Ngày 21-08-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy tuyên xưng đức tin bằng chính cuộc sống
Lm Jude Siciliano OP
08:03 21/08/2008
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN A

Isaia 22: 19-23; Tv: 67; Roma 11: 33-36; Matthêu 16: 13-20

Anh chị em thân mến,

Khi hỏi thánh Phêrô: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?", Chúa Giêsu không đợi ông trả bài bằng một chuỗi những tín điều. Ngài không bảo ông đọc kinh Tin Kính như chúng ta đọc trong lễ Chúa nhật. Điều tuyên xưng đức tin về Thiên Chúa trong kinh tin kính là điều mà các giáo dân thời đầu đặt ra để đối phó với những vấn nạn đã xảy ra trong các giáo hội sơ khai trong những vùng mới truyền giáo. Nên kinh tin kính cùng với các tín điều được hệ thống lại sau đó.

Không, Chúa Giêsu không đòi hỏi Phêrô đặt ra một công thức Kitô-học. Rõ là ngay từ đầu câu hỏi " Còn anh em..." Chúa Giêsu muốn Phêrô tuyên xưng đức tin của mình. Thánh Phêrô có tin Chúa Giêsu không? và Phêrô tin gì về Chúa Giêsu? Trong kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu, và bởi ơn Chúa ban, Phêrô đã tin được rằng Chúa Giêsu là lời Thiên Chúa mặc khải cho trần gian. Phêrô đặt thành định đề những tín điều của giáo hội về Chúa Kitô. Những định đề đức tin được gom góp lại, viết ra để dạy tân tòng, nhưng trước tiên Phêrô tuyên xưng đức tin của mình, và của những giáo hữu đầu tiên.

Những người theo Chúa Kitô sau này cũng sẽ phải trả lời câu hỏi về đức tin của mình và truyền lại cho con cái và cho những người họ giảng dạy. Họ sẽ rao giảng cho những thính giả hỏi Chúa Giêsu là ai, và Ngài đã đem gì khác lạ đến cho đời sống của họ. Và bởi đó kinh Tin kính được thành hình, nhưng những lời giảng sẽ không có nghĩa gì nếu những người được nghe giảng hôm nay không tự trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu không hỏi chúng ta là con có đi lễ ngày chúa nhật không?, con có cho con cái đi học giáo lý không? hay con có đọc kinh trước khi ăn không?. Trước hết Ngài mời chúng ta nhìn nhận tin vào Ngài, làm chứng cho thế giới về tình thương và cách sống của Ngài.

Những người chúng ta thường gặp có thể đón trúng mạch ý thích của chúng ta. Nên khi chúng ta nói là thích một đội banh nào đó, mà lại không đi coi đội banh đó chơi, và không mang dấu hiệu của đội banh đó thì người ta tự hỏi sao vậy? Nếu chúng ta nói là thích đọc sách, mà chúng ta chỉ nói về những buổi hội họp, hay những chương trình trên truyền hình, và các chuyện phim thì người ta cũng tự hỏi sao vậy? Nếu chúng ta nói là lo ngại cho môi trường sống, nhưng chúng ta không bao giờ giúp tái tạo lại các vật liệu để tránh ô nhiễm, hay chúng ta lái xe uống xăng nhiều, và trong nhà đèn thắp sáng choang mặc dù không cần đến, thì người ta sẽ tự hỏi sao vậy?

Nếu chúng ta tự xưng là Kitô hữu, nhưng không tỏ dấu hiệu gì là Chúa Giêsu ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì người ta cũng tự hỏi sao vậy? Nếu chúng ta buộc con cái phải đi nhà thờ với chúng ta, nhưng ở nhà thì chúng ta chỉ trích kỳ thị người khác, khinh bỉ người nghèo và người di cư, hay lê la đôi mách trong nhà thờ, thì con cái chúng ta sẽ tự hỏi tại sao vậy? Chúng sẽ tự hỏi cha mẹ chúng hay ông, bà, cô cậu chúng có thật là kitô hữu không? hay chỉ đi nhà thờ thôi? Hôm nay Chúa Giêsu hỏi chúng ta "còn các con, các con nghĩ Thầy là ai?" Chúng ta sẽ trả lời câu hỏi đó như thế nào? Hãy xem lại cách sống của chúng ta đối với những người chung quanh?

Câu hỏi của Chúa Giêsu không chỉ đặt ra cho mỗi người trong chúng ta mà còn cho cả giáo hội. Thử hỏi cộng đòan giáo dân chúng ta có hòa hợp với xã hội quanh ta hay không? chúng ta có bao giờ lên tiếng chống lại sự kỳ thị chủng tộc không? Chúng ta có bao giờ lên tiếng bênh vực những kẻ cô thế, những người không có địa vị không? Hay là chúng ta chỉ đón tiếp những người có địa vị trong cộng đòan thôi. Hay chúng ta chỉ nghĩ đến lễ lạc, hình thức bên ngoài. Hay chúng ta ít để ý đến những người mới vào cộng đoàn, và không đón tiếp họ niềm nở. Vì vậy Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta "Còn các con, cộng đoàn các con nghĩ gì về Thầy?" Và sự thật câu trả lời của chúng ta sẽ là: Thầy là một người lãnh đạo tài, là một giáo sư giỏi, và là một gương mẫu. Và.. chỉ có bấy nhiêu thôi.

Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin của giáo hội tiên khởi đối với Chúa Giêsu. Đó là sứ điệp họ rao giảng, Chúa Giêsu là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Những ai đón nhận sứ điệp đó thì tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất hiện hữu và tỏ mình ra nơi Đức Kitô. Khi tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống, và nhận lãnh ơn thánh Chúa ban qua đức Kitô, chúng ta chấp nhận thay đổi lối sống. Chúa Giêsu còn hơn là một gương mẫu cho người có đức tin.Thiên Chúa ban cho nhân loại ân sũng để sống trong Đức Kitô, một lối sống đầy thương yêu và phục vụ, đặc biệt là để phục vụ những ai mà Chúa Giêsu phục vụ, đó là những người thấp hèn nhất trong xã hội trần gian.

Câu hỏi đầu tiên của Chúa Giêsu: "Người ta nói Con Người là ai?" Phêrô trả lời: "Kẻ thì nói là Gioan Tẩy Giã, kẻ thì bảo là Êlia, có người lại cho là Giêrêmia, hay một trong các vị ngôn sứ". Người ta có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dường như họ đồng ý coi Chúa Giêsu thuộc hàng ngôn sứ. Lối sống và các lời dạy của Chúa Giêsu cho họ là giảng dạy với năng quyền của Thiên Chúa. Quả thực, họ ca ngợi Ngài! Nhưng Chúa Giêsu không để ý đến những điều người ta nói, và Ngài hỏi ngay các môn đệ. "Còn anh em, anh em nghĩ gì về Thầy?" Thánh Phêrô thưa: "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. "Không phải phàm nhân mạc khải cho Phêrô điều ấy. Chúng ta cũng không thể tuyên xưng đức tin của chúng ta vào bí tích Thánh Thể nếu chúng ta không được ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Nhờ ơn thánh đó mà chúng ta phải cảm ơn Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể hôm nay.

Đức tin của Phêrô và các môn đệ tuyên xưng vào Chúa Kitô không chỉ để giữ trong lòng các ông nhằm lập một nhóm tôn giáo kín hầu tránh khỏi nhiễm độc của xã hội trần gian. Trái lại, Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin cho giáo hội sau ngày Chúa phục sinh. Đây là đức tin mà Chúa Giêsu bảo các môn đệ đi rao giảng. Phêrô giữ chìa khóa, như trong bài đọc1. En-gia-kim sẽ được "đặt chìa khóa nhà David trên vai". Phêrô sẽ có nhiệm vụ quán xuyến, và dẫn dắt giáo hội đầu tiên qua lời rao giảng, dạy dỗ, gương mẫu và cuối cùng là tử đạo.

Nhiều người đã chấp nhận đức tin của Thánh Phêrô, và đức tin đó sẽ triễn nở ngay cả những khi gặp khốn khó, bắt bớ, họ phải sống trông đợi ngày Chúa Giêsu trở lại, họ phải trải qua những bất đồng trong nội bộ có thễ gây biến chuyển quan trọng cho giáo hội qua những chống đối trong hàng giáo phẫm. Phêrô và các môn đệ đã được bảo phải làm như Chúa Giêsu đã làm cho các ông. Các ông phải là một giáo hội phục vụ, phải rữa chân cho kẻ khác. Bổn phận các ông là dẫn dắt người ngoại đến tin nhận Chúa Giêsu là đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống, và gìn giữ, phục vụ cộng đòan, và các thành phần giáo hội tiên khởi phải cố gắng sống đức tin vào Đấng mà họ tuyên xưng.

Chúa Giêsu đã nói, Ngài xây giáo hội của Ngài trên tảng đá. Đôi khi chúng ta cảm thấy hình như giáo hội không phải được xây trên tảng đá mà là trên cát. Chúng ta gặp nhiều chia rẽ làm chúng ta mất tiềm lực. Từ đó gây nên những nghi kỵ và thiếu tin tưởng lẫn nhau? Hãy nhìn lại lịch sử giáo hội. Chúng ta thấy giáo hội đã trãi qua những khó khăn mà trước đây giáo hội tiên khởi không gặp phải. Lúc xưa trong giáo hội đã có những thánh nhân và tội nhân trong hàng lãnh đạo, giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đôi khi làm chúng ta chán nản. Trong những lúc tinh thần xuống dốc như vậy, chúng ta cảm thấy những mơ ước, những tham vọng của chúng ta bị đình trệ. Chúng ta muốn lập đi lập lại lời Chúa Giêsu đã hứa là "quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi".

Hôm nay chúng ta ngợi khen Chúa Kitô đã không bỏ chúng ta mặc dù chúng ta sống chưa xứng đáng là dân của Chúa. Hôm nay chúng ta cần phải ngợi khen Thiên Chúa vì đã có những ngôn sứ thời trước cũng như bây giờ; đó là những người đã lên tiếng chống chiến tranh, chống án tử hình, bênh vực người vô tội và thai nhi, bảo vệ quyền lợi người di tản do nạn đói hay chiến tranh, dựng nhà cho người vô gia cư và kẻ bị áp bức v.v...Trong giáo hội chúng ta, mặc dù có những dấu chỉ cho thấy đức tin đang giao động, nhưng cũng còn những người nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Kitô luôn ở với giáo hội theo đúng lời Ngài đã hứa.

Chuyển ngữ Lm Fx Trọng Yên, OP
 
Chìa khóa
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
09:20 21/08/2008
Chúa Nhật 21 Tưởng Niên A

CHÌA KHOÁ

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu "trao chìa khóa Nước Trời", tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa. Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavid (Is 22:20-22), hoặc quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1:17-18).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền, và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho Ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng. (NJBC,659).

Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “chìa khóa nước trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình. (Harper’s Dict 524-525).

Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia. (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).

Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị nhà thờ trên toàn giáo phận là thuộc Đức Giám Mục giáo phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, để thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn dân Chúa tại nhà thờ này.

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành, và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua Ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi người chúng ta cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Đức tin dạy rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa nước trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ.

“Với Chúa, mọi sự đều có thể”; “ơn được làm con Thiên Chúa” đó là chìa khóa Nước Trời Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu.

Có câu chuyện chìa khoá và ổ khoá Thiên Đàng thật ý nghĩa.

Một hôm nọ, khoá cửa Thiên Đàng bị hư, Thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khoá xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên. - Chào anh, tôi có cái ổ khoá bị hư, anh làm ơn sửa giùm. - Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khoá to và quý thế này ? - Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ. - Ừ ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ "chôm" cái của quý bằng vàng ròng này ở đâu vậy?

Thánh Phêrô tần ngần trả lời: - Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô. Anh thợ vồn vã: - À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng. Thánh Phêrô giật mình: - Đắt thế à? Tôi chỉ có 1.000 thôi. - Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm ? - Anh hiểu lầm rồi ! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nazareth. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng. Anh thợ mỉm cười lắc đầu - Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây. Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm: Anh thợ này sửa được nhiều thứ khoá, chỉ trừ khoá của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư ?

Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.

Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng. - Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khoá vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả. Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi: - Tôi có cái khoá cửa thiên đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp

- Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái khoá thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc. - Tốt lắm, anh cứ nói. - Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên các Thánh hay các thiên thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khoá thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khoá cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không. Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khoá khi nghe nói Thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào. - Lạy Thánh Phêrô, Ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với. - Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khoá chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế ? Phải có hàng lối chứ. -Gặp Thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xinê,hay đi mua thịt mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội. - Chúng mày biết gì ? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có " Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế " à ? Phải trật tự chứ ! - Chúa ơi ! Chết con rồi.

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải "gửi" đi đâu nữa, họ đang ở hoả ngục rồi còn gì. Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để "tranh" Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi Thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã "hối lộ" được người giữ cửa đầy quyền uy.

Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy Thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng. Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn "xấn xổ" vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, gấu ó nhau đến vậy hay sao? Ôi ! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây," những người con của sấm sét" chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này. - Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó. Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước,đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái. - Cám ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng. Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khoá trên tay Thánh Phêrô. - Ổ khoá này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào. - Khoá cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi ? - Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi. - Thật không ? - Thật chứ !Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à ? Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, Thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ khoá lẫn chìa cho cậu bé. - Cẩn thận kẻo rơi nhé. Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khoá cho Phêrô. - Cụ giữ lấy chìa khoá này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì…Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khoá đánh "tõm" xuống giữa lòng suối sâu.

Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng: - Ôi Chúa ơi ! Cậu làm gì vậy ? Cậu bé mỉm cười trả lời: - Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự "đóng hay mở" của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ. " Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở ". Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao ? Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại: - Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé? - Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa.Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không ? Thánh Phêrô sốt sắng: - Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ ? Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô: - Đi Bêlem, rồi lên Núi Sọ. Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.
 
Ngược Giòng
Lm Vũđình Tường
17:24 21/08/2008
Mỗi năm dịp đầu tháng mười một nước rút. Cá nước ngọt trong sông theo con nước xuôi giòng đến cửa sông cá đụng nước lợ, nửa ngọt, nửa chua làm chúng khốn đốn. Con mạnh khỏe đủ sức bơi ngược giòng, đuối sức đành xuôi theo giòng nước đổ ra biển chết ngộp. Đây là mùa thu hoạch của dân sống nghề chài lưới trên sông. Thằng Đó không phải dân chài chuyên nghiệp. Nhà bên sông nên cảnh giăng câu, thả lưới làm trai ai cũng biết.

Chiều nay dù cảm thấy ươn ả, mệt mỏi, ngại không muốn đi giăng lưới, kéo chài. Ngặt một điều mùa nước giật, bỏ một đêm bằng làm cả tháng. Nghĩ thế thằng Đó tiếc quyết định xuống thuyền câu. Người mệt lả, nằm đâu ngủ đó, hai mắt mỏi nhừ. Định tâm ra sông thả xong mấy tay lưới, cột thuyền câu cho chắc đánh một giấc. Khi tỉnh dậy vớt lưới, gỡ cá rồi ngủ tiếp. Cứ thế một đêm cũng bộn cá. Chuẩn bị xong mọi thứ Đó hút thêm một điếu thuốc cho lên tinh thần, uể oải đứng dậy ra tay chèo. May mắn, vừa thả xuống các tay lưới đầy cá. Mới vớt lần đầu đã thấy mê. Con cá nhảy ton ton trong khoang thuyền làm tỉnh con mắt, vui hẳn lên. Nhìn đám cá trong khoang cố vùng vẫy thoát thân, nhảy phóng lên đụng phải liếp che, rơi tòm xuống khoang. Hên quá toàn cá lớn, loại thượng hạng. Hài lòng với bao công khó. Định chèo thuyền về nhà ngủ. Thằng Đó phỏng chừng còn sớm lắm, mới chập choạng tối đã về sao. Nó nghĩ bụng bữa nay kiếm ăn được bỏ uổng lắm. Nhìn đám cá trong thuyền lòng tham bốc lên cao, cá nhiều lại toàn trộng trộng, bỏ tiếc vô cùng. Tham và tiếc xúi Đó thả tay lưới xuống rồi hãy tính. Tính toán hơn thiệt trong đầu rồi quyết định cột chặt thuyền vào cành cây ven sống, nằm ngủ một giấc cho khoẻ, sau đó tiếp tục thả lưới. Với tay lấy cái áo che mưa đậy lên người đánh một giấc.

Tháng này rất hiếm mưa, hoạ hoằn lắm mới có mấy giọt lào xào. Mặt sông nhả hơi sương khá dầy, trời tối hơn và hơi sương dầy đặc hơn. Vài con sóng nhao lên rồi hụp xuống theo làn gió để hổng khoảng sáng giữa mặt nước và chân sương. Nó thích thú đưa mắt sát mặt thuyền nhìn giữa làn sương và làn nước bắt những tia nắng chớp nhoáng của khoảng chân không. Chỉ vài phút sau sương lại khoả lấp khoảng trống. Cơn gió lạnh trên mặt sông làm rùng mình, người nổi gai ốc. Biết người rất yếu, mau mỏi mệt không nên phí sức vì con vi trùng cảm cúm trong người đang hành.

Giấc ngủ bập bềnh

Thuyền cột chặt, đắp áo mưa nên yên tâm nằm nghỉ. Nó làm biếng vì từ chỗ giăng lưới về nhà chỉ mất năm mười phút. Cái ấm cộng mệt mỏi đưa nhanh vào giấc ngủ. Mây trắng kéo phủ bầu trời. Đêm tối mờ sương và làn mây trắng trên cao làm cả bầu trời mù mờ, không một ánh sao. Gió khá mạnh người vẫn ngủ như chết, không hay biết. Con thuyền nhỏ tròng trành nhiều hơn. Trôi theo giòng nước đang ngon chớn bị sợi giây cột căng giật ngược lại, con thuyền lao chao tiến về phía trước, rồi lại trôi theo nước rồi lại bị giật ngược lại. Cứ thế con thuyền trôi tới, trôi lui. Cuối cùng sợi giây cột bị đàn ra, thu vào hàng ngàn lần đứt lìa trôi theo giòng nước. Chủ thuyền vẫn ngủ vùi, vẫn ngáy đều. Tiếng động lớn làm giật mình, tay quờ quạng móc túi tìm điếu thuốc. Mò mẫm mãi mới được, bật quẹt hút, gió to, lửa xẹt lên rồi tắt, xẹt lên rồi tắt. Đó cong người sát hơn quyết mồi cho được điếu thuốc rồi tính gì thì tính. Bực mình bật mãi không được, cất điếu thuốc định chèo ghe vớt lưới, gỡ cá. Nằm nghe tiếng nước chảy, tiếng nước dập dềnh trong thuyền và tiếng gió rít từng cơn. Cả ba âm thanh đó quyện lại như ngầm bảo đừng làm gì cả, cứ nằm yên cho ấm. Ra ngoài làm chi cho rét, cho lạnh, cứ yên tâm đi. Tiếng va chạm thứ hai mạnh hơn trước bắt buộc phải có phản ứng. Đó mở mắt thấy trời mù sương, không nhìn thấy cảnh trước mắt.

Chưa biết mình đang ở đâu. Người tỉnh hẳn, nhìn thấy mực nước trong ghe mà ngán ngẩm. Theo phản ứng tự nhiên. Mở ngay khoang thuyền xem, cá vẫn còn nguyên. Một số con bơi theo giòng nước sang các khoang thuyền khác nhưng không sao, vẫn trong thuyền nên không có chi lo lắng. Chưa kịp cầm lái, thuyền đụng lần nữa. Hỏng rồi, thuyền đụng cọc đáy, miệng lẩm bẩm. Con thuyền chao đi, đảo lại, nước sóng sánh làm ướt cả người. Tạm để con thuyền kẹt vào hàng đáy, nhanh tay tát nước. Không nhanh tay có thể bị chìm vì nước nhiều quá, ngó ra sông trời mờ sương trắng mầu khói thuốc, không nhận diện mình đang ở phương nào. Việc quan trọng bây giờ là tát nước. Tát lấy, tát để cho thuyền nhẹ đi, bớt nguy nếu không thì cơ hội chìm thuyền rất cao. Tay mỏi rã rời, mặt vã mồ hôi hột. Đó dừng tay nhất quyết hút điếu thuốc. Dùng áo mưa che gió bật quẹt vừa hút được vài hơi, cơn gió đêm tạt qua cuốn theo nửa đầu điếu thuốc cháy dở, bay theo làn gió như con đom đón rồi rớt xuống nước nghe tiếng sèo, tắt lịm. Nửa điếu còn lại cũng tắt lịm. Lại bật quẹt, lại tiếp tục hút. Không dùng tay nhưng dùng hơi đẩy mạnh búng điếu thuốc trên môi xuống sông. Giòng nước xoáy nuốt trửng. Đó biết thuyền trôi khá xa chỗ nó ngủ. May mắn đụng cọc đáy nếu không đã xa mù khơi, không chừng thuyền chìm lênh đênh trong nước.

Định hướng

Sau thời gian ổn định, nước trong thuyền đã cạn Đó định thần xác định hướng trên sông. Trời phủ đầy sương, chỗ nào cũng màu khói trắng, tinh tuyền. Đoán chừng con thuyền trôi gần cửa sông, gió lớn hơn, sóng mạnh hơn và sương cũng lạnh hơn. Có lẽ trời gần sáng nên sương đặc hơn và lạnh nhiều. Người bị nước ướt, cái áo mưa không đủ ẩm trong lúc này. Biết phản ứng ra sao. Nước chảy xiết quá. Hai tư tưởng trong đầu, chờ đến sáng rồi về hay gắng bơi ngược giòng. Ngồi trong thuyền chờ một chút, thấy chán quá, nghĩ đến những tay lưới, nghĩ đến công việc ngày mai, nghĩ đến thời gian trong đêm. Được một lúc, chán nản, bớt mệt lại hút điếu thuốc nữa. Chờ thêm một lát nữa, lâu quá, chán quá. Nó quyết định chèo thuyền về. Cố hết sức con thuyền vẫn chậm rì, sóng lăn tăn, gió rì rầm và làn sương vẫn dầy đặc, không nhìn thấy bến bờ. Đưa tay ra chỉ thấy lờ mờ đủ biết sương sáng trên sông ghê hồn ra sao. Một mặt lo chèo chiếc thuyền vào bờ, một mặt lo tát nước, một mặt lo quan sát đâu là bến bờ. Đêm trắng xoá nhìn toàn màu trắng khói thuốc pha lẫn làn nước bạc nhấp nhô theo từng con sóng.

Dùng tay vốc nước rửa mặt, hai mắt cay the, lưỡi liếm môi thấy mằn mặn. Thuyền trôi xa chỗ thả lưới. Không lẽ ngủ mệt đến độ không còn biết trời trăng. Cái lo khơi mào. Làm sao chèo về, xa lắm, phải mất nửa ngày. Nước chảy xiết như thác lũ còn vất vả hơn nữa. Định bụng chèo vào bờ rồi tính. Cửa sông này không phải chơi, to lớn khác thường, nước chảy xiết, có nhiều xoáy nước hút thuyền lọt tỏm giòng nước giết người không ai dám mạo hiểm đến cứu. Biết thế nhưng vẫn phải mạo hiểm.

Không nên chần chờ, phải quyết, không ai giúp, dù mệt cũng phải về bến. Đó không còn chọn lựa khác. Bám trụ cọc đáy an toàn. Sớm muộn gì cũng phải dời cọc đáy. Chỉ có một con đường, con đường khó phải theo, phải ráng hết sức. Chèo ngược nước. Xuôi giòng nhẹ nhàng nhưng đi vào chỗ chết, đường dẫn đến chỗ chết là đường nhàn hạ, mời gọi. Không thể như thế, phải sống, phải trở vể và đường trở về ngược giòng. Vất vả, khổ sở, mệt mỏi và cấp bách. Quyết định xong hai cánh tay ra sức chèo ngược nước. Không thể chậm trễ, không thể ngưng tay vì ngưng là thuyền trôi ngược lại. Hai cánh tay mỏi rã rời, người như kiệt lực nhưng vẫn phải cố, nhủ lòng, tự an ủi cố lên, gắng lên, ráng sức lên. Đó, khoẻ lắm mà, khoẻ nổi tiếng sao giờ yếu xìu. Nhờ những tiếng thôi thúc mà thành công. Khi nghe được tiếng dân chài gọi nhau ơi ới trên sông Đó cảm thấy an tâm, nghe tiếng người, người nọ gọi ra hiệu cho người kia biết có tôi, gần đây, dù không nhìn thấy nhau, nghe được tiếng nói. Cả mừng, Đó vung cánh tay chèo mạnh hơn, mạnh hơn nữa, gắng hơn nữa, con thuyền phóng nhanh hơn, phóng tới. Đó nghe tiếng nói rõ hơn báo hiệu về gần chỗ thả lưới. Một chút nữa, gắng một chút xíu nữa rồi nghỉ. Tự động viên thế mà hay. Đến nơi trời mờ sáng, tạm nhìn thấy bờ sông. Lá cành sương phủ trắng. Cột chặt thuyền tự thưởng cho mình điếu thuốc, miệng mỉm cười về đến nơi an toàn. Cái yếu nhược hồi đêm biến mất. Ý chí ham sống xua đuổi cả bệnh tật. Hút xong điếu thuốc vớt tay lưới lên. Cá nhiều vô kể, không thèm gỡ cá vất cả vào thuyền một mạch thẳng về nhà.

Bơi tâm linh

Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng tương tự. Chúng ta cũng mò mẫm trong cầu nguyện, cũng mò mẫn tìm hiểu đâu là í Chúa, đâu là ánh sáng chân lí soi đường con đi. Nhiều lúc tưởng nhìn chính xác, biết rõ con đường Chúa mời gọi. Đi trên đường thấy nhiều gian nan đâm nghi ngờ. Không lẽ mình chuẩn đoán sai.

Thằng Đó dựa vào khoảng cách các địa danh để biết vị trí thuyền. Trong đầu sống lại bao hình ảnh trước đây thường qua lại nhưng ít quan tâm, đến lúc cần cố nhớ và đoán khoảng cách để tính toán đoạn sông cần chèo. Từ chỗ thả lưới đến gốc cây gáo khoảng chừng ba trăm thước. Từ gốc cây gáo đến bến phà khoảng nửa cây số. Từ bến phà đến con nước xoáy cũng phải đến non cây số. Như thế con thuyền trôi gần hai cây số. Hai cây số bơi thuyền chỉ mất độ hai tới hai mươi phút là nhiều. Đó tăng gấp đôi vì chèo ngược giòng. Với sức trai tráng Đó tự tin. Thực tế phải chèo hơn tiếng mới về đến chốn cũ.

Đó dựa vào trí nhớ, mốc tích cảnh vật để đoán chừng đoạn sông phải chèo. Kitô hữu cũng dựa vào các câu kinh thánh nhớ lõm bõm, cũng dựa vào mười điều răn, điều luật Giáo Hội cộng thêm các kinh tối sáng chiều hôm giúp tìm hiểu ý Chúa. Lúc sáng, lúc mờ, lúc nghi ngờ xác quyết. Đó may mắn biết rõ khoảng cách bao xa và tính giờ bơi về, dù tính sai. Đời sống tâm linh khó hơn, không dễ tính giờ bơi ngược lại lối sống cũ được. Đó tự an ủi mình, khuyến khích mình tiến thân, cố gắng hơn. Trở về đời sống tâm linh cũng vậy cũng cần tự trấn an, khuyến khích, quyết tâm ơn Chúa ban đủ cho ta trở về. Vấn đề còn lại là quyết tâm.

Giọng nói

Đó nghe tiếng thuyền câu ới gọi nhau nhận ra tiếng người, cảm thấy an toàn. Kitô hữu cũng nhận ra giọng nói quen thuộc, lời khuyên chân thành của lương tâm, can ngăn. Tiếng lương tâm chỗi dậy bảo nên làm, khuyên tránh hoặc ngăn đe chớ làm sai, tội đó. Nghe tiếng lương tâm để biết phải làm gì. Tiếng đó trùng hợp luật yêu thương thì không thể sai. Đó không nhìn thấy người, chỉ nghe tiếng nói biết có người. Kitô hữu cũng vậy không nhìn thấy Chúa chỉ nghe tiếng lương tâm và lòng mến đủ biết có Chúa kề bên,

Mù sương

Trời mù sương, dân chài không dám chèo thuyền đành thúc thủ, cột thuyền vào nơi an toàn, kẻ nằm ngủ, kẻ thức đấu láo, lâu lâu hú gọi như ngầm báo có tôi ở đây. Đó may mắn nhận ra các chấm đỏ trong sương. Mỗi chấm đỏ là một điếu thuốc gắn môi dân ghiền. Mỗi lần kéo thuốc điếu chấm đỏ rực lên trong sương rồi ngụt tắt, rồi lại đỏ rực lên. Những dấu chỉ đó cho biết có người chung quanh. Kitô hữu cũng hành trình trong vùng mù sương cuộc đời. Đường đời lắm chông gai, cạm bẫy. Chèo thuyền trong sương mù đụng nhau chìm thuyền, đụng cọc đáy chìm thuyền, vơi vào vùng nước xoáy chìm thuyền vì thế dân chài đành thúc thủ, lâu lâu hú nhau báo hiệu. Kitô hữu cũng cần hú nhau, thăm hỏi nhau, khuyến khích nâng đỡ nhau để sống trong tình yêu Chúa qua các việc làm bác ái, yêu thương để bảo vệ và hỗ trợ đức tin. Tâm tình người theo Chúa cũng tương tự cũng phải mò mẫm bước đi trong tin yêu, phó thác. Không có các mốc thời gian hướng dẫn, không có các dấu hiệu chỉ đường và nếu có cũng mù mờ. Dấu hiệu rõ nhất là yêu thương, tha thứ, cảm thông. Tất cả các dấu hiệu trên là những mốc vững chắc hướng dẫn và hỗ trợ hành trình đức tin. Để các dấu hiệu đó luôn toả ánh sáng Kitô hữu cần năng tham dự các bí tích, tham dự Thánh Thể và cùng nhau tụ họp cầu nguyện để ơn Chúa sưởi ấm tâm hồn, dù đi trong sương mù nhưng lòng vẫn ấm vì có ơn Chúa trong lòng.

TÌM BÀI CŨ:

Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html

Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html

Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
 
Ngược Giòng
Lm Vũđình Tường
18:03 21/08/2008
Mỗi năm dịp đầu tháng mười một nước rút. Cá nước ngọt trong sông theo con nước xuôi giòng đến cửa sông cá đụng nước lợ, nửa ngọt, nửa chua làm chúng khốn đốn. Con mạnh khỏe đủ sức bơi ngược giòng, đuối sức đành xuôi theo giòng nước đổ ra biển chết ngộp. Đây là mùa thu hoạch của dân sống nghề chài lưới trên sông. Thằng Đó không phải dân chài chuyên nghiệp. Nhà bên sông nên cảnh giăng câu, thả lưới làm trai ai cũng biết.

Chiều nay dù cảm thấy ươn ả, mệt mỏi, ngại không muốn đi giăng lưới, kéo chài. Ngặt một điều mùa nước giật, bỏ một đêm bằng làm cả tháng. Nghĩ thế thằng Đó tiếc quyết định xuống thuyền câu. Người mệt lả, nằm đâu ngủ đó, hai mắt mỏi nhừ. Định tâm ra sông thả xong mấy tay lưới, cột thuyền câu cho chắc đánh một giấc. Khi tỉnh dậy vớt lưới, gỡ cá rồi ngủ tiếp. Cứ thế một đêm cũng bộn cá. Chuẩn bị xong mọi thứ Đó hút thêm một điếu thuốc cho lên tinh thần, uể oải đứng dậy ra tay chèo. May mắn, vừa thả xuống các tay lưới đầy cá. Mới vớt lần đầu đã thấy mê. Con cá nhảy ton ton trong khoang thuyền làm tỉnh con mắt, vui hẳn lên. Nhìn đám cá trong khoang cố vùng vẫy thoát thân, nhảy phóng lên đụng phải liếp che, rơi tòm xuống khoang. Hên quá toàn cá lớn, loại thượng hạng. Hài lòng với bao công khó. Định chèo thuyền về nhà ngủ. Thằng Đó phỏng chừng còn sớm lắm, mới chập choạng tối đã về sao. Nó nghĩ bụng bữa nay kiếm ăn được bỏ uổng lắm. Nhìn đám cá trong thuyền lòng tham bốc lên cao, cá nhiều lại toàn trộng trộng, bỏ tiếc vô cùng. Tham và tiếc xúi Đó thả tay lưới xuống rồi hãy tính. Tính toán hơn thiệt trong đầu rồi quyết định cột chặt thuyền vào cành cây ven sống, nằm ngủ một giấc cho khoẻ, sau đó tiếp tục thả lưới. Với tay lấy cái áo che mưa đậy lên người đánh một giấc.

Tháng này rất hiếm mưa, hoạ hoằn lắm mới có mấy giọt lào xào. Mặt sông nhả hơi sương khá dầy, trời tối hơn và hơi sương dầy đặc hơn. Vài con sóng nhao lên rồi hụp xuống theo làn gió để hổng khoảng sáng giữa mặt nước và chân sương. Nó thích thú đưa mắt sát mặt thuyền nhìn giữa làn sương và làn nước bắt những tia nắng chớp nhoáng của khoảng chân không. Chỉ vài phút sau sương lại khoả lấp khoảng trống. Cơn gió lạnh trên mặt sông làm rùng mình, người nổi gai ốc. Biết người rất yếu, mau mỏi mệt không nên phí sức vì con vi trùng cảm cúm trong người đang hành.

Giấc ngủ bập bềnh

Thuyền cột chặt, đắp áo mưa nên yên tâm nằm nghỉ. Nó làm biếng vì từ chỗ giăng lưới về nhà chỉ mất năm mười phút. Cái ấm cộng mệt mỏi đưa nhanh vào giấc ngủ. Mây trắng kéo phủ bầu trời. Đêm tối mờ sương và làn mây trắng trên cao làm cả bầu trời mù mờ, không một ánh sao. Gió khá mạnh người vẫn ngủ như chết, không hay biết. Con thuyền nhỏ tròng trành nhiều hơn. Trôi theo giòng nước đang ngon chớn bị sợi giây cột căng giật ngược lại, con thuyền lao chao tiến về phía trước, rồi lại trôi theo nước rồi lại bị giật ngược lại. Cứ thế con thuyền trôi tới, trôi lui. Cuối cùng sợi giây cột bị đàn ra, thu vào hàng ngàn lần đứt lìa trôi theo giòng nước. Chủ thuyền vẫn ngủ vùi, vẫn ngáy đều. Tiếng động lớn làm giật mình, tay quờ quạng móc túi tìm điếu thuốc. Mò mẫm mãi mới được, bật quẹt hút, gió to, lửa xẹt lên rồi tắt, xẹt lên rồi tắt. Đó cong người sát hơn quyết mồi cho được điếu thuốc rồi tính gì thì tính. Bực mình bật mãi không được, cất điếu thuốc định chèo ghe vớt lưới, gỡ cá. Nằm nghe tiếng nước chảy, tiếng nước dập dềnh trong thuyền và tiếng gió rít từng cơn. Cả ba âm thanh đó quyện lại như ngầm bảo đừng làm gì cả, cứ nằm yên cho ấm. Ra ngoài làm chi cho rét, cho lạnh, cứ yên tâm đi. Tiếng va chạm thứ hai mạnh hơn trước bắt buộc phải có phản ứng. Đó mở mắt thấy trời mù sương, không nhìn thấy cảnh trước mắt.

Chưa biết mình đang ở đâu. Người tỉnh hẳn, nhìn thấy mực nước trong ghe mà ngán ngẩm. Theo phản ứng tự nhiên. Mở ngay khoang thuyền xem, cá vẫn còn nguyên. Một số con bơi theo giòng nước sang các khoang thuyền khác nhưng không sao, vẫn trong thuyền nên không có chi lo lắng. Chưa kịp cầm lái, thuyền đụng lần nữa. Hỏng rồi, thuyền đụng cọc đáy, miệng lẩm bẩm. Con thuyền chao đi, đảo lại, nước sóng sánh làm ướt cả người. Tạm để con thuyền kẹt vào hàng đáy, nhanh tay tát nước. Không nhanh tay có thể bị chìm vì nước nhiều quá, ngó ra sông trời mờ sương trắng mầu khói thuốc, không nhận diện mình đang ở phương nào. Việc quan trọng bây giờ là tát nước. Tát lấy, tát để cho thuyền nhẹ đi, bớt nguy nếu không thì cơ hội chìm thuyền rất cao. Tay mỏi rã rời, mặt vã mồ hôi hột. Đó dừng tay nhất quyết hút điếu thuốc. Dùng áo mưa che gió bật quẹt vừa hút được vài hơi, cơn gió đêm tạt qua cuốn theo nửa đầu điếu thuốc cháy dở, bay theo làn gió như con đom đón rồi rớt xuống nước nghe tiếng sèo, tắt lịm. Nửa điếu còn lại cũng tắt lịm. Lại bật quẹt, lại tiếp tục hút. Không dùng tay nhưng dùng hơi đẩy mạnh búng điếu thuốc trên môi xuống sông. Giòng nước xoáy nuốt trửng. Đó biết thuyền trôi khá xa chỗ nó ngủ. May mắn đụng cọc đáy nếu không đã xa mù khơi, không chừng thuyền chìm lênh đênh trong nước.

Định hướng

Sau thời gian ổn định, nước trong thuyền đã cạn Đó định thần xác định hướng trên sông. Trời phủ đầy sương, chỗ nào cũng màu khói trắng, tinh tuyền. Đoán chừng con thuyền trôi gần cửa sông, gió lớn hơn, sóng mạnh hơn và sương cũng lạnh hơn. Có lẽ trời gần sáng nên sương đặc hơn và lạnh nhiều. Người bị nước ướt, cái áo mưa không đủ ẩm trong lúc này. Biết phản ứng ra sao. Nước chảy xiết quá. Hai tư tưởng trong đầu, chờ đến sáng rồi về hay gắng bơi ngược giòng. Ngồi trong thuyền chờ một chút, thấy chán quá, nghĩ đến những tay lưới, nghĩ đến công việc ngày mai, nghĩ đến thời gian trong đêm. Được một lúc, chán nản, bớt mệt lại hút điếu thuốc nữa. Chờ thêm một lát nữa, lâu quá, chán quá. Nó quyết định chèo thuyền về. Cố hết sức con thuyền vẫn chậm rì, sóng lăn tăn, gió rì rầm và làn sương vẫn dầy đặc, không nhìn thấy bến bờ. Đưa tay ra chỉ thấy lờ mờ đủ biết sương sáng trên sông ghê hồn ra sao. Một mặt lo chèo chiếc thuyền vào bờ, một mặt lo tát nước, một mặt lo quan sát đâu là bến bờ. Đêm trắng xoá nhìn toàn màu trắng khói thuốc pha lẫn làn nước bạc nhấp nhô theo từng con sóng.

Dùng tay vốc nước rửa mặt, hai mắt cay the, lưỡi liếm môi thấy mằn mặn. Thuyền trôi xa chỗ thả lưới. Không lẽ ngủ mệt đến độ không còn biết trời trăng. Cái lo khơi mào. Làm sao chèo về, xa lắm, phải mất nửa ngày. Nước chảy xiết như thác lũ còn vất vả hơn nữa. Định bụng chèo vào bờ rồi tính. Cửa sông này không phải chơi, to lớn khác thường, nước chảy xiết, có nhiều xoáy nước hút thuyền lọt tỏm giòng nước giết người không ai dám mạo hiểm đến cứu. Biết thế nhưng vẫn phải mạo hiểm.

Không nên chần chờ, phải quyết, không ai giúp, dù mệt cũng phải về bến. Đó không còn chọn lựa khác. Bám trụ cọc đáy an toàn. Sớm muộn gì cũng phải dời cọc đáy. Chỉ có một con đường, con đường khó phải theo, phải ráng hết sức. Chèo ngược nước. Xuôi giòng nhẹ nhàng nhưng đi vào chỗ chết, đường dẫn đến chỗ chết là đường nhàn hạ, mời gọi. Không thể như thế, phải sống, phải trở vể và đường trở về ngược giòng. Vất vả, khổ sở, mệt mỏi và cấp bách. Quyết định xong hai cánh tay ra sức chèo ngược nước. Không thể chậm trễ, không thể ngưng tay vì ngưng là thuyền trôi ngược lại. Hai cánh tay mỏi rã rời, người như kiệt lực nhưng vẫn phải cố, nhủ lòng, tự an ủi cố lên, gắng lên, ráng sức lên. Đó, khoẻ lắm mà, khoẻ nổi tiếng sao giờ yếu xìu. Nhờ những tiếng thôi thúc mà thành công. Khi nghe được tiếng dân chài gọi nhau ơi ới trên sông Đó cảm thấy an tâm, nghe tiếng người, người nọ gọi ra hiệu cho người kia biết có tôi, gần đây, dù không nhìn thấy nhau, nghe được tiếng nói. Cả mừng, Đó vung cánh tay chèo mạnh hơn, mạnh hơn nữa, gắng hơn nữa, con thuyền phóng nhanh hơn, phóng tới. Đó nghe tiếng nói rõ hơn báo hiệu về gần chỗ thả lưới. Một chút nữa, gắng một chút xíu nữa rồi nghỉ. Tự động viên thế mà hay. Đến nơi trời mờ sáng, tạm nhìn thấy bờ sông. Lá cành sương phủ trắng. Cột chặt thuyền tự thưởng cho mình điếu thuốc, miệng mỉm cười về đến nơi an toàn. Cái yếu nhược hồi đêm biến mất. Ý chí ham sống xua đuổi cả bệnh tật. Hút xong điếu thuốc vớt tay lưới lên. Cá nhiều vô kể, không thèm gỡ cá vất cả vào thuyền một mạch thẳng về nhà.

Bơi tâm linh

Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng tương tự. Chúng ta cũng mò mẫm trong cầu nguyện, cũng mò mẫn tìm hiểu đâu là í Chúa, đâu là ánh sáng chân lí soi đường con đi. Nhiều lúc tưởng nhìn chính xác, biết rõ con đường Chúa mời gọi. Đi trên đường thấy nhiều gian nan đâm nghi ngờ. Không lẽ mình chuẩn đoán sai.

Thằng Đó dựa vào khoảng cách các địa danh để biết vị trí thuyền. Trong đầu sống lại bao hình ảnh trước đây thường qua lại nhưng ít quan tâm, đến lúc cần cố nhớ và đoán khoảng cách để tính toán đoạn sông cần chèo. Từ chỗ thả lưới đến gốc cây gáo khoảng chừng ba trăm thước. Từ gốc cây gáo đến bến phà khoảng nửa cây số. Từ bến phà đến con nước xoáy cũng phải đến non cây số. Như thế con thuyền trôi gần hai cây số. Hai cây số bơi thuyền chỉ mất độ hai tới hai mươi phút là nhiều. Đó tăng gấp đôi vì chèo ngược giòng. Với sức trai tráng Đó tự tin. Thực tế phải chèo hơn tiếng mới về đến chốn cũ.

Đó dựa vào trí nhớ, mốc tích cảnh vật để đoán chừng đoạn sông phải chèo. Kitô hữu cũng dựa vào các câu kinh thánh nhớ lõm bõm, cũng dựa vào mười điều răn, điều luật Giáo Hội cộng thêm các kinh tối sáng chiều hôm giúp tìm hiểu ý Chúa. Lúc sáng, lúc mờ, lúc nghi ngờ xác quyết. Đó may mắn biết rõ khoảng cách bao xa và tính giờ bơi về, dù tính sai. Đời sống tâm linh khó hơn, không dễ tính giờ bơi ngược lại lối sống cũ được. Đó tự an ủi mình, khuyến khích mình tiến thân, cố gắng hơn. Trở về đời sống tâm linh cũng vậy cũng cần tự trấn an, khuyến khích, quyết tâm ơn Chúa ban đủ cho ta trở về. Vấn đề còn lại là quyết tâm.

Giọng nói

Đó nghe tiếng thuyền câu ới gọi nhau nhận ra tiếng người, cảm thấy an toàn. Kitô hữu cũng nhận ra giọng nói quen thuộc, lời khuyên chân thành của lương tâm, can ngăn. Tiếng lương tâm chỗi dậy bảo nên làm, khuyên tránh hoặc ngăn đe chớ làm sai, tội đó. Nghe tiếng lương tâm để biết phải làm gì. Tiếng đó trùng hợp luật yêu thương thì không thể sai. Đó không nhìn thấy người, chỉ nghe tiếng nói biết có người. Kitô hữu cũng vậy không nhìn thấy Chúa chỉ nghe tiếng lương tâm và lòng mến đủ biết có Chúa kề bên,

Mù sương

Trời mù sương, dân chài không dám chèo thuyền đành thúc thủ, cột thuyền vào nơi an toàn, kẻ nằm ngủ, kẻ thức đấu láo, lâu lâu hú gọi như ngầm báo có tôi ở đây. Đó may mắn nhận ra các chấm đỏ trong sương. Mỗi chấm đỏ là một điếu thuốc gắn môi dân ghiền. Mỗi lần kéo thuốc điếu chấm đỏ rực lên trong sương rồi ngụt tắt, rồi lại đỏ rực lên. Những dấu chỉ đó cho biết có người chung quanh. Kitô hữu cũng hành trình trong vùng mù sương cuộc đời. Đường đời lắm chông gai, cạm bẫy. Chèo thuyền trong sương mù đụng nhau chìm thuyền, đụng cọc đáy chìm thuyền, vơi vào vùng nước xoáy chìm thuyền vì thế dân chài đành thúc thủ, lâu lâu hú nhau báo hiệu. Kitô hữu cũng cần hú nhau, thăm hỏi nhau, khuyến khích nâng đỡ nhau để sống trong tình yêu Chúa qua các việc làm bác ái, yêu thương để bảo vệ và hỗ trợ đức tin. Tâm tình người theo Chúa cũng tương tự cũng phải mò mẫm bước đi trong tin yêu, phó thác. Không có các mốc thời gian hướng dẫn, không có các dấu hiệu chỉ đường và nếu có cũng mù mờ. Dấu hiệu rõ nhất là yêu thương, tha thứ, cảm thông. Tất cả các dấu hiệu trên là những mốc vững chắc hướng dẫn và hỗ trợ hành trình đức tin. Để các dấu hiệu đó luôn toả ánh sáng Kitô hữu cần năng tham dự các bí tích, tham dự Thánh Thể và cùng nhau tụ họp cầu nguyện để ơn Chúa sưởi ấm tâm hồn, dù đi trong sương mù nhưng lòng vẫn ấm vì có ơn Chúa trong lòng.

TÌM BÀI CŨ:

Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html

Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html

Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:24 21/08/2008
KHỈ VÀ SÓI

N2T


Khỉ và sói đang đi dạo trong rừng sâu. Sói nói: “Mỗi lần tớ đi qua bên đám rừng kia, thì đều có một con sư tử nhảy ra làm khổ tớ một phen, thật tớ không hiểu chuyện gì đã xảy ra ?”

Khỉ nói: “Lẩn này tớ đi với bạn, khi con sư tử nhảy ra công kích thì tớ sẽ giúp bạn đánh nó.”

Chúng nó bèn nhắm hướng trong rừng mà đi, sư tử nhảy vồ lên con sói, đày đọa nó một phen, chút xíu nữa thỉ con sói bị toi mạng. Con khỉ thấy mãnh thú xuất hiện liền nhảy lên cây cao với khoảng cách an toàn và nhìn sư tử và sói đánh nhau.

- “Tại sao bạn không giúp tớ một tay ?” Con sói tức giận nói.

Con khỉ trả lời: “Bạn cứ cười mãi, nên tớ cho rằng bạn là người chiến thắng !”

(Trích: Bài ca của loài ếch, phần tu đức)

Suy tư:

Khi chó sói mà gầm gừ thì há mõm nhe răng rất dễ sợ, vậy mà con khỉ tưởng lầm là chó sói cười nên không giúp một tay để đánh sư tử, đúng là. ..trò khỉ.

Cái trò khỉ là khi bạn mình chiến đấu với kẻ gian thì mình đứng vòng tay nhìn mà không giúp đỡ.

Cái trò khỉ này vẫn cứ đang tiếp diễn trong các cộng đoàn không có tình yêu thương đoàn kết, khi thấy anh em chị em được bề trên cho đi du học thì hậm hực với bề trên, nói xấu anh chị em; khi thấy anh em chị em làm việc thành công trong công tác mục vụ, thì tức lên hùa lại với nhau làm áp lực bề trên để giành giựt với anh chị em mình...

Cái trò khỉ là khi anh em chị em trong cộng đoàn đang vất vả làm việc xây dựng giáo xứ, làm việc truyền giáo, thì họ cứ tưởng anh chị em đang hưởng thụ, và thế là lòng ghen ghét của họ tăng lên gấp bội...

Khuyến khích và cổ võ khi thấy anh chị em thành công trong công tác, giúp đỡ và nâng đỡ khi thấy anh chị em quá mệt mỏi trong công việc, đó chính là tình bạn chân thành nhất...
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:26 21/08/2008
N2T


7. Lời cầu nguyện của linh mục như nước của cá, như không khí với chim, như nguồn nước của hươu.

(Thánh John Bosco)
 
Thầy sẽ xây hội thánh trên tảng đá này
LM. Trần Bình Trọng
20:22 21/08/2008

THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH TRÊN TẢNG ÐÁ NÀY



Chúa Nhật 21 Thường Niên, Năm A

Is 22:19-23; Rm 11:33-36; Mt 16:13-23


Ðá mang ý nghĩa dồi dào trong Thánh kinh. Ðá tượng trưng cho sự vững chắc và kiên cố. Vì thế Chúa Giêsu bảo các tông đồ phải xây nhà đức tin trên đá, để khi mưa to, bão lớn, gió cuốn, căn nhà vẫn có thể đứng vững. Khi ông Simon theo Chúa làm tông đồ, Chúa đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Và Chúa hứa đặt Phêrô làm nền tảng Giáo Hội. Phúc âm hôm nay ghi lại việc Chúa trao chìa khoá nước Trời cho Phêrô: Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước Trời: Dưới đất con ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất con tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy (Mt 13:19). Chìa khoá theo nghĩa Thánh kinh là biểu hiệu của trách nhiệm và uy quyền. Người mang chìa khoá có quyền quyết định cho ai vào và ai không được vào như chìa khoá nhà Ðavít được trao cho Engiakim để canh giữ triều đình (Is 22:21-22). Chìa khoá Chúa trao cho Phêrô tượng trưng cho quyền bính của các vị giáo hoàng.

Ðể giúp đánh giá quyền bính của thánh Phêrô, người ta cần nhìn vào hoàn cảnh mà Chúa trao chìa khoá nước Trời cho ông. Lúc mà thánh Phêrô nhận ra thiên tính của Thầy mình: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 13:16) là chính lúc Chúa trao quyền bính cho Phêrô và cũng là lúc mà Thánh Phêrô qui tụ được các tông đồ đến tụ điểm hiệp nhất. Việc mà thánh Phêrô tuyên xưng đức tin vào Ðấng thiên sai là một việc do ơn Chúa, chứ không phải dựa trên tầm hiểu biết của loài người. Vì thế mà Chúa nói với Phêrô: Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời (Mt 16:17).

Tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Thầy mình lúc bấy giờ vẫn còn giới hạn. Do đó khi thánh Phêrô can ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu đau khổ, thì bị Chúa quạt cho một trận. Chúa gọi Phêrô là Satan khi ông cản bước của Chúa vì tư tưởng của ông không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (Mt 16:23). Ðức tin của thánh Phêrô vẫn còn bị khủng hoảng và cần được củng cố sau khi chối Chúa ba lần (Mt 26:69-75).

Ðể sửa soạn cho vai trò lãnh đạo và cai quản, Chúa hỏi xem Phêrô có mến Chúa hơn các tông đồ khác không? Lúc này thánh Phêrô không dám tự hào là mình mến Chúa hơn các tông đồ khác, mà chỉ dám bày tỏ là Chúa biết ông yêu mến Chúa. Lần thứ ba Chúa hỏi xem ông có yêu mến Chúa không (Ga 21:15-19), khiến ông bị nhột chắc là vì ông liên tưởng đến việc đã chối Chúa ba lần (Ga 13:38; Ga 18:17, 27). Thánh Phêrô hẳn đã có kinh nghiệm, không còn tự hào như xưa nữa, mà chỉ tuyên xưng lòng mến của mình ba lần vào Chúa như để bù lại ba lần đã chối Chúa. Lúc này Chúa trao cho Phêrô sứ mệnh chăm sóc cả chiên con của Chúa (Ga 21:15) và cả chiên mẹ là chiên cừu lớn (c. 16, 17), gồm các anh em tông đồ, nghĩa là chăm sóc toàn thể Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập. Khi tiên đoán việc Phêrô chối Chúa, Chúa cũng tiên đoán ông sẽ trở lại, nên mới căn dặn ông rằng khi trở lại rồi, ông cần củng cố và nâng đỡ tinh thần các tông đồ khác (Lc 22:32). Lời Chúa trong hai trường hợp trên đây ngụ ý vai trò lãnh đạo của thánh Phêrô.

Phêrô được coi là người phát ngôn viên, đại diện cho các tông đồ bất cứ khi nào có cơ hội đến. Chính Phêrô đã nói thay cho các tông đồ trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 1:15-20; 2:14-16). Phêrô là người đầu tiên chấp nhận người Do thái giáo và cả dân ngoại vào Giáo Hội (Cv 2:37-41; 10:44-48). Chính Phêrô là người đã đề nghị chọn một người làm tông đồ thay thế Giuda (Cv 1:21-26). Và Phêrô là người đã bênh vực các tông đồ khác trước toà án Do thái giáo (Cv 4:8-12; 5:29-33). Cũng chính Phêrô đã triệu tập và chủ toạ công đồng đầu tiên của Giáo Hội ở Giêrusalem (Cv 15:7-11). Ðọc thư thứ nhất của thánh Phêrô, ta thấy thánh nhân viết với vẻ uy quyền của người lãnh đạo. Phêrô viết thư ra lệnh cho các vị đại giáo trưởng và môn đệ trong Giáo Hội ở Tiểu Á. Chính Thánh Phêrô đã thiết lập Giáo Hội ở Rôma. Và bởi vì Thánh Phêrô chọn Rôma như là tông toà, cho nên các vị giáo hoàng kế vị được coi là thủ lãnh của Giáo hội Công giáo.

Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội bằng việc chọn mười hai tông đồ, đặt Phêrô làm Thủ lãnh và ban cho ông quyền bính. Mục đích của việc thiết lập Giáo Hội với việc chọn Phêrô là người Lãnh đạo là để qui tụ người tín hữu trong việc hiệp nhất đức tin và tinh thần hiệp thông huynh đệ (Giáo Hội # 18). Suy đi nghĩ lại ta nghiệm thấy rằng đường lối của Chúa thật là khôn ngoan và thông suốt như thánh Phaolô đã nhận ra (Rm 11:33). Trải qua suốt dòng lịch sử Giáo hội, ta thấy quyền bính giáo hoàng đã là đề tài tranh luận và mâu thuẫn, đưa đến việc chia rẽ và phân tán trong thế giới Kitô giáo. Và lịch sử đã chứng minh rằng khi mà người ta tách rời khỏi Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập: công giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền (Kinh Tin kính) thì họ còn tiếp tục phân rẽ nếu có sự bất đồng ý kiến về vấn đề thần học và luân lý. Do đó ngày nay người ta thấy có cả hàng trăm giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới. Có những trường hợp mà người ta tách rời ra khỏi Giáo hội để thành lập những giáo phái riêng là tại những lí do khác nhau như tham vọng cá nhân, vì phán đoán lệch lạc hoặc vì bất phục tùng quyền bính của Giáo hội.

Quyền bính Chúa ban trong Giáo Hội là để phục vụ. Chúa có thể trực tiếp hướng dẫn loài người mà không cần qua trung gian loài người. Tuy nhiên Chúa đã muốn loài người cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Chúa, nên mới đặt loài người cai quản Giáo Hội. Các vị cai quản Giáo hội cũng vẫn còn mang trong mình những yếu hèn và tội lỗi. Vì thế Giáo hội cũng trải qua những thăng trầm: cũng có những lạm dụng và lầm lẫn do cá nhân trong Giáo hội gây ra. Và bao lâu còn tại thế thì Giáo hội với tính cách lữ hành luôn trên đường tìm kiếm sự thật và tự thanh lọc khỏi những sai lầm và lạm dụng.

Vậy làm sao người tín hữu sống hiệp nhất và hiệp thông với Giáo hội? Người tín hữu cũng cần nhận thức rằng hiệp nhất không có nghĩa là đồng nhất. Nếu trong quá khứ ta hãnh diện về tính cách đồng nhất trong Giáo hội: thánh lễ được cử hành bằng tiếng La tinh khắp nơi với cùng một nghi thức và bối cảnh, thì trong hiện tại ta cũng phải hãnh diện về tính cách đa diện: lễ bằng ngôn ngữ bản xứ, thánh nhạc khác nhau, giáo dân được khuyến khích tham phần vào phụng vụ thánh lễ như thừa tác viên thánh thể, thừa tác viên lời Chúa...

Hình ảnh cụ thể và sống động nhất của Giáo hội là giáo xứ. Xây dựng giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Có nhiều cách thế để xây dựng giáo xứ như bằng cách gia nhập giáo xứ, tham gia vào sinh hoạt thờ phượng, giáo dục và công tác từ thiện bác ái của giáo xứ, bằng việc góp công lao, thời giờ và tiền của để giáo xứ có phương tiện làm việc tông đồ và bảo trì cơ sở. Ngoài ra gia đình cũng là hình ảnh của giáo hội nhỏ bé. Gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong gia đình mà những giá trị đạo đức được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh và những nguyên tắc luân lí. Như vậy xây dựng gia đình và giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Và ta có thể cảm thấy vững tâm vào lời Chúa bảo đảm khi Chúa hứa với Phêrô là dù quyền lực tử thần cũng không thắng nổi Giáo hội (Mt 16:18).

Lời nguyện xin cho được ở lại trong Giáo hội:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã xuống thế làm người,
thiết lập Giáo hội trên tảng đá thánh Phêrô.
Chúa còn cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất.
Xin ban cho các giáo phái Kitô giáo
biết khám phá ra căn nguyên cội rễ của mình
để tìm đường trở về hiêp nhất với Giáo hội
mà chính Chúa đã thiết lập.
Và xin cho con được trở nên dụng cụ hiệp nhất
trong cách cư xử, nói năng và viết lách thế nào
để khỏi gây hoang mang và chia rẽ trong lòng Giáo hội.
Cũng xin cho con được sống chết trong Giáo hội. Amen.
 
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
22:48 21/08/2008
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (48)

481. Hãy sợ uy tín và uy thế của Giáo Hội Công Giáo!

Giáo Hội Công Giáo không có quyền thế gì ở đời vì Giáo Hội Công Giáo không có quân đội, không có công an cảnh sát, không có các bộ lo về phần đời.
Giáo Hội Công Giáo chỉ lo về mặt thiêng liêng. Nhưng uy quyền thiêng liêng của Giáo Hội Công Giáo thật lạ lùng! Vụ Giáo Hội Công Giáo cấm chế ngày 01 tháng 8 năm 1926 tại Mễ-Tây-Cơ làm mọi người ngạc nhiên.
Số là năm 1926, Chính Quyền nghịch đạo Mễ-Tây-Cơ thẳng tay dã man đàn áp Giáo Hội Công Giáo tại nước nầy. Để nói lên cho toàn thế giới biết rằng Chính Quyền ở đây bắt Đạo, Đức Giáo Hoàng Piô XI ra lệnh đóng cửa tất cả các nhà thờ trên khắp nước Mễ-Tây-Cơ.
Nước Mễ-Tây-Cơ bỗng trở nên náo động lạ thường vì số các người công giáo lo thu xếp các công việc thiêng liêng kẻo đến ngày 01-8-1926 thì không còn nữa: các bà mẹ bồng con đi xin Rửa Tội gấp; cha mẹ lo cho con cái được được Xưng Tội Rước Lễ Vỡ Lòng gấp; ai đang rối rắm, đang nặng nề lương tâm thì đua nhau đi xin gỡ rối, đi chịu Phép Giải Tội; những thanh nien thanh nữ đạo đức, muốn được chịu Phép Hôn Phối trong Nhà Thờ, đua nhau xin các linh mục quản xứ lo cho họ chịu Phép Bí Tích Hôn Phối…
Toàn dân công giáo Mễ-Tây-Cơ xem ngày 01-8-1926 là một ngày đại họa cho họ, do Chính Quyền bắt Đạo gây nên. Ngày ngày, họ lũ lượt kéo đến các nhà thờ, các tòa giám mục, các nhà cha sở.
Cảm động nhất, là những người công giáo miền Thượng Da Đỏ. Họ bồng bế con cái, dắt nhau đi từ rừng sâu đến thành thị, hợp với các người công giáo ở các thành phố, kéo nhau đến các nhà thờ, đi gặp các Đức Cha, các linh mục.
Đứng trước cảnh tượng nầy, Chính Quyền Mễ-Tây-Cơ lúc bấy giờ phải nhượng bộ, không còn dám gây khó khăn cho Đạo Công Giáo nữa.
Uy tín và uy thế của Giáo Hội Công Giáo thật lớn lao và lạ lùng!

482. Uy tín của Giáo Hội Công Giáo trong những hoạt động văn hoá của mình

Loài người khắp nơi hiện nay, dù theo ý thức hệ nào, cũng chịu ảnh hưỏng sâu đậm của nền văn hoá Phương Tây, mà trong quá khứ, chính Giáo Hội Công Giáo đã cứu vãn nền văn hoá Phương Tây và đem lại nhiều ích lợi vô song cho nền văn hoá nầy nói riêng, và cho nền văn hoá nhân loại nói chung.
Như lịch sử chứng minh rõ, khi những nền văn hóa danh tiếng của Phương Tây là Hy Lạp và Rôma bị những quân man rợ từ khắp nơi kéo đến xâm chiếm và tiêu diệt, Giáo Hội Công Giáo một mình đứng ra cứu vãn những nền văn hoá nầy và lưu truyền những nền văn hoá nầy lại cho nhân loại ngày nay.
Giáo Hội Công Giáo tìm cách thuần thục hoá lần lần những quân man rợ nầy, gieo tinh thần Kitô-giáo vào lòng họ, đưa họ vào Đạo Công Giáo, bảo vệ và tàng trữ các tác phẩm quý giá của các hiền nhân, triết gia, khoa học gia ngày xưa bằng một giá rất công phu: ngày đêm, chép tay để sao lại những tác phẩm danh tiếng và cất kỷ những tác phẩm nầy để chúng khỏi bị hư nát, thất lạc. Những công việc nhọc nhằn tỉ mỉ nầy, Giáo Hội Công Giáo giao cho các tu viện lo, và các tu viện đã chu toàn công việc nầy một cách sốt sắng, vui vẻ và hoàn chỉnh.
Khi thấy tình trạng dân chúng mù chữ, kém văn hoá, không có điều kiện để đi học, Giáo Hội Công Giáo là đơn vị đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đứng mở ra các trường học để dạy văn hoá cho mọi người.
Về mặt nghệ thuật, Giáo Hội Công Giáo làm phát triển âm nhạc, hội họa, điêu khắc, xây cất và để lại nhiều công trình rất danh tiếng.
Về mặt khoa học, Giáo Hội Công Giáo có những nhà khoa học hết sức danh tiếng như các tu sĩ Copernic, Mendel, những giáo dân như Ampère, Volta, Newton, Pasteur, …

483. “Tên Kitô-hữu đã bị xoá nhòa” (Christiano Nomine Deleto)

Khi thấy Giáo Hội Công Giáo gục ngã, tan tác như xác pháo, không còn manh giáp nào nửa, không thể nào trồi đầu lên được nửa, không thể nào sống được nổi vì những sự đàn áp thẳng tay của mình, hoàng để Điôklêxianô tin chắc mình đã thắng Giáo Hội Công Giáo, nên ra lệnh cho toàn đế quốc Rôma ăn mừng.
Và để kỷ niệm ngày mà ông cho là Giáo Hội Công Giáo đã hoàn toàn bị tiêu diệt, hoàng đế Điôklêxianô đã truyền phát hành một đồng bạc mang ba chữ la tinh “Christiano Nomine Deleto”, “Tên Kitô-hữu đã bị xoá nhòa”. Mọi người trong đế quốc Rôma rộng rãi bao la, khi dùng đồng bạc nầy, hãy biết rằng Giáo Hội Công Giáo không còn nữa!
Kết cục thì ai cũng biết: hoàng để Điôklêxianô chết, đế quốc Rôma tan, và Giáo Hội Công Giáo, với hai bàn tay trắng, vẫn còn sống và sống mạnh cho đến ngày hôm nay.
Một trong Phép Lạ luôn luôn xảy ra trước mắt mọi người: Giáo Hội Công Giáo luôn đứng vững và trường tồn một cách lạ lùng!

484. Tại sao Tin Lành không công giáo?

Trong một trường học tại Anh, giáo viên đặt một câu hỏi cho học sinh: “Nếu Giáo Hội Rôma được gọi là công giáo vì được truyền bá khắp nơi trên thế giới, thì tại sao Đạo Tin lành cũng có mặt khắp nơi, nhưng lại không được gọi là công giáo?”
Một nữ học sinh trả lời rất chí lý:
- “Giáo Hội Rôma được gọi là công giáo không những là vì Giáo Hội Rôma có mặt khắp nơi, mà còn vì ở nơi đâu, Giáo Hội Rôma cũng vẫn là chính mình, còn Đạo Tin lành tuy cũng có mặt khắp nơi, nhưng chia ra nhiều nhóm, nhóm nầy tin khác nhóm kia.”

485. Hãy mở rộng bác ái với mọi người cho dù họ là thù địch của Giáo Hội.

Tình yêu nồng nhiệt đối với Chúa Giêsu, và tài hướng dẫn linh hồn sẽ làm cho vị tông đồ trở nên cương quyết, khôn ngoan, có nhiều chiến thuật.
Chúng tôi đã nghe một người giáo dân cao cấp kể truyện sau đây.
Trong khi yết kiến Đức Thánh Cha Piô X, ông đã buông ra mấy lời chua chát đối với một thù địch của Giáo Hội. Đức Thánh Cha liền phán:
- “Hỡi con, Cha không ưa luận điệu của con. Để chịu phạt, con phải nghe câu chuyện nầy.
Trước đây, có vị linh mục Cha rất quen biết, mới về trọng nhậm một địa sở. Linh mục đó biết mình có bổn phận phải thăm viếng từng gia đình, cả những gia đình Do Thái, Thệ Phản, Tam Điểm, và ngài còn tuyên bố trên toà giảng rằng mỗi năm, ngài sẽ trở lại tái viếng.
Thấy thế, các linh mục đồng nghiệp bàn tán gắt gao và bá cáo với Toà Giám Mục. Lập tức Đức Giám Mục triệu hội bị cáo tới và khiển trách nặng lời. Nhưng cha xứ chỉ khiêm tốn thưa lại: “Thân Đức Cha, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền các chủ chiên phải đem mọi con chiên về đoàn. Vậy con phải làm thế nào để thực hiện điều đó nếu không đi tìm họ? Đàng khác, con không bao giờ tranh biện với họ về các nguyên tắc, con chỉ bày tỏ mối thịnh tình, lòng ưu ái con với các linh hồn, cả những linh hồn lầm lạc Chúa đã ủy thác cho con. Con đã tuyên bố trên toà giảng về việc thăm viếng nầy, nếu Đức Cha nhất định muốn con bỏ dở chương trình đó, xin Đức Cha viết cho con một bức thư để người ta hiểu con chỉ bỏ chương trình vì vâng lệnh Đức Cha.”
Cảm xúc vì lời lẽ chân thành của cha xứ, Đức Giám Mục không nói tới vấn đề đó nữa.
Và thực ra, tương lai đã chứng minh cho cha xứ vì ngài đã chinh phục được một số chiên lạc và cưỡng bách nhiều người khác phải tôn trọng đạo thánh của chúng ta. Cha xứ tầm thường đó, sau đã được Chúa chọn làm Giáo Hoàng, tức là người đang dạy con bài học bác ái nầy đây. Vì thế, con hãy cương quyết trong các nguyên tắc, nhưng hãy mở rộng bác ái với mọi người cho dù họ là thù địch của Giáo Hội.” (x. Hồn Tông Đồ)

486. Chúng ta hãy can đảm dựa vào chính bản thân chúng ta.

Ốc sên con hỏi mẹ: “Mẹ ơi, tại sao vừa mới sinh ra đời, chúng ta đã phải đội chiếc vỏ vừa cứng vừa nặng vậy?” Ốc sên mẹ trả lời: “Bởi vì cơ thể chúng ta không có bộ xương làm giá đỡ, chúng ta chỉ có thể bò, hơn nữa, bò cũng không nhanh. Vì thế, cần có chiếc vỏ đó bảo vệ.”
Ốc sên con lại hỏi: “Chị sâu róm cũng không có xương, cũng bò không nhanh, tại sao chị ấy không phải đội chiếc vỏ vừa nặng vừa cứng như thế nầy?” Ốc sên mẹ trả lời: “Bởi vì chị sâu róm có thể biến thành bướm. Bầu trời sẽ bảo vệ chị ấy.”
Ốc sên con lại hỏi: “Những em giun đất cũng không có xương, bò cũng không nhanh, cũng không biến thành bướm, tại sao chúng lại không phải đội chiếc vỏ vừa nặng vừa cứng?” Ốc sên mẹ trả lời: “Bở vì em giun biết đào đất, mặt đất sẽ bảo vệ cho nó.”
Ốc sên con bật khóc: “Chúng ta thật là tội nghiệp! Bầu trời không bảo vệ cho chúng ta, mặt đất cũng không che chở cho chúng ta.”
Ốc sên mẹ an ủi: “Vì thế, chúng ta mới có chiếc vỏ nầy! Chúng ta không dựa vào trời cũng không dựa vào đất. Chúng ta dựa vào bản thân.” (x. Những Bài Học Cuộc Đời)

487. Hãy luôn giữ gương mặt vui vẻ!

Trước đây, Furukawa là một đứa trẻ nghèo túng. Khi còn nhỏ, Furukawa từng làm đậu phụ thuê cho người khác.
Cậu rất cẩn thận, làm việc gì cũng cố gắng hết sức; hơn nữa, lúc nào cũng tràn đầy tự tin. Vì thế, cậu làm được rất nhiều việc.
Bất cứ lúc nào gặp cậu, ông chủ cũng thấy cậu tươi cười. Vì vậy, ông chủ coi việc xem cậu làm việc là niềm vui.
Sau khi khôn lớn, Furukawa không làm đậu phụ nữa. Một chủ nợ thuê cậu đi đòi nợ.
Nhờ nụ cười thiên phú của mình, Furukawa làm rất xuất sắc trong công việc đòi nợ. Những khoản nợ, dù khó đòi đến mấy, cậu cũng có thể đòi được.
Một lần, Furukawa đến đòi tiền một người nổi tiếng nợ dai. Món tiền nầy, đáng ra phải trả từ lâu, nhưng bên vay tiền cứ tìm cách khất lần.
Lần nầy, khi nhìn thấy người đòi nợ đến, mặt hắn ta ngay lập tức sa sầm xuống.
Không thèm chào hỏi Furukawa một câu, hắn bỏ ra ngoài để cho Furukawa đứng chơ vơ ở trước cổng.
Buổi tối hôm ấy, hắn tắt đèn, đi ngủ rất sớm, để cho Furukawa một mình dò dẫm trong bóng tối.
Không có gì ăn, vừa đói vừa lạnh, nhưng Furukawa không hề tức giận mà vẫn lặng lẽ ngồi đợi cho đến khi trời sáng.
Sáng sớm hôm sau, kẻ vay tiền nhìn thấy Furukawa vẫn ngồi ở đó, trên gương mặt anh vẫn nở một nụ cười thật tươi, không hề tỏ vẻ bực tức chút nào.
Kẻ vay tiền bị Furukawa làm cho xúc động thực sự. Hắn nhũn nhặn đưa số tiền nợ cho Furukawa. (x. Những Bài Học Cuộc Đời)

488. Gặp việc gì cũng hãy suy nghĩ thật kỹ càng, và đừng bao giờ coi thường những chi tiết

Thomas Edison, nhà vật lý người Mỹ, cũng là một nhà phát minh vĩ đại của thế giới (1847-1931), không bao giờ dám coi thường những chi tiết của công việc, nhưng luôn luôn suy nghĩ thật kỹ càng về công việc mình dự định làm.
Ông nói rằng nhiều khi ông cho việc đó là đúng, nhưng khi thí nghiệm lại, thì thấy việc đó sai nhiều mặt. Vì thế, ông quyết định phải tuyệt đối theo nguyên tắc nầy: phải suy nghĩ và cân nhắc mọi chi tiết, mọi khía cạnh của sự việc một cách rất kỹ càng, trước khi đưa ra quyết định về sự việc đó hoặc trước khi bắt tay vào làm việc đó.
Nếu sống theo nguyên tắc nầy, chắc bạn và tôi sẽ bớt hung hăng và bình tĩnh hơn trong việc chỉ trích và phê bình người khác khi chưa biết rõ ràng và chính xác lý do thật sự và động cơ nào, hoàn cảnh cụ thể nào, của sự việc hay của người mình phê bình, chỉ trích.

489. Ai mạnh hơn ai?

Gió nam và gió bắc thường tranh cãi nhau chuyện gió nào mạnh hơn.
Một hôm, gió nam nói với gió bắc: “Chúng ta cãi nhau mãi cũng chán. Có một người đang đi ngược lại, chúng ta sẽ thi xem ai thổi bay áo quần của ông ta thì sẽ là cơn gió mạnh.”
Gió bắc đáp: ‘Thi thì thi, ai sợ ai?”
Gió bắc thổi mạnh từng cơn, rét lạnh thấu xương, khiến người đi đường phải hai tay giữ áo. Gió bắc thổi một lúc thì mệt mỏi, thở phì phò, phải nghỉ.
Gió nam mỉm cười, thổi nhè nhẹ, trời trở nên mát mẻ, dễ chịu.
Người đi đường liền cởi bỏ áo khoác.
Gió nam đã giành được phần thắng. (x. Trí Tuệ và Kiên Nhẫn)

490. Hãy làm việc không ngừng!

Hoàng đế Nã Phá Luân (1769-1821) cầm quân, chinh phạt khắp châu Âu. Ông thú nhận: “Tôi làm việc không ngừng.”
Muốn thành công trong mọi việc mình làm, bạn và tôi cũng phải làm việc không ngừng và không ngừng làm việc.
Bạn hãy hết sức cố gắng làm việc và không ngừng làm việc. Trời sẽ giúp bạn thành công chính đáng và lâu dài.
 
Cơ chế hữu hình
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
23:21 21/08/2008
CƠ CHẾ HỮU HÌNH

(Chúa Nhật XXI TN A)

Đã có lần người ta giật mình vì câu nói của một vị Bộ Trưởng Việt Nam tại diễn đàn Quốc Hội: “Với cơ chế này thì ai cũng có tội cả” ( ông Đào Đình Bình ). Chuyện đời là thế. Còn chuyện nhà đạo, thì ta thỉnh thoảng có nghe câu nói: “Tôi tin Chúa, nhưng tôi không thích Hội Thánh”. Hay nói như Voltaire: “Chúa Kitô hứa ban Nước Trời, thì Hội Thánh lại đến”. Những kiểu nói như trên hầu hết đều nhắm đến Hội Thánh cơ chế hữu hình. Thật vậy, cảm giác như bị tù túng, mất tự do hay thiếu thoải mái là cám dỗ triền miên của kiếp người, một tạo vật có lý trí và tự do. Cảm giác ấy càng tăng thêm khi người ta đối diện với một hệ thống tổ chức chặt chẽ, với một hệ thống luật lệ nghiêm minh và nhất là với một đôi vị nắm quyền có cung cách hành xữ như “ ông kẹ”.

Dù thích hay không thích, dù tích cực tham gia hay hoạt động cách cực chẳng đã, thì Kitô chúng ta vẫn phải nhìn nhận hiện thực: Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh. Ngoài thực thể siêu nhiên thì Hội Thánh vẫn có đó và phải có đó cơ chế hữu hình. Đã nói đến cơ chế thì không thể phủ nhận phẩm trật hay luật lệ. Đã nói đến cơ chế thì cần chấp nhận những con người cụ thể trong phận “bất thập toàn”. Thế mà Chúa Kitô như đồng hóa chính Người với Hội Thánh Người thiết lập, với cả những con người của cơ chế ấy đến nỗi Người đã từng nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy…Ai đón tiếp anh em là đón tiếp chính Thầy…Anh em cầm buộc điều gì thì trên trời cũng cầm buộc. Anh em tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi ( x.Mt 16,19 ). Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh. Điều này nói lên sự hiện hữu của Hội Thánh là cần thiết như tất yếu. Là Kitô hữu ít có ai nghi ngờ sự thật này. Nhưng vấn đề đặt ra là tính hữu hình với cơ chế của Hội Thánh.

Đã là người trong thân phận có xác và hồn, có tinh thần và thể chất, có bên trong và bên ngoài…và có tính xã hội, thì cơ chế hữu hình là điều tất yếu cần thiết. Tính xác thể đòi hỏi có cái hữu hình và tính xã hội đòi hỏi có các quy chế, luật lệ. Phẩm trật, quyền bính, luật lệ…của Hội Thánh cơ chế hiện hữu là do bởi yêu cầu của đoàn dân Thiên Chúa đang còn lữ thứ. Sự tồn tại khách quan của cơ chế hữu hình có nền tảng trên các chức năng mà nó đảm nhận. Ngoài chức năng tổng quát là phục vụ, xin được đề cập một số chức năng cụ thể của các cơ chế hữu hình.

1. Chức năng chuyển giao thông tin: Hội Thánh phẩm trật, cơ chế, đặc biệt qua các Đấng bậc được trao quyền bính chính là phương thế Chúa dùng để bày tỏ thánh ý của Người. Một trong các nhiệm vụ hàng đầu mà Chúa Kitô trao cho các tông đồ là rao giảng tin mừng cho mọi người ( x. Mt 28,19-20; Lc 24,47 ). Giáo luật buộc các linh mục trong ngày Chúa Nhật và Lễ buộc, nếu không có lý do nghiêm trọng thì phải giảng Lễ ( GL 767.2 ). Cơ chế phẩm trật Hội Thánh còn là phương thế Chúa dùng để chuyển giao thông tin giữa con người với nhau và từ con người lên đến Thiên Chúa. Trong Thánh lễ, cách riêng Thánh lễ Chúa Nhật, đoàn tín hữu tụ họp không chỉ để lắng nghe Lời Chúa mà còn để lắng nghe nhau và cùng nhau dâng lên Thiên Chúa tâm tư ước nguyện của mình. Điều này được thực hiện rõ nét trong phần “kinh nguyên đại đồng”( lời nguyện giáo dân ).

2. Chức năng trung gian của sự hiệp thông: Hội Thánh hữu hình là nơi ta gặp gỡ nhau, là nơi tập thể này mở lòng với tập thể khác trong tình một Cha trên trời. Cơ chế hữu hình của Hội Thánh giúp đoàn tín hữu có điều kiện thuận lợi để thông phần sự sống Chúa ban tặng, đặc biệt qua các cử hành phụng vụ và sự sẻ chia trong đức ái. Điều này được thể hiện cách cụ thể khi ta cùng tham dự Nghi Lễ Tạ Ơn ( cử hành Thánh Thể ). Chính khi cùng chia một tấm bánh và nâng cùng một chén, chúng ta được nên một với nhau trong Đức Kitô (x. Cor 10,15-17 ).

3. Chức năng gìn giữ sự công bằng, đặc biệt bảo vệ những người yếu thế, cô thân: Các tổ chức, luật lệ có ra là nhằm nâng đỡ, gìn giữ chúng ta những lúc ta yếu đuối, buông thả. Cái cơ chế hữu hình một cách nào đó chính là dây cương giữ ta khỏi ngã bên này, nghiêng bên kia theo cám dỗ của sự xấu, của ác thần. Ngoài ra, sự hiện hữu của các luật lệ, các tổ chức là một sức mạnh bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi những bất công do cảnh cá lớn nuốt cá bé. Như thế, quy tắc luật lệ hay quyền bính hữu hình vừa đảm nhận vai trò gìn giữ sự công bằng xã hội vừa gìn giữ và đòi hỏi chúng ta mãi vươn lên và lướt thắng chính mình.

Cũng như các cơ chế hữu hình khác trong xã hội, Hội Thánh phẩm trật với quyền bính, luật lệ…hiện hữu là tất yếu theo thánh ý của Thiên Chúa, đặc biệt theo ý định minh nhiên của Đức Kitô. Hội Thánh hiện hữu là để tiếp tục công trình cứu độ của Đức Kitô cho đến tận cùng thời gian và không gian. Tuy nhiên một điều chúng ta cần chân nhận với nhau rằng không phải một sớm một chiều mà cơ cấu tổ chức hữu hình của Hội Thánh có ngay và hình thành xem ra khá hoàn bị và có vẻ cồng kềnh như hiện nay.

Nếu nhìn Hội Thánh dưới chiều kích bí tích thì chúng ta cần xác nhận Hội Thánh là một phương thế, một công cụ Chúa Kitô thiết lập, Chúa Kitô dùng để tiếp tục chương trình cứu độ của Người. Đã là phương thế, là công cụ thì không phải cho chính nó nhưng là cho mục đích cần đạt tới, đồng thời cần được chỉnh sửa và hoàn bị luôn mãi. Điều này được lịch sử minh chứng rõ nét. Cả đến cơ cấu tổ chức, quyền bính, cả đến luật lệ và cách thế vận hành của Hội Thánh hữu hình không bao giờ ở mãi một trạng thái nhất định, nghĩa là chỉ có một cách, một kiểu duy nhất không thay đổi. Tuy nhiên dù có thay đổi hay chỉnh sửa Giáo Luật, cơ cấu tổ chức, cách hành xử quyền bính, thì đều nhắm để phụng sự Chúa và phục vụ con người cách hữu hiệu hơn, để thực thi các chức năng chuyển giao thông tin, làm trung gian sự hiệp thông, bảo vệ sự công bằng…cách tốt đẹp hơn.

Chúa Kitô khẳng định chính Người xây dựng Hội Thánh. Vì thế, chúng ta vững tin vào sự cần thiết và sự trường tồn của Hội Thánh trong thời gian lữ thứ này. Thế nhưng niềm tin ấy không loại trừ bổn phận của mỗi người chúng ta trong việc góp phần hoàn thiện Hội Thánh xét về phương diện hữu hình qua cơ cấu tổ chức, quyền bính, luật lệ, thể chế. Con người và các hình thái xã hội ngày mỗi đổi thay không ngừng. Chính vì thế các mối tương quan giữa người với người, giữa tập thể này với tập thể kia cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Các Đức Thánh Cha gần đây đã khẳng định rằng: “con người, chính là con đường của Hội Thánh”. Lời khẳng định này đòi hỏi chúng ta không chỉ chuyên chăm cầu nguyện cho Hội thánh, cho các Đấng bậc mà còn phải tích cực góp phần cách cụ thể, cho dù là bé nhỏ. Công đồng Vatican II đã lật ngược “tòa nhà Kim tự tháp” của quan niệm xưa khi đề cao khái niệm Hội Thánh là đoàn Dân Thiên Chúa. Không phải vì thế mà tín hữu chúng ta thừa cơ tung hoành kiểu “ phép vua thua lệ làng” nhưng phải làm sao để cho chuyện “ ý dân là ý trời” được thể hiện một cách nào đó dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang đồng hành với Hội Thánh, Đấng đang cùng với Hội Thánh khẩn khoản nài xin Đức Kitô lại đến ( x. Kh 22,17 ).
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ không mời Tổng giám mục Chaput tham dự.
Phụng Nghi
10:25 21/08/2008
Denver (CNA) - Charles J. Chaput, Tổng giám mục giáo phận Denver, không được mời tới cầu nguyện hoặc phát biểu tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ sắp tới tổ chức tại Denver, bang Colorado. Điều này được cựu thị trưởng Boston, ông Ray Flynn, gọi là một “sơ suất nghiêm trọng” và là một “điều sỉ nhục” cho các tiêu chuẩn đạo đức của những người Công giáo phò sinh (pro-life).

Theo tin của báo Washington Times thì có nhiều người Công giáo sẽ có mặt trong chương trình Đại hội Đảng Dân chủ, chẳng hạn Polly Baca, cựu thượng nghị sĩ bang Colorado; ữ tu Helen Prejean, tác giả “Dead Man Walking”; Nữ tu Catherine Pinkerton, chuyên viên vận động hành lang về công lý xã hội; Douglas W. Kmiec, giáo sư trường Đại học Pepperdine.

Ông Raymond Flynn, đảng viên Dân chủ, cựu thị trưởng Boston và cựu đại sứ Hoa kỳ tại Vatican dưới thời chính phủ Clinton, nói rằng không mời vị tổng giám mục này tời cầu nguyện hoặc phát biểu là một “ điều sơ suất nghiêm trọng.”

Theo tường trình của báo Washington Times thì ông nói: “Chaput là một trong những nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của Giáo hội Công giáo Hoa kỳ. Ngài đã có thành tích ủng hộ mạnh mẽ nền công lý xã hội và kinh tế cũng như các nguyên lý của đức tin Công giáo. Đồng thời ngài cũng là người yêu nước thiết tha.”
Tổng Giám mục Charles J. Chaput


“Những người phò sinh trong Đảng Dân chủ tự hào là người Công giáo như chính tôi đây, cảm thấy đó là một sự sỉ nhục cho các giá trị đạo đức của chúng ta…Đảng (Dân chủ) phải nhận thức được rằng có nhiều người phò sinh mạnh mẽ đã thành công về chính trị.”

Tổng giám mục Chaput đã giải thích về phản ứng của ngài khi không được mời tham dự:

“Tôi vui mừng thấy rằng họ sẽ có lời cầu nguyện tại các phiên họp. Họ có quyền lựa chọn người họ muốn để làm chuyện đó.”

Phát biểu về những người Công giáo được chọn, ngài nói: “Hy vọng, những người đó ý thức được rằng được làm người Công giáo là điều thiết yếu cho căn tính của họ hơn bất cứ điều gì khác.”

Vào thứ Hai này, 25 tháng 8, trong đêm khai mạc Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ, tổng giám mục Chaput sẽ cùng với Alveda King, cháu họ của mục sư Martin Luther King, Jr, tham gia một buổi canh thức cầu nguyện chống nạn phá thai tại Công viên Martin Luther King ở Denver. Địa điểm này gần Y viện Kế hoạch Gia đình (Planned Parenthood Clinic), nơi thường thực hiện các vụ phá thai.

Tuỳ viên báo chí Natalie Wyeth của Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ, khi được báo Washington Times tiếp xúc đã nói rằng tổng giám mục Chaput cho biết ngài quá bận nên không tới tham dự được.

Cuốn sách “Render Unto Caesar: Serving the Nation by Living Our Catholic Beliefs in Political Life” (Trả lại cho Xê-gia: Phục vụ Tổ quốc bằng cách Sống Niềm tin Công giáo trong Sinh hoạt Chính trị) của đức tổng giám mục Chaput mới xuất bản tuần trước, trong đó ngài nói rằng đó là một nỗ lực “thuyết phục người ta đừng ngượng ngùng khi nhận mình là người Công giáo và đừng theo quan niệm - được gán cho là của dân Mỹ - bảo rằng người ta nên bỏ đức tin của mình vào ngăn tủ khi gia nhập vào khu vực công quyền.”

Ngài nói: “Tôi chán cảnh người ta bảo người theo đạo phải im lặng nơi khu vực công, nại cớ các vấn đề về hiến pháp quy định tách rời giáo hội ra khỏi nhà nước. Tôi hy vọng sẽ khuyến khích người ta trở thành tự tin và tích cực hơn.”

Tổng giám mục Chaput cho biết 47 triệu cử tri Công giáo, trong đó có nhiều người thuộc Đảng Dân chủ, vào những năm trước đây đã có thể “đòi hỏi rằng vấn đề phá thai được ghi vào cương lĩnh của đại hội đảng, nhưng họ đã không làm.”
 
Sống với Chúa Kitô sẽ thành công chuyện nhân bản (2)
Vũ Văn An
22:22 21/08/2008
Sống với Chúa Kitô sẽ thành công chuyện nhân bản (tiếp theo)

4. Cha Karl Golser: Kính thưa Đức Thánh Cha, tên con là Karl Golser, con là giáo sư thần học luân lý tại đây, tại Bressanone này, và cũng là giám đốc Viện Công Lý, Hòa Bình và Bảo Tồn Sáng Thế; con cũng là một kinh sĩ. Con rất vui nhớ lại thời kỳ được làm việc với Đức Thánh Cha tại Thánh Bộ Giáo Thuyết Đức Tin.

Như Đức Thánh Cha biết, Giáo Hội Công Giáo đã một cách sâu sắc tạo ra lịch sử và nền văn hóa của xứ sở chúng con. Tuy nhiên, ngày nay, đôi khi chúng con có cảm tưởng là trong tư cách Giáo Hội, hình như chúng ta đang lui dần vào phòng mặc áo lễ (sacristy). Các tuyên bố của huấn quyền giáo hoàng về các vấn đề xã hội quan trọng không tìm được đáp ứng đúng đắn nơi các giáo xứ và cộng đoàn giáo hội.

Ở đây, ở tại Alto Adige này, chẳng hạn, các thẩm quyền và nhiều hiệp hội đã mạnh mẽ kêu gọi người ta chú ý tới các vấn đề môi sinh, nhất là việc thay đổi khí hậu. Các luận điểm chính yếu là: các đá băng hóa nước, núi non lở đất, các vấn đề chi phí về điện năng, lưu thông, và việc bầu khí quyển ô nhiễm. Hiện có khá nhiều sáng kiến để bảo vệ môi sinh.

Tuy nhiên, trong ý thức trung bình của người Kitô hữu chúng ta, tất cả các vấn đề ấy rất ít liên quan tới đức tin. Ta có thể làm gì để gia tăng cảm thức trách nhiệm đối với sáng thế trong đời sống các cộng đồng Kitô giáo? Ta có thể làm gì để nhìn ra Sáng Thế và Cứu Thế kết hợp gần gũi với nhau hơn? Ta có thể sống lối sống Kitô giáo cách gương mẫu ra sao để nó sống còn lâu dài? Và làm thế nào ta có thể kết hợp lối sống ấy với phẩm tính sự sống khiến nó trở thành hấp dẫn đối với mọi người trên thế giới?


Đức Benedict XVI: Cám ơn cha nhiều, thưa Giáo sư Golser thân mến. Chắc chắn cha có khả năng hơn tôi trong việc giải đáp các câu hỏi này, nhưng tôi cũng xin cố gắng nói đôi điều. Như thế là cha đã đụng tới chủ đề Sáng Thế và Cứu Thế và tôi nghĩ ta nên dành cho mối liên kết không thể hủy tiêu này một chỗ đứng nổi bật mới.

Trong mấy thập niên gần đây, giáo thuyết về Sáng Thế gần như đã biến mất khỏi thần học, nó gần như không còn được ai nhận ra nữa. Ngày nay, ta biết rõ các tác hại do việc biến mất ấy tạo ra. Đấng Cứu Thế cũng là Đấng Sáng Thế và nếu ta không tuyên xưng Thiên Chúa trong vẻ cao cả đầy đủ của Người, vừa là Đấng Sáng Thế vừa là Đấng Cứu Thế, ta cũng sẽ giảm thiểu giá trị của Cứu Thế.

Thực vậy, nếu Thiên Chúa không có vai trò gì trong Sáng Thế, nếu Người bị hạ xuống hàng đồng văn lịch sử, thì làm sao Người thực sự hiểu được toàn bộ cuộc sống ta? Thì làm sao Người có khả năng đem ơn cứu độ lại cho con người trong cái toàn diện của họ và cho thế giới trong cái toàn bộ của nó?

Đối với tôi, đó là lý do tại sao việc canh tân học thuyết về Sáng Thế và việc hiểu biết mới về tính bất phân giữa Sáng Thế và Cứu Thế có tầm hết sức quan trọng. Ta phải nhìn nhận một lần nữa rằng Người là Thần Trí Sáng Thế, là Lý Trí hiện hữu từ nguyên thủy, nhờ Lý Trí ấy muôn vật được sinh ra và lý trí ta chỉ là tia nhỏ phát sinh từ Lý Trí ấy.

Và chính Người, chính Đấng Sáng Thế, đã bước vào và có thể bước vào lịch sử và hành động trong đó, (sở dĩ như thế) chính là bởi vì Người là Thiên Chúa của toàn bộ chứ không phải chỉ của từng phần. Nếu ta nhìn nhận điều ấy, hệ luận hiển nhiên sẽ là Cứu Thế, làm Kitô hữu, (mang) niềm tin Kitô giáo, cũng có nghĩa là nhận trách nhiệm bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào đối với sáng thế.

Hai mươi ba năm trước đây, Kitô hữu bị tố cáo, một tố cáo tôi không rõ hiện còn được duy trì hay không, là phải chịu trách nhiệm đối với việc hủy diệt sáng thế chỉ vì mấy chữ trong sách Sáng Thế: “hãy thống trị mặt đất”, những lời mà người ta cho là đã dẫn tới thái độ ngạo mạn đối với sáng thế mà ngày nay ta đang phải lãnh các hậu quả của thái độ ấy.

Tôi nghĩ ta cần phải học một lần nữa để hiểu lời tố cáo kia trong mọi nét sai lầm của nó: Bao lâu trái đất được quan niệm như sáng thế của Chúa, thì nhiệm vụ “thống trị” nó không bao giờ có nghĩa như một lệnh truyền phải nô lệ hóa nó, nhưng đúng hơn phải là nhiệm vụ làm người trông coi sáng thế và khai triển các quà phúc của nó; nhiệm vụ tích cực cộng tác vào công trình của Chúa, vào sự biến hóa Người vốn xếp đặt trong thế giới, ngõ hầu các quà phúc của sáng thế được trân qúy chứ không bị chà đạp và hủy diệt.

Nếu ta chịu quan sát những điều xẩy ra quanh các đan viện, ở những nơi ấy biết bao tiểu địa đàng, ốc đảo của sáng thế đã và còn đang tiếp tục được sinh hạ, thì điều hiển nhiên là những thực tại ấy đâu phải chỉ là lời lẽ xuông. Đúng hơn, bất kể ở đâu, nếu lời Đấng Sáng Thế được hiểu đúng đắn, thì ở đấy sự sống được sống với Đấng Sáng Thế cứu thế, và con người tìm cách cứu vớt sáng thế chứ không hủy diệt nó.

Chương 8 Thư gửi tín hữu Rôma cũng rất thích hợp trong bối cảnh này. Chương này nói rằng toàn bộ sáng thế đang rên la trong cơn đau đẻ vì cảnh nô lệ nó đang gánh chịu, trong lúc mong chờ ơn mạc khải của con cái Chúa: Nó sẽ thấy mình được giải thoát khi các tạo vật, đàn ông lẫn đàn bà vốn là con cái Thiên Chúa, đối xử với nó theo cái nhìn của Thiên Chúa.

Tôi tin rằng ngày nay ta có thể thiết dựng chính điều đó làm thực tại. Sáng Thế đang rên la, ta nhận ra nó, ta gần như nghe được tiếng nó, và đang mong chờ các hữu thể nhân bản duy trì nó theo kế hoạch Thiên Chúa. Việc tàn nhẫn tiêu thụ sáng thế bắt đầu tại nơi nào Thiên Chúa không hiện diện, nơi chỉ có vật thể [matter] là vật liệu duy nhất đối với chúng ta, nơi chính chúng ta trở thành đòi hỏi tối hậu, nơi cái toàn bộ chỉ còn là sở hữu của ta và ta tiêu thụ nó cho một mình ta mà thôi.

Và việc phí phạm sáng thế bắt đầu khi ta không còn nhìn nhận bất cứ nhu cầu nào cao hơn nhu cầu của ta, mà chỉ thấy chính chúng ta mà thôi. Nó bắt đầu khi không còn quan niệm nào về sự sống sau khi chết nữa, khi ở đời này ta phải nắm được mọi sự và sở hữu được cuộc sống cao độ bao nhiêu có thể, khi ta phải sở hữu được bất cứ điều gì có thể sở hữu được.

Cho nên, tôi nghĩ, các sáng kiến chân thực và hữu hiệu nhằm ngăn ngừa việc phí phạm và hủy diệt sáng thế chỉ có thể được thi hành và khai triển, được hiểu và sống khi nào sáng thế được coi như do Chúa mà có; khi sự sống được coi như bắt đầu với Chúa và có những chiều kích lớn lao hơn, trong trách nhiệm đối với Chúa, và một ngày kia sẽ được Chúa ban cho viên mãn và không bị lấy mất khỏi chúng ta: ta tiếp nhận được sự sống bằng cách trao ban nó đi.

Như thế, tôi tin rằng bằng mọi cách ta phải trình bày đức tin nơi công cộng, nhất là ở những chỗ vốn nhậy cảm đối với nó.

Và tôi nghĩ rằng cái cảm giác cho rằng thế giới đang tuột dốc, vì chính chúng ta đang xua đuổi nó, và cái cảm tưởng bị các vấn đề sáng thế đè nén, thực ra đem lại cho chúng ta cơ hội thích hợp để đức tin của ta có thể lên tiếng công khai và làm cho người ta cảm thấy nó như một sáng kiến đề nghị.

Thực thế, đây không phải chỉ là vấn đề khám phá ra các kỹ thuật học nhằm ngăn ngừa các tác hại, mặc dù, trong nhiều điều cần làm, điều quan trọng vẫn là phải tìm ra các nguồn năng lượng thay thế.

Ấy thế nhưng, không một điều nào như thế đã đủ, ngoại trừ phải tìm cho được lối sống mới, một kỷ luật biết hy sinh, một kỷ luật biết nhìn nhận người khác, những người mà sáng thế vốn thuộc về chẳng kém gì thuộc về ta, những người rất có thể biết cách sử dụng nó cách dễ dàng hơn nhiều; một kỷ luật biết nhận trách nhiệm liên quan đến tương lai người khác và tương lai của chính chúng ta, vì nó là trách nhiệm dưới con mắt của Đấng vốn là Quan Tòa của ta và trong tư cách ấy cũng là Đấng Cứu Thế, nhưng quả Người cũng là Quan Tòa của ta.

Thành thử ra, tôi nghĩ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hai chiều kích kia, chiều kích Sáng Thế và chiều kích Cứu Thế, cuộc sống trần thế và cuộc sống đời đời, trách nhiệm đối với sáng thế và trách nhiệm đối với người khác và đối với tương lai, nên được đặt kề nhau. Tôi cũng nghĩ: nhiệm vụ của chúng ta là phải can thiệp rõ ràng và một cách đầy quyết tâm vào ý kiến công chúng. Để họ lắng nghe, ta phải cùng một lúc dùng gương sáng và lối sống của mình mà chứng tỏ rằng chúng ta đang nói về một sứ điệp mà chính chúng ta tin tưởng và người ta có thể sống theo được.

Và chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta biết sống thực đức tin và trách nhiệm đức tin của mình một cách thế nào đấy cho lối sống của ta trở nên chứng tá; và sau đó biết nói sao đó để việc làm của chúng ta có thể chuyên chở được đức tin làm phương hướng cho thời đại mình.

5. Cha Franz Pixner, quản hạt Kastelruth: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là Franz Pixner và con là mục tử của hai giáo xứ lớn. Con cũng như nhiều đồng nghiệp và giáo dân rất quan tâm đến gánh nặng ngày một gia tăng phải chăm sóc mục vụ do các đơn vị mục vụ đang được tạo ra gây nên: áp lực nặng nề của công việc, thiếu được thừa nhận, nhiều khó khăn liên quan đến Huấn Quyền, cô đơn lẻ loi, con số linh mục giảm đi và cả con số các cộng đoàn tín hữu nữa. Nhiều người thắc mắc Chúa đang đòi hỏi gì nơi chúng con trong hoàn cảnh này và Chúa Thánh Thần muốn khích lệ chúng con ra sao?

Trong bối cảnh ấy, nẩy sinh các vấn nạn liên quan tới các việc như độc thân của linh mục, việc phong chức linh mục những người đã có gia đình (viri probati), việc can dự của các đặc sủng, nhất là các đặc sủng của nữ giới, vào việc chăm sóc mục vụ, biến những người đàn ông và đàn bà thành các cộng tác viên được huấn luyện về thần học đủ để chịu trách nhiệm cử hành Phép Rửa và giảng lời Chúa.

Câu hỏi cũng được đặt ra là linh mục chúng con, khi đối đầu với các thách đố mới, có thể giúp đỡ nhau ra sao trong một cộng đồng huynh đệ, ở nhiều bình diện khác nhau của giáo phận, trong hàng ngũ phó tế và đơn vị mục vụ và giáo xứ.

Kính thưa Đức Thánh Cha, chúng con xin Đức Thánh Cha cho chúng con ý kiến tốt đẹp về tất cả các vấn đề ấy. Chúng con cám ơn Đức Thánh Cha!


Đức Benedict XVI: Thưa cha quản hạt, cha đã mở ra một loạt các câu hỏi hiện đang làm các mục tử và mọi người chúng ta bận tâm và quan tâm, và chắc cha biết là ở đây, tôi không thể trả lời mọi câu hỏi ấy được. Tôi tưởng tượng rằng cha sẽ có nhiều dịp để cùng với đức giám mục của cha xem sét chúng và chúng tôi, chúng tôi sẽ đề cập đến chúng trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều cần cuộc đối thoại này với nhau, cuộc đối thoại về đức tin và trách nhiệm, để tìm thấy nẻo đường hẹp thẳng tắp trong thời đại này, đầy những viễn ảnh khó khăn của đức tin và trách nhiệm đối với linh mục. Không một ai có được thứ thực đơn ăn liền, tất cả chúng ta phải cùng nhau tìm ra. Với sự dè dặt ấy, tôi thấy mình đang cùng tất cả qúy vị đứng giữa diễn trình lao nhọc và chiến đấu lao đao nội tâm này, tôi sẽ cố gắng nói ít điều, chỉ như một phần của cuộc đối thoại rộng lớn hơn mà thôi.

Để trả lời, tôi muốn khảo sát hai khía cạnh căn bản: một đàng, là việc không thể thay thế các linh mục, ý nghĩa và phương cách của thừa tác vụ linh mục ngày nay; đàng khác, và điều này nay càng hiển nhiên hơn bao giờ hết, đó là tính đa dạng của các đặc sủng và sự kiện này nữa tất cả các đặc sủng ấy cùng nhau đều là Giáo Hội cả, chúng xây đắp nên Giáo Hội và vì thế, ta phải ráng làm sống dậy các đặc sủng. Ta phải cổ vũ cái toàn bộ sống động này là cái toàn bộ đến lượt nó cũng sẽ hỗ trợ vị linh mục. Ngài hỗ trợ người khác, người khác hỗ trợ ngài và chỉ trong cái toàn bộ phức tạp và đa dạng này, Giáo Hội mới có thể phát triển trong lúc này và hướng về tương lai.

Đàng khác, ta luôn luôn cần có linh mục, một người hiến toàn thân cho Chúa và do đó hiến toàn thân cho nhân loại. Trong Cựu Ước, có lời kêu gọi ‘thánh hóa’, một lời kêu gọi tương ứng với điều nay ta gọi là ‘tận hiến’ (consecration) hay ngay cả ‘thụ phong linh mục’: một điều gì đó được dành riêng ra cho Thiên Chúa và do đó được tách ra khỏi lãnh vực thông thường, một điều gì đó được dâng cho Chúa. Ấy thế nhưng, điều ấy ngày nay lại có nghĩa: nó sẵn sàng có đó cho mọi người.

Vì nó được tách ra và dâng lên cho Chúa, nên chính vì lẽ đó, nay nó không còn bị cô lập vì đã được nâng từ “cho” lên “cho mọi người”. Tôi nghĩ ta có thể nói cùng một điều ấy về chức linh mục của Giáo Hội. Một đàng chức linh mục ấy có nghĩa là chúng ta được ký thác cho Chúa, tách biệt khỏi cuộc sống tầm thường, nhưng mặt khác, ta được ký thác cho Người vì bằng cách đó ta có thể thuộc trọn về Người và thuộc trọn về người khác.

Tôi tin chúng ta phải liên tục tìm cách chứng tỏ điều ấy cho giới trẻ, cho những nhà lý tưởng nào muốn làm một cái gì đó cho toàn bộ, chứng tỏ cho họ thấy chính việc “được tách ra khỏi cái thông thường” có nghĩa là để “ký thác cho cái toàn bộ” và đó là cách quan trọng, cách quan trọng nhất, để phục vụ anh em mình.

Hơn nữa, một phần của việc ấy thực sự làm ta trở nên sẵn sàng có đó cho Chúa trong cái viên mãn của hữu thể mình và do đó, thấy mình hoàn toàn sẵn sàng có đó cho mọi người. Tôi nghĩ việc độc thân từ căn bản diễn tả chính tính toàn diện ấy và vì thế, là một quy chiếu quan trọng trên thế gian này vì nó chỉ có nghĩa nếu ta thực sự tin vào cuộc sống trường sinh và nếu ta tin thật rằng Thiên Chúa cần có ta và ta có thể thuộc về Người.

Cho nên, chức linh mục là tối cần thiết vì Giáo Hội đã được xây dựng trong chính Phép Thánh Thể, một phép từ Chúa phát sinh ra; trong Bí Tích Thống Hối, ta được trao ban sự thanh tẩy; trong Bí Tích, chức linh mục đúng là một can dự vào cái “cho” (for) của Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, tôi biết việc đó ngày nay rất khó, khi một linh mục thấy mình phải điều khiển không những một giáo xứ dễ quản trị mà là nhiều giáo xứ và đơn vị mục vụ; khi ngài phải sẵn sàng có đó để đưa ra ý kiến này hay ý kiến nọ, v.v…sống cuộc sống như thế khó khăn xiết bao. Tôi tin rằng trong hoàn cảnh như thế, điều quan trọng là phải có can đảm tự giới hạn mình và phải rõ rệt xác định ra các ưu tiên.

Ưu tiên nền tảng của đời sống linh mục là ở với Chúa và như thế phải có thì giờ để cầu nguyện. Thánh Charles Borromeo luôn hay nói: “Bạn sẽ không thể chăm sóc linh hồn người khác nếu bạn để cho chính linh hồn bạn phải hư đi.Cuối cùng, bạn cũng chả làm được bất cứ việc gì cho người khác. Bạn phải luôn dành thì giờ ở với Chúa”.

Cho nên, tôi muốn nhấn mạnh điều này: dù bất cứ yêu cầu nào xuất hiện, ưu tiên thực sự là mỗi ngày, tôi dám nói thế, phải tìm ra một giờ để im lặng dành cho Chúa và ở với Chúa, như Giáo Hội khuyên ta phải đọc sách nguyện, với kinh nguyện hàng ngày, ngõ hầu ta liên tục phong phú hóa chính ta từ bên trong, và, như tôi đã nói khi trả lời câu hỏi thứ nhất, có thể trở vào trong tầm tới của hơi thở Chúa Thánh Thần. Và để sắp xếp ưu tiên trên căn bản này: tôi phải học biết nhận ra điều gì thực sự chính yếu, nơi mà sự hiện diện trong tư cách linh mục của tôi là tối thiết không thể miễn chước được và là nơi tôi không thể ủy trách nhiệm cho bất cứ ai khác. Và đồng thời, tôi phải khiêm nhường chấp nhận có những lúc có nhiều việc tôi nên làm và đòi sự hiện diện của tôi nhưng tôi không làm sao xoay sở được vì tôi biết các giới hạn của mình. Tôi nghĩ ai cũng hiểu sự khiêm nhường này.

Và giờ đây, tôi phải liên kết một khía cạnh nữa vào đó: là phải biết cách ủy quyền, biết cách làm cho người khác hợp tác với mình. Tôi có cảm tưởng người ta sẵn sàng hiểu và biết lượng giá điều ấy khi một linh mục ở với Chúa, khi ngài quan tâm đến chức vụ mình là người cầu nguyện cho người khác: họ sẽ nói “chúng con không thể cầu nguyện nhiều như thế được, cha phải cầu nguyện cho chúng con: xét trong căn bản, đó là việc của cha, vì việc của cha là làm người cầu nguyện cho chúng con”.

Họ muốn có một vị linh mục thực tâm cố gắng sống với Chúa và rồi sẵn sàng có đó (available) cho mọi người, người đau khổ, người ốm đau, trẻ em, người trẻ (tôi dám nói họ là các ưu tiên của ta), và là người biết phân biệt được những việc người khác có thể làm tốt hơn ngài, cho nên ngài phải sẵn sàng dành chỗ cho những tài năng ấy.

Tôi nghĩ tới các Phong Trào và rất nhiều hình thức cộng tác trong giáo xứ. Ước chi tất cả những việc ấy đều được phản ảnh trên bình diện giáo phận, nên tạo ra các hình thức cộng tác mới và khích lệ các trao đổi hỗ tương.

Cha nói rất đúng rằng về điểm này, điều quan trọng là phải biết nhìn quá giáo xứ tới cộng đồng giáo phận, và thực ra, còn tới cả cộng đồng Giáo Hội phổ quát nữa. Đến lượt mình, Giáo hội phổ quát này phải hướng tầm nhìn của mình để nhận ra những gì đang xẩy ra cho giáo xứ và hậu quả nào xẩy tới cho cá nhân linh mục.

Rồi cha còn đề cập tới một điểm nữa, theo tôi rất quan trọng: các linh mục, ngay cả lúc sống cách biệt nhau vẫn là một cộng đoàn huynh đệ thực sự, một cộng đoàn yểm trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Để đừng rơi vào cô lập, vào cô đơn với những sầu buồn của nó, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thường xuyên gặp gỡ nhau.

Giáo phận phải có trách nhiệm lập ra phương cách tổ chức tốt nhất các buổi gặp gỡ của các linh mục, ngày nay chúng ta có xe hơi nên việc đi lại dễ dàng hơn nhiều, để cảm nghiệm có nhau mãi mãi được tươi mới, học hỏi lẫn nhau, sửa chữa cho nhau và giúp đỡ nhau, động viên nhau và khích lệ nhau ngõ hầu trong sự hiệp thông của hàng ngũ linh mục này, cùng với vị giám mục, chúng ta có thể tiến hành được việc phục vụ giáo hội địa phương. Chính là điểm này: không linh mục nào là linh mục một mình được; chúng ta là hàng ngũ linh mục và chỉ trong hiệp thông với giám mục này, mỗi người mới có thể tiến hành việc phục vụ của mình được.

Bây giờ, sự hiệp thông đẹp đẽ vốn được mọi người nhìn nhận trên bình diện thần học này, cũng phải được phát biểu ra bằng hành động theo cách thế được giáo hội địa phương nhận diện ra, và sự hiệp thông đó cần được mở rộng vì không một vị giám mục nào là giám mục một mình nhưng là một giám mục trong đoàn giám mục (college), trong hiệp thông vĩ đại các giám mục khắp nơi. Đó là sự hiệp thông ta luôn phải ráng đạt tới.

Và tôi nghĩ: đây là khía cạnh đẹp đẽ một cách đặc biệt của Đạo Công Giáo: nhờ tính Tối Thượng (Primacy), vốn không phải là một thứ quân quyền tuyệt đối mà là một phục vụ cho hiệp thông, chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hiệp nhất kia. Như thế, trong một cộng đồng rộng lớn có nhiều tiếng nói, tất cả chúng ta cùng nhau tạo nên bản nhạc đức tin vĩ đại vang vang khắp mặt địa cầu.

Ta hãy cầu xin Chúa khích lệ chúng ta khi chúng ta nghĩ mình không thể xoay sở hơn nữa: chúng ta hãy nâng đỡ nhau, rồi Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau tìm ra nẻo đường đi đúng đắn.

6. Cha Paolo Rizzi, cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo. Chúng con muốn được nghe ý kiến mục vụ của Đức Thánh Cha về hoàn cảnh liên quan đến các Bí Tích Rước Lễ Lần Đầu và Thêm Sức. Luôn có hiện tượng ngày càng có nhiều trẻ em, cả trai lẫn gái, lúc dọn mình lãnh nhận hai Bí Tích này thì cam kết dự các buổi giáo lý nhưng không chịu tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, nên có người đã thắc mắc: làm thế có ích lợi gì? Đôi lúc chúng con muốn bảo họ: “Thà cứ ở nhà còn hơn”.

Tuy nhiên, chúng con vẫn tiếp tục tiếp nhận họ như bao giờ hết, vì tin rằng dù sao cũng tốt hơn là dập tắt cái bấc vẫn còn đang leo lét kia. Nghĩa là chúng con tin rằng dù sao ơn Chúa Thánh Thần vẫn có thể gây hiệu quả quá điều chúng con có thể thấy và trong một thời đại có tính chuyển tiếp như thế này, khôn ngoan nhất là đừng đưa ra những quyết định có tính quyết liệt.

Nói tổng quát hơn, cách nay 35 năm, con nghĩ rằng chúng ta đang bắt đầu trở thành một đoàn chiên nhỏ, một cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở khắp nơi tại Âu Châu; bởi thế, chúng ta chỉ nên ban các bí tích cho những ai thực sự cam kết sống cuộc sống Kitô hữu mà thôi. Nhưng rồi, một phần nhờ phong cách của Triều Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, con lại đã có suy nghĩ khác. Nếu có thể tiên đoán được tương lai, Đức Thánh Cha sẽ nghĩ sao? Đức Thánh Cha sẽ gợi ý cho chúng con các phương thức mục vụ nào? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.


Đức Benedict XVI: Đồng ý, (nhưng) ở đây tôi không thể đưa ra được câu trả lời hoàn toàn đúng, tôi chỉ ráng trả lời theo cái nhìn của tôi thôi. Tôi phải nói ngay: tôi cũng theo một lối tương tự như của cha.

Khi còn trẻ, tôi khá nghiêm khắc. Tôi bảo: bí tích là bí tích đức tin, nên ở đâu không có đức tin, không có việc thực hành đức tin, thì không thể ban Bí Tích được.

Và rồi, khi đã làm tổng giám mục Munich, tôi thường nói với cha xứ của tôi: cả ở đây nữa vẫn có hai phe, một phe nghiêm khắc và một phe cởi mở. Rồi với thời gian, tôi mới hiểu ra rằng đúng hơn ta phải theo gương Chúa chúng ta, Đấng luôn luôn cởi mở cả với những người ở bên lề xã hội Israel lúc ấy. Người là Chúa của cảm thương, và, theo nhận định của nhiều thẩm quyền chính thức, Người cũng cởi mở cả với người tội lỗi nữa, chào đón họ và để họ mời mình dùng bữa, lôi kéo họ vào hiệp thông với mình.

Cho nên, tôi muốn nói một cách chắc chắn rằng các bí tích đương nhiên là các bí tích đức tin: khi không có tí yếu tố đức tin nào, khi Rước Lễ Lần Đầu chỉ là bữa ăn trưa thịnh soạn không hơn không kém, với quần áo đẹp và quà tặng hậu hĩnh, thì nó không còn là bí tích đức tin nữa.

Ấy thế nhưng, mặt khác, nếu ta vẫn còn nhận ra một đốm lửa nhỏ nào đó, muốn được rước lễ trong đức tin, một ý muốn ngay nơi trẻ em, muốn được bước vào hiệp thông với Chúa Giêsu, thì với tôi, xem ra ta phải có thái độ cởi mở mới đúng.

Lẽ dĩ nhiên, một mục đích trong giáo lý của ta là giúp trẻ em hiểu rằng Rước Lễ, Rước Lễ Lần Đầu không phải là một biến cố “cố định”, nhưng đòi có sự liên tục trong tình bạn với Chúa Giêsu, đòi phải cùng đồng hành với Chúa Giêsu. Tôi biết: trẻ em thường có ý định và ước muốn được đi Lễ Chúa Nhật nhưng chính cha mẹ các em đã không giúp làm cho ước muốn ấy có thể thực hiện được.

Nếu ta thấy trẻ em muốn điều ấy, muốn đi lễ, thì với tôi điều ấy gần như đã là bí tích bằng ước muốn rồi, là “ý chí” muốn tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Theo nghĩa này, lẽ đương nhiên, trong bối cảnh chuẩn bị lãnh nhận bí tích, ta phải làm hết cách để bắt tay với cả cha mẹ các em nữa, và như thế, có thể nói, ta đã đánh thức trong họ sự nhậy cảm đối với diễn trình mà con em họ đang can dự vào.

Họ nên giúp con cái họ để chúng tuân theo ý muốn riêng của chúng mà bước vào tình bạn với Chúa Giêsu. Tình bạn này vốn là một hình thức sống, một dạng thái tương lai. Nếu cha mẹ muốn con cái mình có khả năng Rước Lễ Lần Đầu, thì ý muốn nặng tính xã hội này có thể phát triển thành ý muốn có tính tôn giáo, giúp cho cuộc đồng hành với Chúa Giêsu trở nên có thể thực hiện được.

Cho nên, tôi muốn nói rằng trong bối cảnh dạy giáo lý cho trẻ em, công tác với cha mẹ các em là điều hết sức quan trọng. Và chính đây là một trong các dịp may để tiếp xúc với các cha mẹ, làm cho đời sống đức cũng hiện hữu đối với người trưởng thành, vì, theo tôi, cả họ nữa, họ cũng có thể nhờ con cái mà học tập lại đức tin và hiểu được rằng dịp long trọng này chỉ có nghĩa, chỉ đúng đắn và xác thực nếu được cử hành trong bối cảnh đồng hành với Chúa Giêsu, trong bối cảnh đời sống đức tin mà thôi.

Như thế, ta nên ráng, qua các trẻ em, mà thuyết phục các cha mẹ xác tín được nhu cầu phải có cuộc hành trình chuẩn bị, một cuộc hành trình được diễn tả qua việc tham dự vào các mầu nhiệm, một hành trình bắt đầu bằng việc làm cho các mầu nhiệm này được yêu mến.

Tôi muốn nói: chắc chắn đây không phải là lời giải đáp hoàn toàn thỏa đáng, nhưng sư phạm đức tin luôn là một hành trình và ta phải chấp nhận hoàn cảnh thời nay. Ấy thế nhưng, ta cũng phải mở rộng những hoàn cảnh ấy tới từng con người nhiều hơn, để kết quả lâu dài không phải chỉ là ký ức bề ngoài về sự vật mà lòng các em được thực sự đánh động.

Giây phút ta xác tín được là trái tim đã được đánh động, lúc nó cảm nhận được chút ít tình yêu Chúa Giêsu, cảm nhận được chút ít ý muốn được tiến bước trên các ngả đường của hướng đi này, thì đó là giây phút, theo tôi, ta có thể nói được rằng ta đã thực hiện được bài giáo lý đúng nghĩa. Thực vậy, ý nghĩa đúng đắn của giáo lý phải như thế này: đem ngọn lửa tình yêu của Chúa Giêsu, dù hết sức leo lét, đến với tâm hồn trẻ em, và qua các em tới cha mẹ chúng, nhờ thế mà mở lại được nhiều ngả đức tin cho thời đại ta.

Theo bản tiếng Anh của tờ L’Osservatore Romano 13-20 tháng Tám 2008
 
Top Stories
Bishop of Beijing invites Pope Benedict XVI to visit China
Time OnLine
10:17 21/08/2008
VATICAN - The Vatican has described an invitation to Pope Benedict XVI to visit China as "very positive and encouraging".

Father Federico Lombardi, the Vatican spokesman, said talk of a papal trip to China was "premature for now". There were "still many unresolved problems", he told Vatican Radio. However the invitation from Joseph Li Shan, the Bishop of Beijing, showed that "all Chinese Catholics love and respect the Pope and recognise his authority" Father Lombardi sad.

A spokesman for the official Chinese Catholic Church told AFP "We hope he can visit China as soon as possible. That would be good for the Chinese Catholic Church. However, the first step is to establish diplomatic relations".

Bishop Li told RAI, Italian state television: "We very much hope that the Pope will come to China. It's a great aspiration, and we hope it will materialise. Relations with the Vatican are constantly improving".

However China has long demanded that the Vatican end its official relationship with Taiwan before diplomatic relations, broken off in 1951, can be restored. In an increasingly common pattern Li was appointed last September by Beijing, but with the Vatican's approval.

The consecration ceremony was held at the Cathedral of the Immaculate Conception in Beijing. Bishop Li, 42, who succeeded the late Bishop Michael Fu Tieshan, pledged that he would lead the faithful in maintaining "national unity and social stability."

Last year Pope Benedict sent a letter to Catholics in China praising the underground pro-Rome church but also urging reconciliation with followers of the official church.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
giới di dân gốc Vinh tại miền Nam mừng lễ quan Thầy
Fx. Trần Kim Ngọc, OP
23:06 21/08/2008
SAIGÒN - Ngày 15/08/2008: Giới Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam Thuộc Các Thế Hệ Cha Anh Mừng Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời – Bổn Mạng Của Giáo Phận Tại Trụ Sở Giáo Phận Vinh, Số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm – P. Đakao – Q.1 – Saigòn.

Thứ Sáu ngày 15/08/2008, khoảng 100 ông bà và các anh chị em di dân Giáo phận Vinh thuộc nhiều thế hệ khác nhau và nhiều nơi sinh sống khác nhau đã họp mừng lễ Mông Triệu tại Trụ sở của Giáo phận Vinh.

Vì hội trường của Trụ sở với sức chứa giới hạn, nên Ban đại diện chỉ mời một số người đại diện cho các thành phần trung và cao niên đang sinh sống tại Sài Gòn. Đối với những người cao tuổi, đây quả là một biến cố đặc biệt, vì là lần đầu tiên ông bà và anh chị em, con cái Giáo phận Vinh được trở về ngôi nhà của mình mừng lễ quan thầy của Giáo phận Mẹ. Trong dịp đặc biệt này, quý ông bà và anh chị em đã bày tỏ lòng nhớ thương và biết ơn “Mẹ Giáo Phận” và “Giáo Phận Mẹ”. Con cái của Giáo phận Vinh, dù sống ở đâu, dù đi đâu, thì quê hương vẫn là nơi thiêng liêng ghi dấu ấn tình thương và hồng phúc cho cuộc đời mỗi người. Họ đi đâu cũng mang quê hương theo mình, nghĩa là vẫn sống “cái chất quê” và có thể nói là rất “quê”.

Cuộc họp mặt này đã để lại ấn tượng khó quên, và nhất là đánh dấu một cột mốc quan trọng là: ông bà và anh chị em đã thống nhất thành lập Hội Ái Hữu Vinh Tại Sài Gòn với mục đích là giúp đỡ Giáo phận Mẹ, nhất là những người mới chập chững vào Sài Gòn sinh sống, làm việc, học tập hoặc tu trì. Đây quả là một ý tưởng rất cao đẹp và hữu ích. Ông bà và anh chị em đã bầu ra một Ban Trù Bị để chuẩn bị cho Buổi họp chính thức hầu đi đến một sự đồng thuận chung trong cách tổ chức, phương thức sinh hoạt, quy chế và Ban điều hành của Hội. Ban Trù Bị gồm có những người sau: anh Phan Đình Thi, ông Nguyễn Trường Xuân, anh Nguyễn Văn Phú và ông Anh Tôn Khôi. Những người này có nhiệm vụ chuẩn bị chương trình, triệu tập ngày họp mặt chính thức thành lập Hội Ái Hữu Vinh Tại Sài Gòn. Tin vui này đã được thông truyền cho Giới trẻ Di Dân, và tất cả anh chị em giới trẻ di dân rất vui sướng khi nghe tin vui này. Cầu mong cho Hội phát triển mạnh mẽ để đạt mục đích và ước nguyện của những người thiện chí là những người con Giáo phận Vinh đang sống xa quê hương và đất mẹ.

Ngày 17/08/2008: Giới Trẻ Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Sài Gòn Và Các Vùng Lân Cận Mừng Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời Bổn Mạng Của Giới Trẻ Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam

Chúa nhật ngày 17/08/2008, Giới trẻ Di dân Giáo phận Vinh đang sinh sống, làm việc và học tập tại Miền Nam (Sài Gòn và các tỉnh thành phố gần Sài Gòn) đã gặp mặt sinh hoạt, mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Bổn mạng của Giáo phận và cũng là Bổn mạng của Giới trẻ Di dân Giáo phận Vinh tại Miền Nam với Chủ đề “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5) từ 08g30 – 17g00 tại Trụ sở của Giáo phận Vinh (32, Nguyễn Bỉnh Khiêm – P. Đakao – Q.1 – TP.HCM) cùng sự hiện diện của anh chị em công nhân, sinh viên, những người dự tu, các tu sĩ nam nữ và một số khách mời đặc biệt (ân nhân và người nước ngoài) với khoảng gần 300 người.

Hội trường có sức chứa giới hạn, khoảng hơn 100 người, nên Ban Điều Hành Giới Trẻ không dám mời đông, thế nhưng anh chị em di dân từ Bình Dương, Đồng Nai, Bình Tân, Thủ Đức… đã quy tụ về rất đông. Ban tổ chức phải xếp ghế ở phòng hội đi hết mới chứa nổi gần 300 người. Dù ngồi chật chội và phải ngồi bệt ở sàn nhà, nhưng anh chị em ai ai cũng không cảm thấy khó chịu, ngược lại ai ai cũng thấy ấm áp tình người cứ như thể tất cả mọi người là anh em một nhà vậy! Mà quả thật, tất cả mọi người đến họp mặt đều là anh em một nhà vì cùng chung một niềm tin, một Chúa là Cha của mọi người và cùng chung một Mẹ Giáo Phận. Ôi! thật là Một ngày hạnh phúc và vui mừng cho những người con xa phương cầu thực! Cảm tạ Mẹ Giáo Phận đã nối kết anh chị em lại với nhau trong một tình thương chan hòa!

Ngày họp mặt đã diễn ra trong bầu khí ấm cúng, sinh động, vui tươi, rất là trẻ trung và cũng rất là gia đình. Các bạn trẻ đã vui chơi hết tình kể từ khi bước vào cuộc. Chương trình được bố trí xen kẽ giữa chia sẻ, gặp gỡ, sinh hoạt, thuyết trình, đối thoại và cầu nguyện với nhau. Ngày họp mặt này đã thu hút được sự cộng tác của các anh chị em công nhân và sinh viên từ nhiều khu vực khác nhau.

Các đề tài được thuyết trình, chia sẻ rất gần gũi và ý nghĩa đối với giới trẻ: “Mầu nhiệm sự sống”, “Hôn nhân khác đạo”, “Hiện tượng sống thử”, “Tình trạng nạo phá thai”, và một số vấn đề có liên quan đến luân lý (đạo đức sinh học).

Ngày họp mặt kết thúc với bài ca “Tôi chọn Giêsu” như một điểm tựa cuộc đời để từ đó, anh chị em ra đi muôn nẻo đường về với cuộc sống nơi công ty, trường học… Chia tay mà lòng bịn rịn như muốn ở lại đối phút để kéo dài niềm vui, thế nhưng giờ chia tay đã đến, anh chị em ra về trong hân hoan; 30 phút sau đó, trời đổ mưa như một dấu hiệu tin lành đang đến cho “Anh Chị Em giới Trẻ Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam”.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hậu quả tai hại của thứ Truyền thông méo mó
Xuân Thành
00:05 21/08/2008
HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA THỨ TRUYỀN THÔNG MÉO MÓ

Những ngày qua, toàn bộ hệ thống truyền thông Việt Nam được chỉ thị phải đánh giáo xứ Thái Hà.

Việc thông tin về một sự kiện là điều cần thiết đối với bất cứ cơ quan truyền thông nào. Tuy nhiên, dùng mọi chiêu thức kể cả đê hèn để bôi nhọ, vu cáo, nói xấu, bóp méo sự thật, lăng mạ những người dân hiền lành trong tay không tấc sắt, chỉ có ngọn nến và những lời kinh nguyện hoà bình, thì lại không phải là sứ mạng của giới truyền thông. Khi thông tin không đúng sự thật thì hậu quả thật tai hại.

Sự kiện những ngày qua, từ báo đài, báo tiếng cho đến báo viết tại Hà Nội nhất loại chĩa mũi dùi vào giáo xứ Thái Hà với những thông tin sai sự thật, bóp méo sự thật, với những vu cáo trắng trợn, xỉ nhục các tu sĩ, linh mục và cộng đồng giáo dân, quả thực đã để lại những hậu quả khôn lường.

Trước hết, đối với những nhà báo có lương tri, sự kiện các phóng viên của một số báo đài tham gia vu khống trắng trợn, không truyền thông sự thật, xỉ nhục các tu sĩ, linh mục vô cớ, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới danh dự, nhân phẩm và tư cách của giới nhà báo nói chung.

Đối với các phóng viên đã được chỉ thị tham gia vào sự kiện này, sự chỉ thị của cấp trên vô tình đã biến họ thành người dối trá, man rợ. Họ quả thật đáng thương. Nhưng, đáng thương hơn hết là con cái của họ, những đứa trẻ đang bị chính cha, hay mẹ của mình – những phóng viên đã tham gia việc thông tin sai sự thật - lừa gạt bằng một thứ phẩm hạnh giả tạo. Những đứa trẻ này rồi sẽ ra sao? Chúng không đáng bị lường gạt như thế. Những nhà báo đã tham gia vào màn đấu tố nhà thờ trong sự vụ Thái Hà sẽ dạy con cái họ thế nào đây về sự chân thật, về lẽ công bằng, về tình người, về sự chân trọng những giá trị tinh thần. Họ sẽ nói gì với con cái về vụ việc Thái Hà. Nếu họ nói thật thì họ sẽ nói sao với con cái mình về những việc đang làm, về hình ảnh của một đất nước văn minh. Nếu họ tiếp tục những màn vu khống và truyền cho con cái họ những thông tin vu khống, xuyên tạc như đã thông tin trên báo chí, truyền hình thì họ sẽ là một người cha, người mẹ tội lỗi đang tâm lừa cả những đứa con yêu quý của mình.

Đối với cộng đồng dân chúng, những người trực tiếp nhận thông tin qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, nếu họ tin vào những gì báo chí nói, thì điều nguy hiểm là dưới mắt họ, những con người lương thiện, những người tốt trở thành những kẻ xấu xa. Nếu họ tin vào những gì báo nói, thì vô tình, họ có thể đang là người lương thiện, trở thành kẻ vô lương chỉ vì đã tin vào những gì thông tin đã không đúng sự thật. Chắc chắn, trong số hơn 84 triệu người Việt Nam, thì số người tin vào những thông tin méo mó, những vu khống trắng trợn, không nhỏ. Bao nhiêu người đã là nạn nhân của những thông tin sai lạc này.

Trong những năm vừa qua, Nhà nước không ngừng kêu gọi nhân dân “học tập theo tấm gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch”. Dưới sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước, những thông tin sai lạc, những xuyên tạc, những vu khống trắng trợn nhắm vào Nhà thờ Thái Hà trong những ngày qua, phải chăng chính là “tấm gương đạo đức của Bác”. Không thể hiểu khác được bởi những gì báo chí vu khống trong những ngày qua là chỉ đạo của cấp trên, những người đang lớn tiếng hô hào “toàn dân học tập tấm gương đạo đức của Bác”. Nếu không phải do sự chỉ đạo thì tại sao chính phủ không lên tiếng yêu cầu các cơ quan thông tấn báo chí ngưng lại những xuyên tạc, vu khống này???

Đối với những người giáo dân, nạn nhân của những thông tin sai lạc này họ thật đáng thương. Nhiều người trong số họ đang bị những đồng nghiệp, những cán bộ công sở nơi họ làm việc hạ nhục, bêu xấu trước cơ quan. Họ – những công dân của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, những người yêu mến pháp luật và đang đấu tranh cho công lý, trở thành kẻ thù của đất nước, của dân tộc – đất nước mà họ đã hết lòng phụng sự và đấu tranh cho dân tộc phát triển lành mạnh. Họ – những người dân hiền lành, đang bị đàn áp một cách dã man bởi một hệ thống truyền thông một chiều, thiếu trung thực.

Nói một cách nào đó, những gì mà báo chí, truyền thanh, truyền hình, với những xảo thuật gian trá, những vu khống trắng trợn, bất chấp đạo lý của người làm báo trong những ngày qua về sự việc Thái Hà, đang gây lũng đoạn xã hội, phá vỡ tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân, gây chia rẽ lương giáo, làm tổn hại tới uy tín của quốc gia trên chính trường quốc tế, vi phạm trắng trợn quyền tự do tôn giáo, gây rối loạn trật tự xã hội.

Việt Nam sẽ về đâu nếu nó vẫn được tuyên truyền bởi thứ truyền thông méo mó này. Việt Nam sẽ trình diện khuôn mặt nào khi đang dùng truyền thông để đả phá chính nghĩa, để bóp méo sự thật.

Hỡi các vị lãnh đạo Nhà nước hãy chấm dứt những trò vu cáo này. Hãy dừng lại trước khi quá muộn.

Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2008
 
Hãy coi chừng tự điển mở Wikipedia!
Trung Thiên
01:09 21/08/2008
Hãy coi chừng tự điển mở Wikipedia!

Sáng nay tôi đọc bài viết “Biết thì thưa thốt” trên VietCatholic, thấy câu trích “điều 3 trong 10 điều răn của Kinh thánh” quen quen nên vào Google tìm thử và biết được đó là câu 11, chương 5 của Sách Đệ Nhị Luật với nguyên văn: “Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng”. Đây là câu nói về điều răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”, Bản dịch Kinh Thánh dùng từ “bất xứng” chứ không phải là từ “sơ suất”.

Nhưng điều làm tôi giật mình chính là Google cũng đã dẫn tôi đến Tự Điển mở Wikipedia Tiếng Việt có bài viết tựa đề Mười điều răn được nói là “Theo Sách Đệ Nhị Luật 5:6-21, bản dịch của Nhóm phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ, 1998” (http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di_%C4%91i%E1%BB%81u_r%C4%83n). Nhưng khi so sánh đoạn trên của Wikipedia với Sách Đệ Nhị Luật 5:6-21 trên website http://thanhlinh.net/thanhkinh/index_cuuuoc.htm thì thấy có hai điểm sai: 1. dùng chữ “sơ suất” trong mục số 3 như đã nói trên làm cho ý nghĩa sai, 2. trong Đệ Nhị Luật 5,16 có đoạn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ” lại được sửa lại thành “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ". Thoạt nhìn qua, không để ý cứ nghĩ rằng 2 câu này tương tự nhau nhưng thật sự về ý nghĩa thần học thì khác nhau một trời một vực, vì chữ “thờ” chỉ được dùng để hướng lên Thiên Chúa còn chữ “kính” để hướng đến các đối tượng khác là các thánh và loài người.

Tôi không biết là Đài Truyền Hình Việt Nam khi đưa ra phóng sự cáo gian Giáo xứ Thái Hà (http://www.vtv.vn/VN/TrangChu/TinTuc/CKX/2008/8/19/175894/) có dựa vào tài liệu Wikipedia này không và không biết ai đã vô ý hay cố tình sửa chữa hai điểm trên?!? Tôi cũng được thấy trên website Wikipedia là “Sửa đổi lần cuối lúc 11:31, ngày 9 tháng 7 năm 2008”. Điều này cho thấy cách làm việc cẩu thả của Đài Truyền Hình, khi nói về Công Giáo mà lại không tìm hiểu cặn kẽ về Công Giáo và không dựa vào Kinh Thánh Công Giáo mà chỉ dựa vào chủ quan và nguồn tài liệu không chính xác để bóp méo sự thật!.

Một điều nữa tôi cũng muốn nói ở đây là một lần nữa cho thấy mặt trái của Internet nói chung, và mặt trái của Tự điển mở Wikipedia nói riêng, vì tự điển này ai cũng có thể sửa đổi được. Vì vậy, theo thiển ý của tôi, khi vào Internert, xin cẩn trọng khi tra cứu, tham khảo, trích dẫn các nguồn tài liệu, kẻo đọc nhầm nguồn tài liệu thì thật là tai hại.

Cầu xin Thiên Chúa ban ơn Thánh Thần soi sáng và bổ sức cho con cái Chúa trong mọi công việc để tìm kiếm Công lý và sự thật trên quê hương Việt Nam. Xin Chúa soi sáng cho các vị hữu trách để họ là việc đúng theo lương tâm và sự thật. Cầu xin Đức Mẹ Từ Mẫu cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.

từ Sài Gòn 21/08/2008
 
Chiêu bài “mật ngọt chết ruồi”
Tiêu Phu
09:26 21/08/2008
Chiêu bài “mật ngọt chết ruồi”

THÁI HÀ - Bây giờ là 3h (21.08.2008) tại linh địa Đức Bà Thái Hà. Cả đêm, mọi chuyện xem ra khá êm thấm. Trước linh đài Đức Bà chỉ còn lại chừng hơn chục người. Được biết đó là những giáo dân từ giáo xứ Hàng Bột và Hàm Long hiệp thông, canh thức thay cho giáo dân giáo xứ Thái Hà. Bà con giáo dân sở tại đã say giấc trong các lều trại xung quanh linh địa….

Chúng tôi trở lại linh địa lúc 4h20, trong lều phía trước linh đài, mấy bà đạo đức đã thức giấc và nhỏ to tâm sự với nhau:

- Tối qua chúng nó ra gặp tôi – Một bà đạo đức từ lều khác đi sang thuật lại.
- Chúng nó là đứa nào?– Mấy bà khác ngạc nhiên, hỏi dồn dập.
- Hình như là cái thằng sếp của mấy chú an ninh thì phải.
- Nó đã làm gì bà?
- Nó không làm gì cả, nó chỉ ngon ngọt khuyên nhủ tôi.

Chưa kịp để cho mấy bà khác hỏi tiếp, cụ già cứ vanh vách kể một mạch cái chuyện đêm qua “sếp” đến gặp bà:

- U ngủ chưa?
- Ai đấy?
- Con đây.
- Con là thằng nào ?
- Con ở trên quận đây mà. Sao mà u phải tự làm khổ mình như thế này, hả u! Nhà cửa đoàng hoàng u chẳng ở, u lại ra đây nằm sương nằm gió thế này. Con cháu nó biết thì nó xót lắm, u ạ. Mà con thấy u thế này, con cũng không cầm lòng được. Thôi u ngủ hết tối nay thôi, u nhá. Mai u về nhà, cho con cháu đỡ lo, u ạ.
- Chẳng hiểu con thương u kiểu gì mà hôm kia con để lũ đầu gấu đẩy ngã cả cái thân già, trầy hết cả tay ra đây này.
- Thật thế hả u? Vậy mà không thấy đứa cấp dưới nào báo cáo với con sự việc của u.
- Con chỉ được cái khéo nói…!!! U cũng thương các con lắm, nhất là mấy chú cấp dưới của con. Người ta ăn ốc, bắt chúng nó đổ vỏ! Tội chúng nó lắm, con ạ. Thực sự u cũng chẳng sung sướng gì mà ra đây ngủ, con ạ. Sở dĩ, u phải ra đây, vì u ngủ ở nhà cũng không được ngon giấc, con ạ?
- Sao thế hả u?
- Trăng mới sao gì hả con! Mảnh đất của Chúa của Mẹ, vậy mà chúng nó đang tâm giành giật, chia chác hết sạch. Chúng nó làm thế, làm sao u có thể ngủ ở nhà ngon giấc được hả con!? Vả lại, Chúa và Mẹ đã ngự trị ở đây dồi, làm sao u có thể để Chúa, để Mẹ cô quạnh một thân một mình được, con ơi!

Cụ già kể đến đấy, mấy bà ngồi vây quanh, cười phá lên.

Các bà mang trầu ra nhai. Vừa phúng phíu, vừa thì thầm lời kinh lạy cha…, kính mừng… sáng danh….
 
Diễn biến tại linh địa Đức Bà ở Thái Hà vẫn còn phức tạp
Tiều Phu
16:16 21/08/2008
Nhật ký Thái Hà: Vẫn chưa bình yên! (ngày 21.08.2008)

THÁI HÀ - Loa phóng thanh tại linh địa Đức Bà đã im bặt từ hôm qua. Nhưng hai loa phóng thanh cạnh tu viện Dòng Chúa Cứu Thế sáng nay vẫn tiếp tục oang oang, mà xem ra còn oang oang to hơn cả mọi khi để khủng bố các linh mục, tu sĩ. Tất cả những lời mạ lỵ giới chức nhà thờ từ các bài báo cộng sản được đọc to trên loa phóng thanh, rót vào tu viện. Đánh chiên không được, quay ra đánh chủ chiên?! Có lẽ thế.

Ghé qua linh địa lúc 9h45 (21.08.2008)

Dự án Nhà thờ Thái Hà mới
Tình cờ nghe được cuộc chuyện trò giữa một bác bên lương với một cán bộ nhà nước giả dạng người qua đường:

- Xem truyền hình tối hôm kia, tôi thấy các bố nhà ta nói khiếp quá – Bác lương dân phân trần với anh cán bộ - Đến đây mới biết các bố vừa nói sai lại vừa làm bậy.
- Sao bác lại nói thế - anh cán bộ tỏ vẻ ngạc nhiên cách ngây thơ.
- Các bố ăn cướp đất của người ta mà chia chác cho nhau, thế mà các bố lại còn la làng. Đất hương hỏa của người ta dành để xây cái nhà thờ đẹp như thế kia (chỉ tay lên tấm panô mô hình nhà thờ được dựng ngay trước cổng vào linh địa Đức Bà), thế mà các bố lại tìm cách chia chác cho nhau để xây dựng những biệt thự. Rõ là chán! Rõ là quá đáng!
- Cũng tại cái quá khứ dở hơi mới dẫn đến tình trạng dân ra đây cầu nguyện, có lẽ thế, bác nhỉ - anh cán bộ tìm cách gợi chuyện bác lương dân.
- Nếu thế thì trả bố cho người ta cho rồi, lại còn làm khổ người ta làm gì. Tôi nói thế có phải không anh – bác lương dân ghé qua một người khác đang đứng bên cạnh nghe chuyện.
- Cây nó mọc thì nó cũng phải mọc từ từ chứ bác, từ hạt rồi nảy mầm, thành cây, ra lá ra hoa… Nói bâng quơ thế rồi, anh cán bộ giả dạng khách qua đường (có lẽ là đến thăm dò dư luận) ngồi lên xe máy, chuồn thẳng.

Lúc này đã là 10h30.

Khách thập phương cả lương lẫn giáo vẫn tấp nập kéo đến linh địa Đức Bà Thái Hà. Các bà đạo đức vẫn râm ran lời kinh tiếng hát trước linh đài. Nghe nói những người đang đọc kinh lúc này phần đông là giáo dân xứ Hàng Bột vừa mới tới. Thời tiết có vẻ khá oi bức. Tấm bạt ngay cổng dẫn vào linh đài không biết đã được căng từ bao giờ, là chỗ trú ngụ rất tiện cho những người đang tham gia cầu nguyện giữa lúc trời nắng chói chang thế này. Trên vỉa hè phố Đức Bà, xe của các khách thập phương tới đây để la liệt. Bảng tin được đặt trước cổng vẫn là nơi thu hút đông đảo khách qua đường.

Thấy mấy người giáo dân đang đứng bên vỉa hè phố Đức Bà ồn ào cả lên. Chúng tôi vội chạy ra xem sao. Hóa ra một vị chức sắc nhà thờ đi ra thăm phố Đức Bà. Ba bốn anh trung niên, thanh niên (được bà con rỉ tai cho biết đó là mấy anh công an trên quận) đang đứng trò chuyện với vị chức sắc, xung quanh là năm bảy giáo dân. Câu chuyện giữa họ có vẻ hấp dẫn:

- Các bác đã thấy cái tác dụng ngược của truyền thông của các bác chưa – chỉ tay về những khách đến thăm linh địa, vị chức sắc nói với công an - Ai đến đấy cũng đều tỏ ra bất bình với những thứ thông tin mà nhà nước cho lên báo lên đài mấy ngày nay về Thái Hà. Các bác túc trực ở đây, các bác thấy rõ phản ứng của họ mà.
- Thế thì linh mục nghĩ sao trước những thông tin của báo chí, truyền hình?
- Ấy, các bác phải để tôi hỏi các bác câu hỏi đó mới đúng. Là những người làm công tác an ninh, các bác nghĩ sao khi đài báo vu khống cho chúng tôi là lên tòa giảng nói những lời xằng bậy, rồi phát trên loa đài tới 1h - 2h sáng, rồi căng băng rôn khẩu hiệu nói xấu chính quyền, nhà nước và cả bao nhiêu điều sai quấy, vu khống khác nữa?

Chưa kịp trả lời câu hỏi của vị chức sắc nhà thờ, mấy tay công an vội vàng xin phép vì có việc bận phải đi. Mấy người giáo dân đứng đấy cười khẩy…

Lúc này đã là 12h. Hai tu sĩ mặc áo dòng đen, cổ trắng đứng trước linh đài Đức Bà. Bà con giáo dân đông đúc đứng vây xung quanh. Họ cùng nguyện kinh truyền tin hiệp ý với Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho thế giới hòa bình, cầu nguyện cho công lý và sự thật được sáng tỏ nơi mảnh đất họ đang đứng. Như thế là cho đến giờ này, mặc dù thời tiết khá oi ả, nhưng khuôn mặt của những người canh giữ linh địa có phần thư thái rất nhiều so với mấy ngày trước đó.

Chiều tối

Con số những người tham dự thánh lễ tại Thái Hà tối nay vẫn đông đúc như hôm qua. Trước khi tiến ra linh địa Đức Bà, một vị linh mục thông báo cho giáo dân: cha chánh xứ sẽ gặp gỡ giám đốc công an thành phố vào sáng mai, và ngài sẽ làm việc với chính quyền quận Đống Đa vào chiều mai. Vị linh mục mời gọi bà con giáo dân đang hiện diện cầu nguyện cho những cuộc gặp gỡ ngày mai sớm đưa tới những kết quả tốt đẹp để công việc lấy lại mảnh đất tới hồi kết thúc.

Cũng tại linh địa buổi tối hôm nay, lại có những diễn biến xem ra bất ổn. Những nhân viên an ninh, bảo vệ, cảnh sát chìm tìm cách khiêu khích những người tới đây cầu nguyện. Họ cố tình dí sát máy ghi hình vào mặt những người đứng xem bảng tin và những người cầu nguyện trước linh đài. Được biết, một số người tham gia cầu nguyện tại đây đã bị chính quyền đe dọa. Ngay cả những sinh viên từ các tỉnh lẻ đang học tại Hà Nội, khi đến linh địa Đức Bà cầu nguyện, thì cũng bị đe dọa trục xuất khỏi những nơi mình trọ học.

Trong bản tin cuối ngày hôm nay, đài truyền hình Hà Nội vẫn tiếp tục cái trò bôi nhọ các chức sắc nhà thờ Thái Hà và giáo dân. Diễn biến tại linh địa Đức Bà vẫn còn phức tạp. Xin quý vị tiếp tục cầu nguyện cho Thái Hà.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Dân số và sự sống con ngườ: chính sách dân số
Fx. Tran Kim Ngoc, OP
22:57 21/08/2008
DÂN SỐ VÀ SỰ SỐNG CON NGƯỜI (2)

1.3. Chính sách dân số

Điểm qua thông tin về tình hình dân số thế giới thì chúng ta thấy rõ là tỷ suất sinh sản và mật độ dân số thế giới không đồng đều. Có nhiều nghịch lý trong vấn đề kìm hãm, khuyến khích tăng giảm dân số. Nơi thì sợ dân số bùng nổ, nơi thì lại sợ dân số già nua. Nơi này thì hạn chế sinh sản bằng những biện pháp cứng rắn; nơi khác thì lại khuyến khích sinh đẻ với nhiều ưu đãi. Chúng ta có thể nói rằng những chính sách dân số không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến tình hình chung của toàn thể thế giới và tương lai của cả nhân loại. Các nhà lãnh đạo các nước phải lo lắng để đáp ứng nhu cầu lương thực của người dân. Người ta lo sợ rằng với cái đà tăng dân số như những thập niên gần đây, thì không biết thế giới này có đủ chỗ cho con người ở không, thế giới có sản xuất đủ lương thực cho hàng tỷ miệng ăn không. Những lo lắng của con người trước vấn đề gia tăng dân số không phải là không có cơ sở, nhưng những cơ sở đó đến nay không vững chắc. Cho đến hôm nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, vấn đề lương thực không còn là vấn đề đáng lo lắng nữa. [1] Vấn đề hôm nay đang làm con người bận tâm là ý thức của mỗi người đối với vận mệnh của đất nước mình, với tương lai của nhân loại. Sự đói khát không phải là do thiếu lương thực nhưng là do phân bổ không đồng đều. [2]

1.3.1. Bắt buộc

Trong cuộc sống vẫn có những nghịch lý mà nhiều lúc chúng ta không thể hiểu được. Về chính sách dân số, thì không hẳn là không hiểu được, cái nghịch lý đó có thể được lý giải khi phân tích tỉ mỉ những khía cạnh của dân số. Sự chênh lệch về dân số có liên quan đến các vấn đề khác như văn hóa, thể chế chính trị và chiến lược phát triển kinh tế. Sự gia tăng dân số nhanh chóng làm cho các quốc gia phải lo lắng, nếu không muốn đối diện với các vấn đề xã hội khác, thì phải hành động ngay bằng kế hoạch hóa gia đình. Nhưng việc hạn chế sinh sản với những biện pháp bất hợp lý và vô luân thì lại gây hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định của thế giới. Thông thường, những nơi nào mà người ta muốn có đông con thì những biện pháp nhẹ không đi đến đâu cả, do đó nhà nước phải dùng biện pháp mạnh. Biện pháp hạn chế sinh sản ở Việt Nam không nghiêm ngặt như ở Trung Quốc, nhưng ngay bây giờ đã có những vấn đề nảy sinh từ biện pháp đó, chúng ta thấy rõ là sự chênh lệch giới tính ở trẻ sơ sinh đã đến mức báo động. [3] Rồi đây, với sự chênh lệch này, sẽ nảy sinh bao nhiêu vấn đề nhức nhối khác.[4]

1.3.2. Khuyến khích

Ở trên chúng ta thấy được một số hạn chế trong việc làm chậm tốc độ gia tăng dân số bằng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình không thích đáng. Những nơi người ta không muốn có con thì nhà nước lại khuyến khích. Dù khuyến khích thì người ta vẫn không muốn sinh thêm con cái. [5] Tỉ suất sinh sản tự nhiên không đồng đều sẽ ảnh hưởng đến nhiều lãnh vực khác của đời sống không chỉ là một quốc gia mà là cả hoàn cầu.

Hầu như các nước Châu Âu đều khuyến khích người dân sinh con thêm, nhưng người dân lại không đáp ứng lời kêu gọi của các chính phủ mặc dù chính phủ có những chính sách rất ưu đãi cho những người sinh con. [7] Việc dân số sút giảm được ví như một thảm họa khủng khiếp. Sau năm 2050, dân số thế giới sẽ giảm mạnh ở các nước đang phát triển hơn là quốc gia phát triển. [7] Người ta đã chẳng lạ gì với xu hướng dân số ở Châu Âu, nơi mà tỷ lệ sinh đã giảm từ nhiều năm nay. Đứng trước việc giảm dân số, thiếu lao động, tổng thống Nga đã gọi tình trạng này là "khủng hoảng quốc gia". [8]

Tình trạng này cũng sẽ diễn ra với các nước Châu Á khác mặc dù họ không hề áp dụng các chương trình hạn chế sinh đẻ nghiêm nhặt như Trung Quốc. Nhà xã hội học Ben Wattenberg đã nói rằng: "Chưa bao giờ trong suốt 650 năm qua, tỷ lệ sinh đẻ lại giảm nhiều như vậy, nhanh đến như vậy, dài đến như vậy và ở nhiều nơi đến vậy". [9] Ông gọi hiện tượng giảm dân số này là “trận tsunami của dân số”. [10]

1.3.3. Trào lưu mới

Các quốc gia thường có những chính sách vĩ mô đối với vấn đề dân số. Còn đối với người dân thì lại không tính đến những khía cạnh xã hội của việc tăng hay giảm dân số. Những người nghèo thường sinh đẻ nhiều, trong khi đó người giàu có điều kiện lại sinh đẻ ít. Xét một bình diện nào đó, việc sinh nhiều hay ít còn phụ thuộc vào tâm thức của con người ở mỗi nền văn hóa. Có nơi, người ta quan niệm con cái là phúc lộc trời ban; nhưng có nơi, người ta lại cho rằng con cái là một gắng nặng cho bản thân. Để thảnh thơi, người ta trút bỏ gánh nặng đi bằng cách không sinh con hoặc sinh con ít. Lối sống công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng sẽ tác động lên việc giảm dân số:
“Con người ở khắp mọi nơi hiện đang đổ về các thành phố và dự đoán đến năm 2007, một nửa dân số thế giới sẽ sống ở thành phố. Chi phí để nuôi một đứa trẻ ở thành phố rất đắt đỏ. Từ năm 1970-2000, dân số đô thị ở Nigeria đã tăng từ 14% lên 44%, Hàn Quốc tăng từ 28% lên 84%. Chính vì vậy, song song với dân số thành thị tăng là tỷ lệ sinh giảm.” [11]

Chủ nghĩa thực dụng và tự do đang ảnh hưởng rất lớn lên suy nghĩ của nhiều người nhất là những người trẻ. Khi những khuynh hướng này đi vào nếp nghĩ của người ta thì người ta sẽ sống ích kỷ hơn, khép mình hơn và không muốn vướng bận về chuyện sinh nặng đẻ đau và cực nhọc nuôi dưỡng con cái, thay vào đó là thích thư thả, du lịch… Hiện nay, có một số quốc gia dùng những chính sách hạn chế sinh sản cứng rắn, nhưng rồi đây, dù có khuyến khích thì người ta cũng không thích lập gia đình và không thích có con cái. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác nữa làm cho dân số thế giới giảm là:

“Nguyên nhân khác là công việc. Số lượng phụ nữ biết chữ và đi học đã làm giảm tỷ lệ sinh. Ngoài ra còn là tình trạng ly hôn, phá thai, kết hôn muộn. Các biện pháp tránh thai đã tăng đáng kể 1 thập kỷ qua. Theo số liệu của LHQ, 62% phụ nữ kết hôn hoặc sống cùng đàn ông nhưng không kết hôn trong độ tuổi sinh đẻ đang sử dụng các biện pháp tránh thai. Ở những nước như Ấn Độ, căn bệnh HIV lại là nguyên nhân giảm dân số. Tại Nga, vì tỷ lệ nghiện rượu, sức khỏe yếu và ô nhiễm công nghiệp cao nên việc sinh con khó khăn hơn. Sự giầu có đang làm giảm nhiệt tình đối với việc sinh nở, chính vì vậy mà Wattenberg cho rằng: ‘Chủ nghĩa tư bản là biện pháp tránh thai tốt nhất’.” [12]

Chú thích
[1] Xc. Nhóm Biên soạn, Đạo đức Sinh học Bioethics (Lưu hành nội bộ, 2003), tr. 229-230.
[2] Xc. Ibidem.
[3] Mất cân bằng giới tính: Việt Nam - bản sao của Trung Quốc, truy cập ngày 02/11/2007; http://thtt.chinhphu.vn/home/xahoi/2007/11/200711021907283750.aspx.
[4]Ibidem.
[5] La Giang, Sinh con ở Châu Âu, những ưu đãi, truy cập ngày 21/11/2007; http://nhipsong.timnhanh.com/tinh_yeu/gia_dinh/20071010/35A59188/.
[6] Ibidem.
[7] Hải Phong, Thế giới vắng bóng trẻ em, Tsunami của dân số, truy cập ngày 21/11/2007; http://www.mofa.gov.vn/quocte/13,05/hoso13,05.htm.
[8] Ibidem.
[9] Ibidem.
[10] Ibidem.
[11] Ibidem.
[12] Ibidem.
 
Văn Hóa
Lại truyện Thái Hà (thơ)
Lê Dân Việt
23:08 21/08/2008
LẠI CHUYỆN THÁI HÀ!!!

Thái Hà đấu tranh ngày nào!
Mà nay hành xử, xiết bao lạ lùng
Chứng cớ đâu đó đã tường
Mà sao cộng sản, một phường khoét lao

Đày dân giáo oan lao đao
Để cho đạo giáo, xôn xao hả trời
Đã vậy lại dám mở lời
Đê hèn, bôi nhọ, những lời rẻ khinh

Báo đài chúng sủa rất kinh
Chứng cớ, viết lách hùa binh giả tạo
Ra rả phóng thanh vu cáo
Đúng là bọn người, bố láo đã quen

Hành xử ngang ngược đê hèn
Nói xấu, xỉ nhục, chúng chèn dân oan
Bóp méo sự thất dã man
Đúng là chế độ, sắp tàn đến nơi

Chúng bay dương mắt mà coi
Xem Trời hành xử, triệt nòi quỉ ma
Để bay mặc sức kêu la
Đúng như câu sấm dân ta dãi bày:

“ Một câu sấm dậy đất bằng”
Tức toàn dân đòi công bằng nhà đất
Thế nay đã ứng thật rồi
“ Thánh Nhân ra mới cứu hằng sinh linh”

Để ngài trị lũ yêu tinh
Dân Nam sẽ hết, yêu tinh trên đời
“ Phá điền Thiên Tử giáng trần”
Cũng là một ý, đã gần tới nơi

Toàn dân nước Việt ta ơi
Hãy mau đứng dậy, đổi đời dân Nam
Để cho lịch sử sang trang
Nước nhà hạnh phúc, vinh quang giống nòi

Tự do, dân chủ ai ơi
Nước nhà kiến tạo, vang trời nước Nam
Đất đai đâu đó công bằng
Đất đâu trả đó, nhập nhằng làm chi.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Tâm Nguyện
Lm. Trần Cao Tường
22:04 21/08/2008

TÂM NGUYỆN



Ảnh của Cao Tường (nhịp cầu Golden Gate, San Francisco)

Ước mong làm một nhịp cầu,

Yêu thương nối kết hai đầu cách ngăn.

Hiền hoà, nhẫn nhục, dịu dàng./.

(Thơ Trầm Tĩnh Nguyện)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền