3 / 2019: Thánh Giuse
  • 01 / 5 / 2010: Thánh Giuse Thợ
  • 15 / 6 / 2010: Ngày Đức Cha Lambert, Sáng Lập Dòng MTG qua đời
  • 18 / 7 / 2010: Kết thúc Năm Kỷ Niệm
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Vào lúc 8g sáng 15.8 ước tích đã có khoảng 200.000 tới Xã Đoài tham dự Lễ kính Đức Mẹ và cầu cho Tam Tòa
PV Xã Đoài
06:24 15/08/2009
VINH - Từ lúc trời còn chưa sáng rõ, giáo dân các xứ quanh giáo phận Vinh hướng về Tòa Giám Mục bằng mọi phương tiện. Ô tô, xe máy, xe đạp và đôi chân.

Xem thêm hình ảnh trên các nèo đường về Xã Đoài

Ngay từ sáng sớm, mọi con đường từ các giáo xứ, giáo hạt đã rầm rập người đi, tiếng xe máy, xe ô tô thành một tiếng rền vang dài dẫn đến các nhà thờ. Từng đoàn người đã tề tựu về các nhà thờ sau tiếng chuông vang báo hiệu lệnh tập trung.

Hàng đoàn người lên đường về Xã Đoài bằng ô tô, xe máy chở từng đôi một kèm theo một lá cờ vàng trắng.

7h 30 Mọi con đường vào Xã Đoài đã tắc nghẽn, vì càng lúc dòng người càng đông hơn, có hai người dân Quảng Binh về dự lễ bằng xe máy, tấm biểu ngữ của họ là lời kêu cứu về giáo xứ Tam Tòa đang nguy nan. Tấm biểu ngữ này khiến một số cảnh sát áo vàng, áo xanh e dè.

Mặc kệ những người của chính quyền đang lo toan tính toán điều gì. Dòng người nô nức tiến về phía tòa giám mục trong lời ca được phát đi từ loa của tòa giám mục vàn vọng bốn phương như vẫy gọi.

- "Xin Mẹ cho những người ra tay bắt bớ, biết nhận ra đâu là Công Lý- Sự Thật"
- "Xin dâng mẹ hai chữ Tam Tòa"
- "Chúng con hành hương về với Mẹ, cầu nguyện cho Giáo xứ Tam Tòa”
- "Cầu nguyện cho Giáo dân Tam Tòa bị Công an Quảng Bình đánh đập, bắt giữ”...


Dọc đường quốc lộ 1A và các con đường hướng về Nghi Lộc, Nghệ An hàng đoàn người náo nức di chuyển với niềm vui rạo rực, các băng rôn nêu trên được được căng ngang hoặc dọc thân xe.

Dọc quốc lộ 1A, các gia đình giáo dân đã treo cờ vàng trắng trên các ngõ, cột điện và những nơi có thể. Những lá cờ vẫy gọi đoàn người trong nắng sớm càng làm rạo rực lòng người hành hương về Tòa TGM.

Tất cả mọi tấm lòng hướng về Thánh lễ quan thầy Giáo phận và hướng về anh chị em giáo dân Tam Tòa những ngày này đang chịu đau khổ bởi bạo quyền Quảng Bình hôm nay không thể có mặt trong ngày lễ lớn của Giáo phận.

Đoàn giáo dân các giáo xứ phía Nam tiến về Xã Đoài qua trung tâm Thành phố Vinh làm nhiều người đi đường hết sức ngạc nhiên và vẫy tay chào mừng.

Hồi 7 h30, các con đường từ Quốc lộ 1 vào Xã Đoài khoảng 3km và các ngả xung quanh hướng về Xã Đoài đã tắc nghẽn, hàng đoàn người, xe chen chúc, việc di chuyển hết sức khó khăn. Tuy nhiên, không xảy ra một sự va chạm nào giữa các giáo dân với nhau cũng như với lực lượng công an và bảo vệ hướng dẫn giáo thông.

Theo ước tính của những người quan sát các Thánh lễ đã diễn ra tại đây, cho đến giờ này thì Thánh lễ này đã tập trung khoảng hơn 200.000 tín hữu.

Dòng người từ các hướng đã vẫn tiếp tục đổ về Xã Đoài.

Xã Đoài 8 h 15/8/2009
 
Giáo phận Vinh Mừng Mẹ Lên Trời - Ngày lịch sử 15/8/2009
Joseph Nguyễn Văn Thống
09:31 15/08/2009
VINH - Hôm nay 15-8 tại quảng trường toà giám mục giáo phận Vinh đã diễn ra thánh lễ trọng thể mừng kính Mẹ Maria hồn xác về Trời_ Quan Thầy của giáo phận Vinh

Lễ Đức Mẹ Thăng Thiên được cộng đoàn tín hữu giáo phận Vinh mừng kính vào ngày 15-8 hằng năm. Cách đây gần 120 năm, cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã nhận Đức Maria hồn xác Lên Trời làm bổn mạng của Giáo phận

Xem hình ảnh

Giáo phận Vinh lịch sử ghi nhận.

Trải qua theo dòng lịch sử của giáo hội Việt Nam và của giáo phận Vinh, sau khi đuợc đón nhận ánh sáng Tin Mừng, giáo dân Nghệ_ Tĩnh_ Bình luôn ở trong tình thế khó khăn gian khổ với sự cấm bách đạo từ thời đầu tiên khi nhà thừa sai Alexandre de Rhodes đến gieo tin mưng. Cuộc bách đạo của giáo phận Vinh kéo dài từ thời Chúa Trịnh đến thời cộng sản cai trị, cảm nghiệm được cách sâu xa về sự dìu dắt của Mẹ quan Thầy nhờ đó mà giữa bao gian nan thử thách con cái giáo phận Vinh vẫn luôn kiên cường giữ vững đức tin

Thời kỳ khốc liệt đau thương ấy giáo phận Vinh đã có nhiều chứng nhân hy sinh, trong đó có 6 Thánh Tử Đạo đầu tiên như Linh Mục Phêrô Lê Tuỳ năm 1833, Đức Cha Boire Cao và hai linh mục Phêrô Vũ Đăng Khoa và Phêrô Nguyễn Thì Điểm bị hành quyết 1838, Thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự bị xử giáo 1940, linh mục Phêrô Hoàng Khoanh bị xử trám 1842, nhờ máu của các Thánh tử đạo những người đã chịu hy sinh mạng sống mình để làm cho đức tin con cái giáo phận vinh kiên vững với mọi thời đại. góp phần cho sự phát triển của giáo hội Việt Nam và giáo hội công giáo nói chung

Phải chăng hiện tại lịch sử cũng đang ghi nhận giáo phận Vinh

Hôm nay đây, giáo phận Vinh đã có hơn 500.000 tín hữu theo Chúa Kitô, cùng đội ngũ tu sỹ nam nữ, chủng sinh đông đảo và khoảng 174 linh mục mục trong toàn giáo phận góp phần trong công cuộc xây dựng giáo hội.

Giáo phân Vinh ngày càng phát triển không ngừng với 178 giáo xứ trong ba tĩnh Nghệ_Tĩnh _Bình, linh mục, tu sỹ và giáo dân đang ngày đêm không ngừng xây dựng nước Chúa giữa thời đại hôm nay.

Giáo phận Vinh, một giáo phận với sự đồng nhất của mọi thành phần dân Chúa luôn lên tiếng cho những sự bất công ngang trái trong xã hội các buổi cầu nguyện cho công lý đã diến ra khắp nơi

Giáo phận Vinh, có Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, ngài cùng đã đi vào lich sử với câu nói: Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh, khi Ngài lên tiếng trước sự bất công của xã hội, lên tiếng bảo vệ sự công lý cho con người.

Thánh lễ Mẹ Lên Trời hôm nay cũng đã đi vào lich sử

Thánh lễ Mẹ Lên Trời_ Quan Thầy của Giáo Phận sáng nay với sự tham dự đông đảo của linh mục, tu sỹ và hàng vạn tín hữu về tham dự Thánh lễ,

từ sáng sớm các con đường cách nhà thờ chính Toà khoảng 10km đã có sự tắc nghẽn.

Đúng 8h đoàn rước ca nhập lễ đã tiến bước từ Trung Tâm Toà Giám Mục ra Quảng trường nhà thờ chính Toà để mừng lễ Mẹ Hồn Xác Về Trời

Trước khi bước vào Thánh lễ, Cha AnTôn Phạm Đình Phùng một lần nữa đã mời gọi mọi người trong giáo phận hiệp lời cầu nguyện đặc biệt cho anh chị em tại Tam Toà, nơi đang bị bách hại đạo.

Thánh lễ đã diễn ra trong một bầu khí hết sức trang nghiêm và long trọng trong bài giảng của Đức Cha Maria Cao Đinh Thuyên, Ngài mời gọi con cái mình hãy suy niệm bài ca Manificat. Nhờ đó, trong cuộc sống hôm nay con cái Mẹ biết noi gương Mẹ trong cuộc sống hằng ngày.

Sau bài giảng Đức Cha đã đọc lời nguyện dâng giáo phận cho Mẹ, lời nguyện này đã được ông Cha từ bao đời kêu cầu lên Mẹ. Trong lời nguyện mà Ngài cùng với đoàn con kêu cầu lên Mẹ hôm nay cũng như xưa, đã không quên cầu cho công lý sớm được thực thi.

Giây phút đặc biệt cuối lễ cũng đã đi vào lịch sử của giáo phận, trước khi ban phép lành toà Thánh. Đưc Cha tiến lên bục giảng và ngậm ngùi chia sẻ với đoàn con sau chuyến hành trình xa giáo phận, hàng vạn con tim đã lặng im khi nghe Đức Cha kể lại quá trình yết kiến và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Bênêdictô, rồi Ngài đã thốt lên: Chuyến hành trình 50 ngày xa giáo phận, đang khi còn ở nước ngoài nghe tin con cái mình gồm giáo dân và linh mục bị đánh đập và bắt giữ thì lòng tôi đau. Nói đến đây mọi người ai cũng cảm động và những giọt nước mắt lại rơi lệ.

Ngài cũng khẳng định, những việc mà linh mục và giáo dân giáo phận đã làm trong thời gian Ngài đi vắng cũng chính là sự đồng lòng với ngài.

Ngài còn kể lại khi còn ở nước ngoài, có một vị linh mục đã điện thoại bảo Ngài cứ yên tâm, ở nhà giáo phận Vinh không phải chỉ có một đức Cha Thuyên nhưng là có 500.000 đức Cha Thuyên. Ngài cũng khẳng định lại một lần nữa lời vị linh mục trên là ý ngài muốn nói hôm nay là sự hiệp nhất mọi thành phần trong giáo phận Vinh. Sau khi Ngài dứt lời cả hàng vạn người đã vỗ tay như một thông điệp của sự hiệp nhất giáo phận Vinh.

Sau khi ban phép lành cuối lễ, Đức Cha cùng linh mục đoàn đã hướng về đoàn chiên hiện diện và cùng với con cái giáo phận có mặt trong buổi lễ đã phất những cánh cờ hội Thánh rồi cùng nhau hát bài: Tung Hô Mẹ Giáo Phận Vinh, để cầu cho giáo phận và đặc biệt cầu nguyện cho anh chị em tại Tam Toà.

Giây phút này đã không thể nào kìm nén đựợc cảm xúc của bao con tim hiện diện. Những giọt nứớc mắt hạnh phúc vì mình đựợc sống trong giáo hội, được làm con cái Chúa. Hạnh phúc vì sự đồng lòng nên một giữa chủ chiên và đàn chiên giáo phận Vinh. Giây phut này lại tiếp tục đi vào lich sử của giáo phận Vinh

Cảm tạ Chúa và mẹ Maria đã luôn thương con cái giáo phận Vinh. Giữa mọi thời đại, Me vẫn luôn phù trì che chở. Trong cơn gian nan hôm nay, con Me đang phải chịu, Mẹ lại thưong nhiều đến giáo phận Vinh và ban cho một thánh lễ Mừng Mẹ Về Trời đầy tràn hồng ân đã đi vào lịch sử của giáo phận Vinh.

Chúng ta cùng hiệp lời cầu xin Chúa cho giáo phận Vinh luôn trung kiên vững bước giữa mọi thời đại để làm chứng cho đức Tin và công lý qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Hồn Xác Về Trời.

Xã Đoài 15/8/2009
 
Một mẫu người trái sự thật, trái đạo lý
Chu Văn, Radio Veritas
14:22 15/08/2009
(Radio Veritas Asia 15/08/2009) - Kính thưa quí vị, các bạn thân mến. Cuốn phim tài liệu có tựa đề "Sự thật về Hồ Chí Minh" do "Phong trào Quốc Dân Ðòi Trả tên Sài Gòn" thực hiện, đã được rộng rãi giới thiệu với người Việt hải ngoại và nhanh chóng phổ biến "chui" tại Việt nam.

Với nhiều người Việt nam trong nước hiện nay, đặc biệt là giới trẻ, hình tượng "yêu nước, nhân bản và nhứt là đạo đức" của ông Hồ Chí Minh, được đảng cộng sản Việt nam nhào nặn, đã được phơi bày. Sự thật cho thấy đó chỉ là một hình tượng giả tạo. Ngày nay, nhiều chi tiết trong cuộc đời của ông Hồ Chí Minh đã được tiết lộ.

Theo tài liệu của Ðảng cộng sản Việt nam thì thân phụ ông Hồ chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc là một nhà ái quốc, đã từ quan vì chống triều đình. Thật ra, sử liệu cho thấy Ông Nguyễn Sinh Sắc không từ chức, mà bị cách chức vì say rượu đánh chết một nông dân tên là Tạ Ðức Quang. Lúc ấy ông mang tên là Nguyễn Sinh Huy, nhưng từ năm 1898 cải danh thành Nguyễn Sinh Sắc. Án mạng xảy ra vào tháng 5 năm 1909. Tuy, theo sự điều tra của Sở Mật Thám thì ông chỉ mang tội ngộ sát, vì say rượu, nhưng Hội đồng nhiếp chính ở Huế quyết định cách chức ông. Sau đó ông phải vào Lộc Ninh làm giám thị cho một đồn điền cao su để kiếm sống.

"Nguyễn Ái Quốc" cũng không phải là tên riêng của ông Hồ Chí Minh, mà là tên chung của một số nhà ái quốc ở Pháp lúc ấy. Trong số này có các ông Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh. Lúc ấy ông Hồ mới tới Pháp, lại còn trẻ chưa có thành tích gì khiến mật vụ Pháp chú ý theo dõi. Vì thế các bậc đàn anh thường để cho ông ta thay mặt, đứng tên trên các văn kiện hay bài báo do họ soạn thảo chung, hoặc riêng. Ngay chính ông Hồ trong tập hồi ký viết dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, nhan đề "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" cũng xác nhận, nguyên văn trang 46 như sau:

"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo."

Nhưng điều cần đưa ra ánh sáng ở đây chính là tác giả của cuốn "những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch"

Năm 1997, tức cách nay hơn 11 năm, nhà văn Vũ Thư Hiên đã viết trong tác phẩm hồi ký "Ðêm giữa ban ngày" rằng:

"đến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn "Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch" là chính Hồ Chí Minh." Là bởi vì ngay năm 1976, nghĩa là chỉ một năm sau khi toàn thắng và chiếm được cả nước, những người cộng sản đã chủ quan cho rằng nay đã toàn thắng, chẳng còn gì phải sợ, phải giấu nữa, nên họ đã ngang nhiên xác nhận điều đó trong cuốn "Những Sự Kiện Lịch Sử Ðảng Cộng Sản".

Rồi 11 năm sau, tức năm 1987, một cán bộ Cộng sản là Hà Minh Ðức cũng viết hụych tọet ra rằng cuốn sách nói trên là tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh. Cuốn sách của Hà Minh Ðức còn được đề tựa bởi Nguyễn Khánh Toàn, là người đã từng sống và làm việc với ông Hồ ở Nga trong nhiều năm, biết rõ về ông Hồ.

Sở dĩ ông Hồ Chính Minh đã có thể trơ trẻn đến độ viết sách tự đề cao mình, tự xưng mình là "người khiêm tốn nhường ấy", tự gán cho mình tước hiệu "Cha Già Dân Tộc" một cách lố lăng như thế là vì nhu cầu cấp bách để tự cứu lấy sinh mạng chính trị của mình. Lúc cuốn sách xuất bản lần đầu tiên là vào mùa xuân năm 1948. Như vậy ông ta đã cưu mang và viết nó trong lúc chiến cuộc sôi động nhất giữa quân Pháp và Việt Minh. Quân của ông Hồ chịu những tổn thất kinh khủng. Ðã có lúc ông suýt bị bắt sống ở Việt Bắc. Ông ta thấy rõ nguyên do tại sao không chỉ có Thực Dân Pháp, mà cả các chính phủ Anh, Mỹ đều chống Việt Minh. Anh đã giúp Pháp trở lại Ðông Dương sau thế chiến II. Mỹ đã viện trợ dồi dào về tài chính cho Pháp tiếp tục chiến tranh chống Việt Minh. Chỉ vì họ biết ông là Công Sản. Mà theo ý họ, đã là cộng sản thì là tay sai Quốc Tế III, hay Quốc Tế Cộng Sản, tức Liên Xô.

Chính ông Hồ đã gián tiếp thú nhận điều đó khi viết trong cuốn sách mỏng nói trên rằng:

"Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Ðệ Tam Quốc Tế, của Liên Xô... Ðế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô. Vì vậy nhà cầm quyền Anh coi ông là kẻ thù số một và cố bắt ông cho bằng được."

Một trong những điều lố lăng nhứt của tác giả cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" là tự tôn mình lên làm "Cha Già Dân Tộc". Thật vậy, ở cuối cuốn sách, tác giả viết:

"Nhân dân Việt Nam muôn người như một nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh với lòng dân Việt Nam kính mến, tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh.

"Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha Già Hồ Chí Minh."

"Nhân dân gọi Hồ Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam."

Thật ra ông Hồ Chí Minh có phải là "con người trung thành nhất của tổ quốc Việt nam", nghĩa là một con người thật sự yêu nước, thương nòi, có tinh thần dân tộc thật sự không, hay ông chỉ là một tín đồ của chủ nghĩa cộng sản?

Theo đúng thuyết Cộng Sản, của Mác cũng như của Lênin, thì người cộng sản tranh đấu đánh đổ các nước tư bản, đế quốc để lập nên một chế độ đại đồng trong đó không còn quốc gia nữa. Nhưng theo sách lược giai đoạn của Lênin, thì muốn đi tới mục tiêu cuối cùng đó, phải chia cuộc đấu tranh ra làm nhiều giai đoạn. Và trong một giai đoạn nào đó, Quốc Tế Cộng Sản cần phải lợi dụng lòng yêu nước của các dân tộc bị trị để đánh đế quốc, và tiêu diệt tư sản. Khi qua giai đoạn đó rồi, thì sẽ tiến lên giai đoạn hủy bỏ các quốc gia cùng với các giai cấp để chỉ còn lại giai cấp vô sản toàn thế giới mà thôi.

Như vậy, tóm lại những người cộng sản như ông Hồ nói là chiến đấu chống thực dân, đế quốc, không phải vì chủ nghĩa dân tộc, mà vì chủ nghĩa cộng sản, vì thế giới đại đồng hoang tưởng.

Những sự kiện lịch sử chứng minh điều đó. Nếu bảo ông Hồ và đảng cộng sản của ông chiến đấu vì dân vì nước, vì chủ nghĩa dân tộc, thì tại sao các ông lại giết vô số nhà ái quốc? Nếu bảo chiến đấu để đánh đuổi thực dân, giành độc lập, thì tại sao sau hiệp ước Élysée do Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ký với cựu hoàng Bảo Ðại ngày 8-3-1949 và được Quốc Hội Pháp phê chuẩn đầu năm 1950 trao trả độc lập cho Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, các ông vẫn tiếp tục chiến tranh, đẩy hàng trăm ngàn người vào chỗ chết? Như vậy là thương dân, vì dân ư? Ðộc lập đã có rồi cơ mà? Tại sao khi đã chiếm được nửa nước, với hiệp định Genève, năm 1954, các ông liền áp dụng đúng những chính sách của một nước Cộng Sản, như Trung Cộng, như Liên Xô và các nước Ðông Âu. Cũng hợp tác xã, cũng đánh tư sản, cũng cải cách ruộng đất. Chỉ nguyên cuộc cải cách ruộng đất này đã giết gần 200 ngàn người. Tài liệu lịch sử kinh tế của chính các ông đã xác nhận con số người bị giết là 172,008. Nhưng nhiều nguồn tin khác nói đến nửa triệu. Cải cách bằng bạo lực, khủng bố kinh khủng như vậy rõ ràng mang dấu ấn của chủ nghĩa cách mạng giai cấp bằng bạo lực của Mác, Lê, không thể nào bảo là cuộc cải cách vì dân tộc được.

Hơn nữa, bằng chứng rành rành cho thấy chính ông Hồ đã viết đơn xin Staline chỉ thị về việc tiến hành cuộc cải cách đẩm máu ấy.

Trong tập III của hồi ức của mình, chủ tịch Khrutshchev của Liên xô đã viết về Hồ Chí Minh như sau:

"Các bạn phải tôn kính người này (tức Hồ Chí Minh), hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản, đã dành cho nó tất cả sức lực và khả năng của mình."

Trong tập I, Khrutshchev viết: "giờ đây nhân dân Việt nam đang đổ máu và hiến sinh mạng vì phong trào cộng sản thế giới".

Như vậy, nếu nói ông Hồ có công thì phải nói ông ta có công với Quốc Tế Cộng Sản, chứ không có công mà chỉ có tội với nhân dân Việt Nam mà thôi.

Không độc ác như Staline, không khát máu như Mao Trạch Ðông, không tàn bạo như Polpot, không dã man như Hitler, nhưng chắc chắn với những khổ đau triền miên mà dân tộc Việt nam đã gánh chịu dưới ách cộng sản do Hồ Chí Minh áp đặt, người ta chỉ có thể so sánh ông với hình tượng gian hùng của một Tào Tháo mà thôi. Với những con người như thế thì mọi phương tiện đều tốt miễn là họ đạt được mục đích của mình. Ðưa những mẩu người như thế ra để tôn thờ, để học tập và noi theo thì không gì "trái sự thật, trái đạo lý" cho bằng. Muốn biết điều đó có trái với đạo lý hay không thì chỉ cần nhìn vào đám "quần chúng tự phát", phường "xã hội đen" sát cánh bên cạnh công an cảnh sát để hành hung dân lành trong vụ Tam Tòa vừa qua. Ðó là phó bản trung thành của một Hình Tượng Vô Ðạo được tôn thờ như một mẫu gương để học tập và noi theo.
 
Lễ Đức Mẹ Lên Trời: Thiên Chúa chiến thắng con rồng đỏ
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
18:22 15/08/2009
Sứ điệp cho những ai yêu chuộng hòa bình

Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả: đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta sẽ tập trung suy ý nghĩa của chúng trong ngày lễ hôm nay.

1. Hình ảnh con rồng đỏ

Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Con rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.

Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một qoái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó với một sức mạnh khủng khiếp, sự ích kỷ tuyệt đối và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a).

Thánh George tiêu diệt con Rồng đỏ
Khi đề cập về “con rồng đỏ” này vào thời mình, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống kitô giáo và bách hại Giáo Hội. Thế lực này xuất hiện như một “con rồng đỏ” có sức mạnh vô tận của quân đội, chính trị và tuyên truyền khắp đế quốc La mã lúc bấy giờ. Đối diện với một đế quốc hùng mạnh như thế, đức tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mền”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng. Con rồng đỏ này tỏ ra như làm được mọi sự và không ai có thể chống lại được sức mạnh của nó.

Thế nhưng, cuối cùng, như chúng ta biết đó: “người phủ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Đế quốc la mã “trở lại” và đón nhận đức tin kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế La mã lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội vẫn đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.

“Con rồng đỏ” này không chỉ là hình ảnh của thế lực đế quốc chống kitô và bác hại Giáo Hội, nhưng nó cũng là biểu tượng của các thể chế độc độc tài vô thần, duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, vv... Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận góc cùng ngõ hẻm. Đức tin như đứa bé và Giáo hội như người phụ nữ yếu ướt xem ra không thể sống sót được trước bàn bay lông lá và sắt khí bạo tàn của họ. Nhưng lịch sử Châu Âu cho thấy chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Cuối cùng, Thiên Chúa đã chiến thắng, tình yêu mạnh hơn sự hận thù, bạo lực và ích kỷ con người!

Ngày hôm nay, “con rồng đỏ” đó vẫn còn xuất hiện trong những hình thù mới mẽ và khác biệt. Nó hiện nguyên hình trạng trong hình thức của các chủ nghĩa duy vật chất và vô thần; nơi một xã hội bị thống trị bởi một nền văn hóa tôn thờ vật chất, cá nhân chủ nghĩa và hưởng thụ ích kỷ và bất công; nơi một xã hội mà nhân quyền bị xúc phạm, tự do tôn giáo bị chà đạp vv… Con người chỉ nghĩ tới mình và thù địch Thiên Chúa. Sống trong môi trường đó, chúng ta thật khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa, để giữ các giới răn của Người. Đến lượt chúng ta, những người tin Chúa, trở thành “em bé” và “người phụ nữ” yếu ớt trước các thế lực của nó. Nhưng hãy can đảm, vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa và hãy trở thành những người mang Chúa Kitô đến cho thế giới này.

2. Hình ảnh người phụ nữ

Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.

Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Như thế, Mẹ được vinh quang sau khi vượt qua sự chết. Điều này nói với chúng ta rằng: hãy can đảm lên, đừng sợ, cuối cùng tình yêu sẽ chiến thắng! Hãy xác tín như Mẹ: cả đời con là “nữ tỳ của Thiên Chúa”, sự sống con là quà tặng cho mình, cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chúng ta hãy tin tưởng và hãy sống như thế để chống lại mọi thứ quấy rầy và sắc nhiễu của con rồng đỏ này.

Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, sinh cưu mang và sinh Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, qua sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ.

Như thế, mừng lễ Mẹ Lên Trời là lời gọi chúng ta tin vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Ngày hôm nay Thiên Chúa xem ra có vẻ yếu đuối, nhưng Thiên Chúa yếu đuối là Thiên Chúa sức mạnh. Và cũng là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Đức Maria trong những gì Mẹ nói và Mẹ làm: Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin làm theo sự sặp đặt của Người.

Hãy bước theo con đường của Mẹ, đó là con đường sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, là từ bỏ chính mình trong phục vụ anh em. Đó là con đường duy nhất đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ.

Khi nhìn ngắm Mẹ được vinh hiển, chúng ta xác tín rằng: Thiên Chúa chiến thắng. Đức tin bé nhỏ lại là sức mạnh của thế giới. Tình yêu sẽ chiến thắng lòng thù hận. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy thốt lên rằng: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!
 
Cộng Đồng CGVN ở Brisbane thắp nến cầu nguyện cho giáo xứ Tam Tòa
Đỗ Quang Phúc
18:40 15/08/2009
BRISBANE, ÚC CHÂU - Trong tâm tình hiệp thông và chia sẻ với giáo xứ Tam Toà nói riêng và với toàn thể đồng bào tại Việt nam nói chung, về sự áp bức và đàn áp tôn giáo của nhà cầm quyền cộng sản, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Brisbane đã tổ chức buổi thắp nến cầu nguyện vào tối thứ Sáu 14/08/09, tại Hội Trường Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Brisbane.

Buổi lễ diễn ra vào khoảng 7 giờ 20. Mở đầu chương trình, cô Đỗ Mỹ Linh giới thiệu thành phần quan khách tham dự. Chúng tôi ghi nhận có sự hiện diện của Đại đức Thích Thiện Hữu, trụ trì chùa Phật Đà, ông Tăng văn Ngô, Hội trưởng Hội Phật Giáo Hoà Hảo tại Queensland, ông Trần Thanh Vân, Phó Chủ tịch Nội Vụ CĐ NVTD-Qld và đại diện các hội đoàn và đoàn thể.

Từ trái qua phải: ông Đinh Văn Điền (Chủ tịch CĐ Công Giáo VN Brisbane), ông Đỗ văn Tô (Chủ tịch Hội Người Việt Cao Niên -Qld), ông Tăng văn Ngô (Hội trưởng Hội Phật Giáo Hoà Hảo - Qld), Đại đức Thích Thiện Hữu (Trụ trì chùa Phật Đà), ông Trần Thanh Vân (Phó Chủ tịch Nội Vụ CĐ NVTD-Qld), Linh mục Phao Lô Lương Minh Chánh

Ông Đinh Văn Điền, Chủ tịch CĐ Công Giáo VN Brisbane, đã có đôi lời chào mừng cùng quan khách. Tiếp theo là ba hồi chiên trống, và nghi thức thắp nhang do Linh mục Phao Lô Lương Minh Chánh và hai vị cao niên thực hiện.

Sau đó là phần phát biểu của LM Phao Lô Lương Minh Chánh và của ông Trần Thanh Vân, Phó Chủ Tịch CĐ NVTD-Qld.

Xen kẻ giữa các bài phát biểu là những bài thánh ca do ca đoàn Têrêsa trình bày. Ban tổ chức cũng cho trình chiếu một video về những diễn biến của cuộc đấu tranh của giáo xứ Tam Toà.

Sau phần trình chiếu video, LM Phaolô Lương Minh Chánh và đại diện các giáo họ đã tiến hành nghi thức thắp nến. Những ngọn nến lung linh trong tiếng hát của bài Thánh ca “Thắp Sáng Trong Con” như khơi dậy niềm tin trong lòng mọi người.

Cuối cùng là lời nguyện của thiếu nhi, giới trẻ và bô lão đọc lời nguyện cho cho Giáo hội Quê hương Việt Nam và cho Tam Tòa.

Trước khi cảm tạ và chào tạm biệt cùng quan khách, ông Đinh Văn Điền, Chủ tịch CĐ Công Giáo VN Brisbane, đã phổ biến thông báo về sinh hoạt “Một Buổi Chiều Cho Galang” của Ban phát thanh Việt ngữ 4EB sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật 23/08/09.
 
Chúng ta sẽ làm được những gì?
lykhách
18:44 15/08/2009
Chúng ta sẽ làm được những gì?
Nếu mãi im lặng chờ khốn khổ ra đi?
Chờ bạo lực nhìn thấy ra chân lý?
Chờ ác tâm nẩy nở đóa từ bi?

Dân ta đấy một giống dân nhẫn nhục
Nhưng luôn cần thiết sẽ kiêu hùng!
Một đất nước chẳng khó chi đánh gục
Nếu muôn người chẳng một chính nghĩa chung!

Lẽ nào thời này thôi đã hết
Khí tiết Trưng-Vương, dục trống Quang-Trung
Hồn phá Tống bình Chiêm Lý-Thường-Kiệt
Khí phách Hưng-Đạo-Vương trí dũng kiêu hùng!

Đất nước rồi sẽ đi về đâu?
Ngay cạnh bên luôn tham vọng lũ Tầu
Ai thay Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo?
Hội Nghị Diên Hồng chỉ còn sử sách sao?

Ta đã mất quá nhiều đất, đảo
Cả biển Đông giặc chặn lối ra vào
Và cho chúng cài người, cày xới
Chính giữa nơi huyệt tử trên cao!

Ôi vận nước trao vào tay may rủi
Một tương lai đầy đen tối chực chờ
Chút hòa bình đầy ly tan ngắn ngủi
Bao thế hệ sau sẽ trả nợ thờ ơ!

Ta biết chắc dân ta rồi sẽ chống
Nếu một mai giặc tràn xuống non sông
Ta biết chắc sẽ bao máu xương oan uổng
Nếu thế hệ hôm nay sống chẳng xa trông!

Bao nhiêu năm rồi, bao thế hệ lầm lỡ
Nhìn đau khổ anh em ta vẫn cứ chần chờ
Chúng ta tranh dành, chúng ta bỏ ngõ
Chúng ta hận thù, chúng ta làm lơ!

Thành quách đổ mười năm xây dựng lại
Đất khô cằn sa mạc có thể hóa làm xanh
Mà tình người một khi gãy đổ
Bao nhiêu năm mới hàn gắn nghĩa tình?

Ta thấy gì trên đất nước hôm nay?
Giả dối tình người đen trắng đổi thay
Những lớp trẻ theo Tàu, Tây mất gốc
Những lớp già sống tránh né họa tai!

Một chính phủ chuyên dối lừa, bạo ác
Một lớp trí thức cúi đầu thoái thác
Dăm kẻ đứng lên chính quyền dập tan nát
Chúng ta làm gì giữa thiện ác hay lặng câm?

Chúng ta làm gì khi máu đồng bào ta đổ xuống?
Đã làm gì khi mồ hôi, nước mắt dân oan mãi tuôn?
Một đảng trên cao, kẻ trọn quyền kẻ lắm tiền ngất ngưỡng
Gần tám mươi triệu dân thăm thẳm một con đường!

Đất nước này rồi sẽ đi về đâu?
Theo Âu-Mỹ, theo Nhật hay theo Tầu?
Sao cứ mãi theo người dù tốt xấu
Bốn nghìn năm không đủ tự đi sao?

Hãy nhìn rõ đâu là tai họa
Chính là gian manh, dối trá từ trên
Sự gì thật cũng cần phải trả giá
Nhưng SỰ THẬT sẽ giải phóng con người,
Phải cất tiếng lên!

Chúng ta không cần mang thêm thù hận
Bao năm trường máu đòi nợ máu anh em
Lấy yêu thương nhận ra nhau thân phận
Trở về cội nguồn như máu chảy về tim

Có công bằng mới mong có bác ái
Có tự do công lý mới ra hoa
Có lòng nhân mới tránh họa ngang trái
Có sống vì người mới hiểu nhận là cho

Chúng ta sẽ làm được những gì?
Ai sẽ làm, nếu ta chẳng ra đi?
Ai sẽ nói lên những điều phi lý?
Ai quên hận thù nếu ta chẳng từ bi?

Cuộc chiến nầy không cần súng đạn
Không cần gọi thêm xương máu anh em
Máu xương ông bà đã thấm từng tấc đất
Hãy nhìn ra và hãy biết yêu thêm!

Đây là cuộc chiến gọi muôn người thức tỉnh
Để tránh cho cháu con một cuộc chiến điêu linh
Chúng ta sẽ làm gì hay mãi hoài câm nín
Nhìn sự ác trên cao, nhìn dân tộc trăn trở mình…
Rồi lặng thinh!

Cái giá của cháu con chúng ta sẽ phải trả
Là cuộc chiến với Tầu luôn nuôi mộng vương bá
Nếu cha ông chúng mãi đớn hèn câm lặng trước dối trá
Chúng có quyền trách móc kẻ sinh ra!
Chúng có quyền lên án ông bà
Đã để lại chúng trắng đôi bàn tay trước hiểm họa
Để lại nội thù, để lại giặc luôn rình rập gần xa!

Hãy đem muôn Trống Đồng xưa mà giục tiếng
Gióng giả từng hồi gọi hồn sông núi linh thiêng
Để con cháu từ chân trời góc biển
Lắng hồn sâu nghe khát vọng của tổ tiên!

Khua gồng chiêng hỡi muôn rừng núi
Từ cao nguyên đất đỏ tới buôn làng
Tình Kinh-Thượng uống nước chung dòng suối
Mà giờ rừng, sông, suối sắp chết oan!

Hỡi những chuông chùa từ núi rừng xa
Hòa chuông giáo đường giữa muôn phố xá
Đổ đồng thanh gọi tình người Việt-Nam giục giã
Biết thương lấy nhau Nam-Trung-Bắc một nhà!

Hãy đánh thức dân tộc còn mê ngủ
Mấy nghìn năm khổ chưa đủ hay sao
Cho anh em thôi đối xử nhau như dã thú
Cho bọc trăm con hiểu tình nghĩa đồng bào!

Chuông tĩnh mịch cho thấm hồn độ lượng
Chuông ân cần gọi người sống yêu thương
Chuông cảnh tỉnh những họa tai vất vưởng
Chuông chậm ngân cho thấy hết đoạn trường!

Chuông xa xôi cho từ tâm tìm đến
Chuông thật gần gọi xa xót đời nhau
Chuông khắc khoải như nghìn xưa vọng tiếng
Chuông trữ tình về đằm thắm ca dao!

Chuông báo tử nhắc nhở hồi vận nước
Chuông dập dồn giữa bờ bến tử sinh
Chuông mênh mang cho hồn người mơ ước
Chuông thẳm sâu khơi khát vọng thái bình!

Giục Trống Đồng lên gọi hồn Quang-Trung lẫm liệt
Trống Trưng-Vương thổn thức bến Hát-Giang
Trống Lê, Lý, Nguyễn, Trần, bao anh linh nhân kiệt
Tiếng trống trùng phùng gọi con cháu họp đàn!

Hãy giục Trống Đồng lên hòa hồi chuông cảnh tỉnh
Người nghìn xưa đã sống chết cho nghìn sau
Hơn bốn nghìn năm non nước đi chưa đến
Dân tộc này khốn khổ mãi! TẠI SAO?
 
Giám mục Vinh tuyên bố: Giáo phận Vinh không chỉ có một Cao Đình Thuyên mà còn có cả 500.000 Cao Đình Thuyên''
J.B Nguyễn Quốc Tuấn
19:35 15/08/2009
VINH - Không quản thời tiết oi bức của những ngày cuối hạ, trong hai ngày 14-15/8/2009, cả vài trăm ngàn giáo dân Giáo phận Vinh đã quy tụ về ngôi nhà chung của Giáo phận – Trung tâm Tòa Giám mục Vinh – để mừng lễ Quan Thầy Giáo phận và đặc biệt hiệp thông cầu nguyện cho người anh em Tam Tòa sớm thoát khỏi cơn quẫn bách do bạo quyền. Giáo dân Vinh luôn luôn trung kiên làm chứng cho sự thật, công lý và hòa bình với tất cả niềm tin yêu.

Xem hình ảnh

Điểm đáng lưu ý trong cuộc quy tụ tại quảng trường Tòa Giám mục Vinh lần này đó là, không chỉ số người tham dự đạt tới mức được coi là kỷ lục mà những tâm hồn hồn thiện chí về đây còn mang theo bầu khát vọng bấy lâu họ vẫn hằng thao thức: khát vọng được sống bình an trong một thế giới không còn bạo lực, được sống và thể hiện niềm tin tuyệt đối cao thượng của mình…Người ta nhận thấy một “tinh thần Vinh” mạnh mẽ hơn bao giờ hết giữa những con người đang cùng sát cánh bên nhau, chia sẻ cùng nhau lời nguyện cầu trong ánh nến chan hòa tình hiệp thông, cùng nhau giương cao biểu ngữ nói lên ước vọng cháy bỏng về một “mùa hồng ân” công lý.

Dù đứng dưới bầu trời quê hương còn nhiều khối mây mù u ám bởi bất công lan tràn, những “con tim nồng Vinh” vẫn tin tưởng và phó thác cho Đấng Bảo Trợ đầy uy quyền và yêu thương – Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời – Nữ Vương Giáo phận Vinh. Chính Mẹ cũng đã từng sống thân phận “nữ tỳ hèn mọn” bần cùng trong xã hội, nhưng Thiên Chúa đã đoái thương cất nhắc Mẹ lên cõi trời cao xanh vinh hiển. Hôm nay, từng giây phút, Mẹ vẫn dõi nhìn đoàn con thơ của Mẹ đang đớn đau quằn quại trong đêm trường của áp bức, bạo tàn, và Mẹ đang ra tay che chở, thoa dịu, ủ ấp thương yêu. Trong tâm tình ấy, tất cả đồng tâm cất cao bài hát “Cầu Mẹ Tam Tòa”: “Ôi Mẹ Maria, ôi Mẹ - Mẹ Giáo phận Vinh, con xin dâng Giáo phận cho Mẹ. Ôi Mẹ Maria, ôi Mẹ- Mẹ Giáo phận Vinh, xin dâng Mẹ đoàn chiên xứ Tam Tòa…”

Sự hiện diện của vị Cha chung Giáo phận – Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên trong Đại lễ là nguồn khích lệ vô cùng lớn lao đối với đoàn con Giáo phận Vinh đông đảo. Cùng với vô số tâm hồn thiện chí không chỉ tại Giáo phận nhà mà còn ở khắp muôn nơi, Đức Cha đã cùng xót đau “nỗi đau Tam Tòa” với tất cả niềm cảm thông sâu sắc. Trước khi kết thúc Thánh lễ, một lần nữa, đoàn con Vinh thực sự được tiếp thêm xung lực thần linh cho công cuộc sống chứng nhân vì Sự Thật – Công Lý – Hòa Bình trước tâm tình của Đức Cha. Chính Thiên Chúa sẽ ra tay hành động, vì đối với Ngài “mọi sự đều có thể” như xưa Ngài đã làm nên điều huyền diệu nơi Đức Maria. Mọi người đã sững sờ, và trào dâng xúc động trong niềm phấn khích khôn tả khi nghe Đức Cha dõng dạc cất cao lời: “… Giáo phận Vinh không chỉ có một Cao Đình Thuyên mà còn có cả 500.000 Cao đình Thuyên"
 
Thái Hà - Linh địa Đức Bà rực lửa hiệp thông
CTV C.Ss.R
20:07 15/08/2009
HÀ NỘI - Tối 15/8/2009, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, kỷ niệm một năm Mẹ về chốn xưa”, khoảng 3000 giáo dân đã thắp nến cầu nguyện tại linh địa Đức Bà. Đoàn rước, với nến sáng trên tay, từ từ tiến ra linh địa trong lời kinh Hoà bình tha thiết, trong nhịp bước rộn ràng của những tâm hồn khát khao đi tìm công lý.

Còn nhớ giờ này một năm trước đây, khi chính quyền Hà Nội rắp tâm chia chác khu đất 178 Nguyễn Lương bằng, giáo dân Thái Hà đã khẳng khái cất tiếng nói công lý, đã dùng ánh sáng ngọn nến và lời cầu nguyện thắp soi vào góc khuất của một xã hội đầy bạo quyền. Dù cho mảnh đất thiêng 178 Nguyễn Lương Bằng đã bị bắt buộc trở thành công viên 1/6, thì ánh sáng chân lý và công lý vẫn sáng ngời và tiếp tục âm ỉ cháy, để đến hôm nay, nó lại được thắp lên, khêu lại những bước đi anh dũng đã làm nên sự kiện Thái Hà.

Tối nay, dưới cơn mưa và tiết trời u ám, hàng ngàn ngọn nến được thắp lên làm cho linh địa Đức Bà trở nên lung linh huyền ảo. Lời kinh, lời nguyện vang lên trong đêm khuya, trong bóng tối khiến cả ngàn con tim bồi hồi xúc động. Lời hát “Mẹ ơi, đoái thương quê hương Việt Nam, trời u ám bất công lan tràn…” vang giữa linh địa, sao linh thiêng, sao chua xót, nhưng cũng rất dịu ngọt. Cả một khung trời nhờ ánh nến trở nên bừng sáng. Bầu khí linh thiêng chợt ùa về. Tấm lòng dân Chúa như mở ra cho một cuộc sống tâm linh mãnh liệt. Nhiều giọt nước mắt đã nhỏ xuống cùng rơi với những giọt sáp ong cháy dở. Tiếng thổn thức chợt ào vỡ mong chờ. Chờ mong cho đất nước, quê hương được đổi mới, thoát ách bạo tàn. Chờ mong cho công lý được hiển trị, cho tôn giáo được tự do và cho các tài sản của Giáo hội đang bị chiếm dụng mau được trả về cho Giáo hội đúng với sự thật và lễ công bằng.

Không ai bảo ai, cả đoàn người hừng hực tiến bước. Hình ảnh Mẹ Công Lý và hôm nay Mẹ về Trời trở thành niềm cảm hứng và hy vọng cho dân Chúa bước đi, hy vọng rằng: “Công lý và sự thật sẽ chiến thắng.”
 
Nhân tròn năm vụ Thái Hà (15/8): Nhà nước Việt Nam học được gì...?
Alfonso Hoàng Gia Bảo
21:48 15/08/2009
Nhân tròn năm vụ Thái Hà (15/8):
Nhà nước Việt Nam học được gì từ các vụ xung đột với tôn giáo?


Lễ mừng kính ‘Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời’ hôm nay đánh dấu giáp năm ngày nổ ra vụ Thái Hà, bắt đầu bằng sự kiện bức tường “Bá Linh’ ngăn cách giữa nhà thờ và khu đất bị nhà nước tịch thu đã bị các giáo dân cùng nhau phá bỏ hôm 15/8/2008.

Thái Hà tối ngày 15.8.2009
Ba mét tường cũ kỹ già nua tuy chỉ đáng giá vài triệu đồng nhưng hành vi ‘nổi loạn’ này lại bao hàm nhiều ý nghĩa quá lớn liên quan đến những khối tài sản giáo hội còn đang bị vướng mắc khắp nơi, khiến nhà cầm quyền hết sức lo ngại. Vì thế tám giáo dân xứ Thái Hà lập tức bị truy tố ra tòa với các tội danh “phá hoại tài sản công và gây rối trật tự công cộng”.

Mục đích ban đầu của chính quyền có thể chỉ là để ‘dằn mặt’ nhằm ngăn chận không để ‘hiệu ứng đòi đất tôn giáo’ lan rộng ra thêm nhiều nơi khác. Thế nhưng khi làm lớn vụ Thái Hà, nhà nước đã vô tình khơi lại những việc làm không ‘quang minh chính đại’ của họ trước kia.

Hình ảnh vài trăm công an, cảnh sát cơ động với vũ khí đầy đủ nhưng lại bị lâm vào thế bị động và chống đỡ vất vả trước giáo dân chỉ với mấy chữ ‘SỰ THẬT-CÔNG LÝ’ đã nói thay tất cả sự thật của vụ việc.

Mặc dù Công Lý - Sự Thật cho giáo xứ Thái Hà vẫn có nhưng các chuyến hành hương hiệp thông lần lượt của nhiều vị giám mục đứng đầu các giáo phận trên cả nước đến với giáo xứ Thái Hà và nhất là sự lên tiếng của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua văn kiện “Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay” do Đức cha Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký ngày 25-09-2008, có thể nói sự kiện Thái Hà đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ sống đạo trong khép nép và sợ hãi ‘mang ơn’ chính quyền của hơn 6 triệu người công giáo đã kéo dài suốt mấy chục năm qua.

Cũng nhờ có sự kiện Thái Hà – Hà Nội, chúng ta mới biết, hóa ra đang có nhiều nhà thờ, họ đạo khác trên cả nước cũng đang rất muốn ‘vào vai’ Thái Hà. Đó là vụ nhà trẻ của các Nữ Tử Bác Ái tại số 2bis Nguyễn Thị Diệu, Q3 Sàigòn, khu ‘đất vàng’ 11 Nguyễn Du cạnh Đại chủng viện Thánh Giuse Sàigòn, đất của giáo xứ An Truyền – An Bằng giáo phận Huế, đất DCCT ở Nha Trang bị chiếm xây khách sạn Hải Yến tại Nha Trang, đất tu viện Thánh Phaolồ ở Vĩnh Long bị chiếm làm khách sạn và gần đây nhất là vụ nhà thờ tam Tòa bị tỉnh Quảng Bình chiếm đoạt vô cớ làm chứng tích chiến tranh (?) v.v…

Thoạt nhìn thì có vẻ như mỗi nơi mỗi ‘quả’ nhưng thật ra tất cả đều có chung một ‘nhân’bắt nguồn từ chính sách loại bỏ tôn giáo ra khỏi xã hội mà nhà cầm quyền Csvn chủ trương và theo đuổi trước kia đã gây nên.

Việc tịch thu trái phép rất nhiều tài sản của giáo hội ở khắp nơi đến nay vẫn chưa có dấu hiệu nào sẽ được trả lại, đang có nguy cơ rất dễ biến thành những ‘thùng thuốc nổ’ nếu nhà nước Việt Nam tiếp tục viện lý do ‘tồn tại lịch sử’ nhưng lại âm thầm chuyển hóa chúng sang các mục đích sử dụng khác để thu lợi và phi tang dấu vết. Điển hình như vụ đất Tòa Khâm Sứ và Thái Hà, mà nếu không gặp phải những phản ứng mạnh mẽ của giáo phận Hà Nội chắc chắn giờ đây đã không phải là hai cái công viên.

Trong tất cả các vụ xung đột liên quan đến tài sản của đạo công giáo xảy ra trong năm qua, nhà cầm quyền vì không nắm lẽ phải trong tay nên đã hành xử hết sức lúng túng, thậm chí đến mức đã phải mượn tay “quần chúng tự phát” để thay mặt họ giải quyết. Vấn đề là sau khi thoát hiểm trong những tình huống khó khăn như vậy, liệu nó có giúp họ ‘sáng ra’ được điều gì đó hầu có thể giúp thay đổi được chính sách tôn giáo cứng ngắt đang thi hành chăng?

Thật khó có thể trông đợi một sự ăn năn hối cải thay đổi ‘180 độ’ từ các bạo chúa ngay cả những khi triều đại của họ sắp bị lịch sử chôn vùi. Tuy nhiên điều này cũng không có nghĩa cái tính bản thiện của nhân chi sơ nơi họ ngày nào, nay đã chai lì hoàn toàn.

Tượng Đức Phật trong nhà Lê Khả Phiêu
Bằng chứng là ngay cả với ông Lê Khả Phiêu, một khi đã leo được đến chức tổng bí thư thì chắc chắn phải là người cực kỳ vô thần. Ấy thế mà giờ đây ông ta cũng đã biết ôm ấp tượng Phật trong nhà. Để làm gì nếu chẳng phải cầu mong được phù trợ từ thế giới siêu nhiên?

Sự sai lầm của nhà nước Việt Nam hiện nay là ở chỗ sau cái thời phá hoại tôn giáo nay Csvn đang dốc sức xây dựng chùa chiền còn kinh khủng hơn ai hết để khắc phục. như với Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương và chùa Bái Đính ở Ninh Bình, cái nào cái nấy tiêu tốn hằng ty tỷ tiền tưởng là đang tích đức lại cho chế độ nhưng thật ra cũng chỉ là tiếp tục phá hoại tôn giáo.

Sự khác nhau chỉ là ngày xưa họ dùng búa đập tượng Phật, Chúa và nhà thờ thì nay việc xây chùa để kinh doanh, cốt lấy tiếng thơm ‘tự do tôn giáo’ với thế giới hóa ra lại là phá nốt chút tâm thức vốn đã tang thương còn sót lại trong dân chúng về tôn giáo.

Có kẻ giựt nợ nào mà lại có thể tích đức được bằng cách đem tiền đi bố thí cho người này người nọ, trong khi lại tìm cách lánh mặt các nạn nhân cũ của mình với những món nợ xưa?

Trong cơn bối rối hiện nay, có thể có nhiều thứ khiến nhà nước phải băn khoăn, nhưng ít nhất họ cũng phải nhận ra được sự thật này: Tôn giáo không phải là thực dân Pháp, Phát xít Nhật hay đế quốc Mỹ, tuyên chiến với tôn giáo là dại dột đến tận cùng.

Sàigòn, 15/8/2009
 
Cám ơn Thái Hà
Hà–Minh Thảo
23:54 15/08/2009
Mẹ đã về chốn xưa!’. Đó là những lời mà giáo dân giáo xứ Thái Hà truyền cho nhau cách đây đúng một năm, nhân dịp Giáo hội Công giáo mừng kính trọng thể lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời ngày 15.08.2008.

I. SỰ CÁO GIAN.

Đêm 13 rạng ngày 14.8.2008, giáo dân thuộc Giáo xứ Thái Hà ở Hà nội đã kiệu tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào khu đất của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế đã bị Xí nghiệp Dệt Thảm Đống Đa tự ý bán cho Công ty Cổ phần May Chiến Thắng cách đó hơn 10 năm. Nhà Dòng đã gửi đơn khiếu nại từ năm 1996.

Khoảng 12 giờ 30 ngày 15.08.2008, giáo dân lại kiệu tượng Đức Mẹ Ban Ơn đến. Đây là bức tượng khá lớn, cao khoảng 2 mét, được dựng gần tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Khoảng 15 giờ 30, giáo dân lại dựng thêm cây thánh giá cao khoảng 5 mét bằng sắt, trên có tượng nhỏ Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Sau Thánh Lễ 10 giờ sáng ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời, đông đảo bà con giáo dân lại tiếp tục ra Phố Đức Bà cầu nguyện. Khi đoàn rước kiệu tượng Đức Mẹ Ban Ơn, cao khoảng 2 mét tiến vào bên trong khu đất qua một lối đi hẹp do tường rào đã bị sập đổ trước. Khi vào bên trong, nhận thấy lối đi vào khó khăn, nên một số giáo dân đã dùng cuốc, xà beng mở một lối đi thẳng với bức tượng của Mẹ. Chỉ trong vòng khoảng 15 phút, một lối đi rộng khoảng 4 thước đã được khai thông, đông đảo bà con nhanh chân đi vào cầu nguyện trước tượng Mẹ. Mọi người bộc lộ niềm vui sướng khi thấy Mẹ đã trở về với chốn xưa của Mẹ. Khoảng 15 giờ 30 giáo dân lại dựng thêm cây thánh giá cao khoảng 5 mét bằng sắt, trên có tượng nhỏ Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Trong khi đó, nhiều cán bộ công an và nhân viên công ty may Chiến Thắng ra đứng quan sát và quay phim những diễn biến của giờ cầu nguyện.

Sở dĩ các giáo dân Thái Hà đã hành động như vậy vì sau nửa năm xem xét, thành phố Hà Nội đã ra quyết định nói rằng « không có cơ sở để giải quyết tranh chấp » và « sẽ thu hồi khu đất để làm công trình công cộng ».

Sau đó, trong nhiều ngày, báo chí nhà nước đồng loạt lên án Ban Hành Giáo, đã "coi thường pháp luật", "lợi dụng, kích động giáo dân" đặt tượng, dựng thánh giá, bàn thờ, và liên tục cầu nguyện tập thể trong khuôn viên đất tranh chấp, gây mất trật tự an ninh xã hội. Bất chấp những lời lẽ và hành động đe dọa của nhà nước đối với Ban Hành Giáo và giáo dân Giáo Xứ Thái Hà, các cuộc cầu nguyện tập thể của bà con Công giáo tại đây vẫn liên tục và đều đặn diễn ra để đòi hỏi Công Lý.

Vấn đề căn bản ở đây là nhà nước không chứng minh được đã có văn bản trưng thu khu đất của Dòng Chúa Cứu Thế, trong đó có Giáo xứ Thái Hà. Khi chưa có quyết định trưng thu, khu đất đó vẫn còn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế.

Không cãi lý được, hôm 27.08.2008, chính quyền - qua lệnh của công an quận Đống Đa, cho biết công an đang làm thủ tục khởi tố nhưng người đến cầu nguyện tại khu đất Thái Hà do Công ty Chiến Thắng chiếm dụng. Họ cho rằng linh mục và giáo dân vi phạm « tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản » và « tội gây rối trật tự công cộng » theo Bộ Luật Hình Sự.

Sáng 27.08.2008, một số giáo dân đã nhận được giấy công an mời triệu tập điều tra. Người đầu tiên nhận được giấy đến công an “làm việc” là ông Lê Quang Kiện. Đây là bắt đầu một chiến dịch mới đe dọa và khủng bố tinh thần giáo dân. Nhưng tất cả đều không sợ sệt trước bạo quyền, họ vẫn đến cầu nguyện và càng ngày càng có nhiều giáo dân từ xa đến để ủng hộ tinh thần. Còn các công an ngồi vạ vật chỗ này chỗ kia, tỏ ra mệt mỏi, rã rời.

Cuối cùng, bạo quyền cũng lập danh sách đưa ra tòa 8 giáo dân:

1. Bà Nguyễn Thị Nhi, sinh năm 1962, bị kết tội “gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà và Toà Khâm Sứ.
2. Bà Ngô Thị Dung, sinh năm 1954, bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
3. Ông Lê Quang Kiện, sinh năm 1945, bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
4. Bà Nguyễn Thị Việt, sinh năm 1949, bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
5. Bà Lê Thị Hợi, sinh năm 1947, đã bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
6. Ông Giuse Phạm Trí Năng, sinh năm 1959, đã bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
7. Anh Nguyễn Đắc Hùng, sinh năm 1977, bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.
8. Anh Thái Thanh Hải, sinh năm 1987, bị kết tội “hủy họai tài sản và gây rối trật tự công cộng” tại Thái Hà.

Khuya ngày 21.09.2008, đêm kinh hoàng đầy bạo lực, ma quỷ và bóng tối, ‘chánh quyền’ huy động đông đảo đám “quần chúng nhân dân tự phát” gồm côn đồ và xã hội đen, đến bao vây Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế và giáo xứ Thái Hà. Công an đứng canh cho chúngỉ ném gạch đá vào trong khuôn viên nhà thờ và tu viện. Công an hộ trợ chúng hô hào những khẩu hiệu đầy bạo lực: “Giết giết giết Kiệt, giết giết giết Phụng”. Chúng hò la kéo đổ cổng Đền Thánh Giêrađô để cố ý kích động bạo lực lên tới cực điểm.

II. PHIÊN TÒA SƠ THẨM.

Ban đầu, phiên tòa này được định vào ngày 05.12.2008, đúng vào ngày Linh mục Lôrensô Chu văn Minh thụ phong Đức cha. Nhưng, giờ chót phiên tòa được dời sang ngày 08.12.2008, ngày Giáo hội Công giáo cử hành trọng thể Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong Thánh Lễ ngày 08.12.2008, giáo đoàn hát đáp ca Thánh vịnh 97 «Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu». Ngày hôm đó, ‘Điều huyền diệu’ đã được thực hiện trong vụ án giáo dân Công giáo Thái Hà ‘vô tội’ tại trụ sở Ủy ban Nhân dân phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội.

1. Giáo sĩ và giáo dân Thái Hà đã biết ‘ca tụng vinh quang Thiên Chúa và đã đặt niềm hy vọng nơi Đức Kitô’. Các bị cáo vô tội đã hiên ngang ra tòa với đầy lòng tin tưởng nơi Chúa giúp mình can đảm và tự do nói Sự Thật: Thừa nhận có đập bức tường của kẻ khác xây trên đất Giáo xứ Thái Hà và quả quyết mình vô tội.

2. Lần đầu tiên từ năm 1954, tại Hà nội, các ông, bà ‘bị cáo’ trang phục rất đẹp, đeo ảnh Đức Mẹ và Thánh Giá có tượng Chúa Giêsu trước ngực, tay giơ cao nhánh lá thiên tuế xanh tượng trưng cho công lý, hòa bình và tinh thần tử vì đạo, cùng các giáo sĩ, khoảng 700 giáo dân và người đồng hành, đi thành hàng một rất trật tự trên vĩa hè. Tất cả ‘bị cáo’ tự tin, bình thản và vui vẻ. Do đó, dù được trang bị đầy đủ những vũ khí chống biểu tình, mua nhập từ ngoại quốc bằng tiền đóng thuế của người dân để đàn áp người dân, công an cũng không phải sử dụng tới.

3. Các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã tổ chức một cách thật trật tự, kỷ luật và vui vẽ khiến nhà cầm quyền phải thận trọng, e dè. Các biểu ngữ viết bằng tay trên giấy cứng ‘mẹ tôi vô tội’, ‘chồng tôi vô tội’, ‘chúng tôi yêu mến anh chị em’, ‘phúc thay anh em khi vì danh Thầy mà bị người ta bắt bớ, xét xử’, ‘chúng tôi đồng trách nhiệm’, ‘chớ gì anh chị em được xét xử công bằng’, v.v..: ý nghĩa nhẹ nhàng nhưng thật thuyết phục. Các mục tử trong chiếc áo dòng đen luôn bên cạnh giáo dân trong bất cứ trạng huống nào. Họ rất bình tĩnh như chuyện vui bên lề... đường như Cha Lê Quang Uy thuật: buổi trưa, Cha mệt quá, ngồi trên thảm cỏ nhắm mắt thiếp vào giấc ngủ, mấy giáo dân tinh nghịch lén đặt một tấm biểu ngữ trước mặt tôi rồi chụp hình, biểu ngữ ấy ghi hàng chữ to... VỢ TÔI VÔ TỘI !

4. Tại phiên tòa, công tố viên đọc cáo trạng. Như chúng ta có thể đoán trước, nội dung bản cáo trạng này chứa đựng những điều phi lý và xuyên tạc Sự Thật. Sau phần cáo trạng, cảnh sát đưa các bị cáo sang phòng khác và Toà xét hỏi riêng từng bị cáo. Các giáo dân đã trả lời rất thẳng thắn:

Thẩm phán hỏi: ‘Mục đích đến Thái Hà cầu nguyện để làm gì? Chị Nhi nói: ‘Chúng em đánh nhau không biết đánh nhau, chửi không biết chửi, chúng em chỉ biết cầu nguyện để đòi công bằng cho Giáo hội’. Ông Kiện nói: ‘Cầu nguyện để xin Thiên Chúa soi sáng cho các cấp chính quyền sáng suốt giải quyết trả lại đất cho nhà thờ. Cầu nguyện để chính quyền giải quyết cho dễ chứ để mọc lên mấy cái biệt thự thì khó giải quyết!’. Anh Hùng nói: ‘Mục đích ra cầu nguyện là để chính quyền giải quyết trả lại đất cho nhà thờ’. Toà hỏi anh thêm: ‘Đất đã là đất nhà thờ sao còn phải đòi?’- Anh trả lời: ‘Vì người ta lấn chiếm nên phải đòi’. Các giáo dân khác cũng trả lời tương tự như vậy.

Thẩm phán hỏi: ‘Ai giao nhiệm vụ cho bị cáo? Do đâu mà bị cáo lại đến cầu nguyện? Có phải Giáo xứ Thái Hà kêu gọi không?’ Các giáo dân đều nói không ai giao nhiệm vụ, không ai kêu gọi mà do chính mình tự nguyện tham gia. Chị Nhi còn nói: ‘Do tâm linh và tâm nguyện’, ‘Do ti vi đài báo đưa tin và tôi muốn đến để tìm hiểu sự thật. Người công giáo phải có trách nhiệm tìm hiểu và bảo vệ danh dự và tài sản của Giáo Hội’.

Thẩm phán hỏi: ‘Đập tường để làm gì và bị cáo có nhận thức hành vi bị cáo đập bức tường không phải của mình là sai không?’ Các giáo dân đều trả lời là ‘đập tường để mở lối vào cầu nguyện trong khu đất’, ‘đập tường không sai’.

Theo lời Luật sư Lê Trần Luật, trước Tòa cả 8 ‘bị cáo’ đều khẳng định cầu nguyện và đập bỏ bức tường được xây dựng bất hợp pháp trên đất của giáo xứ Thái Hà là việc làm đúng đắn.

Bản án được Tòa tuyên bố như sau:

1. Bà Nguyễn Thị Nhi bị phạt 17 tháng tù treo.
2. Bà Ngô Thị Dung bị phạt 13 tháng tù treo.
3. Ông Lê Quang Kiện bị phạt 13 tháng tù treo.
4. Bà Nguyễn Thị Việt, bị phạt 12 tháng tù treo.
5. Bà Lê Thị Hợi bị phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ.
6. Ông Giuse Phạm Trí Năng bị phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ.
7. Anh Nguyễn Đắc Hùng bị phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ.
8. Anh Thái Thanh Hải bị phạt cảnh cáo.

17 giờ, các Linh mục và giáo dân và trở về nhà thờ. Chuông nhà thờ Thái Hà đổ từng hồi vang vọng báo tin mừng. Trong niềm vui đó, mọi người đã hoan hô và cám ơn Luật sư…

II. PHIÊN TÒA PHÚC THẨM.

Trước khi đề cập đến phiên tòa nầy, tưởng chúng ta cần có ít dòng để cám ơn và cầu nguyện cho Luật sư Lê Trần Luật, đại diện chính của các giáo dân, người sát cánh cùng các giáo dân từ toà sơ thẩm đến vụ kiện truyền thông nhục mạ các ‘bị can’.

Một ‘tai nạn’ khác đã xảy ra cho Luật sư vì ông đã tận tình cải trợ giúp cho các ‘dân oan’ và Thái Hà, nên đã bị công an TP.HCM vu khống và phá tan công ăn việc làm. Do đó, tại phiên phúc thẩm này,
Toà án Hà Nội đồng ý làm luật sư bênh vực cho các ‘bị can’, nhưng an ninh TP.HCM công khai cản trở không cho ông ra Hà Nội. Lý do chỉ họ mới biết.

Trong phiên xử phúc thẩm ngày 27.03.2009 này, có vài khác biệt với lần sơ thẩm ngày 08.12.2009:

1. Phiên xử phúc thẩm diễn ra tại đường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Đông, cách xa Thái Hà đến 12 cây số, giới cầm quyền địa phương hy vọng, nhờ đó, đoàn người đi đến Tòa giảm bớt đi. Nhưng, sự thật nó đã gia tăng đến khoảng 8.000 người (tín hữu các đạo khác muốn biết người Công giáo làm sao để cuộc tuần hành không bị giải tán).

2. Đoạn đường Hà Đông – Hà Nội luôn đầy xe cộ to nhỏ từ Hà Đông đổ về Hà Nội và ngược lại chuyên chở hàng lụa, mọi người đều tò mò dừng lại để nhìn, để nghe, để hỏi han, để gật gù.

3. Phiên Tòa diễn ra một cách hình thức. Công tố viên phiên toà đã đuối lý trước những biện luận hùng hồn, thuyết phục và xác thực của hai luật sư bào chữa. Vì các ‘bị can’ không nhận tội, nên trức khi kết thúc phiên toà phúc thẩm, chủ toạ công bố: y án sơ thẩm!

Kết luận.

Ngày 22.01.2002, trong dịp ‘Ad limina’ của 26 Giám mục và 2 Linh mục Giám quản, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã nhắc đến ‘sự cộng tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị’.

Đức Thánh Cha đã viết: «Giáo hội Công giáo cũng được kêu gọi chia sẻ niềm Hy vọng bằng luôn đề xuất con đường đối thoại". Chỉ một cuộc đối thoại tín nhiệm và xây dựng giữa các thành phần của xã hội dân sự cũng đủ mở ra một niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt-Nam.

Các Linh mục và Giáo dân Thái Hà đã cố gắng đề xuất con đường đối thoại để giải quyết vần đề đất đai thuộc quyền sở hữu của Giáo xứ, cần thiết cho sự phát triển nhu cầu mục vụ của Giáo xứ với số giáo dân ngày càng gia tăng. Rất tiếc… vì không có «một cuộc đối thoại tín nhiệm và xây dựng giữa các thành phần của xã hội dân sự», nên « một niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt-Nam » chưa được mở ra.

Ngày 15.08.2009
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Chân Trời Mới
Lê Trị
06:16 15/08/2009

CHÂN TRỜI MỚI



Ảnh của Lê Trị

Phía sau cơn mưa là chiếc cầu vồng

Tôi đi tìm đôi bờ cho một dòng sông

Suốt tuổi thơ ngập ngời ảo ảnh

Vàng, tím, xanh, hồng...

(Trích thơ của Freddie Nguyễn)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
 
Từ Điển Thuật Ngữ Công Giáo
Từ Điển Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo: Jabal - Jonathan
Nguyễn Trọng Đa
01:04 15/08/2009
Jabal
Jabal, ông Gia-van. Là một trong các con cháu của ông Cain (Ca-in); tác giả sách Sáng thế (St) xem “ông này là ông tổ các người ở lều và nuôi súc vật." Em ông này tên là Jubal (Giu-van); ông này là ông tổ các người chơi đàn thổi sáo. Còn ông Tubal (Tu-van) được mô tả là “ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt." Nói cách khác, ba người này giữ một phần quan trọng trong việc phát triển các tập tục xã hội của những người du mục thời đầu (St 4:20-22).
Jacob
Jacob, Gia-cóp. Là con trai của ông Isaac (I-xa-ác) và bà Rebekah (Rê-bê-ca); ông trở thành vị Tổ phụ thứ ba của người Do Thái, và là một trong các gương mặt lớn trong văn chương giáo sĩ Do Thái. Trình thuật ông được Chúa đổi tên thành Israel, vốn làm cho ông trở thành ông tổ của cả một dân tộc, là lời bình có ý nghĩa về vị trí nổi bật của ông trong lịch sử Do Thái (St 35:9-10). Trong các giao tiếp của ông với ông Laban (La-ban), nhạc phụ của ông, trong hai mươi năm, ông đã cưới hai con gái ông này làm vợ và có tài sản khổng lồ (St 32:3-21). Ông có tất cả 12 con trai, và mỗi người con trở thành thủ lĩnh một chi tộc của Israel (St 29, 30). Một trong những trình thuật nổi tiếng nhất trong Kinh thánh là trình thuật dài về các cuộc phiêu lưu của Giu-se, là con cả trong hai người con của Jacob với bà Rachel (Ra-khen), và là con cưng của Jacob. Bị bán làm nô lệ, Giu-se dần dà trở thành người cai quản tòan cõi Ai Cập. Trong nạn đói kéo dài cả gia đình được sum họp, và ông Jacob vui mừng gặp lại Giu-se. Jacob và cả gia đình đến sống ở Goshen (Gô-sen), vùng đất Ai Cập, và ông sống những năm cuối đời dười sự bảo bọc của Giu-se. Theo yêu cầu của ông, sau khi chết, ông được đưa về an táng ở Canaan, nơi Abraham (Áp-ra-ham) và Isaac (I-xa-ác) đã được an táng (St 37-50).
Jacobins
Tu sĩ Dòng Đaminh ở Pháp, nhóm cách mạng, người thuộc khuynh hướng dân chủ tiên tiến. Tên nguyên thủy được đặt cho các tu sĩ dòng Đaminh ở Pháp, do tu viện đầu tiên của họ ở miền bắc nước Pháp tọa lạc ở đường thánh Jacques (Gia-cô-bê), Paris, năm 1218. Trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, tu viện trở thành sở hữu của câu lạc bộ cực đoan Breton, do đó nhóm người này được gọi là Jacobins (người thuộc khuynh hướng dân chủ tiên tiến). Hiện nay từ ngữ này áp dụng cho mọi quan điểm chủ trương cách mạng.
Jacobites
Giáo phái Jacob. Là tổ chức của những người Syria theo lạc thuyết nhất tính, họ không chấp nhận giáo huấn của công đồng Chalcedon (451) về hai bản tính hiệp nhất trong một Ngôi vị của Chúa Kitô. Giáo phái lấy theo tên của Jacob Baradaeus, người huấn luyện họ trong Giáo hội quốc gia Syria. Một trong những phong tục nổi bật của họ là làm dấu Thánh giá với chỉ một ngón tay, để diễn tả niềm tin rằng Chúa Kitô chỉ có một bản tính, chứ không phải hai bản tính. Đôi khi từ ngữ "Jacobites" được áp dụng cho những người theo thuyết nhất tính ở nơi khác, chẳng hạn ở Ai Cập.
Jairus
Jairus, ông Gia-ia. Ông là trưởng hội đường tại Capernaum (Ca-phác-na-um) có con gái được Chúa Giêsu cho sống lại. Jairus mời Chúa Giêsu đến thăm nhà ông và chữa con gái ông. Trên đường đi có người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông là con gái ông đã chết rồi, nhưng Chúa Giêsu, có bà con của cô bé và các môn đệ Chúa đi theo, đã vào nhà ông và ra lệnh cho đứa bé trỗi dậy. Hồn đứa bé trở lại và nó đứng dậy ngay, trước sự kinh ngạc của những người hiện diện ở đó (Lc 8:41-42, 49-56; Mc 5:22-24, 35-43).
James, Epistle Of
Thư thánh Giacôbê (Gc). Truyền thống gán thư này cho thánh Giacôbê Hậu, “anh em của Chúa.” Thư được viết bằng tiếng Hi Lạp, và văn phong cùng ngôn từ là kiểu đặc trưng Do Thái, chứng tỏ rằng thư được nhắm lúc ban đầu đến người Do Thái trở lại đạo Công giáo. Thư nhấn mạnh đến cách sống luân lý của Kitô hữu, nhất là sự kiên vững trong gian nan thử thách, tôn trọng người nghèo, và nhu cầu kiềm chế miệng lưỡi của mình. Rõ ràng là thư nhấn mạnh đến bổn phận sống đức tin, chứ không chỉ đơn thuần tuyên xưng đức tin (Gc 2:14-26). Trong số các việc lành ràng buộc Kitô hữu, sự thực thi bác ái và tránh xung đột là ưu tiên (Gc 4:1-12). (Từ nguyên là hình thức Anh ngữ hóa của từ ngữ Do Thái cổ, Jacob, mặc dầu từ ngữ Tây Ban Nha là Jaime.)
James The Greater
Thánh Gia-cô-bê Tiền. Là con trai của ông Zebedee (Dê-bê-đê) và là anh của Gioan. Cả hai đều là Tông đồ; chỗ nào trong Tân Ước kể tên nhóm Mười Hai, tên hai người đều đi kèm với nhau. Chúa Giêsu gọi hai người là “con của thiên lôi” (Mt 10:3; Mc 3:17). Có một lần Chúa đã quở trách hai ông vì đề nghị bạo lực chống lại một số người Sa-ma-ri, khi những người này từ chối đón tiếp Chúa. Cả hai ông đều là ngư phủ và là bạn chài của Si-môn Phêrô, nhưng cả ba ông nhanh chóng đáp lời kêu gọi của Chúa Giêsu để trở thành người thu phục người ta (Lc 5:10-11, 9:53-56). Việc hai anh em được đặc biệt gần gũi với Chúa diễn tả qua việc hai người đều có mặt khi Chúa hiển dung (Mt 17:1-2) và đi với Chúa đến Vườn Gethsemane (Ghết-sê-ma-ni, Mt 26:37). Thánh Giacôbê bị Vua Hê-rô-đê ra lệnh chém đầu vào thời ban sơ của Giáo hội (Cv 12:2).
James The Less
Thánh Giacôbê Hậu, Giacôbê Thứ. Là con trai của ông Alphaeus (An-phê) và bà Maria (người phụ nữ có mặt trên đồi Gôn-gô-tha). “Thứ” hay “hậu” có nghĩa là “người trẻ tuổi hơn.” Giacôbê Hậu là một trong 12 Tông đồ (Cv 1:13). Ngài là anh của Joset (Giô-xết) và có thể của Matthew (Matthêu, Mc 15:40).
Jannes
Jannes, Gian-nê. Là một người phù thủy được thánh Phaolô gọi tên. Truyền thống Do Thái nói rằng Jannes và Jambres (Giam-rê) cố gắng chống lại ông Moses (Mô-sê) nhưng bị lộ là người phù thủy. Thánh Phaolô dùng tên họ để so sánh họ với những người cùng thời với Ngài, “họ là hạng người đầu óc lệch lạc, lòng tin không có gì vững chắc" (II Tm 3:8-9).
Japheth
Japheth, Gia-phét. Là con trai thứ ba của ông Noah (Nô-ê), người đã cùng với Shem (Sêm) và Ham (Kham) sống sót sau trận Hồng thủy trong con tàu. Theo sách Sáng thế (St), từ ba người này, “con cháu họ phân tán ra khắp mặt đất" (St 9:18-19). Japheth là thân phụ của Gomer (Gô-me), Magog (Ma-gốc), Javan (Gia-van), Tubal (Tu-van), và Meshech (Me-séc). Hậu duệ của họ là những người Ấn-Âu sống ở vùng Biển Đen (St 10:2-6).
Jared
Jared, Gie-rét. Ông là con trai của Mahalalel (Ma-ha-lan-ên), là thân phụ của ông Enoch (Kha-nốc), và là ông nội của Methuselah (Mơ-thu-se-lác). Các tên này được liệt kê trên danh sách dòng dõi của ông Adam trong sách Sáng thế (St). Jared thọ 962 tuổi (St 5:15-21).
Jasna Gora
Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora. Là Ðền thánh Ðức Mẹ quốc gia Ba Lan tại vùng Czestochowa, có một ảnh tượng nổi tiếng Ðức Mẹ ẳm Chúa Hài nhi. Jasna Gora, “Ðồi Ánh Sáng”, là địa điểm hành hương chính, đã được Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến kính viếng vào tháng 6-1979. Có nhiều chỗ nhắc đến đền thánh trong diễn văn và các bài viết của vị Giáo hoàng Ba Lan này, ngài nhắc tới “Ðức Mẹ Thiên Chúa Jasna Gora.” Ðịa điểm của ảnh tượng thánh trên đồi Czestochwa, miền trung nam Ba Lan, được phát sinh từ việc xây dựng một tu viện cho các tu sĩ Paulite tại đó từ năm 1382.
J.C.
J.C., Jesus Christus – Chúa Giêsu Kitô.
J.C.D.
J.C.D., Juris Canonici Doctor; Juris Civilis Doctor -- Tiến sĩ Giáo luật, Tiến sĩ Dân luật.
J.C.L.
J.C.L., Juris Canonici Licentiatus -- Cử nhân Giáo luật.
J.D.
J.D., Juris Doctor -- Tiến sĩ luật.
Jechoniah (Also Spelled Jeconiah, Jeconias, Jehoiachin)
Jechoniah (còn đọc là Jeconiah, Jeconias, Jehoiachin), Vua Giơ-hô-gia-khin. Là con trai và là người kế vị vua cha Jehoiakim (Giơ-hô-gia-kim) của Judah (Giu-đa, Gr 24:1). Ít lâu sau khi lên ngôi vào năm 598 trước Công nguyên, vua bị Nebuchadnezzar (Na-bu-cô-đô-nô-xo) bắt làm tù binh và đày đi Babylon cùng với gia đình và các thuộc hạ. Không có bằng chứng nói rằng vua được trả tự do, mặc dầu vua hưởng sự tự do lớn lao (II Sb 36:10). Sau 37 năm lưu đày, vua được người kế vị của Nebuchadnezzar ân xá và đưa ra khỏi tù, và được chăm sóc đối xử rất tốt trong quãng đời còn lại (II V 25:27-30).
Jehoshaphat
Jehoshaphat, Giơ-hô-sa-phát. Là vua của Judah (Giu-đa, khỏang năm 873-849 trước Công nguyên), kế vị vua cha là Asa (A-xa). Ông là người cai trị thận trọng khôn ngoan, từng bước củng cố quan hệ hòa bình với Israel và bảo đảm sự ổn định của Judah (II Sb 17:1). Vua chu du khắp đất nước, bổ nhiệm các thẩm phán và tư tế một cách khôn ngoan. Vua nhắc các thẩm phán: “ĐỨC CHÚA Thiên Chúa chúng ta không dung tha chuyện thiên vị bất công, chuyện nhận quà hối lộ" (II Sb 19:3-10). Trong gần 25 năm, vua cai trị Judah mà không có xáo trộn lớn nào (II Sb 20:31). Tuy nhiên những năm cuối đời lại thất bại, vì “Giơ-hô-sa-phát vua Giu-đa đã liên kết với Ahaziah (A-khát-gia) vua Ít-ra-en, một con người ăn ở gian ác" (II Sb 20:35). Khi vua băng hà, thái tử là Jehoram (Giơ-hô-ram) lên kế vị vua (II Sb 21:1).
Jehovah
Jehovah, Đức Chúa. Là chữ dịch chưa được sát của các chữ JHVH hoặc YHVH, phiên âm các chữ Do Thái cổ để chỉ danh thánh Chúa. Đúng là viết Jahweh hoặc Yahweh (Gia-vê, Đức Chúa.)
Jehovah-Yahweh
Jehovah–Yahweh, Jehovah là Đức Chúa. Đây là từ ngữ tiếng Anh của chữ Do thái cổ Yahweh. Khi Chúa hứa với Moses (Mô-sê) rằng Ngài sẽ nuôi dân của Moses, Chúa kết luận với câu nói “các ngươi sẽ biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi" (Xh 16:12). Tên Jehovah phát triển hình dạng được sử dụng nhiều nhất khi Chúa giao tiếp với dân Do Thái, còn chữ CHÚA được sử dụng khi có liên quan đến dân ngọai. Lời khuyên “Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng" (Xh 20:7) làm cho dân Do thái không phát ngôn danh thánh này, nhưng dùng từ thay thế là "Adonai," nghĩa là “Chúa”. Các tên khác được dùng thay cho tên Chúa trong Cựu Ước là El hoặc Elohim hoặc El Shaddai, tất cả đều được dịch là “Đức Chúa” trong tiếng Việt.
Jehu
Jehu, Giê-hu. 1. được liệt kê là một trong nhiều anh hùng ủng hộ David (Đa-vít) trong các cuộc chiến, họ được mô tả là “họ thuộc số những anh hùng đã từng tham chiến, biết bắn cung cả tay phải lẫn tay trái, dùng đá hay dùng tên cũng được" (I Sb 12:1-2); 2. là tên một ngôn sứ, con trai của Hanani (Kha-na-ni), người đã tố cáo Vua Baasha (Ba-sa) của Israel đã dẫn đưa dân vào đường tội lỗi, và đưa ra lời sứ ngôn rằng vua và gia đình sẽ bị tiêu diệt do cơn giận của Đức Chúa (I V 16:1-4); 3. là vua Jehu, con trai của Jehoshaphat (Giơ-hô-sa-phát), người đã được ngôn sứ Elisha (Ê-li-sa) linh ứng để tấn công và tiêu diệt Vua Jehoram (Giơ-hô-ram) của Israel, do vua này đã vi phạm luật của Đức Chúa. Cuộc tàn sát sau đó còn nhắm đến Jehoram, thái hậu Jezebel (I-de-ven), Vua Ahaziah (A-khát-gia) của Judah (Giu-đa), tất cả con trai và những người ủng hộ Vua Jehoram và Ahab (A-kháp). Sau đó Vua tập hợp tất cả các tín đồ thờ thần ngoại giáo Baal (Ba-an) vào đền thờ với cớ là dâng hy lễ cho thần. Do không thể chạy thóat được, tất cả họ đều bị sát hại. Sau cuộc tắm máu này, triều đại của Vua Jehu trên Israel kéo dài 28 năm, nhưng không nổi bật về đường nhân đức (II V 9, 10). Rồi Vua cũng đã không dứt bỏ các tội phạm đến Đức Chúa, mà cũng vì chính các tội này ông đã giết chết vị tiền nhiệm của mình (II V 10:31).
Jephthah
Jephthah, Gíp-tác. Là con trai của Gilead (Ga-la-át), nhưng mẹ ông là một gái điếm và các con trai khác của ông Gilead đã tách rời ông ra, để ông không hưởng phần gia nghiệp. Ông trở thành một dũng sĩ ở đất Tob (Tốp), và được nhìn nhận như một chiến sĩ dũng mãnh (Tl 11:1-3). Ông dũng lực như thế nên khi người Israel giao chiến với người Ammonites (Am-mon), người dân xin ông trở về và thành người lãnh đạo của họ (Tl 11:6-11). Ông nắm quyền lãnh đạo, xin Đức Chúa phù hộ, và hứa sẽ dâng Chúa một người làm của lễ tòan thiêu nếu ông chiến thắng. Ông đã chiến thắng vinh quang, nhưng nghiệt ngã thay, người con gái duy nhất của ông đáp ứng mọi điều kiện ông đặt ra để làm của lễ tòan thiêu, và ông cảm thấy buộc phải giữ lời hứa bằng cách sát tế con gái mình, mặc dầu người Israel xem con người làm lễ tế là vi phạm luật của Đức Chúa (Tl 11:30-40). Tuy nhiên con gái ông đồng ý, bởi vì Jephthah lại thắng lớn trước quân người Ephraimite (Ép-ra-im, Tl 12:1-6). Trong sáu năm sau đó, ông trở thành thủ lãnh ở Israel và được mọi người kính trọng. Khi ông qua đời, ông được chôn cất tại thị trấn quê hương của ông là thành Mizpah (Mít-pa), trong vùng Gilead (Ga-la-át).
Jeremiah
Jeremiah, ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Là một trong ba ngôn sứ lớn. Jeremiah sống trong thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, và chứng kiến việc thành Jerusalem bị chiếm và bị tàn phá. Ông sống qua sáu đời vua của Judaea (Giu-đa) là Amon (A-môn), Josiah (Giô-si-gia-hu), Jehoahaz, Jehoiakim (Giơ-hô-gia-kim), Jehoiachin (Giơ-hô-gia-khin), và Zedekiah (Xít-ki-gia-hu). Đây là một thời kỳ có nhiều mưu đồ và rối lọan, với Assyria, Babylon, và Ai Cập đấu tranh tìm quyền tối cao. Nước Judaea bé nhỏ nằm ở giữa và cố gắng duy trì nền độc lập của mình. Jeremiah là một ngôn sứ được huấn luyện từ thời còn bé, theo chính lời kể của ông. Khi cậu phản đối Đức Chúa, Đức Chúa trả lời: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói” (Gr 1:7). Ông liên tục truyền đạt lời giận dữ và tức giận của Đức Chúa với dân Ngài, than phiền sự bội giáo của họ, lối sống vô luân của họ, tính giả dối và thiển cận của các thủ lĩnh. Thậm chí dân thành Anathoth (A-na-thốt) của ông cũng tức giận với các lời tố cáo của ông, và đe dọa giết ông (Gr 11:21). Khi ông đưa ra lời kết án của Đức Chúa với các tập tục ngọai giáo ở thành Topheth (Tô-phét), ông Pashur (Pát-khua), tổng quản đốc nhà Đức Chúa, đã ra lệnh đánh đòn ông và cùm ông tại cửa Benjamin (Ben-gia-min, Gr 20:2). Sau khi ông đọc cho thư ký Baruch (Ba-rúc) viết vào cuộn sách, than phiền các tội lỗi của Vua Jehoiakim, Vua đã thiêu rụi cuộn sách trong lò lửa, và không bị đánh động bởi các lời quở trách của ngôn sứ. Ngôn sứ liền dũng cảm đọc cho thư ký viết cuộn sách lần nữa, và ghi thêm lời kết án vua nữa (Gr 36:32). Thời Vua Zedekiah, Jeremiah hành động theo lệnh của Đức Chúa, khuyên Vua đầu hàng người Chaldean (Can-đê), và bảo đảm rằng vua sẽ được đối xử tốt. Zedekiah không nghe theo lời khuyên. Khi quân Chaldean chiếm thành Jerusalem, như Jeremiah đã tiên báo trước, đền vua bị phóng hỏa đốt, tường thành bị triệt hạ, và cả hòang gia bị giết chết hết (Gr 39). Cho đến năm cuối cùng của đời mình, Jeremiah tiếp tục là tiếng nói của Đức Chúa cho đến khi ông qua đời khỏang năm 587 trước Công nguyên, có lẽ tại Ai cập.
Jeroboam I
Jeroboam, Vua Gia-róp-am. Là vua đầu tiên của Israel (Ít-ra-en) sau khi vương quốc của Solomon (Sa-lô-môn) bị chia cắt trong triều đại của con ông, Rehoboam (Rơ-kháp-am), vào thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Jeroboam là một người phụ trách toàn thể dân công dưới triều vua Solomon, nhưng đã nổi loạn do sự chuyên chế của Vua và trốn sang Ai Cập (I V 11:26-40). Nhưng không có sự cải thiện nào khi thái tử Rehoboam lên ngôi, do đó người dân nổi loạn và đưa Jeroboam lên ngôi vua. Lãnh thổ của Rehoboam chỉ còn lại vùng Judah (Giu-đa) và Benjamin (Ben-gia-min, I V 12) mà thôi. Sự ly khai bị mở rộng do các khác biệt tôn giáo. Jeroboam lập ra các đền thờ ở Bethel (Bết Ên) và Dan (Đan) nhằm làm mất ảnh hưởng của Jerusalem vào cuộc sống của người dân Israel. Nhưng các tác giả Cựu Ước đều nhất trí lên án “đường lối xấu xa của Jeroboam", và cho rằng vua đã làm cho nước Israel chống lại Chúa, bằng cách khuyến khích các lễ nghi ngoại giáo (I V 13).
Jeroboam II
Jeroboam II, Vua Gia-róp-am II. Là con trai của Vua Joash (Giô-át) của Israel. Jeroboam cai trị Vương quốc miền Bắc từ năm 783 đến năm 743 trước Công nguyên. Đây là một triều vua lâu dài và thịnh vượng. Nhiều chiến thắng quân sự quan trọng và sự bất ổn tương đối trong triều đình Assyrian (Át-sua) đã giúp vua Jeroboam bành trướng lãnh thổ, và kiểm sát đất nước vững chắc. Nhưng các ngôn sứ Hosea (Hô-sê) và Amos (A-mốt) than phiền điều kiện luân lý và tôn giáo của đất nước (II V 14:23-29). Triều đại này minh họa hiện tượng lịch sử thường lặp lại về thịnh vượng kinh tế làm hư hỏng đời sống tinh thần của người dân.. “Vì ĐỨC CHÚA sẽ kiện dân cư xứ này: Quả thật trong xứ này, chẳng có tín thành, chẳng có ân nghĩa, cũng chẳng có sự hiểu biết Thiên Chúa…" (Hs 4:1-2).
Jerusalem
Jerusalem, Giê-ru-sa-lem. Là thành cổ ở Palestine, là trung tâm chính trị và tôn giáo của dân Do thái, nằm trên đỉnh một dãy núi chạy băng Palestine từ bắc xuống nam. Nguyên thủy thành được gọi tên là Salem (Sa-lem), là thủ đô của Vua Melchizedek (Men-ki-xê-đê) vào khoảng năm 2100 trước Công nguyên (St 14). Lần đầu tiên Jerusalem được nhắc đến trong sách Joshua (Giô-suê; Gs 10, 15), người dân thành được gọi là người Jebusites (Giơ-vút). Khi Đất Hứa được phân chia nhỏ, Jerusalem được chỉ định cho chi tộc Benjamin (Ben-gia-min). Các nhà lãnh đạo nổi tiếng nhất ở đây là Vua David (Đa-vít), người đã đem Hòm Bia Giao ước vào thành, và con trai ngài là Solomon (Sa-lô-môn), người xây dựng Đền thờ đầu tiên. Một Đền thờ thứ hai được xây dựng trong thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, và Đền thờ thứ ba (cũng là sau cùng) là công trình xây dựng của Vua Herod (Hê-rô-đê) Đại đế, người cai trị với tư cách là một chư hầu của đế quốc Roma từ năm 37 đến năm 4 trước Công nguyên. Lịch sử Kitô giáo của Jerusalem bắt đầu với sứ vụ ngắn ngủi của Đấng Cứu Chuộc, và sứ vụ đạt đỉnh điểm trong Cái chết, Phục sinh và Lên trời của Chúa. Các Tông đồ đã sống và dạy đạo ở đây một thời gian sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, và họp Công đồng chung đầu tiên tại Jerusalem vào khoảng năm 49. Thánh Tông đồ Giacôbê Hậu là Giám mục tiên khởi của Jerasalem, nơi ngài bị Thượng hội đồng kết án và chịu tử vì đạo năm 62.
Jerusalem, Fall Of
Thành Jerusalem sụp đổ. Là sự phá hủy thành thánh năm 70 sau cuộc bao vây dài 143 ngày, trong đó, theo Tacitus (Histories, V, 13), 600.000 người Do Thái đã chết, nhiều người bị đóng đinh trên thập giá. Hoàng đế Roma Titus bình địa các tòa nhà và phá hủy đền thờ. Người ta tin rằng ngôi nhà diễn ra sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống và diễn ra Bữa Tiệc ly đã không bị phá hủy, và trở thành nhà thờ Kitô giáo đầu tiên.
Jesse, Root Of
Gốc Jesse, gốc tổ Gie-sê. Là một biểu tượng của Chúa Kitô, “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ" (Is 11:1). Thánh Ambrose giải thích gốc như là gia đình của người Do thái, cọng hoa là Đức Maria và hoa là Chúa Kitô. Điệp ca chữ O lớn trong ngày 19-12 hàng năm được hát là “Lạy Đức Kitô là mầm non từ gốc tổ Gie-sê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ, trước Nhan Thánh, vua quan đều câm miệng, cả muôn phương hằng cầu khẩn Danh Ngài, xin đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm chi.” Gốc tổ thường được trình bày như một cây trổ bông, mang ngôi sao sáu cạnh của Israel ở thân đế, và Thánh giá như là sự trổ hoa đầy đủ ở đỉnh.
Jesse Window
Cửa sổ Jesse, cửa sổ Gie-sê. Là một cửa kính màu trình bày gia phả của Chúa Giêsu. Biểu tượng là như một cây có nhiều nhánh và có nhiều kiểu dáng. Chúa Kitô ở trên ngọn cây, với các nhân vật chính trong gia phả được vẽ lên các cành bên dưới. Tên cửa số phái sinh từ chữ Jesse, thân phụ của Vua David (Đa-vít), là gốc của cây (I Sm 16:18-22; Is 11:1).
Jesus
Chúa Giêsu. Là danh thánh của Chúa chúng ta. Đây là tên Latinh của chữ Hi Lạp Iesous, chữ Do thái cổ là Jeshua hoặc Joshua, có nghĩa là “Đức Chúa là Đấng cứu độ”. Đây là danh thánh mà qua đó Chúa Cha được khẩn cầu, và nhờ đó các Tông đồ làm phép lạ (Cv 3, 6). Trong cách dùng tiêu chuẩn, tên "Chúa Giêsu" được áp dụng cho Người Con của Đức Mẹ Maria, và cũng là Con Thiên Chúa; để phân biệt với “Chúa Kitô”, vốn qui chiếu đến vai trò Thiên sai của Ngài như là Đấng chu toàn mọi lời sứ ngôn xưa.
Jesus Christ The Conqueror
Chúa Giêsu Kitô Chiến thắng. Là một danh hiệu cổ của Chúa Kitô, có ý nghĩa là Chúa chiến thắng tội lỗi, sự chết và thần dữ. Danh hiệu này thường xuất hiện kiểu viết tắt IC XC NIKA, trong đó I và C là chữ đầu và chữ cuối của từ ngữ Hi Lạp Ihcuc (Jesus, Giêsu); X và C là chữ đầu và chữ cuối của từ ngữ Xrictoc (Christ, Kitô); và nika là từ ngữ Hi Lạp có nghĩa là chiến thắng.
Jesus People
Người dân Chúa Giêsu. Còn gọi là Kitô hữu Đường phố, họ là những người cổ vũ Phong trào Chúa Giêsu. Họ nhấn mạnh đến mối quan hệ cá nhân khắng khít với Chúa Giêsu Kitô, nên họ rao giảng Chúa ở mọi nơi và cho mọi người, nhưng đặc biệt cho bạn bè trẻ tuổi ở các thành phố lớn.
Jesus Prayer
Kinh cầu Chúa Giêsu. Là một kinh cầu khá phổ biến nơi Kitô hữu Đông phương. Lời kinh là “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Các Kitô hữu đạo đức đọc kinh này đều đặn ban ngày và ban đêm, và họ dùng kinh lam cơ sở cho suy niệm của họ.
Jethro
Jethro, ông Gít-rô. Ông là tư tế của một bộ tộc gọi là Kenite. Moses (Mô-sê) chăn chiên cho ông Jethro trong 40 năm gần Núi Horeb (Khô-rếp, Xh 3:1-6). Chính trong thời gian này Đức Chúa đã hiện ra với Moses và trao cho ông sứ mạng dẫn đưa dân Chúa ra khỏi Ai cập. Ông cưới cô Zipporah (Xíp-pô-ra), con gái của Jethro, và nàng sinh cho ông hai con trai là Gershom (Ghéc-sôm) và Eliezer (Ê-li-e-de, Xh 18:3-4).
Jewish Decalogue
Mười Điều Răn Do Thái. Mười Điều Răn là một phần quan trọng của Do Thái giáo. Chỉ có 120 từ ngữ Do Thái cổ, Mười Điều Răn có ảnh hưởng sâu đậm nhất lên đời sống luân lý và đời sống xã hội của nhân loại, hơn bất cứ nhóm luật nào khác trong lịch sử. Có hai bản văn Mười Điều Răn trong Kinh thánh: bản văn của thượng tế (Xh 20:1-17) và bản văn trong sách Đệ nhị luật (Đnl 5:6-21). Hai bản văn khác nhau ở hai điểm. Trong sách xuất hành (Xh) việc giữ ngày Sabbath (sa-bát) dựa vào các động cơ tôn giáo, cụ thể là việc Chúa nghỉ ngày thứ bảy sau khi sáng tạo muôn lòai; trong sách Đệ nhị luật, động cơ là nhân đạo hơn. Cũng trong sách Xuất hành, việc cấm ham muốn xếp vợ người khác là cũng như tài sản của người khác, trong khi trong Đệ nhị luật, vợ người khác được xếp riêng ra. Bốn điều răn đầu tiên (trong bản văn Công giáo là ba điều răn đầu tiên) nói về bổn phận của con người đối với Chúa; còn sáu điều răn sau nói về bổn phận đối với tha nhân. Trong thời kỳ Đền thờ, các Điều răn tạo nên phần đầy đủ của buổi lễ tôn giáo, được đọc hàng ngày ngay trước Shema, tức bản tuyên tín Do Thái. Các Điều răn rất được kính trọng trong đạo Do Thái ngày nay. Khi đọc các Điều răn trong hội đường, cộng đòan đứng lên và các Điều răn được đọc với cung giọng trang trọng đặc biệt. Lễ Do thái Shavuot, tức lễ Ngũ tuần (bảy tuần lễ sau ngày đầu tiên của lễ Vượt Qua), kỷ niệm việc Chúa ban Mười Điều Răn trên Núi Sinai, và việc long trọng đọc bản văn Mười điều răn là đỉnhh cao của phụng vụ trong ngày lễ ấy.
Jews
Người Do Thái. Là những người theo Do Thái giáo như là một tôn giáo và như là một dân tộc. Nguyên thủy tên này chỉ dành cho các công dân vương quốc Judah (Giu-đa). Nhưng sau cuộc lưu đày Babylon, tên này trở thành tên chung cho chủng tộc phát sinh từ Jacob (Gia-cóp) và là tín hữu tôn giáo Moses (Mô-sê).
Jezebel
Jezebel, bà I-de-ven. Hòang hậu Jezebel là phu nhân của Vua Ahab (A-kháp) nước Israel (năm 869-850 trước Công nguyên). Là một tín đồ sùng bái thần Baal (Ba-an), bà Jezebel làm hư hỏng triều đình của Ahab bằng cách đưa tới Israel hàng trăm ngôn sứ của thần Baal từ quê hương Phoenician của bà (I V 18:19). Bà đã sát hại nhiều ngôn sứ Israel trung thành, khi họ phản đối những sự trái luân lý mà bà cổ vũ (I V 18:13). Ngôn sứ Elijah (Ê-li-a) coi thường bà và thách thức các ngôn sứ của thần Baal cho một cuộc tranh tài trên Núi Carmel (Các-men), để chứng tỏ sự vượt trội của Đức Chúa trên thần Baal (I V 18:21-46). Ngôn sứ thắng cuộc thi nhưng ông phải trốn vào rừng vắng. Rồi bà Jezebel bị sát hại cách khủng khiếp (II V 9:30-37). Tên của bà được dùng để tượng trưng cho sự độc ác, tính độc hại.
J.M.J.
J.M.J., Jesus, Maria, Joseph – Giêsu Maria Giuse.
Jo., Joann.
Jo., Joann., Joannes -- Gioan.
Joab
Joab, ông Giô-áp. Thủ lãnh quân đội vua David (Đa-vít). Ông là người được David chú ý tới khi ông tỏ ra xuất sắc trong trận chiến với quân người Jebusite (Giơ-vút), với đỉnh cao là chiếm thành Jerusalem (I Sb 11:6). Ông tỏ ra là một thủ lĩnh có tài nhưng khát máu. Ông sát hại Abner (Áp-ne), một vị tướng Vương quốc phương Bắc, và việc này gây sốc cho David nên David tổ chức đám tang Abner cách trọng thể (II Sm 3:26-34). Joab cũng có nhiều chiến thắng trước quân Syria và quân Ammonite (Am-mon). Ông cố gắng duy trì hòa bình giữa David và hòang tử phản lọan của David là Absalom (Áp-sa-lôm, II Sm 18:14). Một dịp khác, ông gây ra cái chết của quan Uriah (U-ri-gia) theo yêu cầu của David để tạo điều kiện dễ dàng cho vua cưới góa phụ Bath-Sheba (Bát Se-va, II Sm 11:6-25). Joab có quyết định tai hại khi ủng hộ Adonijah (A-đô-ni-gia-hu) chống lại Solomon (Sa-lô-môn). Sau này khi Solomon lên ngôi vua, vua đã ra lệnh hạ sát Joab (I V 2:34).
Joakim
Joakim, Giô-gia-kim. Là một thượng tế ở Jerusalem (Giê-ru-sa-lem), và tên ông xuất hiện trong sách Judith (Giu-đi-tha, Gđt). Trong khi người Israel (Ít-ra-en) sợ hãi chờ đợi cuộc tấn công của Holofernes (Hô-lô-phéc-nê), đại tướng chỉ huy quân Assyrian (Át-sua), ông Joakim gợi ý rằng các nam nhân cần trú đóng tại các đường đèo mà quân Assyrian sẽ đi qua (Gđt 4:5-7), nhưng kế họach của ông đã không cần thiết nữa. Hành động phi thường của bà Judith trong việc sát hại tướng Holofernes, và đem về chiến thắng lớn cho người Israel, đã dẫn đến cảnh ăn mừng chiến thắng thật vui tươi hớn hở, trong đó ông Joakim đã tôn vinh bà Judith: “Bà làm cho Giê-ru-sa-lem hãnh diện, cho Ít-ra-en vinh hiển, cho giống nòi chúng ta được vinh dự lớn lao!" (Gđt 15:10).
Joanna
Joanna, bà Gio-an-na. Bà là vợ ông quản lý của vua Herod Antipas (Hê-rô-đê Antipas, Lc 8:3). Bà được Chúa Giêsu hóan cải, và là một trong các phụ nữ đi theo Chúa và các tông đồ, khi các ngài đi rao giảng từ thành này qua thành nọ. Bà là một trong ba phụ nữ đến mộ Chúa vào sáng chủ nhật Phục Sinh để xức dầu thơm cho Chúa, và nghe các thiên thần loan báo rằng Chúa Giêsu đã sống lại ở giữa kẻ chết (Lc 24:1-11). (Từ nguyên Hi Lạp ioana, từ chữ Do thái cổ yochanan, Đức Chúa nhân từ.)
Joan, Popess
Nữ giáo hòang Joan. Là tên của một nhân vật truyền thuyết xuất hiện trong lịch sử như là một nữ giáo hòang. Có một quy chiếu đến bà trong một ký sự khỏang năm 1250, nhưng trong danh sách giáo hòang thời ấy không hề có chỗ cho bà, hoặc không có cơ sở nào để hỗ trợ việc xuất hiện của bà. Hình ảnh của bà không bao giờ được đặt trong danh sách chân dung các Giáo hòang, và sách Liber Pontificalis (Tiểu sử các Giáo hòang) không hề nêu tên bà. Bà chỉ xuất hiện như một truyền thuyết trong văn học dân gian Roma mà thôi.
Job
Job, ông Gióp, sách Job (Gióp, G). Là nhân vật chính trong cuốn sách mà nhiều nhà phê bình cho là cuốn sách được viết đẹp nhất của tòan bộ Kinh thánh. Không rõ tác giả cuốn sách này là ai. Từ bằng chứng nội tại, người ta đoán tác giả là một người Do Thái đã viết sách này khoảng giữa năm 600 và năm 400 trước Công nguyên. Sách Gióp (G) là một cuộc thảo luận triết học sâu sắc về các đau khổ con người, với ông Job và nhiều bạn bè ông đã lần lượt đưa ra các giải pháp khả hữu cho vấn đề sự lành và sự dữ. Các nỗ lực của họ là không có kết quả, khi họ đi tìm cách xác định các lý do Đức Chúa cho phép các sự sỉ nhục gây đau buồn cho người tín hữu trung kiên. Ông Job và các bạn hữu nhận thức sự khờ dại của niềm tin bình dân rằng sự lành và sự dữ sẽ được trả công ngay ở đời này. Cuối cùng, chỉ còn lại một chủ đề nổi trội: đó là lòng tin vào Chúa phải là bền bĩ, thậm chí cả khi lý trí và sự hiểu biết đều thất bại (sách Gióp, G).
Joel
Joel, ông Giô-en, ngôn sứ Giô-en. 1. là con trai cả của Samuel (Sa-mu-en), thủ lãnh Israel. Ông cũng được thân phụ bổ nhiệm làm thủ lãnh, nhưng không được dân chúng kính trọng. Ông nhận quà hối lộ và làm sai lệch công lý. Các trưởng lão phản ứng với Samuel, và thúc giục ông chọn lựa một vị Vua mới (I Sm 8:1-5). Miễn cưỡng lúc đầu, nhưng rồi ông được lệnh Đức Chúa phải thi hành lời yêu cầu này. Saul (Sa-un) trở thành tân vương của Israel (I Sm 11:15); 2. Là con trai của Pethuel (Pơ-thu-ên), trở thành một ngôn sứ ở Judah (Giu-đa) và viết một trong các cuốn sách của Cựu Ước, gọi là sách Joel (Giô-en, Ge). Ông được nhắc đến như là một ngôn sứ của lễ Ngũ Tuần, bởi vì ông nhấn mạnh việc Chúa Thánh Thần sẽ đến (Cv 2:17). Thánh Phêrô trích dẫn nhiều câu của sách Joel trong sách Công vụ Tông đồ (Cv) về ngày lễ Ngũ Tuần, trong đó có lời hứa quen thuộc “Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến." (Ge 3:1).
John Mark
Gioan Marcô. Là tác giả của Tin Mừng thứ hai. Nhiều lần trong sách Công vụ Tồng đồ (Cv), ông được nhắc đến với tên Gioan Marcô (Cv 12:12, 12:25, 15:37). Hai lần ông được nhắc đến với tên Gioan mà thôi (Cv 13:5, 13:13). Nhưng thông thường các người đọc Kinh thánh nghĩ ông chính là Marcô.
John The Apostle
Thánh Gioan Tông đồ. Con trai của ông Zebedee (Dê-bê-đê) và là anh trai của một Tông đồ khác, là James (Gia-cô-bê). Cả hai làm nghề đánh cá và thuộc nhóm người đầu tiên được kêu gọi đi theo Chúa Giêsu (Mc 1:19). Mẹ hai ông có thể là bà Salome (Sa-lô-mê), chị em với thân mẫu Chúa Giêsu – do đó hai người là anh em họ với Chúa Giêsu (Ga 19:25). Có thể khẳng định chắc rằng Gioan là “môn đệ thương mến,” mặc dầu không chỗ nào trong Tân Ước nêu rõ tên ngài. Gioan ngồi gần Chúa nhất trong Bữa Tiệc Ly (Ga 13:23), và chính Gioan (Tông đồ duy nhất hiện diện trên đồi Gôn-gô-tha) được Chúa trao phó thân mẫu Chúa (Ga 19:26-27). Trong nhiều dịp, Gioan được trao một chỗ đứng đặc biệt. Ngài được phép đi theo Chúa Giêsu đến nhà ông Jairus (Gia-ia), khi con gái ông này được Chúa cho sống lại. Gioan có mặt trong cuộc Hiển Dung của Chúa (Mt 17:1-2). Sau cùng, ngài là một trong ba môn đệ đi với Chúa vào vườn Gethsemane (Ghết-sê-ma-ni, Mc 14:33). Thật là thích hợp khi ngài cùng với Phêrô vội chạy đến mồ Chúa vào sáng Phục sinh, và là người đầu tiên công bố niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh (Ga 20:1-10). Nhiều qui chiếu đến ngài được ghi trong sách Công vụ Tông đồ (Cv). Ngài có mặt ở phòng trên với các Tông đồ sau khi Chúa Lên Trời (Cv 1:13). Ngài đi với thánh Phêrô khi người què được chữa lành trong Đền thờ (Cv 3:1-10). Một lần khác ngài đi với thánh Phêrô để cầu nguyện cho người Sa-ma-ri nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần (Cv 8:14-17). Lẽ tất nhiên sự ghi nhớ bền vững cho công trình của ngài chính là các sách ngài viết trong Kinh thánh. Ba lá thư ngắn được gán cho ngài là tác giả, do văn phong và giáo lý trong đó là rất gần gũi với cuốn Tin mừng thứ tư. Sách Khải huyền (Kh), cuốn cuối cùng của Tân Ước, được viết gần cuối thế kỷ thứ nhất, được cho là của ngài. Cũng vậy, Tin mừng thứ tư ghi dấu ấn tinh thần và văn phong của thánh Gioan. Rõ ràng đây là công trình của một người sống gần gũi Chúa Giêsu, một người chứng kiến sứ vụ của Chúa, và một người yêu mến Chúa mạnh mẽ. Văn phong và từ vựng là của người Sêmita. Tác giả rất quen thuộc với phong tục tập quán và địa lý của Palestine. Mối quan hệ của Gioan với Phêrô và Giacôbê là rất có ý nghĩa. Gioan phải là tác giả của Tin mừng thứ tư. Một số người cho rằng ngài đã chịu tử vì đạo cùng với anh trai mình vào năm 44, nhưng nếu đúng là như vậy thì ngài không thể viết Tin mừng hay sách Khải huyền, vốn không được viết vài năm sau đó được. Năm 1907, Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng bác bỏ điều cho rằng các lập luận chống lại việc thánh Gioan là tác giả Tin mừng là hợp lý. Sức mạnh của bằng chứng nói rằng ngài chính là Tông đồ duy nhất không tử vì đạo. Chắc rằng ngài qua đời vào cuối thế kỷ thứ nhất. (Từ nguyên Hi Lạp iôann_s, từ chữ Do Thái cổ yochanan, Đức Chúa nhân từ.)
John The Baptist
Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là con trai ông Zechariah (Da-ca-ri-a) và bà Elizabeth (Ê-li-sa-bét), hơn Chúa Giêsu vài tháng tuổi và được tiền định trở thành tiền hô của Chúa (Lc 1:36). Luôn là một hình ảnh khắc khổ, ngài được các thánh Tông đồ xem như là một ngôn sứ Elijah (Ê-li-a) tái nhập thế chuẩn bị đường cho người ta đón nhận Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về Gioan Tẩy Giả. (Mt 17:12-13). Gioan sống cuộc đời khổ hạnh trong hoang địa miền Judae (Giu-đê) để chuẩn bị cho sứ vụ trong vùng đất gần sông Jordan (Gio-đan). Ngài liên lỉ rao giảng một phép rửa tỏ lòng hối cải để được ơn tha tội (Lc 3:3), và trở thành, như lời ngôn sứ Isaiah (I-sai-a) “có tiếng hô trong sa mạc” (Is 40:3). Nhiều người có ấn tượng tốt với ngài đến nỗi cứ tưởng ngài là Đấng Mê-si-a. Tuy nhiên ngài xác minh rõ ràng rằng “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa" (Lc 3:16). Chúa Giêsu luôn đề cao ngài với những từ ngữ hay nhất: “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan" (Lc 7:28). Người dân bình thường cư xử với ngài một cách kính trọng, nhưng người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông (Lc 7:30). Nhưng chắc chắn họ có một tiền lệ xuất sắc! Chính Chúa Giêsu đã xuất hiện trước mặt Gioan và xin chịu phép rửa. Gioan cố gắng can ngăn Chúa do nhận thấy mình không xứng đáng, tuy nhiên Chúa Giêsu đã nài nỉ và thánh Gioan làm phép rửa cho Chúa (Mt 3:13-15). Vua Herod (Hê-rô-đê) Antipas giam Gioan vào ngục, vì ngài can đảm tố cáo hôn nhân bất hợp pháp của vua với bà Herodias (Hê-rô-đi-a). Bà dùng con gái mình để cho Herod sập bẫy của bà và Herod hứa tặng thưởng cho con bà, cô gái này liền đưa ra lời xin và sau đó tiếp nhận đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên cái mâm (Mt 14:3-12).
Jonah
Jonah, ngôn sứ Giô-na, sách Giô-na (Gn). Là một ngôn sứ Do Thái, con trai của Amittai (A-mít-tai). Không như sách của các Ngôn sứ Nhỏ khác, cuốn Jonah ngắn (chỉ có bốn chương) là sách tường thuật hơn là nói sứ ngôn. Mặc dầu ngôn sứ Jonah sống trong thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, cuốn sách này chưa được viết cho đến thế kỷ thứ năm. Để tránh nhiệm vụ được Đức Chúa trao phó, Jonah đã trốn trên một con tàu nhưng cơn bão dữ dội đã vất ngài xuống biển và bị một con cá lớn nuốt mất. Sau ba ngày, ngài được vất lên bờ biển, và do bị trừng trị thích đáng, ngài đi đến thành Nineveh (Ni-ni-vê) để làm nhiệm vụ đặc biệt – đó là cảnh báo dân thành này về ngày tận số của họ. Họ ăn năn sám hối đến nỗi Đức Chúa nguôi cơn giận và tai họa được tránh cho họ. Nhưng rồi Jonah giận dữ vì thấy việc rao giảng công hiệu của mình lại bị phủ nhận. Ngài cần học biết rằng lòng nhân từ và tình yêu của Chúa là cao hơn tất cả. Câu chuyện trên dùng một nhân vật có thực để dạy một bài học luân lý: lòng Chúa xót thương ở trong tầm tay con người, miễn là con người muốn sám hối ăn năn.
Jonathan
Jonathan, Giô-na-than. Ông là con trai của Saul (Sa-un), Vua nước Israel (Ít-ra-en). Ông là người nổi bật trong truyện Kinh thánh nhờ tình bạn trung thành và không ích kỷ của ông với David (Đa-vít). Nhưng mỉa mai thay, khi David lên ngôi kế vị Saul, vua cũng bị nhận những điều mà người ta thường đã làm cho Jonathan (II Sm 5:4-5). Khi Saul còn sống, Saul ghen tị với các chiến công của David và sự nổi tiếng của David đối với dân, đến nỗi nhiều lần ông tìm cách sát hại David. Saul sai David đi giao chiến, với hy vọng David sẽ chết đi (I Sm 18:25). Chính ông đã tấn công David bằng một cây giáo. Nhưng ông không hề thành công (I Sm 19:10). Trong mọi âm mưu này, Jonathan rất khó xử giữa sự hận thù của thân phụ và tình bạn thắm thiết với David. Tuy nhiên Jonathan không hề lay chuyển trong việc bảo vệ David và cảnh báo với David về các âm mưu của thân phụ (I Sm 20). Sau cùng, vua tử trận trong trận chiến ở Gilboa (Ghin-bô-a); Jonathan và các anh em mình cũng bị giết chết hết (I Sm 31:6). David làm tang lễ và đọc văn tế cho cả vua Saul và Jonathan, nhưng nỗi buồn đau của ông là lớn hơn cho người bạn một mực trung thành với mình: “Giô-na-than, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ." (II Sm 1:26). Lời văn tế thật là xứng đáng cho Jonathan.