Phụng Vụ - Mục Vụ
Không ai ''mất phần'' trên bàn tiệc Thiên Chúa
Jos. Tú Nạc, NMS
06:12 27/08/2010
Chúa Nhật XXII Thường Niên – Năm C (Sirach 3: 17-20, 28-29; Psalm 68; Hebrews 12: 18-19, 22-24; Luke 14: 7-14)
Đức khiêm nhường đã trải qua rất nhiều từ sự lạm dụng của con người. Thường nó được hiểu như sự thụ động trong lúc đối mặt với bất công hoặc tự người ta dùng như một tấm thảm chùi chân. Đôi khi nó còn được dùng như một công cụ để thông trị và kiểm soát người khác.
Nhưng sự khiêm nhường đích thực khác xa so với tất cả những điều đó. Đây là một lời phát biểu làm ngạc nhiên: “Anh càng tài giỏi bao nhiêu, anh càng phải tự khiêm tốn bấy nhiêu …” (the greater you are, the more you must humble yourself …) và nó được nhắc đi nhắc lại trong những tuyên bố Tin Mừng rằng bất kỳ ai muốn trở nên vĩ đại phải khiêm tốn. Nhưng nó hàm chứa lý giải này cho sự khiêm nhường: duy những ai thoải mái với chính mình sẽ có thể trở nên khiêm tốn. Tự am hiểu sâu sắc bản thân (không phải tự kiểm tra bản thân) và tự hiểu thực tế về bản thân sẽ dẫn người ta trên lối đi đúng đắn. Khi điều này được tham gia với một ý thức về lòng biết ơn về món quà của cuộc sống và những phúc lành mà người ta lãnh nhận từ Thiên Chúa con đường thậm chí trở nên dễ dàng hơn. Khiêm tốn nghĩa là sự miễn trừ cưỡng bách để bảo vệ và mơn trớn cái tôi nghèo nàn và yếu đuối. Theo như lời giáo huấn của Chúa Trời những điều bí ẩn của Người đối với sự khiêm tốn – nó không là vấn đề của sự thiên vị. Chỉ cần đưa ra một cách đơn giản, người khiêm tốn duy chỉ là người cởi mở và có thể được dạy bảo, biết lắng nghe. Chúng ta phải bỏ trống để được đón nhận, lấp đầy. Giảng dạy một điều gì đó cho một người mà biết tất cả về nó thì thật quả là khó. Việc đánh giá canh tân và hiện đại hóa về sự khiêm nhường rất hữu ích trong một nền văn hóa mà ở đó sự cạnh tranh và và nỗ lực thi đua được đề cao bằng hình thức nghệ thuật.
Ý tưởng về cuộc gặp bất ngờ với Thiên Chúa và thế giới tâm linh thường nảy sinh một mức độ sợ hãi trong con người. Đến nỗi chúng ta nói rằng chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa có phần nào tự chúng ta chùn bước từ những trải nghiệm. Điều này được dung dưỡng bởi sách vở, phim ảnh cũng như một số đoạn trích trong Kinh Thánh và thậm chí điều đó gợi ý nhận biết sự gần gũi những gì là thánh thiện có thể bị tác hại đến thể trạng con người. Nhưng người Do Thái lại phác họa một hình ảnh khác: những lãnh vực trên thiên đàng là nơi xinh tươi, bình yên và êm ả. Thiếu chăng là những chùm pháo hoa và những xuất hiện đặc biệt và chúng ta tìm thấy cộng đồng và những nghi thức tưởng niệm.
Những người Phrasee không phải là những người duy nhất lừa bịp vì địa vị và danh dự. Đó là một con người bình thường nhu nhược và bất lực. Tiến lên phía trước tuyên bố một nơi vinh dự trước điều gì không được phép là cách dẫn đến sự gục ngã hèn hạ và nhục nhã. Bữa tiệc trong câu chuyện là biểu trưng cho tất cả những hoạt động thuộc tính người. Chúa Giê-su đã đưa ra một số lời khuyên bổ ích. Cảm thấy tự tin về bản thân và hạnh phúc là nhận một chỗ thấp hơn. Nếu bạn cảm thấy tầm thường với một điều gì đó cao hơn bạn sẽ được gọi mời. Đó không phải là lý do sự đề cao cuồng nộ. Sự tương tác xã hội loài người không thể bị thống trị bởi sự tính toán và thăng tiến.
Nhưng Chuá Giê-su đã đi xa hơn với một bữa tiệc ngụ ngôn của Người. Đừng mời những người dư phần trên bàn tiệc của bạn là những người có điều kiện để đền đáp bạn. Đừng mới những ai có phẩm chất tư cách và danh dự – sư hiện diện của họ tại bàn tiệc của bạn tuy có ích lợi cho bạn. Mời những người nghèo khó, những người tầm thường hèn mọn và những người mà xã hội xếp vào loại “người mất phần.” Nhưng trong Vương Quốc của Thiên chúa không ai là người bị bỏ rơi, bị mất phần và không có nạn lựa chọn bàn ăn trong Tân Ước như biểu tượng của một thế giới mới, thế giới mà Thiên Chúa đã kỳ công sáng tạo. Bữa tiệc trong cảm giác Ki-tô giáo không phải là nơi của sự bất bình đẳng hoặc biến thiên, bất công mà là một nơi tôn nghiêm của sự bình đẳng, đón nhận và sẻ chia. Nó tìm thấy biểu hiện của nó tràn đầy nhất trong Phép Thánh Thể, mặc dù thực tế mà các Ki-tô hữu thường bóp méo, xuyên tạc ý nghĩa chân thực của nó. Thánh Phao-lô đã nghiêm khắc phê bình, chỉ trích gay gắt cộng đồng Corinthian trong 1Corinthians 11 một cách hoàn toàn chính xác cho lý do này: họ đã tạo ra một không gian của sự cạnh tranh, giai tầng xã hội, loại trừ và bất bình đẳng. Chúa Giê-su đã rao giảng đường lối trọng tâm của Thiên Chúa về cuộc sống không có những kiểu cách thuộc tình người dung tục tầm thường về danh dự và ô danh. Cho dù tối thiểu chúng ta có thể đánh giá trọng lượng của những lời giáo huấn này như chúng ta đã thực hiện những việc mà Người đã nói ít nhiều hoặc không nói.
(Nguồn: Regis College – The School of Theology)
Đức khiêm nhường đã trải qua rất nhiều từ sự lạm dụng của con người. Thường nó được hiểu như sự thụ động trong lúc đối mặt với bất công hoặc tự người ta dùng như một tấm thảm chùi chân. Đôi khi nó còn được dùng như một công cụ để thông trị và kiểm soát người khác.
Nhưng sự khiêm nhường đích thực khác xa so với tất cả những điều đó. Đây là một lời phát biểu làm ngạc nhiên: “Anh càng tài giỏi bao nhiêu, anh càng phải tự khiêm tốn bấy nhiêu …” (the greater you are, the more you must humble yourself …) và nó được nhắc đi nhắc lại trong những tuyên bố Tin Mừng rằng bất kỳ ai muốn trở nên vĩ đại phải khiêm tốn. Nhưng nó hàm chứa lý giải này cho sự khiêm nhường: duy những ai thoải mái với chính mình sẽ có thể trở nên khiêm tốn. Tự am hiểu sâu sắc bản thân (không phải tự kiểm tra bản thân) và tự hiểu thực tế về bản thân sẽ dẫn người ta trên lối đi đúng đắn. Khi điều này được tham gia với một ý thức về lòng biết ơn về món quà của cuộc sống và những phúc lành mà người ta lãnh nhận từ Thiên Chúa con đường thậm chí trở nên dễ dàng hơn. Khiêm tốn nghĩa là sự miễn trừ cưỡng bách để bảo vệ và mơn trớn cái tôi nghèo nàn và yếu đuối. Theo như lời giáo huấn của Chúa Trời những điều bí ẩn của Người đối với sự khiêm tốn – nó không là vấn đề của sự thiên vị. Chỉ cần đưa ra một cách đơn giản, người khiêm tốn duy chỉ là người cởi mở và có thể được dạy bảo, biết lắng nghe. Chúng ta phải bỏ trống để được đón nhận, lấp đầy. Giảng dạy một điều gì đó cho một người mà biết tất cả về nó thì thật quả là khó. Việc đánh giá canh tân và hiện đại hóa về sự khiêm nhường rất hữu ích trong một nền văn hóa mà ở đó sự cạnh tranh và và nỗ lực thi đua được đề cao bằng hình thức nghệ thuật.
Ý tưởng về cuộc gặp bất ngờ với Thiên Chúa và thế giới tâm linh thường nảy sinh một mức độ sợ hãi trong con người. Đến nỗi chúng ta nói rằng chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa có phần nào tự chúng ta chùn bước từ những trải nghiệm. Điều này được dung dưỡng bởi sách vở, phim ảnh cũng như một số đoạn trích trong Kinh Thánh và thậm chí điều đó gợi ý nhận biết sự gần gũi những gì là thánh thiện có thể bị tác hại đến thể trạng con người. Nhưng người Do Thái lại phác họa một hình ảnh khác: những lãnh vực trên thiên đàng là nơi xinh tươi, bình yên và êm ả. Thiếu chăng là những chùm pháo hoa và những xuất hiện đặc biệt và chúng ta tìm thấy cộng đồng và những nghi thức tưởng niệm.
Những người Phrasee không phải là những người duy nhất lừa bịp vì địa vị và danh dự. Đó là một con người bình thường nhu nhược và bất lực. Tiến lên phía trước tuyên bố một nơi vinh dự trước điều gì không được phép là cách dẫn đến sự gục ngã hèn hạ và nhục nhã. Bữa tiệc trong câu chuyện là biểu trưng cho tất cả những hoạt động thuộc tính người. Chúa Giê-su đã đưa ra một số lời khuyên bổ ích. Cảm thấy tự tin về bản thân và hạnh phúc là nhận một chỗ thấp hơn. Nếu bạn cảm thấy tầm thường với một điều gì đó cao hơn bạn sẽ được gọi mời. Đó không phải là lý do sự đề cao cuồng nộ. Sự tương tác xã hội loài người không thể bị thống trị bởi sự tính toán và thăng tiến.
Nhưng Chuá Giê-su đã đi xa hơn với một bữa tiệc ngụ ngôn của Người. Đừng mời những người dư phần trên bàn tiệc của bạn là những người có điều kiện để đền đáp bạn. Đừng mới những ai có phẩm chất tư cách và danh dự – sư hiện diện của họ tại bàn tiệc của bạn tuy có ích lợi cho bạn. Mời những người nghèo khó, những người tầm thường hèn mọn và những người mà xã hội xếp vào loại “người mất phần.” Nhưng trong Vương Quốc của Thiên chúa không ai là người bị bỏ rơi, bị mất phần và không có nạn lựa chọn bàn ăn trong Tân Ước như biểu tượng của một thế giới mới, thế giới mà Thiên Chúa đã kỳ công sáng tạo. Bữa tiệc trong cảm giác Ki-tô giáo không phải là nơi của sự bất bình đẳng hoặc biến thiên, bất công mà là một nơi tôn nghiêm của sự bình đẳng, đón nhận và sẻ chia. Nó tìm thấy biểu hiện của nó tràn đầy nhất trong Phép Thánh Thể, mặc dù thực tế mà các Ki-tô hữu thường bóp méo, xuyên tạc ý nghĩa chân thực của nó. Thánh Phao-lô đã nghiêm khắc phê bình, chỉ trích gay gắt cộng đồng Corinthian trong 1Corinthians 11 một cách hoàn toàn chính xác cho lý do này: họ đã tạo ra một không gian của sự cạnh tranh, giai tầng xã hội, loại trừ và bất bình đẳng. Chúa Giê-su đã rao giảng đường lối trọng tâm của Thiên Chúa về cuộc sống không có những kiểu cách thuộc tình người dung tục tầm thường về danh dự và ô danh. Cho dù tối thiểu chúng ta có thể đánh giá trọng lượng của những lời giáo huấn này như chúng ta đã thực hiện những việc mà Người đã nói ít nhiều hoặc không nói.
(Nguồn: Regis College – The School of Theology)
Khiêm nhường & phục vụ
Lm. Jude Siciliano, OP
06:44 27/08/2010
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN -C-
Huấn ca 3: 19-21.30-31;tv 68; Do Thái 12:18-19, Luca 14: 1, 7-14
Bài đọc trích sách Huấn ca hôm nay có thể củng cố những quan điểm về người đạo đức – những người được cho là có lòng khiêm nhường. Khi nghĩ đến sự khiêm nhường, nhiều người nghĩ ngay đến việc đấm ngực, những tâm hồn đạo đức chấp nhận xem mình như thảm cửa cho những kẻ tham vọng bước qua. Chúng ta thường cho rằng những người khiêm nhường thì không hay chống lại luật lệ hoặc trật tự, họ chỉ cầu nguyện và khi gặp gian nan khốn khổ, họ “phó thác” cho Chúa. Nhưng Ben Sira, tác giả sách của quyển sách Khôn ngoan này, không xem khiêm nhường là thụ động và mềm yếu như vậy.
Ông là thầy dạy của người trẻ (57,23-30) và ông muốn bảo tồn niềm tin của người Dothái giữa những thế hệ thày dạy và hiền nhân tiếp theo. Bài giảng về lòng khiêm nhường của Ben Sira là về sự từ bỏ và tín thác nơi Thiên Chúa. Người khiêm nhường thì mở lòng mình ra, học hỏi đường lối của Thiên Chúa và thực thi đường lối ấy. Chẳng phải Đức Giêsu cũng từng nói về Người như là một con người khiêm hạ đó sao? Những ai có thể nhận ra Người như Đấng Chúa sai đến cũng sẽ có một trái tim khiêm hạ.
Hiền nhân viết bài đọc thứ nhất hôm nay không dạy môn đệ của mình hay chúng ta nhún nhườngg khi chúng ta đối mặt với sự dữ và cái ác. Nhưng hoàn toàn ngược lại: người khiêm hạ cúi mình trước thiên Chúa và mở lòng đón nhận thánh ý của Ngài, sẽ đứng thẳng bảo vệ chân lý – biết rằng Thiên Chúa, Đấng Công Chính, luôn đứng về phía những ai khiêm nhường và khát tìm chân lý. Kẻ khiêm nhường muốn cộng tác với Thiên Chúa; thái độ khẳng khái như thế sẽ tăng cường và khơi lên chân lý trong lòng họ và rồi họ “sẽ tìm thấy niềm vui trong Chúa”.
Tin mừng Luca có nhắc đến rất nhiều bữa tiệc. Hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ở một bữa tiệc khác. Ngay phần mở đầu câu chuyện thánh Luca đã đưa ra một tình trạng căng thẳng. Đức Giêsu đến dự tiệc ở nhà một “thủ lãnh Pharisêu.” Chúng ta đoán Người sẽ gặp rắc rối khi nghe thánh Luca cho biết “họ cố dò xét Người.”
Tôi cũng mới dự một tiệc cưới rất tuyệt. Ngay khi bước vào phòng tiệc, tôi đã thấy có một cái bàn và trên đó có sơ đồ ghi tên và chỗ ngồi của tất cả các vị khách mời. Tôi đến và tìm xem tôi sẽ ngồi bàn nào. Tôi đã thật sự vui mừng vì thấy mình được sắp xếp ngồi cùng bàn với một số bạn cũ và vài người tôi chưa từng quen biết. Mãi đến khi chúng tôi ăn tiệc và trò chuyện, tôi mới nhận ra rằng chúng tôi có cùng một sở thích và địa vị giống nhau. Tôi biết chủ tiệc cưới đã thận trọng sắp xếp tôi ngồi cùng với những vị khách mà chúng tôi có thể cùng nhau thưởng thức tiệc cũng như chia sẻ niềm vui của bữa tiệc.
Vào thời Đức Giêsu và trong nền văn hóa của Người, việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là rất rõ ràng. Chủ tiệc phải sắp xếp khách mời vào “vị trí xứng hợp.” Người quan trọng nhất sẽ ngồi vào chỗ cao nhất và nổi bất nhất. Những người khác sẽ lần lượt ngồi vào những vị trí thấp hơn tùy theo tầm quan trọng của mình. Một khi mọi người đã yên vị, tất cả những gì anh chị em cần làm là nhìn quanh để thấy rọ tầm quan trọng của mỗi thực khách trong mắt chủ tiệc.
Đức Giêsu là một vị khách trong nhà của một vị Pharisêu quan trọng. Có thể chúng ta không biết Đức Giêsu được xếp ở vị trí nào, là một thày giảng và một người nổi bật, có thể Người được mời vào một vị trí nổi bật trong bàn tiệc – chúng ta không biết rõ điều này. Điều chúng ta biết chắc là Người ngồi vào một nơi không mấy gì là thiện cảm, Người cũng không bị tác động bởi “những kẻ quan sát Người.” Người bắt đầu nhìn quanh và chỉ dạy cho những kẻ đang tìm chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc. Người là một vị khách, nhưng hành xử như ông chủ tiệc, sắp xếp khách khứa vào những chỗ nên ngồi trong bữa tiệc.
Đức Giêsu đưa ra một bữa tiệc khác cho những ai có cái nhìn thiển cận và chẳng bao giờ thỏa mãn. Giống như tác giả sách Huấn ca, Đức Giêsu là một hiền nhân, chỉ cho người ta thấy đâu là sự mãn nguyện đích thực: đó không phải là những chỗ quan trọng trong bữa tiệc, nhưng là việc lắng nghe thông điệp cứu độ của Người. Một khi họ lắng nghe và sống những điều này, bằng cách nhận ra và trân trọng “người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù,” thì họ sẽ nhận được chỗ ngồi danh dự trong bàn tiệc đời đời mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta. “Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
Những người mà Đức Giêsu nói đến thì cũng không tham vọng gì hơn con người ngày nay. Nếu họ nhận được ân huệ từ một nhân vật quan trọng, một vị trí cao trong bàn tiệc, thì họ cũng sẽ tổ chức một buổi tiệc để đáp lễ. Như chúng ta thường nói: “Có qua có lại” – cả hai đều nhận được cái gì đó từ phía người kia.
Nhưng Đức Giêsu đang chuẩn bị cho chúng ta một yến tiệc mà nơi đó những kẻ bần cùng sẽ nhận được sự trân trọng cùng với tất cả sự dư đầy. Vì thế, chúng ta cần thực hành những “hành động thuộc nước trời” ngay bây giờ: hành vi trong cuộc sống của chúng ta sẽ phản ảnh vương quốc mà chúng ta là công dân trong đó. Hành vi của chúng ta phải làm sáng tỏ niềm tin của chúng ta, những cảm nghiệm của chúng ta. Chúng ta chưa làm được gì; chẳng có địa vị xã hội hay danh xưng cao sang nào có thể giúp ta trở thành phần tử trong vương quốc của Đức Giêsu. Nhưng, nếu chúng ta áp dụng dụ ngôn vào cuộc đời chúng ta, thì chúng ta thấy Người đã để ý đến chúng ta và nhu cầu của chúng ta, đồng thời mời gọi chúng ta vào vị trí ưu tiên. Chúng ta không đạt được điều đó, nhưng chúng ta nhận được điều đó. Đó là ân sủng.
Nếu chúng ta tin mình nhận được quà tặng này, một chỗ ngồi trong bàn, không phải do tài cán của chúng ta, nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tỏ ra bằng hành vi tương tự: bằng cách mời vào cuộc đời chúng ta, một cách cụ thể, những người thấp bé và bị bỏ rơi. Hay nói cách khác, chúng ta hành xử như ông chủ tiệc mà Giêsu mô tả trong dụ ngôn, dành chỗ nhất cho những ai bé nhỏ nhất. Và sau khi làm như thế, chúng ta trở thành người phục vụ cho những người chúng ta mời – vì Người cũng dạy chúng ta làm như thế.
Tôi cũng mới thấy dụ ngôn này tái hiện trong chương trình tin tức trên truyền hình buổi tối. Chương trình kết thúc với cảnh nói về một ông chủ nhà hàng Ý ở Anaheim, California. Tên ông là Bruno Serato, và nhà hàng của ông chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng ở Quận Cam, ngay bên cạnh Disneyland. Ông đồng thời cũng quản lý Câu lạc bộ Boys & Girls trong vùng, đó là một tổ chức quốc gia để giúp đỡ những trẻ em nghèo. Trong khu vực đó, có rất nhiều trẻ em nghèo đang sống cùng gia đình trong những nhà trọ rẻ tiền. Năm 2005, bà Caterina, mẹ của ông, đến thăm vùng quê này, sau khi đưa bà đến nhà hàng đắt tiền, ông đưa bà đến thăm những đứa trẻ ở Câu lạc bộ. Khi bà thấy những đứa trẻ nghèo đói này, bà quay lại đứa con đang làm ông chủ và bảo ông “Cho chúng ăn!” Và đó chính là công việc ông làm mỗi ngày trong suốt năm năm qua.
Bruno phục vụ trẻ em mỗi ngày một bữa, không phải với thịt băm và rau xào, nhưng là một bữa tối thịnh soạn y chang thức ăn mà ông phục vụ ở nhà hàng đắt tiền. Chủ nhiệm câu lạc bộ nói: “Những đứa trẻ thích như thế! Chúng tôi giúp một số trẻ em nghèo nhất ở Anaheim thưởng thức một trong những nhà hàng ngoại hạng mỗi tối.”
Với việc suy giảm kinh tế, thì số trẻ em ăn tối của Bruno tăng lên, nhưng thực khách của nhà hàng giảm đi. Vì thế ông lỗ, và phải thế chấp căn hộ của mình để nuôi những đứa trẻ. Nhưng ông vẫn khẳng định sẽ không bao giờ ngừng việc cung cấp thức ăn cho những đứa trẻ, ông nói: “Không Bao Giờ!”
Bruno đã hóa thân vào dụ ngôn mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay mà chẳng mất mát gì. Như chương trình phỏng vấn trên TV, ta thấy kết quả trong cuộc sống của Bruno là ông nhận được quà tặng của niềm vui “… khi tổ chức tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù: như thế ông thật có phúc vì họ không có gì để đáp lại, và ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp
Huấn ca 3: 19-21.30-31;tv 68; Do Thái 12:18-19, Luca 14: 1, 7-14
Bài đọc trích sách Huấn ca hôm nay có thể củng cố những quan điểm về người đạo đức – những người được cho là có lòng khiêm nhường. Khi nghĩ đến sự khiêm nhường, nhiều người nghĩ ngay đến việc đấm ngực, những tâm hồn đạo đức chấp nhận xem mình như thảm cửa cho những kẻ tham vọng bước qua. Chúng ta thường cho rằng những người khiêm nhường thì không hay chống lại luật lệ hoặc trật tự, họ chỉ cầu nguyện và khi gặp gian nan khốn khổ, họ “phó thác” cho Chúa. Nhưng Ben Sira, tác giả sách của quyển sách Khôn ngoan này, không xem khiêm nhường là thụ động và mềm yếu như vậy.
Ông là thầy dạy của người trẻ (57,23-30) và ông muốn bảo tồn niềm tin của người Dothái giữa những thế hệ thày dạy và hiền nhân tiếp theo. Bài giảng về lòng khiêm nhường của Ben Sira là về sự từ bỏ và tín thác nơi Thiên Chúa. Người khiêm nhường thì mở lòng mình ra, học hỏi đường lối của Thiên Chúa và thực thi đường lối ấy. Chẳng phải Đức Giêsu cũng từng nói về Người như là một con người khiêm hạ đó sao? Những ai có thể nhận ra Người như Đấng Chúa sai đến cũng sẽ có một trái tim khiêm hạ.
Hiền nhân viết bài đọc thứ nhất hôm nay không dạy môn đệ của mình hay chúng ta nhún nhườngg khi chúng ta đối mặt với sự dữ và cái ác. Nhưng hoàn toàn ngược lại: người khiêm hạ cúi mình trước thiên Chúa và mở lòng đón nhận thánh ý của Ngài, sẽ đứng thẳng bảo vệ chân lý – biết rằng Thiên Chúa, Đấng Công Chính, luôn đứng về phía những ai khiêm nhường và khát tìm chân lý. Kẻ khiêm nhường muốn cộng tác với Thiên Chúa; thái độ khẳng khái như thế sẽ tăng cường và khơi lên chân lý trong lòng họ và rồi họ “sẽ tìm thấy niềm vui trong Chúa”.
Tin mừng Luca có nhắc đến rất nhiều bữa tiệc. Hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ở một bữa tiệc khác. Ngay phần mở đầu câu chuyện thánh Luca đã đưa ra một tình trạng căng thẳng. Đức Giêsu đến dự tiệc ở nhà một “thủ lãnh Pharisêu.” Chúng ta đoán Người sẽ gặp rắc rối khi nghe thánh Luca cho biết “họ cố dò xét Người.”
Tôi cũng mới dự một tiệc cưới rất tuyệt. Ngay khi bước vào phòng tiệc, tôi đã thấy có một cái bàn và trên đó có sơ đồ ghi tên và chỗ ngồi của tất cả các vị khách mời. Tôi đến và tìm xem tôi sẽ ngồi bàn nào. Tôi đã thật sự vui mừng vì thấy mình được sắp xếp ngồi cùng bàn với một số bạn cũ và vài người tôi chưa từng quen biết. Mãi đến khi chúng tôi ăn tiệc và trò chuyện, tôi mới nhận ra rằng chúng tôi có cùng một sở thích và địa vị giống nhau. Tôi biết chủ tiệc cưới đã thận trọng sắp xếp tôi ngồi cùng với những vị khách mà chúng tôi có thể cùng nhau thưởng thức tiệc cũng như chia sẻ niềm vui của bữa tiệc.
Vào thời Đức Giêsu và trong nền văn hóa của Người, việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là rất rõ ràng. Chủ tiệc phải sắp xếp khách mời vào “vị trí xứng hợp.” Người quan trọng nhất sẽ ngồi vào chỗ cao nhất và nổi bất nhất. Những người khác sẽ lần lượt ngồi vào những vị trí thấp hơn tùy theo tầm quan trọng của mình. Một khi mọi người đã yên vị, tất cả những gì anh chị em cần làm là nhìn quanh để thấy rọ tầm quan trọng của mỗi thực khách trong mắt chủ tiệc.
Đức Giêsu là một vị khách trong nhà của một vị Pharisêu quan trọng. Có thể chúng ta không biết Đức Giêsu được xếp ở vị trí nào, là một thày giảng và một người nổi bật, có thể Người được mời vào một vị trí nổi bật trong bàn tiệc – chúng ta không biết rõ điều này. Điều chúng ta biết chắc là Người ngồi vào một nơi không mấy gì là thiện cảm, Người cũng không bị tác động bởi “những kẻ quan sát Người.” Người bắt đầu nhìn quanh và chỉ dạy cho những kẻ đang tìm chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc. Người là một vị khách, nhưng hành xử như ông chủ tiệc, sắp xếp khách khứa vào những chỗ nên ngồi trong bữa tiệc.
Đức Giêsu đưa ra một bữa tiệc khác cho những ai có cái nhìn thiển cận và chẳng bao giờ thỏa mãn. Giống như tác giả sách Huấn ca, Đức Giêsu là một hiền nhân, chỉ cho người ta thấy đâu là sự mãn nguyện đích thực: đó không phải là những chỗ quan trọng trong bữa tiệc, nhưng là việc lắng nghe thông điệp cứu độ của Người. Một khi họ lắng nghe và sống những điều này, bằng cách nhận ra và trân trọng “người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù,” thì họ sẽ nhận được chỗ ngồi danh dự trong bàn tiệc đời đời mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta. “Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
Những người mà Đức Giêsu nói đến thì cũng không tham vọng gì hơn con người ngày nay. Nếu họ nhận được ân huệ từ một nhân vật quan trọng, một vị trí cao trong bàn tiệc, thì họ cũng sẽ tổ chức một buổi tiệc để đáp lễ. Như chúng ta thường nói: “Có qua có lại” – cả hai đều nhận được cái gì đó từ phía người kia.
Nhưng Đức Giêsu đang chuẩn bị cho chúng ta một yến tiệc mà nơi đó những kẻ bần cùng sẽ nhận được sự trân trọng cùng với tất cả sự dư đầy. Vì thế, chúng ta cần thực hành những “hành động thuộc nước trời” ngay bây giờ: hành vi trong cuộc sống của chúng ta sẽ phản ảnh vương quốc mà chúng ta là công dân trong đó. Hành vi của chúng ta phải làm sáng tỏ niềm tin của chúng ta, những cảm nghiệm của chúng ta. Chúng ta chưa làm được gì; chẳng có địa vị xã hội hay danh xưng cao sang nào có thể giúp ta trở thành phần tử trong vương quốc của Đức Giêsu. Nhưng, nếu chúng ta áp dụng dụ ngôn vào cuộc đời chúng ta, thì chúng ta thấy Người đã để ý đến chúng ta và nhu cầu của chúng ta, đồng thời mời gọi chúng ta vào vị trí ưu tiên. Chúng ta không đạt được điều đó, nhưng chúng ta nhận được điều đó. Đó là ân sủng.
Nếu chúng ta tin mình nhận được quà tặng này, một chỗ ngồi trong bàn, không phải do tài cán của chúng ta, nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tỏ ra bằng hành vi tương tự: bằng cách mời vào cuộc đời chúng ta, một cách cụ thể, những người thấp bé và bị bỏ rơi. Hay nói cách khác, chúng ta hành xử như ông chủ tiệc mà Giêsu mô tả trong dụ ngôn, dành chỗ nhất cho những ai bé nhỏ nhất. Và sau khi làm như thế, chúng ta trở thành người phục vụ cho những người chúng ta mời – vì Người cũng dạy chúng ta làm như thế.
Tôi cũng mới thấy dụ ngôn này tái hiện trong chương trình tin tức trên truyền hình buổi tối. Chương trình kết thúc với cảnh nói về một ông chủ nhà hàng Ý ở Anaheim, California. Tên ông là Bruno Serato, và nhà hàng của ông chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng ở Quận Cam, ngay bên cạnh Disneyland. Ông đồng thời cũng quản lý Câu lạc bộ Boys & Girls trong vùng, đó là một tổ chức quốc gia để giúp đỡ những trẻ em nghèo. Trong khu vực đó, có rất nhiều trẻ em nghèo đang sống cùng gia đình trong những nhà trọ rẻ tiền. Năm 2005, bà Caterina, mẹ của ông, đến thăm vùng quê này, sau khi đưa bà đến nhà hàng đắt tiền, ông đưa bà đến thăm những đứa trẻ ở Câu lạc bộ. Khi bà thấy những đứa trẻ nghèo đói này, bà quay lại đứa con đang làm ông chủ và bảo ông “Cho chúng ăn!” Và đó chính là công việc ông làm mỗi ngày trong suốt năm năm qua.
Bruno phục vụ trẻ em mỗi ngày một bữa, không phải với thịt băm và rau xào, nhưng là một bữa tối thịnh soạn y chang thức ăn mà ông phục vụ ở nhà hàng đắt tiền. Chủ nhiệm câu lạc bộ nói: “Những đứa trẻ thích như thế! Chúng tôi giúp một số trẻ em nghèo nhất ở Anaheim thưởng thức một trong những nhà hàng ngoại hạng mỗi tối.”
Với việc suy giảm kinh tế, thì số trẻ em ăn tối của Bruno tăng lên, nhưng thực khách của nhà hàng giảm đi. Vì thế ông lỗ, và phải thế chấp căn hộ của mình để nuôi những đứa trẻ. Nhưng ông vẫn khẳng định sẽ không bao giờ ngừng việc cung cấp thức ăn cho những đứa trẻ, ông nói: “Không Bao Giờ!”
Bruno đã hóa thân vào dụ ngôn mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay mà chẳng mất mát gì. Như chương trình phỏng vấn trên TV, ta thấy kết quả trong cuộc sống của Bruno là ông nhận được quà tặng của niềm vui “… khi tổ chức tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù: như thế ông thật có phúc vì họ không có gì để đáp lại, và ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp
Suy nghĩ về trí thức
+ Gm. Gioan B. Bùi Tuần
18:16 27/08/2010
Nhân lễ kính thánh Augutinh (28-8-2010)
Thánh Augutinh là một giám mục Phi châu, đứng đầu một giáo phận nhỏ thuộc Phi châu. Ngài sống từ năm 354 đến năm 430. Như thế, lịch sử thánh nhân thuộc về một địa lý nhỏ và một thời gian đã xa.
Thế mà, ngài đã ảnh hưởng sâu rộng trên khắp toàn cầu và qua mọi thời đại. Nguyên nhân ảnh hưởng là trình độ trí thức của ngài. Trí thức trong tư tưởng và trí thức trong đời sống.
1/ Trí thức trong lãnh vực tư tưởng
Tư tưởng của thánh Augustinh để lại trong 252 cuốn sách lớn nhỏ, 509 bài giảng đủ loại, và 207 lá thư xa gần. Những tư tưởng bất hủ của ngài thường được trích từ ba cuốn sách nổi tiếng của ngài sau đây: Những thú nhận, Thành trì của Thiên Chúa, về Chúa Ba Ngôi.
Nội dung tư tưởng phần lớn tập trung vào ba lãnh vực: Triết học, thần học, linh đạo.
Hình thức ngài dùng để diễn tả nội dung là rất phong phú. Tất cả đều mang dấu ấn của một người học cao về văn chương và hùng biện.
Đọc những tác phẩm của thánh Augutinh, người nghiên cứu thấy: Phần, mà ngài nhận được bởi người khác, là rất đa dạng. Phần, mà ngài tự suy nghĩ ra, là rất sâu sắc.
Ngài đã là giáo sư ở Thagaste, ở Carthage, ở Roma, ở Milan.
Ngài có quan hệ mật thiết với nhiều bạn bè trí thức, trong đó có thánh Ambrôsiô.
Trí thức của thánh Augutinh được nhận thấy ở điểm chung này là: Say mê đi tìm sự thật, lẽ phải và đức khôn ngoan. Đối tượng là Thiên Chúa và con người.
Sau khi đã mải miết đi tìm ở các trường phái, các trường học, các học giả, thánh nhân đã đi tìm nơi Đức Kitô. Ngài thú nhận: Chỉ Đức Kitô mới cho ngài thấy rõ sự thực, lẽ phải và sự khôn ngoan. Chỉ Đức Kitô mới là thầy chỉ cho ngài thấy con đường phần rỗi. Đức Kitô dạy ngài qua gương đạo đức của mẹ ngài là thánh Monica, qua Lời Chúa và trong nội tâm sâu thẳm của ngài.
Ngài ghi lại tất cả cuộc đời thăng trầm của ngài một cách rất khiêm nhường.
Với những tư tưởng trí thức trộn vào những kinh nghiệm bản thân, thánh Augutinh đã phản bác các bè rối một cách trí thức và đạo đức. Cũng với trí thức và đạo đức, ngài đã lập cộng đoàn tu viện ở Thagaste, đã sống đời mục vụ khi làm giám mục ở Hippone. Tại đây, ngài cũng đã trí thức trong lối sống của ngài.
2/ Trí thức trong lãnh vực đời sống
Nhận ra trình độ trí thức trong lãnh vực tư tưởng thì tương đối dễ. Nhận ra trình độ trí thức trong lãnh vực đời sống thì không luôn dễ. Không dễ, nhưng vẫn nhận ra được, nếu dựa vào tiêu chuẩn sau đây:
Biết phân định cái đúng cái sai.
Biết chọn lựa điều nào tốt, điều nào trước, điều nào nên.
Với tư cách người mục tử và thầy dạy, thánh Augutinh phân định người nào đi lên, kẻ nào đi xuống trên đường đạo đức theo thái độ của họ đối với ba đối tượng này: Tạo vật, bản thân, Thiên Chúa. Người nào không dính bén tạo vật, trở về với mình và vượt qua mình, để tìm kiếm Chúa, người đó được kể là người đi lên. Trái lại, kẻ nào bỏ xa Chúa, theo ý mình, để bám vào tạo vật, kẻ đó là kẻ đi xuống.
Theo thánh Augutinh, đi xuống thì tự mình làm. Còn đi lên thì phải nhờ đến ơn thánh Chúa.
Căn cứ theo các thái độ đó, người mục tử đánh giá được tình trạng thiêng liêng của từng con chiên, từng cộng đoàn đức tin, từng hoạt động tôn giáo.
Một chọn lựa đã được thánh Augutinh hay nhắc tới, đó là đời sống bên trong hơn đời sống bên ngoài. Chúa Giêsu xưa khi còn ở trần thế, đã lo cho đời sống bên ngoài của con người, nhưng lo cho đời sống bên trong nhiều hơn. Trong mục vụ, thánh Augutinh lo cho đời sống bên ngoài của con chiên bằng nhiều cách, nhất là bằng cách dạy bảo, cảnh báo, khuyên răn. Nhưng điều quan trọng hơn ngài luôn cố gắng là, lo cho con chiên đi vào nội tâm mình, để gặp gỡ Đức Kitô. Trong cố gắng ấy, ngài thường nhấn mạnh đến đời sống phục vụ trong yêu thương, tình nghĩa theo gương Đức Kitô.
Chính Đức Kitô mới là Đấng dạy dỗ nội tâm và đổi mới con người bên trong. Vì thế, mục đích sau cùng, mà ngài nhắm tới trong mọi bài giảng, là dẫn con người đến với Đức Kitô.
Có thể nói, những phân định và lựa chọn trên đây phải được coi là rất trí thức. Áp dụng vào đời sống bản thân là việc trí thức. Áp dụng vào đời sống mục vụ cũng là việc trí thức.
3/ Nhìn vào Hội Thánh Việt Nam
Thánh Augutinh là niềm tự hào của giáo phận Hippone, của Hội Thánh Phi châu, của Hội Thánh toàn cầu.
Nếu nhìn Hội Thánh Việt Nam qua gương trí thức của ngài, chúng ta sẽ thấy chúng ta còn nhiều điều phải cố gắng thêm.
Bước đầu của trí thức là biết nhận thấy vấn đề.
Trong lãnh vực tư tưởng cũng như trong lãnh vực đời sống, trí thức vẫn là một tiếng gọi. Dù đối thoại, dù đối kháng, chúng ta cần phải trí thức. Nhất là trí thức Phúc Âm. Những chọn lựa đạo đức, nếu thiếu chiều sâu trí thức, sẽ khó có thể làm cho Chúa được vinh quang trên đất nước Việt Nam hôm nay một cách hữu hiệu và lâu bền.
Trên đất nước Việt Nam hôm nay và ngày mai, trí thức đang và sẽ phát triển ở mọi tầng lớp. Trí thức cũng đang được khát khao ngay ở thôn quê bình dân nghèo túng.
Ước mong Công giáo Việt Nam khi hiện diện và đồng hành, sẽ không thiếu một đội ngũ trí thức tầm cỡ đi đầu. Vừa trí thức trong đạo, vừa trí thức ngoài đời. Khối trí thức ấy sẽ sát cánh kề vai với các trí thức xã hội, để cùng với tất cả đồng bào, xây dựng quê hương chung là Việt Nam yêu mến của chúng ta.
Chúng ta thành khẩn dâng lên Chúa mong ước trên đây với tâm tình cầu nguyện khiêm cung.
Thánh Augutinh là một giám mục Phi châu, đứng đầu một giáo phận nhỏ thuộc Phi châu. Ngài sống từ năm 354 đến năm 430. Như thế, lịch sử thánh nhân thuộc về một địa lý nhỏ và một thời gian đã xa.
Thế mà, ngài đã ảnh hưởng sâu rộng trên khắp toàn cầu và qua mọi thời đại. Nguyên nhân ảnh hưởng là trình độ trí thức của ngài. Trí thức trong tư tưởng và trí thức trong đời sống.
1/ Trí thức trong lãnh vực tư tưởng
Tư tưởng của thánh Augustinh để lại trong 252 cuốn sách lớn nhỏ, 509 bài giảng đủ loại, và 207 lá thư xa gần. Những tư tưởng bất hủ của ngài thường được trích từ ba cuốn sách nổi tiếng của ngài sau đây: Những thú nhận, Thành trì của Thiên Chúa, về Chúa Ba Ngôi.
Nội dung tư tưởng phần lớn tập trung vào ba lãnh vực: Triết học, thần học, linh đạo.
Hình thức ngài dùng để diễn tả nội dung là rất phong phú. Tất cả đều mang dấu ấn của một người học cao về văn chương và hùng biện.
Đọc những tác phẩm của thánh Augutinh, người nghiên cứu thấy: Phần, mà ngài nhận được bởi người khác, là rất đa dạng. Phần, mà ngài tự suy nghĩ ra, là rất sâu sắc.
Ngài đã là giáo sư ở Thagaste, ở Carthage, ở Roma, ở Milan.
Ngài có quan hệ mật thiết với nhiều bạn bè trí thức, trong đó có thánh Ambrôsiô.
Trí thức của thánh Augutinh được nhận thấy ở điểm chung này là: Say mê đi tìm sự thật, lẽ phải và đức khôn ngoan. Đối tượng là Thiên Chúa và con người.
Sau khi đã mải miết đi tìm ở các trường phái, các trường học, các học giả, thánh nhân đã đi tìm nơi Đức Kitô. Ngài thú nhận: Chỉ Đức Kitô mới cho ngài thấy rõ sự thực, lẽ phải và sự khôn ngoan. Chỉ Đức Kitô mới là thầy chỉ cho ngài thấy con đường phần rỗi. Đức Kitô dạy ngài qua gương đạo đức của mẹ ngài là thánh Monica, qua Lời Chúa và trong nội tâm sâu thẳm của ngài.
Ngài ghi lại tất cả cuộc đời thăng trầm của ngài một cách rất khiêm nhường.
Với những tư tưởng trí thức trộn vào những kinh nghiệm bản thân, thánh Augutinh đã phản bác các bè rối một cách trí thức và đạo đức. Cũng với trí thức và đạo đức, ngài đã lập cộng đoàn tu viện ở Thagaste, đã sống đời mục vụ khi làm giám mục ở Hippone. Tại đây, ngài cũng đã trí thức trong lối sống của ngài.
2/ Trí thức trong lãnh vực đời sống
Nhận ra trình độ trí thức trong lãnh vực tư tưởng thì tương đối dễ. Nhận ra trình độ trí thức trong lãnh vực đời sống thì không luôn dễ. Không dễ, nhưng vẫn nhận ra được, nếu dựa vào tiêu chuẩn sau đây:
Biết phân định cái đúng cái sai.
Biết chọn lựa điều nào tốt, điều nào trước, điều nào nên.
Với tư cách người mục tử và thầy dạy, thánh Augutinh phân định người nào đi lên, kẻ nào đi xuống trên đường đạo đức theo thái độ của họ đối với ba đối tượng này: Tạo vật, bản thân, Thiên Chúa. Người nào không dính bén tạo vật, trở về với mình và vượt qua mình, để tìm kiếm Chúa, người đó được kể là người đi lên. Trái lại, kẻ nào bỏ xa Chúa, theo ý mình, để bám vào tạo vật, kẻ đó là kẻ đi xuống.
Theo thánh Augutinh, đi xuống thì tự mình làm. Còn đi lên thì phải nhờ đến ơn thánh Chúa.
Căn cứ theo các thái độ đó, người mục tử đánh giá được tình trạng thiêng liêng của từng con chiên, từng cộng đoàn đức tin, từng hoạt động tôn giáo.
Một chọn lựa đã được thánh Augutinh hay nhắc tới, đó là đời sống bên trong hơn đời sống bên ngoài. Chúa Giêsu xưa khi còn ở trần thế, đã lo cho đời sống bên ngoài của con người, nhưng lo cho đời sống bên trong nhiều hơn. Trong mục vụ, thánh Augutinh lo cho đời sống bên ngoài của con chiên bằng nhiều cách, nhất là bằng cách dạy bảo, cảnh báo, khuyên răn. Nhưng điều quan trọng hơn ngài luôn cố gắng là, lo cho con chiên đi vào nội tâm mình, để gặp gỡ Đức Kitô. Trong cố gắng ấy, ngài thường nhấn mạnh đến đời sống phục vụ trong yêu thương, tình nghĩa theo gương Đức Kitô.
Chính Đức Kitô mới là Đấng dạy dỗ nội tâm và đổi mới con người bên trong. Vì thế, mục đích sau cùng, mà ngài nhắm tới trong mọi bài giảng, là dẫn con người đến với Đức Kitô.
Có thể nói, những phân định và lựa chọn trên đây phải được coi là rất trí thức. Áp dụng vào đời sống bản thân là việc trí thức. Áp dụng vào đời sống mục vụ cũng là việc trí thức.
3/ Nhìn vào Hội Thánh Việt Nam
Thánh Augutinh là niềm tự hào của giáo phận Hippone, của Hội Thánh Phi châu, của Hội Thánh toàn cầu.
Nếu nhìn Hội Thánh Việt Nam qua gương trí thức của ngài, chúng ta sẽ thấy chúng ta còn nhiều điều phải cố gắng thêm.
Bước đầu của trí thức là biết nhận thấy vấn đề.
Trong lãnh vực tư tưởng cũng như trong lãnh vực đời sống, trí thức vẫn là một tiếng gọi. Dù đối thoại, dù đối kháng, chúng ta cần phải trí thức. Nhất là trí thức Phúc Âm. Những chọn lựa đạo đức, nếu thiếu chiều sâu trí thức, sẽ khó có thể làm cho Chúa được vinh quang trên đất nước Việt Nam hôm nay một cách hữu hiệu và lâu bền.
Trên đất nước Việt Nam hôm nay và ngày mai, trí thức đang và sẽ phát triển ở mọi tầng lớp. Trí thức cũng đang được khát khao ngay ở thôn quê bình dân nghèo túng.
Ước mong Công giáo Việt Nam khi hiện diện và đồng hành, sẽ không thiếu một đội ngũ trí thức tầm cỡ đi đầu. Vừa trí thức trong đạo, vừa trí thức ngoài đời. Khối trí thức ấy sẽ sát cánh kề vai với các trí thức xã hội, để cùng với tất cả đồng bào, xây dựng quê hương chung là Việt Nam yêu mến của chúng ta.
Chúng ta thành khẩn dâng lên Chúa mong ước trên đây với tâm tình cầu nguyện khiêm cung.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:42 27/08/2010
TRÁI CẤM
Yê-hô-va Thiên Chúa sáng tạo thế giới, trước hết dùng bùn đất dựng nên một người nam và đặt tên là A Dong, sau đó lấy một cái xương sườn từ bên hông của A Dong làm thành một người nữ và đặt tên là E Và, và để hai người phối hợp thành vợ chồng, họ sống trong vườn địa đàng không lo âu buồn phiền. Thiên Chúa quy định cho họ được phép ăn tất cả các trái cây trong vườn, nhưng chỉ có cây “biết lành biết dữ” thì không được phép ăn.
Nhưng, A dong và E va chịu không nổi trước lời cám dỗ giảo hoạt của con rắn, bèn ăn trái cấm. Do đó mà họ có thể phân biệt được thật giả, biết xấu hổ và bắt đầu có lo âu buồn phiền, Thiên Chúa bèn đuổi họ ra khỏi vườn địa đàng.
Từ đó về sau, người phụ nữ phải chịu đau khổ khi mang thai và đau đớn khi sinh con, người nam thì phải lo làm lụng suốt đời cho đến khi chết mới thôi.
(Thánh Kinh, Sáng thế)
Suy tư:
Tích truyện “trái cấm” được bắt nguồn từ trong Kinh Thánh sách Sáng Thế của người Ki-tô hữu, ăn “trái cấm” là nguyên nhân của đau khổ, chết chóc, tội lỗi, hận thù ghét ghen, kiêu căngv.v... (St 3)
“Trái cấm” của ngày xưa trong vườn địa đàng là cây “biết lành biết dữ”, trái nó ngon ngọt đẹp đẽ và hấp dẫn, nhưng ăn vào là bị mất tất cả các ân sủng và ân huệ Chúa ban cho.
“Trái cấm” của ngày hôm nay chính là bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, ghen ghét, mê ăn uống, hờn giận và lười biếng làm việc lành. “Ăn” những trái cấm này, thì dứt khoát hậu quả không thể lường được.
- Ăn trái cấm kiêu ngạo thì làm cho con người mất ơn nghĩa của Chúa.
- Ăn trái cấm hà tiện thì làm cho con người ta sống ích kỷ với nhau.
- Ăn trái cấm dâm dục thì làm cho con người ta trầm luân trong bể khổ.
- Ăn trái cấm ghen ghét thì làm cho con người ta sống trong hận thù.
- Ăn trái cấm mê ăn mê uống thì làm cho con người ta quên mất hạnh phúc thiên đàng.
- Ăn trái cấm hờn giận thì làm cho con người ta chỉ thấy mình là trỗi vượt hơn mọi người.
- Ăn trái cấm lười biếng làm việc lành, thì làm cho đầu óc con người ta nảy sinh nhiều tư tưởng xấu.
Trái cấm thường rất đẹp rất ngon, nhưng hàm chứa độc dược làm chết linh hồn và thân xác của chúng ta. Ha ha ha...
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Yê-hô-va Thiên Chúa sáng tạo thế giới, trước hết dùng bùn đất dựng nên một người nam và đặt tên là A Dong, sau đó lấy một cái xương sườn từ bên hông của A Dong làm thành một người nữ và đặt tên là E Và, và để hai người phối hợp thành vợ chồng, họ sống trong vườn địa đàng không lo âu buồn phiền. Thiên Chúa quy định cho họ được phép ăn tất cả các trái cây trong vườn, nhưng chỉ có cây “biết lành biết dữ” thì không được phép ăn.
Nhưng, A dong và E va chịu không nổi trước lời cám dỗ giảo hoạt của con rắn, bèn ăn trái cấm. Do đó mà họ có thể phân biệt được thật giả, biết xấu hổ và bắt đầu có lo âu buồn phiền, Thiên Chúa bèn đuổi họ ra khỏi vườn địa đàng.
Từ đó về sau, người phụ nữ phải chịu đau khổ khi mang thai và đau đớn khi sinh con, người nam thì phải lo làm lụng suốt đời cho đến khi chết mới thôi.
(Thánh Kinh, Sáng thế)
Suy tư:
Tích truyện “trái cấm” được bắt nguồn từ trong Kinh Thánh sách Sáng Thế của người Ki-tô hữu, ăn “trái cấm” là nguyên nhân của đau khổ, chết chóc, tội lỗi, hận thù ghét ghen, kiêu căngv.v... (St 3)
“Trái cấm” của ngày xưa trong vườn địa đàng là cây “biết lành biết dữ”, trái nó ngon ngọt đẹp đẽ và hấp dẫn, nhưng ăn vào là bị mất tất cả các ân sủng và ân huệ Chúa ban cho.
“Trái cấm” của ngày hôm nay chính là bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, ghen ghét, mê ăn uống, hờn giận và lười biếng làm việc lành. “Ăn” những trái cấm này, thì dứt khoát hậu quả không thể lường được.
- Ăn trái cấm kiêu ngạo thì làm cho con người mất ơn nghĩa của Chúa.
- Ăn trái cấm hà tiện thì làm cho con người ta sống ích kỷ với nhau.
- Ăn trái cấm dâm dục thì làm cho con người ta trầm luân trong bể khổ.
- Ăn trái cấm ghen ghét thì làm cho con người ta sống trong hận thù.
- Ăn trái cấm mê ăn mê uống thì làm cho con người ta quên mất hạnh phúc thiên đàng.
- Ăn trái cấm hờn giận thì làm cho con người ta chỉ thấy mình là trỗi vượt hơn mọi người.
- Ăn trái cấm lười biếng làm việc lành, thì làm cho đầu óc con người ta nảy sinh nhiều tư tưởng xấu.
Trái cấm thường rất đẹp rất ngon, nhưng hàm chứa độc dược làm chết linh hồn và thân xác của chúng ta. Ha ha ha...
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 22 C)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:45 27/08/2010
CHỦ NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN
Tin mừng: Lc 14, 1.7-14.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Bạn thân mến,
Con người ta ai cũng có sĩ diện, chức quyền càng cao thì sĩ diện càng lớn, sĩ diện càng lớn thì nhân cách lại nhỏ đi, cuối cùng trở thành một kẻ kiêu ngạo làm trò cười cho thiên hạ.
Chúa Giê-su không là Thiên Chúa làm người, là Cứu Chúa và là thầy của của nhân loại, Ngài còn là nhà tâm lý dạy cho chúng ta những bài học về cách đối xữ với nhau trong cuộc sống hằng ngày, mà trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Ngài đã dạy cho bạn và tôi hãy sống khiêm tốn với nhau trong cuộc sống đời thường.
Khiêm tốn khi được làm khách danh dự
Ở đời, ai cũng có một lúc nào đó được mời đi dự tiệc, và ai cũng thích được người khác chú ý đến mình trong bữa tiệc, địa vị càng cao thì càng thích người khác biết đến, càng được nhiều người biết đến thì càng hãnh diện và cảm thấy mình là người quan trọng, đó chính là mầm móng của kiêu ngạo.
Chúa Giê-su khuyên bảo bạn và tôi khi được người khác mời đi dự tiệc thì hãy chọn chỗ ngồi cuối trong bàn ăn, là để cho chúng ta thấy giá trị đích thực của khiêm tốn không phải là nơi dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tâm tình bên trong của một tâm hồn không coi địa vị như là một bàn đạp để hãnh tiến, nhưng coi địa vị như một công cụ để phục vụ tha nhân, chứ không phải là để ăn trên ngồi trước.
Địa vị tự nó không phải là một bức tường ngăn trở bạn và tôi đến với Thiên Chúa và với tha nhân, nhưng chính thái độ của chúng ta làm cho địa vị như là một hố sâu ngăn cách giữa mình với tha nhân, đó là thái độ kiêu ngạo kẻ cả của mình khi xuất hiện giữa đám đông, chẳng hạn như khi được mời tham dự các cuộc ăn uống hay những cuộc hội họp của những người khác.
Có những người đã tranh giành chỗ ngồi nhất trong bàn tiệc, những người dự tiệc khác cũng đã làm như thế, bởi vì ai cũng coi sĩ diện của mình lớn hơn nhân cách của người khác.
Khiêm tốn đích thực
Chúa Giê-su tận mắt chứng kiến cảnh người ta đi dự tiệc tranh giành nhau để ngồi chỗ trên, Ngài không muốn các môn đệ của mình làm như thế khi được mời dự tiệc, nhưng Ngài muốn dạy các môn đệ và chúng ta sống có nhân bản hơn trong cuộc sống đời thường, cái nhân bản ấy chính là sống hài hòa với mọi người, cho dù mình có địa vị và chức vụ cao trong xã hội hay trong Giáo Hội.
Cái mà Chúa Giê-su đề cập đến chính là “tự nhắc mình lên” của con người, bởi vì khi tự mình nhắc mình lên thì không những không có giá trị gì, mà lại còn trở thành kiêu căng lố bịch trước mặt mọi người, và như thế phẩm cách của họ cũng theo đó mà bị hạ xuống. Người có tâm hồn khiêm tốn đích thực thì dù được ngồi ở trên, hay ngồi ở cuối cùng thì vẫn là người khiêm tốn, bởi vì sự khiêm tốn không hệ tại nơi chỗ ngồi rốt cùng hay ngồi chỗ cao hết trong bữa tiệc, bởi vì có khi ngồi bàn cuối cùng nhưng tâm hồn thì khiêu ngạo phàn nàn oán trách chủ nhà không nể mình.
Có địa vị hay không có địa vị thì người khiêm tốn vẫn cứ là người khiêm tốn, ngồi trên bàn cao hay ngồi bàn dưới bàn thấp thì vẫn cứ là người khiêm tốn như thường, bởi vì sự khiêm tốn chính là học được bài học từ nơi Thập Giá của Chúa Giê-su, tức là sự hy sinh bỏ mình, và cũng là học khiêm tốn từ nơi bàn tiệc Thánh Thể trên bàn thờ mỗi ngày khi dâng thánh lễ, đó là yêu thương và khiêm tốn.
Bạn thân mến,
Chúa Giê-su dạy chúng ta cần có sự khiêm tốn khi được bạn hữu mời đi ăn tiệc, chính là Ngài nhắm đến bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày mà chúng ta tham dự, đó là thánh lễ Mi sa. Nơi bàn tiệc thánh này, cái cần phải có của chúng ta là sự khiêm tốn “chọn chỗ rốt hèn” như chính Chúa Giê-su đã hết sức khiêm hạ trở nên tấm bánh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
Nơi bàn tiệc thánh này sự khiêm tốn càng nổi nét hơn, khi mỗi người trong chúng ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân sau khi tham dự bàn tiệc thánh trên bàn thờ.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin mừng: Lc 14, 1.7-14.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Bạn thân mến,
Con người ta ai cũng có sĩ diện, chức quyền càng cao thì sĩ diện càng lớn, sĩ diện càng lớn thì nhân cách lại nhỏ đi, cuối cùng trở thành một kẻ kiêu ngạo làm trò cười cho thiên hạ.
Chúa Giê-su không là Thiên Chúa làm người, là Cứu Chúa và là thầy của của nhân loại, Ngài còn là nhà tâm lý dạy cho chúng ta những bài học về cách đối xữ với nhau trong cuộc sống hằng ngày, mà trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Ngài đã dạy cho bạn và tôi hãy sống khiêm tốn với nhau trong cuộc sống đời thường.
Khiêm tốn khi được làm khách danh dự
Ở đời, ai cũng có một lúc nào đó được mời đi dự tiệc, và ai cũng thích được người khác chú ý đến mình trong bữa tiệc, địa vị càng cao thì càng thích người khác biết đến, càng được nhiều người biết đến thì càng hãnh diện và cảm thấy mình là người quan trọng, đó chính là mầm móng của kiêu ngạo.
Chúa Giê-su khuyên bảo bạn và tôi khi được người khác mời đi dự tiệc thì hãy chọn chỗ ngồi cuối trong bàn ăn, là để cho chúng ta thấy giá trị đích thực của khiêm tốn không phải là nơi dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tâm tình bên trong của một tâm hồn không coi địa vị như là một bàn đạp để hãnh tiến, nhưng coi địa vị như một công cụ để phục vụ tha nhân, chứ không phải là để ăn trên ngồi trước.
Địa vị tự nó không phải là một bức tường ngăn trở bạn và tôi đến với Thiên Chúa và với tha nhân, nhưng chính thái độ của chúng ta làm cho địa vị như là một hố sâu ngăn cách giữa mình với tha nhân, đó là thái độ kiêu ngạo kẻ cả của mình khi xuất hiện giữa đám đông, chẳng hạn như khi được mời tham dự các cuộc ăn uống hay những cuộc hội họp của những người khác.
Có những người đã tranh giành chỗ ngồi nhất trong bàn tiệc, những người dự tiệc khác cũng đã làm như thế, bởi vì ai cũng coi sĩ diện của mình lớn hơn nhân cách của người khác.
Khiêm tốn đích thực
Chúa Giê-su tận mắt chứng kiến cảnh người ta đi dự tiệc tranh giành nhau để ngồi chỗ trên, Ngài không muốn các môn đệ của mình làm như thế khi được mời dự tiệc, nhưng Ngài muốn dạy các môn đệ và chúng ta sống có nhân bản hơn trong cuộc sống đời thường, cái nhân bản ấy chính là sống hài hòa với mọi người, cho dù mình có địa vị và chức vụ cao trong xã hội hay trong Giáo Hội.
Cái mà Chúa Giê-su đề cập đến chính là “tự nhắc mình lên” của con người, bởi vì khi tự mình nhắc mình lên thì không những không có giá trị gì, mà lại còn trở thành kiêu căng lố bịch trước mặt mọi người, và như thế phẩm cách của họ cũng theo đó mà bị hạ xuống. Người có tâm hồn khiêm tốn đích thực thì dù được ngồi ở trên, hay ngồi ở cuối cùng thì vẫn là người khiêm tốn, bởi vì sự khiêm tốn không hệ tại nơi chỗ ngồi rốt cùng hay ngồi chỗ cao hết trong bữa tiệc, bởi vì có khi ngồi bàn cuối cùng nhưng tâm hồn thì khiêu ngạo phàn nàn oán trách chủ nhà không nể mình.
Có địa vị hay không có địa vị thì người khiêm tốn vẫn cứ là người khiêm tốn, ngồi trên bàn cao hay ngồi bàn dưới bàn thấp thì vẫn cứ là người khiêm tốn như thường, bởi vì sự khiêm tốn chính là học được bài học từ nơi Thập Giá của Chúa Giê-su, tức là sự hy sinh bỏ mình, và cũng là học khiêm tốn từ nơi bàn tiệc Thánh Thể trên bàn thờ mỗi ngày khi dâng thánh lễ, đó là yêu thương và khiêm tốn.
Bạn thân mến,
Chúa Giê-su dạy chúng ta cần có sự khiêm tốn khi được bạn hữu mời đi ăn tiệc, chính là Ngài nhắm đến bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày mà chúng ta tham dự, đó là thánh lễ Mi sa. Nơi bàn tiệc thánh này, cái cần phải có của chúng ta là sự khiêm tốn “chọn chỗ rốt hèn” như chính Chúa Giê-su đã hết sức khiêm hạ trở nên tấm bánh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
Nơi bàn tiệc thánh này sự khiêm tốn càng nổi nét hơn, khi mỗi người trong chúng ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân sau khi tham dự bàn tiệc thánh trên bàn thờ.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:46 27/08/2010
N2T |
19. Chúa Giê-su Ki-tô là đầu của tất cả chúng ta, chúng ta là chi thể của Ngài, đầu đội triều thiên mão gai, chi thể lại có thể ham muốn sự thảnh thơi chăng ? Cần phải tu thân khắc chế mình thì mới có thể phối hợp với xứng đáng với đầu.
(Thánh Bernard)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:48 27/08/2010
N2T |
511. Có một thứ so với tài năng thì càng tốt đẹp, càng quý hơn, đó là sáng suốt tinh đời.
Chuyện Phiếm Đạo Đời: Maria bổng bay về trời
Trần Ngọc Mười Hai
18:53 27/08/2010
“May Mà Có Em”
May mà có em”.
(Nguyễn Thiện Bản – MayMà Có Em)
(Mt 6: 33)
Chính đó, là tựa đề và ý từ của nhạc bản do người viết nhạc “Đạo vào đời”, rất tài tử. Nhạc của anh tuy không chuyên, nhưng rất đạt. Tên anh là Bosco Nguyễn Thiện (rất) Bản, người anh em trong đại Gia Đình An Phong ở Mỹ mà bần đạo quen từ lâu, nhưng chưa một lần gặp mặt.
Dù chưa gặp mặt hoặc diện kiến dung nhan còn rất trẻ của anh, bần đạo cũng biết ý/từ anh sáng tác, là tư tưởng gợi hứng từ Đạo Chúa, mà anh gọi bằng “Em”. Em đây, đích thị là người em của anh, trong Đạo. Cũng có thể, là chính Chúa hện diện nơi tâm can bạn bè ở Nước Trời. Là tôi. Là bạn. Là chính chúng ta. Là ai nữa, vẫn xin gửi đến anh rất Thiện Bản tràng pháo nổ dòn. Rất cảm kích.
Cứ sự thường, bần đạo có thói tật không được hay cho lắm là: ít chịu “bốc thơm” người nhà mình. Chí ít, là người anh/người chị ở đâu đó, có Nước Trời. Bởi, ai lại cứ nghe “Em hát chị khen hay” bao giờ. Nhưng, ở đây người em hay hát -và hát rất hay- thuộc dân con nhà Đạo, ở Nước Trời. Bởi, anh đã nhận được thần hứng hứng từ nhiều thứ. Nhiều nơi. Trong đời. Từ chính trị/thời sự, cho đến thần học/tu đức. Rồi, biến nó thành ca khúc, dẫn người nghe vào cõi “mê” có chúc tụng, ngợi khen Chúa. Không tin ư? Xin bạn và tôi, ta nghe tiếp lời nhạc như sau:
“Từ khi quen biết em
Đời anh thấy vui hơn.
Em như cánh hoa thắm
Giữa vườn tình muôn sắc.
Tô thắm đời xinh đẹp,
Toả hương yêu dạt dào.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Sự thật là thế đó. Nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người viết nhạc họ Từ tên rất ư là Công Phụng, khi ông bảo: hễ người nghệ sĩ ới gọi tên “Em”, thì người ”em” đó không chỉ là “em tôi”. Mà là, người nghe hay người đọc, rất vân vân. Với nhạc bản hôm nay, “Em” còn có nghĩa là ”cành hoa thắm”. “Gió trong đêm”. Là, “con sông dài”, “áng mây trôi”, và gì gì nữa, nếu hát thêm:
“Em như nắng ấm quê ta,
Cho anh mơ ước bao la.
May mà có EM
Em như tiếng hát trong ta
Hương yêu thơm ngát muôn hoa.
May mà có EM
May mà có EM
May mà có EM.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
“May mà có Em”, là có những người, làm bạn/làm tôi thêm phấn chấn. Có những người tuổi rất nhỏ đang lưu lạc, ở đâu đó. Khiến mọi người, cả em lẫn tôi, ta vẫn kiếm tìm. Kiếm, một tình tự. Tìm, sự thân thương. Đã luột mất.
“May mà có Em”, cũng may là: vẫn còn đó, người anh/người chị đi trước, cứ khắc khoải/ưu tư về người “em” hôm trước, có còn ở thế gian. Chốn phàm trần. Đầy sự sống? Với giòng chảy ưu tư những tìm và kiếm, rất khắc khoải của một Marie Choquet, trong “Le Monde Magazine”, thì bạn và tôi ta đã bắt gặp giòng chảy tư tưởng qua chuyến Pháp du 24/7/2010, vừa qua:
“Từ lâu lắm, chừng như ta chẳng còn tìm hiểu gì đến giới trẻ, ở quê nhà. Chẳng còn biết họ đang ở nơi đâu. Chốn nào. Nay, mới lại tìm hiểu con người họ, qua lăng kính. Rất hiển vi. Sự thể là, ta lại đặt ra rất nhiều vấn đề, mà trước đây chẳng hề thấy. Tưởng chừng như đó là câu chuyện còn mới mẻ. Rất trầm kha. Sa đà. Cần ra tay tiếp cứu. Sa đà, vì người trẻ hôm nay chỉ biết những là bột trắng. Với tự vẫn. Cứ gia tăng rất đều. Mà thật ra trong đời họ chỉ thấy mỗi gia tăng, những là bạo lực.
Lâu nay, bạo lực đã trở thành vấn đề hệ trọng, mãi đến năm 2000, ta mới biết. Thế nhưng sau đó lại thôi, không đề cập đến. Thật hết sức. Nay, hãy thử suy tư về những gì ta có như một dữ kiện hiện rõ từ năm 1993, thời khắc có đến 1% số ngưòi trẻ trong nước vẫn gánh chịu nhiều bạo lực. Cả về giới tính. Cũng từ đó, ta lại thấy nó như một hiện tượng rất mới mẻ. Phải chăng đang có cái gì đó, vẫn đổi thay? Phải chăng, đây là dấu hiệu cho thấy người trẻ nay đang sa đà, tuột dốc? Không hẳn thế đâu. Bởi, điều này còn tùy vào góc độ, ta nhận xét. Thử xét về cái-gọi-là “bột trắng” lấy từ cây gai dầu mà xem.
Từ thập niên ’90, người ta đã nêu vấn đề này lên rất nhiều. Rồi cứ thế mà thiết lập/cài đặt một hiện tượng. Nay, thì chuyện ấy đã giảm sút. Chỉ mỗi điều, là nhiều người nay đâm ra lo âu. Sầu lắng. Hỏi han. Trong số những người ấy, có tôi. Lo rằng, ngày nay người ta thích tạo ra ảnh hình về người trẻ đang “sa đà”, làm cho thế hệ già đi trước, phải hoảng sợ. Ảnh hình tồi tệ, là làm thế sẽ tụt giảm phẩm giá của người trẻ. Và, đấng bậc mẹ cha, sẽ không còn biết quan tâm đủ về lớp người này, như trước.” (x. Marie Choquet “L’Image du jeune fait peur aux adultes”, Le Monde Magazine 24/7/10 tr. 24)
“May mà có Em”, còn là cái may ta vẫn được nghe. Được ngắm. Được gửi gắm đến bạn bè rất thân và rất thương, những lời nhạc dễ thương sau đây:
“Từ khi quen biết em,
Cuộc đời đáng yêu hơn.
Em như vị sao sáng
Giữa biển đời bao la,
Soi sáng trời tươi đẹp,
Tình yêu thương đậm đà.
Từ khi quen biết em,
Mọi người thấy như quen,
Em như ánh trăng thanh,
Lung linh ngàn sắc đẹp, bình yên.
Em như đêm trăng rằm
Thắp sáng tâm hồn anh,
Em như chút men say
Dạt dào sóng vỗ tim anh.
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Tim anh. Và cả đến tim em. Vẫn là trái tim êm đềm. Trong sáng. Rất men say. Con tim chân chính ấy, vẫn lan toả nhiều mối tình. Tình Chúa thương, toả chiếu hồn em. Tình em yêu đương đậm đà tình Chúa, như được nhắc rất nhiều ở lời vàng Kinh Sách, rất như sau:
“Hãy tìm kiếm Nước
trước đã,
và sự công chính của Người.
Và, các điều ấy
sẽ được ban thêm
cho các ngươi.”
(Mt 6: 33)
“May mà có Em”, là cũng rất may, vì nay vẫn còn những người Em và Anh vẫn rất thánh. Cứ tìm kiếm “Nước” ở nhiều nơi. Kiếm và tìm, như thánh nhân ngoài luồng/trong Đạo, hằng ra sức. Ở đâu đó.
“May mà có Em”, lại cũng rất may, vì nay đang có người em/người anh vẫn kiếm tìm sự lặng thinh. Để trầm tĩnh. Tựa như tác giả Bernard Toutounji, ở Sydney, cũng đã một lần tìm kiếm an bình/hiền. Cũng nói câu “May mà có Em”, như sau:
“Tuần rồi, tôi lái xe cả trăm cây số về mạn Nam Sydney để tìm về miền đất rất trầm và rất tĩnh, có đan viện. Đan viện tôi kiếm tìm, là một viện tu cho nữ giới Dòng Biển Đức ở Jamberoo, để lưu trú ít ngày. Viện Dòng chuyên tu tôi tìm đến, là chốn miền trước kia tôi từng đặt chân, rất lặng thinh. Im ắng. Tịch mịch. Thật sự, thì ít lâu nay tôi để mất cái thói quen tìm về nơi thanh vắng mà nguyện cầu, như Chúa dạy. Nay tìm được nơi này, tôi như người mở bung đôi cánh rút về chốn vắng, rất ấm êm. Xa và vắng, khỏi mọi hệ lụy của cái thế giới ồn ào. Náo nhiệt. Chỉ tranh giành.
Đến với lặng thinh mà chiêm và ngắm, tôi mang trong đầu một đoạn Kinh Sách trong đó có ghi rõ Phêrô thánh nhân cũng tìm đến với Thầy mình, nhũng bồng bềnh trên mặt nước. Trong một phút rất căng, thiếu bình tĩnh lặng thinh nơi tâm hồn, thánh nhân đã lặn ngụp trong nghi nan. Đa đoan. Thất bại. Tôi cũng thế. Nhiều tháng ngày trước đó, tôi cũng bị ngập ngụa trong thách đố, có từ cuộc sống. Thách và đố đến mức độ, tôi phải viết vào nhật ký nguyện cầu, những giòng chảy đượm những tình tự ra như ngập chìm trong tăm tối. Đắm đuối. Rất kiệt sức.
Trong tình huống buồn như thế, tôi tự nhủ: thay vì tìm vào lời kinh oang oang đầy tiếng động, tìm cộng hưởng, như nhiều người vẫn làm, tôi chỉ tìm chốn ắng im. Chìm ngập trong ca hát. Những thánh vịnh. Lời ca. Của Hội thánh. Và cứ thế, trong bốn ngày tham dự đầy đủ các giờ kinh hôm, ban sớm. Rất nhẹ nhàng. Thanh thoát. Tôi ngồi đó, để hồn mình bay bổng. Lắng đọng. Để lòng mình bay theo cung nhạc thần thánh. Rất thanh tao. Của viện tu. Dòng nữ. Có tiếng hát rất thiên thần từ cộng đoàn Nước Trời, ở nơi đây, nay cảm hoá linh hồn tôi. Theo cung cách của giọt nước nhỉu trên đá tảng, đang rớm lệ.
Đúng như vị linh mục Dòng Biển Đức nọ từng ghi chú: “Nguyện cầu với thánh vịnh, ta cứ tưởng mình chỉ có thể cảm hoá cuộc sống của người nào đó, thôi. Nhưng, có thể là, ta đã thay đổi cả tầm nhìn của thế giới. Đổi và thay, cả những quyết định có tính kinh tế, chính trị, cũng không lâu.”
Cảm nghiệm ấy, tôi đã đạt chỉ trong vòng có 4 ngày trời ngắn ngủi. Thế cũng đủ. Đủ, để tôi thấy được chính con người của bản thân tôi. Đủ, để cùng với lời ca/câu hát, qua thánh vịnh, tôi kết hợp chính mình với thế giới thiên thần mà con người đương đại không thể mang lại cho một ai. Kim đồng hồ thế giới vẫn cứ quay cuồng, nhiều tình tiết. Nhưng, chừng như nó đã dừng lại, nơi tôi.
Từ những kinh nghiệm riêng tây, tôi trộm nghĩ: Phải chi mọi người, từ già đến trẻ. Đã có gia đình, hoặc còn độc thân. Ta cứ cùng nhau hợp quần, vứt bỏ thì giờ uổng phí. Bỏ tất cả. Bỏ mọi người, chốn ồn ào đầy tranh chấp. Mà đến với Chúa. Trong lặng thinh. Chỉ cần bỏ ra một ít tháng ngày. Phút giây. Mà, tìm về với thinh lặng. Im ắng. Để nguyện cầu. Với Chúa. Với nhau. Rồi ra, ta sẽ bắt gặp lời mời của Chúa khi xưa nói với Phêrô thánh nhân, rằng: Con hãy bưóc ra khỏi con thuyền chòng chành đầy nghi vấn. Cứ vững tin mà bước tới, ta sẽ thực hiện được nhiều điều ta mong ước.” (x. Bernard Toutounji, An opportunity to walk on water, The Catholic Weekly 22/08/2010 tr. 13)
“May mà có Em” hôm nay, là đã có bạn/có tôi, ta được nghe tâm tình nhiều bạn hữu, tuy chưa biết, nhưng đã quen. Quen như tiếng hát, ta từng nghe rất nhiều, thời buổi trước. Quen như giòng chảy thi ca/âm nhạc, nhiều thể loại. Dù, nó có là thể loại nào đi nữa. Dù, nó có là lời bạn của bạn bè người thân như lời nhận định của ai đó trong truyện kể, để thư giãn và minh hoạ, ở bên dưới:
“Truyện kể, để hỏi bạn hỏi tôi, ta đang dùng thể loại âm nhạc nào, để ca hát. Cho mọi người.
Truyện rằng:
Vào giờ học Anh ngữ, cô giáo cho học sinh tập tành việc giao tiếp với giới âm nhạc rồi ghi vào báo cáo. Để mọi người còn biết mà đặt tên. Nghe hỏi, hai bạn bảo nhau: - Mày thích loại nhạc gì? - Nhạc Hip Hop đó. - Còn mày thích nhạc nào? - Disco. - Được rồi. Bọn mình cứ ghi vô. - Nhưng chữ ấy, viết làm sao? - Tao đâu biết. - Đúng rồi, đó là tên mà tụi Tây nó dùng để chỉ loại nhạc kích động, mình chỉ ghi phiên âm thôi - Ừ đúng thế! Với lại bà thày có lấy điểm đâu mà mình lo.... Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo: "Thể loại nhạc tôi ưa nhất là: Híp hóp và Đi đi Cô" !!!!
Thể loại nhạc ta ưa hát, có là thánh vịnh hoặc bình ca cũng đều được. Miễn là, cất lên lời kinh nguyện cầu dù có nhịp điệu, hay nhạc giựt Disco, hoặc xô bồ gì gì đi nữa cũng đặng. Đặng, là vì chắc chắn trong nguyện cầu luôn có giòng chảy của âm nhạc. Của lặng thinh. Thì, cũng vẫn đưa mình đến với Chúa, trong kiếm tìm. Tìm đến Ngài để ca hát. Chúc tụng. Chúc rằng: May mà có Em. Có Anh. Có Chúa, trong đời mình. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Hạp ý Chúa. Vừa ý mình. Là được.
Trần Ngọc Mười Hai.
Xưa nay vẫn muốn hát
những giòng nhạc lặng thinh.
Rất kiếm tìm một tình yêu.
Chí ít là khi được tin người anh ruột
vừa chấm dứt một tìm kiếm
rất lặng thinh.Trong đời.
Để, về với Cha. Với Chúa.
(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com
hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;
hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com )
at 7:00 AM 0 comments
Saturday, 21 August 2010
“Đôi khi anh muốn tin,”
đôi khi anh muốn tin,
ngoài đời chỉ còn trời sao đáng kể,
mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em…” (Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền - Lệ Đá Xanh)
(Lc 8: 11-13)
Có câu hỏi, đá xanh mà cũng lanh chanh đổ lệ, huống chi con người và, người con của Trời?
Ấy đó, là câu hỏi mà bần đạo vẫn để bụng, quyết mang theo. Mang theo rồi sẽ hỏi, rất nhiều người. Hỏi, cả hướng dẫn viên du lịch Do Thái mang tên John, từng có 42 năm kinh nghiệm về những đá và sỏi ở Giêrusalem. Vào hôm ấy, ngày đầu niên lịch 2009, ông lại cứ bảo: Do thái và nhất là Giêrusalem này, toàn những đá và đá. Nghe thấy lạ, bần đạo bèn phát biểu: biết đâu, sau này, đá ở đây lại quý hơn vàng ròng, ngọc quý, cũng rất nên.
Hôm nay hỏi và nói về đá, là hỏi và nói những câu rất ngấn lệ. Hỏi và nói, như từng nói và hỏi bà con vào buổi “Hát cho nhau nghe” với chủ đề “Tìm Chút Hương Yêu”. Độ tháng 6 năm 2010 hôm ấy, có bạn trẻ từng hỏi và đã nói về hai bài hát trình bày trong đêm nhạc là bài “Lệ Đá Xanh” của Cung Tiến và “Nửa Hồn Thương Đau” của Phạm Đình Chương, rất như sau:
“Về đá xanh, nhiều nhạc sĩ từng gợi hứng từ bài thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền trước nhất có nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc có đầu đề là “Lệ Đá Xanh”, gửi tặng Phạm Đình Chương. Rồi Phạm Đình Chương đáp lễ bằng bài “Nửa Hồn Thương Đau”. Sau đó, người viết nhạc là Trần Trịnh cho ra bài ca mang tên “Lệ Đá”, và Trịnh Công Sơn với bài “Tuổi Đá Buồn”. Riêng Phạm Duy lại cảm kích lời thơ đầy “sữa mật” đã cho ra bản tình ca đầy những sữa có tên là “Dạ Lai Hương”. Ở nhà Đạo, ta có Đoàn Vi Hạ, với bài “Bờ Đá Xanh Tạ Tội”… Tóm lại, “lệ đá” hay “đá ngấn lệ’ lâu nay trở thành đề tài cho thi nhân, nhạc sĩ cất lên những thanh âm của tình yêu, rất da diết…”
Thanh âm da diết và diết da, còn là âm thanh đượm đầy những lệ của đá, như sau:
“Đôi khi anh vẫn tin, đôi khi anh vẫn tin,
Ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền,
mà bên trái cây ngọt ngào đôi môi em,…
nguồn sữa mật khởi đầu.”
(Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Cũng từ bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nghệ sĩ Phạm Quang Tuấn, lại viết khác. Vẫn rất hay:
“Anh muốn tin,
ngoài đời thơm phức
những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào
những trái cây ngọt ngào…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – Lệ Đá Xanh)
Phải chăng, trái cây ngọt ngào thơm phức “của Thượng Đế ở đây, không là “đôi môi em”, hay “miệng lưỡi” của anh nữa. Mà là “nguồn sữa mật khởi đầu”, âu sầu giòng lệ đá, vẫn rất xanh? Thật ra thì, “sữa mật” đầy nguồn còn là Lời Vàng của Thượng Đế nhân gian vẫn nói ở Kinh Sách:
“Đây là ý nghĩa dụ ngôn:
Hạt giống là lời Thiên Chúa.
Những kẻ ở bên vệ đường
là những kẻ đã nghe
nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ,
kẻo họ tin mà được cứu độ.
Còn những kẻ ở trên đá
là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời,
nhưng họ không có rễ.
Họ tin nhất thời,
và khi gặp thử thách,
họ bỏ cuộc.”
(Lc 8: 11-13)
Về tin để được cứu độ, nói nôm na như câu ca ở giòng nhạc “Đôi khi anh muốn tin”, rất nhất thời, lại có tác giả người Hoa, con rể cố Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm, giáo sư thỉnh giảng đại học Stanford ở Mỹ, cũng có bàn về niềm tin văn hoá lâu nay được người người coi là “sắt đá”, đã trần tình về niềm tin văn hoá sử Đông/Tây như sau:
“Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt/cái đúng thành cái xấu/cái sai. Thời cổ, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.
Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư tưởng. Mặc, bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình, cho nên tìm được ánh sáng tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự sáng của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm…”(X. Liu Ya-zhou, Trung Quốc Bàn về niềm tin và đạo đức, Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch, trích từ bài nói chuyện của ông hôm 11/9/2002 ở Vân Nam)
Tin hay không tin, về văn hoá sử rất sắt đá, hay chỉ là “Đôi khi anh muốn tin”, “những trái cây của Thượng Đế”, vẫn còn đó lời kể của thánh sử, như sau:
“Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết:
anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
(Mt 16: 18)
Có một sự kiện, là: buổi hôm ấy nhiều người tìm về Castagniers, Pháp Quốc, cũng đã tìm về sự lặng thinh của đất đá trên núi đá, đã phát giác ra được sự thật do thánh nhân ngoài đời/trong Đạo, cũng rất bạo và dạn, như sau:
“Như tôi đã nói trước đây, tôi tuyệt đối tin rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo hiện nay là quý giá và thích đáng. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của thế giới nói một thứ ngôn ngữ và gửi đến một thông điệp chung mà chúng ta có thể dựa vào để xây dựng một sự hoà thuận nhau thật sự.” (X. Le Dalai Lama parle de Jésus, Editions Brepols Paris 1996, Vĩnh An dịch Thiện Tri Thức in năm 2003, tr. 26)
Thông điệp về sự hoà thuận mà thánh-nhân-ngoài Đạo nói đến, vẫn ghi lại lời lẽ đẹp như sau:
“Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sự tham thiền về tình yêu và lòng thương xót trong bối cảnh Kitô-giáo. Khi tham thiền theo phân tích, chúng ta đi theo những hướng tư duy đặc biệt như: để thật sự yêu Thiên Chúa, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hành động yêu thương chân thật anh em nhân loại của mình. Người ta cũng có thể suy nghĩ về cuộc đời và gương sáng của Đức Giêsu Kitô trong bản thân Ngài, Ngài đã sống và hoạt động như thế nào để đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các hành động của Ngài đã minh hoạ một phong cách sống tràn đầy lòng thương xót.”(Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t.27)
Xem như thế, những lời và lẽ như “Đôi khi anh muốn tin”, hoặc “Bờ Đá Xanh Tạ Từ” ở các bài hát, vẫn là những tình tự về lòng thương xót. Tình yêu. Sự thật. Nhưũng sự rất thật, mà thánh-nhân-ngoài-Đạo, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, thêm một lần xác tín, rất như sau:
“Nhờ có những suy tư đó, các bạn ngày càng xác tín vào sự quan trọng và giá trị của lòng thương xót và khoan dung. Một khi đã đạt tới niềm xác tín tuyệt đối về giá trị và sự thiết yếu của lòng thương xót và khoan dung, các bạn sẽ có cảm giác được xúc cảm và biến đổi từ bên trong.” (x. Đức ĐạtLai ĐạtMa, sđd t. 28)
Và bậc thánh-nhân, lại quả quyết:
“Khi đọc đoạn Matthêô 5, 38-42, tôi thấy Phúc Âm đặt nặng sự thực hành lòng khoan dung và đề cao tình cảm vô tư, không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo ý kiến của tôi, để triển khai năng lực khoan dung đối với mọi người, và đặc biệt với một kẻ thù, điều kiện quan trọng tiên quyết là tiếp nhận mọi người với tính bình đẳng. Nếu người ta nói với bạn rằng không nên thù nghịch kẻ thù mà phải yêu mến hắn, chỉ khẳng định như thế sẽ không khuyến khích các bạn thay đổi. Đối với mỗi người chúng ta, cảm thấy sự thù nghịch đối với những người làm khổ bạn và có cảm tình với những người yêu thương bạn là hoàn toàn tự nhiên. Đây là tình cảm tự nhiên của con người. Vậy, chúng ta phải sử dụng các kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta vượt qua từ sự thiên vị nội tại trong bản tính, đến một tình trạng bình đẳng cao nhất.” (x. Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t. 32)
Cuối cùng thì, đá tảng có nhỏ lệ, mầu rất xanh hoặc như lời của người viết nhạc họ Trịnh có đặt tên gọi cho nhạc bản của mình là “Tuổi Đá Buồn” đi chăng nữa, thì tuổi buồn như đá, vẫn là tuổi già hay trẻ, chẳng biết dựng xây căn nhà “yêu thương” của mình hay của người, ở trên đá. Xây như thế, rồi anh rồi em sẽ cùng với người viết nhạc Phạm Quang Tuấn hát tiếp lời ca cuối, có những câu:
“Anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Trong tay em…
Trong tay em…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vòng ân ái, có là nỗi niềm ái ân, của người thân hay khác lạ, ở ngoài đời vẫn ngấn lệ đi chăng nữa, hãy cứ hát lên một lời cuối cho em. Và cho anh. Như sau:
“Đôi khi anh muốn tin
Ôi những người khóc lẻ loi
Lệ là những viên đá xanh
Lệ là những viên đá xanh…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vâng. Đá rất xanh. Có nhỏ lệ, nhiều hay ít, cũng còn tùy. Tùy anh. Tùy em. Tùy mọi người có tin rằng đá tảng mà Chúa đặt tên cho Simôn Phêrô, để xây dựng Hội thánh lên trên đó, chính là Tình Yêu. Của Ngài. Của muôn người.
Trần Ngọc Mười Hai
Đã biết thôi không nhỏ nữa.
Những giòng lệ cho đá.
Vẫn rất xanh.
May mà có em”.
(Nguyễn Thiện Bản – MayMà Có Em)
(Mt 6: 33)
Chính đó, là tựa đề và ý từ của nhạc bản do người viết nhạc “Đạo vào đời”, rất tài tử. Nhạc của anh tuy không chuyên, nhưng rất đạt. Tên anh là Bosco Nguyễn Thiện (rất) Bản, người anh em trong đại Gia Đình An Phong ở Mỹ mà bần đạo quen từ lâu, nhưng chưa một lần gặp mặt.
Dù chưa gặp mặt hoặc diện kiến dung nhan còn rất trẻ của anh, bần đạo cũng biết ý/từ anh sáng tác, là tư tưởng gợi hứng từ Đạo Chúa, mà anh gọi bằng “Em”. Em đây, đích thị là người em của anh, trong Đạo. Cũng có thể, là chính Chúa hện diện nơi tâm can bạn bè ở Nước Trời. Là tôi. Là bạn. Là chính chúng ta. Là ai nữa, vẫn xin gửi đến anh rất Thiện Bản tràng pháo nổ dòn. Rất cảm kích.
Cứ sự thường, bần đạo có thói tật không được hay cho lắm là: ít chịu “bốc thơm” người nhà mình. Chí ít, là người anh/người chị ở đâu đó, có Nước Trời. Bởi, ai lại cứ nghe “Em hát chị khen hay” bao giờ. Nhưng, ở đây người em hay hát -và hát rất hay- thuộc dân con nhà Đạo, ở Nước Trời. Bởi, anh đã nhận được thần hứng hứng từ nhiều thứ. Nhiều nơi. Trong đời. Từ chính trị/thời sự, cho đến thần học/tu đức. Rồi, biến nó thành ca khúc, dẫn người nghe vào cõi “mê” có chúc tụng, ngợi khen Chúa. Không tin ư? Xin bạn và tôi, ta nghe tiếp lời nhạc như sau:
“Từ khi quen biết em
Đời anh thấy vui hơn.
Em như cánh hoa thắm
Giữa vườn tình muôn sắc.
Tô thắm đời xinh đẹp,
Toả hương yêu dạt dào.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Sự thật là thế đó. Nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người viết nhạc họ Từ tên rất ư là Công Phụng, khi ông bảo: hễ người nghệ sĩ ới gọi tên “Em”, thì người ”em” đó không chỉ là “em tôi”. Mà là, người nghe hay người đọc, rất vân vân. Với nhạc bản hôm nay, “Em” còn có nghĩa là ”cành hoa thắm”. “Gió trong đêm”. Là, “con sông dài”, “áng mây trôi”, và gì gì nữa, nếu hát thêm:
“Em như nắng ấm quê ta,
Cho anh mơ ước bao la.
May mà có EM
Em như tiếng hát trong ta
Hương yêu thơm ngát muôn hoa.
May mà có EM
May mà có EM
May mà có EM.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
“May mà có Em”, là có những người, làm bạn/làm tôi thêm phấn chấn. Có những người tuổi rất nhỏ đang lưu lạc, ở đâu đó. Khiến mọi người, cả em lẫn tôi, ta vẫn kiếm tìm. Kiếm, một tình tự. Tìm, sự thân thương. Đã luột mất.
“May mà có Em”, cũng may là: vẫn còn đó, người anh/người chị đi trước, cứ khắc khoải/ưu tư về người “em” hôm trước, có còn ở thế gian. Chốn phàm trần. Đầy sự sống? Với giòng chảy ưu tư những tìm và kiếm, rất khắc khoải của một Marie Choquet, trong “Le Monde Magazine”, thì bạn và tôi ta đã bắt gặp giòng chảy tư tưởng qua chuyến Pháp du 24/7/2010, vừa qua:
“Từ lâu lắm, chừng như ta chẳng còn tìm hiểu gì đến giới trẻ, ở quê nhà. Chẳng còn biết họ đang ở nơi đâu. Chốn nào. Nay, mới lại tìm hiểu con người họ, qua lăng kính. Rất hiển vi. Sự thể là, ta lại đặt ra rất nhiều vấn đề, mà trước đây chẳng hề thấy. Tưởng chừng như đó là câu chuyện còn mới mẻ. Rất trầm kha. Sa đà. Cần ra tay tiếp cứu. Sa đà, vì người trẻ hôm nay chỉ biết những là bột trắng. Với tự vẫn. Cứ gia tăng rất đều. Mà thật ra trong đời họ chỉ thấy mỗi gia tăng, những là bạo lực.
Lâu nay, bạo lực đã trở thành vấn đề hệ trọng, mãi đến năm 2000, ta mới biết. Thế nhưng sau đó lại thôi, không đề cập đến. Thật hết sức. Nay, hãy thử suy tư về những gì ta có như một dữ kiện hiện rõ từ năm 1993, thời khắc có đến 1% số ngưòi trẻ trong nước vẫn gánh chịu nhiều bạo lực. Cả về giới tính. Cũng từ đó, ta lại thấy nó như một hiện tượng rất mới mẻ. Phải chăng đang có cái gì đó, vẫn đổi thay? Phải chăng, đây là dấu hiệu cho thấy người trẻ nay đang sa đà, tuột dốc? Không hẳn thế đâu. Bởi, điều này còn tùy vào góc độ, ta nhận xét. Thử xét về cái-gọi-là “bột trắng” lấy từ cây gai dầu mà xem.
Từ thập niên ’90, người ta đã nêu vấn đề này lên rất nhiều. Rồi cứ thế mà thiết lập/cài đặt một hiện tượng. Nay, thì chuyện ấy đã giảm sút. Chỉ mỗi điều, là nhiều người nay đâm ra lo âu. Sầu lắng. Hỏi han. Trong số những người ấy, có tôi. Lo rằng, ngày nay người ta thích tạo ra ảnh hình về người trẻ đang “sa đà”, làm cho thế hệ già đi trước, phải hoảng sợ. Ảnh hình tồi tệ, là làm thế sẽ tụt giảm phẩm giá của người trẻ. Và, đấng bậc mẹ cha, sẽ không còn biết quan tâm đủ về lớp người này, như trước.” (x. Marie Choquet “L’Image du jeune fait peur aux adultes”, Le Monde Magazine 24/7/10 tr. 24)
“May mà có Em”, còn là cái may ta vẫn được nghe. Được ngắm. Được gửi gắm đến bạn bè rất thân và rất thương, những lời nhạc dễ thương sau đây:
“Từ khi quen biết em,
Cuộc đời đáng yêu hơn.
Em như vị sao sáng
Giữa biển đời bao la,
Soi sáng trời tươi đẹp,
Tình yêu thương đậm đà.
Từ khi quen biết em,
Mọi người thấy như quen,
Em như ánh trăng thanh,
Lung linh ngàn sắc đẹp, bình yên.
Em như đêm trăng rằm
Thắp sáng tâm hồn anh,
Em như chút men say
Dạt dào sóng vỗ tim anh.
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Tim anh. Và cả đến tim em. Vẫn là trái tim êm đềm. Trong sáng. Rất men say. Con tim chân chính ấy, vẫn lan toả nhiều mối tình. Tình Chúa thương, toả chiếu hồn em. Tình em yêu đương đậm đà tình Chúa, như được nhắc rất nhiều ở lời vàng Kinh Sách, rất như sau:
“Hãy tìm kiếm Nước
trước đã,
và sự công chính của Người.
Và, các điều ấy
sẽ được ban thêm
cho các ngươi.”
(Mt 6: 33)
“May mà có Em”, là cũng rất may, vì nay vẫn còn những người Em và Anh vẫn rất thánh. Cứ tìm kiếm “Nước” ở nhiều nơi. Kiếm và tìm, như thánh nhân ngoài luồng/trong Đạo, hằng ra sức. Ở đâu đó.
“May mà có Em”, lại cũng rất may, vì nay đang có người em/người anh vẫn kiếm tìm sự lặng thinh. Để trầm tĩnh. Tựa như tác giả Bernard Toutounji, ở Sydney, cũng đã một lần tìm kiếm an bình/hiền. Cũng nói câu “May mà có Em”, như sau:
“Tuần rồi, tôi lái xe cả trăm cây số về mạn Nam Sydney để tìm về miền đất rất trầm và rất tĩnh, có đan viện. Đan viện tôi kiếm tìm, là một viện tu cho nữ giới Dòng Biển Đức ở Jamberoo, để lưu trú ít ngày. Viện Dòng chuyên tu tôi tìm đến, là chốn miền trước kia tôi từng đặt chân, rất lặng thinh. Im ắng. Tịch mịch. Thật sự, thì ít lâu nay tôi để mất cái thói quen tìm về nơi thanh vắng mà nguyện cầu, như Chúa dạy. Nay tìm được nơi này, tôi như người mở bung đôi cánh rút về chốn vắng, rất ấm êm. Xa và vắng, khỏi mọi hệ lụy của cái thế giới ồn ào. Náo nhiệt. Chỉ tranh giành.
Đến với lặng thinh mà chiêm và ngắm, tôi mang trong đầu một đoạn Kinh Sách trong đó có ghi rõ Phêrô thánh nhân cũng tìm đến với Thầy mình, nhũng bồng bềnh trên mặt nước. Trong một phút rất căng, thiếu bình tĩnh lặng thinh nơi tâm hồn, thánh nhân đã lặn ngụp trong nghi nan. Đa đoan. Thất bại. Tôi cũng thế. Nhiều tháng ngày trước đó, tôi cũng bị ngập ngụa trong thách đố, có từ cuộc sống. Thách và đố đến mức độ, tôi phải viết vào nhật ký nguyện cầu, những giòng chảy đượm những tình tự ra như ngập chìm trong tăm tối. Đắm đuối. Rất kiệt sức.
Trong tình huống buồn như thế, tôi tự nhủ: thay vì tìm vào lời kinh oang oang đầy tiếng động, tìm cộng hưởng, như nhiều người vẫn làm, tôi chỉ tìm chốn ắng im. Chìm ngập trong ca hát. Những thánh vịnh. Lời ca. Của Hội thánh. Và cứ thế, trong bốn ngày tham dự đầy đủ các giờ kinh hôm, ban sớm. Rất nhẹ nhàng. Thanh thoát. Tôi ngồi đó, để hồn mình bay bổng. Lắng đọng. Để lòng mình bay theo cung nhạc thần thánh. Rất thanh tao. Của viện tu. Dòng nữ. Có tiếng hát rất thiên thần từ cộng đoàn Nước Trời, ở nơi đây, nay cảm hoá linh hồn tôi. Theo cung cách của giọt nước nhỉu trên đá tảng, đang rớm lệ.
Đúng như vị linh mục Dòng Biển Đức nọ từng ghi chú: “Nguyện cầu với thánh vịnh, ta cứ tưởng mình chỉ có thể cảm hoá cuộc sống của người nào đó, thôi. Nhưng, có thể là, ta đã thay đổi cả tầm nhìn của thế giới. Đổi và thay, cả những quyết định có tính kinh tế, chính trị, cũng không lâu.”
Cảm nghiệm ấy, tôi đã đạt chỉ trong vòng có 4 ngày trời ngắn ngủi. Thế cũng đủ. Đủ, để tôi thấy được chính con người của bản thân tôi. Đủ, để cùng với lời ca/câu hát, qua thánh vịnh, tôi kết hợp chính mình với thế giới thiên thần mà con người đương đại không thể mang lại cho một ai. Kim đồng hồ thế giới vẫn cứ quay cuồng, nhiều tình tiết. Nhưng, chừng như nó đã dừng lại, nơi tôi.
Từ những kinh nghiệm riêng tây, tôi trộm nghĩ: Phải chi mọi người, từ già đến trẻ. Đã có gia đình, hoặc còn độc thân. Ta cứ cùng nhau hợp quần, vứt bỏ thì giờ uổng phí. Bỏ tất cả. Bỏ mọi người, chốn ồn ào đầy tranh chấp. Mà đến với Chúa. Trong lặng thinh. Chỉ cần bỏ ra một ít tháng ngày. Phút giây. Mà, tìm về với thinh lặng. Im ắng. Để nguyện cầu. Với Chúa. Với nhau. Rồi ra, ta sẽ bắt gặp lời mời của Chúa khi xưa nói với Phêrô thánh nhân, rằng: Con hãy bưóc ra khỏi con thuyền chòng chành đầy nghi vấn. Cứ vững tin mà bước tới, ta sẽ thực hiện được nhiều điều ta mong ước.” (x. Bernard Toutounji, An opportunity to walk on water, The Catholic Weekly 22/08/2010 tr. 13)
“May mà có Em” hôm nay, là đã có bạn/có tôi, ta được nghe tâm tình nhiều bạn hữu, tuy chưa biết, nhưng đã quen. Quen như tiếng hát, ta từng nghe rất nhiều, thời buổi trước. Quen như giòng chảy thi ca/âm nhạc, nhiều thể loại. Dù, nó có là thể loại nào đi nữa. Dù, nó có là lời bạn của bạn bè người thân như lời nhận định của ai đó trong truyện kể, để thư giãn và minh hoạ, ở bên dưới:
“Truyện kể, để hỏi bạn hỏi tôi, ta đang dùng thể loại âm nhạc nào, để ca hát. Cho mọi người.
Truyện rằng:
Vào giờ học Anh ngữ, cô giáo cho học sinh tập tành việc giao tiếp với giới âm nhạc rồi ghi vào báo cáo. Để mọi người còn biết mà đặt tên. Nghe hỏi, hai bạn bảo nhau: - Mày thích loại nhạc gì? - Nhạc Hip Hop đó. - Còn mày thích nhạc nào? - Disco. - Được rồi. Bọn mình cứ ghi vô. - Nhưng chữ ấy, viết làm sao? - Tao đâu biết. - Đúng rồi, đó là tên mà tụi Tây nó dùng để chỉ loại nhạc kích động, mình chỉ ghi phiên âm thôi - Ừ đúng thế! Với lại bà thày có lấy điểm đâu mà mình lo.... Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo: "Thể loại nhạc tôi ưa nhất là: Híp hóp và Đi đi Cô" !!!!
Thể loại nhạc ta ưa hát, có là thánh vịnh hoặc bình ca cũng đều được. Miễn là, cất lên lời kinh nguyện cầu dù có nhịp điệu, hay nhạc giựt Disco, hoặc xô bồ gì gì đi nữa cũng đặng. Đặng, là vì chắc chắn trong nguyện cầu luôn có giòng chảy của âm nhạc. Của lặng thinh. Thì, cũng vẫn đưa mình đến với Chúa, trong kiếm tìm. Tìm đến Ngài để ca hát. Chúc tụng. Chúc rằng: May mà có Em. Có Anh. Có Chúa, trong đời mình. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Hạp ý Chúa. Vừa ý mình. Là được.
Trần Ngọc Mười Hai.
Xưa nay vẫn muốn hát
những giòng nhạc lặng thinh.
Rất kiếm tìm một tình yêu.
Chí ít là khi được tin người anh ruột
vừa chấm dứt một tìm kiếm
rất lặng thinh.Trong đời.
Để, về với Cha. Với Chúa.
(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com
hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;
hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com )
at 7:00 AM 0 comments
Saturday, 21 August 2010
“Đôi khi anh muốn tin,”
đôi khi anh muốn tin,
ngoài đời chỉ còn trời sao đáng kể,
mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em…” (Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền - Lệ Đá Xanh)
(Lc 8: 11-13)
Có câu hỏi, đá xanh mà cũng lanh chanh đổ lệ, huống chi con người và, người con của Trời?
Ấy đó, là câu hỏi mà bần đạo vẫn để bụng, quyết mang theo. Mang theo rồi sẽ hỏi, rất nhiều người. Hỏi, cả hướng dẫn viên du lịch Do Thái mang tên John, từng có 42 năm kinh nghiệm về những đá và sỏi ở Giêrusalem. Vào hôm ấy, ngày đầu niên lịch 2009, ông lại cứ bảo: Do thái và nhất là Giêrusalem này, toàn những đá và đá. Nghe thấy lạ, bần đạo bèn phát biểu: biết đâu, sau này, đá ở đây lại quý hơn vàng ròng, ngọc quý, cũng rất nên.
Hôm nay hỏi và nói về đá, là hỏi và nói những câu rất ngấn lệ. Hỏi và nói, như từng nói và hỏi bà con vào buổi “Hát cho nhau nghe” với chủ đề “Tìm Chút Hương Yêu”. Độ tháng 6 năm 2010 hôm ấy, có bạn trẻ từng hỏi và đã nói về hai bài hát trình bày trong đêm nhạc là bài “Lệ Đá Xanh” của Cung Tiến và “Nửa Hồn Thương Đau” của Phạm Đình Chương, rất như sau:
“Về đá xanh, nhiều nhạc sĩ từng gợi hứng từ bài thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền trước nhất có nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc có đầu đề là “Lệ Đá Xanh”, gửi tặng Phạm Đình Chương. Rồi Phạm Đình Chương đáp lễ bằng bài “Nửa Hồn Thương Đau”. Sau đó, người viết nhạc là Trần Trịnh cho ra bài ca mang tên “Lệ Đá”, và Trịnh Công Sơn với bài “Tuổi Đá Buồn”. Riêng Phạm Duy lại cảm kích lời thơ đầy “sữa mật” đã cho ra bản tình ca đầy những sữa có tên là “Dạ Lai Hương”. Ở nhà Đạo, ta có Đoàn Vi Hạ, với bài “Bờ Đá Xanh Tạ Tội”… Tóm lại, “lệ đá” hay “đá ngấn lệ’ lâu nay trở thành đề tài cho thi nhân, nhạc sĩ cất lên những thanh âm của tình yêu, rất da diết…”
Thanh âm da diết và diết da, còn là âm thanh đượm đầy những lệ của đá, như sau:
“Đôi khi anh vẫn tin, đôi khi anh vẫn tin,
Ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền,
mà bên trái cây ngọt ngào đôi môi em,…
nguồn sữa mật khởi đầu.”
(Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Cũng từ bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nghệ sĩ Phạm Quang Tuấn, lại viết khác. Vẫn rất hay:
“Anh muốn tin,
ngoài đời thơm phức
những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào
những trái cây ngọt ngào…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – Lệ Đá Xanh)
Phải chăng, trái cây ngọt ngào thơm phức “của Thượng Đế ở đây, không là “đôi môi em”, hay “miệng lưỡi” của anh nữa. Mà là “nguồn sữa mật khởi đầu”, âu sầu giòng lệ đá, vẫn rất xanh? Thật ra thì, “sữa mật” đầy nguồn còn là Lời Vàng của Thượng Đế nhân gian vẫn nói ở Kinh Sách:
“Đây là ý nghĩa dụ ngôn:
Hạt giống là lời Thiên Chúa.
Những kẻ ở bên vệ đường
là những kẻ đã nghe
nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ,
kẻo họ tin mà được cứu độ.
Còn những kẻ ở trên đá
là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời,
nhưng họ không có rễ.
Họ tin nhất thời,
và khi gặp thử thách,
họ bỏ cuộc.”
(Lc 8: 11-13)
Về tin để được cứu độ, nói nôm na như câu ca ở giòng nhạc “Đôi khi anh muốn tin”, rất nhất thời, lại có tác giả người Hoa, con rể cố Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm, giáo sư thỉnh giảng đại học Stanford ở Mỹ, cũng có bàn về niềm tin văn hoá lâu nay được người người coi là “sắt đá”, đã trần tình về niềm tin văn hoá sử Đông/Tây như sau:
“Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt/cái đúng thành cái xấu/cái sai. Thời cổ, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.
Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư tưởng. Mặc, bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình, cho nên tìm được ánh sáng tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự sáng của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm…”(X. Liu Ya-zhou, Trung Quốc Bàn về niềm tin và đạo đức, Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch, trích từ bài nói chuyện của ông hôm 11/9/2002 ở Vân Nam)
Tin hay không tin, về văn hoá sử rất sắt đá, hay chỉ là “Đôi khi anh muốn tin”, “những trái cây của Thượng Đế”, vẫn còn đó lời kể của thánh sử, như sau:
“Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết:
anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
(Mt 16: 18)
Có một sự kiện, là: buổi hôm ấy nhiều người tìm về Castagniers, Pháp Quốc, cũng đã tìm về sự lặng thinh của đất đá trên núi đá, đã phát giác ra được sự thật do thánh nhân ngoài đời/trong Đạo, cũng rất bạo và dạn, như sau:
“Như tôi đã nói trước đây, tôi tuyệt đối tin rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo hiện nay là quý giá và thích đáng. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của thế giới nói một thứ ngôn ngữ và gửi đến một thông điệp chung mà chúng ta có thể dựa vào để xây dựng một sự hoà thuận nhau thật sự.” (X. Le Dalai Lama parle de Jésus, Editions Brepols Paris 1996, Vĩnh An dịch Thiện Tri Thức in năm 2003, tr. 26)
Thông điệp về sự hoà thuận mà thánh-nhân-ngoài Đạo nói đến, vẫn ghi lại lời lẽ đẹp như sau:
“Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sự tham thiền về tình yêu và lòng thương xót trong bối cảnh Kitô-giáo. Khi tham thiền theo phân tích, chúng ta đi theo những hướng tư duy đặc biệt như: để thật sự yêu Thiên Chúa, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hành động yêu thương chân thật anh em nhân loại của mình. Người ta cũng có thể suy nghĩ về cuộc đời và gương sáng của Đức Giêsu Kitô trong bản thân Ngài, Ngài đã sống và hoạt động như thế nào để đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các hành động của Ngài đã minh hoạ một phong cách sống tràn đầy lòng thương xót.”(Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t.27)
Xem như thế, những lời và lẽ như “Đôi khi anh muốn tin”, hoặc “Bờ Đá Xanh Tạ Từ” ở các bài hát, vẫn là những tình tự về lòng thương xót. Tình yêu. Sự thật. Nhưũng sự rất thật, mà thánh-nhân-ngoài-Đạo, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, thêm một lần xác tín, rất như sau:
“Nhờ có những suy tư đó, các bạn ngày càng xác tín vào sự quan trọng và giá trị của lòng thương xót và khoan dung. Một khi đã đạt tới niềm xác tín tuyệt đối về giá trị và sự thiết yếu của lòng thương xót và khoan dung, các bạn sẽ có cảm giác được xúc cảm và biến đổi từ bên trong.” (x. Đức ĐạtLai ĐạtMa, sđd t. 28)
Và bậc thánh-nhân, lại quả quyết:
“Khi đọc đoạn Matthêô 5, 38-42, tôi thấy Phúc Âm đặt nặng sự thực hành lòng khoan dung và đề cao tình cảm vô tư, không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo ý kiến của tôi, để triển khai năng lực khoan dung đối với mọi người, và đặc biệt với một kẻ thù, điều kiện quan trọng tiên quyết là tiếp nhận mọi người với tính bình đẳng. Nếu người ta nói với bạn rằng không nên thù nghịch kẻ thù mà phải yêu mến hắn, chỉ khẳng định như thế sẽ không khuyến khích các bạn thay đổi. Đối với mỗi người chúng ta, cảm thấy sự thù nghịch đối với những người làm khổ bạn và có cảm tình với những người yêu thương bạn là hoàn toàn tự nhiên. Đây là tình cảm tự nhiên của con người. Vậy, chúng ta phải sử dụng các kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta vượt qua từ sự thiên vị nội tại trong bản tính, đến một tình trạng bình đẳng cao nhất.” (x. Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t. 32)
Cuối cùng thì, đá tảng có nhỏ lệ, mầu rất xanh hoặc như lời của người viết nhạc họ Trịnh có đặt tên gọi cho nhạc bản của mình là “Tuổi Đá Buồn” đi chăng nữa, thì tuổi buồn như đá, vẫn là tuổi già hay trẻ, chẳng biết dựng xây căn nhà “yêu thương” của mình hay của người, ở trên đá. Xây như thế, rồi anh rồi em sẽ cùng với người viết nhạc Phạm Quang Tuấn hát tiếp lời ca cuối, có những câu:
“Anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Trong tay em…
Trong tay em…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vòng ân ái, có là nỗi niềm ái ân, của người thân hay khác lạ, ở ngoài đời vẫn ngấn lệ đi chăng nữa, hãy cứ hát lên một lời cuối cho em. Và cho anh. Như sau:
“Đôi khi anh muốn tin
Ôi những người khóc lẻ loi
Lệ là những viên đá xanh
Lệ là những viên đá xanh…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vâng. Đá rất xanh. Có nhỏ lệ, nhiều hay ít, cũng còn tùy. Tùy anh. Tùy em. Tùy mọi người có tin rằng đá tảng mà Chúa đặt tên cho Simôn Phêrô, để xây dựng Hội thánh lên trên đó, chính là Tình Yêu. Của Ngài. Của muôn người.
Trần Ngọc Mười Hai
Đã biết thôi không nhỏ nữa.
Những giòng lệ cho đá.
Vẫn rất xanh.
Sống Và Chia Sẻ Lời Chúa - Càng Làm Lớn Càng Phải Tự Hạ
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
19:10 27/08/2010
SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA / CN22TN-C
Cần cho Cá nhân-Gia đình Nhóm-Hội đoàn-Phong trào
“ CÀNG LÀM LỚN CON CÀNG PHẢI TỰ HẠ”
“AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG”
A- Cảm nghiệm Sống và chia sẻ dưới sự dẫn dắt của Thánh Linh:
Bài đọc 1: Huấn ca (3:17-18;20;28-29). Càng làm lớn con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. (câu 18)
Đức khiêm nhường giúp bạn nhiều thành công, thì tật kiêu ngạo, độc tài, hách dịch làm bạn thất bại lớn lao trong nhiệm vụ của mình.
1/ Nhân đức khiêm tốn đã giúp ích gì cho tôi trong chức vụ hiện tại?
2/ Những thất bại khi bạn tỏ kiêu ngạo và khinh thường người khác?
Bài đọc 2: Do thái(12:18-19;22-24a). Anh em đã tới cùng vị Trung Gian Giao Ước Mới là Đức Giêsu. (câu 24a)
Thư Do thái luôn nhắc nhở bạn nhớ về hai Giao Ước Cũ và Mới. (1) Cũ là những sự bất toàn và thất bại, (2) Mới là sự hoàn thành các lời hứa, với sự sống và quyền năng bất diệt và trình độ trọn vẹn. Nhưng có nhiều Tín hữu vẫn sống dưới Giao Ước cũ và chưa hề cảm nghiệm được sức sống của Giao Ước Mới là Chúa Thánh Linh?
1/ Các Tín hữu ngày nay đã sống theo Giao Ứớc Mới chưa? Tại sạo ?
2/ Giao ước Cũ là? (nô lệ, sợ hãi). Giao Ước Mới là? (tự do,can đảm)
Tin Mừng: Luca(14:1; 7-14). Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. (Lc 14,11)
Chúa hạ thấp kẻ kiêu ngạo: Sẽ bị hạ xuống: động từ ở thể bị động. Chúa làm chủ ngữ ở thể chủ động: được Chúa nhắc lên. Dĩ nhiên Đức Giêsu không phải khen ngợi thái độ giả hình của người cố ý ngồi vào chỗ thấp. Nhưng chọn một chỗ ngồi khiêm tốn, để sau đó được mời lên chỗ khác hợp hơn.
1/ Đức Maria đã dạy tôi những bài học sống khiêm nhường thế nào?
2/ Những kết qủa bạn phục vụ Chúa và anh em một cách khiêm tốn?
3/ Thế nào là tính kiêu ngạo khi dùng tiền của để phô trương cầu lợi?
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn sống tuần này:
CÀNG LÀM LỚN CON CÀNG PHẢI TỰ HẠ.. (Hc 3, 18)
Humble yourself the more, the greater you are…
* Ngay bây giờ tôi phải làm gì? /So what am I doing/For Action.
- Tôi luôn chọn phần nhỏ, kém trong gia đình và ngoài xã hội.
- Bạn bỏ tính kiêu căng, khoe của cải, làm việc mong trả công.
C- Bạn và tôi cùng Cầu nguyện và Sống Cầu nguyện: Pray in Action.
Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống sẽ được tôn lên. Xin dạy con thấy sức khỏe, địa vị, tài năng, tiền bạc là của Chúa ban, để con luôn sống biết ơn, phục vụ Chúa và tha nhân hết lòng, không phô trương, khoe khoang trục lợi, mong người khác trả công ở đời này. Vì đó là điều vô phương cứu chữa. Con noi gương Đức Mẹ khiêm tốn thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”
Hoa thơm cỏ lạ: ĐỂ THOÁT LÚC CĂNG THẲNG, HÃY ĐỐI ĐÁP DIỤ DÀNG
To get out of a hard stuation, try a soft answer
CHÚA PHẢI ĐƯỢC LỚN LÊN, CÒN TÔI NHỎ ĐI. (Ga 3, 30)
Phó tế: GB. Maria Nguyễn Văn Định * johndvn@yahoo.com
Cần cho Cá nhân-Gia đình Nhóm-Hội đoàn-Phong trào
“ CÀNG LÀM LỚN CON CÀNG PHẢI TỰ HẠ”
“AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG”
A- Cảm nghiệm Sống và chia sẻ dưới sự dẫn dắt của Thánh Linh:
Bài đọc 1: Huấn ca (3:17-18;20;28-29). Càng làm lớn con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. (câu 18)
Đức khiêm nhường giúp bạn nhiều thành công, thì tật kiêu ngạo, độc tài, hách dịch làm bạn thất bại lớn lao trong nhiệm vụ của mình.
1/ Nhân đức khiêm tốn đã giúp ích gì cho tôi trong chức vụ hiện tại?
2/ Những thất bại khi bạn tỏ kiêu ngạo và khinh thường người khác?
Bài đọc 2: Do thái(12:18-19;22-24a). Anh em đã tới cùng vị Trung Gian Giao Ước Mới là Đức Giêsu. (câu 24a)
Thư Do thái luôn nhắc nhở bạn nhớ về hai Giao Ước Cũ và Mới. (1) Cũ là những sự bất toàn và thất bại, (2) Mới là sự hoàn thành các lời hứa, với sự sống và quyền năng bất diệt và trình độ trọn vẹn. Nhưng có nhiều Tín hữu vẫn sống dưới Giao Ước cũ và chưa hề cảm nghiệm được sức sống của Giao Ước Mới là Chúa Thánh Linh?
1/ Các Tín hữu ngày nay đã sống theo Giao Ứớc Mới chưa? Tại sạo ?
2/ Giao ước Cũ là? (nô lệ, sợ hãi). Giao Ước Mới là? (tự do,can đảm)
Tin Mừng: Luca(14:1; 7-14). Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. (Lc 14,11)
Chúa hạ thấp kẻ kiêu ngạo: Sẽ bị hạ xuống: động từ ở thể bị động. Chúa làm chủ ngữ ở thể chủ động: được Chúa nhắc lên. Dĩ nhiên Đức Giêsu không phải khen ngợi thái độ giả hình của người cố ý ngồi vào chỗ thấp. Nhưng chọn một chỗ ngồi khiêm tốn, để sau đó được mời lên chỗ khác hợp hơn.
1/ Đức Maria đã dạy tôi những bài học sống khiêm nhường thế nào?
2/ Những kết qủa bạn phục vụ Chúa và anh em một cách khiêm tốn?
3/ Thế nào là tính kiêu ngạo khi dùng tiền của để phô trương cầu lợi?
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn sống tuần này:
CÀNG LÀM LỚN CON CÀNG PHẢI TỰ HẠ.. (Hc 3, 18)
Humble yourself the more, the greater you are…
* Ngay bây giờ tôi phải làm gì? /So what am I doing/For Action.
- Tôi luôn chọn phần nhỏ, kém trong gia đình và ngoài xã hội.
- Bạn bỏ tính kiêu căng, khoe của cải, làm việc mong trả công.
C- Bạn và tôi cùng Cầu nguyện và Sống Cầu nguyện: Pray in Action.
Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống sẽ được tôn lên. Xin dạy con thấy sức khỏe, địa vị, tài năng, tiền bạc là của Chúa ban, để con luôn sống biết ơn, phục vụ Chúa và tha nhân hết lòng, không phô trương, khoe khoang trục lợi, mong người khác trả công ở đời này. Vì đó là điều vô phương cứu chữa. Con noi gương Đức Mẹ khiêm tốn thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”
Hoa thơm cỏ lạ: ĐỂ THOÁT LÚC CĂNG THẲNG, HÃY ĐỐI ĐÁP DIỤ DÀNG
To get out of a hard stuation, try a soft answer
CHÚA PHẢI ĐƯỢC LỚN LÊN, CÒN TÔI NHỎ ĐI. (Ga 3, 30)
Phó tế: GB. Maria Nguyễn Văn Định * johndvn@yahoo.com
Kiêu căng và khiêm nhường
Jos. Hồng Ân
19:56 27/08/2010
Vào một ngày Sabát Đức Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisêu mời đến nhà ông dư tiệc, những người Pharisêu cũng được được mời thì cố ý soi mói, dò xét xem Người làm gì lỗi luật ngày sabát, để tìm cách bắt bẻ, lên án Người. Nhưng họ chưa tìm được lỗi nào của Chúa, thì Chúa đã thấy hết lỗi của họ là lòng kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn, nâng mình lên để khoe khoang, coi mình hơn người, tranh nhau chọn cỗ nhất để ngồi. Chúa Giêsu liền kể cho họ một dụ ngôn: “Khi anh được mời đi ăn cuới thì đừng ngồi vào cỗ nhất…” (x. Lc 14, 8-10). Và Người kết luận “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuông sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Chúa Giêsu có ý dạy cho những người Pharisêu và chúng ta biết tai hại của lòng kiêu ngạo, tự phụ, tự đắc và bài học về giá trị đích thực của đức khiêm nhường.
Kiêu ngạo là tự khoe mình quá mức nhằm nâng mình lên trên người khác, coi thường, khinh chê người khác, trà đạp, chèo lên vai, lên cổ người khác để mình được cao hơn,. Kiêu ngạo còn là một tội nặng chống lại Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất kiêu ngạo muốn hơn Thiên Chúa đã chống lại Ngài nên đã trở thành ma quỷ (satan); tổ tông loài người muốn bằng Thiên Chúa đã phạm tội bất tuân lệnh Chúa truyền nên loài người đã phải làm nô lệ cho ma quỷ. Kiêu ngạo thường đi đôi với tham lam và dối trá, giả hình. Còn khiêm nhường là biết từ bỏ, nhìn nhận mình để hòa nhập với người khác, hầu có thể tôn trọng phẩm giá của mọi người. Khiêm nhường còn là nhận biết giá trị thật sự của mình để học tập nơi người hiểu biết hơn mình.
Trên thế giới đã sẩy ra biết bao nhiêu tai hoạ do lòng kiêu căng, tự phụ của con người, cụ thể nhất là thảm hoạ đắm tàu Titanic đã đi vào lịch sử nhân loại.
Tàu Titanic dài 882 feet 9 inches (269 m) và rộng 92 feet 6 inches (28 m) ở sườn ngang (dài hơn 6 inches so với chiếc tàu chị em là RMS Olympic). Tổng lượng chất tải đăng ký là 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 60 feet (18 m). Nó có hai động cơ hơi nước ngược pít tông bốn xi lanh và một tuốc bin Parsons. Những động cơ này làm quay ba chân vịt. Có 25 nồi hơi hai đầu và 4 cái một đầu kiểu Scotch được đun nóng bởi 159 lò đốt than khiến nó có thể đạt tới tốc độ tối đa 23 knot (43 km/g). Chỉ ba trong số bốn chiếc ống khói cao 63 foot (19 m) của nó hoạt động; chiếc thứ tư được dùng thông gió, và được thêm vào để con tàu có hình dáng ấn tượng hơn. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người gồm cả thủy thủ đoàn, và bởi vì nó có chở thư, tên của nó được thêm tiền tố RMS (Royal Mail Steamer) cũng như SS (Steam Ship). Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải và là một tiến bộ công nghệ, và được tạp chí The Shipbuilder ca ngợi là "không thể chìm".
Titanic có vỏ hai lớp, chứa 44 bể nước dùng cho nồi hơn và đồ dằn để giữ nó cân bằng trên biển (những chiếc tàu sau này cũng có vỏ hai lớp). Titanic có số thuyền cứu sinh lớn hơn tiêu chuẩn, tổng số 20 chiếc (dù vẫn chưa đủ cho toàn bộ hành khách), và những nhà thiết kế đã thảo luận về việc lắp đặt thêm số thuyền cứu sinh, phụ thuộc vào các vấn đề về chi phí. Titanic được chia thành 16 khoang với cửa ngăn, đóng mở bằng các then cửa điện từ và hoạt động với động tác tắt bật đơn giản từ đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tuy nhiên, tính kín nước của cửa ngăn không đạt tới toàn bộ chiều cao của boong, mà chỉ tới boong hạng hai (E-Deck). Titanic vẫn nổi khi bốn khoang bất kỳ ngập nước, hay mười một trong số mười bốn khu thuộc ba khoang ngập nước, hay bốn khoang đầu/cuối ngập nước: ngoài ra nó sẽ chìm.
Tàu Titanic là chiếc tàu xa hoa tột bậc và lộng lẫy nhất. Nó có một bể bơi trên boong, một phòng tập thể dục, một nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ, một thư viện, và một sân squash. Các phòng hạng nhất thông thường được ốp bằng những thanh gỗ chạm khắc tỉ mỉ, đồ đạc đắt tiền và các trang trí sang trọng khác. Hơn nữa, quán Café Parisienne cung cấp những món ăn tuyệt vời cho khách hạng nhất với một hàng hiên ngập nắng cùng những trang trí tinh xảo. Trang bị tại các phòng hạng hai và hạng ba có lẽ cũng được xếp hàng sang trọng so với những phòng đồng hạng trên các con tàu khác thời ấy. Titanic có ba thang máy dành riêng cho những khách hạng nhất và một sự cải tiến khác, thêm một thang dành cho khách hạng hai.
Nơi được trang trí đẹp nhất trong nội thất con tàu chắc chắn là cầu thang khu vực hạng nhất, nằm giữa ống khói thứ nhất và thứ hai. Cầu thang kéo dài xuống boong hạng hai và được trang trí bằng các phiến gỗ sồi và có lan can mạ vàng, trên đỉnh là một vòm kim loại kính trang trí tỉ mỉ để lấy ánh sáng trời. Đỉnh cầu thang là một tấm gỗ lớn treo một chiếc đồng hồ với những chữ số biểu tượng theo Honour and Glory crowning Time.
Tàu Titanic khổng lồ là niềm hãnh diện của con người, vĩ đại nhất, chở nhiều khách nhất, an toàn nhất, tin tưởng nhất, không một du khách nào lên tàu Titanic ngày 10 tháng 4 năm 1912 mà nghĩ rằng đây là chuyến đi cuối cùng của đời mình, vì ai cũng tin rằng chiếc tàu này sẽ không bao giờ chìm. Nhưng chỉ sau không đầy một này rời cảng, con tàu khổng lồ đó đã đâm phải một núi băng lớn, đã bị chìm xuống lòng đại dương khiến cho khoảng 1500 người thiệt mạng. Phải chăng đó là thảm kịch của lòng kiêu ngạo tự đắc của con người…?
Thảm kịch của tàu khổng lồ Titanic luôn còn đó, nhắc nhở con người về tai hại của lòng tự phụ, tự mãn, coi thường, chủ quan. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng chỉ cho những kẻ tự phụ, coi mình là quan trọng, tự cho mình là hơn người, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, nên đã tranh nhau tìm cỗ nhất để ngồi. “Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời và rồi chủ nhà đến nói với anh ‘xin anh nhường chỗ cho nhân vật này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14, 8-9).
Trên đời chẳng ai ưa những kẻ tự kiêu, tự đại, tự cho mình là giỏi, cho mình là hay, việc gì mình làm cũng phải là tốt nhất, lời nói của mình lúc nào cũng hay nhất, cái gì của mình cũng đẹp nhất, chỉ có mình là nhất, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, đáng được mọi người chào hỏi nơi công cộng, thích oai, luôn hãnh diện về bản thân mình, luôn muốn thể hiện cái uy của mình trước mặt mọi người, chạy theo cái danh hão, coi người khác chỉ là cỏ rác, là thứ bỏ đi, thấy người khác hơn mình thì khó chịu, hậm hực, nói xấu, dèm pha, dè bỉu, chê bai khích bác, tìm cách hạ uy tín của họ. Đúng như người đời đã nói: “hơn người thì kiêu mà kém người thì ghen”.
Kẻ thù lớn nhất của con người chính là tự kiêu, tự phụ, khi con người hoàn toàn đặt niền tin tưởng vào sức mạnh của khối óc, của đôi tay mình, thì đó cũng chính là lúc nó đi vào chỗ tự hạ thấp uy tín của mình, tự huỷ diệt chính mình. Trong biển đời cũng còn có biết bao những tảng băng đang chôi nổi, có biết bao những khối đá ngầm đang rình dập, chúng nhận chìm cuộc đời con người xuống đáy đại dương khi mà con người mất cảnh giác, coi thường, tự kiêu, tự phụ.
"Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Đó là lời Đức Maria đã cảnh báo con người về tính tự phụ, lòng kiêu căng, chỉ biết cậy dựa vào danh vọng, của cải và sức lực của mình, thì con người tự chuốc lấy tủi nhục, đau khổ và tuyệt vọng, như kẻ chọn cỗ nhất để ngồi, rồi bị ông chủ mời xuống để nhường chỗ cho người quan trọng hơn, lúc đó sẽ bị xấu hổ, bẽ mặt trước mặt bàn dân thiên hạ.
Kinh Thánh khuyên người ta có thái độ khiêm nhu trong quan hệ xã giao (x. Cn 25, 6-7), thái độ này hợp với con cái Chúa. Những người khiêm tốn nhận biết thân phận yếu đuối và những giới hạn của mình, biết mình chỉ là không trước mặt Chúa, nhìn nhận người khác quan trọng hơn mình, đáng được hưởng sự ưu đãi hơn mình, nên đã chọn chỗ cuối mà ngồi, khi ông chủ nhận thấy đó là người quan trọng, sẽ đến mời lên chỗ nhất, lúc ấy được vinh dự trước mặt mọi người. Vì “Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa được mời đi dự tiệc, Ngài thấy những kẻ cũng được mời cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã kể một dụ ngôn về việc “khi được mời đi ăn cưới đừng ngồi vào cỗ nhất…” (Lc 14, 7-11). Qua đó Chúa Giêsu dạy ta biết tai hại của tính tự phụ, lòng kiêu căng và giá trị đích thực của đức “khiêm nhường”: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuông sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).
Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tự phụ kiêu căng, luôn chạy theo tiền tài, danh vọng, địa vị, chỉ tìm tư lợi, tự coi mình là quan trọng, là giỏi, là hay, là tốt, là đẹp, khinh thường anh em đồng loại, những người nông thôn quê mùa, nhất là những người nghèo hèn, những người cô đơn tàn tật. Chúng con đã và đang tranh dành địa vị, tranh dành nhau chỗ ngồi, cãi lộn với nhau vì miếng ăn hơn thiệt. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con loại bỏ những tính mê nết xấu, lòng tự cao tự đại, nhìn nhận mình chỉ là không không trước mặt Chúa và biết tôn trọng hết thảy mọi người.
Kiêu ngạo là tự khoe mình quá mức nhằm nâng mình lên trên người khác, coi thường, khinh chê người khác, trà đạp, chèo lên vai, lên cổ người khác để mình được cao hơn,. Kiêu ngạo còn là một tội nặng chống lại Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất kiêu ngạo muốn hơn Thiên Chúa đã chống lại Ngài nên đã trở thành ma quỷ (satan); tổ tông loài người muốn bằng Thiên Chúa đã phạm tội bất tuân lệnh Chúa truyền nên loài người đã phải làm nô lệ cho ma quỷ. Kiêu ngạo thường đi đôi với tham lam và dối trá, giả hình. Còn khiêm nhường là biết từ bỏ, nhìn nhận mình để hòa nhập với người khác, hầu có thể tôn trọng phẩm giá của mọi người. Khiêm nhường còn là nhận biết giá trị thật sự của mình để học tập nơi người hiểu biết hơn mình.
Trên thế giới đã sẩy ra biết bao nhiêu tai hoạ do lòng kiêu căng, tự phụ của con người, cụ thể nhất là thảm hoạ đắm tàu Titanic đã đi vào lịch sử nhân loại.
Tàu Titanic dài 882 feet 9 inches (269 m) và rộng 92 feet 6 inches (28 m) ở sườn ngang (dài hơn 6 inches so với chiếc tàu chị em là RMS Olympic). Tổng lượng chất tải đăng ký là 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 60 feet (18 m). Nó có hai động cơ hơi nước ngược pít tông bốn xi lanh và một tuốc bin Parsons. Những động cơ này làm quay ba chân vịt. Có 25 nồi hơi hai đầu và 4 cái một đầu kiểu Scotch được đun nóng bởi 159 lò đốt than khiến nó có thể đạt tới tốc độ tối đa 23 knot (43 km/g). Chỉ ba trong số bốn chiếc ống khói cao 63 foot (19 m) của nó hoạt động; chiếc thứ tư được dùng thông gió, và được thêm vào để con tàu có hình dáng ấn tượng hơn. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người gồm cả thủy thủ đoàn, và bởi vì nó có chở thư, tên của nó được thêm tiền tố RMS (Royal Mail Steamer) cũng như SS (Steam Ship). Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải và là một tiến bộ công nghệ, và được tạp chí The Shipbuilder ca ngợi là "không thể chìm".
Titanic có vỏ hai lớp, chứa 44 bể nước dùng cho nồi hơn và đồ dằn để giữ nó cân bằng trên biển (những chiếc tàu sau này cũng có vỏ hai lớp). Titanic có số thuyền cứu sinh lớn hơn tiêu chuẩn, tổng số 20 chiếc (dù vẫn chưa đủ cho toàn bộ hành khách), và những nhà thiết kế đã thảo luận về việc lắp đặt thêm số thuyền cứu sinh, phụ thuộc vào các vấn đề về chi phí. Titanic được chia thành 16 khoang với cửa ngăn, đóng mở bằng các then cửa điện từ và hoạt động với động tác tắt bật đơn giản từ đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tuy nhiên, tính kín nước của cửa ngăn không đạt tới toàn bộ chiều cao của boong, mà chỉ tới boong hạng hai (E-Deck). Titanic vẫn nổi khi bốn khoang bất kỳ ngập nước, hay mười một trong số mười bốn khu thuộc ba khoang ngập nước, hay bốn khoang đầu/cuối ngập nước: ngoài ra nó sẽ chìm.
Tàu Titanic là chiếc tàu xa hoa tột bậc và lộng lẫy nhất. Nó có một bể bơi trên boong, một phòng tập thể dục, một nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ, một thư viện, và một sân squash. Các phòng hạng nhất thông thường được ốp bằng những thanh gỗ chạm khắc tỉ mỉ, đồ đạc đắt tiền và các trang trí sang trọng khác. Hơn nữa, quán Café Parisienne cung cấp những món ăn tuyệt vời cho khách hạng nhất với một hàng hiên ngập nắng cùng những trang trí tinh xảo. Trang bị tại các phòng hạng hai và hạng ba có lẽ cũng được xếp hàng sang trọng so với những phòng đồng hạng trên các con tàu khác thời ấy. Titanic có ba thang máy dành riêng cho những khách hạng nhất và một sự cải tiến khác, thêm một thang dành cho khách hạng hai.
Nơi được trang trí đẹp nhất trong nội thất con tàu chắc chắn là cầu thang khu vực hạng nhất, nằm giữa ống khói thứ nhất và thứ hai. Cầu thang kéo dài xuống boong hạng hai và được trang trí bằng các phiến gỗ sồi và có lan can mạ vàng, trên đỉnh là một vòm kim loại kính trang trí tỉ mỉ để lấy ánh sáng trời. Đỉnh cầu thang là một tấm gỗ lớn treo một chiếc đồng hồ với những chữ số biểu tượng theo Honour and Glory crowning Time.
Tàu Titanic khổng lồ là niềm hãnh diện của con người, vĩ đại nhất, chở nhiều khách nhất, an toàn nhất, tin tưởng nhất, không một du khách nào lên tàu Titanic ngày 10 tháng 4 năm 1912 mà nghĩ rằng đây là chuyến đi cuối cùng của đời mình, vì ai cũng tin rằng chiếc tàu này sẽ không bao giờ chìm. Nhưng chỉ sau không đầy một này rời cảng, con tàu khổng lồ đó đã đâm phải một núi băng lớn, đã bị chìm xuống lòng đại dương khiến cho khoảng 1500 người thiệt mạng. Phải chăng đó là thảm kịch của lòng kiêu ngạo tự đắc của con người…?
Thảm kịch của tàu khổng lồ Titanic luôn còn đó, nhắc nhở con người về tai hại của lòng tự phụ, tự mãn, coi thường, chủ quan. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng chỉ cho những kẻ tự phụ, coi mình là quan trọng, tự cho mình là hơn người, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, nên đã tranh nhau tìm cỗ nhất để ngồi. “Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời và rồi chủ nhà đến nói với anh ‘xin anh nhường chỗ cho nhân vật này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14, 8-9).
Trên đời chẳng ai ưa những kẻ tự kiêu, tự đại, tự cho mình là giỏi, cho mình là hay, việc gì mình làm cũng phải là tốt nhất, lời nói của mình lúc nào cũng hay nhất, cái gì của mình cũng đẹp nhất, chỉ có mình là nhất, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, đáng được mọi người chào hỏi nơi công cộng, thích oai, luôn hãnh diện về bản thân mình, luôn muốn thể hiện cái uy của mình trước mặt mọi người, chạy theo cái danh hão, coi người khác chỉ là cỏ rác, là thứ bỏ đi, thấy người khác hơn mình thì khó chịu, hậm hực, nói xấu, dèm pha, dè bỉu, chê bai khích bác, tìm cách hạ uy tín của họ. Đúng như người đời đã nói: “hơn người thì kiêu mà kém người thì ghen”.
Kẻ thù lớn nhất của con người chính là tự kiêu, tự phụ, khi con người hoàn toàn đặt niền tin tưởng vào sức mạnh của khối óc, của đôi tay mình, thì đó cũng chính là lúc nó đi vào chỗ tự hạ thấp uy tín của mình, tự huỷ diệt chính mình. Trong biển đời cũng còn có biết bao những tảng băng đang chôi nổi, có biết bao những khối đá ngầm đang rình dập, chúng nhận chìm cuộc đời con người xuống đáy đại dương khi mà con người mất cảnh giác, coi thường, tự kiêu, tự phụ.
"Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Đó là lời Đức Maria đã cảnh báo con người về tính tự phụ, lòng kiêu căng, chỉ biết cậy dựa vào danh vọng, của cải và sức lực của mình, thì con người tự chuốc lấy tủi nhục, đau khổ và tuyệt vọng, như kẻ chọn cỗ nhất để ngồi, rồi bị ông chủ mời xuống để nhường chỗ cho người quan trọng hơn, lúc đó sẽ bị xấu hổ, bẽ mặt trước mặt bàn dân thiên hạ.
Kinh Thánh khuyên người ta có thái độ khiêm nhu trong quan hệ xã giao (x. Cn 25, 6-7), thái độ này hợp với con cái Chúa. Những người khiêm tốn nhận biết thân phận yếu đuối và những giới hạn của mình, biết mình chỉ là không trước mặt Chúa, nhìn nhận người khác quan trọng hơn mình, đáng được hưởng sự ưu đãi hơn mình, nên đã chọn chỗ cuối mà ngồi, khi ông chủ nhận thấy đó là người quan trọng, sẽ đến mời lên chỗ nhất, lúc ấy được vinh dự trước mặt mọi người. Vì “Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa được mời đi dự tiệc, Ngài thấy những kẻ cũng được mời cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã kể một dụ ngôn về việc “khi được mời đi ăn cưới đừng ngồi vào cỗ nhất…” (Lc 14, 7-11). Qua đó Chúa Giêsu dạy ta biết tai hại của tính tự phụ, lòng kiêu căng và giá trị đích thực của đức “khiêm nhường”: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuông sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).
Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tự phụ kiêu căng, luôn chạy theo tiền tài, danh vọng, địa vị, chỉ tìm tư lợi, tự coi mình là quan trọng, là giỏi, là hay, là tốt, là đẹp, khinh thường anh em đồng loại, những người nông thôn quê mùa, nhất là những người nghèo hèn, những người cô đơn tàn tật. Chúng con đã và đang tranh dành địa vị, tranh dành nhau chỗ ngồi, cãi lộn với nhau vì miếng ăn hơn thiệt. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con loại bỏ những tính mê nết xấu, lòng tự cao tự đại, nhìn nhận mình chỉ là không không trước mặt Chúa và biết tôn trọng hết thảy mọi người.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Obama chưa kịp đến New Orleans đã bị lên lớp
Trần Mạnh Trác
18:41 27/08/2010
Theo CNSNews, lúc Tổng thống Barack Obama phát biểu tại Đại học Xavier ở Louisiana vào ngày 29 tháng 8 để đánh dấu năm thứ năm của cơn bão Katrina, một nhân vật vị vọng sẽ vắng mặt, đó là Đức Tổng Giám Mục Gregory Aymond.
Thực ra là, theo lời nữ phát ngôn viên McDonald của Tổng Giáo phận New Orleans thì đức Tổng đã không được hỏi ý kiến về chuyến viếng thăm của tổng thống tại trường đại học Công giáo này.
"Tôi đã thưa chuyện với Đức Tổng Giám Mục Aymond về việc này và ngài cho tôi biết rằng ngài đã không được tư vấn về chuyến thăm của tổng thống tại trường Xavier và ngài cũng không có ý tham dự,".
Bà McDonald không cho biết nếu đức Tổng có phản đối chuyến thăm của Obama tại khuôn viên trường Xavier hay không - nhưng đã cho biết đức Tổng sẽ bận rộn ngày hôm đó.
"Vào ngày 29 tháng Tám, ngày Tổng thống Obama có mặt tại Xavier, Đức Tổng Giám mục Aymond sẽ phải cử hành Thánh Lễ và sau đó sẽ tham gia vào một buổi cầu nguyện liên tôn với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác ở New Orleans tại Nhà thờ chính tòa St Louis để cầu cho hy vọng và công việc tái thiết thành phố ", bà McDonald nói.
"Tuy nhiên đức Tổng cũng lưu ý rằng, những phát biểu trong dịp này không nên mang mầu sắc chính trị, nhưng nên là một nghĩa cử phát xuất bởi đức bác ái và tinh thần đoàn kết với nhân dân New Orleans. Xavier University thường được sử dụng bởi các quan chức như thị trưởng và những nhân vật chính trị trong những dịp tương tự, " bà nói thêm.
Patrick Reilly, chủ tịch của hội Cardinal Newman, một tổ chức giáo dục Công giáo, đồng ý rằng tổng thống Obama ít có khả năng tập trung vào chính trị phá thai tại Xavier, không như dịp ông đã có khi ông dự lễ mãn khóa năm 2009 tại Notre Dame.
"Chắc chắn đây không phải là một cơ hội để Tổng thống Obama trình bày quan điểm về nghiên cứu tế bào gốc phôi thai và phá thai, nhưng trước cái thực tế là ông rất hào phóng với những quan điểm trên làm cho người ta sẽ không mở một diễn đàn thích hợp cho ông, " ông Reilly nói.
"Ở Notre Dame chủ đề thảo luận là rất rộng rãi - vì đây là lễ Mãn Khóa - và ông ta đã nắm lấy cơ hội để phát biểu quan điểm của ông về phá thai và nghiên cứu tế bào gốc tại một trường đại học Công giáo," Reilly cho biết. "Chúng tôi chắc chắn không muốn thấy điều đó xảy ra một lần nữa."
Reilly cho biết sự xuất hiện của một tổng thống ủng hộ phá thai trong một khuôn viên đại học Công Giáo là không được Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ hoan nghênh.
"Các giám mục Hoa Kỳ đã nói rõ rằng các tổ chức Công Giáo không nên cung cấp một diễn đàn hoặc trao danh dự cho một cá nhân công khai đối lập với giáo lý Công giáo," Reilly nói.
Nhắc lại năm 2009, Đại học Notre Dame đã bị người Công giáo trên khắp thế giới kết án vì đã mời một vị tổng thống ủng hộ phá thai diễn thuyết trong ngày mãn khóa và trao cho ông một văn bằng luật danh dự. Vị viện trưởng Notre Dame là Cha John Jenkins, đã bị 80 giám mục đương nhiệm và hơn 350.000 người Công giáo ký thỉnh nguyện thư yêu cầu ông rút lại lời mời, nhưng Jenkins đã từ chối không làm.
Viện trưởng Xavier là tiến sĩ Norman Francis, trong khi đó, sẽ chào đón Obama với vòng tay rộng mở, được biết Obama đã từng nói chuyện tại trường đại học một lần trước đây.
"Chúng tôi rất vui và biết ơn tổng thống đã quyết định ghé lại trường Đại học Xavier trong chuyến viếng thăm New Orleans để kỷ niệm năm thứ năm của cơn bão Katrina."
"Ông Obama sẽ được xem tận mắt tại sao chúng tôi đang rất tự hào về những tiến bộ chúng tôi đã đạt đượt tại trường Xavier qua năm năm kể từ Katrina, không chỉ tái thiết lại khuôn viên mà thôi nhưng đã mở rộng cơ sở vật chất và dịch vụ, để hoàn thành sứ vụ của chúng tôi đã có từ 85 năm trước, " ông nói thêm.
Năm 2006, một năm sau khi Katrina tàn phá Louisiana và Mississippi, ông Barack Obama, lúc đó còn là Thượng Nghị Sĩ (D-Ill,) đã được trao tặng học vị tiến sĩ danh dự tại trường đại học.
Trường đại học có danh xưng là một cơ sở "Công giáo" và của "lịch sử người da đen". Trường Xavier University of Louisiana, thành lập bởi thánh nữ Katharine Drexel dòng Thánh Thể có mục đích là góp phần và thúc đẩy một xã hội công minh và nhân bản, bằng cách chuẩn bị các sinh viên của mình vào vai trò lãnh đạo và cung cấp dịch vụ trong một xã hội toàn cầu."
Ông Reilly thì có ý kiến khác, ông nói "Dù cho đó là một trường đại học da đen hay không thì các giá trị căn bản vẫn phải như nhau. Tôi nghĩ rằng điểm mà các trường đại học Công Giáo cần phải hiểu được là nhà các nhà giáo dục Công giáo cần dành nhiều thời giờ hơn để phát huy giá trị Kitô giáo tại nơi công cộng thay vì giả vờ rằng một trường đại học Công Giáo là một nơi công cộng tự do."
Tuy nhiên ông Reilly cũng cho biết rằng "Không một trường Đại Học Công Giáo nào phải tuân theo vị Giám Mục địa phương cả". Các trường ĐH Công Giáo đều được tự trị.
Thực ra là, theo lời nữ phát ngôn viên McDonald của Tổng Giáo phận New Orleans thì đức Tổng đã không được hỏi ý kiến về chuyến viếng thăm của tổng thống tại trường đại học Công giáo này.
"Tôi đã thưa chuyện với Đức Tổng Giám Mục Aymond về việc này và ngài cho tôi biết rằng ngài đã không được tư vấn về chuyến thăm của tổng thống tại trường Xavier và ngài cũng không có ý tham dự,".
Bà McDonald không cho biết nếu đức Tổng có phản đối chuyến thăm của Obama tại khuôn viên trường Xavier hay không - nhưng đã cho biết đức Tổng sẽ bận rộn ngày hôm đó.
"Vào ngày 29 tháng Tám, ngày Tổng thống Obama có mặt tại Xavier, Đức Tổng Giám mục Aymond sẽ phải cử hành Thánh Lễ và sau đó sẽ tham gia vào một buổi cầu nguyện liên tôn với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác ở New Orleans tại Nhà thờ chính tòa St Louis để cầu cho hy vọng và công việc tái thiết thành phố ", bà McDonald nói.
"Tuy nhiên đức Tổng cũng lưu ý rằng, những phát biểu trong dịp này không nên mang mầu sắc chính trị, nhưng nên là một nghĩa cử phát xuất bởi đức bác ái và tinh thần đoàn kết với nhân dân New Orleans. Xavier University thường được sử dụng bởi các quan chức như thị trưởng và những nhân vật chính trị trong những dịp tương tự, " bà nói thêm.
Patrick Reilly, chủ tịch của hội Cardinal Newman, một tổ chức giáo dục Công giáo, đồng ý rằng tổng thống Obama ít có khả năng tập trung vào chính trị phá thai tại Xavier, không như dịp ông đã có khi ông dự lễ mãn khóa năm 2009 tại Notre Dame.
"Chắc chắn đây không phải là một cơ hội để Tổng thống Obama trình bày quan điểm về nghiên cứu tế bào gốc phôi thai và phá thai, nhưng trước cái thực tế là ông rất hào phóng với những quan điểm trên làm cho người ta sẽ không mở một diễn đàn thích hợp cho ông, " ông Reilly nói.
"Ở Notre Dame chủ đề thảo luận là rất rộng rãi - vì đây là lễ Mãn Khóa - và ông ta đã nắm lấy cơ hội để phát biểu quan điểm của ông về phá thai và nghiên cứu tế bào gốc tại một trường đại học Công giáo," Reilly cho biết. "Chúng tôi chắc chắn không muốn thấy điều đó xảy ra một lần nữa."
Reilly cho biết sự xuất hiện của một tổng thống ủng hộ phá thai trong một khuôn viên đại học Công Giáo là không được Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ hoan nghênh.
"Các giám mục Hoa Kỳ đã nói rõ rằng các tổ chức Công Giáo không nên cung cấp một diễn đàn hoặc trao danh dự cho một cá nhân công khai đối lập với giáo lý Công giáo," Reilly nói.
Nhắc lại năm 2009, Đại học Notre Dame đã bị người Công giáo trên khắp thế giới kết án vì đã mời một vị tổng thống ủng hộ phá thai diễn thuyết trong ngày mãn khóa và trao cho ông một văn bằng luật danh dự. Vị viện trưởng Notre Dame là Cha John Jenkins, đã bị 80 giám mục đương nhiệm và hơn 350.000 người Công giáo ký thỉnh nguyện thư yêu cầu ông rút lại lời mời, nhưng Jenkins đã từ chối không làm.
Viện trưởng Xavier là tiến sĩ Norman Francis, trong khi đó, sẽ chào đón Obama với vòng tay rộng mở, được biết Obama đã từng nói chuyện tại trường đại học một lần trước đây.
"Chúng tôi rất vui và biết ơn tổng thống đã quyết định ghé lại trường Đại học Xavier trong chuyến viếng thăm New Orleans để kỷ niệm năm thứ năm của cơn bão Katrina."
"Ông Obama sẽ được xem tận mắt tại sao chúng tôi đang rất tự hào về những tiến bộ chúng tôi đã đạt đượt tại trường Xavier qua năm năm kể từ Katrina, không chỉ tái thiết lại khuôn viên mà thôi nhưng đã mở rộng cơ sở vật chất và dịch vụ, để hoàn thành sứ vụ của chúng tôi đã có từ 85 năm trước, " ông nói thêm.
Năm 2006, một năm sau khi Katrina tàn phá Louisiana và Mississippi, ông Barack Obama, lúc đó còn là Thượng Nghị Sĩ (D-Ill,) đã được trao tặng học vị tiến sĩ danh dự tại trường đại học.
Trường đại học có danh xưng là một cơ sở "Công giáo" và của "lịch sử người da đen". Trường Xavier University of Louisiana, thành lập bởi thánh nữ Katharine Drexel dòng Thánh Thể có mục đích là góp phần và thúc đẩy một xã hội công minh và nhân bản, bằng cách chuẩn bị các sinh viên của mình vào vai trò lãnh đạo và cung cấp dịch vụ trong một xã hội toàn cầu."
Ông Reilly thì có ý kiến khác, ông nói "Dù cho đó là một trường đại học da đen hay không thì các giá trị căn bản vẫn phải như nhau. Tôi nghĩ rằng điểm mà các trường đại học Công Giáo cần phải hiểu được là nhà các nhà giáo dục Công giáo cần dành nhiều thời giờ hơn để phát huy giá trị Kitô giáo tại nơi công cộng thay vì giả vờ rằng một trường đại học Công Giáo là một nơi công cộng tự do."
Tuy nhiên ông Reilly cũng cho biết rằng "Không một trường Đại Học Công Giáo nào phải tuân theo vị Giám Mục địa phương cả". Các trường ĐH Công Giáo đều được tự trị.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tiếng kêu trong sa mạc
Linh mục Trần Xuân Nhàn
01:05 27/08/2010
Giáo Xứ chìm trong lụt |
Cơn bão 3 người ta thấy có những điều khác hơn so với những cơn bão trước, khi cơn bão sắp đến rất êm đềm, ai cũng tưởng như cơn bão số 2 chỉ thăm viếng phút chốc rồi đi, dẫu vây người ta cũng đã chuẩn bị mọi phương án để chống bão, sự khác biệt ở sức gió và cường độ xoáy của gió như một điệu luân vũ, sự tàn phá khi bão đi qua không chỉ đè bẹp cây cối một hướng mà vặn cây theo một vòng tròn, chính vì vậy mà các mái ngói bị tốc lên rôi lại gieo xuống như mưa. Không thể định hướng được để chống đỡ mà chẳng biết chạy nơi nào để thoát thân.
Ruộng lúa thành biển hồ |
Hậu quả cơn bão đi qua để lại di chứng không chỉ là một tháng, một năm, người dân vốn đã bần cùng càng bần cùng thêm. Mùa lúa năm trước mất trọn vì sâu rầy, không còn tiền mua giống, cha xứ mới cấp phát tiền lúa giống cho dân nghèo, hở hở vui mừng cùng nhau gieo trạ, lúa lên được một gang thì ngâm trong lụt. Đúng là đất cày lên sỏi đá. Đất đọa nông dân xứ Nghệ đến cứng chân. Họ cần sự giúp đỡ của mọi người trong nước và trên thế giới để qua cơn hoạn nạn.
Hằng trăm căn nhà bị mất nóc |
Nhờ lòng từ tâm của quý vị, có thể họ sẽ được nhận một vài triệu đồng VN, một ít gạo, mì gói v.v... để sống qua cơn họan nạn, muốn làm lại từ đầu thì bằng cách nào? tiền bảo hiểm về Bảo Lụt đương nhiên không có rồi, nhờ vào chánh quyền ư? tóm lại, họ sẽ đương đầu với khó khăn chồng chất, với những đống đỗ nát ngỗn ngang, tuơng lai của họ sẽ đi vào đâu, có lẽ họ sẽ đi vào ngõ xâu cùng khổ, trước mắt họ chĩ là những tai hoạ và tai họa. ..
Phong ba bão táp là thiên tai và cũng là tai họa cho những người dân lành nghèo khổ. Người dân lành VN thật sự là lầm than khốn khổ lắm rồi. Họ chỉ biết nghe ngóng về những dự án Ngàn Năm Thăng Long, nhưng suốt cuộc đời của họ có bao giờ có tiền để đi một chuyến Hà Nội. Họ vui mừng cho những thành tựu của nền văn minh thế giới nhưng họ đâu biết châu Mỹ là gì? Châu Âu ở đâu?
Tổng thiệt hại trong vùng Nghi Phong và giáo xứ Làng Anh: 124 căn nhà sập mái, 10 héc ta ruộng lúa bị ngập nước hư toàn diện. Sau cơn bão bị dịch chết nhiều trâu bò và gia suc gia cầm.
Nếu có ai muốn giúp đỡ cho người dân Nghi Phong đặc biệt giáo xứ Làng Anh. Xin liên lạc về địa chỉ:
Tòa Giám Muc Xã Đoài
Linh mục Trần Xuân Nhàn,
Nhà thờ Làng Anh, xã Nghi Phong,
Huyện Nghi Lộc, Tinh Nghệ An, Việt Nam.
Bài hát ''Cùng Mẹ Ra Khơi'' được chọn làm nền cho Đại Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 cử hành tại La Vang
LM Minh Anh
06:30 27/08/2010
Hãy ra khơi ! Ðó là sứ điệp Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gửi đến toàn thể dân Chúa nhân dịp khởi đầu ngàn năm mới.
Ðáp lại lời mời gọi của Ðức Thánh Cha, Ðức Tổng Giám Mục Huế cũng đã chọn chủ đề: CÙNG MẸ RA KHƠI cho Đại hội Thánh Mẫu La Vang lần thứ 26, đại hội đầu tiên của thiên niên kỷ mới.
Thế rồi, CÙNG MẸ RA KHƠI lần nữa đã trở thành tên gọi của bài hát do Linh Mục nhạc sĩ Minh Anh Giáo Phận Huế sáng tác dịp ấy, và hôm nay, cũng được chọn lại là bài thánh ca làm nền cho dịp Đại Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 và Đại Hội Hành Hương Đức Mẹ La Vang Lần Thứ 29, sẽ diễn ra tại Linh Địa La Vang vào ngày thứ năm mồng 6.1.2011 trong tuần Lễ Hiển Linh, với chủ đề “CÙNG MẸ MARIA LOAN BÁO TIN MỪNG”.
Bởi Đại Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 là một lễ bế mạc "mở", mở ra nhiều dự phóng tương lai cho toàn thể Giáo Hội Việt Nam trong viễn cảnh truyền giáo; mở ra những chân trời mới cho một Giáo Hội đã trưởng thành và lớn mạnh với 350 năm thiết lập, đúng như lời khẳng định mạnh mẽ trong lá thư gửi cộng đồng Dân Chúa ngày 9 tháng 10 năm 2009 của HĐGMVN:" Bế mạc Năm Thánh vào ngày Lễ Hiển Linh nói lên quyết tâm của Giáo Hội trong việc thi hành sứ mạng truyền giáo, chia sẻ niềm vui đức tin cho anh chị em đồng bào của mình, lấy ánh sáng đức tin soi chiếu các thực tại trần thế, hăng say góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng ".
Hãy cùng “Ra khơi” với Mẹ, rất xa và rất xa để có thể đánh bắt nhiều cá, chấp nhận gian nan thử thách với bao sóng gió phủ vây! Hãy cùng Mẹ chúng con ra đi loan báo Tin Mừng trong niềm tin yêu và hy vọng một tương lai sẽ sáng ngời của một trời mới đất mới!
-->Tải lời bài hát "Cùng Mẹ Ra Khơi"
-->Tải Slideshow "Cùng Mẹ Ra Khơi"
Ðáp lại lời mời gọi của Ðức Thánh Cha, Ðức Tổng Giám Mục Huế cũng đã chọn chủ đề: CÙNG MẸ RA KHƠI cho Đại hội Thánh Mẫu La Vang lần thứ 26, đại hội đầu tiên của thiên niên kỷ mới.
Thế rồi, CÙNG MẸ RA KHƠI lần nữa đã trở thành tên gọi của bài hát do Linh Mục nhạc sĩ Minh Anh Giáo Phận Huế sáng tác dịp ấy, và hôm nay, cũng được chọn lại là bài thánh ca làm nền cho dịp Đại Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 và Đại Hội Hành Hương Đức Mẹ La Vang Lần Thứ 29, sẽ diễn ra tại Linh Địa La Vang vào ngày thứ năm mồng 6.1.2011 trong tuần Lễ Hiển Linh, với chủ đề “CÙNG MẸ MARIA LOAN BÁO TIN MỪNG”.
Bởi Đại Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 là một lễ bế mạc "mở", mở ra nhiều dự phóng tương lai cho toàn thể Giáo Hội Việt Nam trong viễn cảnh truyền giáo; mở ra những chân trời mới cho một Giáo Hội đã trưởng thành và lớn mạnh với 350 năm thiết lập, đúng như lời khẳng định mạnh mẽ trong lá thư gửi cộng đồng Dân Chúa ngày 9 tháng 10 năm 2009 của HĐGMVN:" Bế mạc Năm Thánh vào ngày Lễ Hiển Linh nói lên quyết tâm của Giáo Hội trong việc thi hành sứ mạng truyền giáo, chia sẻ niềm vui đức tin cho anh chị em đồng bào của mình, lấy ánh sáng đức tin soi chiếu các thực tại trần thế, hăng say góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng ".
Hãy cùng “Ra khơi” với Mẹ, rất xa và rất xa để có thể đánh bắt nhiều cá, chấp nhận gian nan thử thách với bao sóng gió phủ vây! Hãy cùng Mẹ chúng con ra đi loan báo Tin Mừng trong niềm tin yêu và hy vọng một tương lai sẽ sáng ngời của một trời mới đất mới!
-->Tải lời bài hát "Cùng Mẹ Ra Khơi"
-->Tải Slideshow "Cùng Mẹ Ra Khơi"
Đức Giám Mục Thái Bình về thăm Giáo Xứ Hàm Tải, Tỉnh Hưng Yên
Trường Giang
14:07 27/08/2010
Giáo xứ Hàm Tải, tọa lạc tại xã Hảm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hàm tải đón nhận Tin Mừng vào khoảng năm 1930, nhận thánh Giuse làm đấng bảo trợ. Hàm Tải trước kia là họ lẻ thuộc xứ An Vỹ, ngày 21/01/2009 được nâng lên hàng giáo xứ. Số giáo dân hiện nay khoảng hơn 1000 người, cơ sở vật chất còn rất đơn sơ và thiếu thốn, ngôi nhà giáo lý đang xây dựng dở dang, ngôi thánh đường nhỏ bé nay đã xuống cấp. Tuy còn nghèo vật chất, nhưng tinh thần sống đạo rất sốt sáng, mỗi ngày giáo dân đến cầu nguyện ba buổi sáng, trưa, chiều. Tối thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy hàng tuần các em ca đoàn, thiếu nhi Thánh Thể và hội trung binh đến nhà thờ làm giờ chầu Thánh Thể và phút đền tạ. Hàm Tải chưa có linh mục sở tại, cha Hieronimo Nguyễn Ngọc Hinh làm quản nhiệm giáo xứ từ năm 2006 đến nay.
Mừng lễ Thánh Monica - Bổn mạng giới hiền mẫu Giáo Xứ Bắc Hải, Giáo Phận Xuân Lộc
Giuse Khổng Hữu Nguồn
14:19 27/08/2010
18 giờ chiều Thứ Sáu 27.08.2010, hòa với niềm vui mừng lễ Thánh nữ Monica quan thầy giới hiền mẫu, giáo xứ Bắc Hải đã tổ chức kiệu rước và lễ tạ ơn tại đài Thánh Giuse trong khuôn viên xứ đường.
Cả buổi chiều trước giờ lễ, bầu trời phía đông mây kéo đen kín, ai cũng nghĩ trời sẽ mưa to; Nhưng trời đã không làm mưa, những làn gió hướng nam thổi về mát dịu, cuộc kiệu rước xung quanh ngôi Thánh Đường còn đang xây dựng, cộng đoàn tham dự kiệu rước nghiêm trang, vừa đi vừa nghe tiểu sử hạnh thánh Monica.
Bước vào thánh lễ, công đoàn phụng vụ được cha phó Giuse mời thưởng thức bài hát về Thánh Nữ Monica do ca đoàn giáo xứ trình bày.
Trong phần giàng lễ, cha Giuse Nguyễn Văn Việt đồng hương, du học Pháp, ngài được nghỉ ít ngày về thăm quê hương, ngài đã chia sẻ những tâm tình đầy xúc động của những người con đối với cha mẹ, nhất là công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi nấng dậy dỗ của người mẹ đối với các con trong gia đình, và đặc biệt thay cho lời muốn nói đến các bạn trẻ, ngài đã gởi đến cộng đoàn phụng vụ bài hát mà ngài mới sáng tác có tựa đề: Đừng làm Mẹ khóc, bài hát này đã được nam ca sĩ Quốc Thắng thuộc giáo xứ Phương Lâm trình bày, là người bạn ngài mời đến khi ngài phục vụ ở xứ này.
Chất giọng âm vang ngọt ngào tha thiết đi vào lòng người nghe, lời bài hát dịu dàng sâu lắng, nhắc nhở những người con hãy đừng làm mẹ buồn mẹ khóc …
Trước khi kết thúc thánh lễ, cha Đaminh Bùi Văn Án chánh xứ, ngài dâng lời cảm ơn cha Giuse đồng hương, cha phó Giuse, quý tu sĩ, quý cộng đoàn, nhất là các hiền mẫu trong giáo xứ đã đến tham dự kiệu rước và thánh lễ rất đông, ngài cũng không quên khuyến cáo các bà hiền mẫu hãy bắt chước noi gương thánh Monica quan thầy sống đức tin, sống xây dựng hòa khí yêu thương hạnh phúc trong gia đình.
Sau lễ, vẫn trong phẩm phục, cha xứ đến bắt tay và chúc mừng các chị em giới hiền mẫu.
Bà Lucia Đặng Thị Hòa, trưởng giới hiền mẫu trong giáo xứ cho biết, hiện nay có gần 900 hội viên, ngoài các việc sinh hoạt họp hội, cầu nguyện, thăm viếng, giới còn thường xuyên vận động các chị em tiết kiệm chi tiêu đóng góp vào các công việc truyền giáo, cũng như xây dựng nhà Chúa …
Nguyện xin Chúa qua lời cầu bầu của Đức Mẹ, thánh nữ Monica bổn mạng ban nhiều ơn lành hồn xác cho các bà các chị em giới hiền mẫu.
Cả buổi chiều trước giờ lễ, bầu trời phía đông mây kéo đen kín, ai cũng nghĩ trời sẽ mưa to; Nhưng trời đã không làm mưa, những làn gió hướng nam thổi về mát dịu, cuộc kiệu rước xung quanh ngôi Thánh Đường còn đang xây dựng, cộng đoàn tham dự kiệu rước nghiêm trang, vừa đi vừa nghe tiểu sử hạnh thánh Monica.
Bước vào thánh lễ, công đoàn phụng vụ được cha phó Giuse mời thưởng thức bài hát về Thánh Nữ Monica do ca đoàn giáo xứ trình bày.
Trong phần giàng lễ, cha Giuse Nguyễn Văn Việt đồng hương, du học Pháp, ngài được nghỉ ít ngày về thăm quê hương, ngài đã chia sẻ những tâm tình đầy xúc động của những người con đối với cha mẹ, nhất là công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi nấng dậy dỗ của người mẹ đối với các con trong gia đình, và đặc biệt thay cho lời muốn nói đến các bạn trẻ, ngài đã gởi đến cộng đoàn phụng vụ bài hát mà ngài mới sáng tác có tựa đề: Đừng làm Mẹ khóc, bài hát này đã được nam ca sĩ Quốc Thắng thuộc giáo xứ Phương Lâm trình bày, là người bạn ngài mời đến khi ngài phục vụ ở xứ này.
Chất giọng âm vang ngọt ngào tha thiết đi vào lòng người nghe, lời bài hát dịu dàng sâu lắng, nhắc nhở những người con hãy đừng làm mẹ buồn mẹ khóc …
Trước khi kết thúc thánh lễ, cha Đaminh Bùi Văn Án chánh xứ, ngài dâng lời cảm ơn cha Giuse đồng hương, cha phó Giuse, quý tu sĩ, quý cộng đoàn, nhất là các hiền mẫu trong giáo xứ đã đến tham dự kiệu rước và thánh lễ rất đông, ngài cũng không quên khuyến cáo các bà hiền mẫu hãy bắt chước noi gương thánh Monica quan thầy sống đức tin, sống xây dựng hòa khí yêu thương hạnh phúc trong gia đình.
Sau lễ, vẫn trong phẩm phục, cha xứ đến bắt tay và chúc mừng các chị em giới hiền mẫu.
Bà Lucia Đặng Thị Hòa, trưởng giới hiền mẫu trong giáo xứ cho biết, hiện nay có gần 900 hội viên, ngoài các việc sinh hoạt họp hội, cầu nguyện, thăm viếng, giới còn thường xuyên vận động các chị em tiết kiệm chi tiêu đóng góp vào các công việc truyền giáo, cũng như xây dựng nhà Chúa …
Nguyện xin Chúa qua lời cầu bầu của Đức Mẹ, thánh nữ Monica bổn mạng ban nhiều ơn lành hồn xác cho các bà các chị em giới hiền mẫu.
Khóa Ca Trưởng tại Đan Mạch
Joseph Nguyễn văn Thảo
15:19 27/08/2010
Trong 6 ngày từ 18 – 23 tháng 8 năm 2010 vừa qua, sau nhiều khó khăn, trắc trở. Cộng Đồng Công giáo Việt Nam tại Đan Mạch đã tổ chức thành công Khóa Ca Trưởng cấp I, đợt 1 tại Đan Mạch.
Cộng Đồng CGVN / ĐK đã mời được Nhạc sư Phạm đức Huyến đến từ San Jose – Hoa Kỳ cùng với sự cộng tác của LM Michael Bùi trần Thuấn từ Đức quốc, đến hướng dẫn.
Đây là Khóa Ca Trưởng thứ 109 của Nhạc sư Phạm đức Huyến và là khóa đầu tiên được tổ chức tại Âu Châu, thật là một niềm vinh hạnh cho Cộng Đồng CGVN tại Đan Mạch nhỏ bé này được đánh dấu ấn cho bước khởi đầu của các khóa ca trưởng sau này tại Âu Châu.
Có tất cả 16 học viên tham dự, 14 học viên từ khắp nơi trên toàn Đan Mạch và có 2 học viên đến từ Đức quốc.vị lớn tuổi nhất trong khóa là 67 tuổi ….
Phòng ốc và ẩm thực đã được ông bà Trần văn Trí phục vụ chu đáo trong suốt khóa học.
Khóa học được khởi sự vào lúc 8g00 sáng ngày 18/8-2010 với lời chào mừng của ông Lê xuân Bảng, chủ tịch CĐCGVN tại Đan Mạch, và kết thúc khoảng 20g30 ngày 23/8-2010.
Thầy Huyến cũng cho mọi người xem điện thư chúc mừng của Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt và tất cả các ca trưởng khắp nơi đã gởi lời chúc mừng và cầu nguyện cho Khóa Ca Trưởng được gặt hái thành quả tốt đẹp.
Thầy Huyến cho biết, hoài bão của Thầy là mong muốn truyền đạt lại tất cả kiến thức về thánh nhạc, âm nhạc cũng như kỹ thuật, những kinh nghiệm đi giảng dạy suốt 36 năm qua của mình cho tất cả các anh em ca trưởng, không dấu diếm điều gì cả….
Và quả như thế chỉ sau vài ngày học anh chị em đã thấu hiểu được tầm quan trọng của thánh ca, thánh nhạc trong Phụng Vụ. Học viên tuy có chút mệt mỏi vì mỗi ngày học khoảng 10 tiếng, nhưng lớp học lúc nào cũng có những trận cười thật thoải mái, vui tươi, làm tan biến hết những cơn mỏi mệt ….
Tất cả học viên, thật sung sướng vì ít nhiều đã hấp thụ được những kiến thức về cách xướng âm, cách hát thánh ca,và kỹ thuật đánh nhịp các điệu 2/4, 3/4, 4/4 và 6/8. Tuy chưa được thuần thục nhưng mỗi người đã tự hứa sẽ cố gắng để không phụ lòng thương mến của vị Thầy khả ái.
Tuy vậy, sau mỗi buổi cơm chiều … Cha con, Thầy trò cùng nhau sinh họat, chuyện trò thật vui nhộn qua những dụng cụ, nhạc khí tự biên tự diễn ( như bộ trống của LM Thuấn.. v..v…) Thầy trò lại được những trận cười thỏa thê …..
Để kết thúc khóa học, Cha con, Thầy trò quây quần cùng tâm sự, chia sẻ cảm tưởng của mình. Tất cả học viên đã mạnh dạn nói lên cảm tưởng của từng người, một số anh chị em cảm động, nghẹn ngào đến rơi lệ, vì qua hình ảnh của vị Thầy khả ái, chân tình và đầy nhiệt huyết với hoài bão làm cho nền thánh nhạc được triển nở để dâng lời ca tụng lên Thiên Chúa, đặc biệt với nền thánh nhạc Việt Nam với muôn cung vạn điệu, với ngũ âm đượm nét dân tộc mà chúng ta chưa khai thác hết mọi tinh túy của nền Thánh Nhạc. Hơn 70 tuổi đời vẫn hăng say tới tận phương trời xa xăm Đan Mạch…để truyền đạt lại tất cả những kinh nghiệm của mình ….Càng thấy thương tâm, cảm động vì những hy sinh của Thầy đã dành cho tất cả anh chị em Khóa Ca Trưởng tại Đan Mạch nói riêng và các Khóa Ca Trưởng khắp nơi nói chung. Tất cả học viên Khóa Ca Trưởng 109 đều đồng ý là Thầy của chúng ta quá TUYỆT VỜI trên mọi TUYỆT VỜI.
Thầy Huyến tâm sự, khi nhận lời đến hướng dẫn cho khóa học tại Đan Mạch này, Thầy không thể mường tượng được những không khí vui vẻ, như một gia đình thân thương, làm Thầy thật cảm động vì không ngờ được nơi xứ Đan Mạch nhỏ bé tại Bắc Âu này, anh em lại có được tinh thần gắn bó, thương mến dành cho nhau như thế..
Vì vậy Thầy đã không ngần ngại khi nhận lời mời của Cộng Đồng sang năm Thầy trở lại tiếp tục hướng dẫn đợt 2 cho anh chị em ….và sẽ cùng tham dự Đại Lễ các thánh tử đạoVN vào tháng 8 năm 2011 tại Đan Mạch.
Buổi cơm tối chia tay, Khóa học nhận thêm được sự thương mến, ủng hộ từ ông bà Thông qua những món ăn đặc sản quê hương làm cho bữa cơm thêm đậm đà tình nghĩa.
Chân thành cám ơn đến Cộng Đồng CGVN tại Đan Mạch và các vị ân nhân đã tạo điều kiện, giúp đỡ mọi phương tiện cho Khóa Ca Trưởng 109 cấp I, đợt1.
Chúng con kính gởi lời cám ơn đến Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt cùng tất cả các ca trưởng khắp mọi nơi đã thêm lời cầu nguyện cho Khóa Ca Trưởng gặt hái được thành quả.
Và đặc biệt tri ân Nhạc sư Phạm đức Huyến, LM Michael Bùi trần Thuấn, trong suốt tuần lễ học vừa qua đã quá vất vả vì chúng con.
Kính Tạ Ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ. Nguyện xin ơn trên ban thêm nhiều sức khỏe cho Đức Cha Giuse, quý Cha, Thầy, anh chị em ca trưởng khắp mọi nơi cùng quý vị ân nhân, để cùng chúng con Tôn Vinh và Cảm Tạ CHÚA muôn đời.
Copenhagen 25/8-2010
Cộng Đồng CGVN / ĐK đã mời được Nhạc sư Phạm đức Huyến đến từ San Jose – Hoa Kỳ cùng với sự cộng tác của LM Michael Bùi trần Thuấn từ Đức quốc, đến hướng dẫn.
Đây là Khóa Ca Trưởng thứ 109 của Nhạc sư Phạm đức Huyến và là khóa đầu tiên được tổ chức tại Âu Châu, thật là một niềm vinh hạnh cho Cộng Đồng CGVN tại Đan Mạch nhỏ bé này được đánh dấu ấn cho bước khởi đầu của các khóa ca trưởng sau này tại Âu Châu.
Có tất cả 16 học viên tham dự, 14 học viên từ khắp nơi trên toàn Đan Mạch và có 2 học viên đến từ Đức quốc.vị lớn tuổi nhất trong khóa là 67 tuổi ….
Phòng ốc và ẩm thực đã được ông bà Trần văn Trí phục vụ chu đáo trong suốt khóa học.
Khóa học được khởi sự vào lúc 8g00 sáng ngày 18/8-2010 với lời chào mừng của ông Lê xuân Bảng, chủ tịch CĐCGVN tại Đan Mạch, và kết thúc khoảng 20g30 ngày 23/8-2010.
Thầy Huyến cũng cho mọi người xem điện thư chúc mừng của Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt và tất cả các ca trưởng khắp nơi đã gởi lời chúc mừng và cầu nguyện cho Khóa Ca Trưởng được gặt hái thành quả tốt đẹp.
Thầy Huyến cho biết, hoài bão của Thầy là mong muốn truyền đạt lại tất cả kiến thức về thánh nhạc, âm nhạc cũng như kỹ thuật, những kinh nghiệm đi giảng dạy suốt 36 năm qua của mình cho tất cả các anh em ca trưởng, không dấu diếm điều gì cả….
Và quả như thế chỉ sau vài ngày học anh chị em đã thấu hiểu được tầm quan trọng của thánh ca, thánh nhạc trong Phụng Vụ. Học viên tuy có chút mệt mỏi vì mỗi ngày học khoảng 10 tiếng, nhưng lớp học lúc nào cũng có những trận cười thật thoải mái, vui tươi, làm tan biến hết những cơn mỏi mệt ….
Tất cả học viên, thật sung sướng vì ít nhiều đã hấp thụ được những kiến thức về cách xướng âm, cách hát thánh ca,và kỹ thuật đánh nhịp các điệu 2/4, 3/4, 4/4 và 6/8. Tuy chưa được thuần thục nhưng mỗi người đã tự hứa sẽ cố gắng để không phụ lòng thương mến của vị Thầy khả ái.
Tuy vậy, sau mỗi buổi cơm chiều … Cha con, Thầy trò cùng nhau sinh họat, chuyện trò thật vui nhộn qua những dụng cụ, nhạc khí tự biên tự diễn ( như bộ trống của LM Thuấn.. v..v…) Thầy trò lại được những trận cười thỏa thê …..
Để kết thúc khóa học, Cha con, Thầy trò quây quần cùng tâm sự, chia sẻ cảm tưởng của mình. Tất cả học viên đã mạnh dạn nói lên cảm tưởng của từng người, một số anh chị em cảm động, nghẹn ngào đến rơi lệ, vì qua hình ảnh của vị Thầy khả ái, chân tình và đầy nhiệt huyết với hoài bão làm cho nền thánh nhạc được triển nở để dâng lời ca tụng lên Thiên Chúa, đặc biệt với nền thánh nhạc Việt Nam với muôn cung vạn điệu, với ngũ âm đượm nét dân tộc mà chúng ta chưa khai thác hết mọi tinh túy của nền Thánh Nhạc. Hơn 70 tuổi đời vẫn hăng say tới tận phương trời xa xăm Đan Mạch…để truyền đạt lại tất cả những kinh nghiệm của mình ….Càng thấy thương tâm, cảm động vì những hy sinh của Thầy đã dành cho tất cả anh chị em Khóa Ca Trưởng tại Đan Mạch nói riêng và các Khóa Ca Trưởng khắp nơi nói chung. Tất cả học viên Khóa Ca Trưởng 109 đều đồng ý là Thầy của chúng ta quá TUYỆT VỜI trên mọi TUYỆT VỜI.
Thầy Huyến tâm sự, khi nhận lời đến hướng dẫn cho khóa học tại Đan Mạch này, Thầy không thể mường tượng được những không khí vui vẻ, như một gia đình thân thương, làm Thầy thật cảm động vì không ngờ được nơi xứ Đan Mạch nhỏ bé tại Bắc Âu này, anh em lại có được tinh thần gắn bó, thương mến dành cho nhau như thế..
Vì vậy Thầy đã không ngần ngại khi nhận lời mời của Cộng Đồng sang năm Thầy trở lại tiếp tục hướng dẫn đợt 2 cho anh chị em ….và sẽ cùng tham dự Đại Lễ các thánh tử đạoVN vào tháng 8 năm 2011 tại Đan Mạch.
Buổi cơm tối chia tay, Khóa học nhận thêm được sự thương mến, ủng hộ từ ông bà Thông qua những món ăn đặc sản quê hương làm cho bữa cơm thêm đậm đà tình nghĩa.
Chân thành cám ơn đến Cộng Đồng CGVN tại Đan Mạch và các vị ân nhân đã tạo điều kiện, giúp đỡ mọi phương tiện cho Khóa Ca Trưởng 109 cấp I, đợt1.
Chúng con kính gởi lời cám ơn đến Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt cùng tất cả các ca trưởng khắp mọi nơi đã thêm lời cầu nguyện cho Khóa Ca Trưởng gặt hái được thành quả.
Và đặc biệt tri ân Nhạc sư Phạm đức Huyến, LM Michael Bùi trần Thuấn, trong suốt tuần lễ học vừa qua đã quá vất vả vì chúng con.
Kính Tạ Ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ. Nguyện xin ơn trên ban thêm nhiều sức khỏe cho Đức Cha Giuse, quý Cha, Thầy, anh chị em ca trưởng khắp mọi nơi cùng quý vị ân nhân, để cùng chúng con Tôn Vinh và Cảm Tạ CHÚA muôn đời.
Copenhagen 25/8-2010
Tài Liệu - Sưu Khảo
Điều làm đau lòng Mẹ nhất
PM. Cao Huy Hoàng
01:12 27/08/2010
(Nhân lễ Thánh Monica)
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình, ai cũng có một cảm nghiệm quí giá, đó là: Gia đình là một tổ ấm yêu thương. Điều đó phải là hiển nhiên rõ nét nhất nơi một Gia Đình Công Giáo, vì đã được Thiên Chúa chúc phúc qua bí tích Hôn Nhân thánh thiện. Trong gia đình ấy, luôn có Chúa đồng hành và vợ chồng thương yêu nhau và thương yêu con cái, vợ chồng luôn tôn trọng nhau, và cùng nhau chu toàn bổn phận đối với con cái từ cái ăn cái mặc đến nhà cửa phương tiện, từ chuyện học hành đến chuyện giáo dục đạo đức, giáo dục đức tin và đời sống Tin mừng. Trong gia đình ấy, anh chị em thương yêu giúp đỡ nhau, và con cái hiếu kính Cha Mẹ.
Và khi lại được kêu gọi trong bậc sống hôn nhân, tức là, chính mình là chồng là cha, là vợ là mẹ trong một gia đình, thì có thể khám phá ra trong đời sống hôn nhân, trong tổ ấm gia đình ấy, vai trò người vợ, người Mẹ có thể nói như là một người quản lý không chỉ tiền bạc vật chất mà còn quản lý cả hạnh phúc gia đình, quản lý cả đời sống tình cảm tinh thần và đạo đức của mỗi thành viên trong gia đình, quản lý cả giang sang nhà chồng, quản lý cả tương lai con cái, quản lý cả tương lai gia đình.
Đồng ý là vợ chồng cùng đồng trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng tại sao tôi có thể nói nghiêng về phía các bà mẹ với nhiều trọng trách như thế?
Theo chỗ kinh nghiệm của một số gia đình hạnh phúc, thì người chồng người cha vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc cho vợ và các con, nhưng ông ta chỉ đóng vai trò quyết định, và hạnh phúc nhất của ông là có được một người vợ mà ông đủ tin tưởng giao cho việc quản lý cả sự nghiệp của ông.
Một kinh nghiệm khác, Người Mẹ là người nữ được Thiên Chúa dựng nên với trái tim nhạy cảm, với lòng bao dung tha thứ mềm dịu, với biển tình bao la, nơi con cái vẫn dễ gần gũi dễ chia sẻ, dễ tỏ bày. Vì thế, người Mẹ thấu hiểu tâm tình của con, và sẵn sàng hầu chuyện với Cha nó để nó được thỏa những yêu cầu, những ước muốn. Về điểm nầy, người vợ trở nên một cố vấn đắc lực cho những ông chống để duy trì hạnh phúc gia đình. Hơn thế nữa, người Mẹ còn là gạch nối yêu thương tái thiết lại những bất đồng có thể có giữa cha con và anh em.
Bấy nhiêu vẫn chưa đủ, thiết tưởng, mỗi người, không chỉ người làm vợ, làm mẹ, mà cả những ông chồng, còn phải biết quí trọng ơn gọi làm phụ nữ của mình, của vợ mình, ơn gọi được sinh cưu mang và ra con cái, được cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo nên con người, và hơn thế nữa, sáng tạo nên những con người là con cái của Thiên Chúa, qua bí tích rửa tội.
Ai chưa cảm nghiệm được ơn trọng này, thì hãy mở mắt ra, mở lòng ra mà nhìn những khao khát ngày đêm của những người ước mong được chỉ một lần làm mẹ. Có người ước mơ cả đời, và thực hiện ước mơ ấy với lời cầu nguyện, khấn xin và cả việc sẵn sàng tốn kém bao nhiêu chi phí để cậy nhờ khoa học can thiệp. (Trong khi đó, có biết bao người lại khước từ ơn trọng làm mẹ, vì sợ phiền nhiễu đến đời sống của mình, mà bằng lòng giết con mình từ trong trứng nước).
Đừng lầm tưởng phận liễu yếu đào tơ hèn mọn là vô ích theo kiểu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng hãy ghi nhận những ơn trọng Chúa ban cho người nữ, như đã ban cho Mẹ Maria:
“Điều lớn lao Chúa ban cho Mẹ là sự nhỏ bé.
Điều vĩ đại Chúa làm cho Mẹ là sự khiêm nhường.
Điều muôn đời khen mẹ diễm phúc là nữ tỳ được Chúa yêu thương”
(Lời bài hát “Maria Tình Yêu” của Lm. Phaolô Hoàng Kim Tốt, theo tư tưởng của chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu)
Sách Đức Huấn Ca cũng ca tụng người nữ làm vợ làm mẹ, như người quản lý một kho tàng ân phúc của Thiên Chúa:
“Phúc thay người cưới được vợ hiền,
tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi.
Vợ đảm đang khiến chồng được sung sướng,
được an vui suốt cả cuộc đời.
Vợ hiền là số tốt phận may
dành cho những người kính sợ Đức Chúa.
Giàu hay nghèo, lòng vẫn cứ an vui
lúc nào nét mặt cũng tươi cười.
Vợ có duyên thì chồng hạnh phúc.
Vợ khôn khéo thì chồng được nở mặt nở mày.
Phụ nữ ít nói là quà của Đức Chúa ban,
không chi sánh bằng người có giáo dục.
Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt vời,
không chi quí bằng người tiết hạnh.
Người vợ hiền trong cửa nhà ngăn nắp
đẹp như vầng hồng,
trên chốn cao xanh của Đức Chúa”.
(Hc 26,1-4, 13-16)
Những người ngoài công giáo, họ cũng biết quí người làm vợ làm mẹ kia mà. Ấy vậy mới có bài vè về VỢ TỐT:
Phải đẹp gái - Không kiêu sa - Thích ở nhà - Lo nội trợ- Không cắc cớ - Chửi chồng con - Không phấn son - Không nhiều chuyện - Không hà tiện - Không càm ràm- Phải siêng năng - Không lười biếng - Nói nhỏ tiếng - Biết chiều chồng - Giỏi nữ công - Và gia chánh. - Biết làm bánh –n Nấu ăn ngon - Biết dạy con - Ứng xử tốt- Không quá dốt - Không quá khôn - Không ôm đồm - Không ủy mị - Không thiên vị - Không cầu kỳ - Không quá phì - Không quá ốm- Không dị hợm - Không chanh chua - Không se sua - Không bẻm mép - Không bép xép - Không phàn nàn …
Một vài gợi ý, hy vọng chúng ta có thể thấy được đời sống gia đình quý giá là chừng nào, và vai trò của người Mẹ, có thể nói là vai trò không thể thay thế trong việc thiết lập một gia đình hạnh phúc, một mái ấm yêu thương toàn bích.
Thế nhưng, đâu đâu vẫn thấy những con người đau khổ, và vẫn thường thấy người phụ nữ đau khổ nhất.
Có người cho là kiếp khổ của người phụ nữ triền miên từ Bà Tổ Tông là Evà. Thì các ông cũng con cháu bà Evà, cũng phải đau khổ và phải chết như vậy. Vậy thì khi nghe chuyện đau khổ của thân phận đàn bà nhất là những người làm vợ, làm mẹ đau khổ, hẳn là phải có nguyên nhân từ việc không cảm nhận được ơn trọng của mình, hoặc không thể kiến tạo được gia đình hạnh phúc. Có người nghĩ rằng mình đau khổ vì gia đình mất hạnh phúc mà quên rằng mình phải chấp nhận đau khổ để gia đình được hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là quà tặng sẵn có, nhưng hy sinh, chấp nhận đau khổ là quà tặng làm nên hạnh phúc. Thiết tưởng mỗi người phải tìm cho ra đau khổ đúng nghĩa lớn nhất trong đời mình.
Có một lần thưa chuyện với các BMCG, tôi được nghe nhiều câu trả lời cho câu hỏi rằng: đau khổ lớn nhất của BMCG là gì.
Và hôm nay, tôi cũng muốn được nghe chính các bà, các chị sẻ chia cho mọi người biết nỗi đau khổ lớn nhất đời của mình, và cách nào để khắc phục, để làm cho vơi đi những đau khổ ấy.
Xin mời các bà các chị tham gia ý kiến…
Có nhiều nguyên nhân được đưa ra:
Người nghèo thì nói: đau khổ vì thiếu tiền bạc, nhà cửa, điều kiện sống thấp kém, thất nghiệp, con cái không được học hành, không có tiền sắm quần áo cho kịp chị kịp em, chồng vô công rỗi nghề uống rượu say xỉn, chồng bạo hành trong gia đình, vũ phu…
Người có cuộc sống thong thả hơn thì trả: đau khổ vì người chồng không tin tưởng giao tiền bạc, người chồng độc đoán, độc tài, xử tệ với vợ, áp bức vợ, con cái bất kính cha mẹ…
Người có đời sống kinh tế ổn định hơn thì than phiền: “Ôi em đau khổ lắm, chồng em đi sớm về muộn, đi đông đi tây, ăn chơi đủ no mọi món cả thêm chuyện bồ nhí, bồ nhảnh, con cái thì ôi thôi, thấy cha nó vậy, nó sinh hoang luôn, chẳng nói được nó….”
Và còn nhiều nguyên nhân sâu xa khác: mẹ chồng con dâu, các cô các chú bên nội, đủ mọi nguyên nhân đau khổ đè nặng trên thân phận liễu yếu đào tơ của người mẹ, người vợ.
May quá, có một câu trả lời đáng cho chúng ta suy nghĩ: “đau khổ lớn nhất đời em là chống em, con cái em tội lỗi, không ăn ăn sám hối, sợ phải sa hỏa ngục. Còn những đau khổ khác, em không ngán, em có thể khắc phục được hết”.
Vâng, có thể nói đây là đau khổ lớn nhất trong đời người của một người mẹ công giáo.
Thiếu tiền thiếu bạc, thiếu tình thương làm sao đau khổ cho bằng thiếu vắng Chúa trong gia đình, thiếu đời sống đức tin và kinh nguyện. Cha Mẹ con cái không mời Chúa can thiệp vào đời sống của mình. Đức tin dậm chân tại chỗ để khi nào có đủ tiền đủ bạc đủ quần đủ áo thì mới đến nhà thờ, mới giữ đạo sao?
Con bất hiếu với Cha Mẹ làm cha mẹ đau khổ, nhưng đáng sợ hơn là từ chỗ bất hiếu với Cha Mẹ dẫn đến tội bất hiếu với Chúa, không nhận ra ơn Chúa đang tuôn đổ xuống trên gia đình mình.
Chồng say chồng xỉn, chồng bạo hành chồng vũ lực là đau khổ, nhưng làm sao đau khổ cho bằng nhìn thấy chồng mình không còn là con người xinh đẹp, đàng hoàng có nhân cách và là con người giống hình ảnh Thiên Chúa nữa.
Chống ghen tuông, chồng ngoại tình là đau khổ, nhưng đau khổ sao bằng việc linh hồn chồng mình đang chết trong vũng tội? Đã vậy, lại không chịu dứt bỏ đường tội lỗi mà tìm đường trở về với gia đình với Chúa với Giáo hội, thì còn gì đau khổ cho bằng?
Bà mẹ công giáo với nguyện ước thánh hóa bản thân, thánh hóa gia đình và cộng tác với Chúa làm chứng cho Thiên Chúa trước mặt thiên hạ, mà phải đối diện với một thực tế ngược lại với nguyện ước của mình, thì làm sao có thể vui mừng được, có thể bình an được.
Vâng, người mẹ luôn trăn trở để tránh cho được điều đau khổ lớn lao nhất trong đời mình là việc mất linh hồn của mình và của mọi thành viên trong gia đình. Thiết tưởng, đó là trăn trở chính đáng nhất. Nhưng không thể trăn trở, mà thiết nghĩ, còn phải:
Noi gương Mẹ Maria để tận hiến tất cả đời mình cho Thiên Chúa. Của lễ tận hiến là của lễ tinh tuyền. Cuộc sống mẹ công giáo kết hiệp hoàn hảo với thánh Thể Chúa Giêsu, tâm hồn của Mẹ là Nhà Tạm của Chúa Giêsu, và cuộc sống Mẹ là cuộc thương khó với Chúa Giêsu để chuộc tội cho chồng con. Của lễ hy sinh cho ta hy vọng rằng chắc chắn Chúa sẽ nhận lời mà dẫn đưa chồng con về với đường ngay nẻo chính.
Noi gương Mẹ Giáo hội, là hiền thê Chúa Kitô, luôn tuân hành lề luật Chúa dạy trong tin mừng. Và tin mừng ấy sống động trong đời sống làm mẹ làm vợ của các chị, sẽ lan tỏa hương thánh thiện khắp gia đình, sẽ ảnh hưởng trên chồng, sẽ tác động trên con cái, và sẽ là gương soi cho mọi gia đình.
Noi gương Mẹ Monica không chỉ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ mà còn luôn tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương tha thứ của Thiên Chúa, luôn kiên trì cầu khẩn không bao giờ nản lòng nản chí để cho được ơn trợ giúp, cho được ơn hoàn thiện cả nhà mình.
Noi gương Mẹ Anne Thành, người mẹ đơn sơ yếu đuối thể xác, nhưng chân thành mạnh mẻ cộng tác với Giáo Hội, tuyên xưng niềm tin của mình trước mặt thiên hạ, và cũng không quên điều quan trọng là nhắn gửi cho chồng con thông điệp phải sống đẹp lòng Chúa luôn luôn.
Nhân mừng lễ thánh Monica, bổn mạng Hội Bà Mẹ Công giáo, xin sẻ chia đôi điều tản mạn với ước mong mỗi chị, mỗi Mẹ thay đổi mối bận tâm tiền vật chất thành mối bận tâm về sự suy đồi đời sống đức tin trong gia đình, hầu tránh mỗi hiểm họa hỏa ngục là đau khổ lớn nhất đời người.
Câu hỏi thảo luận:
Chồng em, con em không chịu đi xưng tội, rước lễ. Chị giúp em cách nào đi?
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình, ai cũng có một cảm nghiệm quí giá, đó là: Gia đình là một tổ ấm yêu thương. Điều đó phải là hiển nhiên rõ nét nhất nơi một Gia Đình Công Giáo, vì đã được Thiên Chúa chúc phúc qua bí tích Hôn Nhân thánh thiện. Trong gia đình ấy, luôn có Chúa đồng hành và vợ chồng thương yêu nhau và thương yêu con cái, vợ chồng luôn tôn trọng nhau, và cùng nhau chu toàn bổn phận đối với con cái từ cái ăn cái mặc đến nhà cửa phương tiện, từ chuyện học hành đến chuyện giáo dục đạo đức, giáo dục đức tin và đời sống Tin mừng. Trong gia đình ấy, anh chị em thương yêu giúp đỡ nhau, và con cái hiếu kính Cha Mẹ.
Và khi lại được kêu gọi trong bậc sống hôn nhân, tức là, chính mình là chồng là cha, là vợ là mẹ trong một gia đình, thì có thể khám phá ra trong đời sống hôn nhân, trong tổ ấm gia đình ấy, vai trò người vợ, người Mẹ có thể nói như là một người quản lý không chỉ tiền bạc vật chất mà còn quản lý cả hạnh phúc gia đình, quản lý cả đời sống tình cảm tinh thần và đạo đức của mỗi thành viên trong gia đình, quản lý cả giang sang nhà chồng, quản lý cả tương lai con cái, quản lý cả tương lai gia đình.
Đồng ý là vợ chồng cùng đồng trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng tại sao tôi có thể nói nghiêng về phía các bà mẹ với nhiều trọng trách như thế?
Theo chỗ kinh nghiệm của một số gia đình hạnh phúc, thì người chồng người cha vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc cho vợ và các con, nhưng ông ta chỉ đóng vai trò quyết định, và hạnh phúc nhất của ông là có được một người vợ mà ông đủ tin tưởng giao cho việc quản lý cả sự nghiệp của ông.
Một kinh nghiệm khác, Người Mẹ là người nữ được Thiên Chúa dựng nên với trái tim nhạy cảm, với lòng bao dung tha thứ mềm dịu, với biển tình bao la, nơi con cái vẫn dễ gần gũi dễ chia sẻ, dễ tỏ bày. Vì thế, người Mẹ thấu hiểu tâm tình của con, và sẵn sàng hầu chuyện với Cha nó để nó được thỏa những yêu cầu, những ước muốn. Về điểm nầy, người vợ trở nên một cố vấn đắc lực cho những ông chống để duy trì hạnh phúc gia đình. Hơn thế nữa, người Mẹ còn là gạch nối yêu thương tái thiết lại những bất đồng có thể có giữa cha con và anh em.
Bấy nhiêu vẫn chưa đủ, thiết tưởng, mỗi người, không chỉ người làm vợ, làm mẹ, mà cả những ông chồng, còn phải biết quí trọng ơn gọi làm phụ nữ của mình, của vợ mình, ơn gọi được sinh cưu mang và ra con cái, được cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo nên con người, và hơn thế nữa, sáng tạo nên những con người là con cái của Thiên Chúa, qua bí tích rửa tội.
Ai chưa cảm nghiệm được ơn trọng này, thì hãy mở mắt ra, mở lòng ra mà nhìn những khao khát ngày đêm của những người ước mong được chỉ một lần làm mẹ. Có người ước mơ cả đời, và thực hiện ước mơ ấy với lời cầu nguyện, khấn xin và cả việc sẵn sàng tốn kém bao nhiêu chi phí để cậy nhờ khoa học can thiệp. (Trong khi đó, có biết bao người lại khước từ ơn trọng làm mẹ, vì sợ phiền nhiễu đến đời sống của mình, mà bằng lòng giết con mình từ trong trứng nước).
Đừng lầm tưởng phận liễu yếu đào tơ hèn mọn là vô ích theo kiểu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng hãy ghi nhận những ơn trọng Chúa ban cho người nữ, như đã ban cho Mẹ Maria:
“Điều lớn lao Chúa ban cho Mẹ là sự nhỏ bé.
Điều vĩ đại Chúa làm cho Mẹ là sự khiêm nhường.
Điều muôn đời khen mẹ diễm phúc là nữ tỳ được Chúa yêu thương”
(Lời bài hát “Maria Tình Yêu” của Lm. Phaolô Hoàng Kim Tốt, theo tư tưởng của chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu)
Sách Đức Huấn Ca cũng ca tụng người nữ làm vợ làm mẹ, như người quản lý một kho tàng ân phúc của Thiên Chúa:
“Phúc thay người cưới được vợ hiền,
tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi.
Vợ đảm đang khiến chồng được sung sướng,
được an vui suốt cả cuộc đời.
Vợ hiền là số tốt phận may
dành cho những người kính sợ Đức Chúa.
Giàu hay nghèo, lòng vẫn cứ an vui
lúc nào nét mặt cũng tươi cười.
Vợ có duyên thì chồng hạnh phúc.
Vợ khôn khéo thì chồng được nở mặt nở mày.
Phụ nữ ít nói là quà của Đức Chúa ban,
không chi sánh bằng người có giáo dục.
Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt vời,
không chi quí bằng người tiết hạnh.
Người vợ hiền trong cửa nhà ngăn nắp
đẹp như vầng hồng,
trên chốn cao xanh của Đức Chúa”.
(Hc 26,1-4, 13-16)
Những người ngoài công giáo, họ cũng biết quí người làm vợ làm mẹ kia mà. Ấy vậy mới có bài vè về VỢ TỐT:
Phải đẹp gái - Không kiêu sa - Thích ở nhà - Lo nội trợ- Không cắc cớ - Chửi chồng con - Không phấn son - Không nhiều chuyện - Không hà tiện - Không càm ràm- Phải siêng năng - Không lười biếng - Nói nhỏ tiếng - Biết chiều chồng - Giỏi nữ công - Và gia chánh. - Biết làm bánh –n Nấu ăn ngon - Biết dạy con - Ứng xử tốt- Không quá dốt - Không quá khôn - Không ôm đồm - Không ủy mị - Không thiên vị - Không cầu kỳ - Không quá phì - Không quá ốm- Không dị hợm - Không chanh chua - Không se sua - Không bẻm mép - Không bép xép - Không phàn nàn …
Một vài gợi ý, hy vọng chúng ta có thể thấy được đời sống gia đình quý giá là chừng nào, và vai trò của người Mẹ, có thể nói là vai trò không thể thay thế trong việc thiết lập một gia đình hạnh phúc, một mái ấm yêu thương toàn bích.
Thế nhưng, đâu đâu vẫn thấy những con người đau khổ, và vẫn thường thấy người phụ nữ đau khổ nhất.
Có người cho là kiếp khổ của người phụ nữ triền miên từ Bà Tổ Tông là Evà. Thì các ông cũng con cháu bà Evà, cũng phải đau khổ và phải chết như vậy. Vậy thì khi nghe chuyện đau khổ của thân phận đàn bà nhất là những người làm vợ, làm mẹ đau khổ, hẳn là phải có nguyên nhân từ việc không cảm nhận được ơn trọng của mình, hoặc không thể kiến tạo được gia đình hạnh phúc. Có người nghĩ rằng mình đau khổ vì gia đình mất hạnh phúc mà quên rằng mình phải chấp nhận đau khổ để gia đình được hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là quà tặng sẵn có, nhưng hy sinh, chấp nhận đau khổ là quà tặng làm nên hạnh phúc. Thiết tưởng mỗi người phải tìm cho ra đau khổ đúng nghĩa lớn nhất trong đời mình.
Có một lần thưa chuyện với các BMCG, tôi được nghe nhiều câu trả lời cho câu hỏi rằng: đau khổ lớn nhất của BMCG là gì.
Và hôm nay, tôi cũng muốn được nghe chính các bà, các chị sẻ chia cho mọi người biết nỗi đau khổ lớn nhất đời của mình, và cách nào để khắc phục, để làm cho vơi đi những đau khổ ấy.
Xin mời các bà các chị tham gia ý kiến…
Có nhiều nguyên nhân được đưa ra:
Người nghèo thì nói: đau khổ vì thiếu tiền bạc, nhà cửa, điều kiện sống thấp kém, thất nghiệp, con cái không được học hành, không có tiền sắm quần áo cho kịp chị kịp em, chồng vô công rỗi nghề uống rượu say xỉn, chồng bạo hành trong gia đình, vũ phu…
Người có cuộc sống thong thả hơn thì trả: đau khổ vì người chồng không tin tưởng giao tiền bạc, người chồng độc đoán, độc tài, xử tệ với vợ, áp bức vợ, con cái bất kính cha mẹ…
Người có đời sống kinh tế ổn định hơn thì than phiền: “Ôi em đau khổ lắm, chồng em đi sớm về muộn, đi đông đi tây, ăn chơi đủ no mọi món cả thêm chuyện bồ nhí, bồ nhảnh, con cái thì ôi thôi, thấy cha nó vậy, nó sinh hoang luôn, chẳng nói được nó….”
Và còn nhiều nguyên nhân sâu xa khác: mẹ chồng con dâu, các cô các chú bên nội, đủ mọi nguyên nhân đau khổ đè nặng trên thân phận liễu yếu đào tơ của người mẹ, người vợ.
May quá, có một câu trả lời đáng cho chúng ta suy nghĩ: “đau khổ lớn nhất đời em là chống em, con cái em tội lỗi, không ăn ăn sám hối, sợ phải sa hỏa ngục. Còn những đau khổ khác, em không ngán, em có thể khắc phục được hết”.
Vâng, có thể nói đây là đau khổ lớn nhất trong đời người của một người mẹ công giáo.
Thiếu tiền thiếu bạc, thiếu tình thương làm sao đau khổ cho bằng thiếu vắng Chúa trong gia đình, thiếu đời sống đức tin và kinh nguyện. Cha Mẹ con cái không mời Chúa can thiệp vào đời sống của mình. Đức tin dậm chân tại chỗ để khi nào có đủ tiền đủ bạc đủ quần đủ áo thì mới đến nhà thờ, mới giữ đạo sao?
Con bất hiếu với Cha Mẹ làm cha mẹ đau khổ, nhưng đáng sợ hơn là từ chỗ bất hiếu với Cha Mẹ dẫn đến tội bất hiếu với Chúa, không nhận ra ơn Chúa đang tuôn đổ xuống trên gia đình mình.
Chồng say chồng xỉn, chồng bạo hành chồng vũ lực là đau khổ, nhưng làm sao đau khổ cho bằng nhìn thấy chồng mình không còn là con người xinh đẹp, đàng hoàng có nhân cách và là con người giống hình ảnh Thiên Chúa nữa.
Chống ghen tuông, chồng ngoại tình là đau khổ, nhưng đau khổ sao bằng việc linh hồn chồng mình đang chết trong vũng tội? Đã vậy, lại không chịu dứt bỏ đường tội lỗi mà tìm đường trở về với gia đình với Chúa với Giáo hội, thì còn gì đau khổ cho bằng?
Bà mẹ công giáo với nguyện ước thánh hóa bản thân, thánh hóa gia đình và cộng tác với Chúa làm chứng cho Thiên Chúa trước mặt thiên hạ, mà phải đối diện với một thực tế ngược lại với nguyện ước của mình, thì làm sao có thể vui mừng được, có thể bình an được.
Vâng, người mẹ luôn trăn trở để tránh cho được điều đau khổ lớn lao nhất trong đời mình là việc mất linh hồn của mình và của mọi thành viên trong gia đình. Thiết tưởng, đó là trăn trở chính đáng nhất. Nhưng không thể trăn trở, mà thiết nghĩ, còn phải:
Noi gương Mẹ Maria để tận hiến tất cả đời mình cho Thiên Chúa. Của lễ tận hiến là của lễ tinh tuyền. Cuộc sống mẹ công giáo kết hiệp hoàn hảo với thánh Thể Chúa Giêsu, tâm hồn của Mẹ là Nhà Tạm của Chúa Giêsu, và cuộc sống Mẹ là cuộc thương khó với Chúa Giêsu để chuộc tội cho chồng con. Của lễ hy sinh cho ta hy vọng rằng chắc chắn Chúa sẽ nhận lời mà dẫn đưa chồng con về với đường ngay nẻo chính.
Noi gương Mẹ Giáo hội, là hiền thê Chúa Kitô, luôn tuân hành lề luật Chúa dạy trong tin mừng. Và tin mừng ấy sống động trong đời sống làm mẹ làm vợ của các chị, sẽ lan tỏa hương thánh thiện khắp gia đình, sẽ ảnh hưởng trên chồng, sẽ tác động trên con cái, và sẽ là gương soi cho mọi gia đình.
Noi gương Mẹ Monica không chỉ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ mà còn luôn tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương tha thứ của Thiên Chúa, luôn kiên trì cầu khẩn không bao giờ nản lòng nản chí để cho được ơn trợ giúp, cho được ơn hoàn thiện cả nhà mình.
Noi gương Mẹ Anne Thành, người mẹ đơn sơ yếu đuối thể xác, nhưng chân thành mạnh mẻ cộng tác với Giáo Hội, tuyên xưng niềm tin của mình trước mặt thiên hạ, và cũng không quên điều quan trọng là nhắn gửi cho chồng con thông điệp phải sống đẹp lòng Chúa luôn luôn.
Nhân mừng lễ thánh Monica, bổn mạng Hội Bà Mẹ Công giáo, xin sẻ chia đôi điều tản mạn với ước mong mỗi chị, mỗi Mẹ thay đổi mối bận tâm tiền vật chất thành mối bận tâm về sự suy đồi đời sống đức tin trong gia đình, hầu tránh mỗi hiểm họa hỏa ngục là đau khổ lớn nhất đời người.
Câu hỏi thảo luận:
Chồng em, con em không chịu đi xưng tội, rước lễ. Chị giúp em cách nào đi?
Hiểu và sống Mười Điều Răn Thiên Chúa (11)
Lm. Nguyễn Hữu Thy
08:03 27/08/2010
Hiểu và sống Mười Điều Răn Thiên Chúa (11)
Lời Kết
Đúng vậy, các Giới Luật Thiên Chúa nói chung và Mười Điều Răn của Người nói riêng, quả thực là Kim chỉ-nam cần thiết duy nhất, là những lời hướng dẫn đúng đắn và quan trọng nhất mà Thiên Chúa nhân hậu đã dành cho toàn thể con cái loài người, những kẻ đang mò mẫm trên con đường tìm về cứu cánh đời mình, tìm về nguồn ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu và chân thật.
Do đó, dù muốn hay không, con người không còn sự lựa chọn nào khác ngoài sự tin tưởng chấp nhận và tuân giữ Mười Điều Răn Thiên Chúa, nếu như con người thực sự muốn sống có ý nghĩa, muốn sống trong an bình và hạnh phúc ngay ở đời này và đời sau, vâng, nếu con người muốn được cứu rỗi và được hạnh phúc muôn đời.
Vì Mười Điều Răn là những lời hướng dẫn, là những lời chỉ dạy của chính Thiên Chúa toàn năng, của Đấng Tạo Hóa vô biên, của Người Cha vô cùng nhân hậu đối với toàn thể con cái loài người. Thiên Chúa là vị Thần Linh tối cao duy nhất, là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối và là nguồn ơn cứu rỗi sau cùng. Ngoài Thiên Chúa ra không còn có vị thần linh cứu rỗi nào khác, nghĩa là không còn một vị thần linh nào khác có thể cứu rỗi được ta, có thể ban cho ta sự hạnh phúc chân thật và trường cửu (x. Xh 20,1-2; Is 45,5-6.18-219). Ngoài Thiên Chúa không hề có sự cứu rỗi. Vâng, ngoài một mình Thiên Chúa toàn năng ra, tất cả mọi bụt thần khác của lương dân đều do tay người phàm tạo ra, là những thứ hoàn toàn hư vô và bất lực (x. Is 41, 21-29). Các tượng thần ấy chỉ là gỗ đá hay vàng bạc do tay phàm nhân làm nên. Chúng có mắt có miệng mà không nhìn không nói được; chúng có mũi có tai mà không ngửi không nghe được; có hai tay mà không thể sờ mó được; có hai chân mà không bước đi được (x. Tv 115, 4-7).
Vì thế, tất cả những ai u mê tin tưởng chạy theo thờ lạy các thứ thần linh giả tạo đó, là liều mình bước đi trên con đường lầm lạc và hậu quả sau cùng là sẽ chuốc lấy cho mình sự bất hạnh muôn đời.
Nếu chúng ta biết xác tín được sự thật ấy, chúng ta mới nhận chân được rằng tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện cho mình – dù những điều ấy có làm vừa lòng hay có phù hợp với những chờ đợi mong muốn tự nhiên trước mắt của ta hay không – đều tốt cho ta, đều mang lại hạnh phúc và nguồn vui chân thật cho ta. Bởi vì, bất cứ điều gì Thiên Chúa thực hiện cho ta là đều do tình thương vô biên của Người đối với ta mà thôi. Người chỉ muốn cho tất cả chúng ta cũng như từng người trong chúng ta được hạnh phúc và được hạnh phúc một cách trọn vẹn.
Cũng vì thế, những gì Thiên Chúa thấy tốt, hữu ích và mang lại hạnh phúc đích thực cho ta, thì Người thực hiện, chứ Người không bao giờ tham khảo ý kiến của ta trước, xem ta có bằng lòng hay không. Do đó, ta hãy luôn nỗ lực sống theo thánh ý và sự an bài đầy yêu thương của Thiên Chúa, chứ Thiên Chúa không luôn luôn nhất thiết phải thực hiện theo ý muốn của ta.
Vậy, sống ở đời, người khôn ngoan và hạnh phúc nhất là người luôn biết thuận theo ý Trời. „Quân tử úy thiên mệnh“: Người hiền đức quân tử luôn biết tôn trọng mệnh Trời, là thế. Vì họ luôn xác tín được rằng tình yêu thương Thiên Chúa dành cho họ thật là trời biển, thật là vô bờ bến và những gì Người làm cho họ hay để xảy đến cho họ, niềm vui cũng như nỗi buồn, đều chỉ nhằm mưu cầu hạnh phúc chân thật cho họ mà thôi
Và tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại được tỏ bày một cách rõ ràng và cụ thể nhất trong Mười Điều Răn mà Người đã long trọng truyền giao cho thánh tổ phụ Mô-sê xưa kia trên núi thánh Si-nai (núi Hô-rép).
Thật vậy, nội dung của Mười Điều Răn Thiên Chúa – Mến Chúa và yêu người – là tình yêu và sự thật. Vì thế, Mười Điều Răn Thiên Chúa không những nâng đỡ và chỉ lối cho từng người tìm tới được ý nghĩa và hạnh phúc chân thật của đời mình, nhưng còn là phương tiện chân chính duy nhất có thể giúp thăng tiến và tạo nên một xã hội lành mạnh, an bình và tươi sáng thực sự.
Bởi vậy, Mười Điều Răn Thiên Chúa là nền tảng cho mọi luật lệ chân chính của xã hội loài người. Nói cách khác, mọi luật lệ của các tổ chức, của các đoàn thể, của các dân tộc và của toàn xã hội loài người, đều phải đặt nền tảng trên tinh thần Mười Điều Răn Thiên Chúa, nếu chúng thực sự muốn phục vụ các quyền con người, các phúc lợi chung của xã hội.
Điều đó cũng muốn nói rằng khi bất cứ một luật lệ loài người nào không được xuất phát từ tinh thần Mười Điều Răn Thiên Chúa hay không phù hợp với tinh thần Mười Điều Răn Thiên Chúa, thì chắc chắn nó chỉ tạo nên sự bất ổn, sự đổ vỡ và sự bất hạnh cho các cá nhân và cho cả xã hội, chứ không thể mang lại sự an vui, hạnh phúc và những điều tích cực chân chính được. Và đó là ý nghĩa của lời Kinh Thánh dạy: „Phúc cho dân tộc nào có Thiên Chúa làm Chúa mình“ (Tv 33,12), tức dân tộc biết tin thờ Thiên Chúa và tuân giữ Mười Điều Răn của Người.
Nguyện xin Thần Linh Thiên Chúa soi sáng cho mỗi người trong chúng ta nhận chân được những sự thật trên đây, để chúng ta biết yêu mến và tuân giữ nghiêm chỉnh Mười Điều Răn Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, hầu cho tất cả chúng ta đạt tới được cứu cánh đời mình là sự cứu rỗi và cuộc sống hạnh phúc muôn đời trong Nước Thiên Chúa.
Imprimatur
Trier, 19.04.2010
Dr. Georg Holkenbrink
Vic. Gen.
Xuất bản:
Trung Tâm Mục Vụ CGVN
Giáo phận Trier, CHLB Đức
Các bài tham luận tọa đàm: Đề tài 4: Tuy Hòa cho dến mãi hôm nay
Micae Trần Kim Đạt
08:20 27/08/2010
TUY HÒA CHO ĐẾN MÃI HÔM NAY
Vâng lời Thầy con thả lưới (Lc 5,6), câu đáp trả của người ngư phủ dám dẹp đi cái lão luyện, cái kinh nghiệm thường ngày sau một đêm ra khơi thất bại trước người thanh niên chuyên nghề mộc vừa mới giáp mặt biển khơi, chưa hiểu gì nhiều về hướng gió, dòng chảy, luồng cá giữa đại dương bao la: Vâng lời Thầy con thả lưới (Lc 5, 6), Phêrô và các bạn hữu của Ông đã tung chài.
Vâng lời Thầy con thả lưới cũng là vâng lời Thầy họ lên đường rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mt 28,16-20). Mệnh lệnh của Đức Kitô: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới (Lc 5, 4) đã đeo đuổi Hội Thánh gần 15 thế kỷ để cuối cùng các thừa sai, kế tục việc làm của Phêrô, các Ngài đã chèo thuyền ra chỗ nước sâu và cũng là chỗ nước xa: Quê hương Việt Nam.
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam khởi đầu bằng những kiếm tìm đầy lòng quảng đại của các thừa sai, nhất là cha Đắc Lộ, người gieo giống Tin Mừng khôn ngoan và can đảm.
Thật may mắn cho dân tộc này khi cha Đắc Lộ cùng với các bạn mình còn để lại nơi đây một di sản văn hóa quý giá: Chữ quốc ngữ. Với chữ quốc ngữ, cha đã giới thiệu Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa sáng tạo khiến nhiều người trở thành con cái Chúa và rồi đức tin nơi họ khó ai có thể rút lại được.
Sau hai mươi năm gắn bó, cha bị Chúa Nguyễn trục xuất nhưng kịp để lại biết bao tín hữu can trường, biết bao thầy giảng đạo đức luôn trung thành với đức tin được nhận. Hạt giống gieo xuống, đã mọc lên mạnh mẽ và giờ đây dẫu phải ra đi cha đã không quên mang theo mình máu tử đạo của người trẻ can trường Anrê Phú Yên, một thanh niên mà từ khi bị bắt cho đến lúc ra pháp trường vẫn luôn tuyên xưng đức tin, luôn thúc giục mọi người yêu mến Chúa, bình thản đón nhận cái chết vì tình yêu Đức Kitô. Ngài mang về giáo triều Rôma hình ảnh sáng ngời này như một minh chứng đầy thuyết phục để xin Tòa Thánh gửi các Giám mục đến Á Châu để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Tất cả công trình của ngài là đem Chúa đến cho muôn dân.
Lời cầu nguyện của cha Đắc Lộ đã được Chúa nhìn tới. Sắc chỉ Super Cathedram của Đức Giáo Hoàng Alexandre VII, ngày 9 tháng 9 năm 1659 được ban ra để từ đây Giáo Hội hoàn vũ có thêm hai giáo phận và chọn hai vị thừa sai thuộc hội truyền giáo Paris làm đại diện Tông tòa.
Đức Cha Francois Pallu chăm sóc Giáo phận Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm mốc, ngược về phía Bắc. Đức Cha Lambert de la Motte cai quản Giáo phận Đàng Trong, phần đất từ sông Gianh xuôi về phía Nam.
Giáo phận đã có, nhưng Đức cha Francois Pallu không đến được với Đàng Ngoài và Đức Cha Lambert nhận trách nhiệm thăm mục vụ, làm giám quản giúp.
Là Giám mục duy nhất của Giáo Hội Việt Nam, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, cả thêm phần đất Cao Miên. Gần 10 năm sau, năm 1670, cùng với 2 thừa sai, Đức cha đến với Giáo phận Đàng Ngoài qua cảng Phố Hiến, một thương cảng lớn lúc bấy giờ. Đức Cha Lambert đã phong chức linh mục cho 7 thầy, Đức cha chủ tọa Công đồng chung lần đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam, cũng năm này Đức cha lập dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao - Nam Định (1670) và Mến Thánh Giá An Chỉ - Nam Quảng Ngãi (1671).
Không biết có phải vì lòng tốt của quan tuần phủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa, người đem cha Buzomi đang gặp nạn về Qui Nhơn săn sóc năm 1617 (xem Giáo phận Qui Nhơn xưa và nay trang 5) và hình ảnh kiên vững của Anrê Phú Yên vừa mới xảy ra không lâu trước đó ngày 26/7/1644 hay không? đã khiến các Giám mục của giáo phận Đàng Trong từ Đức cha Lambert đến hơn 180 năm sau 1659 – 1844 thường chọn đặt tòa giám mục của mình ở khu vực miền Trung và nơi được nhắc đến như cái nôi của công giáo Đàng Trong: GÒ THỊ, nơi mà vị Giám mục cuối cùng của giáo phận Đàng Trong chọn làm cư sở. Cuối cùng vì sau đó, theo lời thỉnh nguyện của Đức cha Cuenot Thể, Tòa Thánh chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Tây Đàng Trong và Đông Đàng Trong và sau đó nhiều giáo phận khác ra đời. Địa phận Qui Nhơn hôm nay là Giáo phận Đông Đàng Trong xưa kia và cũng là Giáo phận Đàng Trong trước đó (xem Hành Hương Công Giáo Việt Nam của Lm. R. Nguyễn Tự Do Cssr trang 371). Nhắc đến Gò Thị là nhắc đến những kỷ niệm đau thương nhưng anh dũng của chủ chăn cũng như những giáo dân cộng sự, nhắc đến Gò Thị là nhắc đến Thánh Giám mục Étienne Theodore Cuenot THỂ, vị Giám mục truyền giáo, đã chết rũ tù tại Bình Định ngày 14 tháng 11 năm 1861; nhắc đến Gò Thị là nhắc đến người tông đồ giáo dân số một: Trùm cả Anrê Kim Thông, một lòng vì Đạo Chúa, một lòng vì Giáo Hội.
Giáo Hội Việt Nam cảm ơn về những gầy dựng của Đức cha Lambert, của Thánh Giám mục Cuenot Thể dành cho chúng con hôm nay. Các Đức cha vẫn đang có mặt khắp nơi trên quê hương yêu dấu này qua bóng dáng của các nữ tu Mến Thánh Giá, những con người mà nhờ các Đức cha, họ có dịp tỏ bày lòng say mê Thập Giá, họ dược dạy cho biết sống vô danh, biết sống nghèo hèn. Với lòng kiên trì, khiêm hạ và dũng cảm, các nữ tu Mến Thánh Giá đã cùng chung chia sinh mệnh của Giáo Hội Việt Nam, vui, buồn, khó khăn và cả máu đào cho mỗi một niềm ấp ủ “Thập giá Đức Kitô phải tồn tại và phát triển trên vùng đất Giao Chỉ này”. Các Đức cha cũng đang có mặt qua tấm lòng tận tụy của Đức cha Giáo Phận Qui Nhơn hôm nay, vị Giám mục đang xây dựng chương trình tái truyền giáo của Giáo phận Qui Nhơn để kịp kỷ niệm 400 năm đón nhận Tin mừng đến với giáo phận.
Trong phần quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban qua các vị Thừa Sai cùng các chứng nhân đức tin, qua các giám mục, các linh mục, Tuy Hòa đã được lãnh nhận đầy đủ cả vinh quang tử đạo và nước mắt vui mừng.
TUY HÒA TRƯỚC NĂM 1960
Triều Thủy là tên gọi của Giáo xứ Tuy Hòa ngày trước là vùng đất được Thiên Chúa gọi mời đón nhận Tin Mừng Phục sinh khá sớm, hôm nay khó xác định nhóm giáo dân đầu tiên của Triều Thủy có từ năm nào, chỉ biết rằng năm 1641, cha Đắc Lộ đã rửa tội cho Anrê Phú Yên; Năm 1747, Phú Điền, Thạch Thành đã có giáo dân;
Khi đi tìm nguồn gốc của giáo dân Tuy Hòa, chúng tôi phát hiện một nhóm gia đình người lương ở XÓM ĐƯỜNG (Phường 8) có quan hệ bà con với nhóm tín hữu Triều Thủy qua cách xưng hô theo vai vế trong thân tộc nhưng khi truy tận gốc thì lại không có quan hệ huyết tộc nào và được những người lớn tuổi còn sống kể lại rằng: Sở dĩ có mối quan hệ như bà con này vì trong thời kỳ Bình Tây Sát Tả, nhóm gia đình ở Xóm Đường này đã che chở cho nhóm giáo dân Triều Thủy khi bị truy bắt, công ơn cải tử hoàn sinh đã làm họ trở thành bà con dẫu cho đến nay đã qua ba bốn đời. Gia đình người lương này là gia đình ông Từng Năm mà cháu của ông hiện nay là anh Đức, Anh Hạnh (chủ quán Ba Hạnh – Phường 8). Anh Hạnh có con gái theo đạo, làm dâu nhà Võ Tá.
Một nguồn giáo dân khác, đó là nhóm giáo dân đến từ Trà Kê – Cây Gia trong thời Văn Thân (1860-1888), họ cũng được những gia đình lương dân tốt bụng ở Phước Khánh – Hòa Trị che dấu như gia đình ông Dương Hanh (Bốn cá), trong gia đình này có một số trở lại vào thập niên 60, nay còn giữ đạo rất tốt.
Những tìm hiểu trên cũng phù hợp với báo cáo năm 1850 của Thánh Giám mục Tử Đạo Stephanô Thể. Triều Thủy đã có 137 tín hữu và 137 hạt nhân Đức Tin này luôn lấp lánh can trường giữa đông đảo đồng bào của mình, bất chấp những thử thách phía trước để đón nhận những khắc nghiệt của những cơn bắt đạo thời hậu bán thế kỷ 19.
Xét như vậy, từ trước 1850, Tin Mừng đã được loan báo tại Tuy hòa.
Hậu duệ của nhóm tín hữu này hiện nay còn lại một ít gia đình thuộc giáo xứ Tuy Hòa, tập trung chung quanh nhà nguyện các soeurs Phao lô.
Nền nhà thờ Triều Thủy trước thời kỳ Văn Thân được cho là nằm trong khu vực xí nghiệp điện cao thế miền Trung, chi nhánh điện cao thế Phú Yên, phía Tây nghĩa trang giáo xứ Tuy Hòa hiện nay. Đây là một nền đất được đắp cao, nhà thờ bị đốt cháy trong thời Văn Thân và bị san ủi sau biến cố Mậu Thân 1968 (ông Nguyễn Hữu Tề - Giáo khu 1; bà Lê Thị Thông – Giáo khu 2) xác nhận vị trí này.
Mùa gió lạnh làm nứt cả thịt da rồi cũng qua đi để giờ đây mọi người nghiệm ra rằng sức mạnh của Thập Giá là vô cùng, tình yêu Đức Kitô của người thanh niên Anrê Phú Yên trước đó khiến tất cả trở nên mạnh mẽ, không chỉ mạnh mẽ trong chiến đấu theo nghĩa đen nhưng còn mạnh mẽ trong tha thứ để họ bắt tay vào việc thả lưới loan báo Tin Mừng trên nền gạch hoang tàn đổ nát của một thời bị bách hại.
Sau phong trào Văn Thân, từ 1888 đến 1927, gần 40 năm, bước chân của các thừa sai in dấu nhiều nơi thuộc Phú Yên, lập thêm giáo điểm, rửa tội cho nhiều người và càng lúc các linh mục bản địa ngày càng đông. Năm 1927, đánh dấu cha Simon Trần Văn Phiến là linh mục người Việt tiên khởi quản nhiệm giáo xứ Hoa Vông, tiền thân của Tuy Hòa.
Thuyền cùng ngư phủ trên nó luôn đi theo đàn cá. Khi Tuy Hòa trở thành trung tâm tỉnh lỵ, nhiều cơ quan đầu ngành tập trung về đây, cha Simon cho xây dựng nơi đây nhà xứ, nhà nguyện. Ngài tạm rời Hoa Vông và chuyển về Triều Thủy vào năm 1938 nhằm đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của khoảng 120 tín hữu. Nền các cơ sở này hiện nay là nền nhà trẻ Bích Du (nền nhà thờ) và tu viện của dòng Thánh Phaolô Tuy hòa (nền nhà xứ). Đây là nhà thờ Triều Thủy sau thời kỳ Văn Thân. Địa danh Triều Thủy ngày nay (2010) ít người biết đến, giáo dân Tuy Hòa từ năm 1962 gọi đây là nhà thờ cũ và giáo dân Tuy Hòa hiện nay gọi là nhà nguyện dòng thánh Phaolô.Là người cương trực, ngay thẳng, tính tình niềm nở, thương yêu cả anh em lương dân, cánh đồng Đồng Thủy của họ đạo Triều Thủy Tuy Hòa mà trên cả trăm tờ trích lục (giấy chủ quyền đất) đều có tên của cha Simon Trần Văn Phiến đã nuôi sống nhiều gia đình ở Phước Hậu (Hòa Kiến), Xóm Đường (Phường 8).
Ngày 19 tháng 3 năm 1942, lúc 2 giờ sáng, cha hoàn tất ơn gọi linh mục nơi trần thế sau một cơn bạo bệnh để lại nhiều thương tiếc nơi nhiều người cả giáo lẫn lương.
Cha phó của cha Simon từ năm 1940 là cha Antôn Nguyễn Minh Đoan tiếp tục công việc của cha Simon, chuyên chăm mục vụ, ngài có tiếng hát hay, thường xuyên chỉ dạy việc xướng kinh, tập hát, phụ giúp ngài có Dì Ngọt (Ngày trước gọi các nữ tu là Dì). Với số giáo dân của chừng trên 20 gia đình, ngài tuyển chọn, quy tụ và cho ra mắt ca đoàn Triều Thủy, đây là ca đoàn đầu tiên của Tuy Hòa mà hiện nay còn sót lại hai ca viên đều trên 80 tuổi. Ca viên ca đoàn đều là thành viên họ Đồng (Jennes Gens) và họ Ven (Jeunes filles).
Cũng vì bệnh phổi như cha Simon hoành hành, ngài bỏ lại con đường đất quen thuộc đã đưa ngài đi làm mục vụ các họ đạo chung quanh như Hóc Gáo, Phú Cốc, Phú Điền để chuyển sang đường mới – Đường sắt - thứ phương tiện vừa có từ năm 1936 để đi bệnh viện Huế nhiều lần và cuối cùng cùng với đoàn tàu ấy ngài từ biệt Tuy Hòa trong nước mắt của giáo dân năm 1943, ngài chết tại Suối Nổ - Phù Mỹ - Bình định. Thầy Trần Văn Thường (cựu tu sĩ La san), biện Mỹ (Lê Cung) và biện Xứng (Trần Gieo) đại diện giáo dân Tuy Hòa đi dự tang lễ.
Các linh mục tiếp nối công việc của những vị tiền nhiệm trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, thời kỳ đánh dấu một giai đoạn gian nan sau gần 60 năm yên bình (1888-1945) của người công giáo. Đây là thời kỳ của các Cha:
- Matthêu Trịnh Hoà Đại (1946-1948), là cậu ruột của cha Trương Đắc Cần – Sông Cầu, hiện nghỉ hưu ở nhà hưu dưỡng Qui Nhơn.
- Antôn Nguyễn Anh Thuận 1949-1950
- Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1951-1955) (Gốc Mằng Lăng). Các linh mục sống trong giai đoạn này thường không ở một nơi cố định như cha Trịnh Hoà Đại nhiệm sở Triều Thủy nhưng lại ở Hoa Vông hoặc Phú Điền, có lúc các em đến tuổi xưng tội rước lễ lần đầu của Tuy Hòa phải đi Phú Cốc (như Ông Nguyễn Hữu Tề - GK1), cử hành bí tích hôn phối phải đi Mằng Lăng (như Bà Lê thị Thông GK2) ngày lễ trọng phải đến Hoa Châu, đã có thời gian các cha như cha Đại, cha Tư, cha Thìn phải lánh nạn vào Nha Trang qua cửa biển Mỹ Á (nhờ sự giúp đỡ của ông Đội Hiện). Cha Dẫn của Trà Kê bị bắn chết, cha Tôn ở Tịnh Sơn mất tích, tinh thần giáo dân giao động, chủ chăn tạm ẩn mình, đàn chiên chịu cảnh mồ côi. Đây cũng là thời kỳ cùng khổ, dân chúng bị xung công phục vụ chiến tranh, ruộng đồng bị bỏ hoang vì thiếu nước tưới (6/6/1952 Cầu Máng dẫn nước bị vỡ) …Tuy thế, Thiên Chúa vẫn giữ gìn để mạch sống đức tin không vì thế bị cắt đứt. Có thể nói, đa phần các linh mục thuộc các tỉnh Nam – Ngãi - Bình - Phú, không mấy ai đi qua chiến tranh mà không bị trầy xước, hoặc thể xác hoặc tinh thần. Linh mục Tô Đình Sơn không là ngoại lệ, ngài về Tuy Hòa năm 1955, sau hiệp định Geneve, ngài đã về Tuy Hòa bằng đôi chân trần trong những dãy nhà nền đất đầy ắp tiếng ồn bởi những va đập của các học thuyết, của những chủ trương, của những đường lối đưa đến chiến tranh, nhà tù Phú Nhiêu (Bình Định) Phú Châu hay An Ba (Quảng Ngãi).
Những trải nghiệm về cuộc đời linh mục, về thân phận con người, về Tin Mừng, về Giáo Hội, những lo lắng, ưu tư về ngày mai, về tương lai của đàn chiên, ngài đã vận dụng để chọn lựa mức độ ưu tiên trong thực hiện.
Đây là lúc cha Tô Đình Sơn phải đối diện với hai bùng phát số tín hữu mà có lẽ ngài không kịp tiên liệu: một phần của 800.000 tín hữu miền Bắc (theo Flight from Indochina, trang 80-81) di cư vô Nam lưu lại Tuy Hòa và việc gia nhập đạo đông đảo của người dân Thị xã Tuy Hòa cũng như các xã ven kề như Hòa Thắng, Hòa An, Hòa Trị hay An Thọ thuộc Tuy An (Xem “Đã có một người Thầy như thế” của F.X Nguyễn Bính trong Tổng hợp Cảm Nghiệm Đức Tin – Đại Hội Tân Tòng Lần 4 – Giáo xứ Tuy Hòa - năm 2009 trang 29) đã làm cho ngài có những quyết định cụ thể:
Khởi đầu, không phải trại cứu tế, cũng chẳng phải trung tâm bảo trợ xã hội nhưng là nhà LẠC THIỆN (1958) được xây dựng để ở đó mọi người đều tìm thấy niềm vui. Nhà lạc thiện được điều hành bởi các nữ tu dòng thánh Phaolô, ít là trong 3 năm đầu các sơ sống chung cùng nhà với những người cô đơn cơ nhỡ. Vui cho người phục vụ và vui cho người được phục vụ có cái THIỆN nào mà chẳng LẠC.
Năm 1959, có lẽ là để trả ơn Hóc Gáo vì đã cưu mang Triều Thủy trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp mà cao điểm là chiến dịch Át Lăng (1953-1954), cha xây dựng nhà thờ Hóc Gáo. Nhà thờ tồn tại được 6 năm (1959-1965) chiến tranh một lần nữa xóa thành bình địa, chỉ còn lại phần móng vững chắc ăn rễ sâu trong lòng đất, cái rễ hữu hình vững chắc này là hình ảnh cái rễ Đức Tin để Hóc Gáo lớn lên như hiện nay
Hai dãy trường mang tên danh nhân văn hóa Việt Nam, linh mục Đặng Đức Tuấn cũng được ra đời (1958). Giáo dục phải được quan tâm, sự đổ vỡ đã được tiên liệu nếu không tập trung cho giáo dục và phải giáo dục từ nền, ngài hiểu được rằng tương lai Giáo Hội phải được hướng dẫn bởi những con người làm giáo dục ĐÁNG TIN. Các Sư huynh Dòng Thánh Giuse (nay là Dòng Ngôi Lời - Nha Trang) đã được mời cộng tác. Sư huynh hiệu trưởng đầu tiên của Đặng Đức Tuấn là Thầy Irénée Hiệp. Trường Đặng Đức Tuấn dưới sự chăm sóc của các Sư huynh Giuse được tiếng là ngôi trường đã cho ĐỜI những con người tài đức, nhiều học sinh cũ nay đã lớn tuổi, một số có công danh sự nghiệp thường nhắc đến các thầy Giuse một cách hãnh diện. Các Sư huynh Giuse điều hành trường Đặng Đức Tuấn từ năm 1958 đến năm 1969 sau đó chuyển lại cho địa phận và được điều hành bởi các linh mục. Linh mục hiệu trưởng đầu tiên là cha Vũ Văn Tự Chương, sau đó là cha Nguyễn Cấp cho đến 1975.
Đặc biệt, sự có mặt của các Thầy Dòng Giuse không chỉ hiệu quả ở mặt giáo dục nhưng còn giúp củng cố đức tin cho tín hữu Tuy Hòa bị giao động nhiều bởi thời kỳ 9 năm như dạy giáo lý vỡ lòng, xưng tội rước lễ lần đầu (thầy Bá, năm 1961), phụ trách ca đoàn có thầy Rémi Nguyễn Công Sự (1968-1969), cộng tác cùng các cha chăm sóc thiếu nhi từ 1958-1969…
TUY HÒA TỪ NĂM 1960
Điều đáng ưu tiên giờ này mới được thực hiện đối với một linh mục, là ngôi giáo đường mà hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm 50 năm, viên đá móng đầu tiên được đặt xuống vào năm 1960, cùng năm này (24/11/1960) Hàng Giáo phẩm Công Giáo Việt Nam được thành lập bằng sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Hơn 2 tháng sau ngày 6/2/1961 Tuy Hòa trở thành Giáo xứ chính thức (Paroisse), tiếp đó 21/2/1961 làm phép chuông; nhà thờ được khánh thành vào chúa nhật 6/5/1962 (thông tin địa phận Qui nhơn số 20/1961 và số 27/1962).
Cảm ơn cha Simon Trần Văn Phiến, cảm ơn những thuở ruộng màu mỡ của Tuy Hòa, tất cả là để chuẩn bị cho sự ra đời của thành thánh Gia Liêm (bán ruộng xây nhà thờ) và hôm nay chúng ta dừng chân ngắm cửa tiền đường rồi reo lên rằng: Ôi thành thánh vinh quang.
Ngôi giáo đường dài 56m, rộng 18m, tháp cao 43,5m được làm đẹp thêm bởi các anh chị Legio đã có mặt tại Tuy Hòa từ 1959 mà chính cha Tô Đình Sơn làm linh giám. Cũng như sự ra đời của Nữ Đoàn Bác Ái mà cha phó đầu tiên của Tuy Hòa sau 1954 Giuse Nguyễn Thế Nhân (1958-1962) làm tuyên úy. Hai đoàn thể Công giáo Tiến Hành tiên khởi này đã rất nhiệt thành trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Năm 1962, trường Đặng Đức Tuấn xây dựng thêm dãy lầu 3 tầng.
Sự yên bình của thập niên 60 chỉ là phút bình yên ngắn ngủi.
Trên đường về đất hứa, đức tin giáo dân Tuy Hòa tiếp tục trải qua những thử thách như muốn đo lường lòng trung tín qua những biến cố của đất nước (đảo chánh Ngô Đình Diệm năm 1963), những diễn biến đó trở thành dịp sàng lọc cỏ lùng nơi ruộng lúa. Cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc lớn dần, dân chúng lần nữa tập trung về thành thị, số giáo dân từ các giáo xứ khác trong Hạt Phú Yên dồn về Tuy Hòa, cùng với sự có mặt của quân đội nước ngoài làm xáo trộn đời sống kinh tế, xã hội, luân lý….
Tiếp bước trường Đặng Đức Tuấn, cha Tô Đình Sơn cho xây dựng trường Thánh Giuse (năm 1962) dành cho nữ sinh, trường này các nữ tu Phaolô phụ trách, niên khóa đầu tiên 1963 -1964.
Cần nói thêm, các nữ tu Phaolô Đà Nẵng không chỉ giỏi chăm sóc người già lão hay cô nhi nhưng còn là những nhà giáo dục mẫu mực, và cũng từ năm 1965 các sơ còn trở thành những người điều dưỡng, an ủi, giúp đỡ bệnh nhân tại bệnh viện Tuy Hòa bằng cả trái tim nhân ái.
Vì chiến tranh, năm 1965 Bà Michelle (MTG) cho di chuyển Cô nhi viện Mằng Lăng từ huyện Tuy An về Tuy Hòa, xây dựng cơ sở tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê lợi, nay là nhà trẻ Hướng Dương và Phước Viện Mằng Lăng chuyển đến phần đất của giáo xứ nằm ở phía đông nhà thờ, nay là nhà trẻ Khai Sáng của các nữ tu Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
Trong một đêm của mùa mưa năm 1967(?) không chỉ có người phu quét đường dừng chổi nhưng đêm nay còn có giáo dân Tuy Hòa xót xa đứng nghe tiếng đại bác dội về không chỉ thành phố mà còn trên chính mái giáo đường, một nơi được dựng nên để nuôi dưỡng tình yêu, để đẩy lui chia rẽ, hận thù.
Đêm giao thừa năm Mậu Thân 1968 trở thành đêm khó quên của một phần xóm đạo lâu đời của Tuy Hòa, hai giáo dân lớn tuổi (Bà Anna Nguyễn thị Liên và Anna Nguyễn thị Thích) đã nằm lại vĩnh viễn nơi vùng đất họ được rửa tội và lớn lên. Và cũng mùa xuân Mậu Thân này, trường Thánh Giuse, trường Đặng Đức Tuấn, nhà xứ Tuy Hòa từng đêm là một trong những nơi che chắn an toàn sinh mệnh cho dân chúng chung quanh.
Năm 1969, các sơ Phaolô cho xây cất mới nhà nguyện cùng tu viện trên nền nhà vuông (nhà xứ) có từ thời cha Phiến. Nhà nguyện này cũng được các sơ mở cửa đón tiếp giáo dân chung quanh và được coi như nhà thờ họ của giáo xứ.
Thời gian của thập niên 60 cũng là thời gian khai mở và kết thúc Công Đồng Vatican 2 (1962-1965). Những thử nghiệm trong phụng vụ, những thay đổi của lễ nghi, kéo theo nhiều cách nghĩ, cách sống trong đời sống đức tin. Những nếp sống đạo cũ xưa lần hồi thay đổi, nhiều quan niệm mới được hình thành, bàn thờ theo cách xây dựng cũ được thay thế, cùng với các hội đoàn có từ trước như Legio, Nữ đoàn Bác Ái, nhiều đoàn thể cho nhiều lứa tuổi, nhiều giới được thành lập như: Hùng Tâm Dũng Chí dưới thời cha Trần Văn Trường, Liên Minh Thánh Tâm, Hội Con Đức Mẹ thời Cha Phạm Bá Tước, Thanh Thiếu Sinh Công do thầy Valentine Dòng Giuse thành lập và hướng dẫn. Cựu Thanh Thiếu Sinh Công Tuy Hòa luôn nhớ đến thầy trong lời cầu nguyện (Thầy Valentine vừa qua đời ngày 16/07/2010 thọ 70 tuổi).
Cùng làm đẹp cho Giáo xứ Tuy Hòa, cha Micae Nguyễn Tri Phương khởi công san ủi nghĩa trang và xây nhà quản trang năm 1971 (diện tích nghĩa trang 24.222 m2, nhà quản trang 450 m2) trên những đồi cát mấp mô cũng thuộc đất giáo xứ có từ thời cha Phiến. Đang làm giữa chừng, cha Phương về Đồng Tre, cha Nguyễn Hoàng Trí tiếp tục hoàn tất vào năm 1972.
Sau khi Cha Huỳnh Tấn Ngoan ở Qui nhơn qua đời, vâng lời Đức cha, cha Tô Đình Sơn chuyển về Qui Nhơn trong sự luyến tiếc không chỉ của giáo dân mà còn của nhiều nhân sĩ trong tỉnh Phú Yên lúc bấy giờ. Ngài là người khởi đầu của ngày Kim Khánh hôm nay.
Làm gạch nối gữa cha sở Giuse Tô Đình Sơn và cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn là cha phó Gioakim Nguyễn Hoàng Trí.
Về nhận giáo xứ Tuy Hòa năm 1973 thay cha Tô Đình Sơn từ giáo xứ Gò Thị, quê hương Thánh Anrê Kim Thông, Chúa muốn dành cho cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn vai trò bắt cầu giữa hai thể chế chính trị, một vị trí đòi hỏi lòng can đảm và sự khôn ngoan. Đúng vậy, cha đã nổ lực chèo chống bằng tuổi già từng trải để duy trì sự ổn định đời sống đức tin qua cách sống giản đơn, khó nghèo phù hợp khung cảnh của những ngày vào hạ 1975.
TUY HÒA TỪ NĂM 1975
Mùa chay năm 1975, để ghi nhớ năm thánh Canh Tân và Hòa Giải, bằng sáng kiến và lòng yêu mến, linh mục Micae Phạm Bá Tước cùng với các quân nhân công giáo đã xây dựng Thánh Giá và tượng đài Đức Mẹ tại đồi Hòa Bình. Một thánh lễ đồng tế gồm các linh mục Micae Phạm Bá Tước, linh mục Phêrô Nguyễn Cấp, linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Trí được cử hành vào sáng thứ bảy sau Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, nhằm vào ngày 15 tháng 3 năm 1975 để tạ ơn Chúa và dâng kính Mẹ Maria (chưa thánh hiến Thánh Giá và tượng Đức Mẹ). Khoảng vài ba ngày sau, nhân chuyến viếng thăm mục vụ tại Phú Tân, Tuy An, Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các đã về Tuy Hòa để thăm cũng như thánh hiến Thánh Giá và tượng đài với cùng vài trăm giáo dân tham dự.
Tuần thánh 1975 của giáo xứ Tuy Hòa là tuần âu lo, tuần lễ đầy phập phòng sợ hãi. Từng đoàn người nối dài đến Tuy Hòa qua đường 7 kinh hoàng từ Tây Nguyên đổ về. Nhiều gia đình li tán, con cái lạc mất cha mẹ. Hình ảnh người mẹ mất con này đang mở lòng che chở những đứa con mất mẹ kia mà nhớ đến cảnh ngậm ngùi của Mẹ Maria dưới chân thập giá đón lấy Thánh Gioan làm con của mình và cũng hiểu ra rằng Mẹ cần có con và con cần Mẹ biết là chừng nào! - Phải có sức chịu đựng siêu phàm, trái tim con người mới có thể vượt qua cơn co thắt dữ dội bởi chiến tranh đưa tới - Đường 7 nối Tây Nguyên – Tuy Hòa cũng như con đường di tản của tín hữu Tuy Hòa khỏi vùng chiến sự năm 1975 đúng là đường thương khó. Phục sinh cuộc đời sao xa vời vợi! Tại Tuy Hòa, lễ Phục sinh 1975 được cử hành cho số ít giáo dân Bình Định, phần lớn giáo dân Tuy Hòa dự lễ Phục sinh tại Nha Trang, Cam Ranh hoặc xa hơn.
Cha Martinô Nguyễn trọng Huấn và Cha phó Nguyễn Hoàng Trí đã lánh nạn trước 30 tháng 3 năm 1975 vài ngày. Các ngài về lại Tuy Hòa sau 30/4/1975. Cha phó Nguyễn Hoàng Trí lưu luyến thêm với Tuy Hòa cho đến lễ Thánh Tâm năm 1975, sau đó rời Phú Yên về Sông Cạn –Bình Định. Có mặt Tại Tuy Hòa thời điểm 30 tháng 3 năm 1975 chỉ còn linh mục Phêrô Nguyễn Cấp, sau đó vài ngày có thêm một linh mục thừa sai người Pháp, ba nữ tu Phaolô (chị Nhi, chị Xuân, chị Tam) vừa chạy loạn từ Kontum, Phú Bổn hay Pleiku không rõ và một vài chủng sinh Kontum(?).
Những ngày liền kề sau 30 tháng 3 năm 1975, tín hữu Tuy Hòa dường như sống âm thầm hơn, hồi chuông nhà thờ ngắn hơn, lời kinh nhỏ hơn, chuông báo tử không còn, chuông truyền tin giờ ngọ im tiếng.
Từ sau 30 tháng 3 năm 1975 tất cả sinh hoạt của các đoàn thể công giáo của giáo xứ Tuy Hòa đều ngưng hoạt động, một hình thức sinh hoạt mới ra đời: Giờ nhóm thanh niên sau thánh lễ sáng Chúa nhật và cố gắng duy trì ca đoàn.
Nhà thờ Đồng Tiến bị tịch thu. Giáo dân Đồng Tiến tứ tản, một số nhập về Giáo xứ Tuy Hòa.
Các em cô nhi và người khuyết tật Mằng Lăng được bà Sophia và chị Theophine, Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đưa về lại nhà cũ Mằng Lăng, Tuy An năm 1976; các cô nhi và người già của nhà Lạc Thiện được các sơ Phaolô phân tán đi Hoa Châu hoặc Ba Tuy (Bình Tuy) đến 22/10/1977, 30 em cô nhi từ 3 đến 13 tuổi mà các sơ tự túc nuôi dưỡng bị buộc giao nhà nước quản lý. Cơ sở vật chất đã giao nhà nước từ sau 1975.
Hai cơ sở giáo dục công giáo: trường Đặng Đức Tuấn và trường Thánh Giuse tiếp tục quản lý học sinh của mình thêm một vài tháng rồi chuyển giao cả cơ sở cho nhà nước (chuyển giao có điều kiện vào ngày 7/10/1975). Một vài nữ tu Phaolô (sơ Thọ, sơ Hòa, sơ Loan, sơ Chiến..) tiếp tục tham gia giáo dục với tư cách là cô giáo từ 1975-1977, sau đó trở về với đời sống cộng đoàn.
Số giáo dân thưa dần vì họ lần hồi về lại giáo xứ cũ cũng như đi kinh tế mới (từ tháng 5/1976) theo chủ trương của nhà nước.
Những đổi thay của môi trường xã hội sau 30/3/1975 đã khiến phần lớn người dân tìm cách thích ứng để tồn tại, mỗi người tự tìm cách duy trì sự sống, ít ai nghĩ đến chuyện kinh doanh, làm giàu. Đời sống đức tin cũng thế, không ai bảo ai, tất cả đều tự kiếm cho mình phương cách tốt nhất để duy trì đức tin. Giáo xứ chưa kịp đưa ra một hướng dẫn nào ngoại trừ việc duy trì cách kiên trì thánh lễ và giờ kinh chiều mỗi ngày dẫu có những lúc trong lòng nhà thờ rộng lớn này chỉ còn vỏn vẹn gia đình ông bà từ già và đứa cháu nhỏ.
Sóng gió rồi cũng qua đi, thánh lễ có số giáo dân tham dự đều đặn hơn, những sáng kiến đóng góp để củng cố đức tin được đề nghị nhiều hơn, giáo dân tỏ ra mạnh mẽ hơn nhất là từ các trưởng Hùng Dũng và Thiếu Sinh Công là lớp trẻ được đào tạo kỹ càng từ trước 1975. Họ trở thành Giáo lý viên, ca viên ca đoàn.
Sau 30 tháng 3 năm 1975 một thời gian ngắn, việc dạy giáo lý do một nhóm anh em nhiệt thành đảm nhận đến năm 1977, các lớp giáo lý thiếu nhi, xưng tội rước lễ lần đầu, hôn nhân…đi dần vào ổn định nhờ sự giúp đỡ của các sơ Phaolô. (sơ Chiến, sơ Loan, sơ Marie Hòa)
Để tạo không gian linh thánh cho giáo đường khi nhà nước chuẩn bị xây dựng nhà hát nhân dân, đầu tháng 12 năm 1980 Cha Martinô cho xây bức tường ngăn cách với nhà hát vào thời điểm kinh tế khó khăn, gạch phải mua từ Hòa Thịnh xa xôi, cement phải đổi bằng thóc lúa.
Đầu tháng 5/1986, cha Nguyễn Trọng Huấn ngã bệnh, khoảng một tuần sau, ngài được chuyển về bệnh viện Qui Nhơn. Nằm tại đây hơn 10 ngày, bệnh không thuyên giảm, ngài về nhà hưu Tòa Giám Mục Qui Nhơn, tại đây, ngài được Đức cha và các cha gợi ý: nếu muốn ngài có thể ở lại nhà hưu dưỡng. Ngài cảm ơn và xin được về nằm giữa giáo dân Tuy Hòa. Trên chiếc Camionnette với 2 sơ Phaolô (Bà Lucie, sơ Loan), thầy Thường, thầy Lê Văn Long và vài thân nhân của cha, cha được đưa về Tuy Hòa, ghé Sông Cầu, vẫn nằm trên xe, cha già Cần ra xe chào thăm và động viên, sau đó về nhà xứ Tuy Hòa. Ngài không về phòng cũ ở tầng hai nhưng nằm tầng trệt (văn phòng giáo xứ hiện nay) cho đến trưa ngày 30 tháng 5 năm 1986, nhằm ngày thứ sáu, ngài nhẹ nhàng ra đi. Đám tang được tổ chức long trọng. Chủ tế thánh lễ là Đức Giám Mục Giáo Phận cùng nhiều linh mục đồng tế vào sáng thứ hai sau đó. Ngài được an táng giữa giáo dân Tuy Hòa tại nghĩa trang giáo xứ.
Tuy Hòa không cha sở gần 3 tháng (cha Trần Hòa – Hoa Châu Phú Lâm, cha Nguyễn Cấp – Đông Mỹ đến giúp mục vụ). Đến tháng 8/1986 cha sở Mằng Lăng Phanxicô Xavie Nguyễn Xuân Văn về nhận xứ, đi với ngài có hai Thầy và hai nữ tu Mến Thánh Giá theo từ Mằng Lăng (thầy Bản, thầy Đệ, chị Jérémie Nguyễn Thị Tươi và chị Consolata Trần thị Bích Ngọc). Ở với nhau chẳng được bao lâu, thầy Đệ về lại Mằng Lăng vì xong việc, thầy Bản và hai nữ tu lưu lại thêm được hơn một tháng, sau đó bị trục xuất về lại Mằng Lăng. Thầy Bản vì có gia đình tại Tuy Hòa, hơn nữa cũng muốn ở lại giúp cha sở mới, thầy tạm lui về nhà ban đêm nhưng tình trạng này kéo dài chẳng được bao lâu, cuối cùng thầy phải về lại Mằng Lăng, mãi đến năm bảy tháng sau (1987), thầy mới được chính quyền cho phép ở lại Tuy Hòa.
Khởi đầu của cha Nguyễn Xuân Văn tại Tuy Hòa như thế là chẳng hanh thông, không suôn sẻ, có cảm giác bị cô lập, cách ly, nhưng với một linh mục đôn hậu, lạc quan, thêm chút hồn thơ, những nghịch cảnh lại trở nên thú vị. Ngài gọi một số em ( như em Trương Minh Thái, em Trương Công Dân, Võ Tá Hoàng, …) tối tối về nhà xứ với ngài để phòng khi trái gió trở trời và nếu Chúa muốn qua các dịp gặp gỡ này, hy vọng các em dám:
Vội vàng cuốn gói theo Thầy
Bên đường dừng lại bóng cây chuyện trò
(SĐTTcâu 695-696)
Với cách này, ngài đã nâng đỡ thầy Bản là thầy xứ cũng như giới thiệu cho các em con đường mới:
Bỏ nghề lưới cá học khoa lưới người (SĐTT 1196)
Và đúng như vậy, những em ở gần ngài, ngài không để cho hư mất. Trương Công Dân trở thành bác sỹ, Trương Minh Thái, Võ Tá Hoàng trở nên linh mục…
Cũng trong năm này 12/1986, sơ Marie du Christ Chiến (dòng Phaolô) được cha sở mời giúp quản lý nhà xứ, ngoài các giờ kinh trưa, giờ nghỉ đêm tại cộng đoàn, thời gian còn lại dành cho nhà xứ cho đến 2002.
Nhà xứ Tuy Hòa bắt đầu nhộn nhịp, các lớp giáo lý dự tòng, hôn nhân, sinh hoạt giới trẻ sinh động. Hội đồng giáo xứ đi vào nề nếp quy củ, nhìn chung bắt đầu khởi sắc.
Bàn thờ cũ được thay thế bằng đá. Hệ thống lam gió cement phía sau cung thánh thay cho khung sắt bị rỉ sét có từ thời mới xây dựng. Cuối năm 1991 khởi công xây dựng hang đá Đức Mẹ, chỉnh trang khu tượng đài Thánh Tâm, lập nghĩa đường (Nhà An Bình) và truy tập về đây hài cốt của Cha Chatelet, một linh mục thừa sai bị Văn Thân giết chết tại nhà thờ Cây Gia ngày 26 tháng 8 năm 1885, cha Trần Huấn chết tại Sông Cầu cùng nhiều tín hữu khác. Năm 1997 nghĩa đường được tu sửa lại như hiện nay.
Cùng giai đoạn này, cộng đoàn Mến Thánh Giá Tuy Hòa có mặt trở lại qua các giờ giáo lý tân tòng, coi ca đoàn thiếu nhi (9/1996) - Sơ phụ trách cộng đoàn lúc đó là sơ Mad.Philomène Nguyễn Thị Phi. Chỉ sau 14 năm (1996-2010) có mặt trở lại, cộng đoàn Mến Thánh Giá Tuy Hòa khởi sắc cách lạ lùng không chỉ về cơ sở vật chất mà còn cả những dấn thân tích cực trong mọi sinh hoạt của giáo xứ như trông coi phòng thánh (từ 2002), đem Mình Thánh Chúa, linh hướng Legio, giáo lý thiếu nhi...
Một khởi đầu đầy khích lệ là sự trở lại môi trường giáo dục của giới công giáo trong thập niên 90:
Mùa hè 1990, nhà trẻ Bích Du của dòng Phaolô khai sinh.
Tháng 1/1997, nhà trẻ Khai Sáng của dòng Mến Thánh Giá ra đời.
Cũng cần nói thêm hai nhà trẻ tư thục này càng lúc càng phát triển, tạo được lòng tin trong các bậc phụ huynh lương giáo.
Một sở thích dễ nhìn thấy nơi Cha Nguyễn Xuân Văn là hòn non bộ, từ phòng làm việc, khu Thánh Tâm, hang đá Đức Mẹ đều là những hòn non bộ lớn nhỏ khác nhau. Có phải vì quen nhìn thấy sự vĩ đại của núi non, nét nhẹ nhàng của mặt nước, sự cô tịch của núi rừng, nét lãng mạn của thiên nhiên để cha dám nghĩ đến việc thực hiện những điều ít ai nghĩ đến, một trong những sự kiện lớn của Tuy Hòa lúc đó là: Tổ chức truyền chức linh mục cho thầy Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản (9/1993). Đây là lễ truyền chức đầu tiên từ khi có Triều Thủy, ít là từ năm 1850, đây cũng là lần đầu tiên nhiều giáo dân Tuy Hòa tham dự bí tích thứ Sáu, bí tích Truyền Chức Thánh. Qua thánh lễ này, cha đã làm sống dậy khát vọng tận hiến cho Nước Trời nơi nhiều bậc cha mẹ cũng như các bạn trẻ. Đây cũng là dịp cha giới thiệu Hội Thánh cho anh em lương dân Tuy Hòa. (Thánh lễ tại khu vực hang đá Đức Mẹ, có nhiều anh em lương dân và các tôn giáo bạn tham dự).
Không chỉ dừng lại nơi đàn chiên thành phố Tuy Hòa, cha Nguyễn Xuân Văn luôn canh cánh bên lòng nhóm giáo dân lẻ loi tận vùng quê xa xôi HÓC GÁO. Ngài khuyến khích các nhóm thiện nguyện như giáo lý viên, Legio, thanh niên…về sinh hoạt cùng Hóc Gáo. Ngài cắt đặt thầy sở, cha phó về với Hóc Gáo, và cuối cùng, cùng với nhóm tín hữu này ngài khôi phục lại ngôi thánh đường năm 1995 bị tàn phá bởi chiến tranh để hôm nay Hóc Gáo trưởng thành, vươn mình lớn lên tách khỏi Tuy Hòa trở thành giáo xứ ngày 27 tháng 5 năm 2009.
Với cha FX Nguyễn Xuân Văn, gần như không gia đình nào trong giáo xứ ngài không ghé qua. Có thể nói ngài hiểu rất rõ đời sống tinh thần, vật chất của cả giáo xứ để cung cấp kịp thời các nhu cầu của họ.
Nhanh chóng phát hành SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG (năm 1998) với 9764 câu thơ lục bát độc đáo như của ăn tinh thần quý giá; lo lắng hoàn thành nhà sinh hoạt giáo lý hai tầng, 12 phòng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi lời Chúa; giáo dục lòng quảng đại, biết quan tâm đến người cùng khổ cho giới trẻ bằng cách khuyến khích họ tạo quỹ bác ái mà hiệu quả của nó đến nay vẫn còn. Có thể nói ngài đã vắt ép tất cả tài lực Chúa ban cho để tưới bón, chăm sóc, gìn giữ ĐẠO CHÚA tại Tuy Hòa trước lúc đi xa vào 5 giờ sáng, giờ khởi đầu cho Thánh lễ trên trời ngày 10 tháng 1 năm 2002.
Giáo xứ vắng ngài nhưng chẳng mồ côi vì ngài kịp để lại nơi đây cha phó Antôn Nguyễn Huy Điệp, một linh mục dễ gần và rất đơn sơ. Ngài về Đồng Tre ngày 13 tháng 4 năm 2002.
Hơn 3 tháng sau, ngày 14 tháng 4 năm 2002 như thấu hiểu được vị trí trung tâm của Tuy Hòa đối với Hạt Phú Yên, Giáo phận đã gởi đến cho Tuy Hòa một chủ chăn mới: Linh Mục Giuse Trương Đình Hiền. Đến Tuy Hòa cùng ngài hôm đó có giáo dân Đồng Tre, giáo dân hôm qua của ngài, Cha Trương Đình Tu là bào huynh cùng với một ít giáo dân Trường Cửu. Tuy Hòa đón tiếp cha sở mới với tâm tình của câu lời Chúa: “Mời Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”
Tại nhà xứ, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn đã đợi sẵn, ngài giới thiệu cha sở mới cho giáo xứ Tuy Hòa như Thánh Phêrô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân đang cư ngụ tại Giêrusalem: “Đức Giêsu Nazareth là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe.” Trích (Cv 2, 14. 22.33a)
Lễ nhận nhiệm sở mới đơn giản nhưng rất thánh thiện…
Chưa kịp làm quen với môi trường mới, cha liền bắt tay vào việc lớn: Cùng Hội Đồng Giáo Xứ tổ chức lễ truyền chức linh mục cho các thầy thuộc Hạt Phú Yên, trong đó có Thầy Nguyễn Xuân Hòa là người con của giáo xứ.
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng (Tv 89, 2)
9 giờ sáng ngày 25/4/2002, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn – giáo phận Qui Nhơn chủ sự thánh lễ phong chức cho 5 phó tế:
- Tôma Nguyễn Công Binh
- Anrê Đoàn Văn Điểm
- Phêrô Nguyễn Xuân Hòa (thuộc Gx. Tuy Hòa)
- Augustinô Nguyễn Văn Phú
- Phanxicô Assisi Phạm Đình Triều
Cùng đồng tế trong thánh lễ có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa – giáo phận Nha Trang – Đức cha phó Phêrô Nguyễn Văn Nho – Giám đốc Đại Chủng Viện Sao Biển Nha trang với 110 linh mục trong và ngoài giáo phận.
Tổ chức lễ bổn mạng Hội Đồng Giáo xứ cho cả Hạt, lễ Anrê Kim Thông 15/7/2002
Tổ chức tọa đàm thân thế, sự nghiệp nhân ngày giáp năm qua đời của linh mục thi sĩ Nguyễn Xuân Văn (10/1/2002 – 10/1/2003) với sự góp mặt của nhiều người, nhiều nhóm như linh mục trưởng ban thánh nhạc giáo phận, nhà thơ Lê Đình Bảng, nhóm ngâm thơ nhà văn hóa Tỉnh Phú Yên…
Tổ chức ngày ơn gọi (Lễ Chúa Chiên Lành 2003), hôm nay cũng là ngày thành lập Hội Cựu Chủng Sinh - Tu sĩ Hạt Phú Yên.
Tổ chức lễ phong chức cho một người con nữa của giáo xứ: Phó Tế Giuse Võ Tá Hoàng ngày 10/7/2003. Từ một người luôn nhiệt thành với công việc nhà Chúa mà Thiên Chúa đã chọn, đã nâng thầy lên hàng vinh phúc. Thánh lễ truyền chức do Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn chủ sự cùng với hơn 60 linh mục trong và ngoài giáo phận, khoảng trên 2000 giáo dân trong giáo hạt tham dự, cùng hiệp thông trong thánh lễ truyền chức với thầy. Thánh lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm và thánh thiện.
Quy tụ hơn 600 bạn trẻ từ các giáo xứ nhân ngày kỷ niệm 470 Tin Mừng đến Việt Nam (1533-2003) dành cho người trẻ vào lễ lá 18/4/2004
Tổ chức ngày năm thánh thiếu nhi cho toàn giáo hạt (6/6/2004)
Tổ chức lễ phát tang vị Giáo Hoàng kiệt xuất khi Ngài qua đời ngày 2 tháng 4 năm 2005 trên sân tiền đường đã nói lên tinh thần hiệp thông của Hội Thánh, hiệp thông với Chúa, hiệp thông với nhau. Nhìn từng chức sắc Phật Giáo, Cao Đài, Tin Lành, các linh mục, tu sĩ, giáo dân cùng thành kính niệm hương, chúng ta mới cảm nhận được hết tính hiệp nhất, cùng tham gia, tinh thần đại kết trước những biến cố lớn không chỉ của Giáo Hội Công Giáo mà còn của cả thế giới này.
Về Tuy Hòa hơn 3 năm, ngày 6/6/2005, cha khởi công xây dựng Trung Tâm Mục Vụ Tổng Hợp Anrê Phú Yên và chỉ 8 tháng sau (16/2/2006), một cuộc hội ngộ đông đảo của nhiều linh mục, nhiều tu sĩ nam nữ là con, là chủ chăn, là người phục vụ giáo xứ từ xa xưa để cùng dâng lên Chúa lời tạ ơn về công trình vừa mới hoàn tất và cũng là để ghi nhớ về sự kiện 45 năm Tuy Hòa trở thành giáo xứ chính thức (06/2/1961-16/2/2006). Cuộc hội ngộ này không chỉ là tay bắt mặt mừng với nhau mà hơn thế nữa để Tuy Hòa được nghe thấy Đức Giám Mục Giáo Phận Phêrô Nguyễn Soạn chúc lành và tỏ bày sự vui mừng trước những nổ lực vươn lên của cha sở cùng giáo dân Tuy Hòa mà Ngài hằng yêu mến và tin tưởng. Qua dịp lễ này, Tuy Hòa được dịp ra mắt trong Nam ngoài Bắc cách rộng rãi và cũng xem đây như chuẩn bị xa của ngày mừng kim khánh 50 năm.
Không biết có phải Tuy Hòa là mảnh đất tốt để cha cày xới không biết mệt mỏi?. Cha đã tổ chức nhiều buổi họp mặt, cử hành nhiều thánh lễ, tất cả chỉ hướng đến mục đích: Làm sao cho thật nhiều người biết và yêu mến Chúa, như:
Đại hội tân tòng cấp giáo xứ, lúc cấp giáo Hạt.
Lập giải văn thơ Nguyễn Xuân Văn.
Ngày sinh viên, học sinh.
Ngày nhà giáo Công giáo
Ngày truyền thông – văn hóa
Ngày thiếu nhi.
Ngày giới trẻ
Ngày giáo lý viên
Ngày ca đoàn
Ngày các bà mẹ…
Tất cả những ngày này, đến hẹn lại lên, trở thành ngày truyền thống, mỗi ngày truyền thống là mỗi dịp rộn ràng, tất bật lo toan chuẩn bị. Cha không để cho bất cứ thành phần dân Chúa nào rơi rớt bên ngoài Hội Thánh, tất cả đều phải lên đường vì phần rỗi của chính họ cũng như con cháu họ Sinh hoạt sống đạo ngày càng sống động hơn khi giáo xứ cùng với các sơ dòng Phaolô tạ ơn 50 năm đặt chân đến Tuy Hòa trong vai trò “Ô-sin” của Hội Thánh, miệt mài làm sạch đẹp giáo xứ Tuy Hòa.
Từ những sinh hoạt có chỉ đạo, có hướng dẫn đã khiến người tín hữu thay đổi dần thái độ thụ động trong đời sống đức tin để hôm nay họ tự lãnh trách nhiệm chỉnh trang nhiều công trình của giáo xứ như: tu sửa lại Đồi Hòa Bình, tự nguyện chăm sóc vườn hoa giáo đường, hăng say tìm Từ những sinh hoạt có chỉ đạo, có hướng dẫn đã khiến người tín hữu thay đổi dần thái độ thụ động trong đời sống Đức Tin để hôm nay họ tự lãnh trách nhiệm chỉnh trang nhiều công trình của giáo xứ như: Tu sửa lại Đồi Hòa Bình, tự nguyện chăm sóc vườn hoa giáo đường, hăng say tìm kiếm những chiên ngoài đàn…
Thiên Chúa luôn hoàn tất công trình của Ngài, cách này cách khác, Ngài luôn tạo điều kiện để con người có thể gặp gỡ được Ngài qua Bí Tích, qua Thánh Lễ, qua thăm viếng… Năm 2008 Thiên Chúa đã kịp gởi đến Tuy Hòa những trợ tá đắc lực để cùng Cha sở phát triển Giáo xứ. Cảm ơn các linh mục, đã rộng lòng tin tưởng Tuy Hòa để giúp mục vụ nơi đây.
Tượng đài Thánh Giuse, bổn mạng nhà thờ cũng là bổn mạng giáo xứ được trùng tu chỉnh sửa (10/12/2008) để giáo dân tỏ bày lòng biết ơn về biết bao phúc lành Chúa ban trên giáo xứ qua lời cầu bầu của Thánh Giuse. Và hơn sáu tháng sau, ngày 29/6/2009, ngày đại lễ kính hai thánh Phêrô, Phaolô chuông đồng hồ sau gần 50 năm chờ đợi cất tiếng báo hiệu giờ mừng ngày Kim
Khánh gần kề và từ nay không chỉ mừng kim khánh mà còn báo tin vui mỗi ngày về những buổi tiệc Tạ Ơn mà chính Đức Kitô vừa là chủ tế vừa là của lễ tiến dâng.
Vì lợi ích mục vụ thiết thực cho người giáo dân và cho công cuộc truyền giáo của giáo phận, cũng là đánh dấu sự trưởng thành trong đức tin của giáo họ Hóc Gáo (Hóc Gáo nguyên là một giáo họ của giáo xứ Tuy Hoà) Đức cha Phê rô Nguyễn Soạn đã quyết định nâng lên thành giáo xứ và cha sở tiên khởi là Augustino Nguyễn Văn Phú. Cùng thời điểm này (27/5/2009) giáo xứ Tuy Hòa chia tay cha Phêrô. Nguyễn Xuân Hòa nguyên là phó xứ (2002-2008) lên đường với sứ mạng mới làm cha sở tiên khởi của giáo họ Gò Duối cũng vừa được nâng lên thành giáo xứ.
Hồng ân Ngài mãi tuôn đổ, tuôn đổ cho đến hôm nay, người con linh mục của giáo xứ Tuy Hòa được cất nhắc lên Giám mục của giáo phận Ban Mê Thuột – Vinh sơn Nguyễn Văn Bản (12-5-2009), niềm vui tạ ơn bật trào qua việc chuẩn bị cho hai ngày đón tiếp tân Giám mục (3 và 4/6/2009) về lại lòng mẹ giáo xứ. Một chương trình văn nghệ đặc sắc, một thánh lễ tạ ơn long trọng, một bữa tiệc vui vẻ mang tình gia đình….
Cho dù ở phương trời xa xôi nào thì ngài vẫn là đứa con của giáo xứ, là người anh của thiếu nhi, bạn của giới trẻ, con của những người già và trái tim của ngài vẫn luôn hướng về giáo xứ Tuy Hòa và giáo xứ vẫn yêu mến ngài mãi mãi.
Niềm vui nối tiếp niềm vui, vừa mới mừng đưa tiễn đứa con trẻ trung đi làm giám mục, nay lại mừng dâng hiến đứa con luống tuổi lên bàn thánh Chúa. Chiều 13.8.2009 giáo xứ Tuy Hòa cũng như bà con thân tộc dâng thánh lễ tạ ơn đón mừng tân linh mục Gioanbaotixita Võ Tá Chân, người vừa được Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn phong chức linh mục trước đó một ngày tại Qui Nhơn.
Nhà thờ Tuy Hòa trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những trận pháo kích, những cơn bão khủng khiếp của thế kỷ, những hao mòn bởi năm tháng… nhưng vẫn kiên cường, vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn của tuổi đời xấp xỉ 50… Nếu linh mục Giuse Tô Đình Sơn là người khởi đầu cho cuộc chạy tiếp sức thì cha Giuse Trương Đình Hiền là vận động viên cuối cùng để đánh giá được thua trong chặng đường 50 của Tuy Hòa. Hiểu được như thế, cha động viên toàn giáo xứ vào cuộc để thực hiện cuộc bức phá ngoạn mục để hôm nay chúng ta nhìn thấy một cung thánh cao thoáng rộng rãi với kiến trúc hoàn toàn mới, được tỏa sáng bởi những chùm đèn gỗ được chạm trỗ rất tinh vi độc đáo. Bên dưới 4 dãy ghế ngồi xếp ngay ngắn cùng với những bộ cửa đi cao lớn làm từ gỗ hương chắc chắn bóng loáng. Khuôn viên của nhà thờ được thay thế bởi lớp bê tông nhựa còn tỏa mùi hắc ín. Nhà thờ Tuy Hòa đang dần lột bỏ lớp áo già nua để lấy lại tuổi xuân tươi trẻ.
Dưới bầu trời trong xanh, ngôi thánh đường nổi bật lớp ngói đỏ tươi, tháp chuông được mặc chiếc áo mới màu vàng nhẹ đứng giữa hàng cây xanh tỏa bóng.
Gần 4 tháng trùng tu. Ngày 22/8/2009, một thánh lễ sốt sắng để tạ ơn Chúa vì mọi việc đều tốt đẹp, tạ ơn Chúa về những tấm lòng quảng đại đã dâng hiến công sức và của cải và nhất là tạ ơn Chúa vì cả giáo xứ luôn hiệp nhất.
Đầu năm 2010, Giáo phận Qui Nhơn nói chung và giáo xứ Tuy Hòa nói riêng đón nhận một vị mục tử mới đó là Giám mục phó Matthêu Nguyễn Văn Khôi.
Đây là Giám mục thứ 6 nhận nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên Tuy Hòa từ 1960:
- Đức cha Phê rô Maria Phạm Ngọc Chi (1957 – 1963)
- Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn (1963 – 1974)
- Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các (1974 – 1999)
- Đức cha Giuse Phan Văn Hoa (1976 – 1987)
- Đức cha Phê rô Nguyễn Soạn (1999 ….nay)
Riêng Đức cha Phan Văn Hoa, dẫu làm giám mục 11 năm nhưng chưa có dịp về Tuy Hòa.
Những con người đi cùng năm tháng
50 năm hay xa hơn nữa trong quá khứ, từ 137 giáo dân theo như báo cáo năm 1850 hơn 80 năm sau 1938, Triều Thủy còn lại 120 giáo dân (Qui Nhơn xưa và nay, trang 403) 80 năm mất đi 17 người và từ 1938 đến nay 2010, trên 70 năm, số giáo dân hiện nay trên 4000. Những con số vừa rất già và cũng vừa rất lạ để Tuy Hòa ngẫm nghĩ, trên 160 năm kể từ 1950, đây là lần nhìn lại đầu tiên để chúng ta hôm nay thấy được hành trình đức tin là hành trình máu và nước mắt nhưng không là hành trình đi vào ngõ cụt. Có những lúc tưởng chừng bế tắc, 80 năm loan báo Tin Mừng bị mất đi 17 người hay đúng hơn Tin Mừng bị bách hại nhưng Thiên Chúa, nói theo cách nói của Đức Giám mục Nguyễn Văn Bản, Thiên Chúa có cái lý của Ngài để rồi hơn 70 năm sau tăng gấp 30 lần. Thiên Chúa luôn làm ta bất ngờ và trong công trình của Ngài, Ngài đã sử dụng con người như những công cụ cũng thật bất ngờ để thực hiện việc thả lưới của Ngài, chúng ta gọi đó là những con người đi cùng năm tháng.
Thầy Toàn, người Quảng Nam, theo giúp cha Phiến mà giáo dân Triều Thủy hay gọi là thầy già – mộ phần hiện ở nghĩa trang Hoa Vông.
Ông Câu Nhất Trần Tu ( Ông Xã Dư)
Ông Biện Tán
Ông Biện Bồng ( Ông Thầy Kiển )
Ông Biện Mỹ
Ông Biện Xứng…
Các Thầy dạy Giáo lý như thầy Gần, thầy Phái, thầy Tiền, thầy Đạo, thầy Nhì (Lê Xuân Hương)… Những vị này có lý lịch trích ngang đâu có khác các tông đồ thuở trước. Họ là những người cộng tác với các cha từ thời cha Phiến đến thời kỳ đầu của cha Tô Đình Sơn, chúng ta vẫn còn thấy vết tích của họ trong sổ rửa tội khi họ cử hành bí tích thứ nhất thay cho các cha khi các cha bị ngăn trở. Cộng tác với các chức việc còn có CAI-SỸ, những anh em này tương tự như anh em thanh niên nhiệt thành ngày nay, thường xuyên bên giường bệnh để nâng đỡ kẻ liệt, chịu sự phân công của chức việc để gìn giữ nhà chung.
Thời kỳ trước và sau cận kề 1960, với sự có mặt của tín hữu di cư từ miền Bắc, mặc dù không mang lấy chức danh gì trong địa sở nhưng mang lấy tinh thần tông đồ từ miền Bắc. Một số trong nhóm người di cư này rất hăng say tham gia công việc giáo xứ nhất là vào những dịp lễ trọng như các ông Võ Xứng, ông Nguyễn văn Ngôi, ông Nguyễn văn Sinh, ông Đan Hữu Biên, ông Quảng Bắc, ông Nguyễn Tầm Phương, ông Cái Do, ông Hưng, ông Thông…Các bà Trùm Cương, Trùm Biện, ông bà Bửu Yến, ông bà Mỹ Hương…
Nét đặc biệt của Tuy Hòa là tinh thần cộng đồng, không mang tính địa phương, cục bộ, đã có lúc người Bắc xướng kinh, thánh lễ theo giọng Phú Yên, nguyện ngắm theo cách người Vinh, tất cả đều được chấp nhận.
Khoảng thời gian sau 1965 đến 1975, tiếp theo ông Trần Tu có thêm thầy giáo Phaolô Phạm Văn Lễ là chủ tịch Công Giáo Tiến Hành gốc Quảng Bình, các ông Định, ông Kinh, ông Nguyễn xuân Huyên, ông Nguyễn Thái Bảo, ông Trần Công Bộ, ông Tế, ông Đức Thọ, ông Võ Tá Chuyên, ông Võ Xuân Hồng, ông Hoàng Linh, họa sĩ Tuấn…
Sau 1975, rất nhiều người nhiệt tình phục vụ Giáo Hội như: thầy Trần Văn Thường, thầy Trần Văn Còn, thầy Lê Văn Long, ông Lê Xuân Huệ, ông Võ Tá Tước, ông Phạm Văn Cách, ông Võ Xuân Kỳ, ông Trương Lạc… là những người cáng đán công việc địa sở trong giai đoạn khó khăn. Bên cạnh những vị này còn nhiều anh em khác như anh Trần Đức Thảo, anh Nguyễn Văn Thuận, anh Võ Văn Thần, anh Đào Nghĩa Minh, ông Lâm Văn Quý, ông Bùi Phương Hạc, anh Trần Thu, anh Nguyễn Tin, anh Đinh Văn Quang; các chị Nguyễn Thị Bích Cẩm, chị Nguyễn Thị Hường, chị Hòa (Lan), anh Huỳnh Tấn Mạnh, anh Trần Ngọc Nhơn, anh Ngân…
Xuất hiện một lớp trẻ hơn còn có anh Tuấn, anh Đức Yến, anh Hưng và một nhóm anh em thuộc ban văn hóa truyền thông…chị Mỹ Loan, chị Lợi…
Một nhóm anh em khác ít thấy xuất hiện nhưng là những ân nhân đóng góp vật lực xây dựng giáo xứ như: ông Lê Thêm, các anh chị Phương Tuấn, anh chị Diệp Hùng, anh chị Liên Trịnh, anh chị Nhật Tân, anh chị Hùng Oanh, anh chị Phương Thủy, anh chị Ngọc Tuân, anh chị Đức Luận, Đức Liêm…
Đi cạnh những bông hoa rực màu trên, giáo xứ Tuy Hòa còn có những bông hoa nhỏ nhắn âm thầm đóng góp sắc hương tôn vinh Chúa, những anh em cần mẫn, kiên trì trùng tu đồi Đức Mẹ Hòa Bình như anh Phương, anh Lâm bán hàng rong, chị Hải, chị Hoa.., ông bà từ già bỏ quê An Định (ông bà Lãnh) từ 1965, giữ cửa nhà thờ trên 20 năm… anh chị Thức Tính, dù chỉ là thời gian ngắn, đã dành hết công sức, rất trách nhiệm để bảo vệ giáo đường.
Bước theo những tín hữu lâu đời, nhiều anh chị tân tòng đã có những hy sinh, những cống hiến góp sức vào việc truyền giáo qua đời sống đạo như anh Dư Hào, anh Huy, anh Toản…
Làm sao có thể kể ra hết những con người đi cùng giáo xứ, nhiều ông bà, nhiều anh chị, nhiều bạn trẻ chưa kịp nêu tên như người hành khất đóng góp những đồng tiền ít oi xây dựng hang đá Đức Mẹ, những ca viên trên 30 năm miệt mài tụng ca Danh Chúa, những giáo lý viên thừa đủ thời gian mừng ngân khánh trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, những cụ bà, cụ ông sống hiền lành đạo đức… Nếu không có nguồn năng lực này làm sao giáo xứ được như hôm nay, nếu không có họ, 50 năm vẫn đến nhưng chắc chắn không thể là KIM KHÁNH.
GIEO MẦM ƠN GỌI
Họ Đạo Triều Thủy là tên trước đây của họ đạo Tuy Hòa, từ lúc khởi đầu là họ đạo thuộc Họ chính Hoa Vông, Cha sở Hoa Vông là cha sở Tuy Hòa (Hoa Vông cách Tuy Hòa hiện nay 10 km đi về hướng Bắc).
Lần tìm về quá khứ, Tuy Hòa tri ân các linh mục:
- Cha Pierre Leopold Jeanne (1834-1836)
- Cha Armand Landier (1872) (xem Qui Nhơn Xưa và nay p. 404.)
- Cha Pierre Alphonne Perrot (1875)
- Cha Van Camelbecke (1879)
- Cha Guitton (cố Thông) (1888)
- Cha Gioakim Đạt (cha phó của cố Thông)
- Cha Huê, cha sở Phú Điền phụ trách luôn Hoa Vông (1893)
- Cha Dubulle (cố Phương) (20/2/1895)
- Cha Phục làm cha phó cha Dubulle
- Cha Marius Julien Jean (1899)
- Cha Lalanne (cố Lân) (1910)
- Cha Phaolô Trần Huấn – Phú Cốc (1904 – 1911)
- Cha phó Phaolô Bang (1911)
- Cha phó Fx Tuyên (1912)
- Cha Antôn Phùng Văn Linh - Mằng Lăng (1917) về giúp Hoa Vông. (xem Qui Nhơn Xưa và Nay p. 69)
- Cha Porcher (1918)
- Cha Simon Phiến (1927-1938).
Sau năm 1938, Hoa Vông chuyển về Triều Thủy và hoang phế, nay chỉ còn lại vết tích tường thành, nền nhà thờ, giếng nước…
Tiếp theo cha Simon Phiến là các cha Đoan, cha Đại…cho đến hôm nay.
Năm 1834, cha Pierre Leopold Jeanne không là cha sở đầu tiên của tín hữu Hoa Vông vì theo danh sách nhà thờ, nhà nguyện của các thừa sai Balê thì năm 1747, Phú Điền có 50 giáo dân, Thạch Thành 100 giáo dân. Người Công giáo đã có mặt trước cha Pierre Leopold Jeanne gần cả 100 năm, có thể cha sở của giáo dân Hoa Vông, Triều Thủy xưa kia là cha sở chung cho cả vùng Phú Yên…
Người Công giáo Phú Yên nói chung và cách riêng người công giáo Tuy Hòa đón nhận sự chăm sóc của nhiều lớp thừa sai hết lòng vì đàn chiên, trong ký ức của nhiều người, hình ảnh của các linh mục luôn chiếm chỗ nhất trong trái tim họ, các linh mục đi qua giáo xứ Tuy Hòa đều để lại nơi giáo dân lòng yêu mến và kính trọng. Họ yêu mến các ngài vì các ngài luôn cho họ tất cả những gì mình có kể cả máu mình để bảo vệ và nâng đỡ giáo dân.
Sự hy sinh cao quý đó đã trở nên lý do để nhiều người đón nhận ơn gọi.
Ơn gọi căn bản chính là được trở nên con cái Chúa, có thể họ trở lại đạo vì một lý do trần thế như hôn nhân, sức khỏe, quyền lợi…nhưng lý do chính vẫn là vì họ nhận ra Thiên Chúa và nhiều môn đệ của Ngài yêu thương họ cách nhưng không.
Từ vị trí con cái Chúa trong lòng Giáo Hội, ơn gọi thánh hiến được vang lên mạnh mẽ. Hình ảnh các linh mục, các nữ tu, các tu sĩ trở thành niềm mơ ước cho nhiều gia đình để họ chuyên cần cầu nguyện và làm gương sáng dấn thân. Giáo xứ cổ vũ ơn gọi vì thấy việc cổ vũ này không chỉ là đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng nhưng còn là cách tri ân các chứng nhân đức tin anh dũng, các bậc tiền nhân luôn hy sinh quảng đại, để mang lại cho chính họ niềm hy vọng phục sinh.
Càng nhìn xa về quá khứ càng thấy công trình của Chúa quá ư vĩ đại và Tình Chúa cũng quá bao la, Ngài đã làm cho cái KHÔNG thành CÓ, cái KHÔNG CÓ THỂ thành CÁI CÓ THỂ và giờ đây nhìn lại tất cả công trình ấy chúng ta chỉ còn biết yên lặng, chỉ có sự yên lặng mới đủ năng lực diễn tả những xúc cảm của trái tim, chỉ có sự yên lặng mới có khả năng vượt trên những giới hạn của ngôn ngữ và nếu có phải lên tiếng, tín hữu Tuy Hòa xin bắt chước Mẹ Maria để kêu lên rằng: Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn (Lc 1, 49) và cũng trước mẻ cá diệu kỳ này, tín hữu Tuy Hòa cũng như chàng ngư phủ Phêrô, xin thưa với Chúa rằng: Xin xa con ra vì con tội lỗi nhiều (Lc 5, 8).
Ban Văn Hóa Truyền Thông Giáo Xứ Tuy Hòa
Biên Soạn
Vâng lời Thầy con thả lưới (Lc 5,6), câu đáp trả của người ngư phủ dám dẹp đi cái lão luyện, cái kinh nghiệm thường ngày sau một đêm ra khơi thất bại trước người thanh niên chuyên nghề mộc vừa mới giáp mặt biển khơi, chưa hiểu gì nhiều về hướng gió, dòng chảy, luồng cá giữa đại dương bao la: Vâng lời Thầy con thả lưới (Lc 5, 6), Phêrô và các bạn hữu của Ông đã tung chài.
Vâng lời Thầy con thả lưới cũng là vâng lời Thầy họ lên đường rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mt 28,16-20). Mệnh lệnh của Đức Kitô: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới (Lc 5, 4) đã đeo đuổi Hội Thánh gần 15 thế kỷ để cuối cùng các thừa sai, kế tục việc làm của Phêrô, các Ngài đã chèo thuyền ra chỗ nước sâu và cũng là chỗ nước xa: Quê hương Việt Nam.
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam khởi đầu bằng những kiếm tìm đầy lòng quảng đại của các thừa sai, nhất là cha Đắc Lộ, người gieo giống Tin Mừng khôn ngoan và can đảm.
Thật may mắn cho dân tộc này khi cha Đắc Lộ cùng với các bạn mình còn để lại nơi đây một di sản văn hóa quý giá: Chữ quốc ngữ. Với chữ quốc ngữ, cha đã giới thiệu Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa sáng tạo khiến nhiều người trở thành con cái Chúa và rồi đức tin nơi họ khó ai có thể rút lại được.
Sau hai mươi năm gắn bó, cha bị Chúa Nguyễn trục xuất nhưng kịp để lại biết bao tín hữu can trường, biết bao thầy giảng đạo đức luôn trung thành với đức tin được nhận. Hạt giống gieo xuống, đã mọc lên mạnh mẽ và giờ đây dẫu phải ra đi cha đã không quên mang theo mình máu tử đạo của người trẻ can trường Anrê Phú Yên, một thanh niên mà từ khi bị bắt cho đến lúc ra pháp trường vẫn luôn tuyên xưng đức tin, luôn thúc giục mọi người yêu mến Chúa, bình thản đón nhận cái chết vì tình yêu Đức Kitô. Ngài mang về giáo triều Rôma hình ảnh sáng ngời này như một minh chứng đầy thuyết phục để xin Tòa Thánh gửi các Giám mục đến Á Châu để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Tất cả công trình của ngài là đem Chúa đến cho muôn dân.
Lời cầu nguyện của cha Đắc Lộ đã được Chúa nhìn tới. Sắc chỉ Super Cathedram của Đức Giáo Hoàng Alexandre VII, ngày 9 tháng 9 năm 1659 được ban ra để từ đây Giáo Hội hoàn vũ có thêm hai giáo phận và chọn hai vị thừa sai thuộc hội truyền giáo Paris làm đại diện Tông tòa.
Đức Cha Francois Pallu chăm sóc Giáo phận Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm mốc, ngược về phía Bắc. Đức Cha Lambert de la Motte cai quản Giáo phận Đàng Trong, phần đất từ sông Gianh xuôi về phía Nam.
Giáo phận đã có, nhưng Đức cha Francois Pallu không đến được với Đàng Ngoài và Đức Cha Lambert nhận trách nhiệm thăm mục vụ, làm giám quản giúp.
Là Giám mục duy nhất của Giáo Hội Việt Nam, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, cả thêm phần đất Cao Miên. Gần 10 năm sau, năm 1670, cùng với 2 thừa sai, Đức cha đến với Giáo phận Đàng Ngoài qua cảng Phố Hiến, một thương cảng lớn lúc bấy giờ. Đức Cha Lambert đã phong chức linh mục cho 7 thầy, Đức cha chủ tọa Công đồng chung lần đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam, cũng năm này Đức cha lập dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao - Nam Định (1670) và Mến Thánh Giá An Chỉ - Nam Quảng Ngãi (1671).
Không biết có phải vì lòng tốt của quan tuần phủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa, người đem cha Buzomi đang gặp nạn về Qui Nhơn săn sóc năm 1617 (xem Giáo phận Qui Nhơn xưa và nay trang 5) và hình ảnh kiên vững của Anrê Phú Yên vừa mới xảy ra không lâu trước đó ngày 26/7/1644 hay không? đã khiến các Giám mục của giáo phận Đàng Trong từ Đức cha Lambert đến hơn 180 năm sau 1659 – 1844 thường chọn đặt tòa giám mục của mình ở khu vực miền Trung và nơi được nhắc đến như cái nôi của công giáo Đàng Trong: GÒ THỊ, nơi mà vị Giám mục cuối cùng của giáo phận Đàng Trong chọn làm cư sở. Cuối cùng vì sau đó, theo lời thỉnh nguyện của Đức cha Cuenot Thể, Tòa Thánh chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Tây Đàng Trong và Đông Đàng Trong và sau đó nhiều giáo phận khác ra đời. Địa phận Qui Nhơn hôm nay là Giáo phận Đông Đàng Trong xưa kia và cũng là Giáo phận Đàng Trong trước đó (xem Hành Hương Công Giáo Việt Nam của Lm. R. Nguyễn Tự Do Cssr trang 371). Nhắc đến Gò Thị là nhắc đến những kỷ niệm đau thương nhưng anh dũng của chủ chăn cũng như những giáo dân cộng sự, nhắc đến Gò Thị là nhắc đến Thánh Giám mục Étienne Theodore Cuenot THỂ, vị Giám mục truyền giáo, đã chết rũ tù tại Bình Định ngày 14 tháng 11 năm 1861; nhắc đến Gò Thị là nhắc đến người tông đồ giáo dân số một: Trùm cả Anrê Kim Thông, một lòng vì Đạo Chúa, một lòng vì Giáo Hội.
Giáo Hội Việt Nam cảm ơn về những gầy dựng của Đức cha Lambert, của Thánh Giám mục Cuenot Thể dành cho chúng con hôm nay. Các Đức cha vẫn đang có mặt khắp nơi trên quê hương yêu dấu này qua bóng dáng của các nữ tu Mến Thánh Giá, những con người mà nhờ các Đức cha, họ có dịp tỏ bày lòng say mê Thập Giá, họ dược dạy cho biết sống vô danh, biết sống nghèo hèn. Với lòng kiên trì, khiêm hạ và dũng cảm, các nữ tu Mến Thánh Giá đã cùng chung chia sinh mệnh của Giáo Hội Việt Nam, vui, buồn, khó khăn và cả máu đào cho mỗi một niềm ấp ủ “Thập giá Đức Kitô phải tồn tại và phát triển trên vùng đất Giao Chỉ này”. Các Đức cha cũng đang có mặt qua tấm lòng tận tụy của Đức cha Giáo Phận Qui Nhơn hôm nay, vị Giám mục đang xây dựng chương trình tái truyền giáo của Giáo phận Qui Nhơn để kịp kỷ niệm 400 năm đón nhận Tin mừng đến với giáo phận.
Trong phần quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban qua các vị Thừa Sai cùng các chứng nhân đức tin, qua các giám mục, các linh mục, Tuy Hòa đã được lãnh nhận đầy đủ cả vinh quang tử đạo và nước mắt vui mừng.
TUY HÒA TRƯỚC NĂM 1960
Triều Thủy là tên gọi của Giáo xứ Tuy Hòa ngày trước là vùng đất được Thiên Chúa gọi mời đón nhận Tin Mừng Phục sinh khá sớm, hôm nay khó xác định nhóm giáo dân đầu tiên của Triều Thủy có từ năm nào, chỉ biết rằng năm 1641, cha Đắc Lộ đã rửa tội cho Anrê Phú Yên; Năm 1747, Phú Điền, Thạch Thành đã có giáo dân;
Khi đi tìm nguồn gốc của giáo dân Tuy Hòa, chúng tôi phát hiện một nhóm gia đình người lương ở XÓM ĐƯỜNG (Phường 8) có quan hệ bà con với nhóm tín hữu Triều Thủy qua cách xưng hô theo vai vế trong thân tộc nhưng khi truy tận gốc thì lại không có quan hệ huyết tộc nào và được những người lớn tuổi còn sống kể lại rằng: Sở dĩ có mối quan hệ như bà con này vì trong thời kỳ Bình Tây Sát Tả, nhóm gia đình ở Xóm Đường này đã che chở cho nhóm giáo dân Triều Thủy khi bị truy bắt, công ơn cải tử hoàn sinh đã làm họ trở thành bà con dẫu cho đến nay đã qua ba bốn đời. Gia đình người lương này là gia đình ông Từng Năm mà cháu của ông hiện nay là anh Đức, Anh Hạnh (chủ quán Ba Hạnh – Phường 8). Anh Hạnh có con gái theo đạo, làm dâu nhà Võ Tá.
Một nguồn giáo dân khác, đó là nhóm giáo dân đến từ Trà Kê – Cây Gia trong thời Văn Thân (1860-1888), họ cũng được những gia đình lương dân tốt bụng ở Phước Khánh – Hòa Trị che dấu như gia đình ông Dương Hanh (Bốn cá), trong gia đình này có một số trở lại vào thập niên 60, nay còn giữ đạo rất tốt.
Những tìm hiểu trên cũng phù hợp với báo cáo năm 1850 của Thánh Giám mục Tử Đạo Stephanô Thể. Triều Thủy đã có 137 tín hữu và 137 hạt nhân Đức Tin này luôn lấp lánh can trường giữa đông đảo đồng bào của mình, bất chấp những thử thách phía trước để đón nhận những khắc nghiệt của những cơn bắt đạo thời hậu bán thế kỷ 19.
Xét như vậy, từ trước 1850, Tin Mừng đã được loan báo tại Tuy hòa.
Hậu duệ của nhóm tín hữu này hiện nay còn lại một ít gia đình thuộc giáo xứ Tuy Hòa, tập trung chung quanh nhà nguyện các soeurs Phao lô.
Nền nhà thờ Triều Thủy trước thời kỳ Văn Thân được cho là nằm trong khu vực xí nghiệp điện cao thế miền Trung, chi nhánh điện cao thế Phú Yên, phía Tây nghĩa trang giáo xứ Tuy Hòa hiện nay. Đây là một nền đất được đắp cao, nhà thờ bị đốt cháy trong thời Văn Thân và bị san ủi sau biến cố Mậu Thân 1968 (ông Nguyễn Hữu Tề - Giáo khu 1; bà Lê Thị Thông – Giáo khu 2) xác nhận vị trí này.
Mùa gió lạnh làm nứt cả thịt da rồi cũng qua đi để giờ đây mọi người nghiệm ra rằng sức mạnh của Thập Giá là vô cùng, tình yêu Đức Kitô của người thanh niên Anrê Phú Yên trước đó khiến tất cả trở nên mạnh mẽ, không chỉ mạnh mẽ trong chiến đấu theo nghĩa đen nhưng còn mạnh mẽ trong tha thứ để họ bắt tay vào việc thả lưới loan báo Tin Mừng trên nền gạch hoang tàn đổ nát của một thời bị bách hại.
Sau phong trào Văn Thân, từ 1888 đến 1927, gần 40 năm, bước chân của các thừa sai in dấu nhiều nơi thuộc Phú Yên, lập thêm giáo điểm, rửa tội cho nhiều người và càng lúc các linh mục bản địa ngày càng đông. Năm 1927, đánh dấu cha Simon Trần Văn Phiến là linh mục người Việt tiên khởi quản nhiệm giáo xứ Hoa Vông, tiền thân của Tuy Hòa.
Thuyền cùng ngư phủ trên nó luôn đi theo đàn cá. Khi Tuy Hòa trở thành trung tâm tỉnh lỵ, nhiều cơ quan đầu ngành tập trung về đây, cha Simon cho xây dựng nơi đây nhà xứ, nhà nguyện. Ngài tạm rời Hoa Vông và chuyển về Triều Thủy vào năm 1938 nhằm đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của khoảng 120 tín hữu. Nền các cơ sở này hiện nay là nền nhà trẻ Bích Du (nền nhà thờ) và tu viện của dòng Thánh Phaolô Tuy hòa (nền nhà xứ). Đây là nhà thờ Triều Thủy sau thời kỳ Văn Thân. Địa danh Triều Thủy ngày nay (2010) ít người biết đến, giáo dân Tuy Hòa từ năm 1962 gọi đây là nhà thờ cũ và giáo dân Tuy Hòa hiện nay gọi là nhà nguyện dòng thánh Phaolô.Là người cương trực, ngay thẳng, tính tình niềm nở, thương yêu cả anh em lương dân, cánh đồng Đồng Thủy của họ đạo Triều Thủy Tuy Hòa mà trên cả trăm tờ trích lục (giấy chủ quyền đất) đều có tên của cha Simon Trần Văn Phiến đã nuôi sống nhiều gia đình ở Phước Hậu (Hòa Kiến), Xóm Đường (Phường 8).
Ngày 19 tháng 3 năm 1942, lúc 2 giờ sáng, cha hoàn tất ơn gọi linh mục nơi trần thế sau một cơn bạo bệnh để lại nhiều thương tiếc nơi nhiều người cả giáo lẫn lương.
Cha phó của cha Simon từ năm 1940 là cha Antôn Nguyễn Minh Đoan tiếp tục công việc của cha Simon, chuyên chăm mục vụ, ngài có tiếng hát hay, thường xuyên chỉ dạy việc xướng kinh, tập hát, phụ giúp ngài có Dì Ngọt (Ngày trước gọi các nữ tu là Dì). Với số giáo dân của chừng trên 20 gia đình, ngài tuyển chọn, quy tụ và cho ra mắt ca đoàn Triều Thủy, đây là ca đoàn đầu tiên của Tuy Hòa mà hiện nay còn sót lại hai ca viên đều trên 80 tuổi. Ca viên ca đoàn đều là thành viên họ Đồng (Jennes Gens) và họ Ven (Jeunes filles).
Cũng vì bệnh phổi như cha Simon hoành hành, ngài bỏ lại con đường đất quen thuộc đã đưa ngài đi làm mục vụ các họ đạo chung quanh như Hóc Gáo, Phú Cốc, Phú Điền để chuyển sang đường mới – Đường sắt - thứ phương tiện vừa có từ năm 1936 để đi bệnh viện Huế nhiều lần và cuối cùng cùng với đoàn tàu ấy ngài từ biệt Tuy Hòa trong nước mắt của giáo dân năm 1943, ngài chết tại Suối Nổ - Phù Mỹ - Bình định. Thầy Trần Văn Thường (cựu tu sĩ La san), biện Mỹ (Lê Cung) và biện Xứng (Trần Gieo) đại diện giáo dân Tuy Hòa đi dự tang lễ.
Các linh mục tiếp nối công việc của những vị tiền nhiệm trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, thời kỳ đánh dấu một giai đoạn gian nan sau gần 60 năm yên bình (1888-1945) của người công giáo. Đây là thời kỳ của các Cha:
- Matthêu Trịnh Hoà Đại (1946-1948), là cậu ruột của cha Trương Đắc Cần – Sông Cầu, hiện nghỉ hưu ở nhà hưu dưỡng Qui Nhơn.
- Antôn Nguyễn Anh Thuận 1949-1950
- Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1951-1955) (Gốc Mằng Lăng). Các linh mục sống trong giai đoạn này thường không ở một nơi cố định như cha Trịnh Hoà Đại nhiệm sở Triều Thủy nhưng lại ở Hoa Vông hoặc Phú Điền, có lúc các em đến tuổi xưng tội rước lễ lần đầu của Tuy Hòa phải đi Phú Cốc (như Ông Nguyễn Hữu Tề - GK1), cử hành bí tích hôn phối phải đi Mằng Lăng (như Bà Lê thị Thông GK2) ngày lễ trọng phải đến Hoa Châu, đã có thời gian các cha như cha Đại, cha Tư, cha Thìn phải lánh nạn vào Nha Trang qua cửa biển Mỹ Á (nhờ sự giúp đỡ của ông Đội Hiện). Cha Dẫn của Trà Kê bị bắn chết, cha Tôn ở Tịnh Sơn mất tích, tinh thần giáo dân giao động, chủ chăn tạm ẩn mình, đàn chiên chịu cảnh mồ côi. Đây cũng là thời kỳ cùng khổ, dân chúng bị xung công phục vụ chiến tranh, ruộng đồng bị bỏ hoang vì thiếu nước tưới (6/6/1952 Cầu Máng dẫn nước bị vỡ) …Tuy thế, Thiên Chúa vẫn giữ gìn để mạch sống đức tin không vì thế bị cắt đứt. Có thể nói, đa phần các linh mục thuộc các tỉnh Nam – Ngãi - Bình - Phú, không mấy ai đi qua chiến tranh mà không bị trầy xước, hoặc thể xác hoặc tinh thần. Linh mục Tô Đình Sơn không là ngoại lệ, ngài về Tuy Hòa năm 1955, sau hiệp định Geneve, ngài đã về Tuy Hòa bằng đôi chân trần trong những dãy nhà nền đất đầy ắp tiếng ồn bởi những va đập của các học thuyết, của những chủ trương, của những đường lối đưa đến chiến tranh, nhà tù Phú Nhiêu (Bình Định) Phú Châu hay An Ba (Quảng Ngãi).
Những trải nghiệm về cuộc đời linh mục, về thân phận con người, về Tin Mừng, về Giáo Hội, những lo lắng, ưu tư về ngày mai, về tương lai của đàn chiên, ngài đã vận dụng để chọn lựa mức độ ưu tiên trong thực hiện.
Đây là lúc cha Tô Đình Sơn phải đối diện với hai bùng phát số tín hữu mà có lẽ ngài không kịp tiên liệu: một phần của 800.000 tín hữu miền Bắc (theo Flight from Indochina, trang 80-81) di cư vô Nam lưu lại Tuy Hòa và việc gia nhập đạo đông đảo của người dân Thị xã Tuy Hòa cũng như các xã ven kề như Hòa Thắng, Hòa An, Hòa Trị hay An Thọ thuộc Tuy An (Xem “Đã có một người Thầy như thế” của F.X Nguyễn Bính trong Tổng hợp Cảm Nghiệm Đức Tin – Đại Hội Tân Tòng Lần 4 – Giáo xứ Tuy Hòa - năm 2009 trang 29) đã làm cho ngài có những quyết định cụ thể:
Khởi đầu, không phải trại cứu tế, cũng chẳng phải trung tâm bảo trợ xã hội nhưng là nhà LẠC THIỆN (1958) được xây dựng để ở đó mọi người đều tìm thấy niềm vui. Nhà lạc thiện được điều hành bởi các nữ tu dòng thánh Phaolô, ít là trong 3 năm đầu các sơ sống chung cùng nhà với những người cô đơn cơ nhỡ. Vui cho người phục vụ và vui cho người được phục vụ có cái THIỆN nào mà chẳng LẠC.
Năm 1959, có lẽ là để trả ơn Hóc Gáo vì đã cưu mang Triều Thủy trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp mà cao điểm là chiến dịch Át Lăng (1953-1954), cha xây dựng nhà thờ Hóc Gáo. Nhà thờ tồn tại được 6 năm (1959-1965) chiến tranh một lần nữa xóa thành bình địa, chỉ còn lại phần móng vững chắc ăn rễ sâu trong lòng đất, cái rễ hữu hình vững chắc này là hình ảnh cái rễ Đức Tin để Hóc Gáo lớn lên như hiện nay
Hai dãy trường mang tên danh nhân văn hóa Việt Nam, linh mục Đặng Đức Tuấn cũng được ra đời (1958). Giáo dục phải được quan tâm, sự đổ vỡ đã được tiên liệu nếu không tập trung cho giáo dục và phải giáo dục từ nền, ngài hiểu được rằng tương lai Giáo Hội phải được hướng dẫn bởi những con người làm giáo dục ĐÁNG TIN. Các Sư huynh Dòng Thánh Giuse (nay là Dòng Ngôi Lời - Nha Trang) đã được mời cộng tác. Sư huynh hiệu trưởng đầu tiên của Đặng Đức Tuấn là Thầy Irénée Hiệp. Trường Đặng Đức Tuấn dưới sự chăm sóc của các Sư huynh Giuse được tiếng là ngôi trường đã cho ĐỜI những con người tài đức, nhiều học sinh cũ nay đã lớn tuổi, một số có công danh sự nghiệp thường nhắc đến các thầy Giuse một cách hãnh diện. Các Sư huynh Giuse điều hành trường Đặng Đức Tuấn từ năm 1958 đến năm 1969 sau đó chuyển lại cho địa phận và được điều hành bởi các linh mục. Linh mục hiệu trưởng đầu tiên là cha Vũ Văn Tự Chương, sau đó là cha Nguyễn Cấp cho đến 1975.
Đặc biệt, sự có mặt của các Thầy Dòng Giuse không chỉ hiệu quả ở mặt giáo dục nhưng còn giúp củng cố đức tin cho tín hữu Tuy Hòa bị giao động nhiều bởi thời kỳ 9 năm như dạy giáo lý vỡ lòng, xưng tội rước lễ lần đầu (thầy Bá, năm 1961), phụ trách ca đoàn có thầy Rémi Nguyễn Công Sự (1968-1969), cộng tác cùng các cha chăm sóc thiếu nhi từ 1958-1969…
TUY HÒA TỪ NĂM 1960
Điều đáng ưu tiên giờ này mới được thực hiện đối với một linh mục, là ngôi giáo đường mà hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm 50 năm, viên đá móng đầu tiên được đặt xuống vào năm 1960, cùng năm này (24/11/1960) Hàng Giáo phẩm Công Giáo Việt Nam được thành lập bằng sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Hơn 2 tháng sau ngày 6/2/1961 Tuy Hòa trở thành Giáo xứ chính thức (Paroisse), tiếp đó 21/2/1961 làm phép chuông; nhà thờ được khánh thành vào chúa nhật 6/5/1962 (thông tin địa phận Qui nhơn số 20/1961 và số 27/1962).
Cảm ơn cha Simon Trần Văn Phiến, cảm ơn những thuở ruộng màu mỡ của Tuy Hòa, tất cả là để chuẩn bị cho sự ra đời của thành thánh Gia Liêm (bán ruộng xây nhà thờ) và hôm nay chúng ta dừng chân ngắm cửa tiền đường rồi reo lên rằng: Ôi thành thánh vinh quang.
Ngôi giáo đường dài 56m, rộng 18m, tháp cao 43,5m được làm đẹp thêm bởi các anh chị Legio đã có mặt tại Tuy Hòa từ 1959 mà chính cha Tô Đình Sơn làm linh giám. Cũng như sự ra đời của Nữ Đoàn Bác Ái mà cha phó đầu tiên của Tuy Hòa sau 1954 Giuse Nguyễn Thế Nhân (1958-1962) làm tuyên úy. Hai đoàn thể Công giáo Tiến Hành tiên khởi này đã rất nhiệt thành trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Năm 1962, trường Đặng Đức Tuấn xây dựng thêm dãy lầu 3 tầng.
Sự yên bình của thập niên 60 chỉ là phút bình yên ngắn ngủi.
Trên đường về đất hứa, đức tin giáo dân Tuy Hòa tiếp tục trải qua những thử thách như muốn đo lường lòng trung tín qua những biến cố của đất nước (đảo chánh Ngô Đình Diệm năm 1963), những diễn biến đó trở thành dịp sàng lọc cỏ lùng nơi ruộng lúa. Cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc lớn dần, dân chúng lần nữa tập trung về thành thị, số giáo dân từ các giáo xứ khác trong Hạt Phú Yên dồn về Tuy Hòa, cùng với sự có mặt của quân đội nước ngoài làm xáo trộn đời sống kinh tế, xã hội, luân lý….
Tiếp bước trường Đặng Đức Tuấn, cha Tô Đình Sơn cho xây dựng trường Thánh Giuse (năm 1962) dành cho nữ sinh, trường này các nữ tu Phaolô phụ trách, niên khóa đầu tiên 1963 -1964.
Cần nói thêm, các nữ tu Phaolô Đà Nẵng không chỉ giỏi chăm sóc người già lão hay cô nhi nhưng còn là những nhà giáo dục mẫu mực, và cũng từ năm 1965 các sơ còn trở thành những người điều dưỡng, an ủi, giúp đỡ bệnh nhân tại bệnh viện Tuy Hòa bằng cả trái tim nhân ái.
Vì chiến tranh, năm 1965 Bà Michelle (MTG) cho di chuyển Cô nhi viện Mằng Lăng từ huyện Tuy An về Tuy Hòa, xây dựng cơ sở tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê lợi, nay là nhà trẻ Hướng Dương và Phước Viện Mằng Lăng chuyển đến phần đất của giáo xứ nằm ở phía đông nhà thờ, nay là nhà trẻ Khai Sáng của các nữ tu Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
Trong một đêm của mùa mưa năm 1967(?) không chỉ có người phu quét đường dừng chổi nhưng đêm nay còn có giáo dân Tuy Hòa xót xa đứng nghe tiếng đại bác dội về không chỉ thành phố mà còn trên chính mái giáo đường, một nơi được dựng nên để nuôi dưỡng tình yêu, để đẩy lui chia rẽ, hận thù.
Đêm giao thừa năm Mậu Thân 1968 trở thành đêm khó quên của một phần xóm đạo lâu đời của Tuy Hòa, hai giáo dân lớn tuổi (Bà Anna Nguyễn thị Liên và Anna Nguyễn thị Thích) đã nằm lại vĩnh viễn nơi vùng đất họ được rửa tội và lớn lên. Và cũng mùa xuân Mậu Thân này, trường Thánh Giuse, trường Đặng Đức Tuấn, nhà xứ Tuy Hòa từng đêm là một trong những nơi che chắn an toàn sinh mệnh cho dân chúng chung quanh.
Năm 1969, các sơ Phaolô cho xây cất mới nhà nguyện cùng tu viện trên nền nhà vuông (nhà xứ) có từ thời cha Phiến. Nhà nguyện này cũng được các sơ mở cửa đón tiếp giáo dân chung quanh và được coi như nhà thờ họ của giáo xứ.
Thời gian của thập niên 60 cũng là thời gian khai mở và kết thúc Công Đồng Vatican 2 (1962-1965). Những thử nghiệm trong phụng vụ, những thay đổi của lễ nghi, kéo theo nhiều cách nghĩ, cách sống trong đời sống đức tin. Những nếp sống đạo cũ xưa lần hồi thay đổi, nhiều quan niệm mới được hình thành, bàn thờ theo cách xây dựng cũ được thay thế, cùng với các hội đoàn có từ trước như Legio, Nữ đoàn Bác Ái, nhiều đoàn thể cho nhiều lứa tuổi, nhiều giới được thành lập như: Hùng Tâm Dũng Chí dưới thời cha Trần Văn Trường, Liên Minh Thánh Tâm, Hội Con Đức Mẹ thời Cha Phạm Bá Tước, Thanh Thiếu Sinh Công do thầy Valentine Dòng Giuse thành lập và hướng dẫn. Cựu Thanh Thiếu Sinh Công Tuy Hòa luôn nhớ đến thầy trong lời cầu nguyện (Thầy Valentine vừa qua đời ngày 16/07/2010 thọ 70 tuổi).
Cùng làm đẹp cho Giáo xứ Tuy Hòa, cha Micae Nguyễn Tri Phương khởi công san ủi nghĩa trang và xây nhà quản trang năm 1971 (diện tích nghĩa trang 24.222 m2, nhà quản trang 450 m2) trên những đồi cát mấp mô cũng thuộc đất giáo xứ có từ thời cha Phiến. Đang làm giữa chừng, cha Phương về Đồng Tre, cha Nguyễn Hoàng Trí tiếp tục hoàn tất vào năm 1972.
Sau khi Cha Huỳnh Tấn Ngoan ở Qui nhơn qua đời, vâng lời Đức cha, cha Tô Đình Sơn chuyển về Qui Nhơn trong sự luyến tiếc không chỉ của giáo dân mà còn của nhiều nhân sĩ trong tỉnh Phú Yên lúc bấy giờ. Ngài là người khởi đầu của ngày Kim Khánh hôm nay.
Làm gạch nối gữa cha sở Giuse Tô Đình Sơn và cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn là cha phó Gioakim Nguyễn Hoàng Trí.
Về nhận giáo xứ Tuy Hòa năm 1973 thay cha Tô Đình Sơn từ giáo xứ Gò Thị, quê hương Thánh Anrê Kim Thông, Chúa muốn dành cho cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn vai trò bắt cầu giữa hai thể chế chính trị, một vị trí đòi hỏi lòng can đảm và sự khôn ngoan. Đúng vậy, cha đã nổ lực chèo chống bằng tuổi già từng trải để duy trì sự ổn định đời sống đức tin qua cách sống giản đơn, khó nghèo phù hợp khung cảnh của những ngày vào hạ 1975.
TUY HÒA TỪ NĂM 1975
Mùa chay năm 1975, để ghi nhớ năm thánh Canh Tân và Hòa Giải, bằng sáng kiến và lòng yêu mến, linh mục Micae Phạm Bá Tước cùng với các quân nhân công giáo đã xây dựng Thánh Giá và tượng đài Đức Mẹ tại đồi Hòa Bình. Một thánh lễ đồng tế gồm các linh mục Micae Phạm Bá Tước, linh mục Phêrô Nguyễn Cấp, linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Trí được cử hành vào sáng thứ bảy sau Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, nhằm vào ngày 15 tháng 3 năm 1975 để tạ ơn Chúa và dâng kính Mẹ Maria (chưa thánh hiến Thánh Giá và tượng Đức Mẹ). Khoảng vài ba ngày sau, nhân chuyến viếng thăm mục vụ tại Phú Tân, Tuy An, Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các đã về Tuy Hòa để thăm cũng như thánh hiến Thánh Giá và tượng đài với cùng vài trăm giáo dân tham dự.
Tuần thánh 1975 của giáo xứ Tuy Hòa là tuần âu lo, tuần lễ đầy phập phòng sợ hãi. Từng đoàn người nối dài đến Tuy Hòa qua đường 7 kinh hoàng từ Tây Nguyên đổ về. Nhiều gia đình li tán, con cái lạc mất cha mẹ. Hình ảnh người mẹ mất con này đang mở lòng che chở những đứa con mất mẹ kia mà nhớ đến cảnh ngậm ngùi của Mẹ Maria dưới chân thập giá đón lấy Thánh Gioan làm con của mình và cũng hiểu ra rằng Mẹ cần có con và con cần Mẹ biết là chừng nào! - Phải có sức chịu đựng siêu phàm, trái tim con người mới có thể vượt qua cơn co thắt dữ dội bởi chiến tranh đưa tới - Đường 7 nối Tây Nguyên – Tuy Hòa cũng như con đường di tản của tín hữu Tuy Hòa khỏi vùng chiến sự năm 1975 đúng là đường thương khó. Phục sinh cuộc đời sao xa vời vợi! Tại Tuy Hòa, lễ Phục sinh 1975 được cử hành cho số ít giáo dân Bình Định, phần lớn giáo dân Tuy Hòa dự lễ Phục sinh tại Nha Trang, Cam Ranh hoặc xa hơn.
Cha Martinô Nguyễn trọng Huấn và Cha phó Nguyễn Hoàng Trí đã lánh nạn trước 30 tháng 3 năm 1975 vài ngày. Các ngài về lại Tuy Hòa sau 30/4/1975. Cha phó Nguyễn Hoàng Trí lưu luyến thêm với Tuy Hòa cho đến lễ Thánh Tâm năm 1975, sau đó rời Phú Yên về Sông Cạn –Bình Định. Có mặt Tại Tuy Hòa thời điểm 30 tháng 3 năm 1975 chỉ còn linh mục Phêrô Nguyễn Cấp, sau đó vài ngày có thêm một linh mục thừa sai người Pháp, ba nữ tu Phaolô (chị Nhi, chị Xuân, chị Tam) vừa chạy loạn từ Kontum, Phú Bổn hay Pleiku không rõ và một vài chủng sinh Kontum(?).
Những ngày liền kề sau 30 tháng 3 năm 1975, tín hữu Tuy Hòa dường như sống âm thầm hơn, hồi chuông nhà thờ ngắn hơn, lời kinh nhỏ hơn, chuông báo tử không còn, chuông truyền tin giờ ngọ im tiếng.
Từ sau 30 tháng 3 năm 1975 tất cả sinh hoạt của các đoàn thể công giáo của giáo xứ Tuy Hòa đều ngưng hoạt động, một hình thức sinh hoạt mới ra đời: Giờ nhóm thanh niên sau thánh lễ sáng Chúa nhật và cố gắng duy trì ca đoàn.
Nhà thờ Đồng Tiến bị tịch thu. Giáo dân Đồng Tiến tứ tản, một số nhập về Giáo xứ Tuy Hòa.
Các em cô nhi và người khuyết tật Mằng Lăng được bà Sophia và chị Theophine, Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đưa về lại nhà cũ Mằng Lăng, Tuy An năm 1976; các cô nhi và người già của nhà Lạc Thiện được các sơ Phaolô phân tán đi Hoa Châu hoặc Ba Tuy (Bình Tuy) đến 22/10/1977, 30 em cô nhi từ 3 đến 13 tuổi mà các sơ tự túc nuôi dưỡng bị buộc giao nhà nước quản lý. Cơ sở vật chất đã giao nhà nước từ sau 1975.
Hai cơ sở giáo dục công giáo: trường Đặng Đức Tuấn và trường Thánh Giuse tiếp tục quản lý học sinh của mình thêm một vài tháng rồi chuyển giao cả cơ sở cho nhà nước (chuyển giao có điều kiện vào ngày 7/10/1975). Một vài nữ tu Phaolô (sơ Thọ, sơ Hòa, sơ Loan, sơ Chiến..) tiếp tục tham gia giáo dục với tư cách là cô giáo từ 1975-1977, sau đó trở về với đời sống cộng đoàn.
Số giáo dân thưa dần vì họ lần hồi về lại giáo xứ cũ cũng như đi kinh tế mới (từ tháng 5/1976) theo chủ trương của nhà nước.
Những đổi thay của môi trường xã hội sau 30/3/1975 đã khiến phần lớn người dân tìm cách thích ứng để tồn tại, mỗi người tự tìm cách duy trì sự sống, ít ai nghĩ đến chuyện kinh doanh, làm giàu. Đời sống đức tin cũng thế, không ai bảo ai, tất cả đều tự kiếm cho mình phương cách tốt nhất để duy trì đức tin. Giáo xứ chưa kịp đưa ra một hướng dẫn nào ngoại trừ việc duy trì cách kiên trì thánh lễ và giờ kinh chiều mỗi ngày dẫu có những lúc trong lòng nhà thờ rộng lớn này chỉ còn vỏn vẹn gia đình ông bà từ già và đứa cháu nhỏ.
Sóng gió rồi cũng qua đi, thánh lễ có số giáo dân tham dự đều đặn hơn, những sáng kiến đóng góp để củng cố đức tin được đề nghị nhiều hơn, giáo dân tỏ ra mạnh mẽ hơn nhất là từ các trưởng Hùng Dũng và Thiếu Sinh Công là lớp trẻ được đào tạo kỹ càng từ trước 1975. Họ trở thành Giáo lý viên, ca viên ca đoàn.
Sau 30 tháng 3 năm 1975 một thời gian ngắn, việc dạy giáo lý do một nhóm anh em nhiệt thành đảm nhận đến năm 1977, các lớp giáo lý thiếu nhi, xưng tội rước lễ lần đầu, hôn nhân…đi dần vào ổn định nhờ sự giúp đỡ của các sơ Phaolô. (sơ Chiến, sơ Loan, sơ Marie Hòa)
Để tạo không gian linh thánh cho giáo đường khi nhà nước chuẩn bị xây dựng nhà hát nhân dân, đầu tháng 12 năm 1980 Cha Martinô cho xây bức tường ngăn cách với nhà hát vào thời điểm kinh tế khó khăn, gạch phải mua từ Hòa Thịnh xa xôi, cement phải đổi bằng thóc lúa.
Đầu tháng 5/1986, cha Nguyễn Trọng Huấn ngã bệnh, khoảng một tuần sau, ngài được chuyển về bệnh viện Qui Nhơn. Nằm tại đây hơn 10 ngày, bệnh không thuyên giảm, ngài về nhà hưu Tòa Giám Mục Qui Nhơn, tại đây, ngài được Đức cha và các cha gợi ý: nếu muốn ngài có thể ở lại nhà hưu dưỡng. Ngài cảm ơn và xin được về nằm giữa giáo dân Tuy Hòa. Trên chiếc Camionnette với 2 sơ Phaolô (Bà Lucie, sơ Loan), thầy Thường, thầy Lê Văn Long và vài thân nhân của cha, cha được đưa về Tuy Hòa, ghé Sông Cầu, vẫn nằm trên xe, cha già Cần ra xe chào thăm và động viên, sau đó về nhà xứ Tuy Hòa. Ngài không về phòng cũ ở tầng hai nhưng nằm tầng trệt (văn phòng giáo xứ hiện nay) cho đến trưa ngày 30 tháng 5 năm 1986, nhằm ngày thứ sáu, ngài nhẹ nhàng ra đi. Đám tang được tổ chức long trọng. Chủ tế thánh lễ là Đức Giám Mục Giáo Phận cùng nhiều linh mục đồng tế vào sáng thứ hai sau đó. Ngài được an táng giữa giáo dân Tuy Hòa tại nghĩa trang giáo xứ.
Tuy Hòa không cha sở gần 3 tháng (cha Trần Hòa – Hoa Châu Phú Lâm, cha Nguyễn Cấp – Đông Mỹ đến giúp mục vụ). Đến tháng 8/1986 cha sở Mằng Lăng Phanxicô Xavie Nguyễn Xuân Văn về nhận xứ, đi với ngài có hai Thầy và hai nữ tu Mến Thánh Giá theo từ Mằng Lăng (thầy Bản, thầy Đệ, chị Jérémie Nguyễn Thị Tươi và chị Consolata Trần thị Bích Ngọc). Ở với nhau chẳng được bao lâu, thầy Đệ về lại Mằng Lăng vì xong việc, thầy Bản và hai nữ tu lưu lại thêm được hơn một tháng, sau đó bị trục xuất về lại Mằng Lăng. Thầy Bản vì có gia đình tại Tuy Hòa, hơn nữa cũng muốn ở lại giúp cha sở mới, thầy tạm lui về nhà ban đêm nhưng tình trạng này kéo dài chẳng được bao lâu, cuối cùng thầy phải về lại Mằng Lăng, mãi đến năm bảy tháng sau (1987), thầy mới được chính quyền cho phép ở lại Tuy Hòa.
Khởi đầu của cha Nguyễn Xuân Văn tại Tuy Hòa như thế là chẳng hanh thông, không suôn sẻ, có cảm giác bị cô lập, cách ly, nhưng với một linh mục đôn hậu, lạc quan, thêm chút hồn thơ, những nghịch cảnh lại trở nên thú vị. Ngài gọi một số em ( như em Trương Minh Thái, em Trương Công Dân, Võ Tá Hoàng, …) tối tối về nhà xứ với ngài để phòng khi trái gió trở trời và nếu Chúa muốn qua các dịp gặp gỡ này, hy vọng các em dám:
Vội vàng cuốn gói theo Thầy
Bên đường dừng lại bóng cây chuyện trò
(SĐTTcâu 695-696)
Với cách này, ngài đã nâng đỡ thầy Bản là thầy xứ cũng như giới thiệu cho các em con đường mới:
Bỏ nghề lưới cá học khoa lưới người (SĐTT 1196)
Và đúng như vậy, những em ở gần ngài, ngài không để cho hư mất. Trương Công Dân trở thành bác sỹ, Trương Minh Thái, Võ Tá Hoàng trở nên linh mục…
Cũng trong năm này 12/1986, sơ Marie du Christ Chiến (dòng Phaolô) được cha sở mời giúp quản lý nhà xứ, ngoài các giờ kinh trưa, giờ nghỉ đêm tại cộng đoàn, thời gian còn lại dành cho nhà xứ cho đến 2002.
Nhà xứ Tuy Hòa bắt đầu nhộn nhịp, các lớp giáo lý dự tòng, hôn nhân, sinh hoạt giới trẻ sinh động. Hội đồng giáo xứ đi vào nề nếp quy củ, nhìn chung bắt đầu khởi sắc.
Bàn thờ cũ được thay thế bằng đá. Hệ thống lam gió cement phía sau cung thánh thay cho khung sắt bị rỉ sét có từ thời mới xây dựng. Cuối năm 1991 khởi công xây dựng hang đá Đức Mẹ, chỉnh trang khu tượng đài Thánh Tâm, lập nghĩa đường (Nhà An Bình) và truy tập về đây hài cốt của Cha Chatelet, một linh mục thừa sai bị Văn Thân giết chết tại nhà thờ Cây Gia ngày 26 tháng 8 năm 1885, cha Trần Huấn chết tại Sông Cầu cùng nhiều tín hữu khác. Năm 1997 nghĩa đường được tu sửa lại như hiện nay.
Cùng giai đoạn này, cộng đoàn Mến Thánh Giá Tuy Hòa có mặt trở lại qua các giờ giáo lý tân tòng, coi ca đoàn thiếu nhi (9/1996) - Sơ phụ trách cộng đoàn lúc đó là sơ Mad.Philomène Nguyễn Thị Phi. Chỉ sau 14 năm (1996-2010) có mặt trở lại, cộng đoàn Mến Thánh Giá Tuy Hòa khởi sắc cách lạ lùng không chỉ về cơ sở vật chất mà còn cả những dấn thân tích cực trong mọi sinh hoạt của giáo xứ như trông coi phòng thánh (từ 2002), đem Mình Thánh Chúa, linh hướng Legio, giáo lý thiếu nhi...
Một khởi đầu đầy khích lệ là sự trở lại môi trường giáo dục của giới công giáo trong thập niên 90:
Mùa hè 1990, nhà trẻ Bích Du của dòng Phaolô khai sinh.
Tháng 1/1997, nhà trẻ Khai Sáng của dòng Mến Thánh Giá ra đời.
Cũng cần nói thêm hai nhà trẻ tư thục này càng lúc càng phát triển, tạo được lòng tin trong các bậc phụ huynh lương giáo.
Một sở thích dễ nhìn thấy nơi Cha Nguyễn Xuân Văn là hòn non bộ, từ phòng làm việc, khu Thánh Tâm, hang đá Đức Mẹ đều là những hòn non bộ lớn nhỏ khác nhau. Có phải vì quen nhìn thấy sự vĩ đại của núi non, nét nhẹ nhàng của mặt nước, sự cô tịch của núi rừng, nét lãng mạn của thiên nhiên để cha dám nghĩ đến việc thực hiện những điều ít ai nghĩ đến, một trong những sự kiện lớn của Tuy Hòa lúc đó là: Tổ chức truyền chức linh mục cho thầy Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản (9/1993). Đây là lễ truyền chức đầu tiên từ khi có Triều Thủy, ít là từ năm 1850, đây cũng là lần đầu tiên nhiều giáo dân Tuy Hòa tham dự bí tích thứ Sáu, bí tích Truyền Chức Thánh. Qua thánh lễ này, cha đã làm sống dậy khát vọng tận hiến cho Nước Trời nơi nhiều bậc cha mẹ cũng như các bạn trẻ. Đây cũng là dịp cha giới thiệu Hội Thánh cho anh em lương dân Tuy Hòa. (Thánh lễ tại khu vực hang đá Đức Mẹ, có nhiều anh em lương dân và các tôn giáo bạn tham dự).
Không chỉ dừng lại nơi đàn chiên thành phố Tuy Hòa, cha Nguyễn Xuân Văn luôn canh cánh bên lòng nhóm giáo dân lẻ loi tận vùng quê xa xôi HÓC GÁO. Ngài khuyến khích các nhóm thiện nguyện như giáo lý viên, Legio, thanh niên…về sinh hoạt cùng Hóc Gáo. Ngài cắt đặt thầy sở, cha phó về với Hóc Gáo, và cuối cùng, cùng với nhóm tín hữu này ngài khôi phục lại ngôi thánh đường năm 1995 bị tàn phá bởi chiến tranh để hôm nay Hóc Gáo trưởng thành, vươn mình lớn lên tách khỏi Tuy Hòa trở thành giáo xứ ngày 27 tháng 5 năm 2009.
Với cha FX Nguyễn Xuân Văn, gần như không gia đình nào trong giáo xứ ngài không ghé qua. Có thể nói ngài hiểu rất rõ đời sống tinh thần, vật chất của cả giáo xứ để cung cấp kịp thời các nhu cầu của họ.
Nhanh chóng phát hành SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG (năm 1998) với 9764 câu thơ lục bát độc đáo như của ăn tinh thần quý giá; lo lắng hoàn thành nhà sinh hoạt giáo lý hai tầng, 12 phòng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi lời Chúa; giáo dục lòng quảng đại, biết quan tâm đến người cùng khổ cho giới trẻ bằng cách khuyến khích họ tạo quỹ bác ái mà hiệu quả của nó đến nay vẫn còn. Có thể nói ngài đã vắt ép tất cả tài lực Chúa ban cho để tưới bón, chăm sóc, gìn giữ ĐẠO CHÚA tại Tuy Hòa trước lúc đi xa vào 5 giờ sáng, giờ khởi đầu cho Thánh lễ trên trời ngày 10 tháng 1 năm 2002.
Giáo xứ vắng ngài nhưng chẳng mồ côi vì ngài kịp để lại nơi đây cha phó Antôn Nguyễn Huy Điệp, một linh mục dễ gần và rất đơn sơ. Ngài về Đồng Tre ngày 13 tháng 4 năm 2002.
Hơn 3 tháng sau, ngày 14 tháng 4 năm 2002 như thấu hiểu được vị trí trung tâm của Tuy Hòa đối với Hạt Phú Yên, Giáo phận đã gởi đến cho Tuy Hòa một chủ chăn mới: Linh Mục Giuse Trương Đình Hiền. Đến Tuy Hòa cùng ngài hôm đó có giáo dân Đồng Tre, giáo dân hôm qua của ngài, Cha Trương Đình Tu là bào huynh cùng với một ít giáo dân Trường Cửu. Tuy Hòa đón tiếp cha sở mới với tâm tình của câu lời Chúa: “Mời Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”
Tại nhà xứ, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn đã đợi sẵn, ngài giới thiệu cha sở mới cho giáo xứ Tuy Hòa như Thánh Phêrô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân đang cư ngụ tại Giêrusalem: “Đức Giêsu Nazareth là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe.” Trích (Cv 2, 14. 22.33a)
Lễ nhận nhiệm sở mới đơn giản nhưng rất thánh thiện…
Chưa kịp làm quen với môi trường mới, cha liền bắt tay vào việc lớn: Cùng Hội Đồng Giáo Xứ tổ chức lễ truyền chức linh mục cho các thầy thuộc Hạt Phú Yên, trong đó có Thầy Nguyễn Xuân Hòa là người con của giáo xứ.
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng (Tv 89, 2)
9 giờ sáng ngày 25/4/2002, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn – giáo phận Qui Nhơn chủ sự thánh lễ phong chức cho 5 phó tế:
- Tôma Nguyễn Công Binh
- Anrê Đoàn Văn Điểm
- Phêrô Nguyễn Xuân Hòa (thuộc Gx. Tuy Hòa)
- Augustinô Nguyễn Văn Phú
- Phanxicô Assisi Phạm Đình Triều
Cùng đồng tế trong thánh lễ có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa – giáo phận Nha Trang – Đức cha phó Phêrô Nguyễn Văn Nho – Giám đốc Đại Chủng Viện Sao Biển Nha trang với 110 linh mục trong và ngoài giáo phận.
Tổ chức lễ bổn mạng Hội Đồng Giáo xứ cho cả Hạt, lễ Anrê Kim Thông 15/7/2002
Tổ chức tọa đàm thân thế, sự nghiệp nhân ngày giáp năm qua đời của linh mục thi sĩ Nguyễn Xuân Văn (10/1/2002 – 10/1/2003) với sự góp mặt của nhiều người, nhiều nhóm như linh mục trưởng ban thánh nhạc giáo phận, nhà thơ Lê Đình Bảng, nhóm ngâm thơ nhà văn hóa Tỉnh Phú Yên…
Tổ chức ngày ơn gọi (Lễ Chúa Chiên Lành 2003), hôm nay cũng là ngày thành lập Hội Cựu Chủng Sinh - Tu sĩ Hạt Phú Yên.
Tổ chức lễ phong chức cho một người con nữa của giáo xứ: Phó Tế Giuse Võ Tá Hoàng ngày 10/7/2003. Từ một người luôn nhiệt thành với công việc nhà Chúa mà Thiên Chúa đã chọn, đã nâng thầy lên hàng vinh phúc. Thánh lễ truyền chức do Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn chủ sự cùng với hơn 60 linh mục trong và ngoài giáo phận, khoảng trên 2000 giáo dân trong giáo hạt tham dự, cùng hiệp thông trong thánh lễ truyền chức với thầy. Thánh lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm và thánh thiện.
Quy tụ hơn 600 bạn trẻ từ các giáo xứ nhân ngày kỷ niệm 470 Tin Mừng đến Việt Nam (1533-2003) dành cho người trẻ vào lễ lá 18/4/2004
Tổ chức ngày năm thánh thiếu nhi cho toàn giáo hạt (6/6/2004)
Tổ chức lễ phát tang vị Giáo Hoàng kiệt xuất khi Ngài qua đời ngày 2 tháng 4 năm 2005 trên sân tiền đường đã nói lên tinh thần hiệp thông của Hội Thánh, hiệp thông với Chúa, hiệp thông với nhau. Nhìn từng chức sắc Phật Giáo, Cao Đài, Tin Lành, các linh mục, tu sĩ, giáo dân cùng thành kính niệm hương, chúng ta mới cảm nhận được hết tính hiệp nhất, cùng tham gia, tinh thần đại kết trước những biến cố lớn không chỉ của Giáo Hội Công Giáo mà còn của cả thế giới này.
Về Tuy Hòa hơn 3 năm, ngày 6/6/2005, cha khởi công xây dựng Trung Tâm Mục Vụ Tổng Hợp Anrê Phú Yên và chỉ 8 tháng sau (16/2/2006), một cuộc hội ngộ đông đảo của nhiều linh mục, nhiều tu sĩ nam nữ là con, là chủ chăn, là người phục vụ giáo xứ từ xa xưa để cùng dâng lên Chúa lời tạ ơn về công trình vừa mới hoàn tất và cũng là để ghi nhớ về sự kiện 45 năm Tuy Hòa trở thành giáo xứ chính thức (06/2/1961-16/2/2006). Cuộc hội ngộ này không chỉ là tay bắt mặt mừng với nhau mà hơn thế nữa để Tuy Hòa được nghe thấy Đức Giám Mục Giáo Phận Phêrô Nguyễn Soạn chúc lành và tỏ bày sự vui mừng trước những nổ lực vươn lên của cha sở cùng giáo dân Tuy Hòa mà Ngài hằng yêu mến và tin tưởng. Qua dịp lễ này, Tuy Hòa được dịp ra mắt trong Nam ngoài Bắc cách rộng rãi và cũng xem đây như chuẩn bị xa của ngày mừng kim khánh 50 năm.
Không biết có phải Tuy Hòa là mảnh đất tốt để cha cày xới không biết mệt mỏi?. Cha đã tổ chức nhiều buổi họp mặt, cử hành nhiều thánh lễ, tất cả chỉ hướng đến mục đích: Làm sao cho thật nhiều người biết và yêu mến Chúa, như:
Đại hội tân tòng cấp giáo xứ, lúc cấp giáo Hạt.
Lập giải văn thơ Nguyễn Xuân Văn.
Ngày sinh viên, học sinh.
Ngày nhà giáo Công giáo
Ngày truyền thông – văn hóa
Ngày thiếu nhi.
Ngày giới trẻ
Ngày giáo lý viên
Ngày ca đoàn
Ngày các bà mẹ…
Tất cả những ngày này, đến hẹn lại lên, trở thành ngày truyền thống, mỗi ngày truyền thống là mỗi dịp rộn ràng, tất bật lo toan chuẩn bị. Cha không để cho bất cứ thành phần dân Chúa nào rơi rớt bên ngoài Hội Thánh, tất cả đều phải lên đường vì phần rỗi của chính họ cũng như con cháu họ Sinh hoạt sống đạo ngày càng sống động hơn khi giáo xứ cùng với các sơ dòng Phaolô tạ ơn 50 năm đặt chân đến Tuy Hòa trong vai trò “Ô-sin” của Hội Thánh, miệt mài làm sạch đẹp giáo xứ Tuy Hòa.
Từ những sinh hoạt có chỉ đạo, có hướng dẫn đã khiến người tín hữu thay đổi dần thái độ thụ động trong đời sống đức tin để hôm nay họ tự lãnh trách nhiệm chỉnh trang nhiều công trình của giáo xứ như: tu sửa lại Đồi Hòa Bình, tự nguyện chăm sóc vườn hoa giáo đường, hăng say tìm Từ những sinh hoạt có chỉ đạo, có hướng dẫn đã khiến người tín hữu thay đổi dần thái độ thụ động trong đời sống Đức Tin để hôm nay họ tự lãnh trách nhiệm chỉnh trang nhiều công trình của giáo xứ như: Tu sửa lại Đồi Hòa Bình, tự nguyện chăm sóc vườn hoa giáo đường, hăng say tìm kiếm những chiên ngoài đàn…
Thiên Chúa luôn hoàn tất công trình của Ngài, cách này cách khác, Ngài luôn tạo điều kiện để con người có thể gặp gỡ được Ngài qua Bí Tích, qua Thánh Lễ, qua thăm viếng… Năm 2008 Thiên Chúa đã kịp gởi đến Tuy Hòa những trợ tá đắc lực để cùng Cha sở phát triển Giáo xứ. Cảm ơn các linh mục, đã rộng lòng tin tưởng Tuy Hòa để giúp mục vụ nơi đây.
Tượng đài Thánh Giuse, bổn mạng nhà thờ cũng là bổn mạng giáo xứ được trùng tu chỉnh sửa (10/12/2008) để giáo dân tỏ bày lòng biết ơn về biết bao phúc lành Chúa ban trên giáo xứ qua lời cầu bầu của Thánh Giuse. Và hơn sáu tháng sau, ngày 29/6/2009, ngày đại lễ kính hai thánh Phêrô, Phaolô chuông đồng hồ sau gần 50 năm chờ đợi cất tiếng báo hiệu giờ mừng ngày Kim
Khánh gần kề và từ nay không chỉ mừng kim khánh mà còn báo tin vui mỗi ngày về những buổi tiệc Tạ Ơn mà chính Đức Kitô vừa là chủ tế vừa là của lễ tiến dâng.
Vì lợi ích mục vụ thiết thực cho người giáo dân và cho công cuộc truyền giáo của giáo phận, cũng là đánh dấu sự trưởng thành trong đức tin của giáo họ Hóc Gáo (Hóc Gáo nguyên là một giáo họ của giáo xứ Tuy Hoà) Đức cha Phê rô Nguyễn Soạn đã quyết định nâng lên thành giáo xứ và cha sở tiên khởi là Augustino Nguyễn Văn Phú. Cùng thời điểm này (27/5/2009) giáo xứ Tuy Hòa chia tay cha Phêrô. Nguyễn Xuân Hòa nguyên là phó xứ (2002-2008) lên đường với sứ mạng mới làm cha sở tiên khởi của giáo họ Gò Duối cũng vừa được nâng lên thành giáo xứ.
Hồng ân Ngài mãi tuôn đổ, tuôn đổ cho đến hôm nay, người con linh mục của giáo xứ Tuy Hòa được cất nhắc lên Giám mục của giáo phận Ban Mê Thuột – Vinh sơn Nguyễn Văn Bản (12-5-2009), niềm vui tạ ơn bật trào qua việc chuẩn bị cho hai ngày đón tiếp tân Giám mục (3 và 4/6/2009) về lại lòng mẹ giáo xứ. Một chương trình văn nghệ đặc sắc, một thánh lễ tạ ơn long trọng, một bữa tiệc vui vẻ mang tình gia đình….
Cho dù ở phương trời xa xôi nào thì ngài vẫn là đứa con của giáo xứ, là người anh của thiếu nhi, bạn của giới trẻ, con của những người già và trái tim của ngài vẫn luôn hướng về giáo xứ Tuy Hòa và giáo xứ vẫn yêu mến ngài mãi mãi.
Niềm vui nối tiếp niềm vui, vừa mới mừng đưa tiễn đứa con trẻ trung đi làm giám mục, nay lại mừng dâng hiến đứa con luống tuổi lên bàn thánh Chúa. Chiều 13.8.2009 giáo xứ Tuy Hòa cũng như bà con thân tộc dâng thánh lễ tạ ơn đón mừng tân linh mục Gioanbaotixita Võ Tá Chân, người vừa được Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn phong chức linh mục trước đó một ngày tại Qui Nhơn.
Nhà thờ Tuy Hòa trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những trận pháo kích, những cơn bão khủng khiếp của thế kỷ, những hao mòn bởi năm tháng… nhưng vẫn kiên cường, vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn của tuổi đời xấp xỉ 50… Nếu linh mục Giuse Tô Đình Sơn là người khởi đầu cho cuộc chạy tiếp sức thì cha Giuse Trương Đình Hiền là vận động viên cuối cùng để đánh giá được thua trong chặng đường 50 của Tuy Hòa. Hiểu được như thế, cha động viên toàn giáo xứ vào cuộc để thực hiện cuộc bức phá ngoạn mục để hôm nay chúng ta nhìn thấy một cung thánh cao thoáng rộng rãi với kiến trúc hoàn toàn mới, được tỏa sáng bởi những chùm đèn gỗ được chạm trỗ rất tinh vi độc đáo. Bên dưới 4 dãy ghế ngồi xếp ngay ngắn cùng với những bộ cửa đi cao lớn làm từ gỗ hương chắc chắn bóng loáng. Khuôn viên của nhà thờ được thay thế bởi lớp bê tông nhựa còn tỏa mùi hắc ín. Nhà thờ Tuy Hòa đang dần lột bỏ lớp áo già nua để lấy lại tuổi xuân tươi trẻ.
Dưới bầu trời trong xanh, ngôi thánh đường nổi bật lớp ngói đỏ tươi, tháp chuông được mặc chiếc áo mới màu vàng nhẹ đứng giữa hàng cây xanh tỏa bóng.
Gần 4 tháng trùng tu. Ngày 22/8/2009, một thánh lễ sốt sắng để tạ ơn Chúa vì mọi việc đều tốt đẹp, tạ ơn Chúa về những tấm lòng quảng đại đã dâng hiến công sức và của cải và nhất là tạ ơn Chúa vì cả giáo xứ luôn hiệp nhất.
Đầu năm 2010, Giáo phận Qui Nhơn nói chung và giáo xứ Tuy Hòa nói riêng đón nhận một vị mục tử mới đó là Giám mục phó Matthêu Nguyễn Văn Khôi.
Đây là Giám mục thứ 6 nhận nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên Tuy Hòa từ 1960:
- Đức cha Phê rô Maria Phạm Ngọc Chi (1957 – 1963)
- Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn (1963 – 1974)
- Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các (1974 – 1999)
- Đức cha Giuse Phan Văn Hoa (1976 – 1987)
- Đức cha Phê rô Nguyễn Soạn (1999 ….nay)
Riêng Đức cha Phan Văn Hoa, dẫu làm giám mục 11 năm nhưng chưa có dịp về Tuy Hòa.
Những con người đi cùng năm tháng
50 năm hay xa hơn nữa trong quá khứ, từ 137 giáo dân theo như báo cáo năm 1850 hơn 80 năm sau 1938, Triều Thủy còn lại 120 giáo dân (Qui Nhơn xưa và nay, trang 403) 80 năm mất đi 17 người và từ 1938 đến nay 2010, trên 70 năm, số giáo dân hiện nay trên 4000. Những con số vừa rất già và cũng vừa rất lạ để Tuy Hòa ngẫm nghĩ, trên 160 năm kể từ 1950, đây là lần nhìn lại đầu tiên để chúng ta hôm nay thấy được hành trình đức tin là hành trình máu và nước mắt nhưng không là hành trình đi vào ngõ cụt. Có những lúc tưởng chừng bế tắc, 80 năm loan báo Tin Mừng bị mất đi 17 người hay đúng hơn Tin Mừng bị bách hại nhưng Thiên Chúa, nói theo cách nói của Đức Giám mục Nguyễn Văn Bản, Thiên Chúa có cái lý của Ngài để rồi hơn 70 năm sau tăng gấp 30 lần. Thiên Chúa luôn làm ta bất ngờ và trong công trình của Ngài, Ngài đã sử dụng con người như những công cụ cũng thật bất ngờ để thực hiện việc thả lưới của Ngài, chúng ta gọi đó là những con người đi cùng năm tháng.
Thầy Toàn, người Quảng Nam, theo giúp cha Phiến mà giáo dân Triều Thủy hay gọi là thầy già – mộ phần hiện ở nghĩa trang Hoa Vông.
Ông Câu Nhất Trần Tu ( Ông Xã Dư)
Ông Biện Tán
Ông Biện Bồng ( Ông Thầy Kiển )
Ông Biện Mỹ
Ông Biện Xứng…
Các Thầy dạy Giáo lý như thầy Gần, thầy Phái, thầy Tiền, thầy Đạo, thầy Nhì (Lê Xuân Hương)… Những vị này có lý lịch trích ngang đâu có khác các tông đồ thuở trước. Họ là những người cộng tác với các cha từ thời cha Phiến đến thời kỳ đầu của cha Tô Đình Sơn, chúng ta vẫn còn thấy vết tích của họ trong sổ rửa tội khi họ cử hành bí tích thứ nhất thay cho các cha khi các cha bị ngăn trở. Cộng tác với các chức việc còn có CAI-SỸ, những anh em này tương tự như anh em thanh niên nhiệt thành ngày nay, thường xuyên bên giường bệnh để nâng đỡ kẻ liệt, chịu sự phân công của chức việc để gìn giữ nhà chung.
Thời kỳ trước và sau cận kề 1960, với sự có mặt của tín hữu di cư từ miền Bắc, mặc dù không mang lấy chức danh gì trong địa sở nhưng mang lấy tinh thần tông đồ từ miền Bắc. Một số trong nhóm người di cư này rất hăng say tham gia công việc giáo xứ nhất là vào những dịp lễ trọng như các ông Võ Xứng, ông Nguyễn văn Ngôi, ông Nguyễn văn Sinh, ông Đan Hữu Biên, ông Quảng Bắc, ông Nguyễn Tầm Phương, ông Cái Do, ông Hưng, ông Thông…Các bà Trùm Cương, Trùm Biện, ông bà Bửu Yến, ông bà Mỹ Hương…
Nét đặc biệt của Tuy Hòa là tinh thần cộng đồng, không mang tính địa phương, cục bộ, đã có lúc người Bắc xướng kinh, thánh lễ theo giọng Phú Yên, nguyện ngắm theo cách người Vinh, tất cả đều được chấp nhận.
Khoảng thời gian sau 1965 đến 1975, tiếp theo ông Trần Tu có thêm thầy giáo Phaolô Phạm Văn Lễ là chủ tịch Công Giáo Tiến Hành gốc Quảng Bình, các ông Định, ông Kinh, ông Nguyễn xuân Huyên, ông Nguyễn Thái Bảo, ông Trần Công Bộ, ông Tế, ông Đức Thọ, ông Võ Tá Chuyên, ông Võ Xuân Hồng, ông Hoàng Linh, họa sĩ Tuấn…
Sau 1975, rất nhiều người nhiệt tình phục vụ Giáo Hội như: thầy Trần Văn Thường, thầy Trần Văn Còn, thầy Lê Văn Long, ông Lê Xuân Huệ, ông Võ Tá Tước, ông Phạm Văn Cách, ông Võ Xuân Kỳ, ông Trương Lạc… là những người cáng đán công việc địa sở trong giai đoạn khó khăn. Bên cạnh những vị này còn nhiều anh em khác như anh Trần Đức Thảo, anh Nguyễn Văn Thuận, anh Võ Văn Thần, anh Đào Nghĩa Minh, ông Lâm Văn Quý, ông Bùi Phương Hạc, anh Trần Thu, anh Nguyễn Tin, anh Đinh Văn Quang; các chị Nguyễn Thị Bích Cẩm, chị Nguyễn Thị Hường, chị Hòa (Lan), anh Huỳnh Tấn Mạnh, anh Trần Ngọc Nhơn, anh Ngân…
Xuất hiện một lớp trẻ hơn còn có anh Tuấn, anh Đức Yến, anh Hưng và một nhóm anh em thuộc ban văn hóa truyền thông…chị Mỹ Loan, chị Lợi…
Một nhóm anh em khác ít thấy xuất hiện nhưng là những ân nhân đóng góp vật lực xây dựng giáo xứ như: ông Lê Thêm, các anh chị Phương Tuấn, anh chị Diệp Hùng, anh chị Liên Trịnh, anh chị Nhật Tân, anh chị Hùng Oanh, anh chị Phương Thủy, anh chị Ngọc Tuân, anh chị Đức Luận, Đức Liêm…
Đi cạnh những bông hoa rực màu trên, giáo xứ Tuy Hòa còn có những bông hoa nhỏ nhắn âm thầm đóng góp sắc hương tôn vinh Chúa, những anh em cần mẫn, kiên trì trùng tu đồi Đức Mẹ Hòa Bình như anh Phương, anh Lâm bán hàng rong, chị Hải, chị Hoa.., ông bà từ già bỏ quê An Định (ông bà Lãnh) từ 1965, giữ cửa nhà thờ trên 20 năm… anh chị Thức Tính, dù chỉ là thời gian ngắn, đã dành hết công sức, rất trách nhiệm để bảo vệ giáo đường.
Bước theo những tín hữu lâu đời, nhiều anh chị tân tòng đã có những hy sinh, những cống hiến góp sức vào việc truyền giáo qua đời sống đạo như anh Dư Hào, anh Huy, anh Toản…
Làm sao có thể kể ra hết những con người đi cùng giáo xứ, nhiều ông bà, nhiều anh chị, nhiều bạn trẻ chưa kịp nêu tên như người hành khất đóng góp những đồng tiền ít oi xây dựng hang đá Đức Mẹ, những ca viên trên 30 năm miệt mài tụng ca Danh Chúa, những giáo lý viên thừa đủ thời gian mừng ngân khánh trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, những cụ bà, cụ ông sống hiền lành đạo đức… Nếu không có nguồn năng lực này làm sao giáo xứ được như hôm nay, nếu không có họ, 50 năm vẫn đến nhưng chắc chắn không thể là KIM KHÁNH.
GIEO MẦM ƠN GỌI
Họ Đạo Triều Thủy là tên trước đây của họ đạo Tuy Hòa, từ lúc khởi đầu là họ đạo thuộc Họ chính Hoa Vông, Cha sở Hoa Vông là cha sở Tuy Hòa (Hoa Vông cách Tuy Hòa hiện nay 10 km đi về hướng Bắc).
Lần tìm về quá khứ, Tuy Hòa tri ân các linh mục:
- Cha Pierre Leopold Jeanne (1834-1836)
- Cha Armand Landier (1872) (xem Qui Nhơn Xưa và nay p. 404.)
- Cha Pierre Alphonne Perrot (1875)
- Cha Van Camelbecke (1879)
- Cha Guitton (cố Thông) (1888)
- Cha Gioakim Đạt (cha phó của cố Thông)
- Cha Huê, cha sở Phú Điền phụ trách luôn Hoa Vông (1893)
- Cha Dubulle (cố Phương) (20/2/1895)
- Cha Phục làm cha phó cha Dubulle
- Cha Marius Julien Jean (1899)
- Cha Lalanne (cố Lân) (1910)
- Cha Phaolô Trần Huấn – Phú Cốc (1904 – 1911)
- Cha phó Phaolô Bang (1911)
- Cha phó Fx Tuyên (1912)
- Cha Antôn Phùng Văn Linh - Mằng Lăng (1917) về giúp Hoa Vông. (xem Qui Nhơn Xưa và Nay p. 69)
- Cha Porcher (1918)
- Cha Simon Phiến (1927-1938).
Sau năm 1938, Hoa Vông chuyển về Triều Thủy và hoang phế, nay chỉ còn lại vết tích tường thành, nền nhà thờ, giếng nước…
Tiếp theo cha Simon Phiến là các cha Đoan, cha Đại…cho đến hôm nay.
Năm 1834, cha Pierre Leopold Jeanne không là cha sở đầu tiên của tín hữu Hoa Vông vì theo danh sách nhà thờ, nhà nguyện của các thừa sai Balê thì năm 1747, Phú Điền có 50 giáo dân, Thạch Thành 100 giáo dân. Người Công giáo đã có mặt trước cha Pierre Leopold Jeanne gần cả 100 năm, có thể cha sở của giáo dân Hoa Vông, Triều Thủy xưa kia là cha sở chung cho cả vùng Phú Yên…
Người Công giáo Phú Yên nói chung và cách riêng người công giáo Tuy Hòa đón nhận sự chăm sóc của nhiều lớp thừa sai hết lòng vì đàn chiên, trong ký ức của nhiều người, hình ảnh của các linh mục luôn chiếm chỗ nhất trong trái tim họ, các linh mục đi qua giáo xứ Tuy Hòa đều để lại nơi giáo dân lòng yêu mến và kính trọng. Họ yêu mến các ngài vì các ngài luôn cho họ tất cả những gì mình có kể cả máu mình để bảo vệ và nâng đỡ giáo dân.
Sự hy sinh cao quý đó đã trở nên lý do để nhiều người đón nhận ơn gọi.
Ơn gọi căn bản chính là được trở nên con cái Chúa, có thể họ trở lại đạo vì một lý do trần thế như hôn nhân, sức khỏe, quyền lợi…nhưng lý do chính vẫn là vì họ nhận ra Thiên Chúa và nhiều môn đệ của Ngài yêu thương họ cách nhưng không.
Từ vị trí con cái Chúa trong lòng Giáo Hội, ơn gọi thánh hiến được vang lên mạnh mẽ. Hình ảnh các linh mục, các nữ tu, các tu sĩ trở thành niềm mơ ước cho nhiều gia đình để họ chuyên cần cầu nguyện và làm gương sáng dấn thân. Giáo xứ cổ vũ ơn gọi vì thấy việc cổ vũ này không chỉ là đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng nhưng còn là cách tri ân các chứng nhân đức tin anh dũng, các bậc tiền nhân luôn hy sinh quảng đại, để mang lại cho chính họ niềm hy vọng phục sinh.
Càng nhìn xa về quá khứ càng thấy công trình của Chúa quá ư vĩ đại và Tình Chúa cũng quá bao la, Ngài đã làm cho cái KHÔNG thành CÓ, cái KHÔNG CÓ THỂ thành CÁI CÓ THỂ và giờ đây nhìn lại tất cả công trình ấy chúng ta chỉ còn biết yên lặng, chỉ có sự yên lặng mới đủ năng lực diễn tả những xúc cảm của trái tim, chỉ có sự yên lặng mới có khả năng vượt trên những giới hạn của ngôn ngữ và nếu có phải lên tiếng, tín hữu Tuy Hòa xin bắt chước Mẹ Maria để kêu lên rằng: Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn (Lc 1, 49) và cũng trước mẻ cá diệu kỳ này, tín hữu Tuy Hòa cũng như chàng ngư phủ Phêrô, xin thưa với Chúa rằng: Xin xa con ra vì con tội lỗi nhiều (Lc 5, 8).
Ban Văn Hóa Truyền Thông Giáo Xứ Tuy Hòa
Biên Soạn
Văn Hóa
Chuyện Phiếm Đạo Đời: May Mà Có Em
Trần Ngọc Mười Hai
18:56 27/08/2010
“May Mà Có Em”
May mà có em”.
(Nguyễn Thiện Bản – MayMà Có Em)
(Mt 6: 33)
Chính đó, là tựa đề và ý từ của nhạc bản do người viết nhạc “Đạo vào đời”, rất tài tử. Nhạc của anh tuy không chuyên, nhưng rất đạt. Tên anh là Bosco Nguyễn Thiện (rất) Bản, người anh em trong đại Gia Đình An Phong ở Mỹ mà bần đạo quen từ lâu, nhưng chưa một lần gặp mặt.
Dù chưa gặp mặt hoặc diện kiến dung nhan còn rất trẻ của anh, bần đạo cũng biết ý/từ anh sáng tác, là tư tưởng gợi hứng từ Đạo Chúa, mà anh gọi bằng “Em”. Em đây, đích thị là người em của anh, trong Đạo. Cũng có thể, là chính Chúa hện diện nơi tâm can bạn bè ở Nước Trời. Là tôi. Là bạn. Là chính chúng ta. Là ai nữa, vẫn xin gửi đến anh rất Thiện Bản tràng pháo nổ dòn. Rất cảm kích.
Cứ sự thường, bần đạo có thói tật không được hay cho lắm là: ít chịu “bốc thơm” người nhà mình. Chí ít, là người anh/người chị ở đâu đó, có Nước Trời. Bởi, ai lại cứ nghe “Em hát chị khen hay” bao giờ. Nhưng, ở đây người em hay hát -và hát rất hay- thuộc dân con nhà Đạo, ở Nước Trời. Bởi, anh đã nhận được thần hứng hứng từ nhiều thứ. Nhiều nơi. Trong đời. Từ chính trị/thời sự, cho đến thần học/tu đức. Rồi, biến nó thành ca khúc, dẫn người nghe vào cõi “mê” có chúc tụng, ngợi khen Chúa. Không tin ư? Xin bạn và tôi, ta nghe tiếp lời nhạc như sau:
“Từ khi quen biết em
Đời anh thấy vui hơn.
Em như cánh hoa thắm
Giữa vườn tình muôn sắc.
Tô thắm đời xinh đẹp,
Toả hương yêu dạt dào.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Sự thật là thế đó. Nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người viết nhạc họ Từ tên rất ư là Công Phụng, khi ông bảo: hễ người nghệ sĩ ới gọi tên “Em”, thì người ”em” đó không chỉ là “em tôi”. Mà là, người nghe hay người đọc, rất vân vân. Với nhạc bản hôm nay, “Em” còn có nghĩa là ”cành hoa thắm”. “Gió trong đêm”. Là, “con sông dài”, “áng mây trôi”, và gì gì nữa, nếu hát thêm:
“Em như nắng ấm quê ta,
Cho anh mơ ước bao la.
May mà có EM
Em như tiếng hát trong ta
Hương yêu thơm ngát muôn hoa.
May mà có EM
May mà có EM
May mà có EM.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
“May mà có Em”, là có những người, làm bạn/làm tôi thêm phấn chấn. Có những người tuổi rất nhỏ đang lưu lạc, ở đâu đó. Khiến mọi người, cả em lẫn tôi, ta vẫn kiếm tìm. Kiếm, một tình tự. Tìm, sự thân thương. Đã luột mất.
“May mà có Em”, cũng may là: vẫn còn đó, người anh/người chị đi trước, cứ khắc khoải/ưu tư về người “em” hôm trước, có còn ở thế gian. Chốn phàm trần. Đầy sự sống? Với giòng chảy ưu tư những tìm và kiếm, rất khắc khoải của một Marie Choquet, trong “Le Monde Magazine”, thì bạn và tôi ta đã bắt gặp giòng chảy tư tưởng qua chuyến Pháp du 24/7/2010, vừa qua:
“Từ lâu lắm, chừng như ta chẳng còn tìm hiểu gì đến giới trẻ, ở quê nhà. Chẳng còn biết họ đang ở nơi đâu. Chốn nào. Nay, mới lại tìm hiểu con người họ, qua lăng kính. Rất hiển vi. Sự thể là, ta lại đặt ra rất nhiều vấn đề, mà trước đây chẳng hề thấy. Tưởng chừng như đó là câu chuyện còn mới mẻ. Rất trầm kha. Sa đà. Cần ra tay tiếp cứu. Sa đà, vì người trẻ hôm nay chỉ biết những là bột trắng. Với tự vẫn. Cứ gia tăng rất đều. Mà thật ra trong đời họ chỉ thấy mỗi gia tăng, những là bạo lực.
Lâu nay, bạo lực đã trở thành vấn đề hệ trọng, mãi đến năm 2000, ta mới biết. Thế nhưng sau đó lại thôi, không đề cập đến. Thật hết sức. Nay, hãy thử suy tư về những gì ta có như một dữ kiện hiện rõ từ năm 1993, thời khắc có đến 1% số ngưòi trẻ trong nước vẫn gánh chịu nhiều bạo lực. Cả về giới tính. Cũng từ đó, ta lại thấy nó như một hiện tượng rất mới mẻ. Phải chăng đang có cái gì đó, vẫn đổi thay? Phải chăng, đây là dấu hiệu cho thấy người trẻ nay đang sa đà, tuột dốc? Không hẳn thế đâu. Bởi, điều này còn tùy vào góc độ, ta nhận xét. Thử xét về cái-gọi-là “bột trắng” lấy từ cây gai dầu mà xem.
Từ thập niên ’90, người ta đã nêu vấn đề này lên rất nhiều. Rồi cứ thế mà thiết lập/cài đặt một hiện tượng. Nay, thì chuyện ấy đã giảm sút. Chỉ mỗi điều, là nhiều người nay đâm ra lo âu. Sầu lắng. Hỏi han. Trong số những người ấy, có tôi. Lo rằng, ngày nay người ta thích tạo ra ảnh hình về người trẻ đang “sa đà”, làm cho thế hệ già đi trước, phải hoảng sợ. Ảnh hình tồi tệ, là làm thế sẽ tụt giảm phẩm giá của người trẻ. Và, đấng bậc mẹ cha, sẽ không còn biết quan tâm đủ về lớp người này, như trước.” (x. Marie Choquet “L’Image du jeune fait peur aux adultes”, Le Monde Magazine 24/7/10 tr. 24)
“May mà có Em”, còn là cái may ta vẫn được nghe. Được ngắm. Được gửi gắm đến bạn bè rất thân và rất thương, những lời nhạc dễ thương sau đây:
“Từ khi quen biết em,
Cuộc đời đáng yêu hơn.
Em như vị sao sáng
Giữa biển đời bao la,
Soi sáng trời tươi đẹp,
Tình yêu thương đậm đà.
Từ khi quen biết em,
Mọi người thấy như quen,
Em như ánh trăng thanh,
Lung linh ngàn sắc đẹp, bình yên.
Em như đêm trăng rằm
Thắp sáng tâm hồn anh,
Em như chút men say
Dạt dào sóng vỗ tim anh.
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Tim anh. Và cả đến tim em. Vẫn là trái tim êm đềm. Trong sáng. Rất men say. Con tim chân chính ấy, vẫn lan toả nhiều mối tình. Tình Chúa thương, toả chiếu hồn em. Tình em yêu đương đậm đà tình Chúa, như được nhắc rất nhiều ở lời vàng Kinh Sách, rất như sau:
“Hãy tìm kiếm Nước
trước đã,
và sự công chính của Người.
Và, các điều ấy
sẽ được ban thêm
cho các ngươi.”
(Mt 6: 33)
“May mà có Em”, là cũng rất may, vì nay vẫn còn những người Em và Anh vẫn rất thánh. Cứ tìm kiếm “Nước” ở nhiều nơi. Kiếm và tìm, như thánh nhân ngoài luồng/trong Đạo, hằng ra sức. Ở đâu đó.
“May mà có Em”, lại cũng rất may, vì nay đang có người em/người anh vẫn kiếm tìm sự lặng thinh. Để trầm tĩnh. Tựa như tác giả Bernard Toutounji, ở Sydney, cũng đã một lần tìm kiếm an bình/hiền. Cũng nói câu “May mà có Em”, như sau:
“Tuần rồi, tôi lái xe cả trăm cây số về mạn Nam Sydney để tìm về miền đất rất trầm và rất tĩnh, có đan viện. Đan viện tôi kiếm tìm, là một viện tu cho nữ giới Dòng Biển Đức ở Jamberoo, để lưu trú ít ngày. Viện Dòng chuyên tu tôi tìm đến, là chốn miền trước kia tôi từng đặt chân, rất lặng thinh. Im ắng. Tịch mịch. Thật sự, thì ít lâu nay tôi để mất cái thói quen tìm về nơi thanh vắng mà nguyện cầu, như Chúa dạy. Nay tìm được nơi này, tôi như người mở bung đôi cánh rút về chốn vắng, rất ấm êm. Xa và vắng, khỏi mọi hệ lụy của cái thế giới ồn ào. Náo nhiệt. Chỉ tranh giành.
Đến với lặng thinh mà chiêm và ngắm, tôi mang trong đầu một đoạn Kinh Sách trong đó có ghi rõ Phêrô thánh nhân cũng tìm đến với Thầy mình, nhũng bồng bềnh trên mặt nước. Trong một phút rất căng, thiếu bình tĩnh lặng thinh nơi tâm hồn, thánh nhân đã lặn ngụp trong nghi nan. Đa đoan. Thất bại. Tôi cũng thế. Nhiều tháng ngày trước đó, tôi cũng bị ngập ngụa trong thách đố, có từ cuộc sống. Thách và đố đến mức độ, tôi phải viết vào nhật ký nguyện cầu, những giòng chảy đượm những tình tự ra như ngập chìm trong tăm tối. Đắm đuối. Rất kiệt sức.
Trong tình huống buồn như thế, tôi tự nhủ: thay vì tìm vào lời kinh oang oang đầy tiếng động, tìm cộng hưởng, như nhiều người vẫn làm, tôi chỉ tìm chốn ắng im. Chìm ngập trong ca hát. Những thánh vịnh. Lời ca. Của Hội thánh. Và cứ thế, trong bốn ngày tham dự đầy đủ các giờ kinh hôm, ban sớm. Rất nhẹ nhàng. Thanh thoát. Tôi ngồi đó, để hồn mình bay bổng. Lắng đọng. Để lòng mình bay theo cung nhạc thần thánh. Rất thanh tao. Của viện tu. Dòng nữ. Có tiếng hát rất thiên thần từ cộng đoàn Nước Trời, ở nơi đây, nay cảm hoá linh hồn tôi. Theo cung cách của giọt nước nhỉu trên đá tảng, đang rớm lệ.
Đúng như vị linh mục Dòng Biển Đức nọ từng ghi chú: “Nguyện cầu với thánh vịnh, ta cứ tưởng mình chỉ có thể cảm hoá cuộc sống của người nào đó, thôi. Nhưng, có thể là, ta đã thay đổi cả tầm nhìn của thế giới. Đổi và thay, cả những quyết định có tính kinh tế, chính trị, cũng không lâu.”
Cảm nghiệm ấy, tôi đã đạt chỉ trong vòng có 4 ngày trời ngắn ngủi. Thế cũng đủ. Đủ, để tôi thấy được chính con người của bản thân tôi. Đủ, để cùng với lời ca/câu hát, qua thánh vịnh, tôi kết hợp chính mình với thế giới thiên thần mà con người đương đại không thể mang lại cho một ai. Kim đồng hồ thế giới vẫn cứ quay cuồng, nhiều tình tiết. Nhưng, chừng như nó đã dừng lại, nơi tôi.
Từ những kinh nghiệm riêng tây, tôi trộm nghĩ: Phải chi mọi người, từ già đến trẻ. Đã có gia đình, hoặc còn độc thân. Ta cứ cùng nhau hợp quần, vứt bỏ thì giờ uổng phí. Bỏ tất cả. Bỏ mọi người, chốn ồn ào đầy tranh chấp. Mà đến với Chúa. Trong lặng thinh. Chỉ cần bỏ ra một ít tháng ngày. Phút giây. Mà, tìm về với thinh lặng. Im ắng. Để nguyện cầu. Với Chúa. Với nhau. Rồi ra, ta sẽ bắt gặp lời mời của Chúa khi xưa nói với Phêrô thánh nhân, rằng: Con hãy bưóc ra khỏi con thuyền chòng chành đầy nghi vấn. Cứ vững tin mà bước tới, ta sẽ thực hiện được nhiều điều ta mong ước.” (x. Bernard Toutounji, An opportunity to walk on water, The Catholic Weekly 22/08/2010 tr. 13)
“May mà có Em” hôm nay, là đã có bạn/có tôi, ta được nghe tâm tình nhiều bạn hữu, tuy chưa biết, nhưng đã quen. Quen như tiếng hát, ta từng nghe rất nhiều, thời buổi trước. Quen như giòng chảy thi ca/âm nhạc, nhiều thể loại. Dù, nó có là thể loại nào đi nữa. Dù, nó có là lời bạn của bạn bè người thân như lời nhận định của ai đó trong truyện kể, để thư giãn và minh hoạ, ở bên dưới:
“Truyện kể, để hỏi bạn hỏi tôi, ta đang dùng thể loại âm nhạc nào, để ca hát. Cho mọi người.
Truyện rằng:
Vào giờ học Anh ngữ, cô giáo cho học sinh tập tành việc giao tiếp với giới âm nhạc rồi ghi vào báo cáo. Để mọi người còn biết mà đặt tên. Nghe hỏi, hai bạn bảo nhau: - Mày thích loại nhạc gì? - Nhạc Hip Hop đó. - Còn mày thích nhạc nào? - Disco. - Được rồi. Bọn mình cứ ghi vô. - Nhưng chữ ấy, viết làm sao? - Tao đâu biết. - Đúng rồi, đó là tên mà tụi Tây nó dùng để chỉ loại nhạc kích động, mình chỉ ghi phiên âm thôi - Ừ đúng thế! Với lại bà thày có lấy điểm đâu mà mình lo.... Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo: "Thể loại nhạc tôi ưa nhất là: Híp hóp và Đi đi Cô" !!!!
Thể loại nhạc ta ưa hát, có là thánh vịnh hoặc bình ca cũng đều được. Miễn là, cất lên lời kinh nguyện cầu dù có nhịp điệu, hay nhạc giựt Disco, hoặc xô bồ gì gì đi nữa cũng đặng. Đặng, là vì chắc chắn trong nguyện cầu luôn có giòng chảy của âm nhạc. Của lặng thinh. Thì, cũng vẫn đưa mình đến với Chúa, trong kiếm tìm. Tìm đến Ngài để ca hát. Chúc tụng. Chúc rằng: May mà có Em. Có Anh. Có Chúa, trong đời mình. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Hạp ý Chúa. Vừa ý mình. Là được.
Trần Ngọc Mười Hai.
Xưa nay vẫn muốn hát
những giòng nhạc lặng thinh.
Rất kiếm tìm một tình yêu.
Chí ít là khi được tin người anh ruột
vừa chấm dứt một tìm kiếm
rất lặng thinh.Trong đời.
Để, về với Cha. Với Chúa.
(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com
hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;
hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com )
at 7:00 AM 0 comments
Saturday, 21 August 2010
“Đôi khi anh muốn tin,”
đôi khi anh muốn tin,
ngoài đời chỉ còn trời sao đáng kể,
mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em…” (Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền - Lệ Đá Xanh)
(Lc 8: 11-13)
Có câu hỏi, đá xanh mà cũng lanh chanh đổ lệ, huống chi con người và, người con của Trời?
Ấy đó, là câu hỏi mà bần đạo vẫn để bụng, quyết mang theo. Mang theo rồi sẽ hỏi, rất nhiều người. Hỏi, cả hướng dẫn viên du lịch Do Thái mang tên John, từng có 42 năm kinh nghiệm về những đá và sỏi ở Giêrusalem. Vào hôm ấy, ngày đầu niên lịch 2009, ông lại cứ bảo: Do thái và nhất là Giêrusalem này, toàn những đá và đá. Nghe thấy lạ, bần đạo bèn phát biểu: biết đâu, sau này, đá ở đây lại quý hơn vàng ròng, ngọc quý, cũng rất nên.
Hôm nay hỏi và nói về đá, là hỏi và nói những câu rất ngấn lệ. Hỏi và nói, như từng nói và hỏi bà con vào buổi “Hát cho nhau nghe” với chủ đề “Tìm Chút Hương Yêu”. Độ tháng 6 năm 2010 hôm ấy, có bạn trẻ từng hỏi và đã nói về hai bài hát trình bày trong đêm nhạc là bài “Lệ Đá Xanh” của Cung Tiến và “Nửa Hồn Thương Đau” của Phạm Đình Chương, rất như sau:
“Về đá xanh, nhiều nhạc sĩ từng gợi hứng từ bài thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền trước nhất có nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc có đầu đề là “Lệ Đá Xanh”, gửi tặng Phạm Đình Chương. Rồi Phạm Đình Chương đáp lễ bằng bài “Nửa Hồn Thương Đau”. Sau đó, người viết nhạc là Trần Trịnh cho ra bài ca mang tên “Lệ Đá”, và Trịnh Công Sơn với bài “Tuổi Đá Buồn”. Riêng Phạm Duy lại cảm kích lời thơ đầy “sữa mật” đã cho ra bản tình ca đầy những sữa có tên là “Dạ Lai Hương”. Ở nhà Đạo, ta có Đoàn Vi Hạ, với bài “Bờ Đá Xanh Tạ Tội”… Tóm lại, “lệ đá” hay “đá ngấn lệ’ lâu nay trở thành đề tài cho thi nhân, nhạc sĩ cất lên những thanh âm của tình yêu, rất da diết…”
Thanh âm da diết và diết da, còn là âm thanh đượm đầy những lệ của đá, như sau:
“Đôi khi anh vẫn tin, đôi khi anh vẫn tin,
Ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền,
mà bên trái cây ngọt ngào đôi môi em,…
nguồn sữa mật khởi đầu.”
(Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Cũng từ bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nghệ sĩ Phạm Quang Tuấn, lại viết khác. Vẫn rất hay:
“Anh muốn tin,
ngoài đời thơm phức
những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào
những trái cây ngọt ngào…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – Lệ Đá Xanh)
Phải chăng, trái cây ngọt ngào thơm phức “của Thượng Đế ở đây, không là “đôi môi em”, hay “miệng lưỡi” của anh nữa. Mà là “nguồn sữa mật khởi đầu”, âu sầu giòng lệ đá, vẫn rất xanh? Thật ra thì, “sữa mật” đầy nguồn còn là Lời Vàng của Thượng Đế nhân gian vẫn nói ở Kinh Sách:
“Đây là ý nghĩa dụ ngôn:
Hạt giống là lời Thiên Chúa.
Những kẻ ở bên vệ đường
là những kẻ đã nghe
nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ,
kẻo họ tin mà được cứu độ.
Còn những kẻ ở trên đá
là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời,
nhưng họ không có rễ.
Họ tin nhất thời,
và khi gặp thử thách,
họ bỏ cuộc.”
(Lc 8: 11-13)
Về tin để được cứu độ, nói nôm na như câu ca ở giòng nhạc “Đôi khi anh muốn tin”, rất nhất thời, lại có tác giả người Hoa, con rể cố Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm, giáo sư thỉnh giảng đại học Stanford ở Mỹ, cũng có bàn về niềm tin văn hoá lâu nay được người người coi là “sắt đá”, đã trần tình về niềm tin văn hoá sử Đông/Tây như sau:
“Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt/cái đúng thành cái xấu/cái sai. Thời cổ, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.
Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư tưởng. Mặc, bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình, cho nên tìm được ánh sáng tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự sáng của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm…”(X. Liu Ya-zhou, Trung Quốc Bàn về niềm tin và đạo đức, Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch, trích từ bài nói chuyện của ông hôm 11/9/2002 ở Vân Nam)
Tin hay không tin, về văn hoá sử rất sắt đá, hay chỉ là “Đôi khi anh muốn tin”, “những trái cây của Thượng Đế”, vẫn còn đó lời kể của thánh sử, như sau:
“Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết:
anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
(Mt 16: 18)
Có một sự kiện, là: buổi hôm ấy nhiều người tìm về Castagniers, Pháp Quốc, cũng đã tìm về sự lặng thinh của đất đá trên núi đá, đã phát giác ra được sự thật do thánh nhân ngoài đời/trong Đạo, cũng rất bạo và dạn, như sau:
“Như tôi đã nói trước đây, tôi tuyệt đối tin rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo hiện nay là quý giá và thích đáng. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của thế giới nói một thứ ngôn ngữ và gửi đến một thông điệp chung mà chúng ta có thể dựa vào để xây dựng một sự hoà thuận nhau thật sự.” (X. Le Dalai Lama parle de Jésus, Editions Brepols Paris 1996, Vĩnh An dịch Thiện Tri Thức in năm 2003, tr. 26)
Thông điệp về sự hoà thuận mà thánh-nhân-ngoài Đạo nói đến, vẫn ghi lại lời lẽ đẹp như sau:
“Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sự tham thiền về tình yêu và lòng thương xót trong bối cảnh Kitô-giáo. Khi tham thiền theo phân tích, chúng ta đi theo những hướng tư duy đặc biệt như: để thật sự yêu Thiên Chúa, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hành động yêu thương chân thật anh em nhân loại của mình. Người ta cũng có thể suy nghĩ về cuộc đời và gương sáng của Đức Giêsu Kitô trong bản thân Ngài, Ngài đã sống và hoạt động như thế nào để đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các hành động của Ngài đã minh hoạ một phong cách sống tràn đầy lòng thương xót.”(Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t.27)
Xem như thế, những lời và lẽ như “Đôi khi anh muốn tin”, hoặc “Bờ Đá Xanh Tạ Từ” ở các bài hát, vẫn là những tình tự về lòng thương xót. Tình yêu. Sự thật. Nhưũng sự rất thật, mà thánh-nhân-ngoài-Đạo, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, thêm một lần xác tín, rất như sau:
“Nhờ có những suy tư đó, các bạn ngày càng xác tín vào sự quan trọng và giá trị của lòng thương xót và khoan dung. Một khi đã đạt tới niềm xác tín tuyệt đối về giá trị và sự thiết yếu của lòng thương xót và khoan dung, các bạn sẽ có cảm giác được xúc cảm và biến đổi từ bên trong.” (x. Đức ĐạtLai ĐạtMa, sđd t. 28)
Và bậc thánh-nhân, lại quả quyết:
“Khi đọc đoạn Matthêô 5, 38-42, tôi thấy Phúc Âm đặt nặng sự thực hành lòng khoan dung và đề cao tình cảm vô tư, không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo ý kiến của tôi, để triển khai năng lực khoan dung đối với mọi người, và đặc biệt với một kẻ thù, điều kiện quan trọng tiên quyết là tiếp nhận mọi người với tính bình đẳng. Nếu người ta nói với bạn rằng không nên thù nghịch kẻ thù mà phải yêu mến hắn, chỉ khẳng định như thế sẽ không khuyến khích các bạn thay đổi. Đối với mỗi người chúng ta, cảm thấy sự thù nghịch đối với những người làm khổ bạn và có cảm tình với những người yêu thương bạn là hoàn toàn tự nhiên. Đây là tình cảm tự nhiên của con người. Vậy, chúng ta phải sử dụng các kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta vượt qua từ sự thiên vị nội tại trong bản tính, đến một tình trạng bình đẳng cao nhất.” (x. Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t. 32)
Cuối cùng thì, đá tảng có nhỏ lệ, mầu rất xanh hoặc như lời của người viết nhạc họ Trịnh có đặt tên gọi cho nhạc bản của mình là “Tuổi Đá Buồn” đi chăng nữa, thì tuổi buồn như đá, vẫn là tuổi già hay trẻ, chẳng biết dựng xây căn nhà “yêu thương” của mình hay của người, ở trên đá. Xây như thế, rồi anh rồi em sẽ cùng với người viết nhạc Phạm Quang Tuấn hát tiếp lời ca cuối, có những câu:
“Anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Trong tay em…
Trong tay em…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vòng ân ái, có là nỗi niềm ái ân, của người thân hay khác lạ, ở ngoài đời vẫn ngấn lệ đi chăng nữa, hãy cứ hát lên một lời cuối cho em. Và cho anh. Như sau:
“Đôi khi anh muốn tin
Ôi những người khóc lẻ loi
Lệ là những viên đá xanh
Lệ là những viên đá xanh…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vâng. Đá rất xanh. Có nhỏ lệ, nhiều hay ít, cũng còn tùy. Tùy anh. Tùy em. Tùy mọi người có tin rằng đá tảng mà Chúa đặt tên cho Simôn Phêrô, để xây dựng Hội thánh lên trên đó, chính là Tình Yêu. Của Ngài. Của muôn người.
Trần Ngọc Mười Hai
Đã biết thôi không nhỏ nữa.
Những giòng lệ cho đá.
Vẫn rất xanh.
May mà có em”.
(Nguyễn Thiện Bản – MayMà Có Em)
(Mt 6: 33)
Chính đó, là tựa đề và ý từ của nhạc bản do người viết nhạc “Đạo vào đời”, rất tài tử. Nhạc của anh tuy không chuyên, nhưng rất đạt. Tên anh là Bosco Nguyễn Thiện (rất) Bản, người anh em trong đại Gia Đình An Phong ở Mỹ mà bần đạo quen từ lâu, nhưng chưa một lần gặp mặt.
Dù chưa gặp mặt hoặc diện kiến dung nhan còn rất trẻ của anh, bần đạo cũng biết ý/từ anh sáng tác, là tư tưởng gợi hứng từ Đạo Chúa, mà anh gọi bằng “Em”. Em đây, đích thị là người em của anh, trong Đạo. Cũng có thể, là chính Chúa hện diện nơi tâm can bạn bè ở Nước Trời. Là tôi. Là bạn. Là chính chúng ta. Là ai nữa, vẫn xin gửi đến anh rất Thiện Bản tràng pháo nổ dòn. Rất cảm kích.
Cứ sự thường, bần đạo có thói tật không được hay cho lắm là: ít chịu “bốc thơm” người nhà mình. Chí ít, là người anh/người chị ở đâu đó, có Nước Trời. Bởi, ai lại cứ nghe “Em hát chị khen hay” bao giờ. Nhưng, ở đây người em hay hát -và hát rất hay- thuộc dân con nhà Đạo, ở Nước Trời. Bởi, anh đã nhận được thần hứng hứng từ nhiều thứ. Nhiều nơi. Trong đời. Từ chính trị/thời sự, cho đến thần học/tu đức. Rồi, biến nó thành ca khúc, dẫn người nghe vào cõi “mê” có chúc tụng, ngợi khen Chúa. Không tin ư? Xin bạn và tôi, ta nghe tiếp lời nhạc như sau:
“Từ khi quen biết em
Đời anh thấy vui hơn.
Em như cánh hoa thắm
Giữa vườn tình muôn sắc.
Tô thắm đời xinh đẹp,
Toả hương yêu dạt dào.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Sự thật là thế đó. Nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người viết nhạc họ Từ tên rất ư là Công Phụng, khi ông bảo: hễ người nghệ sĩ ới gọi tên “Em”, thì người ”em” đó không chỉ là “em tôi”. Mà là, người nghe hay người đọc, rất vân vân. Với nhạc bản hôm nay, “Em” còn có nghĩa là ”cành hoa thắm”. “Gió trong đêm”. Là, “con sông dài”, “áng mây trôi”, và gì gì nữa, nếu hát thêm:
“Em như nắng ấm quê ta,
Cho anh mơ ước bao la.
May mà có EM
Em như tiếng hát trong ta
Hương yêu thơm ngát muôn hoa.
May mà có EM
May mà có EM
May mà có EM.”
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
“May mà có Em”, là có những người, làm bạn/làm tôi thêm phấn chấn. Có những người tuổi rất nhỏ đang lưu lạc, ở đâu đó. Khiến mọi người, cả em lẫn tôi, ta vẫn kiếm tìm. Kiếm, một tình tự. Tìm, sự thân thương. Đã luột mất.
“May mà có Em”, cũng may là: vẫn còn đó, người anh/người chị đi trước, cứ khắc khoải/ưu tư về người “em” hôm trước, có còn ở thế gian. Chốn phàm trần. Đầy sự sống? Với giòng chảy ưu tư những tìm và kiếm, rất khắc khoải của một Marie Choquet, trong “Le Monde Magazine”, thì bạn và tôi ta đã bắt gặp giòng chảy tư tưởng qua chuyến Pháp du 24/7/2010, vừa qua:
“Từ lâu lắm, chừng như ta chẳng còn tìm hiểu gì đến giới trẻ, ở quê nhà. Chẳng còn biết họ đang ở nơi đâu. Chốn nào. Nay, mới lại tìm hiểu con người họ, qua lăng kính. Rất hiển vi. Sự thể là, ta lại đặt ra rất nhiều vấn đề, mà trước đây chẳng hề thấy. Tưởng chừng như đó là câu chuyện còn mới mẻ. Rất trầm kha. Sa đà. Cần ra tay tiếp cứu. Sa đà, vì người trẻ hôm nay chỉ biết những là bột trắng. Với tự vẫn. Cứ gia tăng rất đều. Mà thật ra trong đời họ chỉ thấy mỗi gia tăng, những là bạo lực.
Lâu nay, bạo lực đã trở thành vấn đề hệ trọng, mãi đến năm 2000, ta mới biết. Thế nhưng sau đó lại thôi, không đề cập đến. Thật hết sức. Nay, hãy thử suy tư về những gì ta có như một dữ kiện hiện rõ từ năm 1993, thời khắc có đến 1% số ngưòi trẻ trong nước vẫn gánh chịu nhiều bạo lực. Cả về giới tính. Cũng từ đó, ta lại thấy nó như một hiện tượng rất mới mẻ. Phải chăng đang có cái gì đó, vẫn đổi thay? Phải chăng, đây là dấu hiệu cho thấy người trẻ nay đang sa đà, tuột dốc? Không hẳn thế đâu. Bởi, điều này còn tùy vào góc độ, ta nhận xét. Thử xét về cái-gọi-là “bột trắng” lấy từ cây gai dầu mà xem.
Từ thập niên ’90, người ta đã nêu vấn đề này lên rất nhiều. Rồi cứ thế mà thiết lập/cài đặt một hiện tượng. Nay, thì chuyện ấy đã giảm sút. Chỉ mỗi điều, là nhiều người nay đâm ra lo âu. Sầu lắng. Hỏi han. Trong số những người ấy, có tôi. Lo rằng, ngày nay người ta thích tạo ra ảnh hình về người trẻ đang “sa đà”, làm cho thế hệ già đi trước, phải hoảng sợ. Ảnh hình tồi tệ, là làm thế sẽ tụt giảm phẩm giá của người trẻ. Và, đấng bậc mẹ cha, sẽ không còn biết quan tâm đủ về lớp người này, như trước.” (x. Marie Choquet “L’Image du jeune fait peur aux adultes”, Le Monde Magazine 24/7/10 tr. 24)
“May mà có Em”, còn là cái may ta vẫn được nghe. Được ngắm. Được gửi gắm đến bạn bè rất thân và rất thương, những lời nhạc dễ thương sau đây:
“Từ khi quen biết em,
Cuộc đời đáng yêu hơn.
Em như vị sao sáng
Giữa biển đời bao la,
Soi sáng trời tươi đẹp,
Tình yêu thương đậm đà.
Từ khi quen biết em,
Mọi người thấy như quen,
Em như ánh trăng thanh,
Lung linh ngàn sắc đẹp, bình yên.
Em như đêm trăng rằm
Thắp sáng tâm hồn anh,
Em như chút men say
Dạt dào sóng vỗ tim anh.
(Nguyễn Thiện Bản – bđd)
Tim anh. Và cả đến tim em. Vẫn là trái tim êm đềm. Trong sáng. Rất men say. Con tim chân chính ấy, vẫn lan toả nhiều mối tình. Tình Chúa thương, toả chiếu hồn em. Tình em yêu đương đậm đà tình Chúa, như được nhắc rất nhiều ở lời vàng Kinh Sách, rất như sau:
“Hãy tìm kiếm Nước
trước đã,
và sự công chính của Người.
Và, các điều ấy
sẽ được ban thêm
cho các ngươi.”
(Mt 6: 33)
“May mà có Em”, là cũng rất may, vì nay vẫn còn những người Em và Anh vẫn rất thánh. Cứ tìm kiếm “Nước” ở nhiều nơi. Kiếm và tìm, như thánh nhân ngoài luồng/trong Đạo, hằng ra sức. Ở đâu đó.
“May mà có Em”, lại cũng rất may, vì nay đang có người em/người anh vẫn kiếm tìm sự lặng thinh. Để trầm tĩnh. Tựa như tác giả Bernard Toutounji, ở Sydney, cũng đã một lần tìm kiếm an bình/hiền. Cũng nói câu “May mà có Em”, như sau:
“Tuần rồi, tôi lái xe cả trăm cây số về mạn Nam Sydney để tìm về miền đất rất trầm và rất tĩnh, có đan viện. Đan viện tôi kiếm tìm, là một viện tu cho nữ giới Dòng Biển Đức ở Jamberoo, để lưu trú ít ngày. Viện Dòng chuyên tu tôi tìm đến, là chốn miền trước kia tôi từng đặt chân, rất lặng thinh. Im ắng. Tịch mịch. Thật sự, thì ít lâu nay tôi để mất cái thói quen tìm về nơi thanh vắng mà nguyện cầu, như Chúa dạy. Nay tìm được nơi này, tôi như người mở bung đôi cánh rút về chốn vắng, rất ấm êm. Xa và vắng, khỏi mọi hệ lụy của cái thế giới ồn ào. Náo nhiệt. Chỉ tranh giành.
Đến với lặng thinh mà chiêm và ngắm, tôi mang trong đầu một đoạn Kinh Sách trong đó có ghi rõ Phêrô thánh nhân cũng tìm đến với Thầy mình, nhũng bồng bềnh trên mặt nước. Trong một phút rất căng, thiếu bình tĩnh lặng thinh nơi tâm hồn, thánh nhân đã lặn ngụp trong nghi nan. Đa đoan. Thất bại. Tôi cũng thế. Nhiều tháng ngày trước đó, tôi cũng bị ngập ngụa trong thách đố, có từ cuộc sống. Thách và đố đến mức độ, tôi phải viết vào nhật ký nguyện cầu, những giòng chảy đượm những tình tự ra như ngập chìm trong tăm tối. Đắm đuối. Rất kiệt sức.
Trong tình huống buồn như thế, tôi tự nhủ: thay vì tìm vào lời kinh oang oang đầy tiếng động, tìm cộng hưởng, như nhiều người vẫn làm, tôi chỉ tìm chốn ắng im. Chìm ngập trong ca hát. Những thánh vịnh. Lời ca. Của Hội thánh. Và cứ thế, trong bốn ngày tham dự đầy đủ các giờ kinh hôm, ban sớm. Rất nhẹ nhàng. Thanh thoát. Tôi ngồi đó, để hồn mình bay bổng. Lắng đọng. Để lòng mình bay theo cung nhạc thần thánh. Rất thanh tao. Của viện tu. Dòng nữ. Có tiếng hát rất thiên thần từ cộng đoàn Nước Trời, ở nơi đây, nay cảm hoá linh hồn tôi. Theo cung cách của giọt nước nhỉu trên đá tảng, đang rớm lệ.
Đúng như vị linh mục Dòng Biển Đức nọ từng ghi chú: “Nguyện cầu với thánh vịnh, ta cứ tưởng mình chỉ có thể cảm hoá cuộc sống của người nào đó, thôi. Nhưng, có thể là, ta đã thay đổi cả tầm nhìn của thế giới. Đổi và thay, cả những quyết định có tính kinh tế, chính trị, cũng không lâu.”
Cảm nghiệm ấy, tôi đã đạt chỉ trong vòng có 4 ngày trời ngắn ngủi. Thế cũng đủ. Đủ, để tôi thấy được chính con người của bản thân tôi. Đủ, để cùng với lời ca/câu hát, qua thánh vịnh, tôi kết hợp chính mình với thế giới thiên thần mà con người đương đại không thể mang lại cho một ai. Kim đồng hồ thế giới vẫn cứ quay cuồng, nhiều tình tiết. Nhưng, chừng như nó đã dừng lại, nơi tôi.
Từ những kinh nghiệm riêng tây, tôi trộm nghĩ: Phải chi mọi người, từ già đến trẻ. Đã có gia đình, hoặc còn độc thân. Ta cứ cùng nhau hợp quần, vứt bỏ thì giờ uổng phí. Bỏ tất cả. Bỏ mọi người, chốn ồn ào đầy tranh chấp. Mà đến với Chúa. Trong lặng thinh. Chỉ cần bỏ ra một ít tháng ngày. Phút giây. Mà, tìm về với thinh lặng. Im ắng. Để nguyện cầu. Với Chúa. Với nhau. Rồi ra, ta sẽ bắt gặp lời mời của Chúa khi xưa nói với Phêrô thánh nhân, rằng: Con hãy bưóc ra khỏi con thuyền chòng chành đầy nghi vấn. Cứ vững tin mà bước tới, ta sẽ thực hiện được nhiều điều ta mong ước.” (x. Bernard Toutounji, An opportunity to walk on water, The Catholic Weekly 22/08/2010 tr. 13)
“May mà có Em” hôm nay, là đã có bạn/có tôi, ta được nghe tâm tình nhiều bạn hữu, tuy chưa biết, nhưng đã quen. Quen như tiếng hát, ta từng nghe rất nhiều, thời buổi trước. Quen như giòng chảy thi ca/âm nhạc, nhiều thể loại. Dù, nó có là thể loại nào đi nữa. Dù, nó có là lời bạn của bạn bè người thân như lời nhận định của ai đó trong truyện kể, để thư giãn và minh hoạ, ở bên dưới:
“Truyện kể, để hỏi bạn hỏi tôi, ta đang dùng thể loại âm nhạc nào, để ca hát. Cho mọi người.
Truyện rằng:
Vào giờ học Anh ngữ, cô giáo cho học sinh tập tành việc giao tiếp với giới âm nhạc rồi ghi vào báo cáo. Để mọi người còn biết mà đặt tên. Nghe hỏi, hai bạn bảo nhau: - Mày thích loại nhạc gì? - Nhạc Hip Hop đó. - Còn mày thích nhạc nào? - Disco. - Được rồi. Bọn mình cứ ghi vô. - Nhưng chữ ấy, viết làm sao? - Tao đâu biết. - Đúng rồi, đó là tên mà tụi Tây nó dùng để chỉ loại nhạc kích động, mình chỉ ghi phiên âm thôi - Ừ đúng thế! Với lại bà thày có lấy điểm đâu mà mình lo.... Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo: "Thể loại nhạc tôi ưa nhất là: Híp hóp và Đi đi Cô" !!!!
Thể loại nhạc ta ưa hát, có là thánh vịnh hoặc bình ca cũng đều được. Miễn là, cất lên lời kinh nguyện cầu dù có nhịp điệu, hay nhạc giựt Disco, hoặc xô bồ gì gì đi nữa cũng đặng. Đặng, là vì chắc chắn trong nguyện cầu luôn có giòng chảy của âm nhạc. Của lặng thinh. Thì, cũng vẫn đưa mình đến với Chúa, trong kiếm tìm. Tìm đến Ngài để ca hát. Chúc tụng. Chúc rằng: May mà có Em. Có Anh. Có Chúa, trong đời mình. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Hạp ý Chúa. Vừa ý mình. Là được.
Trần Ngọc Mười Hai.
Xưa nay vẫn muốn hát
những giòng nhạc lặng thinh.
Rất kiếm tìm một tình yêu.
Chí ít là khi được tin người anh ruột
vừa chấm dứt một tìm kiếm
rất lặng thinh.Trong đời.
Để, về với Cha. Với Chúa.
(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com
hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;
hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com )
at 7:00 AM 0 comments
Saturday, 21 August 2010
“Đôi khi anh muốn tin,”
đôi khi anh muốn tin,
ngoài đời chỉ còn trời sao đáng kể,
mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em…” (Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền - Lệ Đá Xanh)
(Lc 8: 11-13)
Có câu hỏi, đá xanh mà cũng lanh chanh đổ lệ, huống chi con người và, người con của Trời?
Ấy đó, là câu hỏi mà bần đạo vẫn để bụng, quyết mang theo. Mang theo rồi sẽ hỏi, rất nhiều người. Hỏi, cả hướng dẫn viên du lịch Do Thái mang tên John, từng có 42 năm kinh nghiệm về những đá và sỏi ở Giêrusalem. Vào hôm ấy, ngày đầu niên lịch 2009, ông lại cứ bảo: Do thái và nhất là Giêrusalem này, toàn những đá và đá. Nghe thấy lạ, bần đạo bèn phát biểu: biết đâu, sau này, đá ở đây lại quý hơn vàng ròng, ngọc quý, cũng rất nên.
Hôm nay hỏi và nói về đá, là hỏi và nói những câu rất ngấn lệ. Hỏi và nói, như từng nói và hỏi bà con vào buổi “Hát cho nhau nghe” với chủ đề “Tìm Chút Hương Yêu”. Độ tháng 6 năm 2010 hôm ấy, có bạn trẻ từng hỏi và đã nói về hai bài hát trình bày trong đêm nhạc là bài “Lệ Đá Xanh” của Cung Tiến và “Nửa Hồn Thương Đau” của Phạm Đình Chương, rất như sau:
“Về đá xanh, nhiều nhạc sĩ từng gợi hứng từ bài thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền trước nhất có nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc có đầu đề là “Lệ Đá Xanh”, gửi tặng Phạm Đình Chương. Rồi Phạm Đình Chương đáp lễ bằng bài “Nửa Hồn Thương Đau”. Sau đó, người viết nhạc là Trần Trịnh cho ra bài ca mang tên “Lệ Đá”, và Trịnh Công Sơn với bài “Tuổi Đá Buồn”. Riêng Phạm Duy lại cảm kích lời thơ đầy “sữa mật” đã cho ra bản tình ca đầy những sữa có tên là “Dạ Lai Hương”. Ở nhà Đạo, ta có Đoàn Vi Hạ, với bài “Bờ Đá Xanh Tạ Tội”… Tóm lại, “lệ đá” hay “đá ngấn lệ’ lâu nay trở thành đề tài cho thi nhân, nhạc sĩ cất lên những thanh âm của tình yêu, rất da diết…”
Thanh âm da diết và diết da, còn là âm thanh đượm đầy những lệ của đá, như sau:
“Đôi khi anh vẫn tin, đôi khi anh vẫn tin,
Ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền,
mà bên trái cây ngọt ngào đôi môi em,…
nguồn sữa mật khởi đầu.”
(Cung Tiến/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Cũng từ bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nghệ sĩ Phạm Quang Tuấn, lại viết khác. Vẫn rất hay:
“Anh muốn tin,
ngoài đời thơm phức
những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào
những trái cây ngọt ngào…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – Lệ Đá Xanh)
Phải chăng, trái cây ngọt ngào thơm phức “của Thượng Đế ở đây, không là “đôi môi em”, hay “miệng lưỡi” của anh nữa. Mà là “nguồn sữa mật khởi đầu”, âu sầu giòng lệ đá, vẫn rất xanh? Thật ra thì, “sữa mật” đầy nguồn còn là Lời Vàng của Thượng Đế nhân gian vẫn nói ở Kinh Sách:
“Đây là ý nghĩa dụ ngôn:
Hạt giống là lời Thiên Chúa.
Những kẻ ở bên vệ đường
là những kẻ đã nghe
nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ,
kẻo họ tin mà được cứu độ.
Còn những kẻ ở trên đá
là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời,
nhưng họ không có rễ.
Họ tin nhất thời,
và khi gặp thử thách,
họ bỏ cuộc.”
(Lc 8: 11-13)
Về tin để được cứu độ, nói nôm na như câu ca ở giòng nhạc “Đôi khi anh muốn tin”, rất nhất thời, lại có tác giả người Hoa, con rể cố Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm, giáo sư thỉnh giảng đại học Stanford ở Mỹ, cũng có bàn về niềm tin văn hoá lâu nay được người người coi là “sắt đá”, đã trần tình về niềm tin văn hoá sử Đông/Tây như sau:
“Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt/cái đúng thành cái xấu/cái sai. Thời cổ, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.
Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư tưởng. Mặc, bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình, cho nên tìm được ánh sáng tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự sáng của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm…”(X. Liu Ya-zhou, Trung Quốc Bàn về niềm tin và đạo đức, Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch, trích từ bài nói chuyện của ông hôm 11/9/2002 ở Vân Nam)
Tin hay không tin, về văn hoá sử rất sắt đá, hay chỉ là “Đôi khi anh muốn tin”, “những trái cây của Thượng Đế”, vẫn còn đó lời kể của thánh sử, như sau:
“Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết:
anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
(Mt 16: 18)
Có một sự kiện, là: buổi hôm ấy nhiều người tìm về Castagniers, Pháp Quốc, cũng đã tìm về sự lặng thinh của đất đá trên núi đá, đã phát giác ra được sự thật do thánh nhân ngoài đời/trong Đạo, cũng rất bạo và dạn, như sau:
“Như tôi đã nói trước đây, tôi tuyệt đối tin rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo hiện nay là quý giá và thích đáng. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của thế giới nói một thứ ngôn ngữ và gửi đến một thông điệp chung mà chúng ta có thể dựa vào để xây dựng một sự hoà thuận nhau thật sự.” (X. Le Dalai Lama parle de Jésus, Editions Brepols Paris 1996, Vĩnh An dịch Thiện Tri Thức in năm 2003, tr. 26)
Thông điệp về sự hoà thuận mà thánh-nhân-ngoài Đạo nói đến, vẫn ghi lại lời lẽ đẹp như sau:
“Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sự tham thiền về tình yêu và lòng thương xót trong bối cảnh Kitô-giáo. Khi tham thiền theo phân tích, chúng ta đi theo những hướng tư duy đặc biệt như: để thật sự yêu Thiên Chúa, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hành động yêu thương chân thật anh em nhân loại của mình. Người ta cũng có thể suy nghĩ về cuộc đời và gương sáng của Đức Giêsu Kitô trong bản thân Ngài, Ngài đã sống và hoạt động như thế nào để đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các hành động của Ngài đã minh hoạ một phong cách sống tràn đầy lòng thương xót.”(Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t.27)
Xem như thế, những lời và lẽ như “Đôi khi anh muốn tin”, hoặc “Bờ Đá Xanh Tạ Từ” ở các bài hát, vẫn là những tình tự về lòng thương xót. Tình yêu. Sự thật. Nhưũng sự rất thật, mà thánh-nhân-ngoài-Đạo, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, thêm một lần xác tín, rất như sau:
“Nhờ có những suy tư đó, các bạn ngày càng xác tín vào sự quan trọng và giá trị của lòng thương xót và khoan dung. Một khi đã đạt tới niềm xác tín tuyệt đối về giá trị và sự thiết yếu của lòng thương xót và khoan dung, các bạn sẽ có cảm giác được xúc cảm và biến đổi từ bên trong.” (x. Đức ĐạtLai ĐạtMa, sđd t. 28)
Và bậc thánh-nhân, lại quả quyết:
“Khi đọc đoạn Matthêô 5, 38-42, tôi thấy Phúc Âm đặt nặng sự thực hành lòng khoan dung và đề cao tình cảm vô tư, không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo ý kiến của tôi, để triển khai năng lực khoan dung đối với mọi người, và đặc biệt với một kẻ thù, điều kiện quan trọng tiên quyết là tiếp nhận mọi người với tính bình đẳng. Nếu người ta nói với bạn rằng không nên thù nghịch kẻ thù mà phải yêu mến hắn, chỉ khẳng định như thế sẽ không khuyến khích các bạn thay đổi. Đối với mỗi người chúng ta, cảm thấy sự thù nghịch đối với những người làm khổ bạn và có cảm tình với những người yêu thương bạn là hoàn toàn tự nhiên. Đây là tình cảm tự nhiên của con người. Vậy, chúng ta phải sử dụng các kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta vượt qua từ sự thiên vị nội tại trong bản tính, đến một tình trạng bình đẳng cao nhất.” (x. Đức ĐạtLai LạtMa, sđd t. 32)
Cuối cùng thì, đá tảng có nhỏ lệ, mầu rất xanh hoặc như lời của người viết nhạc họ Trịnh có đặt tên gọi cho nhạc bản của mình là “Tuổi Đá Buồn” đi chăng nữa, thì tuổi buồn như đá, vẫn là tuổi già hay trẻ, chẳng biết dựng xây căn nhà “yêu thương” của mình hay của người, ở trên đá. Xây như thế, rồi anh rồi em sẽ cùng với người viết nhạc Phạm Quang Tuấn hát tiếp lời ca cuối, có những câu:
“Anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
Trong tay em…
Trong tay em…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vòng ân ái, có là nỗi niềm ái ân, của người thân hay khác lạ, ở ngoài đời vẫn ngấn lệ đi chăng nữa, hãy cứ hát lên một lời cuối cho em. Và cho anh. Như sau:
“Đôi khi anh muốn tin
Ôi những người khóc lẻ loi
Lệ là những viên đá xanh
Lệ là những viên đá xanh…”
(Phạm Quang Tuấn/Thanh Tâm Tuyền – bđd)
Vâng. Đá rất xanh. Có nhỏ lệ, nhiều hay ít, cũng còn tùy. Tùy anh. Tùy em. Tùy mọi người có tin rằng đá tảng mà Chúa đặt tên cho Simôn Phêrô, để xây dựng Hội thánh lên trên đó, chính là Tình Yêu. Của Ngài. Của muôn người.
Trần Ngọc Mười Hai
Đã biết thôi không nhỏ nữa.
Những giòng lệ cho đá.
Vẫn rất xanh.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Ăn No Tắm Mát
Joseph Nguyễn Tro Bụi
22:11 27/08/2010
ĂN NO TẮM MÁT
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
..Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn!
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền