BÀI ĐỌC 1 Kn 2:12,17-20
Bài trích sách Khôn ngoan.
Phường vô đạo lên tiếng nói:
“Ta hãy gài bẫy hại tên công chính,
vì nó chỉ làm vướng chân ta,
nó chống lại các việc ta làm,
trách ta vi phạm lề luật,
và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.
Ta hãy coi những lời nó nói có thật không,
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào.
Nếu tên công chính là con Thiên Chúa,
hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù.
Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,
để biết nó hiền hoà làm sao,
và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.
Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.”
Đó là Lời Chúa.
BÀI ĐỌC 2 Gc 3:16-4:3
Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.
Anh em thân mến, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa.
Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình.
Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.
Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao?
Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau.
Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG
Alleluia, Alleluia!
Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. Alleluia
TIN MỪNG Mc 9:30-37
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn cho ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng:
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.”
Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người.
Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông:
“Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Rồi Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói:
“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”
Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:
“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Đó là Lời Chúa.
LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ
Chúa Nhật 25 Thường Niên năm B: Mc 9, 30-37
Suy niệm
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang, nhưng họ vẫn không hiểu, hoặc không muốn hiểu. Nói rằng các ông sợ không dám hỏi lại, nhưng đúng hơn, các ông muốn tránh né vấn đề. W. Barclay đã bình phẩm thái độ này như sau: Tâm trí con người vốn có năng khiếu lạ lùng để loại bỏ điều họ không muốn thấy. Chúng ta có khác gì họ đâu? Cũng vậy thôi, chỉ tiếp nhận phần nào mình thích và phù hợp với mình, và từ chối không chịu hiểu phần còn lại. Không dám đón nhận tất cả thì đời chúng ta cũng không đạt tới điều gì cả.
Dù Đức Giêsu đã báo về cuộc thương khó, nhưng dường như các môn đệ tìm cách hiểu khác đi. Họ đoán biết Thầy sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng sẽ kết thúc một cách huy hoàng bằng cuộc cách mạng tái lập lại Israel. Thế nên giữa các ông bắt đầu có một cuộc tranh chấp về địa vị trong vương quốc mới của Thầy. Các ông tranh cãi nhau ngay trong lúc đi đường xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Chúng ta biết là các môn đệ ngay từ đầu không phải là những người lành thánh. Họ không bỏ mọi mọi sự mà theo Thầy để rồi không được gì. Dù họ chỉ là những người bình thường, có thể là tầm thường, nhưng khi có dịp thì vẫn mơ ước làm công hầu khanh tướng. Khi biết Thầy định lập vương quốc, thì đương nhiên họ toan tính nắm giữ quyền hành, chỉ có điều là mơ ước đó đi ngược với đường hướng của Thầy.
Khi về đến nhà, Đức Giêsu bảo các môn đệ ngồi xuống, Ngài vờ hỏi xem họ đã bàn chuyện gì khi đi đường. Họ làm thinh không trả lời. Trong bầu khí trầm lắng, Ngài nhẹ nhàng đưa ra cho họ một cách thế để trở nên những con người lớn lao thực sự:“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Lời này có lẽ làm cho các đồ đệ vừa sượng sùng trước cái ham muốn quyền thế, vừa rơi xuống chiếc mặt nạ ảo tưởng về chính mình. Bởi vì người đứng đầu mà phải sống như người đứng cuối, thì có ai muốn đứng đầu nữa không? Hơn nữa, họ có tài sức gì mà đòi cho mình một vai trò hay vị trí lớn lao trong Nước Chúa. Chúng ta xem ra cũng hay ảo tưởng về mình.
Đức Giêsu còn minh họa bằng một hình ảnh sống động khi đặt đứa bé vào giữa họ rồi ôm lấy nó, và tuyên bố: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Khi nói và làm như thế, Đức Giêsu đã thực hiện một hành động phục hồi mang hai chiều kích: con người và tôn giáo; vừa nhận mình là tôi tớ của mọi người, vừa mở rộng vòng đai khép kín của Giáo hội đến tận những người hèn mọn nhất. Đó chính là sứ vụ của Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ. Để nhấn mạnh thêm bài học quan trọng này, Ngài đã kết luận:“Ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Như vậy, ai đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ là đón nhận chính Thiên Chúa. Lạ thay! Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ. Đó là sứ điệp rất mới và rất lạ của đoạn Tin Mừng này.
Quả thật, trước giáo huấn của Chúa Giêsu, việc đua đòi danh vọng trở nên cái gì hàm hồ đối với những ai bước theo Ngài. Nhưng dường như ai cũng háo hức về chức tước, địa vị, quyền thế, vì nó không chỉ thỏa mãn được nhu cầu thể hiện bản thân, mà còn vì được công thành danh toại trước mặt người đời:“Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”, hoặc “Không công danh thà nát với cỏ cây”. Chức vụ, địa vị, là điều phải có trong mọi tổ chức xã hội cũng như Giáo Hội. Nó xấu là bởi vì người ta quy về mình, lo chiếm hữu cho mình. Nhưng nó lại rất tốt khi người ta coi đó như một phương tiện phục vụ để đem lại bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Tuy nhiên, kẻ ham mê quyền cao chức trọng thì không thể là người tốt được.
Thực tế, việc ham muốn đứng đầu vẫn là một cám dỗ không ngừng đối với đời lẫn đạo. Rất ít người mong đứng đầu để phục vụ, mà để hưởng thụ và sống trên người khác. Dù có phục vụ đi nữa thì cũng phục vụ như kẻ có quyền. Không mấy ai có được tính cách phục vụ như Đức Giêsu. Nếu phải coi ai là “Người lớn nhất”, thì chắc phải là người phục vụ nhiều nhất, với lòng khiêm nhường và tình yêu vô vị lợi. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương; không đứng trên cao để điều khiển, nhưng xuống dưới thấp để hầu hạ. Không phải chỉ Giáo Hội, mà bất cứ một tập thể hay cộng đoàn nào cũng rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu của Đức Giêsu. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Ngài là Con Thiên Chúa Đấng toàn năng,
nhưng không đến trần gian làm bá chủ,
mà là đến để hiến thân phục vụ,
để đem lại hòa bình cho thế giới,
và trở thành giá cứu chuộc cho đời.
Ai cũng muốn mình nên cao trọng,
nên chạy theo danh vọng quyền hành,
dùng mọi phương kế để đua tranh,
đưa đến bao nhiêu chuyện chẳng lành.
Chúa dạy con muốn nên người lớn nhất,
phải làm người nhỏ nhất giữa anh em,
làm cao phải biết cúi mình phục vụ,
làm lớn phải hành động thật khiêm nhu.
Nhìn ngắm tượng ảnh Chúa Giê-su,
con thấy tay Ngài không chỉ lên đầu
mà chỉ vào trái tim bị đâm thâu,
một trái tim bốc lửa vì yêu dấu.
Điều đó thật đã làm cho con hiểu:
đứng đầu thì phải sống như người hầu,
và vui lòng đón nhận những thương đau,
như chính Chúa đã nêu lên gương mẫu.
Phục vụ nào cũng đòi con xả kỷ,
không tìm mình và cũng chẳng mong chi,
chỉ mong sao ý Chúa được thực thi,
và ai cũng thấy mình được yêu quý.
Xin cho con đừng toan tính điều gì,
nhưng chân thành và phục vụ cho đi,
đặt mình làm tôi tớ của mọi người,
nhận ra vị trí mình là ở dưới,
để góp phần cho cuộc sống đẹp tươi. Amen.
“Ra đường hỏi ông già, về nhà hỏi con nít.”
“Ra đường lắm chuyện bực mình, về nhà gặp vợ cười tình cũng vui.”
Câu tục ngữ và câu ca dao trên đều có hai vế : 'ra đường' và 'về nhà' : “ra đường hỏi ông già, về nhà hỏi con nít.” Ra đường hỏi ông già, vì ông từng trải, đi nhiều, biết nhiều. Về nhà hỏi con nít, vì con nít thành thật, khai báo hết những gì xảy ra khi mình đi vắng.
Bài Tin Mừng hôm nay, cũng có 2 vế : 'ra đường' và 'về nhà'. 'Ra đường', hay đang khi đi đường, Chúa Giêsu báo một tin gây hoang mang; và 'về nhà' Chúa tuyên bố một câu đầy kinh ngạc.
1. "Ra đường" Chúa báo một tin gây hoang mang.
Lời báo gây hoang mang đó là lời "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày bị giết chết, Người sẽ sống lại." Đây là lần thứ hai Chúa báo tin này. Lần đầu báo tin này, được Phêrô đại diện anh em khuyên can, bị Chúa Giêsu dán nhãn Satan ngay cho Phêrô, “Satan, xéo ngay !”. Lần thứ hai này, ở ngoài đường, ồn ào, nên các môn đệ làm bộ điếc, lãng tai, bàn chuyện khác. Chúa Giêsu nói gà, các tông đồ nói vịt. Chúa báo tin buồn, sẽ bị giết; các môn đệ bàn tin vui : ai sẽ làm tể tướng trong triều Vua Giêsu. Còn nếu thầy Giêsu sẽ làm Giáo Hoàng, ai trong chúng ta sẽ làm quốc vụ khanh đây !
Làm sao một Đấng Kitô lại đau khổ được, lại còn bị giết. Một cái chết được báo trước như thế, mà không phải cái chết của căn bệnh, tuần tự nhi tiến, thế nào cũng chết, mà 'bị' chết, do người ta 'giết'. Quả thật, nếu tôi là môn đệ theo Chúa xưa kia, tôi cũng không hiểu nổi, mà ngay cả bây giờ theo Chúa nhiều năm vẫn không hiểu tại sao Chúa lại chọn cái chết đau thương như thế.
Ta bước chân vào nhà Chùa, thấy lòng an tĩnh, vì tượng Phật ngồi mỉm cười, tĩnh an. Ta bước chân vào Nhà Chúa, thấy tượng chuộc tội thật thảm thương, nhiều trẻ em khóc thét khi gặp lần đầu. Một số nhà thờ kinh hoàng hoá bằng hình tượng Giê-su máu chảy thịt rơi, trông thật khiếp sợ. Làm sao hiểu nổi cảnh như thế !
Thật ra ta chỉ hiểu phần nào, khi chính ta đau khổ, ta nhìn lên Chúa cũng đang khổ đau, ta thấy sao ta được an ủi thế này. Tôi bảo đảm với anh chị, khi bệnh tật, thất vọng, vác thập giá, mà nhìn lên thánh giá, thấy bình an hơn là nhìn lên một đấng an bình mỉm cười. Những lúc đó ta có thể nói, "thấy người ta khổ thế này, mà còn cười" ! Trong khi đó nhìn lên đấng chịu đóng đinh, tin đó là Chúa, mà cũng phải chịu khổ như vậy, ta thấy nỗi khổ của ta sẽ nhẹ tênh.
Vì khổ đau ít ai hiểu nổi, nên ngay cả khi sống lại rồi, Chúa vẫn còn phải giải thích cho các đồ đệ, rằng "phải qua đau khổ mới được vào vinh quang". Trên đường Emmaus Chúa đã trách hai đồ đệ “ngu đần, chậm hiểu” lời Kinh Thánh !
'Ra đường hỏi người già'. Người già là người biết nhiều, nhưng người già cũng là người biểu tượng cho 'đau yếu, khổ buồn'. Chúa ra đường, nói về thân phận đau khổ, chết chóc. Và 'về nhà, hỏi con trẻ'. Chúa về nhà, cũng có nhắc tới con trẻ thật.
2. "Về nhà", Chúa tuyên bố một câu đầy kinh ngạc.
Câu kinh ngạc là khi các môn đệ bàn tính xem ai sẽ đứng đầu, thì Chúa nói "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người". Nói thành tục ngữ có vần, sẽ là : “Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.” Một ví von thật mâu thuẫn, tựa như điều ta hay nghe : cán bộ lớn đi xe con, cán bộ con đi xe lớn (xe bus) !
Nhìn vào xe con, ta biết ngay ai làm lớn, ai làm bé. Chắc chắc người ngồi băng sau, xa tài xế, là lớn. Vào phòng khách, ai đang ngồi hút thuốc uống trà là lớn; kẻ cầm ly, đưa nước là bé. Nhưng Chúa dạy ngược lại ! Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm, Đức Giêsu không chủ trương đảo lộn tất cả, biến kẻ ở địa vị cao thành người nhỏ và cho kẻ ở địa vị thấp thành người lớn đâu. Tiêu chuẩn Chúa đưa ra để đánh giá một người, ấy là sự 'phục vụ'. Như thế ai biết phục vụ thì là người lớn. Còn kẻ không phục vụ thì là người nhỏ. Người ở địa vị cao mà biết phục vụ thì vẫn là người lớn, còn kẻ ở địa vị thấp mà không phục vụ thì cũng vẫn là người nhỏ. Nghĩa là : giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Để minh hoạ cho bài học này, Đức Giêsu đưa một em bé đến, đặt giữa các ông và nói : “Ai tiếp đón (phục vụ) một em bé là tiếp đón (phục vụ) Thầy”. Em bé ở đây là biểu tượng cho người không có gì (để đáp trả), người bị lãng quên (ở Do Thái, chứ không phải ở Mỹ để mà tôn trẻ em lên hàng nhì, sau lady first !), trẻ em là người bị loại trừ (“trẻ em đi chỗ khác !”)… Phục vụ những người đó, mình mới đúng là người lớn nhất. (Ngày nay, những người không có gì, những người bị lãng quên, bị loại trừ nhan nhản đầy đường !)
Ra đường nói về người già (đau khổ), về nhà nói tới con nít (làm lớn là phải phục vụ kẻ không có gì).
Có một người già đã trở thành lớn nhất khi phục vụ cho con trẻ (bị bỏ rơi), cho người cùng khốn trong xã hội. Người già đó vừa nhỏ vừa thấp, cao không tới mét rưỡi, với làn da nhăn nheo và bàn chân phải có sáu ngón, dáng người xem ra chẳng có gì hấp dẫn. Vậy mà con mắt thì sáng rực toát ra sức chinh phục, và vẻ thu hút phát ra từ một tình thương yêu vô hạn. Đó chính là mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ lãnh giải Nobel Hòa Bình năm 1979 và bao nhiêu danh dự khác nữa, nhưng mẹ nhận với lòng khiêm tốn thẳm sâu. Mẹ lãnh thay cho những người nghèo khổ mà thôi. Cả nước Ấn Độ đa số theo Ấn giáo mà lại tổ chức quốc táng cho một người nữ tu Công Giáo với danh dự cao nhất thì kể cũng lạ thật.
Khi còn sống, mẹ thường kể : "Khi có người bảo tôi rằng các chị Dòng chẳng biết làm chuyện gì lớn lao cả, mà chỉ biết làm những chuyện âm thầm nhỏ bé thôi, thì tôi đã trả lời: ngay dù các chị chỉ giúp được một người thôi thì cũng được rồi; Chúa Giêsu sẵn sàng chết cho một người, cho một tội nhân cũng đủ."
Mẹ nói tiếp : “Chúng tôi cảm thấy công việc chúng tôi đang làm chỉ là một giọt nước trong biển cả. Nhưng tôi nghĩ nếu giọt nước không có trong biển cả thì biển cả sẽ hụt đi vì thiếu một giọt nước đó.”
Giọt nước đó là gì, ta hãy nghe thêm : "Một số người tới Calcutta, rồi trước khi ra về đã xin tôi: "Xin nói cho chúng tôi một điều có thể giúp chúng tôi sống tốt hơn". Và tôi đã nói: "Hãy mỉm cười với nhau; hãy mỉm cười với vợ mình, với chồng mình, với con cái mình, và mỉm cười với người khác, bất luận là ai. Điều đó sẽ giúp bạn thấy tình thương yêu lớn lên". Và họ còn hỏi tôi: "Bà có chồng chưa?" Tôi trả lời: "Có rồi chứ, và tôi cũng cảm thấy đôi khi khó mà mỉm cười được với chồng tôi là Đức Giêsu." "Mà thật vậy, Đức Giêsu xem ra cũng rất đòi hỏi, và khi Ngài đòi hỏi thì chỉ cần tặng Ngài một nụ cười tươi thì cũng đẹp lắm rồi". Ta phải nhớ, Giêsu là em bé, là người không có gì, là người bị bỏ rơi, là người sống bên lề. Hãy nở nụ cười với Giêsu. Đó là giọt nước giữa đại dương, nhưng thiếu nó, đại dương thiếu một giọt nước.
Đường lối của mẹ rất đơn giản: Bắt đầu ngay đi. Từng việc một. Việc này rồi tới việc kia. Bắt đầu từ gia đình, nói một lời dễ thương với con cái, với chồng, với vợ. Bắt đầu giúp đỡ một người trong cộng đoàn. Bắt đầu làm bất cứ việc gì, một việc gì đẹp cho Chúa. Làm việc đang làm với tâm hồn vui tươi. Người đang hấp hối dưới gầm cầu là chính Chúa Giêsu ẩn hình. Mỗi lần gặp Chúa Giêsu, hãy mỉm cười với Ngài. Mẹ đã từng nói với các chị Dòng: "Nếu chúng con không muốn mỉm cười với Chúa Giêsu, thì chỉ có cách gói đồ mà đi về thôi".
Hãy làm theo mẹ, và chúng ta sẽ không hoang mang hay ngạc nhiên khi Chúa báo tin ở “ngoài đường” hay lúc đã “về nhà.”
An-Phong Nguyễn Công Minh, ofm
“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người!”.
“Khát vọng của con người không quá mạnh, nhưng thật yếu. Là những sinh vật nửa vời, nó bị lừa bởi đồ uống, tình dục và tham vọng; đang khi niềm vui vô hạn được ban thì nó chối từ. Như một đứa trẻ ngu ngốc tiếp tục nướng những chiếc bánh bùn trong khu ổ chuột - nó quá dễ dàng hài lòng - bởi nó không thể tưởng tượng được ý nghĩa lời đề nghị của cha nó về một kỳ nghỉ ở biển!” - C. S. Lewis.
Kính thưa Anh Chị em,
Phải, nhiều lúc chúng ta quá dễ dàng hài lòng với những khát vọng nặng mùi của những chiếc bánh bùn trong khu ổ chuột. Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nói đến một khát vọng đáng ao ước hoàn toàn khác, khát vọng ngát hương trời, ngát ‘hương thiên đàng’.
Tin Mừng viết, “Khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” - đó là khát vọng bánh bùn nặng mùi đất; và đây là khát vọng ngát ‘hương thiên đàng’, “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết!”. Khát vọng là bản tính tự nhiên của con người và điều này chẳng có gì xấu; nhưng bên cạnh những khát vọng đúng đắn, luôn luôn có những khát vọng lệch lạc. Ngay sau khi Thầy Giêsu của họ nói đến đau khổ và cái chết của Ngài sắp xảy ra, họ lại cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Thật xấu hổ! Đây là điều mà Giacôbê gọi là “Những khoái lạc đang gây chiến trong con người”; “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét mà chẳng được gì, nên anh em xung đột!” - bài đọc hai. Đó là những khát vọng nặng mùi đất - khát vọng bánh bùn!
Sau đó, Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ một khát vọng mạnh mẽ, đúng đắn, mang tính cứu độ của “Người công chính”. Đó là sự “Khôn ngoan từ trời” - bài đọc một - mà Giacôbê cũng đã nói đến; đó là thao thức của “Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” của những ai được Thiên Chúa đỡ nâng, “Lạy Chúa, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ!” - Thánh Vịnh đáp ca. Như vậy, khát vọng Chúa Giêsu chỉ ra là khát vọng phục vụ, khát vọng cúi xuống, quên mình và tự huỷ. Đây quả là khát vọng ngát ‘hương thiên đàng!’.
Như tâm hồn thanh bạch của một em bé, khi tâm hồn chúng ta không tìm tư lợi, không còn ích kỷ với những kỳ vọng lệch lạc, Chúa Thánh Thần sẽ tràn ngập mọi ngóc ngách trong trái tim bạn và tôi. Ngược lại, nếu kiêu hãnh, tự phụ, tham vọng, chỉ muốn thống trị, thì chắc chắn, Chúa Thánh Thần sẽ không còn chỗ ở đó. Vậy hãy làm rỗng chính mình trước khi nó được lấp đầy! Lấp đầy thứ gì, tuỳ bạn!
Anh Chị em,
“Làm người rốt hết, và làm người phục vụ!”. Chúa Giêsu đã sống nghịch lý bí quyết “làm người đứng đầu” này, “Tôi đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ!”; đỉnh điểm phục vụ của Ngài là cái chết trên thập giá cho nhân loại được cứu độ. Là môn đệ Giêsu, chúng ta không đi con đường nào khác ngoài con đường Ngài đi, đường tự hạ, phục vụ. Trong mọi đấng bậc, noi gương Thầy Chí Thánh, chúng ta trở nên những con người phục vụ. Và như thế, chắc chắn cuộc sống chúng ta sẽ bớt nặng mùi đất nhưng vương ‘hương thiên đàng!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con nhìn thấy sự vĩ đại của con khi cúi xuống phục vụ anh em; và như thế, đời con mãi ngát hương!”, Amen.
(Tgp. Huế)
41. Không có sự giúp đỡ của việc cầu nguyện thì con người dứt khoát không thể sống đời lương thiện.
(Thánh Gioan Kim Khẩu)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có một thầy thuốc khi chữa bệnh thì làm chết một trẻ em của gia đình nọ, cha mẹ em bé rất phẫn nộ, bèn sai mấy đứa nhỏ trong nhà đến nhà thầy thuốc chửi mắng, nhưng một lúc sau mấy đứa nhỏ đều trở về.
Chủ nhà tức giận chửi:
- “Kêu tụi mày đi chửi nó, sao lại trở về?”
Mấy đứa nhỏ trả lời:
- “Người đến chửi ông ta quá nhiều, tụi tui không sao chen vô được để chửi !”
(Thời Hưng tiếu thoại)
Suy tư 66:
Bác sĩ chữa bệnh mà để bệnh nhân chết là một sự rủi ro, bởi vì không một bác sĩ nào cố ý để cho bệnh nhân chết, nếu có chăng nữa là vì ông bác sĩ ấy đã không còn có lương tâm và tay nghề non kém...
Thời nay có rất nhiều bác sĩ có lương tâm tận tụy với bệnh nhân, đó là những bác sĩ “phổ thông” làm việc theo lương tâm của nghề nghiệp, nhưng có một loại bác sĩ không những làm việc theo lương tâm nghề nghiệp mà thôi, nhưng còn là làm việc vì chính các bác sĩ ấy nhìn thấy Đức Chúa Giê-su đang đau khổ nơi người bệnh, và họ đang tận tụy chữa trị, cứu sống hình ảnh Đức Chúa Giê-su đang đau khổ nơi bệnh nhân ấy.
Thời nay có rất nhiều bác sĩ không có lương tâm nghề nghiệp, họ hành nghề trước hết là vì tiền và sau đó là vì danh vọng. Bởi vì tiền nên họ chữa qua loa với bệnh nhân nghèo và từ chối những bệnh nhân không có tiền, bởi vì danh vọng nên họ coi mạng sống của người nghèo như những “củ khoai” bị thiu thối chữa làm gì thêm mất tiếng tăm của mình...
Thời nay có nhiều bác sĩ (ở Việt Nam ) đi mua bằng bác sĩ rồi hành nghề bác sĩ, thế là họ tiếp tay cho tội ác làm hại mạng sống bệnh nhân, và làm giàu trên mạng sống của người khác, họ là những sứ giả của thần chết.
Người Ki-tô hữu không chửi mắng kiện cáo bác sĩ, bởi vì họ tin rằng sự sống và sự chết đều ở trong tay Thiên Chúa, nhưng họ luôn cầu nguyện cho các bác sĩ chữa bệnh với tâm hồn của Đức Chúa Giê-su, đó là thương xót và không bao giờ từ chối bệnh nhân, dù bệnh nhân ấy mạng sống đã đến hồi chung kết...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Anh em thân mến,
Mười năm trước, chúng ta đã bắt đầu cải cách Giáo triều Rôma và thông qua Tông hiến Praedicate Evangelium, chúng ta đã thiết lập việc tổ chức mới của Tòa thánh, nêu rõ các nguyên tắc chỉ đạo và mục tiêu của tổ chức này. Ecclesia semper reformanda [Giáo hội luôn cần được cải tiến]: đây là tinh thần đã truyền cảm hứng cho cuộc cải cách, nhằm đảm bảo để Giáo triều Rôma hỗ trợ Người kế nhiệm Thánh Phêrô trong việc thực hiện chức vụ mục vụ tối cao của ngài vì lợi ích của và phục vụ Giáo hội hoàn vũ và các Giáo hội địa phương.
Nếu việc cập nhật này thể hiện một chứng tá về sức sống và ân sủng, thì chúng ta biết sự tận tụy và công sức của những người đàn bà và đàn ông vốn cam kết thích nghi với phong trào đổi mới này. Thưa anh em Hồng Y, trong chức năng hỗ trợ Giám mục Rôma trong việc quản lý Giáo hội hoàn vũ của anh em, anh em được trao phó việc đồng hành với tất cả những người can dự vào quá trình biến đổi này.
Bất chấp những khó khăn và đôi khi là sự cám dỗ bất động và cứng ngắc trước sự thay đổi, nhiều kết quả đã đạt được trong những năm qua. Tôi cảm ơn anh em vì sự giúp đỡ mà anh em đã và đang dành cho. Với những tiền đề này, giờ đây tôi muốn đặc biệt đề cập một lần nữa đến một trong những chủ đề đặc trưng nhất của các Tổng đại hội trước Mật nghị Bầu Giáo Hoàng: cải cách kinh tế của Tòa thánh. Những năm đã qua đã cho thấy rằng các yêu cầu cải cách được rất nhiều thành viên của Hồng Y đoàn thúc đẩy trong quá khứ là có tầm nhìn xa và dẫn đến nhận thức sâu sắc hơn về sự kiện các nguồn lực kinh tế phục vụ cho sứ mệnh là có hạn và phải được quản lý một cách chặt chẽ và nghiêm túc để những nỗ lực của những người đã đóng góp vào di sản của Tòa thánh không bị lãng phí.
Vì những lý do này, giờ đây, mọi người cần phải nỗ lực hơn nữa để "không thâm hụt" không chỉ là mục tiêu lý thuyết mà là mục tiêu thực sự có thể đạt được. Cuộc cải cách đã đặt nền tảng cho việc thực hiện các chính sách đạo đức nhằm cải thiện hiệu suất kinh tế của các tài sản hiện có. Đi kèm với điều này là nhu cầu mỗi tổ chức phải nỗ lực tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài cho sứ mệnh của mình, nêu gương về quản lý minh bạch và có trách nhiệm trong việc phục vụ Giáo hội.
Về việc cắt giảm chi phí, chúng ta cần nêu gương cụ thể để việc phục vụ của chúng ta được thực hiện theo tinh thần thiết yếu, tránh những thứ thừa thãi và lựa chọn ưu tiên tốt, ủng hộ sự hợp tác và hiệp lực lẫn nhau. Chúng ta phải nhận thức rằng ngày nay chúng ta phải đối mặt với những quyết định chiến lược cần được đưa ra với trách nhiệm lớn lao, vì chúng ta được kêu gọi đảm bảo tương lai của Sứ mệnh.
Các tổ chức của Tòa thánh có nhiều điều để học hỏi từ tình liên đới của những gia đình tốt. Cũng giống như trong những gia đình này, những người có hoàn cảnh kinh tế tốt sẽ giúp đỡ những thành viên đang cần nhất, các Cơ quan có thặng dư nên đóng góp để trang trải thâm hụt chung. Điều này có nghĩa là chăm sóc lợi ích của cộng đồng chúng ta, hành động với lòng quảng đại, theo nghĩa Tin mừng của từ ngữ này, như một điều kiện tiên quyết không thể thiếu để cũng có thể yêu cầu lòng quảng đại từ bên ngoài.
Cuối cùng, tôi yêu cầu anh em chào đón thông điệp này với lòng can đảm, tinh thần phục vụ và ủng hộ các cải cách đang diễn ra với sự tin tưởng, lòng trung thành và lòng quảng đại, đóng góp tích cực bằng kiến thức và kinh nghiệm của anh em về quá trình cải cách. Mỗi một trong những Cơ quan của Tòa thánh hình thành nên một cơ thể duy nhất với tất cả những cơ quan khác: do đó, sự hợp tác và cộng tác đích thực hướng tới mục tiêu duy nhất, lợi ích của Giáo hội, là điều kiện tiên quyết thiết yếu cho công việc phục vụ của chúng ta.
Với tinh thần và nhận thức này, tôi yêu cầu anh em đồng hành với công việc của chúng tôi với lòng trung thành và sự tin tưởng.
Từ Vatican, ngày 16 tháng 9 năm 2024
Phanxicô
Fady Noun, trên Asia News, ngày 20 tháng 9, 2024, cho biết trong một tuyên bố, Đức Hồng Y Maronite lên án việc sử dụng các thiết bị hai chiều "để giết bừa bãi" trong chiến dịch chống lại Hezbollah. Số người chết tạm thời là 37 người và 2,931 người bị thương, một số người bị thương nghiêm trọng. Lãnh đạo phong trào Shia Nasrallah cho biết mặt trận phía bắc sẽ vẫn hoạt động cho đến khi kết thúc hành động xâm lược ở Gaza.
Beirut (AsiaNews) – Giáo hội Maronite đã bày tỏ “nỗi buồn sâu sắc” về hành động xâm lược kép của Israel đối với Hezbollah và người dân của họ vào ngày 17 và 18 tháng 9, mà một số người không ngần ngại gọi là “khủng bố nhà nước”.
Các vụ nổ máy nhắn tin đồng thời đã giết chết 12 người vào thứ Ba, trong khi một làn sóng nổ thứ hai vào ngày hôm sau, lần này nhắm vào máy bộ đàm, đã giết chết 25 người, theo Bộ Y tế Lebanon, nâng số người chết lên 37 và 2,931 người bị thương trong hai ngày.
Trong một tuyên bố chính thức, Đức Thượng phụ Beshara al-Rahi lên án mạnh mẽ “hành động xâm lược của Israel”, đặc biệt là các thiết bị phát sóng vô tuyến có gắn bẫy “để giết người bừa bãi”.
Đức Thượng phụ cũng lên án hành động xâm lược đối với người dân Palestine, biết rằng về vấn đề này, lập trường của Giáo hội Maronite hoàn toàn phù hợp với lập trường của Tòa thánh, ủng hộ giải pháp hai nhà nước và quy chế đặc biệt cho Giêrusalem.
Trong bài phát biểu trên truyền hình ngày hôm qua, được đánh dấu bằng tiếng nổ kép siêu thanh kinh hoàng do máy bay Israel bay ở độ cao thấp trên thủ đô Lebanon, tổng thư ký Hezbollah thừa nhận rằng đảng của ông đã phải chịu một đòn "chưa từng có", hứa với Israel sẽ có phản ứng "khủng khiếp" mà không nêu rõ thời gian hoặc địa điểm. "Ngược lại", ông nói, "chúng ta phải che giấu sâu sắc ý định của mình".
Cũng với tinh thần đó, ông tuyên bố mở cuộc điều tra nội bộ về các vụ nổ, dường như biết rằng đảng của ông có thể đã bị xâm nhập, như tờ báo Israel Haaretz và tờ The New York Times đã đưa ra, trong đó có thông tin chi tiết về công ty bình phong Hungary bị cáo buộc sản xuất các thiết bị bẫy mìn.
“Các người sẽ không thể đưa người dân miền Bắc trở về nhà", Hassan Nasrallah nói với các nhà lãnh đạo Israel, để đáp lại quyết định của họ đưa mục tiêu của cuộc chiến chống lại Gaza là đưa khoảng 100,000 người Israel phải di dời do giao tranh nổ ra ở biên giới với Lebanon trở về nhà.
“Mặt trận của Lebanon với Israel sẽ vẫn mở cho đến khi cuộc xâm lược ở Gaza kết thúc", ông nói.
Trong bài phát biểu của mình, Hassan Nasrallah đã cùng với Thượng phụ Maronite lên án một cuộc tấn công nhắm vào hàng nghìn người mang theo thiết bị vô tuyến, với các vụ nổ ở những nơi công cộng - hiệu thuốc, bệnh viện, cửa hàng - và nhà ở, giết chết thường dân và quân đội "một cách bừa bãi".
Được trích dẫn bởi tờ báo hàng ngày L'Orient-Le Jour, giám đốc của tổ chức nghiên cứu Sáng kiến Cải cách Ả Rập, Nadim Houry, cho biết ông "sửng sốt" trước "việc dư luận phương Tây không thể coi những cuộc xâm lược này là khủng bố".
"Giống như việc sử dụng rộng rãi các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, loại hoạt động này khiến tất cả chúng ta dễ bị tổn thương hơn bằng cách làm mờ ranh giới giữa các mục tiêu quân sự và dân sự. Liệu chúng ta có chấp nhận rằng những cuộc tấn công bừa bãi như vậy diễn ra ở nơi khác không?" ông nói.
Về phần mình, Tướng Khalil Helou (nghỉ hưu) cho biết vào tối thứ năm, trên một chương trình truyền hình, rằng "các quy tắc giao tranh giữa Israel và Hezbollah đã sụp đổ sau 11 tháng xung đột", và rằng "chỉ có Hezbollah tôn trọng chúng ít nhiều".
"Nhờ sự kiểm soát của người Mỹ mà Israel đã không tiến hành một chiến dịch quy mô lớn chống lại Lebanon", chuyên gia cho biết.
Ở bình diện nhân bản
Ở bình diện nhân bản, hành động xâm lược kép đã khơi dậy một làn sóng liên đới đặc biệt. Tổng thư ký Hezbollah đã đề cập đến động lực con người này trong bài phát biểu của mình. "Có vẻ như chiến dịch hiến máu sau hành động xâm lược của Israel là 'lớn nhất trong lịch sử Lebanon'", ông nói.
Phong trào liên đới cũng đã dẫn đến nhiều nhiệm vụ y tế trong khu vực. Hàng trăm người bị thương đã được chuyển đến các bệnh viện ở Syria, Iraq và Iran.
Tuy nhiên, mưu mẹo chiến tranh của Israel đã tạo ra một chứng rối loạn tâm thần xung quanh việc sử dụng điện thoại di động và thậm chí cả máy tính trong nước, tất cả đều được thúc đẩy bởi các tin nhắn ẩn danh khuyến nghị cảnh giác với một số tin nhắn nhất định...
“Tôi thường để điện thoại di động trên tủ đầu giường”, Rima nói. “Tôi đặt nó xa mình, trên sàn nhà, thậm chí không đặt trên thảm, để tránh hỏa hoạn trong trường hợp có nổ”.
Theo chỉ thị của Tổng cục Hàng không Dân dụng Lebanon, các hãng hàng không đã quyết định cấm hành khách khởi hành từ sân bay Beirut mang theo máy nhắn tin và bộ đàm, cả trên người và trong hành lý, cho đến khi có thông báo mới.
Khiếu nại Liên hiệp quốc
Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Lebanon Abdallah Bou Habib cho biết ông sẽ đệ đơn khiếu nại lên Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.
Bất chấp mọi thứ, tại chính Lebanon, làn sóng liên đới vẫn không xóa bỏ được sự chia rẽ sâu sắc giữa Hezbollah và các nhóm chính trị khác của đất nước đại diện cho các Ki-tô hữu và đạo Hồi Sunni về tính khả thi của việc mở mặt trận với Israel.
Trong những nhóm này, cuộc chiến được coi là "vô ích và rủi ro", đặc biệt là vì quyết định phát động cuộc chiến được đảng thân Iran đưa ra một cách đơn phương mà không có bất cứ sự đồng thuận nào của quốc gia hoặc chính phủ, theo học thuyết quân sự của Iran về "sự thống nhất của các mặt trận", bao gồm cả Iraq và Yemen.
“Nhưng liệu họ có quyền hy sinh Lebanon vì sự thống nhất này không?", Fares Souhaid, một cựu nghị sĩ quốc hội tin rằng Lebanon hiện đang "dưới sự chiếm đóng của Iran", cho biết.
Elise Ann Allen của Crux, ngày 21 Tháng 9, 2024, nhận định rằng rằng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng trong thư gửi các Hồng Y đánh dấu bước tiến mới nhất trong cải cách tài chính lâu dài.
ROME – Một lá thư mới gửi các Hồng Y yêu cầu các vị thắt lưng buộc bụng, giúp Vatican tìm kiếm các nguồn lực mới và thể hiện tinh thần hào phóng, tất cả đều hướng tới mục tiêu "không thâm hụt", đánh dấu động thái mới nhất trong mục tiêu lâu dài của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về cải cách tài chính.
Trong một lá thư gửi đến Hồng Y đoàn ký ngày 16 tháng 9 và công bố ngày 20 tháng 9, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói về 10 năm nỗ lực cải tổ Giáo triều Rôma, bộ máy hành chính quản lý trung ương của Vatican, lên đến cao điểm với việc công bố tông hiến Praedicate Evangelium vào năm 2022, trong đó phác thảo cơ cấu và vai trò mới của các bộ phận Vatican và các viên chức của chúng.
"Bất chấp những khó khăn và đôi khi là sự cám dỗ của sự bất động và cứng ngắc trước sự thay đổi, những kết quả đạt được trong những năm này là rất nhiều", ngài nói, và cảm ơn các Hồng Y vì vai trò và sự ủng hộ của họ trong các nỗ lực cải cách của ngài.
Đức Giáo Hoàng cho biết hiện ngài muốn tập trung vào một trong những chủ đề nhận được nhiều sự chú ý nhất trong các phiên họp chung trước mật nghị năm 2013 bầu ngài làm giáo hoàng: đó là "cải cách tài chính của Tòa thánh".
“Những năm qua đã chứng minh rằng các yêu cầu cải cách mà nhiều thành viên của Hồng Y đoàn thúc đẩy trong quá khứ là có tầm nhìn xa và cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn sự kiện các nguồn lực kinh tế phục vụ cho sứ mệnh này là có hạn và phải được quản lý một cách nghiêm túc và chặt chẽ”, ngài nói.
Ngài nói rằng, điều này phải được thực hiện để đảm bảo rằng “những nỗ lực của những người đã đóng góp vào di sản của Tòa thánh không bị lãng phí”.
Vì lý do này, ngài nói, “bây giờ cần phải nỗ lực hơn nữa từ mọi người để ‘không thâm hụt’ không chỉ là mục tiêu lý thuyết mà là mục tiêu thực sự có thể đạt được”.
Đức Phanxicô cho biết các cải cách giáo triều mà ngài đã thực hiện cho đến nay đã đặt nền tảng cho “các chính sách đạo đức” giúp cải thiện hiệu suất tài chính của các tài sản hiện có và ngài kêu gọi các tổ chức của Tòa thánh tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài để trang trải chi phí hoạt động, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết Giáo hội phải nêu gương trong việc cắt giảm chi phí, “để việc phục vụ của chúng ta được thực hiện với tinh thần thiết yếu, tránh những thứ thừa thãi và lựa chọn cẩn thận các ưu tiên của chúng ta, khuyến khích sự hợp tác và hiệp lực lẫn nhau”.
Để đạt được mục đích này, ngài kêu gọi những người khá giả hơn về mặt tài chính hãy giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, nói rằng các thực thể có thặng dư “nên đóng góp để trang trải thâm hụt chung”.
“Điều này có nghĩa là chăm lo cho lợi ích của cộng đồng chúng ta, hành động với lòng hào phóng, theo nghĩa tin mừng của thuật ngữ này, như một điều kiện tiên quyết không thể thiếu để yêu cầu sự hào phóng ngay cả từ bên ngoài”, ngài nói.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô kết thúc bằng cách yêu cầu các Hồng Y chào đón thông điệp của ngài bằng “lòng can đảm, tinh thần phục vụ và ủng hộ các cải cách đang diễn ra với sự tin tưởng, lòng trung thành và lòng hào phóng”.
Lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng được đưa ra sau một số vụ tai tiếng tài chính đáng xấu hổ đã làm rung chuyển Vatican trong những năm gần đây.
Năm ngoái, một phiên tòa xét xử lớn có sự tham gia của vị Hồng Y đầu tiên bị chính tòa án Vatican truy tố và buộc tội, Hồng Y người Ý Angelo Becciu, đã kết thúc sau hơn một năm. Phiên tòa tập trung vào khoản đầu tư 400 triệu đô la vào một dự án bất động sản ở London khiến Vatican thiệt hại hơn 200 triệu đô la.
Vụ tai tiếng liên quan đến thỏa thuận bất động sản ở London đã phơi bày cả sự bất tài của các quan chức Vatican quản lý tiền của Tòa thánh, cũng như sự tham nhũng của một số đối tác kinh doanh của tòa thánh, với các giám mục bên trong hệ thống ký chuyển nhượng cổ phiếu kiểm soát trong khi đồng ý trả phí cắt giảm cho các nhà tài chính Ý vô đạo đức.
Trong những năm gần đây, Viện Công trình Tôn giáo (IOR), còn được gọi là Ngân hàng Vatican, cũng phải đối mặt với áp lực về việc tịch thu khoảng 33 triệu đô la tài sản của ba công ty đã kiện viện này vì đã rút khỏi một thỏa thuận đầu tư.
Nhiều luật mới do giáo hoàng ban hành được đưa ra trong bối cảnh lệnh phong tỏa do COVID-19 vào năm 2020, khi Đức Phanxicô phải đối mặt với áp lực gia tăng về cuộc khủng hoảng kinh tế đang gia tăng, bao gồm các khoản nợ đáng kể đối với quỹ hưu trí của tòa thánh cũng như áp lực từ các cơ quan giám sát tài chính châu Âu thúc đẩy Vatican phải cải thiện việc truy tố các tội phạm tài chính.
Chỉ riêng năm 2020, Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm một giám đốc mới cho Cơ quan Thông tin Tài chính của Vatican, ngài đã sa thải năm nhân viên được cho là có liên quan đến thỏa thuận bất động sản ở London và ngài đã tổ chức nhiều cuộc họp với các giám đốc bộ phận của Vatican để giải quyết tình hình tài chính của Vatican và phác thảo các cải cách tiềm năng.
Ngài cũng đã đóng cửa một loạt các công ty mẹ có trụ sở tại Thụy Sĩ và được thành lập để quản lý nhiều phần khác nhau của danh mục đầu tư và bất động sản của Vatican.
Mùa xuân năm đó, ngài đã chuyển "Trung tâm biên soạn dữ liệu" của Vatican, về cơ bản là dịch vụ giám sát tài chính, từ Cơ quan quản lý di sản của Tòa thánh (APSA) sang Văn phòng kinh tế, nhằm mục đích tạo ra sự phân biệt rõ ràng hơn giữa quản lý và giám sát.
Sau đó, Đức Phanxicô đã ban hành luật mua sắm mới áp dụng cho cả Giáo triều La Mã và Thị quốc Vatican, trong đó có nhiều điều khoản cấm xung đột lợi ích, bắt buộc các thủ tục đấu thầu cạnh tranh, yêu cầu bằng chứng chứng minh rằng chi phí hợp đồng là bền vững về mặt tài chính và tập trung kiểm soát việc ký kết hợp đồng.
Vào tháng 8 năm đó, ngài đã ban hành Sắc lệnh từ Chủ tịch của Phủ Thống đốc Thị quốc Vatican yêu cầu các tổ chức tình nguyện và pháp nhân của Thị quốc Vatican phải báo cáo các hoạt động đáng ngờ cho cơ quan giám sát tài chính của Vatican, Cơ quan thông tin tài chính (AIF).
Sau đó, vào đầu tháng 12 năm 2020, Đức Phanxicô đã ban hành các điều lệ mới chuyển đổi Cơ quan thông tin tài chính thành Cơ quan Giám sát và Thông tin Tài chính (ASIF), xác nhận vai trò giám sát của cơ quan này đối với cơ quan gọi là ngân hàng Vatican và mở rộng trách nhiệm của cơ quan này.
Ngay sau đó, Đức Phanxicô đã thành lập "Ủy ban về các vấn đề được bảo lưu" để xác định những hoạt động kinh tế nào vẫn được giữ bí mật. Bản thân ủy ban này, chịu trách nhiệm về các hợp đồng mua hàng hóa, tài sản và dịch vụ cho cả văn phòng Giáo triều La Mã và Nhà nước Thị quốc Vatican, là một phần của luật minh bạch mới do Đức Giáo Hoàng ban hành vào tháng 6 năm đó.
Vào tháng 12 năm đó, Đức Giáo Hoàng đã công bố việc thành lập "Hội đồng Chủ nghĩa tư bản bao gồm với Vatican", một quan hệ đối tác giữa Tòa thánh và một số nhà lãnh đạo đầu tư và kinh doanh lớn nhất thế giới, bao gồm các giám đốc điều hành của Bank of America, British Petroleum, Estée Lauder, Mastercard và Visa, Johnson and Johnson, Allianz, Dupont, TIAA, Merck and Co., Ernst and Young và Saudi Aramco.
Đức Giáo Hoàng cũng ban hành luật mới tước bỏ khả năng của Văn phòng Quốc vụ khanh trong việc quản lý độc lập hàng trăm triệu đô la mà Tòa thánh nhận được hàng năm dưới dạng quyên góp và đầu tư, chuyển giao quyền lực đó cho Cơ quan quản lý di sản của Tòa thánh.
Hiện tại, các khoản tiền đó được Cơ quan quản lý di sản của Tòa thánh hợp nhất vào ngân sách hợp nhất của Tòa thánh, trong khi Văn phòng Kinh tế giám sát việc chi tiêu.
Trong thời kỳ Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan, 32 người Do Thái đã đến nhà Jackowski để tìm nơi ẩn náu. Ông đã liều mạng để giúp đỡ tất cả họ. Vì thế, Stanisław Jackowski là một trong số ít những người được viện Yad Vashem của chính phủ Israel trao tặng danh hiệu Người Công Chính Giữa Các Dân Nước khi ông vẫn còn sống. Giáo Hội tại Ba Lan và Hoa Kỳ đã cùng khởi xướng cuộc điều tra để phong Chân Phước cho ông vì các nhân đức anh hùng.
Tác giả Richard C. Lukas đã dịch một tài liệu từ viện Yad Vashem sang tiếng Anh và đăng trên tờ National Catholic Register với nhan đề “‘The Germans Can Kill Me Only Once’: The Extraordinary Story of Stanisław Jackowski”, nghĩa là “'Người Đức chỉ có thể giết tôi một lần': Câu chuyện phi thường của Stanisław Jackowski”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
“Nhưng anh đã cứu sống 32 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái trong thời gian Đức xâm lược Ba Lan!”.
Stanisław Jackowski, người thích dùng tên gọi thu nhỏ của Ba Lan là Staszek, đã trả lời: “Tôi đã làm những gì tôi phải làm. Suy cho cùng, người Do Thái cũng là con người.”
“Điều gì đã cho anh sức mạnh để liều mạng sống của mình vì nhiều người như vậy?” Tôi hỏi.
“Đức tin Công Giáo của tôi,” ông trả lời không chút do dự. “Tôi cầu nguyện với Chúa mỗi ngày.”
Vào đêm trước Thế chiến II, Jackowski là một người làm xe ngựa trẻ tuổi ở Stanisławów, Ba Lan (bây giờ, với sự thay đổi biên giới, đó là thành phố Ivano-Frankivsk ở Ukraine). Phần lớn dân số bao gồm người Ukraine, người Ruthenia và người Nga. Người Ba Lan và người Do Thái là nhóm thiểu số.
Jackowski, một chàng trai độc thân ngoài 20 tuổi, không bao giờ nghĩ rằng ngôi nhà khiêm tốn của mình, cách trụ sở Gestapo địa phương chưa đầy hai dãy nhà, sẽ trở thành nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do Thái tìm kiếm nơi ẩn náu khỏi những kẻ khủng bố người Đức.
Hành trình dũng cảm của Jackowski bắt đầu bằng nỗ lực tìm kiếm và giải cứu Max Saginur, một người bạn học cũ. Tình bạn của họ đã bị cả cha mẹ hai bên ngăn cản. Trừ khi họ đã đồng hóa, ít người Do Thái tìm kiếm mối quan hệ cá nhân gần gũi với người Ba Lan ngoại đạo.
Hầu hết người Do Thái ở Ba Lan thời chiến đều không đồng hóa và nói tiếng Yiddish. Rất ít người trong số họ biết hoặc nói được tiếng Ba Lan đủ tốt để đánh lừa người Đức. Chỉ có 10% người Do Thái ở Ba Lan chịu đồng hóa và nói tiếng Ba Lan lưu loát.
“Hiếm khi một người Do Thái Ba Lan nghĩ rằng cần phải học tiếng Ba Lan; hiếm khi một người Do Thái quan tâm đến lịch sử hoặc chính trị Ba Lan,” Isaac Bashevis Singer, nhà văn Do Thái vĩ đại sinh ra ở Ba Lan, nhận xét. “Tôi cảm thấy tình hình kỳ lạ và thường cân nhắc đến việc chuyển đến Palestine.”
Sau khi chinh phục Ba Lan vào tháng 10 năm 1939, Đức Quốc xã đã bắt đầu cuộc khủng bố, sát hại hơn 10.000 người Do Thái ở Stanisławów và dồn 20.000 người nữa vào khu ổ chuột mà sau đó đã bị bỏ trống.
Nhìn thấy tình hình khủng khiếp và tuyệt vọng mà người Do Thái đang phải đối mặt, nhiệm vụ của Jackowski là tìm Max Saginur và vợ anh ta, Gitya, trở nên đặc biệt cấp bách. Anh ta tìm thấy người bạn và vợ của anh ta. Nhưng họ lại có hai người họ hàng, những người cũng đi cùng gia đình Saginur đến nhà Jackowski.
Jackowski hiểu điều mà mọi người Ba Lan đều biết — việc giúp đỡ một người Do Thái sẽ phải chịu án tử hình. Ngay cả hành động đơn giản là đưa cho một người Do Thái một ly nước và một miếng bánh mì cũng là lý do để bị hành quyết.
Jackowski đã phân chia một khu vực phía sau bếp cho bốn vị khách của mình. Nhưng điều đó đã không thành công vì thiếu oxy ở nơi ẩn náu. Hơn nữa, tiếng động của bốn người có thể được nghe thấy ở phần còn lại của ngôi nhà, đó có thể là một thảm họa đối với Jackowski và người Do Thái nếu người Đức lục soát nơi này.
“Đó là lúc tôi quyết định xây một hầm trú ẩn kiên cố trong tầng hầm,” Jackowski nói.
Năm tháng trôi qua, nhiều người Do Thái đến nhà Jackowski để tị nạn. Jackowski đã giúp đỡ tất cả họ.
“Trước khi mọi chuyện kết thúc, tôi đã xây dựng ba hầm trú ẩn để chứa số lượng đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái ngày càng tăng”, ông nói. Ông buộc phải tiếp nhận một số người Do Thái đe dọa sẽ tố cáo ông với người Đức nếu ông không cho họ nơi trú ẩn và thức ăn.
Một số người Do Thái mà ông cứu đến từ một “cái giỏ” khác, “cái giỏ” là một từ thông dụng lúc bấy giờ để mô tả nơi ẩn náu. Những người Do Thái này đã ẩn náu với một gia đình Ba Lan khác, những người biết rằng người Đức sắp phát hiện ra nơi ẩn náu của họ.
Những nỗ lực của Jackowski nhằm cứu càng nhiều người Do Thái càng tốt không phải lúc nào cũng thành công. Ông đã chuẩn bị để tiếp nhận sáu bác sĩ Do Thái, nhưng trước khi các bác sĩ có thể đến nhà Jackowski, quân Đức đã bắt giữ họ. Thay vì chờ bị quân Đức giết, các bác sĩ đã tự tử bằng cách uống thuốc độc.
“Thật không dễ dàng để chăm sóc 32 người chỉ cách trụ sở Gestapo một vài bước chân, nhưng vẫn giữ được bí mật về điều đó,” Jackowski nói trong khi mắt ông ngấn lệ. Các hầm trú ẩn kiên cố của ông được trang bị đầy đủ nước, giường và thậm chí cả bếp để nấu ăn.
Một kỹ sư Do Thái được ông bao bọc đã chỉ cho ông cách thức để dòng điện không chạy qua đồng hồ đo. Ông trao đổi và mua thức ăn cho những người được ông bao bọc từ những người nông dân. Trong một cuộc phỏng vấn, ông đã đề cập đến những người nông dân đã sẵn lòng và ẩn danh để lại những thùng đựng thức ăn trước cửa nhà ông.
Tò mò với những bình luận của ông, tôi hỏi: “Có bao nhiêu người nông dân Samaritanô nhân hậu ở đó?”
“Tôi biết phải có rất nhiều người như vậy vì người Đức liên tục tịch thu thực phẩm, khiến các gia đình Ba Lan không còn gì để ăn,” ông giải thích. “Họ cho tôi những gì ít ỏi mà họ có.”
Theo một nguồn tin Do Thái, Jackowski luôn đối xử với khách của mình một cách tôn trọng, gọi họ là “quý bà” và “quý ông”. Ông dành phần lớn buổi tối của mình với họ. “Tôi trò chuyện, đùa giỡn và chơi bài với họ, cố gắng giữ vững tinh thần của họ và cho tôi”. Một phụ nữ Do Thái, người mà ông bao bọc, đã phụ trách kể chuyện cho trẻ em để giải trí.
Một trong những đứa trẻ Do Thái được Jackowski cứu là Nina Dannenberg Frisch. “Tôi luôn sợ hãi”, cô bé nói. Trước khi được Jackowski chăm sóc, cô bé và cha mẹ đã tìm đường đến một khu rừng gần thành phố. Họ ở trong một trại tị nạn mà 40 người Do Thái khác đã chạy được đến đó trước. Khi quân Đức vô tình phát hiện ra nơi ẩn náu, mọi người đã bỏ chạy trong hoảng loạn. Với sự giúp đỡ của một phụ nữ nông dân Ba Lan, Frisch và những người khác đã quay trở lại nơi ẩn náu sau khi mối đe dọa từ quân Đức đã qua. Thật không may, mẹ của Frisch đã bị quân Đức giết chết.
Cuối cùng, Frisch và cha cô, được một người phụ nữ Ba Lan khác hộ tống, đã đến nhà Jackowski. Frisch ăn mặc như một cô gái trẻ Ba Lan, đeo một cây thánh giá quanh cổ, để tránh sự nghi ngờ của người Đức. Trên đường đến nhà Jackowski, Frisch nhớ lại, “Họ bảo tôi nhìn xuống vì tôi có mái tóc đen và đôi mắt nâu. Tôi không giống một người Aryan điển hình.”
“Không có cách nào để mô tả Staszek là người như thế nào,” Fritsch nói. Bà mô tả người đàn ông Công Giáo tốt bụng này là một “vị cứu tinh.” Jackowski đã nhận Frisch và cha cô, người đã sống với ông trong 10 tháng.
Jackowski vừa giải quyết xong một vấn đề đe dọa thì một vấn đề khác lại phát sinh. Ông bị bắt trong một cuộc truy quét của Đức nhằm bắt giữ nhiều người đàn ông Ba Lan khỏe mạnh để lao động cưỡng bức ở Đức. May mắn thay, ông đã trốn thoát trước khi quân Đức đưa ông đi. Jackowski nói, “32 con người phụ thuộc vào tôi. Mạng sống của họ đang bị đe dọa. Nếu tôi ra đi, họ sẽ phải chịu số phận bi đát. Tôi không thể để điều đó xảy ra.”
Khi Jackowski trở về nhà, ông hoàn toàn tin rằng quân Đức sẽ tìm thấy mình. Ông ngay lập tức nhảy xuống hầm trú ẩn cùng những người Do Thái mà ông phụ trách.
“Tôi có súng và đạn dược ở đó. Mọi người đều được trang bị vũ khí, sẵn sàng giết người Đức nếu họ mở cửa sập. Nhưng, tạ ơn Chúa, họ không tìm thấy nó,” ông nói. Mặc dù ông không tiết lộ nơi ông có được súng và đạn dược, nhưng có vẻ như ông có nguồn cung cấp từ Ba Lan, có lẽ là trong tổ chức du kích Ba Lan.
Người Đức quyết tâm tìm và giết người Do Thái và người Ba Lan đã giúp họ. Hơn nữa, ông là một kẻ chạy trốn khỏi lưới truy quét của Đức. Ông đã khôn ngoan giải thích với các gia đình Do Thái rằng cần phải lập một kế hoạch trốn thoát. Sử dụng xẻng và xô đơn giản, Jackowski và những người đàn ông Do Thái đã đào một đường hầm từ ngôi nhà đến hệ thống cống rãnh có thể được sử dụng để trốn thoát khỏi thành phố. Nhưng, cuối cùng đường hầm không bao giờ phải sử dụng đến.
Khi tôi hỏi Jackowski về nguy cơ bị người Đức giết vì đã giúp đỡ người Do Thái, ông trả lời một cách thực tế: “Người Đức chỉ có thể giết tôi một lần thôi.”
Khi Ba Lan được giải phóng, 32 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái đã ra khỏi hầm trú ẩn kiên cố để một lần nữa được ngắm bầu trời đầy sao và bầu trời trong xanh.
Stanisław Jackowski sống sót sau chiến tranh, kết hôn và có gia đình. Sau chiến tranh, một số người Do Thái mà ông đã cứu đã bày tỏ lòng biết ơn bằng cách giúp ông di cư đến Hoa Kỳ, nơi ông bắt đầu một cuộc sống mới.
Source:National Catholic Register
Sau một loạt các cuộc tranh cãi và bất đồng với giám mục địa phương ở Fort Worth, một nhóm nữ tu dòng Cát Minh ở Arlington, Texas, đã tuyên bố vào hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín, rằng họ quyết định liên kết với Huynh Đoàn Thánh Piô X, một nhóm theo chủ nghĩa truyền thống không hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo và có tình trạng bất thường về mặt giáo luật.
Sau khi đưa ra “quyết định đồng thanh”, các nữ tu dòng Cát Minh nhặt phép của Tu viện Chúa Ba Ngôi ở Arlington, Texas, cho biết các sơ đã “hoàn thành các bước cuối cùng cần thiết để tu viện của chúng tôi được liên kết với Huynh Đoàn Thánh Piô X, những người sẽ bảo đảm đời sống bí tích và sự quản lý liên tục của chúng tôi”, theo thông báo hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín.
Đức Cha Michael Olson của Giáo phận Fort Worth đã đề nghị khôi phục lại đời sống bí tích tại tu viện nếu các nữ tu đồng ý tách khỏi Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò, một nhân vật gây tranh cãi mà Giáo Hội Công Giáo đã rút phép thông công vào mùa hè này vì tội ly giáo sau khi ngài từ chối tuân theo Đức Giáo Hoàng hoặc hiệp thông với Giáo hội.
Đức Cha Olson cũng đề nghị cung cấp một linh mục của Hội Linh mục Thánh Phêrô— một nhóm hiệp thông với Giáo hội và dành riêng cho Thánh lễ bằng tiếng Latinh — để cử hành các bí tích cho các nữ tu, với điều kiện họ cũng thừa nhận Mẹ Marie Nhập thể, bề trên của Dòng Cát Minh Chúa Ba Ngôi, là bề trên của họ, công nhận Đức Cha Olson là giám mục của họ và xóa nội dung gây tranh cãi khỏi trang web của tu viện.
Mẹ Marie là chủ tịch của Hiệp hội Chúa Kitô Vua tại Hoa Kỳ — một hiệp hội các tu viện dòng Cát Minh được Vatican giao nhiệm vụ giám sát tu viện vào năm 2023 trong bối cảnh bất đồng.
Mẹ Marie của Dòng Nhập Thể giải thích trong một tuyên bố do giáo phận đưa ra vào ngày 7 tháng 9 rằng mẹ đã “mở rộng… lời đề nghị của Đức Giám Mục Olson về một đời sống bí tích mới, theo hình thức phụng vụ mà họ ưa thích, nhưng với nỗi buồn sâu sắc nhất, hôm nay tôi xin báo cáo rằng không có nữ tu nào đưa ra bất kỳ phản hồi nào, cho dù là với tôi hay với giám mục của họ.”
Đức Giám Mục Olson đã đưa ra lời đề nghị trong lá thư ngày 26 tháng 7, và Mẹ Marie cho biết bà đã chia sẻ lá thư này với các chị em vào ngày hôm sau.
“Trong sáu tuần qua kể từ khi nhận được lời đề nghị này, các nữ tu không hề có dấu hiệu nào cho thấy họ mong muốn nhận được món quà bí tích, cũng không tỏ ra cởi mở với bất kỳ cuộc đối thoại nào với chúng tôi,” Mẹ Marie viết. “Ngoài ra, họ còn chọn duy trì trên trang web của mình một số liên kết và tuyên bố thể hiện sự khinh thường đối với giám mục của họ và làm lu mờ tuyên bố của họ về việc hiệp nhất với Rôma.”
Mẹ Marie đã yêu cầu các tín hữu trong Giáo phận Fort Worth “góp phần cầu nguyện và hy sinh nhiều hơn cho các chị em yêu dấu của Dòng Cát Minh Chúa Ba Ngôi.”
Các nữ tu cho biết trong tuyên bố của mình rằng trong vài năm qua, họ đã tìm thấy “nhiều niềm vui và sự đổi mới tinh thần trong việc khám phá lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ lâu đời của Giáo hội”, ám chỉ Thánh lễ La tinh, phụng vụ Rôma được sử dụng trước khi Công đồng Vatican II ban hành Nghi thức Thánh lễ Mới.
“Phương châm của Thánh Giáo hoàng Piô X là: Khôi phục mọi sự trong Chúa Kitô,” tuyên bố tiếp tục. “Đó cũng là trường hợp của cộng đồng chúng tôi, trong nhiều năm qua, đã cầu nguyện để tìm cách trở lại với sự trọn vẹn của truyền thống Công Giáo của chúng ta và khôi phục mọi sự trong Chúa Kitô, trong cả đời sống phụng vụ và trong cách chúng ta sống ơn gọi Cát Minh của mình.”
Các nữ tu nói tiếp: “Chúng tôi có sự đồng cảm với Huynh Đoàn Thánh Piô X vì Huynh Đoàn này chú trọng đào tạo các linh mục thánh thiện, tận tụy, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Chúa Kitô, điều này trùng hợp với ơn gọi cầu nguyện và hy sinh của chúng tôi trong lòng Giáo hội, cống hiến cuộc đời mình cho Giáo hội và đặc biệt là cho các linh mục”.
Đức cố Tổng giám mục người Pháp Marcel-François Lefebvre đã thành lập Huynh Đoàn Thánh Piô X vào những năm 1970 để thúc đẩy Thánh lễ La tinh, nhưng vào năm 1988, ngài đã tấn phong bất hợp pháp bốn giám mục mà không có sự cho phép của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, dẫn đến việc ngài bị vạ tuyệt thông cùng với bốn giám mục. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã dỡ bỏ vạ tuyệt thông này vào năm 2009 với hy vọng cuối cùng sẽ đưa Huynh Đoàn Thánh Piô X trở lại hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội, mặc dù ngài đã giải thích trong một lá thư rằng Huynh Đoàn Thánh Piô X không có tư cách giáo luật và do đó “các linh mục của huynh đoàn không thực hiện các chức thánh hợp pháp trong Giáo hội”.
Theo trang web của Huynh Đoàn Thánh Piô X, huynh đoàn phản đối Công đồng Vatican II, trong đó có đoạn: “Huynh Đoàn Thánh Piô X chịu sự quản lý của giáo quyền của Giáo hội, được thể hiện trong các công đồng và giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng, và dưới ánh sáng đó, Công đồng Vatican II và các Đức Giáo Hoàng sau này phải bị phán xét, vì những gì đúng cho đến năm 1965 không thể đột nhiên trở nên sai lầm được”.
Tu viện thông báo rằng các nữ tu đã bầu lại Mẹ Teresa Agnes làm bề trên trong nhiệm kỳ ba năm và chia sẻ rằng nhà nguyện của họ mở cửa cho những người cầu nguyện riêng. Tu viện mời “các tín hữu” tham dự Thánh lễ La tinh hàng ngày.
Một số tuyên bố của Vatican trong những năm qua đã cảnh báo người Công Giáo không nên tham dự Thánh lễ Huynh Đoàn Thánh Piô X trừ khi có những trường hợp nghiêm trọng, bao gồm các lá thư năm 1995 và 1998 của Đức ông Camille Perl, khi đó là thư ký của Ủy ban Giáo hoàng Ecclesia Dei.
“Các Thánh lễ mà Huynh Đoàn Thánh Piô X cử hành cũng hợp lệ, nhưng về mặt đạo đức, việc các tín hữu tham gia vào các Thánh lễ này được coi là bất hợp pháp trừ khi họ bị cản trở về mặt thể chất hoặc đạo đức khi tham gia Thánh lễ do một linh mục Công Giáo có uy tín cử hành”, lá thư năm 1995 của Đức ông Perl viết.
Một lá thư năm 1998 của Đức Ông nhắc lại: “Chính vì não trạng ly giáo này mà ủy ban giáo hoàng này liên tục ngăn cản các tín hữu tham dự Thánh lễ được cử hành dưới sự bảo trợ của Huynh Đoàn Thánh Piô X.”
Tuy nhiên, luật sư giáo luật của Catholic Answers là Jimmy Akin lưu ý rằng Bộ Luật Giáo hội cho phép các tín hữu Kitô được rước lễ theo bất kỳ nghi lễ Công Giáo nào (Điều 923).
“Nghi thức Thánh lễ năm 1962 — mà Huynh Đoàn Thánh Piô X sử dụng — là nghi thức Công Giáo được chấp thuận, do đó các tín hữu có thể tham dự và rước lễ,” Akin nói với CNA.
“Việc nó được cử hành trong một tình huống bất thường theo giáo luật không thay đổi điều này”, Akin nói. “Mỗi lần một linh mục phạm tội lạm dụng phụng vụ, điều đó tạo ra một tình huống bất thường theo giáo luật. Luật pháp không muốn giáo dân phải phán đoán tình huống bất thường theo giáo luật nào liên quan đến sự xa rời luật pháp, và do đó quyền tham dự và rước lễ của họ trong bất kỳ nghi lễ Công Giáo nào đều được bảo vệ “.
Vào tháng 4, các nữ tu đã bất chấp sắc lệnh của Vatican bằng cách yêu cầu một thẩm phán ban hành lệnh cấm đối với các bên mà Vatican đã giao nhiệm vụ giám sát tu viện, bao gồm hiệp hội các tu viện Carmelô và Đức Cha Olson. Sắc lệnh tháng 4 đã giao tu viện cho Hiệp hội Chúa Kitô Vua tại Hoa Kỳ và chủ tịch của hiệp hội, Mẹ Marie. Vatican đã chỉ thị cho các nữ tu chấp nhận thẩm quyền của Đức Cha Olson, vì họ đã đưa ra tuyên bố vào đầu năm nay từ chối thẩm quyền của ngài.
Trong tuyên bố ngày 7 tháng 9, Đức Giám Mục Olson cho biết ngài yêu cầu “tiếp tục cầu nguyện cho các nữ tu, cho Mẹ Marie và các thành viên của Hiệp hội Chúa Kitô Vua”.
Carmelite Nuns Affiliate With Society of St. Pius X After Yearlong Feud With Local Bishop
https://www.ncregister.com/cna/carmelite-nuns-affiliate-with-society-of-st-pius-x-after-yearlong-feud-with-local-bishop
” Tiền bạc giết tâm hồn hơn là gươm giáo giết thể xác. “ ( Walter Scott )
“ Tiền là tên đầy tớ trung thành, nhưng là ông chủ xấu. “( Tục ngữ Pháp )
“ Thượng Đế không có ngân hàng và vải liệm không có túi” (Chuck Feeney)
“Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ.” (Tục ngữ Việt Nam}
*”Giá trị cuộc sống của những tỉ phú hảo tâm cống hiến phần lớn tiền của cho công ích xã hội thật đáng ngưỡng phục và cao quí biết bao ! “
TIỀN mua được hạnh phúc hay sao?
Mải mê tích lũy thật dồi dào,
Tưởng có tiền thỏa mãn tất cả,
Hãy nhủ mình đừng quá tự hào !
TIỀN mua nhà lộng lẫy khang trang,
Gia đình xum họp sống huy hoàng,
Vợ chồng con cháu chung hạnh phúc,
Nhưng tránh làm sao khỏi khóc than !
TIỀN sắm đồng hồ chói ngọc vàng,
Xem giờ, mà nhìn lại thấy sang,
Thời gian qua mau đâu trở lại,
Năm tháng đời sẽ hết mơ màng !
TIỀN mua giường hảo hạng nệm chăn,
Sao giấc ngủ vẫn thấy băn khoăn,
Bởi vì lòng mình luôn trăn trở,
Trên giường này giấc ngủ khó khăn.
TIỀN tìm thuốc bách bệnh tiêu tan,
Thuốc tăng sinh lực, sâm Đại Hàn,
Trăm thứ đắt tiền ta đều sẵn,
Mà sao thân thể cứ bất an !
TIỀN mua cả bằng giả thi gian,
Đút lót chạy địa vị cao sang,
Coi chừng sẽ lên voi xuống chó,
Thật là tiền mất tật lại mang !
TIỀN tham vơ vét của người dân,
Xuất ngoại trộm cắp đã nhiều lần,
Bị bắt quả tang ôi nhục nhã !
Danh dự dân Việt chúng bất cần.
TIỀN mờ mắt Cộng sản Việt nam,
Cướp của dân thủ đoạn tham tàn,
Bán biển đất cho bọn Tàu cộng,
Tài sản bất chính sẽ tiêu tan !
TIỀN hối lộ tội lỗi bỏ qua,
Trộm cướp giết người cũng thả ra,
Than ôi ! Kim ngân phá luật lệ,
Đạo suy đồi, đất nước tan hoang !
TIỀN khó mua cuộc sống an hòa,
Sống vui sống khỏe ở tại ta
Đừng tưởng tiền mua tiên cũng được,
Thân tàn ma dại chẳng có tha !
TIỀN của phù vân chóng tiêu tan,
Lòng tự đắc không muốn thua ai,
Tiền tài danh vọng sẽ trôi hết,
Chỉ có Tình yêu chẳng phôi phai.
TIỀN không mua được nụ cười,
Sống sao cho đẹp cuộc đời hôm nay,
Ai ơi ! một điều xin hãy nhớ,
Tiền rừng bạc bể có ngày tiêu tan.
Sống sao để khỏi oán than,
Hai tay buông xuống tâm can an bình.
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
(*) Phụ dẫn : Trích thơ Nguyễn Công Trứ
+ Muốn biết thêm giá trị của ‘TIỀN’ xin đọc bài kèm theo ‘Kết thúc cuộc đời của 8 nhà kinh doanh lớn’ sau đây :
*Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa
Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất Hoa Kỳ, đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại Miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và muốn khẳng định câu phương ngôn thường tình của con người ở khắp nơi là ‘Có tiền mua tiên cũng được’. Thế nhưng, 25 năm sau những gì đã xảy đến cho 8 nhà kinh doanh này :
- Charles Schwab, giám đốc 1 trong những công ty sắt lớn nhất nước Mỹ, đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối đời ông đã phải sống nhờ vào tiền vay của người khác.
- Samuel Insull, giám đốc chuyên sản xuất các vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi.
- Howard Hopson, giám đốc hãng Gas lớn nhất trở thành điên dại.
- Arthur Cutten, chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không còn một đồng xu.
- Richard Whiney, giám đốc phòng Hối đoái lớn tại Nữu Ước, vừa bình phục bệnh trong một nhà thương điên.
- Albert Pall, một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tòa vì dính líu vào một vụ tham nhũng.
- Hai người cuối cùng trong danh sách 8 người thành công nhất nước Mỹ, khoảng thập niên 20, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.
Bức tranh trên đây, không hẳn đã là số phận tất yếu của những người giàu có. Vì có biết bao nhiêu người giàu đã có một cuộc sống an bình hạnh phúc?
Tiền bạc của cải tự không phải là một điều xấu. Ai trong chúng ta cũng cần tiền bạc của cải để sống tốt đẹp với nhân phẩm. Sự túng thiếu bần cùng là điều mà Thiên Chúa không muốn cho con cái Ngài phải lâm vào.
-Tuy nhiên tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao 2 lưỡi. Nếu biết sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp con người sống xứng đáng tốt đẹp hơn. Nếu trái lại, con người chạy theo tiền bạc như là cứu cánh cuộc đời, nghĩa là con người tôn thờ nó như thần tượng, để quên đi tất cả những giá trị khác trong đời sống, thì lúc đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu xảy ra với con người.
Khi kể lại dụ ngôn của người quản lý, biết dùng tiền bạc để mua lòng bạn bè, Chúa Giê-su muốn kéo chúng ta trở về với chân lý nền tảng trong đời sống : ‘ Hãy chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ! Hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh hằng ! Hãy hướng tất cả vào cùng đích cuộc sống ! Hãy dùng tiền bạc, cư xử thế nào để luôn có người bạn sẵn sàng đón tiếp chúng ta nơi cửa Thiên Đàng ! ‘
(Sưu tầm)
Tôi chỉ là một hạt cát trong cái biển người di cư từ Bắc vào Nam. Đã sấp sỉ 70 năm rồi. Những hạt cát ấy trở thành mảnh đất phù sa mầu mỡ của miền Nam Việt Nam trước 1975. Những hiểu biết của tôi về cuộc di cư ấy trước đây vẫn chỉ là những mảnh rời. Phần đọc còn nhớ lại lãng đãng, nhớ nhớ quên quên trong cuốn: Cuộc di cư vĩ đại, Sài Gòn 1956 do chính quyền miền Nam xuất bản. Sách in khổ lớn với rất nhiều trang hình ảnh, trình bày trang nhã và đẹp mắt.
Nay tôi nhìn lại cuộc di cư ấy trước hết là sống lại hình ảnh kỷ niệm quá khứ.
Như một cái vẫy cánh của một con chim xa tổ, đã lìa cành, nhìn lại.
Sau nữa nhìn lại chiến dịch Operation Passage to Freedom của Hải quân Mỹ để thấy rằng không có chiến dịch này, cuộc di cư của gần một triệu người có thể không trọn vẹn. Nghĩa là thất bại và để lại nỗi tuyệt vọng cho bao nhiêu người đã không ra đi được.
Và mặc dù đã có những cố gắng tột bực trong việc đưa gần một triệu người di cư vào miền Nam, nhiều người đã không đi được và bị kẹt lại. Việc bị kẹt lại trở thành một hệ luỵ ê chề không tránh khỏi cho những người còn ở lại miền Bắc – sẽ trình bày ở cuối bài viết.
Và nếu nói theo một thứ lý luận của người trong cuộc, tức người di cư từ Bắc vào Nam, người viết nghĩ rằng đã có một thời những con người di cư ấy không có một thời đại nào khác, không có thứ lịch sử nào khác ngoài thời đại và lịch sử mà họ đã sống, đã trải nghiệm.
Đó là thời đại của cuộc di cư không tiền khoáng hậu đã để lại dấu tích không phai nhòa trong mỗi mảnh đời của họ.
Chẳng hạn, hình ảnh bà mẹ còn giữ lại chiếc đồng hồ quả lắc cũ treo trên tường cũng như những tấm phản đã mang vào miền Nam mà cho đến bây giờ, bà vẫn nằm trên đó. Hay hình ảnh đồng bào Thiên Chúa giáo xứ Kẻ Sặt còn mang theo quả chuông nhà thờ. Họ đã để lại hết, nhưng quyết đem cho bằng được quả chuông này tượng trưng cho niềm tin sắt đá của họ.
Và hơn mọi thứ khác, mỗi người di cư đã không mang được thứ gì khác ngoài niềm tin rằng chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo mà bằng bất cứ giá nào họ cũng phải ra đi.
Và đó là tất cả phần đời của họ còn lại.
Vì thế, tôi bùi ngùi nhớ đến những người đã muốn đi mà không đi được và chịu cái cảnh đọa đầy thêm mấy chục năm và nay đã hơn nửa thế kỷ trôi qua.
Còn đối với người Mỹ, qua chiến dịch của Hải quân Hoa Kỳ, ngoài vấn đề chi phí vật chất đồ sộ trong việc giúp người tỵ nạn di cư vào Nam, tôi còn nhìn thấy ở đấy tính cách nhân đạo của chiến dịch này.
Cũng từ đó tôi nhận ra hai điều: những tấm lòng của thủy thủ các tầu Mỹ, đồng thời nghị lực phi thường với một quyết tâm sắt đá cuả người di cư. Sự phi thường ấy làm ngỡ ngàng, gây ngạc nhiên cho các thủy thủ đoàn trong các chuyến tầu của Mỹ chở người tỵ nạn vào Nam“The determination of the men of Viet Nam: determined to worship their God, determined to be free, determined to escape to be so”.
Điều mà tôi muốn nhắc lại ở đây là cái quyết tâm của lớp người di cư miền Bắc, bằng mọi giá, giá nào cũng trả để di cư vào miền Nam. Không có cái quyết tâm ấy, họ đã không đi được.
Cái quyết tâm ấy còn giúp họ sau này xây dựng tương lai họ và cho con cái họ.
Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức “phong trào nhập thành”, hay nói nôm na là phong trào “dinh tê”. Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu “an toàn Phát Diệm”, thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được.
Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy.
Cho nên đơn giản là chỗ nào có cộng sản thì người ta chạy. Liều mạng mà chạy. Chết cũng chạy. Cuộc di cư 1954-1955 và cuộc di tản 1975 đều giống nhau ở một điểm: không chấp nhận sống dưới chế độ cộng sản.
Không phải chỉ người Việt mới trốn chạy như thế. Dân chúng Đông Âu, từ những nước chư hầu của Nga cũng tìm cách trốn sang Tây Âu. Vào măm 1966, 6110 người Đông Đức đã đào thoát được sang Tây Đức. Tính từ năm 1949 đến 1952, 228.500 người đã trốn thoát khỏi các vùng do Nga Sô kiểm soát để tới Bá Linh. Và cứ như thế, 5 vạn người Tiệp Khắc đã trốn ra khỏi nước họ. (Trích Cuộc Di Cư lịch sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư tỵ nạn, trang 276)
Cũng vậy, ở Hung Gia Lợi (Hungary), ở Romania, ở Albania, ở Ba Lan (Poland), người ta cũng liều mạng trốn ra đi để tìm Tự Do.
Vì vậy, thế giới đã nhìn rõ thân phận người di cư, thấy họ lao đao khốn khổ liều mạng và đã giơ tay cứu vớt và không khỏi không khâm phục họ.
Theo nhận xét của phần đông thủy thủ Mỹ, nhiều người di cư đem theo những thứ lỉnh kỉnh không có đáng một đồng xu. Như một cái chậu, một cái thùng bằng nhựa, một tay nải quần áo cũ. Những thứ lỉnh kỉnh không đáng gì. Phải, nothing, nhưng lại chính là gia tài của họ.
Sản nghiệp ra đi có khi không có gì, có khi chỉ là đôi tay nải. Nhưng lòng lại tràn ngập niềm tin tưởng.
Thủy thủ Majesky trên chiến hạm Menard đã viết thư về cho cha mẹ tả lại hoàn cảnh khốn cùng của những người di cư chân đất, chân không, không một thứ gì mang theo, bước lên tầu.Trong khi đó, chẳng hạn trên chiến hạm General House trớ trêu thay, có những thương gia Tầu giầu có đem theo cả gia sản tới hàng 200 tấn kiện hàng đủ loại. (Trích Operation Passage to Freedom, OPTF, Ronald B. Frankum, Jr., trang 194)
Họ còn ngạc nhiên như Zeigler và các bạn ông không hiểu được khi thấy những con người tầm vóc loắt choắt bé nhỏ ấy vác những bao gạo 200 pounds lên tầu LTS (Tank Landing Ship, tầu đổ bộ xe tăng) một cách nhẹ tâng, trong khi thủy thủ phải cần hai người Mỹ mới giúp bê nổi những bao gạo ấy (ta gọi nôm na tầu LST là tầu há mồm, tầu dùng để chuyên chở xe tăng, xe cộ v.v…)
Hình ảnh con tầu LST rất quen thuộc đối với người tỵ nạn vốn chỉ dùng để chuyên chở xe tăng, vũ khí hạng nặng dùng để giết người, nay chở những con người tỵ nạn bất hạnh. Và đã có 26 chiếc. (Có tài liệu viết 74 chiếc là không đúng, vì tất cả số tầu của Hải quân Mỹ tham dự vào chiến dịch là 113 chiếc bằng nhiều chuyến hải trình Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn). Dù chỉ là chiếc tàu nhỏ, bình thường chở được 170 người, tối đa 700 người, nhưng trường hợp khẩn cấp, có thể chở đến cả 1000 người di cư. Các tầu LST có thể cập bến dễ dàng để vớt người tỵ nạn, sau đó có thể dùng để chở ra các tầu lớn. (Trích Operation Passage to Freedom, Ronald B. Frankum, Jr. trang 137)
Đó là những chiếc LST- 526, LST-803, LST-825, LST- 840 v.v… Nhiều bạn đọc có thể còn nhớ tên những chiếc tầu LST thân yêu này…
Các tầu há mồm LST là biểu tuợng cho những con tầu chở người di cư
Những người di cư ấy đều quyết tâm, như thế mới đi được. Người ta nói đến cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân. Có đến gần 1 triệu đôi chân đã bỏ phiếu như thế. Đó là đôi chân trần, chưa hề biết xỏ chân vào đôi giầy, đôi dép. Họ là những người dân quê nghèo nàn, cơ cực.
Cũng không phải chỉ có đa số là người Thiên Chúa giáo di cư như đã có sự hiểu lầm từ trước đến giờ. Cuộc di cư 1954-1955 là của toàn thể dân chúng miền Bắc, Kinh có, Thượng có và đủ thành phần xã hội và tôn giáo.
Họ thuộc đủ loại người, đủ thành phần xã hội. Đồng bào các tỉnh miền Thượng như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang (vốn là những nơi sào huyệt của Việt Cộng) cũng cùng với đồng bào Thượng ở Hòa Bình bỏ lại tất cả rừng núi quen thuộc lần mò về Hà Nội để vào Nam. Đã có hơn 10 ngàn người Nùng ở Hòn Gai được di cư dưới quyền Đại tá Sung. Có 2340 người Nùng gốc Tầu đi vào Nam ngày 02/09 trên tầu Montrose. Có chuyến tầu như Beauregard chở các người thuyền chài và gia đình họ mang theo cả dụng cụ đánh cá. Đặc biệt hơn cả, có những gia đình và có khi cả một làng ở trong các vùng do Việt Minh kiểm soát như Vinh, Nghệ An tìm cách trốn thoát khỏi sự kiểm soát của cộng sản. Tỉ dụ dân chúng ở Ba Làng, huyện Tĩnh Gia tụ họp hơn 2 vạn người đòi di cư bị Việt cộng nã súng bắn giải tán.Tỉ dụ những người di cư ở Vinh đà trải qua bao gian nan, khốn khó mới tìm được con đường đi đến tự do. Sau này, họ tụ tập định cư trong khu vực Bình Giả, Bà Rịa.
Trên bước đường đi tìm Tự do, nhiều người đã lên được tàu, nhưng vì quá mệt mỏi, kiệt sức đã chết trên tầu.
Trên chiến hạm Telfair, chuyến thứ tư chở người di cư vào miền Nam của Hải quân Mỹ ngày19/8. Người ta ghi nhận đã có hai người di cư chết trên tầu vì sốt rét và quá kiệt sức và bù lại có hai trẻ sơ sinh ra đời:
“The deaths were caused by malaria and general weakness. The physical condition of the Vienamese as they boarded the American ships was often observed as desperate. Many of the Vietnamese had traveled great distances to reach the embarcation center, often at peril to them and seldom without hardship”.
Căn bệnh sốt rét và sự ốm yếu chung đã gây nên chết chóc cho nhiều người. Người ta nhận thấy rằng tình trạng cơ thể của người Việt Nam khi họ lên những chiếc tầu Mỹ thường là tuyệt vọng. Nhiều người Việt Nam đã phải đi những đoạn đường rất dài để đến trung tâm tiếp cư, thường là nguy hiểm cho chính bản thân họ và ít khi mà không có sự gian khổ. (Trích OPTF, trang 82).
Nhưng nếu tính chung tất cả cuộc di cư thì đã có 66 người di cư chết trên biển vì nhiều nguyên do, nhưng đồng thời ghi nhận có 184 trẻ sơ sinh trên các tầu chiến.
Và còn bao nhiêu người bỏ xác trên biển trên những bè mảng ghép vội vàng để đi tìm tự do?
Tình trạng đó cho thấy người di cư đã phải trả giá cho chuyến hành trình đi tìm tự do của họ.
Sao cụ lại bỏ xứ ra đi
Bất kỳ ai, đã là người Việt Nam đều có đủ lý do chạy trốn cộng sản. Cho nên, họ đều có một quyết tâm phi thường dám từ bỏ tất cả chỉ để mưu cầu một cuộc sống tự do. Và không thể có lời biện minh nào hùng hồn, xác tín và rõ ràng hơn được nữa.
Có thể đó là đôi chân của một ông già trên 60 tuổi, râu tóc đã bạc mà chính ra chỉ còn đủ thì giờ để nghĩ tới chuyện đời sau, cụ đang ngồi nghỉ mệt qua ống kính của William Ray Park trên tầu USS SKAGIT và người ta hỏi: Sao cụ lại bỏ xứ ra đi?
Chắc là cụ có sẵn câu trả lời.
Hay là hình ảnh một bà cụ cõng cháu gái di cư, mang tương lai tuổi trẻ lên đường. Hay câu chuyện về những trẻ em Việt Nam thưởng thức món quà tự do. Đó là những chiếc kẹo Mỹ mà lần đầu tiên trong đời các em đã được ăn.
Henry Đỗ, một trong những đứa trẻ đã nhận ăn cái kẹo do người thủy thủ Mỹ cho năm 1954 viết lại như sau:
“I cannot forget the first moment I stepped onto a American ship to go to South Vietnam. A sailor handed me a candy, at the moment, I could not say thanks in English… Oh, my God, it was very very delicious. It was the best candy in the world. 21 year after, the sweet moment I meet the candy again at American soil…I can eat the candy anytime I want, but I didn’t eat many candy…I eat the candy only I want to remember the sailor and the ship that brought me and my family to the freedom land”. (Trích lại trong bài viết Passage to Freedom in Việt Nam của Gertrude Samuels, số tháng 6-1955)
Tôi không thể quên được cái giây phút đầu tiên tôi bước lên một chiếc tầu Mỹ để đi đến miền Nam Việt Nam. Người thủy thủ đưa cho tôi cái kẹo. Lúc ấy, tôi không nói được câu cám ơn bằng tiếng Anh. Ôi, trời ơi! Ngon thật là ngon. Cái kẹo ngon nhất thế giới. Hai mươi mốt năm sau, cái giây phút dễ thương là khi tôi lại trông thấy kẹo ở đất Mỹ. Tôi có thể ăn kẹo bất cứ lúc nào tôi muốn, nhưng tôi không ăn nhiều kẹo đâu… Tôi ăn kẹo chỉ để muốn nhớ đến người thủy thủ và chiếc tầu đã đưa tôi và gia đình đến vùng đất tự do.
Tôi cũng muốn viết ra đây câu chuyện cảm động xảy ra trên tầu General Brewster, chuyến chót của hải quần Hoa Kỳ chở người di cư vào ngày 15/03/1955. Trong chuyến tầu chót này, có một người cha và đứa con gái phải ra đi vì người vợ muốn ở lại Hà Nội. Họ đành chia tay. Đó cũng có thể là một thảm cảnh biểu tượng chia lìa trong một số gia đình di cư khác. Như trường hợp tài tử điện ảnh Kiều Chinh mà chúng tôi trích dẫn ở cuối bài viết.
Có những cuộc chia lìa bà con, anh em, họ hàng, làng nước.
Cũng đành đoạn mà bỏ đi thôi. Nào ai muốn thế đâu? Sau này, liên lạc Bắc Nam giới hạn vào một tấm bưu thiếp in sẵn. Nhưng dù chỉ là một tấm bưu thiếp, gia đình tôi ở trong Nam gửi ra cho anh tôi nhiều lần, nhưng đã không bao giờ nhận được thư trả lời của người anh Cả ở lại Hà Nội.
Sao cụ lại bỏ xứ ra đì. Nguồn: NVL
Họ đã vứt thư của gia đình chúng tôi.
Dù sao, cuộc chia lìa 1954, người di cư miền Bắc mới chỉ mất nhà, mất cửa.
1975, kẻ ra đi mới là nguời mất nước
Bên cạnh những khổ đau, cuộc di cư ấy không thiếu những nét đẹp
Tôi vẫn thấy đẹp và ý nghĩa là câu chuyện do một anh thủy thủ người Mỹ tên John Ruotsala trên chiến hạm Montrose (*) kể lại như sau:
Nguời di cư và thủ thủ tầu USS Montrose (APA-212)
Khi bước lên tầu, các người di cư phải xịt thuốc DDT để diệt trừ chấy rận (1). Nhiều người di cư hoảng sợ vì phải cởi quần áo, nhất là phụ nữ. Trong đó có trường hợp một bé gái khoảng 9 tuổi bế đứa em khoảng 3, 4 tuổi. Thủy thủ Mỹ đã chẳng may xịt thuốc vào mắt đứa em 3 tuổi. Nó khóc, chị nó bình tĩnh dỗ dành em và lau mắt cho em. Sau đó như không có chuyện gì xảy ra, ôm em bước lên thang để lên tầu.
Câu chuyện có vẻ bình thường, nhưng lại là những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc di cư này.
Nó cho thấy tình nghĩa đùm bọc của gia đình Việt Nam, cho thấy tình chị em, cho thấy tình người, cho thấy tình liên đới nhân loại vượt lên trên những dấu ấn chính trị vốn đè nặng lên tâm trí người tỵ nạn.
Hình ảnh đó làm thủy thủ đoàn cảm động và nhận ra tính cách nhân đạo, tình người của cuộc di cư này. Đó là một khía cạnh đặc biệt bị quên lãng mà chỉ đến bây giờ đọc lại tôi mới nhận thức được rõ rệt về điều đó.
Và những thủy thủ đoàn trên các chiến hạm Mỹ có quyền hãnh diện về điều này. Điều mà cô Anne Peterson phục vụ trên tầu Consolation đã nói thay cho tâm tình của họ: “We were just heartbroken because we couldn’t do anything to help them”. (Chúng tôi đau buồn vì chúng tôi đã không thể làm được gì để giúp cho họ”. (Trích Operation Passage to Freedom, OPTF, trang 123)
Trong cuộc di cư này, cần ghi nhận rất nhiều thiện chí và những tấm lòng bên cạnh những con tầu chiến của Hải quân Mỹ.
Đoàn lũ ấy người di cư từ khắp nơi trên giải đất miền Bắc và một phần miền Trung, trẻ già lớn bé mà phần lớn là trẻ con đã được bồng bế, gồng gánh ra đi như thế.
Ra đi để tìm ra một con đường sống… ý nghĩa, có tự do cho tương lai của họ.
Có lẽ đây là cuộc di cư vĩ đại và có ý nghĩa nhất sau cuộc di cư trong việc phân chia nước Ấn Độ làm hai giữa Hồi Quốc và Ấn Độ vào năm 1947. Cuộc di cư này cũng nhắc nhở mọi người đến cuộc di cư từ Bắc Hàn sang Nam Hàn vào mùa thu năm 1950.
Nó là bằng cớ cho thấy không thể nào sống chung với cộng sản được, dù là cộng sản Bắc Hàn hay cộng sản Việt Nam.
Hễ đã là cộng sản thì con người muốn làm người không thể sống chung được.
Khi đã vào đến miền Nam, họ nghĩ ngay đến việc tái định cự lập nghiệp. Và vô số những trại định cư sau này ra đời. Có những địa danh mới, địa chỉ mới trên bản đồ miền Nam Việt Nam. Tên nó là Gia Kiệm, Hố Nai, Củ Chi, Phước Lý, sau này là Rạch Giá với các kênh 1, 2, 3, 4.
Hố Nai đi hàng đầu với 26.912 người ở giai đoạn đoạn đầu. Sau này con số người đến Hố Nai là trên 40 chục ngàn người mà dự liệu lúc ban đầu chỉ là 10 ngàn người. Gia Kiệm với 10.107, Củ Chi với 4.196 người và không thể quên Xóm Mới với 8606 người. Có những nơi ít đến không hiểu được như Đức Hòa, Chợ Lớn với 90 người, Chợ Gõ chỉ còn 50 người và Cây Co chỉ có 32 người.
Tỉnh đứng đầu trong việc dự liệu đón tiếp đông đảo người tỵ nạn là Xuân Lộc 200.000 người, Biên Hòa 100.000 người. (Trích Operation Passage to Freedom’ OPTF, trang 98)
Trong số những người mới di cư vào Nam thì đến 60% là nông dân, 10% là dân thuyền chài. Còn lại trải đều cho công chức, sinh viên, thợ thuyền và người buôn bán.
Những người dân nghèo, 80%, ít học tưởng đi theo Việt Minh mới phải thì lại là thành phần đông đảo sợ hãi cộng sản nhiều nhất. Và đi nhiều nhất. Đi rất đông. Đi cả nhà. Và nhất là đi cả làng. Không phải một làng mà nhiều làng. 25 ngàn người trong cùng khu vực không hẹn mà cùng nhau bỏ ra đi.
Bài học ra đi ấy nhắc nhở chúng ta nhiều điều. Nhưng cái chính là dạy cho người cộng sản một bài học: con người không thể sống yên ổn và tử tế với người cộng sản được. Phải ra đi thôi. Bài học đó còn được nhắc lại một lần nữa vào năm 1975, nhưng xem ra người cộng sản vẫn chưa thuộc hay không muốn học vì cái bệnh vĩ cuồng của họ đã che mờ tất cả.
Và tôi mường tượng gần một triệu người di cư miền Bắc thì nay sẽ là bao nhiêu người? Họ ra sao bây giờ? Họ là những ai?
Lịch sử một đời người và lịch sử cả một dân tộc qua cuộc di cư này đánh dấu những thời kỳ đen tối nhất của dân tộc dưới gọng kìm cộng sản, đen tối hơn cả thời kỳ thuộc địa 100 năm thời Pháp thuộc, bị đè nén và sợ hãi hơn 1000 năm Tầu đô hộ. Nói ra mà hổ thẹn.
Nhân chứng cho những thời kỳ đen tối của lịch sử đất nước với con người của 1955 và 1975 vẫn còn cả vài triệu người.
Tôi viết bài này để làm chứng cho cái thời kỳ đen tối ấy, cho thế hệ sau hiểu…
Cuộc di cư 1954-1955 dưới mắt người Cộng sản
Không gì tức tối bực bội hơn cho chính quyền cộng sản là chiến thắng xong, đuổi được thực dân Pháp phải ra đi. Vậy mà vô lý thay gần một triệu người đã ùn ùn kéo nhau bỏ chạy cộng sản. Gần một phần mười dân số toàn miền Bắc đấy. (Miền Bắc gồm 12 triêu người và chiếm 60.900 dặm vuông, miền Nam 11 triệu người và chiếm 66.300 dặm vuông) Ngay những người dân trong vùng bị Việt Minh kiểm soát từ 1946 như Vinh, Nghệ Tĩnh càng lo bỏ chạy bán sống bán chết. Họ phải hiểu tại sao chứ? Họ phải làm gì để hàng triệu người đã trốn chạy như vậy? Phải có một câu trả lời chứ?
Nhưng họ cố tình không cần biết điều ấy và tìm cách bôi nhọ hình ảnh cuộc di cư 1954-1955.
Vì thế, cộng sản Hà Nội đã cho xuất bản cuốn sách: Sự thật về vấn đề di cư ở Việt Nam, Hà Nội. Đó là sự thật của họ không phải là sự thật của người di cư. Cuốn sách này không dễ mấy ai còn giữ lại. Nhưng nó được tuồn sang Pháp. Sau này, ông linh mục, giáo sư Trần Tam Tỉnh, dạy ở tỉnh bang Québec, Canada đã dùng tài liệu này viết một cuốn sách rất bôi bác và tồi tệ về cuộc di cư này, đó là cuốn Dieu et César. Les catholiques dans l’histoire du Việt Nam, Rome ngày 19/05/1975. Vương Đình Bích, môt linh mục nữa đi theo cộng sản mà tôi gọi là một trong bọn Tứ nhân bang đã chuyển ngữ ra tiếng Việt và đã đổi nhan đề cuốn sách thành:Thập giá và lưỡi gươm. Vương Đình Bích cũng bỏ không dịch câu: Les catholiques dans l’histoire du Viet Nam. Sự tùy tiện của Vương Đình Bích còn thấy ở phần cuối cuốn sách. Ông đã bỏ phần Bibliographie selective của tác giả. Ông tự nhét thêm bài viết của Nguyễn Quang Huy, trưởng ban tôn giáo chính phủ về vấn đề phong thánh vốn chẳng ăn nhập gì với cuốn sách Dieu et Cézar. Đồng thời cho in bức thư chung của Hội đồng giám mục Việt Nam 1986. Phần ông Trần Tam Tỉnh, trong lời nói đầu của cuốn sách, ông đã viết:
Ce livre écrit avec amour par un des membres fidèles, de cette église catholique vietnamienne, n’a autre ambition que de présenter la vérité historique. Cuốn sách này được viết ra do một trong những đứa con trung thành của giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam, không có một tham vọng nào khác ngoài việc trình bày sự thật lịch sử.
(Trích Dieu et César, Trần Tam Tỉnh, trang 13)
Nay thì chúng ta thử tìm hiểu xem, căn cứ vào cuốn sách để thứ tìm hiểu thứ lịch sử mà ông Trần Tam Tỉnh đưa ra là thứ lịch sử nào, một thứ lịch sử sao chép theo tài liệu của cộng sản Hà Nội trong cuốn: Sự thật về vấn đề di cư ở Việt Nam?
Và đây là những sự thật dưới mắt Hà Nội:
– Có những tin đồn rằng quân Mỹ sẽ ném bom nguyên tử tiêu diệt miền Bắc.
– Đức Mẹ được giao chức năng chính trị là để giải thoát những kẻ tôn sùng ngài.
– Chúa Ki tô đã đi vào Nam.
– Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc việt. Trong tập Passing the Torch, một trong những tuyển tập gồm 18 cuốn cũng nêu ra một nhan đề như sau: “The Blessed Virgin is moving South”, trích trang 95 (Đây là một vài khẩu hiệu mà ngày nay đọc lại người viết không mấy làm thích thú. Những khẩu hiệu này do đại tá Edward Lansdale in và phổ biến chung quanh Hà Nội và Hải Phòng. Sau này đại tá Lansdale được giải thưởng: Distinguished Service Medal on January 8, 1957. Ông là người trực tiếp chỉ huy những chiến dịch tâm lý chiến vào giữa thập niên 1950, Psychological war-fare projects).
– Lời một nhân chứng: Tôi không cầm nổi nước mắt, họng tôi nghẹn ngào, trí óc ghi sâu bức tranh thảm cảnh di cư đó của những con người vô tội bị giật lôi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, rồi bị bốc lên xe, chở đi và bị đối xử chẳng khác nào những súc vật người ta chở tới lò mổ. Một bầu khí rất nặng nề, còn những người ở lại thì nín bặt không dám nói ra, vì chắc là sợ bị trả thù bởi những tay bạo chúa tổ chức di cư.
– Một tổ chức phá hoại có hệ thống tại Hà Nội trước khi quân Pháp rút đi, chẳng hạn sẽ làm hỏng kho dầu xe buýt, phá hư các máy móc và đặt mìn đánh sập chùa Một cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo có từ hằng trăm năm.
– Giám mục Phát Diệm, Lê Hữu Từ thì nhảy lên chiếc ca nô cuối cùng của quân Pháp đang rời cảng, bỏ quân lính của ông tại chỗ. Một vài tên thấy giám mục mình hành động hèn nhát như thế, bèn nổi giận đến nỗi lấy lựu đạn ném theo ông.
– Bị các linh mục lôi kéo vào cuộc mạo hiểm nhục nhã và bi đát này, họ cảm thấy mình bị bỏ rơi do sự phản bội của quân Pháp.
– Việc Đức Mẹ hiện ra: một linh mục đã dàn dựng mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng vào sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến lung linh, một vài nhà “đạo đức” coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng, phải từ bỏ đất Cộng sản với bất cứ giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do, Đức Mẹ sắp bỏ miền Bắc. (Trích dẫn tóm tắt Thập giá và Lưỡi gươm, Trần Tam Tỉnh, từ các trang 101-112)
Sau này những khẩu hiệu có tính cách tuyên truyền này được nhóm Giao Điểm, ở hải ngoại rêu rao cùng khắp trên báo chí của họ.
Sau đây, xin dẫn một chứng từ của những người còn phải ở lại phải hứng chịu sự tuyên truyền của cộng sản, cái thời 54-55 của thế kỷ trước. Người bạn văn miền Bắc, anh Vân Hải hiện vẫn liên lạc với tôi đã viết cho tôi như sau:
Lũ học sinh vùng tạm bị chiếm chúng tôi vừa được anh bộ đội cụ Hồ tiếp quản… Ai chẳng đọc thuộc lòng những lời thơ đừng đi theo giặc vào Nam:
Nghe ai lầm phải lời điêu
Mà đành cuốn gói bước liều ra đi.
Ra đi là bước lưu ly
Đường vào Nam Bộ sầu bi não nùng.
Ra đi là bước long đong,
Bỏ nhà nằm bãi ngủ đồng quạnh hiu.
Ra đi là bước tiêu điều
Đem thân cho giặc sớm chiều vút roi
Ra đi là bước lạc loài
Chủ nhà lại hoá tôi đòi xứ xa…
Hay
Một chiếc nhạn lià đồng tháng tám
Lũ cắt xanh rừng thẳm chực mồi
Nhắc trông ngát cảnh chim trời
Lòng tôi chất nặng những lời hờn căm.
Vì lũ giặc tay cầm thuốc độc
Mưu rắc lên đất nước hoà bình…
Bên cạnh đó là những tin đồn mà các thủy thủ Mỹ thu lượm được qua những người di cư kể lại lúc lên tầu do Việt Minh tung ra như sau:
– Người Mỹ cắt tay của trẻ sơ sinh và quẳng đàn bà xuống biển, còn đàn ông thì bắt đi làm cao su cạo mủ tại các đồn điền cao su.
– Tầu há mồm ra đến biển thì há mồm ra, rồi xô đẩy người ta xuống biển.
– Với những áp lực đủ kiểu, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng Công Giáo.
– Một khi bầu khí hoảng loạn thì mạnh ai nấy chạy, trong khi đó từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc hốt đi thật nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng.
Độc hại hơn cả, chính quyền Hà Nội còn dùng chiêu bài tôn giáo bằng cách nhờ cậy đến phái đoàn tôn giáo Ba Lan nhằm thuyết phục giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc theo gương Ba Lan “sống đạo trong lòng thế giới cộng sản”.
Tác giả Trần Thị Liên ở bên Pháp có phổ biến một tập tài liệu của phái đoàn tôn giáo BaLan, vào năm 1954. Tài liệu có tựa đề: Vấn đề Công Giáo miền Bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan, 1954-1956(**) được phổ biến trên Thời Đại Mới, số 4, tháng 3/2005.
Phái đoàn tôn giáo Ba Lan sang Việt Nam do lời mời của chính phủ Hồ Chí Minh để cố vấn chính phủ về các vấn đề liên quan đến tôn giáo trong đó có nhiệm vụ khuyến cáo các địa phận Công Giáo nên ở lại và hợp tác với chính quyền cộng sản như ở Ba Lan. Theo báo cáo số 243/10/55 của đại sứ Jery Grudzinski gửi Bộ ngoại giao Warsaw một cách sai lạc về số phận một số giáo dân đã di cư vào Nam: “Thất vọng vì không được cấp phát ruộng đất và trâu cầy như chính quyền Bảo Đại đã hứa hẹn, họ yêu cầu được trở lại miền Bắc”.
Gia đình gián điệp Vũ Ngọc Nhạ – đoàn viên “Tổng bộ tự vệ Phát Diệm” (do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo) – lên đuờng “di cư”. Nguồn avsnonline.net
Tài liệu của phái đoàn Ba Lan cho biết vào những năm 1945-1947, có sự liên minh, hợp tác giữa người Thiên Chúa giáo và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có cả một chính sách “Công Giáo vận” mà tài liệu còn cất giữ được tại thư khố quân đội ở Vincennes bên Pháp. Thật vậy, khi thành lập chính phủ, ông Hồ đã chọn Nguyễn Mạnh Hà, một trí thức ở Pháp về làm bộ trưởng bộ kinh tế. Trong phái đoàn tham dư hội nghị Fontainebleau, ông Hồ đề cử ông Nguyễn Đệ tham gia phái đoàn. Ông Đệ có nhiều liên hệ tốt với Pháp và giới ngân hàng Đông Dương. Trong buổi lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ, cùng một lúc có buổi lễ thành lập liên đoàn Công Giáo (liên đoàn Công Giáo không nằm trong hệ thống liên đoàn của Việt Minh) vào tháng 10/1945. Trong dịp này có phái đoàn cao cấp chính phủ gồm Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp về dự, đồng thời cũng cử tân giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.
Chính sách Công Giáo vận có đạt được điều gì cụ thể? Ung Văn Khiêm đã nghiêm cấm mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích với người Thiên Chúa giáo. Hồ Chí Minh đã ra lệnh không giới nghiêm trong đêm Giáng sinh, v.v…
Thật ra chính sách tôn giáo đó chỉ có cái bề mặt của một chủ trương chiến lược, thực tế, người Thiên Chúa giáo vẫn là đối tượng nghi ngờ số một. Nhưng sang đến năm 1950-1951, mối liên hệ tốt đẹp giữa hai bên kể như chấm dứt. Khu tự trị Phát Diệm dần trở thành một thứ tiền đồn chống Cộng sản.
Không lạ gì, khi có cuộc di cư, khu Bùi Chu, Phát Diệm có tỉ số người di cư cao nhất trên toàn miền Bắc. Khoảng 50% dân theo đạo Thiên Chúa giáo.
Việt Minh và cả Pháp cũng không tiên liệu được số người di cư lên cao đến như thế. Tài liệu của phái đoàn tôn giáo Ba Lan đã cắt nghĩa tìm hiểu tại sao có số đông người di cư như thế và cố tình bóp méo một số sự việc. Theo họ, yếu tố chính thức đẩy người ta di cư là vấn đề tôn giáo.
– Yếu tố tôn giáo: Trong bản báo cáo của đại sứ Ba Lan Tomasz Pietka, ông đã xếp yếu tố tôn giáo lên hàng đầu. Ông viết: “Vấn đề di cư của người Công Giáo vẫn tiếp diễn”. Chính phủ và đảng đã làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn to lớn…Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong thời gian tới đây… Vì số yếu tố tôn giáo lên hàng đầu, ông viết:
“Vấn đề di cư của người Công Giáo vẫn tiếp tục, số lượng người Thiên Chúa giáo bỏ nhà bỏ cửa đi quá đông. Một chiếc tầu Ba Lan, một chiếc tầu duy nhất bên phe cộng sản vào Nam chở bộ đội Việt Minh và gia đình họ ra Bắc, nhân tiện đó khi đi vào Nam, họ nhận chở giúp đồng bào di cư Thiên Chúa giáo vào Nam”. Hiện nay, tầu Kilinski của ta phải lo chuyển giáo dân vào Nam. Cho đến ngày 18 tháng 5, nó sẽ phải chở 10.000 người. Đang có tin đồn, người Pháp muốn đề nghị kéo dài thời hạn 300 ngày cho dân chúng có thể chuyển vùng. Đại sứ Pietka xác nhận: “Chính phủ ta đồng ý để cho tầu Kilinski chở 5400 giáo dân từ Bắc vào Nam, trong tinh thần bắt tay người thiên chúa giáo”.
Trong phần bài viết về số giáo dân di cư vào miền Nam, chúng tôi ước lượng vào khoảng 300.000 người. Số người thiên chúa giáo di cư có đông, nhưng không phải là yếu tố quyết định hàng đầu.
– Yếu tố thứ hai là kinh tế: Kinh tế suy sụp với sự đe dọa của nạn đói. Trong bản báo cáo tháng 2, ông đại sứ viết:
Thị trường cần cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh.
Báo cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau:
“Một trong những khó khăn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn đói… Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan: “Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”.
(Báo cáo của đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 02/05/1955)
Báo cáo này giúp chúng ta bây giờ mới hiểu ra rằng, Việt Minh khi vào Hà Nội đã nhận một mảnh đất trống, chỉ còn xương với sẩu, chỉ còn lại “Vỏ lon bia và thùng carton rỗng có nhãn hiệu Made in USA” như nhận xét của bác sĩ T. Dooley. Bởi vì tất cả những gì xét ra có thể dùng được thì người Pháp, qua tầu Mỹ đã chuyên chở hết vào miền Nam.
Các gia đình phía quân đội Quốc Gia khi di cư vào miền Nam được phép mang theo cả giường tủ bàn, ghế khảm xà cừ, sập gụ tủ chè v.v… Một người bạn trẻ, anh Vũ Thế Thành hiện Thành vẫn liên lạc với tôi có kể cho tôi là khi di cư vào miền Nam, gia đình anh đã mang theo được chiếc đồng hồ quả lắc coi như gia sản quý giá nhất, thêm hai tấm phản dày. Cho đến bây giờ đồng hồ vẫn chạy, dù chạy chậm vì đã quá cũ. Còn hai tấm phản thì nay cụ bà này đã 92 tuổi vẫn nhất định nằm trên phản đó, nhưng chập đôi lại.
Quá khứ ấy ghi khắc sâu trong lòng cụ bà và cụ sẽ mang theo mình khi về bên kia thế giới.
Nghĩ đến chuyện này, tôi nghĩ người cộng sản còn hên và may mắn. Vì năm 1975, họ đã không gặp hoàn cảnh tương tự như 1954-1955 và họ đã nuốt trọn gói không trừ một thứ gì như một thứ cướp cạn, vì Mỹ quá sai lầm trong cơn tháo chạy.
Tại miền Bắc, những trang bị cơ sở kỹ nghệ tiêu biểu của kỹ nghệ như nhà máy cement Hải Phòng, hãng thủy tinh, đài phát thanh Radio Hà Nội, trang thiết bị cơ sở mỏ Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định. Tất cả cái gì có thể tháo gở được thì tháo gỡ, còn không thì ở trong tình trạng bất khả dụng.
Vì thế, họ đói là phải và giả dụ không có viện trợ cấp thời của Trung Cộng thì dân chúng miền Bắc còn ở lại sẽ ra sao?
Nhưng những nhận định của phái đoàn Thiên Chúa giáo Ba Lan về việc người di cư ở trên rất thiếu xót và thiếu một điều không thể thiếu: Sự kiện người di cư đông đảo là vì người dân di cư sợ và trốn tránh cộng sản.
Không hẳn chỉ là vấn đề đạo Thiên Chúa giáo. Nhưng nếu hiểu tôn giáo là mọi đạo thì hoàn toàn đúng. Vì có khoảng 500.000 người là đạo Phật, đạo Ông Bà, đạo Tin Lành và “đạo nào cũng có“.
Tất cả những người di cư ra đi trước sau chỉ vì lý tưởng: chọn tự do đồng nghĩa với không chấp nhận cộng sản.
Đó là lý do chính yếu. Sợ mà đi, sợ mà trốn, thù ghét mà bỏ vào Nam. Cho nên người giầu hay người nghèo, người các tôn giáo, người “đạo nào cũng có”, rồi trẻ già lớn bé đều cuốn gói vào Nam cả.
Làm sao người cộng sản giải thích được trường hợp một người què cả hai chân, và từ chối không để Hải quân Mỹ bế ông lền tầu chiến. Ông đã bò bằng hai chân và cả hai tay, tay có hai đôi dép làm giầy. Các quân nhân Mỹ đứng khoanh tay nhìn ông bò lên tầu? Chỉ cần một người khuyết tật, một người thôi. Đáng nhẽ người ấy nên ở lại, vậy mà người ấy đã cương quyết ra đi.
Cho nên, không có vấn đề thúc ép phải di cư.
Không ai ép người khác phải di cư được? Nếu tự chính họ không muốn.
Di cư là hình thức tự nguyện cao nhất để đi tìm Tự Do
Cũng vì thế, phái đoàn Ba Lan đã phải thừa nhận thất bại của họ ở cuối bản báo cáo như sau: “Để phản ứng lại chuyến đi thăm của phái đoàn, một chiến dịch tuyên truyền chống Ba Lan đã được đẩy mạnh trong giới Công Giáo Việt Nam”.
Cụ thể là những sự việc sau đây được phái đoàn ghi lại:
Giám mục Trịnh Như Khuê đã “treo chén” hai linh mục trong Ủy Ban toàn quốc những người Công Giáo yêu tổ quốc, yêu Hòa Bình do linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch.
Các giới chức Công Giáo đã tỏ ra lạnh nhạt nếu không nói là thù nghịch với phái đoàn Ba Lan như các vị giám mục Trịnh Như Khuê ở Hà Nội, giám mục Trần Hữu Đức ở Vinh, linh mục Tân, đại diện ở Thanh Hóa, linh mục Liêm, đại diện ở Phát Diệm, linh mục Hiệp đại diện ở Hải Phòng.
Đặc biệt là giám mục Trịnh Như Khuê, Hà Nội, phái đoàn báo cáo: “Giám mục đã tỏ thái độ thù nghịch đối với phái đoàn, chỉ cho phép hai linh mục cử hành lễ thánh trong một nhà nguyện đóng kín”. Sine assistentia populi. (Không cho phép giáo dân được dự lễ)
Đây là một hình thức tẩy chay của Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, dùng giáo luật để loại trừ hai linh mục Ba Lan. Đến độ, phái đoàn Ba Lan đánh giá hai giám mục Trịnh Như Khuê và Trần Hữu Đức là “phản động”, mặc dầu hai giám mục này tình nguyện ở lại miền Bắc và khuyên giáo dân cũng ở lại như họ
Số người tập kết ra Bắc
Theo phúc trình của Ba Lan, tàu Ba Lan đã chở 85 ngàn người ra Bắc so với con số 800 ngàn người vào Nam. Theo báo cáo “Chuyên chở bộ đội Việt Minh trên tầu Kilinski 1954-1955 (Nautologia 2001 n.1-2(136), trang 18-21) của thuyền trưởng tầu Jan Kilinski, ngày 07/04/1955 thì tổng cộng chỉ một mình chiếc tầu Ba Lan đã chở khoảng 85.000 người từ Nam ra Bắc, 3.500 tấn thiết bị quân sự và 250 tấn đạn dược ra Bắc. Con số 85.000 người do chỉ một chiếc tầu thôi, giả dụ mỗi lần chở được tối đa 5000 người, tàu JanKilinski phải mất bao nhiêu chuyến hải trình?
Chiếc chiến hạm Mỹ chở nhiều chuyến nhất và nhiều người nhất là tầu General House, đã chở được 50.000 người di cư vào miền Nam. Chiếc General House thuộc loại tầu đổ bộ T-AP, dùng để chuyên chở binh lính. Bình thường chở từ 1200-2000 binh sĩ. Chở quá tải là 3000 người. Trường hợp khẩn cấp có thể chở từ 5000-7000 người. (Trích OPTF, trang 213)
Theo Ramesh Thakur trong cuốn Peacemaking in Viet Nam, (The University of of Alberta Press,1984, trang 131) thì con số người từ Nam ra Bắc thật ít ỏi. Chỉ có 4269 người bỏ miền Nam ra miền Bắc. Trong khi đó Ronald B. Frankum, Jr. viết như sau:
Peacekeeping in Vietnam – Canada, India, Poland, and the International Commission by Ramesh Chandra Thakur. Nguồn University of Alberta, 1984
“At the same time, personnel and equipment moved to the South, The French and Polish were involved in transporting those who wished to go to the North.The French had allocated approximately ten shịps for Viet Minh transportations and had estimated that sixteen thousand of the possible one hundred fifty thousand personnel had already completed the trip north.”
Cùng lúc, các nhân viên và các thiết bị được chuyển vào Nam, Pháp và Ba Lan đã để hết tâm trí vào việc chuyên chở những người muốn được đi ra Bắc. Nước Pháp đã phân phối cho Việt Minh độ 10 chiếc tầu để chuyên chở và ước lượng vào khoảng 16 ngàn người trên tổng số ước lượng có thể là 150.000 ngàn nhân viên đã hoàn tất chuyến đi ra Bắc rồi”. (Trích OPTF, trang 138)
Theo tài liệu trong cuốn Cuộc Di Cư Lịch Sử trang 244, thì chuyến bay đầu tiên chở người ra Bắc vào ngày 08/04/1955 và tổng cộng chỉ có 15 chuyến.
Có 1018 người được chở ra Bắc bằng phi cơ.
Và có 3340 được chở ra Bắc bằng tàu thủy của Pháp. Cộng chung là 4.358 người.
Tài liệu của Phủ Tổng Ủy Di cư rõ ràng là thiếu sót, vì không đề cập đến số lượng người được chở ra Bắc bằng tàu của Ba Lan như đã nêu trên. Vì thế con số hơn 4000 người được chở ra Bắc là không xác thực.
Tuy nhiên, có một sự thực không thể chối cãi là sau này có một số người tập kết đã bỏ trốn về miền Nam như trường hợp anh Trịnh Minh Cầm ở tỉnh Bình Định và đồng bạn. Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia thời 1955 có bài viết tường thuật đầy đủ về trường hợp của anh Nguyễn Minh Cầm. Theo anh Cầm, đã có khoảng 300 người đã cùng trốn đi như thế với anh và họ đã vào được đến Quảng Bình, rồi từ Quảng Bình tới được bờ sông Bến Hải. Nhưng khi tới được bờ sông Bến Hải thì chỉ còn lại có 195 người, những người khác đã chết ở dọc đường. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 250)
Trên những chuyến tầu chở ra Bắc của tầu Kilinski, Ba Lan, người viết có tấm hình bộ đội Bắc Việt chở ra Bắc cả một đàn voi vốn là phương tiện chuyên chở của bộ đội Bắc Việt ở Cao nguyên Trung phần.
Riêng một số người di cư được tầu Ba Lan “chở dùm” vào miền Nam thì không được cái may mắn như những người di cư được chở vào miền Nam trên các tàu Mỹ. Đó là trường hợp cuộc ra đi bất hạnh của một số đồng bào Ba Làng (Thanh Hóa) di cư vào Nam trên tầu Kilinski của Ba Lan. Và đây là lời kể lại của những con người bất hạnh đó:
“Chúng tôi bước lên tầu Ba Lan với tất cả hồi hộp và lo sợ vì chúng tôi vẫn có cảm tưởng bọn Việt Cộng sẽ đưa chúng tôi đi biệt tích một nơi nào khác, chứ không phải vào Nam. Chính vì sợ thế mà nhiều đồng bào chúng tôi không dám đi… Việt Minh chia chúng tôi làm 3 hạng, hạng “phản động” bị giam xuống đáy tầu, nóng như lò lửa. Hạng “lừng khừng”, hạng “tiến bộ” được đối xử khá hơn, bị gò ép như cá hộp, nghẹt thở và không phân biệt lúc nào là ngày và đêm. Ăn thì mỗi ngày được lưng bát cơm với một miếng thịt bò nhỏ xíu mà mặn không thể tưởng tượng… Một số đàn bà trẻ con vì nhịn đói, nhịn khát, nóng bức quá nên bị ngất đi…Thủy thủ Ba Lan trên tầu này không hề nhìn ngó đến chúng tôi.
(Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 252)
Người Pháp cũng nhờ Hải quân Mỹ chở người tập kết ra Bắc. Vào ngày 15 tháng 8, Hải quân đô đốc Sabin đã từ chối yêu cầu của người Pháp chở 18.000 người tập kết ra miền Bắc. Và kể từ đó, Hải quân Mỹ được lệnh từ chối tất cả mọi yêu cầu chở người tập kết ra Bắc. Chúng ta không kể đến một số không nhỏ nhiều người theo Việt Minh còn lưỡng lự không muốn rời bỏ miền Nam để ra sinh sống ngoài Bắc. Cũng không kể có một số người được cài lại miền Nam để phá rối hiệp định Geneva.
Tài liệu đọc thêm: Người viết hiện đang có trong tay tập tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ ghi lại về việc cộng sản cài người ở lại miền Nam Việt Nam như sau: Cuộc xâm lược từ miền Bắc, hồ sơ về chiến dịch chinh phục miền Nam Viêt Nam của Bắc Việt. Trong phần V của tập tài liệu có ghi như sau:
“Khi Việt Nam bị chia đôi, hàng ngàn đảng viên được lựa chọn kỹ càng và được lệnh ở lại tại chỗ miền Nam và gìn giữ guồng máy bí mật của họ cho nguyên vẹn hầu giúp tăng tiến mục đích của Hà Nội. Võ khí và đạn dược được tích trữ để sau này được đem dùng. Du kích quân trở về với gia đình để chờ lời kêu gọi của Đảng. Những kẻ khác rút vào những sào huyệt ở tận rừng sâu.
Đa số, khoảng 90 ngàn người đi ra Bắc Việt.”
(Trích tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trang 26)
Việt Nam Cộng Hòa sau này cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư nhan đề: Chính sách xâm lược của Việt Minh Cộng sản do chính phủ VNCH ấn hành vào tháng 07/1962.
Trong các con số Việt Minh tập kết ra Bắc, con số nào là chính xác? Khi những người miền Nam được gọi là “tập kết” ra Bắc, phần không nhỏ, bọn họ để lại gia đình trong Nam. Vậy con số 85.000 được chuyên chở trên chỉ một chiếc tầu thủy theo thuyền trưởng tầu Ba Lan có tin được không? Cũng không hiểu tầu Kilinski thuộc loại tầu gì? Khả năng chuyên chở tối đa là bao nhiêu? Và họ đã chuyên chở bao nhiêu chuyến từ Bắc vào Nam? Tỉ lệ quá chênh lệch (giữa hai bên) này nói gì?(1)
Những sĩ quan và quân đội quốc gia tiếp quản những khu vực do Việt Minh trao trả lại trước khi ra Bắc theo Hiệp Định Geneva
Đây là một vấn đề ít được sách vở tài liệu nói tới. Theo lời một nhân chứng, đại úy Tùng lúc bấy giờ là sĩ quan tham dự vào chiến dịch tiếp quản này kể lại như sau cho tôi như một chứng từ miệng.
Đại úy Tùng thuộc đơn vị Sub Division Nam Định. Đơn vị này trước đây thuộc quân đội Pháp và đã được chuyển giao cho quân đội Quốc gia vào năm 1954 do sĩ quan Dương Quý Phan làm Tư lệnh. Trong đơn vị này có các sĩ quan như Tôn Thất Xứng (sau này thăng Thiếu tướng) trung tá Phạm Văn Đổng (sau cũng thăng Thiếu Tướng).
Sau đó, đại úy Tùng được lệnh di chuyển vào miền Nam, tháng 07/1954. Đơn vị của ông do đại tá Lê Văn Kim (sau này thăng Trung tướng) làm chỉ huy trưởng cuộc hành quân. Tôn Thất Đính (sau thăng Trung Tướng) làm Tham Mưu trưởng đi tàu há mồm LST của Pháp đổ bộ Sa Huỳnh rồi thẳng đường đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, việc tiếp quản lại do một tiểu đoàn dù của Tây đi trước nhận bàn giao trực tiếp từ phía Việt Minh, sau đó mới giao lại cho quân đội Quốc Gia. Sau khi tiếp quản Quy Nhơn rồi lần lượt đến tiếp quản Sông Cầu, Tuy Hòa. Cũng xin nhắc lại trước khi có Hiệp định Geneva thì nơi đây đã xẩy ra một cuộc hành quân lớn tên Operation Atlante có sự tham dự của Đỗ Cao Trí mang một Tiểu đoàn Khinh binh từ Bắc vào Tuy Hòa. Cuộc hành quân kết cục là thất bại.
Tình hình ở Quy Nhơn lúc bấy giờ nằm trong tay quân đội Việt Minh. Không có điện, nước. Chỉ ở đường phố chính có điện nhờ dùng hai dynamô của xe thiết giáp chạy bằng dầu hỏa. Việc giao thông thì có một đoạn đường xe lửa chạy dài chừng 20 kilô mét, chỉ có một toa. Không có đầu máy. Khi chạy thì người ta dùng tay nhận một cái cần từ trên xuống dưới như một thứ piston, cộng thêm sức của chừng 10 người đẩy cho toa xe lửa có đà để chạy. Khi nào toa xe ngừng lại thì xuống đẩy tiếp. Đến nơi thì họ lại nhảy xuống kéo thừng để cho toa xe ngừng lại thay cái thắng.
Tình hình dân chúng thì tỏ vẻ lạnh nhạt, nếu không nói là ác cảm với quân đội Quốc Gia. Một lần, lính Quốc Gia mang trứng gà đến nhà dân để xin luộc, dân chúng từ chối không cho mượn bếp để luộc trứng.
Sau này, quân đội Quốc Gia phải bỏ công rất nhiều, dùng tâm lý chiến để lấy được lòng dân. Đặc biệt, sau khi tiếp quản Quy Nhơn xong thì thủ tướng Ngô Đình Diệm có ra thăm ủy lạo dân chúng và sau đó, trong dân gian đã truyền tụng hai câu thơ như sau:
Mười năm không thấy cụ Hồ
Mới có 10 ngày đã đón cụ Ngô
(tiếp theo phần 1)
Trú khu Hải Phòng
Khi Hà Nội đã được chuyển giao cho Việt Minh theo thời hạn được quy định bởi Hiệp Định Geneva, các trung tâm tiếp cư phải chuyển xuống Hải Phòng thì số người di cư tăng lên khủng khiếp.Tất cả các trường học cũng như các công sở đều là nơi chứa người tỵ nạn, nhưng vẫn không đủ chỗ. Nha đại diện Phủ Tổng Ủy di cư tại Bắc phần đã cho dựng hàng ngàn lều vải tại vùng Vật-Cách, sát tỉnh Hải Phòng có khả năng đón tiếp 10.000 người, rồi một trú khu thứ hai được thiết lập ngay sau đó, chứa được 15 ngàn người. Một trú khu khác của bác sĩ Dooley, cách Hải Phòng 7 cây số, trên đường Hà Nội- Hải Phòng chứa được 12 ngàn người.
Trong thời gian tạm trú tại Hải Phòng, đồng bào di cư được phát gạo và 7 đồng tiền thức ăn, chưa kể được cung cấp nước mắm, cá khô, sữa, củi và mỗi hai người được cấp một chăn và một chiếu.
Trước khi xuống tầu, đồng bào được cấp phát bánh mì và 35 đồng/mỗi người. Nếu đi theo tầu Pháp, đồng bào được chở đến bến Sáu Kho, nếu đi tầu Mỹ, đồng bào được chở đến bến Vật-Cách rồi từ đó chuyển ra các tầu chiến lớn đậu ở vịnh Hạ Long.
Công việc tiếp cư tại Hải Phòng cứ kéo dài như thế cho đến ngày 11/05/1955 khi chuyến tầu lịch sử của Hải quân Mỹ, chiếc Brewster chở 520 đồng bào cuối cùng rời bến Hải Phòng. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang 129-130)
Một nhân vật đại diện cho Phủ Tổng Uỷ di cư trông coi việc di cư này mà chắc nhiều người còn nhớ và không quên được, xin được nhắc đến ông một lần: Ông Mai Văn Hàm.
Cũng xin được nhắc tới bốn vị đã lần lượt trông coi, chăm sóc cho người di cư là: Bác sĩ Phạm Hữu Chương, ông Ngô Ngọc Đối, bác sĩ Phạm Văn Huyến và ông Bùi Văn Lương.
Bên cạnh đó, có Giám mục Phạm Ngọc Chi được chỉ định làm chủ tịch Ủy ban hỗ trợ định cư.
Về phía người Pháp cung cấp 1500 tấn gạo cho Hải Phòng ngay từ những ngày đầu 28/7/1954. Sau này, ngày 9/2/1955 tờ báo Figaro của Pháp đã quyên góp được 35 triệu phật lăng (đồng franc ) gửi cho người di cư. Tấm ngân phiếu được trao cho Thủ tướng Diệm trước các lều di cư ở Tân Sơn Nhất.
Cũng vậy, ngay ngày 31/08/1954, Phi Luật Tân đã gửi sang giúp Việt Nam 7 bác sĩ và 3 nữ y tá trong khuôn khổ chiến dịch huynh đệ “Operation Brotherhood” hay “Fraternity”. (Trích tài liệu của ông Đinh Quang, tác giả Bình Giả, quê Hai, trang 4)
Mặc dầu vậy dân chúng trong các trại tỵ nạn thất vọng và chán nản cũng than vãn về tình trạng thiếu thốn đủ loại, cộng thêm tình trạng số người chờ đợi lâu mà vẫn chưa chưa được bốc đi. Hải quân đô đốc Sabin chịu trách nhiệm việc chuyên chở người di cư vào miền Nam đã thăm một trại tiếp cư và ông đã ghi lại như sau:
“There were some 14 thousand people huddled in what to me seemed to be cesspool. They were dirty, had little food or water and no shelter except a few pieces of cloth between two sticks in the ground. This is the monsoon season and that isn’t a very comfortable to live. They had given up the only thing they owned which probably was a little rice paddy and a thatched hut. But they had done it willingly to escape the jaws of Communism”. (Trích OPTF, trang 64).
(Đã có khoảng 14 ngàn người túm tụm trong cái mà theo tôi nó là cái hầm chứa phân. Họ bẩn thỉu, chỉ có một ít đồ ăn hoặc nước và không có chỗ trú ẩn ngoại trừ một vài mảnh vải vắt ở giữa hai cây sào cắm dưới đất. Đây là lúc gió mùa và đành chịu cho sự bất tiện đó. Có thể họ đã phải từ bỏ sở hữu duy nhất cuả họ là một ruộng lúa nhỏ và một túp lều tranh. Nhưng họ đã sẵn lòng làm điều ấy để thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản.)
Những chứng từ cho thấy Việt Minh không tôn trọng Hiệp định Geneva.
Có rất nhiều bằng cớ về điều này. Bằng cớ hiển nhiên không chối cãi được. Nếu tin được lời của ông Frank N. Trager trong Why, Viet Nam? Paul Mall Press, London, 1966, trang 97, một giáo sư ở Nữu Ước có thăm Việt Nam và cho biết có đến 95.000 người di cư ký trong đơn tố cáo Việt Minh vi phạm Hiệp định Geneva mà không được giải quyết.
Xin dẫn chứng từ của linh mục Trần Nam Bắc, một nhân chứng trong cuộc trong bài viết: “Le drame des réfugiés catholiques Vietnamiens”, Paris, mars 1955, trang 1-2 như sau:
“Ces fuites s’accomplissaient dans des conditions émouvantes, déchirantes mêmes, car les Viet Minh, en pleine violation des accords de Geneva, ont tenté et continuent encore de s’y opposer. Ils ont employé d’abord la persuation, puis la force et nombreux sont les réfugiés blessés par les balles communistes. On a vu les habitants de villages entiers se mettre en marche vers la mer, traversant les rizìères, pour éviter les routes controlées par les forces Viet Minh, et construire des radeaux de fortune se lancant sur la mer avec de grandes risques, sans aucune certitude d’être secourus. Des centaines de fugitifs se noyèrent. Qui pourraient jamais imaginer le spectacle impressionnant du 6 novembre dernier, quand une foule de 2000 réfugiés attendait sur un banc de sable de Cửa Trà Lý d’êtres sauvès par des navires de nations amies”..
(Thảm cảnh của người Công Giáo Việt Nam… Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Geneva trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt. Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi.)
Xin dẫn chứng từ của tờ Fides, communiqué du 29/1, trang 28 như sau:
“Dans les premiers jours de Janvier, 10.000 réfugiés catholiques qui s’étaient concentrés à BaLang pour rejoindre le Viet Nam du Sud, furent arrêtés par la force et conduits vers l’intérieur du pays, avant qua la commission Intertionnale puisseintervenir.Dans cette opératiom 5000 soldats Viet Minh seraient intervenus pour prendre d’assaut l’église dans laquelle les réfugiés s’étaient retranches. Ileut au cours de la rencontre des pertes de deux côtés, mais les réfugiés, qui disposaient seulement d’un armement inprovisé, furent rapidement mâitrisés. Tous furent conduits vers des destinations inconnues…”
(Vào những ngày đầu tháng giêng, 10.000 người tỵ nạn Thiên Chúa giáo đã tập trung ở Ba Làng để đi vào miền Nam, đã bị chặn bắt lại và dẫn độ vào sâu trong đất liền, trước khi Ủy Hội Kiểm soát đình chiến có thể can thiệp. Trong cuộc ruồng bắt này, 5000 binh lính Việt Minh đã tấn công vào nhà thờ trong đó các người tị nạn đang ẩn nấp ở đó. Trong cuộc đụng độ này, có sự thiệt hại cho cả đôi bên. Về phía người tị nạn chỉ có những võ khí sơ sài, tùy tiện nên dễ dàng bị Việt Minh khống chế… Tất cả đều được dẫn độ đến một nơi nào không ai hay biết…)
Tất cả những gì xảy ra ở Ba Làng cũng đã xảy ra ở Lưu Mỹ với 3000 giáo dân. Kết quả có 12 người chết, 50 bị thương và 200 người bị bắt sau đó. Ngày 26/9, hơn 2000 người di cư thuộc Hải Hậu, Bùi Chu bị Việt cộng ngăn chặn không được lên bến phà đi Nam Định, từ đó đi Hải Phòng. Họ chờ cả tuần lễ không được đi đành quay trở về nhà. Cũng vậy, 3000 người di cư Phát Diệm bị chặn lại ở Phủ Lý. Ngày 29/9, 3000 người di cư thuộc tỉnh Thái Bình bị chặn lại ở bến phà Nam Giang. Sau 15 ngày chờ đợi mỏi mòn, họ đành quay trở về nhà. Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến được thông báo đến nơi thì đám dân di cư đã không còn ai nữa. (Trích OPTF, trang 160)
Trong Cuộc di cư lịch sử cũng viết lại đầy đủ về sự vi phạm Hiệp Định Geneva của cộng sản như sau:
“Tại Thanh Hóa, ngày 08/01/55, dân chúng Ba Làng, huyện Tĩnh Gia, tụ họp hơn hai vạn người đòi di cư bị bộ đội Việt cộng nã súng bắt giải tán. Số lính của chúng dùng để đàn áp nhân dân là 5 ngàn tên trang bị đầy đủ khí giới. Trái lại nhân dân chỉ có gậy, dao đánh lại Việt Cộng. Vụ lưu huyết xảy ra, bọn quân đội ngụy quyền cũng có nhiều đứa bị thương, bên nhân dân có 4 người thiệt mạng, 6 người bị thương (có một người đã di cư vào Nam) Sau cuộc đấu tranh đẫm máu này hơn 2 vạn người tập trung để di cư bị giải tán bắng võ lực, dân chúng Ba Làng bị khủng bố, đàn áp thẳng tay, nam nữ thanh niên bị Công an Việt Cộng bắt đem xử ngay tại một tòa án” nhân dân” ở làng bên. Kết quả hai người bị khổ sai chung thân, 4 người bị 20 năm và 22 người bị 12 năm khổ sai. Những người khác sau khi bị tra tấn dã man được lần lần trở về, nhưng bị quản chế, trừ 60 người bị chúng coi là hạng cầm đầu nguy hiểm nên bị đưa đi biệt tích. Tiếp đến vụ tàn sát ở Lưu Mỹ càng rung rợn hơn nữa..Rồi kết quả dân Lưu Mỹ bị 11 người chết, nhiều người bị thương và đến tảng sáng toàn thể dân chúng Lưu Mỹ bị bắt trói.
Dưới đây là chi tiết vụ cứu vớt đồng bào ở Trà Lý do một sĩ quan Hải quân ngoại quốc tham gia cuộc cứu vớt ấy kể lại:” Trong đêm 5 rạng 6-11-54, một tiểu hạm của Hải quân đang tuần hành ngoài khơi Trà Lý được một thuyền đánh cá cho hay rằng có trên 2000 người hiện đang lâm vào cảnh nguy hiểm trên bãi cát ngoài cửa biển Trà Lý. Tức thì Tiểu hạm ấy, báo tin cho tầu khác, “ tầu La Capricieuse”- LSM 9.052- LCT. 9065 đến tiếp tay cứu trợ…
Một ông lý trưởng cho biết có vào khoảng 30 ngàn người di cư ở tỉnh Phủ Lý muốn trốn đi mà không được: “The mayor also reported that approximately thirty thousand Vietnamese wished to evacuate around Phu Ly, but there was no way to confirm the report”. (Trích PPTF, trang 127)
Bác sĩ Dooley (Dr. Thomas Anthony Dooley (1927-1961), vào năm 1960 được viện thăm dò Gallup cho ông là một trong số 10 người được dân chúng Mỹ ái mộ và câu chuyện về ông như sau:
“On October 27, the French LST arrived in Hai Phong with a load of eighteen hundred Vietnamse from Van Ly; all of them rescued from sampans and bamboo rafts. The refugees reported that many in the group had been detained and beaten by the Viet Minh before their escape. Two of these refugees who were wounded by the Viet Minh as they escaped by raft from Bui Chu were treated by Lieutenant (junior grade) Thomas A Dooley, M.D, and Vietnamse Roman Catholic priest Father Khuê at the Haiphong hospital”. (Trích OPTF, trang 162)
Ngày 27/10, tầu Pháp LST chở 1800 người Việt Nam từ Van Ly đến Hải Phòng. Tất cả họ đã được cứu nguy từ những chiếc thuyền tam bản và những chiếc mảng tre. Những người tị nạn báo cáo rằng nhiều người trong nhóm họ trước khi trốn thoát đã bị Việt Minh giam cầm và đánh đập. Trong số những người tị nạn có hai người bị Việt Minh gây thương tích khi họ trốn đi từ Bùi Chu bằng chiếc mảng đã được bác sĩ Thomas A Dooley và cha Khuê điều trị tại nhà thương Hải Phòng.
Tất cả những ghi nhận ở trên chỉ cho thấy rõ rằng: cuộc di cư 1954 là một cuộc ra đi để đi tìm tự do và dân chủ, để tránh cộng sản. Người di cư đã bỏ nhà, bỏ cửa, chấp nhận tất cả với bất cứ giá nào- ngay cả mạng sống mình- miễn là được sống trong Tự Do.
Một số không nhỏ những vùng như Vinh, Bùi Chu, Phát Diệm, Nam Định, Phủ Lý đã bị Việt Cộng phá rối, ngăn chặn không cho đi. Một số những người di cư đi được cho biết đã phải trả 7000 đồng cho mỗi đầu người, trái ngược với những điều ông Trần Tam Tỉnh đã viết ở trên. Sự thất bại của chính quyền cộng sản là không ngăn chặn được “làn sóng di cư” ngay ở các tỉnh mà trước đây nằm dưới quyền kiểm sót của họ như k trong vụ bạo động nổ ra ở Quỳnh Lưu vào tháng 11/1956, thuộc tỉnh Nghệ An, chính quê quán của Hồ Chí Minh.
Theo chính quyền, giáo dân do sức ép của hàng giáo phẩm đã tập họp đông đảo, nơi 300 người, nơi 500, có mặt nhiều thanh niên. Ngày 12 và 13 tháng 11, hằng trăm người Công Giáo đã tụ tập đòi quyền di cư vào miiền Nam, hô khẩu hiệu ”Đả đảo cải cách ruộng đất”,“Đả đảo cộng sản”, “đả đảo Trung Cộng”, “Đả đảo Nga Sô“, “Đức Mẹ muôn năm”. Vẫn theo báo cáo này: đã có những xung đột với bộ đội. Kết quả là mỗi bên có 5 người chết và nhiều người bị thương. Vài ngày sau, Hồ Chí Minh công bố quyết định sửa sai và cuộc sửa sai kéo dài đến cuối năm 1977…
(Trích Bản ghi về hội nghị Trung ương ngày 30/11/1956 do Bộ ngoại giao VNDCCH tổ chức).
Giữa những người di cư trong vùng tự do và người di cư trong vùng chiếm đóng của cộng sản, việc đi tìm tự do của loại người thứ hai khốn đốn và gian nan hơn nhiều.Thường ít ai lưu tâm đến “mảng nguời di cư” này. Họ phải đi lén lút, tổ chức đôi khi kéo đi cả làng, ra khơi trên những bè mảng ghép lại từ những cây tre và đôi khi xảy ra xung đột đẫm máu với chính quyền Việt Minh. Có báo cáo cho biết có những cuộc xung đột xảy ra có đổ máu, trong số đó giáo dân bị chết và bị thương có thể lên tới 50 người. (Trích Trần Thị Liên trong Vấn đề Công Giáo miền Bắc …) Người Pháp đã gửi 2 tầu đến Vinh để đón tiếp dân di cư vào cuối tháng 12/1954. Trung bình có 500 dân di cư Vinh được đón tiếp trong thời gian này mà tổng số lên đến 10233 ngàn người. (Trích OPTF, trang 186)
Việt Cộng cũng đã dùng đủ mọi cách để ngăn chặn làn sóng di cư này như tuyên truyền rỉ taị, đe dọa, rải truyền đơn, ngăn cản cấm đoán và đôi khi dùng cả võ lực để ngăn chặn làn sóng di cư này. Điển hình là nhạc sĩ Thẩm Oánh làm cho đài Radio Hà Nội bị Việt Minh đe dọa tính mang nên ông yêu cầu được di cư vào miền Nam ngay lập tức. Giám đốc chương trình Phạm Mạnh Phan thì không muốn nhận trách nhiệm di dời các trang thiết bị đài xuống Hải Phòng. Cuối cùng vì thiếu sự quản lý chặt chẽ, các trang thiết bị đó cũng biến mất ít lắm là 20%, và dù được chuyên chở vào trong Nam, đài phát thanh Hà Nội cũng không hoạt động trở lại được. Việt Minh cũng tìm cách mua lại các nhà in như trường hợp nhà in tờ báo Pháp, tờ l’Entente cho một kẻ vô danh với giá 780.000 động Việt cộng dùng những nhà in này để phổ biến truyền đơn và để ngăn cản làn sóng người di cư.
Để đánh bạt những loại tuyên truyền này, Hải quân Mỹ không có giải pháp nào hơn là đối xử tử tế với người di cư, cho ăn uống đàng hoàng và chữa bệnh săn sóc người đau ốm, mặc dầu có nhiều khác biệt văn hóa (Clash of culture).
Vai trò của Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến International Control Commission (ICC)
ICC có ba đại diện là Ba Lan, Ấn Độ và Gia Nã Đại. Nhưng vì thiếu thốn phương tiện di chuyển nên lệ thuộc vào chính quyền địa phương là Việt Minh. Họ bó tay, bất lực. Việt Minh dàn cảnh mỗi khi họ muốn đến thăm một nơi nào.
Bác sĩ Tom Dooley kể lại kinh nghiệm của ông về vai trò của ICC như sau:
“Quand les représentants de la visitaient un village, ils placaient une table sur la place publique et faisaient savoir que n’importe qui, désirait parler avec eux, pouvait le faire. Mais aux abords du village, les Viet Minh bloquaient les routes, pour assurer, disaient ils la protection des membres de la Commission. De cette manière, ilks ne pouvaient receullir des informations et des plaintes que d’un nombre limité de personnes, qui étaient par la suite soumise à des représailles”. (Trích trong Catholiques et Bouddhistes au Viet Nam, Piero Gheddo, trang 90)
(Khi đại diện Ủy Hội Quốc tế đến thăm một làng, Việt Minh đã đặt một cái bàn ở một nơi công cộng và cho hay rằng bất cứ ai muốn tiếp xúc với phái đoàn đều có thể nói chuyện. Nhưng ở đầu làng, Việt Minh đã chặn đường mà theo họ là để bảo đảm an ninh cho các đại diện của phái đoàn. Bằng cách đó, đại diện phái đoàn chỉ có thể lấy được những thông tin và những khiếu nại của một số người rất giới hạn mà sau đó họ có thể bị trả thù.)
Ký giả người Anh Robert Cardigan viết trên tờ The Tablet, Londres, ngày 12/2/1955, trang 125-153 như sau:
“Sự bất lực của Ủy hội quốc tế trong nhiều trường hợp trong đó họ không thể can thiệp trực tiếp giúp cho người tị nạn có quyền chọn lựa ra đi và đôi khi quá trễ, bởi vì những người di cư trốn đi đã bị bắt nhốt. Hoàn cảnh của những người di cư khốn khổ này đã bắt buộc nước Pháp của đại tướng Brebisson ở Paris can thiệp với Commission d’armistice”.
Cũng cùng một nhận xét tương tự Ronald B. Frankum, Jr. viết:
“The ICC was incapable for dealing with violations of the Geneva Agreements and the inconsistency of Viet Minh relocation. The Polish delegation never failed to block American and South Vietnamese concerns about the Viet Minh, while the North Vietnamese perceived the Canadian representative to be nothing more than a puppet of the United States.The Canadian members of the ICC were not reluctant to mention the difficulties in working with the Polish representatives of the ICC. In a conversation with Ainalie Kerr, Ottawa correspondent for the Catholic weekly Ensign, several Canadian delegates confided in the reporter that they were faced with insurmountable obstacles with the ICC”. (Trích OPTF, trang 166)
ICC không đủ khả năng để đối đầu với sự vi phạm Hiệp định Geneva và hành động mâu thuẫn của Việt Minh. Đại biểu Ba Lan đã thành công trong việc ngăn chận mối lo ngại của Mỹ và Nam Việt về vấn đề Việt Minh, trong lúc Bắc Việt nhận thấy đại diện Gia-Nã-Đại không gì khác hơn là một thứ bù nhìn của Hiệp Chủng Quốc. Các thành viên Gia-Nã-Đại của ICC đã không ngại ngần gì đề cập đến những khó khăn khi họ phải làm việc với đại diện Ba Lan của ICC. Trong cuộc đàm thoại với Ainalie Kerr, phóng viên ở Ottawa cho tờ báo tuần Ensign, vài đại biểu Gia-Nã-Đại có tâm sự với người ký giả rằng họ phải đương đầu với những chướng ngại không thể vượt qua được với ICC.
Trong tờ Actualité, ra ngày 15/04, 1955, trích lại trong sách của Piero Ghedo, tác giả bài báo dự đoán, nếu không có những vụ bắt bớ, ngăn chặn, hăm dọa thì số lượng người di cư không phải chỉ là con sồ gần một triệu người, mà có thể là 3 triệu người.
Con số đưa ra có thể hơi xa thực tế.
Có một nhận xét mà Việt Minh không chối cãi được là các cuộc di cư từng cả làng lại là những người di cư ở trong vùng Việt Minh chiếm đóng từ năm 1946… Chính những người dân đã từng sống dưới chế độ cộng sản trong 9 năm chiến tranh dưới quyền kiểm soát của họ lại là những người muốn ra đi trước nhất. Xin trích dẫn một đọan trong tờ Missi, 1956, số 2, trang 41:
“Contastation humiliante (pour le Viet Minh) la poussée la plus impétueuse et la plus persistante vers le Sud vient des provinces qui, depuis 1946, se trouvaient entìèrement sous le régime Viet Minh”.
Một điều đáng lấy làm tủi hổ cho Việt Minh là người ta nhận thấy làn sóng người di cư kiên trì nhất và dữ dội nhất muốn di cư vào Nam lại là những tỉnh hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của chế độ của Việt Minh từ năm 1946.
Hóa cho nên, càng sống với Việt Minh thì càng muốn trốn thoát khỏi bọn họ. Bài học càng đậm, càng sâu, càng thấm thía.
Chứng từ của Ronald B. Frankum.Jr:
“Earlier, a priest who had escaped by sampan from Thai Binh told American officials that twenty thousand civilians from that district and fifty thousand from neighboring district wanted to leave for the South but were denied transit to Hai Phong by the Viet Minh … On october 1, two thousand refugees arrived at Camp Pagoda in Hai Phong after a seventy-mile journey through Viet Minh-held territory aboard twenty-seven sampans. The new arrivals informed camp officials that another fifty sampans were behind them trying to make their way to the embarkation point”. (Trích OPTF, trang 139-140)
Một linh mục đã trốn thoát được khỏi Thái Bình bằng bè mảng đã nói với các viên chức Hoa Kỳ rằng còn có 20 ngàn thường dân ở Thái Bình và 50 chục ngàn người khác ở vùng lân cận đã muốn đi vào miền Nam, nhưng đã bị Việt Minh ngăn chận không cho đến Hải Phòng. Vào ngày 1 tháng 10, 2.000 người tị nạn đã tới trại Pagoda ở Hải Phòng sau một cuộc hành trình dài 70 dặm xuyên qua lãnh thổ Việt Minh trên 27 chiếc thuyền tam bản. Những người mới đến đã thông báo cho các viên chức ở trại rằng còn có 50 chiếc thuyền tam bản nữa đi đằng sau và đang cố tiến đến điểm tiếp cư.
Dựa theo tài liệu chính thức của chính phủ VNCH kể từ ngày 07/07/1954 đến 07/07/1960, phái đoàn chính phủ VNCH đã chuyển Ủy Hội Quốc tế 3.755 lá đơn xin can thiệp cho 84.129 người và 1.973 gia đình ở miền Bắc di cư vào miền Nam.
Phái đoàn đã chuyển cho Ủy Hội Quốc -Tế 13.015 lá đơn xin can thiệp cho 13.843 người bị Việt Cộng ép buộc tập kết ra Bắc. Việt Minh khuyến dụ các cán binh tập kết ra Bắc để gia đình vợ con ở lại trong Nam, hứa hẹn 2 năm sẽ trở về. Sau hai năm, tin trở về vẫn biệt tăm. Họ làm đơn kiện đòi chồng đòi con, yêu cầu Ủy Hội Quốc tế can thiệp. (Trích Hồ Đắc Huân, Sáu năm hoạt động của chánh phủ, trang 256)
Không bao giờ có hồi âm hay hướng giải quyết của chính quyền cộng sản. Sau đây xin ghi lại một câu truyện lý thú xảy ra khi có lệnh tập kết ra Bắc.
Trong số người tập kết, người viết quen biết con gái một gia đình của một cặp vợ chồng trẻ. Đã bao lần, người viết có dự định viết lại câu chuyện đẹp này để nhận ra những tình người trong những hoàn cảnh ngang trái, éo le. Không phải để trách ai, nhưng để thấy và để cảm nhận. Nay xin mượn mấy dòng này kể lại câu chuyện người chồng tập kết ra Bắc để lại vợ trẻ và một cô con gái chừng vài tuổi. Người vợ trẻ đành kiếm kế sinh nhai, mở một quán nước, nhờ đó quen biết một trung úy quân đội VNCH. Người sĩ quan này có một tấm lòng hào hiệp chấp nhận lấy người phụ nữ này đồng thời coi đứa bé gái như con ruột, nuôi nấng dạy dỗ bé gái đó nên người. Trước 75, cô con gái nay đã là một thiếu nữ xinh đẹp, tốt nghiệp cử nhân luật.
Không có tấm lòng của bố nuôi làm sao cô đạt được những điều như vậy. Còn vị trung úy sau là đại tá trong quân đôi VNCH. Ông bị đưa đi học tập cải tạo.
Phần cô gái, ra nước ngoài, mở quán ăn, vừa học vừa làm để nuôi con, miệt mài lo học lại luật ngành chưởng khế. Nay cô đã là một chưởng khế nổi danh, tham dự và giúp đỡ vào nhiều công tác xã hội và văn hóa của cộng đồng người Việt.
Nhưng cô vẫn canh cánh bên lòng, phải tìm lại người cha ruột tập kết ra Bắc, nay lưu lạc nơi nào. Sau nhiều thời gian và thử thách, cô đã quyết tâm về VN một chuyến, lên Di Linh, vào trong vùng sâu, nơi ông già tập kết nay về hưu ở với con cái của ông.
Nỗi mừng đã gặp. Nhưng không khỏi ngậm ngùi cảnh ông già có đời sống không khấm khá. Cô quyết định bỏ tiền ra xây nhà và giúp đỡ các đứa em cùng cha khác mẹ.
Chiến tranh làm chia lìa, làm tan đàn rã gánh, nhưng chính ở nơi ấy vẫn có những tấm lòng, vẫn có tình người vượt lên trên những hận oán không dễ dầu gì tránh khỏi.
Tín Phiếu và vàng của đồng bào di cư vào Nam
Đây cũng là những chi tiết tài liệu khá lý thú. Đây là những số tiền mà Việt Cộng đã tịch thu của đồng bào cũng như số tiền tín phiếu Hồ Chí Minh tổng cộng là: 2.533.257.860 đồng. Số tiền mà Việt Minh đã nuốt không của đồng bào liên khu V khi di cư vào Nam tại các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.
Như trường hợp đòi đất ở Thái Hà hiện nay, bao giờ đến lượt chúng ta vác đơn ra tòa án quốc tế để kiện đồng loạt về sự chiếm hữu tài sản đất đai của người di tản và nhất là tài sản của các giáo hội như trường học, nhà thương, các cơ sở xã hội sau 1975? (Trích Hồ Đắc Huân, 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH, trang 257)
Tiếp theo là vô số thư phản kháng gửi Ủy Hội về vấn đề phá rối miền Nam (trường hợp Việt Minh ám sát đại tá Hoàng Thụy Nam, đại diện chính phủ VNCH bên cạnh Ủy Hội), phá hoại đường xá, cầu cống, đường sắt và các hồ sơ tư pháp của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Phái đoàn bên cạnh Ủy Hội của VN cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp, sau dịch ra tiếng Anh, năm 1959 (trích Hồ Đắc Huân với cuốn 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH) để kết án cộng sản vi phạm Hiệp định Geneva.
Những ngày cuối cùng ở các trại tạm cư Hải Phòng
Xin nhấn mạnh một chi tiết là việc rút quân không đồng loạt là 300 ngày, nhưng được định riêng cho từng khu vực với các thời hạn khác nhau. Nhất là trong việc di chuyển quân đội Pháp. Quân đội Liên Hiệp Pháp phải rút khỏi:
– Khu Hà Nội: 80 ngày
– Khu Hải Dương: 100 ngày
– Khu Hải Phòng: 300 ngày
Rồi thì cái thời gian hết hạn nó cũng sẽ đến.
Nhưng ngày 12/10 cũng đánh dấu giai đoạn đầu của cuộc di cư đã chấm dứt và đã thành công với hơn 200.000 đã được đưa vào miền Nam. Đây cũng là lúc mọi người chờ xem Việt Minh, kẻ mới tới, đối xử ra sao với người dân Hà Nội? Nhiều người hy vọng rằng sẽ được đối xử tử tế?
Dĩ nhiên còn lại 200 ngày của Hải Phòng để người dân nhận biết vàng thực hay vàng giả. Vì thế, không ít người đã trì hoãn lại việc ra đi vào miền Nam. Cộng thêm tết nhất gần tới, dân quê thì muốn thu gặt cho xong… Bấy nhiêu lý do để người di cư sống chờ đợi. Wait and see.
Dưới đây, xin ghi lại chứng từ của bác sĩ Dooley, một trong những người Mỹ cuối cùng còn ở lại miền Bắc, Hải Phòng trước thời hạn tiếp thu. Bác sĩ Dooley (1927-1961) làm việc trên tầu USS Montague, sau ông tình nguyện làm việc cho các trại tạm cư tại Hải Phòng, ông được đại tá tình báo Edward G. Landsdale tin dùng. Sau 1955, ông tình nguyện sang Lào mở chẩn y viện rồi bị bệnh ung thư, ông chết rất sớm. Có những vận động phong thánh cho ông, nhưng không có kết quả, ông bị tai tiếng vì đồng tình luyến ái.
Sau này, TT Kennedy, nước Mỹ coi ông như một biểu tượng cho giới trẻ Mỹ.
Nguyên văn lời tưởng lệ Thủ tướng Diệm đọc tại phòng họp Nội các trước Bs Tom Dooley và quan khách (May 12, 1955 – Sau này Đại tá E. Landale cho Dooley hay nguyên văn bản tưởng lệ do chính Landale đánh trên bàn máy của mình. Nguồn: Dr. America: The Lives of Thomas A. Dooley, 1927-1961, (trang 60), James T. Fisher
Nhưng đối với người Việt thì coi ông tượng trưng cho lòng nhân đạo và lòng bác ái.
Cuộc di cư này đậm nét với biểu tượng hình ảnh bác sĩ Dooley. Người Việt di cư còn rất xa lạ với người Mỹ. Nhưng qua bác sĩ Dooley như một thứ đại sứ tinh thần, người Việt di cư nhìn người Mỹ với đôi mắt thiện cảm và lòng biết ơn
.
Không mấy người Việt di cư mà lại không một lần nghe về vị Bác sĩ này. Ông đã sát cánh bên cạnh người di cư từ lúc đầu đến lúc cuối, nhờ đó ông báo cáo những khó khăn đủ loại mà người di cư gặp phải trong lúc tạm thời ở các trại tiếp cư. Ông cũng là một trong những người Mỹ cuối cùng ở lại để thu dọn các trại tiếp cư trước khi ra Đồ Sơn và từ đó lên tầu vào Miền Nam. Bác sĩ Dooley đã ghi lại hồi ức cái ngày cuối cùng đáng ghi nhớ ở Hải Phòng như sau:
“It was relatively quiet during the transition. The Navy Base close to day, the piers are gone, the building are emptied. There is nothing left in my warehouse there; all have been transferred to the ship.” (Trích OPTF, trang 204)
“Trong lúc chuyển tiếp thì tương đối yên ổn. Căn cứ Hải quân hôm nay đóng cửa, các bến tầu đã mất dạng và tòa nhà thì trống không. Chẳng còn thứ gì trong kho hàng của tôi ở đó cả, tất cả đã được chuyển lên tầu rồi”.
Điều này cần được nhấn mạnh thêm, vì phần đông người di cư đã không biết rằng, trong cuộc di cư người này, cả người Mỹ và người Pháp đều không muốn để lại bất cứ tài sản vật chất nào xét ra có lợi cho cộng sản. Ngoài 300.000 ngàn tấn trang thiết bị quân sự trù liệu được chở vào Nam. Phần còn lại gồm phần lớn các cơ sở kỹ nghệ nhẹ được người Pháp và chính quyền Quốc gia giúp đỡ để chuyên chở vào miền Nam. Người ta trù liệu đến việc tháo gỡ nhà máy cement Hải Phòng, mỗi năm sản xuất khoảng 400.000 tấn. Mỏ than Hòn Gai chừng 2 triệu tấn/năm, nhà máy dệt Nam Định v.v… Cho dù, dự định tháo gỡ toàn bộ trang thiết bị không thể thực hiện đồng bộ thì công việc tháo gỡ từng phần cũng gây trở ngại không ít cho chính quyền Việt Minh sau này.
Ngày 9 tháng 5, chuyển giao quyền hành cảng Hải Phòng cho Việt Minh mà không có điều gì trục trặc xảy ra kết thúc hơn một năm trời việc tiếp đón và chở người di cư miền Bắc vào miền Nam.
Chiếc tầu chiến cuối cùng của Mỹ rời Đồ Sơn là chiếc General Brewster mang theo toàn bộ lực lượng an ninh của Pháp còn ở lại cũng như tất cả các trang thiết bị của họ. Chưa kể hơn 500 người di cư cuối cùng trong đó có người cha và đứa con gái ra di để lại vợ, vì bà này không muốn đi khỏi Hà Nội.
Giai đoạn di cư: Operation Passage to Freedom.
Để di chuyển hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, một mình người Pháp và chính quyền quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của người Mỹ vào công việc này. Tổng thống Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Diệm đã ra lệnh cho Chủ Lực (Task Force) 90 của đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư. Đoàn này đã trở thành những chiến sĩ hòa bình giúp đỡ dân chúng miền Bắc đi tìm tự do. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang116)
Kể từ ngày 8 tháng 8 cho đến 20/ 8/1954, chương trình của quân đội Pháp là di chuyển bằng máy bay vào khoảng 1500 người mỗi ngày với tổng số 15.400 người. Cho đến tháng 5 năm sau, máy bay Pháp đã di chuyển vào Nam được 172.783 thường dân Việt Nam, 6187 quân đội quốc gia và 25.459 quân đội Pháp. Cộng chung, máy bay của Pháp đã chuyên chở đươc 213.635 người di cư, 11.206 thường dân Pháp.
Tầu của Pháp cũng di chuyển được tổng cộng là 234.975 người di cư. Nếu cộng chung hai số lượng người di cư vào miền Nam bằng máy bay và bằng thuyền thì người Pháp đã chở được gần nửa triệu người di cư vào miền Nam, con số chính xác là 448.610 người. (Trích OPTF, trang 205)
Số còn lại hơn 300.000 người di cư là do người Mỹ đảm trách theo kế hoạch có tên Operation Passage to Freedom.
Những con số vừa nêu trên so với tài liệu chính thức trong Cuộc Di Cư lịch sử của Phủ Tổng Ủy di cư cũng không mấy khác khác biệt.
Theo tài liệu trong Cuộc Di Cư lịch sử, máy bay Pháp chở được 4280 chuyến, tổng cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp còn có các hãng máy bay tư giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex, Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Phòng- Sài Gòn, dài 1174 cây số.
Trong lòng mỗi chiếc máy bay đã được tháo gỡ hết các ghế và dụng cụ để dành thêm chỗ rộng trở thêm được nhiều người tỵ nạn.
Tàu thủy Pháp chở được 338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu Trung Hoa, 2 chuyến, tàu Ba Lan, 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 người.
Và một số người đi bằng phương tiện riêng là 102.861 người.
Cộng chung tất cả là 871.5533. Một con số được coi là khá chính xác. (Trích Cuộc Di Cư lịch sử, trang 120)
Trước khi thực hiện kế hoạch này, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ càng mọi chuyện như thăm dò cảng đỗ cho tầu chạy dài từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn, phòng ngừa sự phá hoại của Việt Minh đối với các tầu chiến đậu ở cảng và ngoài khơi Hải Phòng. Chuẩn bị đủ các loại tầu cho việc di chuyển này: đủ loại tầu tiếp viện, đủ loại tầu đổ bộ, đủ loại tầu chở xe tăng, thiết giáp, tầu sửa chữa, tầu cao tốc, tầu tấn công, tầu dầu, tầu bệnh viện vv..Tất cả là 113 chiếc.113 chiếc này đã chuyển người từ Bắc vào Nam, có chiếc đã 3 hoặc 4 lần di chuyển từ Bắc vào Nam. Chẳng hạn các tầu há mồm LST đã để ra 651 ngày hải trình trên biển. Loại tầu LCU để ra 579 ngày. Loại tầu APA 264 ngày. Tổng cộng toàn thể các tầu Mỹ đã để ra 2181 ngày hải trình để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam. (Trích OPTF, trang 139)
Đó là những con số khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nó nói lên nhiều điều, trong đó báo hiệu kể từ nay, nước Mỹ sẽ còn dính dáng nhiều đến chính thể miền Nam còn non trẻ. Những tên tuổi như Eisenhower, Nixon, Kennedy, Johnson, Kissinger, Mc Namara sẽ gắn liền với những biến cố lớn nhỏ ở miền Nam.
Số phận dân miền Nam nay tùy thuộc họ. Lúc đầu họ đến với những hào quang, lòng kính phục, lúc họ đi chỉ còn là cay đắng và miệt thị.
Nhưng dù thế nào thì họ cũng đã đến.
Muốn chuyên chở được như thế, Hải quân Mỹ phải hủy bỏ tất cả các hải trình huấn luyện đã nằm trong kế hoạch với chính phủ Nam Hàn v.v…
Ngoài ra họ đã chuẩn bị 85 ngàn phao cứu sinh, life jackets, 85 ngàn chiếu, 700.000 đôi đũa, 17 ngàn sô đựng nước, 150 ngàn tấn gạo. Còn cần chuẩn bị đầy đủ xăng dầu, đồ khô, đồ đông lạnh, ly giấy cho mỗi chuyến hải trình.
Họ tổ chức bài bản lắm. Từng chi tiết một. Từng nhu cầu nhỏ cho người di cư theo cách sống của họ. Một cái kẹo cho trẻ nhỏ, nghe thì dễ, nào đã mấy người nghĩ ra được? Vì thế, trẻ con mới nhớ đời. Người lớn thì từ cái bàn chải đánh răng, kem đánh răng, chiếc khăn mặt mà rất nhiều người di cư xử dụng lần đầu tiên trong đời họ.
Phải nói là đâu ra đấy. Hơn Pháp nhiều. Không phải chỉ có tiền bạc mà còn là óc tổ chức, rất lô gích. Tỉ dụ, để cho tầu chiến của họ có bến đậu, Pháp chẳng giúp gì được cho họ. Họ làm đủ các thứ cần thiết để bảo đảm cho tầu của họ có thể cập bến an toàn suốt từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn. Trong vòng có mấy ngày phải xong.
Trên tầu, vấn đề vệ sinh cá nhân cho người di cư là tối cần thiết. Thủy thủ Mỹ đã “sáng chế ” những cầu tiêu dã chiến bằng các sô nhựa cắt đôi, rồi ghép ván lên trên để ngồi. Một chiếc tầu chở 2000 người cần có 50 chiếc cầu tiêu dã chiến như thế. Và còn phải chỉ dạy cách xử dụng cho đúng, vì có nhiều người tị nạn xử dụng các thùng cầu tiêu này để giặt giũ và tắm rửa cho trẻ con.
Ê, ráng mà quất banh qua thành tầu nha. Chú mày (ở truồng) thì không cách gì mà “chùi” được. Nguồn National Geographic, số tháng 6 1955
Họ đáng hãnh diện về những điều họ đã làm. Mà những việc làm này do những thủy thủ tầm thường trên tầu tự nghĩ ra. Không ai dạy họ. Cũng không ai ra lệnh cho họ phải làm. Không ai bắt họ phải dạy cho một đứa trẻ lên 5 cách cầm cây gậy khúc côn cầu. Không ai dặn dò một thủy thủ da đen cạo sơn trên thành tầu với một chú thợ phụ chưa quá 8 tuổi. Cả hai làm việc một cách tự nhiên và thoải mái.
Những cảnh như thế đẹp lắm. Rất là người.
Họ lo cho bữa ăn người tị nạn một cách gọn và chu đáo, hợp khẩu vị được chừng nào hay chừng đó.
Họ tỏ ra rất nhân bản, đầy tình người. Còn người tị nạn tỏ ra một quyết tâm không gì lay chuyển được. Hai yếu tố tinh thần đó đã làm nên chuyện lớn: chuyện người di cư 54-55. Đó cũng là chuyện người đàn ông đang kéo một chiếc xe bò, mặc quần xà lỏn, đôi chân trần gò lưng kéo xe. Đằng sau chỉ thấy loáng thoáng một bóng dáng phụ nữ đẩy xe và ba bốn bàn chân khác nhìn được dưới gậm xe.
Tôi nhìn và thấy ở đấy sức mạnh của người di cư 54-55.
Như lời nhận xét của tác giả OPTF, trang 163:
The stories of the Vienamese provide insight into not only the obstacles they had to face from the Viet Minh but also the strenght of conviction that helped them go on this passage to freedom. Mr Tran Van Tru, a fifty-six-year-old catholic farmer from Hải Hậu district, Bui Chu province, told what the eight people in his family went through to arrive in Hai Phong: We abandoned our house, our garden, our rice field to flee South. We arrived November 2, 1954, without having been able to bring any thing with us”.
“Nội dung câu chuyện của những người dân Việt cho thấy không chỉ vì những chướng ngại mà họ phải đối diện với bọn Việt Minh, mà còn là niềm xác tín vững mạnh đã giúp cho họ tiếp tục trên con đường đi tìm tự do. Ông Trần Văn Trụ, một nông dân Công Giáo, 56 tuổi, đến từ huyện Hải Hậu, tỉnh Bùi Chu, kể lại những gì mà 8 người trong gia đình ông đã trải qua để tới Hải Phòng: Chúng tôi đã bỏ lại tất cả nhà cửa, vuờn tược, ruộng nương để chạy trốn vào trong Nam. Ngày 2 tháng 11, 1954, chúng tôi đến nơi mà không mang theo được một thứ gì’.”
Rất tiếc là ngày nay, ít khi chúng ta còn được nhìn thấy những đôi mắt quyết tâm như thế.
Dân quê VN có thể không sử dụng thuần thục cầu tiêu dã chiến nhưng làm quen rất nhanh với giường treo 4 tầng kiểu HQ Mỹ. Nguồn National Geographic, số tháng 6 1955
Trên mỗi tầu, Hải quân Mỹ yêu cầu người Pháp cung cấp thông dịch viên, nhưng không có đủ. Một số người di cư có học và nhất là một số linh mục đã giúp một tay đắc lực trong truyện này. Vai trò của mấy vị linh mục trên mỗi chuyến tầu như trung gian để giải quyết những khó khăn cũng như khi cần giải thích hoặc quy luật nội bộ cần phải được tôn trọng và tuân theo trên tầu.
Người viết nghĩ rằng, người Mỹ đã tổ chức, kế hoạch tỉ mỉ, quy mô, dự liệu tất cả mọi nhu cầu cần thiết cho người tỵ nạn khi bước lên tầu cho đến lúc rời khỏi tầu. Những kỷ niệm đẹp, nhiều kỷ niệm khó quên trên các chuyến tầu Mỹ chở người di cư, nay nhiều người không thể không nhớ lại.
Có những thủy thủ đoàn đã quyên góp tiền lương và tặng lại cho người di cư đi trên các chuyến tầu của họ.
Nhiều người sẽ không quên được những giường nằm cá nhân treo lủng lẳng lên bằng những giây xích sắt gồm bốn tầng đu đưa trên không. Những gói quà nho nhỏ “welcome kits” do thủy thủ đoàn trao tặng mỗi người tị nạn trong đó có thuốc đánh răng, bánh xà bông, khăn mặt, kẹo và hộp sữa nhỏ có ghi: From the people of America to the people of Viet Nam – a gift. (Tóm lược bài báo của Gertrude Samuels, Passage to Freedom in Việt Nam, National Geographic, số tháng 6-1955, trang 15)
Khi đặt chân xuống cảng Sài Gòn, người ta nhận thấy hình ảnh những người di cư, phần đông người nào cũng đội một cái nón, áo vải nâu đậm khác với mầu đen của người Sài gòn. Người Bắc áo nâu, người Nam áo đen. Đàn bà chít khăn, rẽ ngôi giữa, răng nhuộm đen, đi chân đất, dáng mệt mỏi tay xách nách mang hoặc bồng con dại, nét mặt ngơ ngác, ngại ngùng bối rối, câm lặng khi bước chân đến một nơi xa lạ như đất Sài Gòn. Một Sài Gòn xa hoa, thanh lịch, xe cộ chạy như mắc cửi đến lóa mắt, nhất là những chiếc xe gắn máy lao đi như một mũi tên nhả khói mù mịt cộng với tiếng còi xe inh ỏi, tiếng nói lạ tai.
Xin dẫn một chứng từ về tâm trạng một người di cư khi đặt chân lên bến cảng Sài Gòn đã được đăng trên báo Tự Lập như sau:
“Hải Phòng, tờ mờ sáng, trên các ngả đường, đông đảo đồng bào đã lũ lượt chen chúc để lên xe chở đến bến tầu thủy vào Nam. Tưng bừng và náo nhiệt… Tất cả nói lên sức sống rồi rào và tinh thần bất khuất của quần chúng dưới ách độc tài cộng sản… Hành lý cồng kềnh nặng nề của đồng bào đã có đoàn cán bộ đeo thẻ trắng ở ngực tận tâm khuân vác giúp xuống tầu. Chúng tôi đã nhanh nhẹn trèo lên boong tràn ngập niềm tin. Đối chiếu luận điệu tuyên truyền của VM với những điều tai nghe mắt thấy ở đây, người ta đều thông cảm nhau qua nụ cười mỉa mai có ý khinh bỉ. Trông kìa, một thủy thủ ngoại quốc già đang học gánh, ông ta gù cả lưng, rụt cả cổ, hai tay trước mặt cố đè cái đầu đòn gánh cho khỏi bị võng mà vẫn nặng quá, loạng choạng không sao bước được. Trên tầu, những tràng cười nổi lên.
Tầu nhổ neo và dần dần ra biển. Tầu Marine Serpent, một chiếc tầu Mỹ lớn có thể chở được 6.000 người… Chúng tôi tha hồ ngắm cảnh nước non, lòng tôi thư thái, tâm hồn tôi phơi phới. Phải chăng, tôi vừa thoát khỏi một chốn tù đầy mà sống lại ở giữa cõi đời? Gặp nhau đây là xóm làng họ hàng, là bà con thân thích cả. Dưới trời tự do, sức lực con người sẽ đem ra xây dựng cho đời mình cơm no áo ấm, khỏi phải “ký cóp cho cọp nó sơi”, kẻ làm, sống khổ, người ngồi ăn ngon. Sự tổ chức trong tầu chu đáo và khoa học lắm. Người ta được lĩnh cơm ngày hai bữa, rất đầy đủ, món ăn được săn sóc kỹ càng… Mấy vị bác sỹ người Mỹ thân hành đi buồng này đến buồng khác, dừng lại trước giường nằm của từng người đề phân phát thuốc chữa say sóng.
Tầu cập bến Sài Gòn một sớm mai trời đẹp. Bình minh lên như đời sống đang vươn lên.. ánh sáng rực rỡ của mặt trời phương Nam cũng là ánh sáng tự do của đồng bào di cư Bắc Việt hàng khao khát.. Đồng bào chen chúc lên đứng chật boong, lặng nhìn “cảnh ngựa xe như nước của hòn ngọc Viễn Đông”. Lòng người bâng khuâng, hồi hộp trước sự tiếp đón dản dị nhưng cảm động của chính phủ Quốc Gia…
Riêng gia đình ông Phạm Hùng Sơn, chủ gia đình thứ 100.000 người di cư do tầu thủy Mỹ chở vào… Hải quân Mỹ đã dành riêng chiến hạm G.C 12 để chở mình gia đình ông vào Nam. Và chính Thủy sư đô đốc Hải quân Mỹ cũng có mặt trên chiến hạm này để săn sóc gia đình ông Phạm Hùng Sơn” (trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 122-123)
Và chỉ đến cuối năm 1954, nghĩa là sau 4 tháng hoạt động, các chiến hạm Mỹ đã chuyên chở được 175.227 thường dân và 14.089 binh sĩ từ Bắc vào Nam Cộng thêm 6388 xe cộ và 50.238 tấn trang thiết bị. Nghĩa là hơn một phần ba trên tổng số người di cư do Hải quân Mỹ đảm nhận. (Trích OPTF, trang 193)
Một vài chứng từ của những người đã di cư vào miền Nam
Kiều Chinh. Nguồn viettribune.com
“Là con út trong ba anh chị em, tôi được bố thương nhất. Suốt thời niên thiếu, tôi chi biết có bố. Bố tôi quyết định vào Nam. Nhưng đêm trước ngày ra đi, anh tôi bỏ nhà trốn ra khu theo phong trào thanh niên cứu quốc. Anh Lân là con trai duy nhất của bố, năm đó mới 20 tuổi. Sáng hôm sau, chỉ còn hai bố con ra phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Hàng ngàn người già trẻ lớn bé nằm ngồi la liệt dưới nắng cháy, chờ đợi đển được lên máy bay di cư vào Nam. Mãi tới cuối ngày mới tới lượt bố con tôi. Bố đẩy tôi lên máy bay rồi bất ngờ nói: con vào Nam trước, bố ở lại tìm anh Lân rồi sẽ vào sau. Tôi la khóc cố nhào ra với bố, nhưng bị đám đông xô lấn đẩy lui. Cửa máy bay đóng xập xuống. Đó là lần cuối, tôi được nhìn thấy bố. Lần đầu xa bố, lần đầu xa nhà, lần đầu đi máy bay. Tôi ngồi co rúm trên sàn máy bay vận tải nhà binh Pháp, suốt chuyến bay nôn oẹ khóc sướt mướt giữa đám người chen chúc ngột ngạt… Tôi chờ bố từng giờ. Hy vọng mỏng dần…Tôi đếm từng ngày cho tới buổi phát thanh cuối cùng của đài Pháp Á loan tin thời hạn 300 ngày đã hết…Tôi òa khóc. Bức màn tre đã xập xuống, chia đôi đất nước ngăn cách bố con tôi. Năm mươi năm sau cuộc di cư đã qua. Bố tôi đã chết. Anh tôi đã chết. Nhiều người di cư thời năm mươi năm trước đã ra đi vĩnh viễn.Thế hệ tôi cũng sắp ra đi. Xin thắp một nén nhang cho những người quá cố. (Trích 50 năm Bắc Kỳ di cư 1954-2004, trang 82-83)
Nguyễn Duy Chính. Nguồn imageshack.us
“Cho đến giờ phút này tôi vẫn không sao hiểu được tại sao gia đình tôi lại di cư vào miền Nam. Mà nào có phải ra đi một cách thoải mái, dễ dàng gì, trải qua chín chết, một sống, ba bốn đợt mới dắt díu nhau xuống Hải Phòng… hôm đó, cha tôi chở hai anh em trên xe đạp từ làng lên Thạch Thất nói dối là đưa chúng tôi sang làng Nủa ăn giỗ. Mẹ tôi và đứa em út phải ở lại để cho người ta tin rằng chúng tôi không có âm mưu trốn đi. Lên Sơn Tây, chúng tôi lên xe về Hà Nội, có chú tôi chờ sẵn, đợi những đợt sau ra được để thu xếp cho gia đình xuống Hải Dương. Đầu năm 1955, một ít ngày trước khi thời hạn di cư chấm dứt thì mẹ tôi ôm đứa em trai đi thoát. Gia đình tôi phải đi làm nhiều đợt nên mới lâu như thế.
Chúng tôi lại bồng bế nhau xuống tầu há mồm đưa ra tầu lớn đậu xa xa ngoài khơi. Chiếc tầu đó là của nhà binh Pháp đi từ bến Hải Phòng đến bến Sài Gòn mất cả thảy 3 ngày, hai đêm, sau đó có xe cam nhông chở vào trại di cư Phú Thọ cạnh trường đua, xế trường Bách Khoa ngày nay…
Quả thực những người như gia đình tôi không đủ trí tuệ và kiến thức để bảo rằng ra đi nhằm mục đích tìm tư do, hay chọn lựa một chính nghĩa theo lằn ranh Quốc Cộng. Chúng tôi quyết định hoàn toàn do bản năng, theo linh tính như những con thú đánh hơi thấy hiểm nguy, đằng trước là sự sống, đằng sau là sự chết. Hình ảnh đó tôi lại thấy trên khuôn mặt những người dân hoảng hốt di tản năm 1975. (Trích 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 69-70)
Đời tỵ nạn của N.N.T
Cha tôi bị Việt Minh giết. Vâng, bị Việt Minh giết. Anh tôi, vì là người phòng vệ Giám mục Phạm Ngọc Chi nên tính mạng luôn bị đe dọa. Thời gian đình chiến, Việt Minh công khai hoạt động. Chúng lùng bắt người quốc gia gán cho tội theo Tây theo Pháp hay theo Ki tô giáo. Chúng gọi những thành phần này là phản động. Có những lần chúng đem theo giáo mác, súng ống, gậy gộc, xiên nhọn, đi từng nhà lùng bắt, chúng lục lạo từ nhà trên nhà dưới, bụi tre, đống rơm để tìm kiếm. Vào một buổi chiều, đại gia đình tôi gồm 9 người chuẩn bị rời nhà. Từ nhà đến địa điểm của thuyền chờ đợi cách xa chừng bốn cây số. Không ai nói với ai, cứ đi theo người đi trước mình… Thuyền được rời bến ngay sau đó. Chừng hơn 30 thuyền lênh đênh trên sông Hồng. Người thuyền trưởng cho biết đọan đường nguy hiểm đã qua. Nghe thế, mọi nguời trên thuyền đều mừng rỡ. Xa xa, có nhiều ánh sáng như thiên đàng chờ đón ngươòi tỵ nạn chúng tôi. Càng chạy tới thì ánh sáng càng tỏ hiện. Nhiều tầu chiến, nhiều tầu há mồm, ánh sáng tỏa ra như một thành phố trước mặt. Đối với tôi, đó là một thiên đường… (Trích Đời Tỵ nạn, trong 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 64)
Ghi lại một vài chứng từ đối với những người còn ở lại miền Bắc
Phải xin thú thực với lòng mình rằng khi viết về cuộc di cư 1954-1955, tôi chỉ nghĩ đến những kẻ ra đi, đến những người di cư đã rời bỏ miền Bắc vào miền Nam. Nghĩ đến tâm trạng của họ, đến nỗi lo âu khốn khổ cũng như gương can đảm và lòng quyết tâm của họ.
Có nghĩa là coi vấn đề di cư chỉ trực tiếp liên hệ đến kẻ ra đi mà không liên quan gì đến kẻ ở lại.
Sách vở viết về cuộc di cư cũng chỉ viết về kẻ đã ra đi. Không một ai nghĩ đến kẻ ở lại nghĩ gì, sống ra sao, có hệ lụy gì?
Đấy là một thiếu sót cần được bổ khuyết. Nhưng mặt khác, người di cư bỏ miền Bắc ra đi không thể nghĩ hay viết thay cho người ở lại. Vì thế, người viết xin ghi lại một vài tâm tình của một vài người bạn đã ở lại miền Bắc sau 1954.
• Chứng từ thứ nhất
“Sau thời hạn 300 ngày, gia đình tôi đã quyết định ở lại Hà Nội. Đúng ra là gia đình tôi có người ở lại, có người ra đi. Phần không nhỏ đã di cư. Chẳng hạn, ông anh tôi là thiếu uý, sĩ quan, cùng khoá 4, Thủ Đức với ông Thiệu nên đã theo quân đội đi vào miền Nam. Sau này lên Trung tá và hiện nay đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Trong gia đình có kẻ đi người ở nên đưa đến cảnh chia lìa Nam Bắc trong mấy chục năm trời.
Đó cũng là bất hạnh của nhiều gia đình.
Mẹ tôi hồi đó 54 tuổi, Bố tôi 56, thấy mình đã già. Vì thế quyết định ở lại. Quyết định ở lại của gia đình tôi không phải vì lý do chính trị gì cả, chỉ là lý do gia đình.
Ông bố tôi thì nghĩ rằng, gia đình mình là dân lao động, chắc ở lại cũng không sao, họ để yên, không làm gì nên ở lại.
Phần cá nhân tôi thì tôi cũng muốn đi vào miền Nam một chuyến, muốn đi để thay đổi vì tò mò muốn biết miền Nam như thế nào. Tôi có người bạn là anh Nguyễn Ngọc Bội, anh và gia đình quyết định đi vào Nam và có rủ tôi đi theo. Nhưng tôi đã quyết định ở lại theo gia đình. Mặc dầu tôi có đủ điều kiện để đi. Lúc đó tôi 15 tuổi rưỡi.
Mặc dầu không đi vào Nam, nhưng như mọi người lúc bấy giờ, chúng tôi rất hoang mang. Trăn trở gữa đi hay ở. Mỗi gia đình lại mỗi trường hợp. Người quyết định ra đi thì lo bán tống, bán táng thứ gì có thể bán được. Chợ trời mọc ra ở nhiều nơi, kẻ buôn, người bán.
Riêng trường hợp tôi còn mê mấy ông Bộ đội thấy họ lý tưởng quá, mời về nhà đãi đằng cơm nước, làm tội bà cụ phải hầu hạ cơm nước. Nhưng đần đần thì bộ mặt cộng sản của họ cũng đã lộ ra.
Cải cách ruộng đất, đấu tố.
Các ông bắt đầu đặt loa phóng thanh ở mỗi góc phố. Đó là nỗi phiền và nỗi bực mình cho chúng tôi. Mỗi sáng các loa phóng thanh đó cứ rót vào tai, bắt phải nghe. Đó là lối tuyên truyền của họ, không nghe cũng phải nghe.
Bắt đầu mệt rồi, công an nay có thể xông vào nhà khám xét bất cứ lúc nào. Nhất là sau giai đọạn Tập Trung cải tạo và Hợp tác hóa với chế độ tem phiếu. Họ bắt đầu siết chặt rồi. Người dân cảm thấy mình bị kẹt, bị sa vào cái lưới thiên la địa võng. Nhưng trễ quá rồi. Muốn trốn đi, nhưng không được nữa rồi.
Nghĩ tới thân phận mình và số phận của những người di cư, tôi thấy người di cư là những người may mắn quá. Và chúng tôi thì không được cái may mắn như họ.Tôi ước gì được rơi vào số phận như họ. Tự nhiên là có sự so sánh giữa họ và tôi. So sánh để thấy họ có cơ may mà mình không có được. Từ đó, không khỏi rơi vào tâm trạng tiếc nuối. Cũng chẳng phải chỉ có mình tôi có tâm trạng đó, nhất là ông bà cụ tôi. Ông cụ tôi đau khổ, vò đầu bứt tai vì đã không chịu di cư vào miền Nam.Trong bữa cơm, không ai được nói xa gần đến quyết định sai lầm đã ở lại, đến truyện xưa. Một quyết định làm ông ân hận cả đời, nhất là giết hại cả cuộc đời tuổi trẻ của tôi.
Chẳng phải chỉ có gia đình tôi hoặc ông cụ tôi nuối tiếc.Tôi nghĩ bạn bè tôi hoặc người dân Hà Nội nói chung, họ cũng có tâm trạng như chúng tôi, nhưng không tiện nói ra. Mọi người đều vô cùng đau khổ, nhưng biết trách ai bây giờ. Người ta so sánh và tiếc cái thời tây như một thiên đường. Nghĩ tới đời sống thoải mái, no đủ, mặc dù có làm bồi cho Tây cũng sướng hơn.
Trong khi đó, miền Nam thì xa vời như một thế giới chỉ có trong trí tưởng ttượng. Báo chí Hà Nội hay đài chỉ đưa tin nói cầu Thị Nghè bị xập, chết người vô số. Giáo phái đánh nhau với quân chính phủ của ông Ngô Đình Diệm. Tình hình trong đó rối loạn. Người di cư bị phỉnh gạt, vào đó phải sống khốn khổ. Thanh niên thì bị đưa đi đến các đồn điền cao su lao động, bị bóc lột.
Nhưng trước tình hình mỗi ngày mỗi bị bóp nghẹt, đời sống khó khăn. Nhiều người bàn tính đến chuyện chốn vào miền Nam? Nhưng không dễ gì trốn được. Nói hở ra một tý là bị bắt liền.
Chẳng may, năm 1961, tôi bị đi tù. Trong nhà tù, tôi thấy người ta bị bắt đông lắm, không tưởng tượng nổi là có cả ngàn người, nhất là giới thanh niên bị bắt vì muốn trốn vào miền Nam. Chỉ cần bàn bạc cũng đủ để vào tù và bị ghép vào tội: trốn theo địch.
Nhẹ nhất cũng bị 5 năm tù. Nặng có thể tử hình.
Như trường hợp ông Trần Văn Tửu, ông cướp thuyền để trốn vào miền Nam, nên ông bị lôi ra xử bắn. Và đó là trường hợp mê vào Sài Gòn nên có câu: Sài Gòn ơi, ta chết vì người.
Nhiều lúc ngồi trong tù, tôi nghĩ thà có bị chặt một tay, bị tàn tật mà đi được cũng đi. Chán quá rồi. Cho nên, dù có bị tàn tật vẫn còn là một may mắn hơn là phải ở lại với cộng sản.
Viết ra những điều này, tôi mong mỏi đồng bào mình hiểu rằng, dù may mắn di cư vào được miền Nam hay dù phải ở lại miền Bắc thì tâm trạng của cả hai miền cũng không khác gì nhau. Ai cũng chán ghét cộng sản. Ai đi được thì mừng cho họ. Ai không đi được thì buồn cho họ. Hơn phân nửa cuộc đời tôi đã phải sống dưới chế độ ấy, nay còn lại phần cuối đời, tôi mong mỏi Việt Nam mình thoát khỏi cảnh bạo tàn cộng sản để cho dân chúng hai miền hưởng được tư do, dân chủ. Đời mình đã không đạt được. Hy vọng thế hệ sau, thế hệ con cháu mình có cơ hội hưởng cuộc đời tự do hạnh phúc.
• Chứng từ thứ hai
Cuộc Di Cư 54-55 đã ghi dấu ấn trong lịch sử VN không thể phai nhoà. Nó khẳng định ranh giới giữa cộng sản VN với những người Việt quốc gia, để hình thành một nền đệ nhất cộng hoà non trẻ dân chủ, tự do, nhân ái, nhưng cũng còn đầy rẫy nhưng gian lao, hệ lụy ở phiá Nam.
Còn ở miền Bắc tôi ở, nhà cầm quyền cộng sản đã tự xé bức màn chiêu bài dân tộc, lột trần bản chất độc tài, khát máu, chuyên chính vô sản theo cộng sản Tàu. Họ phát huy tối đa cao trào cải cách ruộng đất đẫm máu, tàn ác, bất nhân. Đã phá vỡ kiến trúc xã hội ngàn năm từ văn hoá, tôn giáo, tôn ti trật tự khắp nông thôn đến thị thành.
Cuộc di cư vào Nam hồi 54-55 của những người miến Bắc là một sự lưạ chon đúng đắn và dũng cảm. Họ đã đứt ruột rời bỏ quê hương, nơi tổ tiên họ đã bao đời sinh sống. Nơi từng nắm đất, ngọn cỏ, bụi cây cũng chứa đầy máu, nước mắt, mồ hôi của những thế hệ ông cha. Họ ra đi như một khẳng định dứt khoát và quyết liệt. Không thể sống chung với cộng sản. Dẫu trước mắt, có thể còn đầy rẫy khó khăn, chập chững bước đầu nơi đất khách, lập quê hương mới. Nhưng nơi đó, họ được có tự do, hạnh phúc và nhất là nhân thân họ được tôn trọng.
Người đi đã thế. Những thân nhân còn ở lại chịu khổ ải bội phần. Họ bỗng dưng thành những công dân loại hai. Rất nhiều người bị nhà cầm quyền kéo ra đấu tố, tù đày chẳng kém gì những thành phần cường hào đìạ chủ. Tuy họ không giàu, cũng không có chức tước gì trong thôn xã. Nhưng họ bị tội là có thân nhân ruột thịt di cư vào Nam theo giặc.
Những gia đình có thân nhân di cư vào Nam thường không được vào đảng… Không được nâng đỡ, thăng tiến trong công tác. Nhất là sau khi có tin tức về những vụ bắt gián điệp, biệt kích từ trong Nam gửi ra. Thì những gia đình có thân ruột thịt di cư như ngồi trên đống lửa. Vì lúc nào họ cũng bị theo dõi nghi ngờ với những tin đồn có cánh.
Họ sống trong nơm nớp sợ hãi, bất an và nghi kỵ… không kém chi những thành phần địa chủ, cường hào.
Tôi thấy người đi đã vậy mà người ở lại cũng lãnh bao nhiêu hệ lụy. Những hệ lụy dai dẳng suốt mấy chục năm kéo theo bao những cảnh đời cùng khổ. Mà chẳng giấy bút nào viết hết.
Không biết những người ra đi có hiểu cho người ở lại không?
Phần Kết luận
Bài viết này đã đi được một đoạn đường dài, rảo qua tất cả những đoạn đầy cam go và thử thách của cuộc di cư năm 1954-1955. Chắc chắn còn rất nhiều điều chưa nói hết và chưa nói đủ. Kinh nghiệm khổ đau của hàng trăm ngàn người, bút nào tả cho cùng?
Bỏ ra ngoài những uẩn khúc, những tỵ hiềm, những chuyện cá nhân giữa người với người, ngay cả những mánh mung vặt vãnh hay có tổ chức cũng không tài nào tránh được trong các tổ chức trại tỵ nạn. Rồi khi có nhiều va chạm giữa những kẻ mới tới và dân chúng địa phương. So sánh có, tỵ hiềm có, đố kỵ có, khinh khi có, tránh né nhau cũng có, thù hằn nhau cũng có. Tất cả những điều đó đều có thể.
Cuộc di cư 1954-1955 là cơ hội để con người có cơ may làm người – Rạch Bắp. Nguồn National Geographic Số tháng 6, 1955
Cũng bỏ ra ngoài chuyện ăn chặn tiền cứu trợ, hoặc có những người di cư khai báo đến hai ba lần để nhận tiền cứu trợ. Những điều như thế chắc không cần viết ra đây làm gì.
Không kể biết bao trở ngại, khó khăn để người tỵ nạn có thể an cư lạc nghiệp. Chẳng hạn, như ở Cái Sắn, người di cư không phải chỉ trông vào ba mẫu tây đất là có thể ngồi đó rung đùi hút thuốc lào. Phải xoay sở, phải chật vật làm thêm đủ thứ để có thêm thu nhập gia đình như trồng rau, hoa mầu, lưới cá, nuôi gà vịt, heo và trăm thứ khác.
Và đó mới là cuộc sống thực, sống đích đáng và đúng nghĩa.
Tôi cũng đã nghĩ tới những thành công về mặt chính trị trong thế đối đầu với cộng sản mà cuộc di cư này như cái tát trái vào mặt người cộng sản. Số lượng người di cư khổng lồ như thế làm thế giới kinh ngạc và nể phục đồng thời tác động mạnh mẽ đến thất bại tinh thần của chủ nghĩa cộng Sản.
Người di cư, những 80% dân nghèo đã bỏ mà đi, và bài học đó cần phải nhớ.
Về ảnh hưởng của người di cư trên mảnh đất mới cho thấy ở thành thị, chỉ từ 10% đến 20% chất sám, chất sám miền Bắc đã làm nên chuyện lớn.
Nhưng 70% dân nghèo mà 60% là nông dân, 10% là dân thuyền chài đều là những dân làm ăn cần cù, chăm chỉ (hard-working persons) với một nếp sống giản dị thu vén, liệu cơm gắp mắm nên ăn ít mà làm nhiều.
Chả mấy lúc mà khá giả và góp phần vào sự thịnh vượng của mảnh đất này… Và về mặt xã hội, nó là hiện tượng kích cầu thúc đẩy những thành phần khác trong xã hội cố gắng vươn lên theo.
Nhưng tôi nghĩ đến, từ kinh nghiệm cá nhân những gì tôi đã trải qua để thấy báu vật vô vàn của đời dành cho người di cư:
Đó là từ nay, họ có thể sống cuộc đời của họ, tự do tôn giáo của họ, kinh nguyện của họ, bài tụng của họ, nhà chùa của họ, nhà thờ của họ.
Một điều xem ra tầm thường mà những người còn ở lại bên kia bức màn tre không bao giờ có được. Họ có được những điều mà những người còn ở lại vô phúc không có được.
Điều tôi muốn được bày tỏ ở đây, tôi muốn nói cho rõ để thế hệ mai sau thấy rằng cha mẹ, tổ tiên của họ đã có cơ may ngàn vàng có được cơ hội “đổi đời” từ miền đất khô cằn phải lao lực, phải đổ mồ hôi nước mắt mới có hạt cơm vào mồm.
Đời sống dân cư miền Bắc, miền Trung là vô vàn khốn khổ. Thời của tôi, nhiều người chưa bao giờ có cơ hội ngồi trên chiếc xe hàng chạy bằng hơi nước, chưa bao giờ biết miếng bánh mì, chưa bao giờ biết ăn một cái kẹo tây, chưa bao giờ biết đánh răng bằng bàn chải, chưa bao giờ biết xỏ chân vào một đôi dép, chưa bao giờ biết cắt tóc, chưa bao giờ biết xà phòng, chưa bao giờ biết đến xe đạp. Có khi bánh xe đạp là bánh đặc. Chưa bao giờ thong thả, ngồi nghe vọng cổ, chưa bao giờ biết cờ bạc…
Nhiều cái chưa bao giờ lắm. Cả làng chỉ có một trường tiểu học trình độ biết đọc, biết viết. Cả tổng chưa có trường trung học, cả huyện cũng thế, may ra ở tỉnh thì có một trường. Các khu vực theo Thiên chúa giáo có thể khá hơn.
Cả làng có thể mù chữ, trừ vài người. Có được vài sào ruộng đã lấy làm tự an ủi. Có dăm ba mẫu ruộng đã nên ông nên bà. Cơm trắng là điều xa xỉ. Ngủ giường là điều không thể xảy ra. Quần áo vá chằng vá đụp như một cái mền rách.
Tôi nghe kể rằng, ngay ở Sài Gòn sau này, có trường hợp sư bà Đàm Hướng ở đường Phan Đình Phùng chăm sóc trẻ mồ côi. Người Mỹ có phân phát cho mỗi em một tube thuốc đánh răng. Nhiều em tưởng ăn được, mút ăn ngon lành. Sinh đau bụng. Phải gọi cấp cứu bác sĩ Mỹ đến.
Hóa ra chỉ vì những tube kem đánh răng, mùi thơm, hơi ngọt nên trẻ con tưởng ăn được
Đời sống người dân quê có được hai ba sào ruộng đã là quý. Nhà ở là túp lều tranh vách đất, trống trước trống sau. Còn nếu không có nổi vài ba sào thì đi cấy rẽ, cấy thuê, hoặc làm thuê làm mướn. Tôi đã thấy những bữa ăn của thợ cấy, thợ cầy. Chỉ có vài quả cà. Khá lắm có chút rau muống luộc thì lấy nước rau muống chan để và vội bát cơm. Cả năm không biết có mấy lần ăn được một miếng thịt. Đi ăn cỗ thường 6 người/một cỗ. Họ bảo nhau ăn vài miếng, thường sau đó chia nhau ăn hết món nấu, rồi cả mâm chia phần còn lại làm sáu phần lấy lá chuối gói về cho vợ con.
Vào trong Nam, tại trại định cư Cái Sắn, mỗi người được chia đến ba mẫu ruộng. Nhà cửa khang trang. Cầy cấy thì có trâu thay cho người. Cấy lúa sạ làm chơi mà ăn thật khỏi phải chân lấm tay bùn, quần quật từ sáng tới tối.
Vào Cái Sắn người di cư phút chốc lên làm người. Kể từ nay, không còn vất vả quần quật nữa.
Tại nơi đây, một sức sống mới đang vươn dạy theo tinh thần Tự lực cánh sinh và dần dần được địa phương hóa.
Trên tờ Nữu Ước thời báo ra ngày 16/02/1956 đã viết như sau về trại định cư này:
“Trên địa hạt con người, đối với những người tỵ nạn, đây có nghĩa là một đời sống sung sướng và có nghĩa lý hơn, vì họ sẽ không cần những sự trợ giúp có tính cách làm phúc nữa. Trên địa hạt kinh tế, điều này có nghĩa là trong một ngày gần đây, Nam Việt sẽ có thể xuất cảng một triệu năm trăm ngàn tấn gạo, cũng như hồi tiền chiến”.
Chưa kể đủ thứ bệnh. Chết lúc nào không hay. Các bệnh như toét mắt, ghẻ lở, bệnh cứt trâu, bệnh tiêu chảy chỉ là bệnh ngoài da, bệnh thông thường. Bệnh nặng thì đành chịu.
Chưa kể lúc chết không có miếng đất để chôn, phải chôn nhờ.
Cho nên cuộc di cư 1954-1955 đối với nhiều người là một sinh lộ giải thoát con người ra khỏi tối tăm và cơ cực.
Cuộc di cư 1954-1955, phải chăng là cơ hội để con người có cơ may làm người?
Hết
Huấn đạo theo Kinh thánh
Nguyên tác: Biblical Counseling Manual: A Self Help Counseling Program
Của Adam Pulaski và Steve Lihn
Vũ Văn An chuyển ngữ
Chương 4. Loạt bài Hướng về việc huấn đạo theo Kinh thánh
1. Đường lối của Chúa so với Đường lối con người
Động lực của việc giải quyết vấn đề
(Dt 3:13) Việc không biết đến tội lỗi sẽ khiến chúng ta trở nên vô cảm và chai lì.
(Rm 1:20-32) Sau một thời gian, bạn trở thành chúa của chính mình bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn để biện minh cho những mục tiêu ích kỷ. Người ta diệt vong vì thiếu hiểu biết; do đó, vấn đề là trở nên hiểu biết, trở nên nhạy cảm, nhận ra rằng việc sống trên thế giới này không thể coi là điều hiển nhiên (Hs 4:6).
Đường lối của con người và đường lối của Thiên Chúa
Khoảng 230 trường phái tư tưởng tâm lý được thực hành trên thế giới liên quan đến việc nghiên cứu hành vi của con người cũng như các phương pháp và phương tiện khác nhau cần thiết để con người giải quyết các vấn đề bản thân. Những trường phái này được rút gọn thành năm đặc điểm chung.
(1). Con người tốt : Chủ nghĩa nhân bản - độc lập khỏi Thiên Chúa - Thời đại mới: Con người có mọi thứ cần thiết bên trong để giải quyết vấn đề của riêng mình - tâm trí chỉ bị chặn bởi những suy nghĩ hoặc ảnh hưởng tiêu cực - phát triển suy nghĩ tích cực và rút ra từ nguồn lực của chính mình - coi bản thân là đáng giá và được quý trọng. Chúa nói gì? Tv. 62:9; Rm. 3:10-18,23; Rm. 7:18.
(2). Con người là động vật thượng đẳng: Quan điểm cơ bản về con người là hành vi của họ bị điều kiện hoặc lập trình sai lầm bởi môi trường và hoàn cảnh. Họ cần được điều chỉnh hoặc lập trình lại bằng cách thao túng hành vi thông qua việc sử dụng các kích thích tích cực và tiêu cực... Họ được điều động một cách giả tạo để đáp lại phần thưởng và hình phạt nhằm cải thiện bản thân. Chúa nói gì? Ga 15:4-5; Rm. 1:18-32; Gcb 4:10.
(3). Con người có thể thay đổi chính mình: Dù bị hoàn cảnh sống làm tổn thương nhưng con người có thể thay đổi hành vi xấu. Đây là sự kết hợp của các lập trường trên: thông qua giáo dục, luận lý và lý trí, con người có thể vượt qua chính mình. Chúa nói gì? Grm. 13:23; Edk. 18:20; Edk. 36:26-27.
(4). Con người, nạn nhân của lương tâm: Con người bị điều khiển bởi bản năng, bị cản trở bởi gia đình, xã hội, bởi sự giáo dục và bởi những người khác, những người phải chịu trách nhiệm về những vấn đề của họ. Cần phải có sự phân tích sâu sắc, cùng với thôi miên, tái xã hội hóa, thanh lọc, tự hiện thực hóa, liên kết tự do, v.v. Chúa nói gì? Edk. 18:20; Pl. 2:3-4; 1Tm 4:1-2.
(5). Con người, kẻ mặc cả: Khi những điều trên không hữu hiệu, thế giới sẽ sử dụng các đổi chác. Bạn làm điều này và tôi sẽ làm điều này, sự sắp xếp 50/50. Sự mất cân bằng là điều khó tránh khỏi, bản chất tự nhiên luôn muốn nhiều hơn sự chia sẻ của mình. Chúa nói gì? Thiên Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương mà không mong được đền đáp, lấy thiện trả ác. Rm. 12:21; Pl. 2:3-4.
Con đường của con người luôn tự định hướng, con người là thượng đế của chính mình, bằng chứng là:
1. không có sự đối đầu trong Kinh thánh,
2. không có trải nghiệm chuyển đổi nào được mong đợi hoặc thậm chí được xem xét,
3. không ăn năn,
4. không có công việc của Chúa Thánh Thần,
5. và không có quá trình thánh hóa trong việc mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Được thúc đẩy trong thời hiện đại từ cái gọi là thời kỳ Khai sáng và Phục hưng, điều này tiêu biểu và đại diện cho nỗ lực của con người để tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa. Những khái niệm như vậy ngày nay đã lên đến tuyệt đỉnh trong một xã hội mà nền tảng chìm đắm của nó được xây dựng dựa trên sở thích (cảm xúc) hơn là nguyên tắc (tuyệt đối). Lý trí và luận lý của con người bị bóp méo thay thế Mười Điều Răn.
Cách giải quyết vấn đề của Thiên Chúa
(Pl. 3:13 ) Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đấng ‘TA LÀ’, Người không ở trong quá khứ cũng không ở tương lai, Người luôn ở trong hiện tại. Chúng ta bắt đầu từ hiện tại và mỗi ngày sau đó - mỗi ngày một lần.
• (Lc 9:62) Nhìn lại quá khứ sẽ khiến bạn không phù hợp với hiện tại.
• (Dt 11:15) Nghĩ về quá khứ khiến con người dễ bị tổn thương và yếu đuối.
• (Rm 8:28) Những biến cố trong quá khứ trong cuộc đời chúng ta là điều không thể thay đổi được. Tại sao lãng phí thời gian và công sức ở đó.
Phản ứng của chúng ta trước những sự kiện đó có thể thay đổi khi chúng ta để Thiên Chúa can thiệp vào hiện tại, chạm vào những trải nghiệm của chúng ta, cứu chuộc chúng ta, giải phóng chúng ta để yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Cuối cùng, chúng ta trở thành người yêu của Thiên Chúa trong tinh thần thay vì yêu bản thân bằng cách sống trong quá khứ.
(1Tm 4:7; Eph 4:22-24) Vì vậy, chính nhờ kỷ luật mà chúng ta trở nên hợp lòng Thiên Chúa: bằng sự cam kết sống theo đường lối của Thiên Chúa trong hiện tại thông qua quá trình đơn giản là cởi bỏ và mặc lấy - bằng thẩm quyền của lời Chúa và bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thành thử, chúng ta thay đổi cơ chế ứng phó từ phản ứng với cuộc sống sang đáp ứng với cuộc sống trên cơ sở lời Chúa.
Các tài nguyên của Thiên Chúa
• Chúa Thánh Thần – Ga 16:7-8,13; 1Cr. 2:11-15.
• Kinh thánh - 2 Tm. 3:16-17; Dt 4:12.
• Các huấn đạo viên - Gl. 6:1-2; Rm. 15:14; Cn 15:22.
• Bắt đầu vòng xoáy bằng cách giải quyết vấn đề trước mắt trước tiên (Gcb 1:2). Hành động dựa trên các giải pháp đã biết, hoãn hành động khi chưa biết giải pháp (Gcb 1:5-8; Ga 7:17; Rm 14:23). Tiếp tục đi lên theo đường xoắn ốc (Dt 5:14).
Hãy tìm sự cứu rỗi của bạn (Pl 2:12-13)
(Các) câu Kinh Thánh để nhớ: 2Tm. 3:16,17
Việc sùng kính: Khuôn khổ nghiên cứu và áp dụng Kinh Thánh: Ga 16:7,8,13; Dt. 4:12; Gl. 6:1. Thực hiện ngày một lần.
Cởi bỏ/Mặc vào: Nghiên cứu Eph. 4:22-32 và lập danh sách những thất bại của bạn trong việc đáp ứng theo Kinh Thánh.
Tham khảo: [2][Adams2]
2. Điều kiện tiên quyết để thay đổi theo Kinh Thánh
Bốn giai đoạn phát triển tâm linh
(1). Giai đoạn tái sinh là sự tái sinh, sự sống mới - sự sống vĩnh cửu từ trên cao.
• (Ga 1:12) Là Con Thiên Chúa, nay Thiên Chúa là Cha của tinh thần chúng ta.
• (Pl. 2:12-13) Sự cứu rỗi không chỉ là sự thay đổi đích đến. Đó là giai đoạn khởi đầu của sự phát triển của một cuộc sống mới. Chúng ta vốn là nô lệ của Satan, nhưng bây giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, đồng thừa kế với Chúa Giêsu. Theo đó, chúng ta phải chống lại những khuynh hướng xấu xa còn sót lại của đời sống cũ bằng cách liên tục bắt đời sống tự nhiên phục tùng đời sống thiêng liêng cho đến khi chúng ta “trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3). Phải mất một thời gian để được tái sinh từ trên cao, nhưng phải mất cả đời rèn luyện để được giống hình ảnh Chúa chúng ta.
• (1Ga 2:3-6; Ga 14:21) Vâng lời là thực sự nghe, thực sự lắng nghe, thấy và hiểu những gì tôi đã nghe và hành động theo những gì tôi đã nghe. Nếu chúng ta vâng lời, chúng ta sẽ bước đi như Chúa Giêsu đã bước đi.
• (1Cr 3:16) Sự vâng lời xây dựng đền thờ. Thực hành lời nói là những viên gạch của ngôi đền làm cho nó xứng đáng để Thiên Chúa ngự trong đó.
(2). Giai đoạn tâm linh là nhận biết sự tràn đầy của Chúa Thánh Thần, được trao quyền đầy đủ để sống đời sống Kitô hữu.
• (Lc 11:13) Đơn giản chỉ cần xin và nhận.
• (Lc 24:48-49) Hãy nhận lấy quyền lực từ trên cao.
• (Cv1:8) Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên bạn, bạn sẽ nhận được quyền lực làm nhân chứng cho Người.
• (1Cr 6:17) Đồng một tinh thần với Người. Bạn là một đồng nghiệp.
• (Rm 5:5) Tình yêu tuôn đổ vào lòng chúng ta, hãy hành động bởi đức tin vào sự thật này. Tình yêu sẵn sàng tuôn chảy như dòng sông nước hằng sống. Đức tin, đưc cậy và đức mến bắt nguồn từ sự vâng phục.
(3). Con đường của thập giá là việc thực hành hằng ngày bước vào sự chết của Chúa Kitô, để cho Chúa Kitô sống cuộc đời của Người qua chúng ta.
• (Rm 6:3-6) Bản chất cũ đã bị chôn vùi, không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Khi chúng ta từ bỏ tội lỗi hàng ngày, chúng ta ngay lập tức đứng dậy trong sự mới mẻ của cuộc sống trong Chúa Kitô và có thể đáp ứng theo Kinh Thánh đối với mọi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống.
• (Eph 4:22-24 ) Chúng ta phải thực hiện: từ bỏ những hư đốn - đổi mới tinh thần của tâm trí - và mặc lấy sự thật trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Hàng ngày, chúng ta có Canvariô, sự phục sinh và sự thăng thiên của mình.
• (Lc 9:23-24) Không còn biện hộ hay bảo vệ bản thân nữa, mà giết chết những mục đích riêng tư, những đam mê và thành kiến ích kỷ, danh tiếng và danh dự thế gian.
• (Pl. 2:3-5) Như với Chúa Giêsu, bây giờ tôi tìm kiếm lợi ích và sự tốt đẹp hơn cho người khác. Tôi không còn là trung tâm nữa mà dùng bản thân để làm phúc lành cho người khác.
(4). Giai đoạn thăng thiên/chiến thắng/chiến tranh tâm linh là lúc tín hữu nhận ra và biết rằng mình đang hiệp nhất với Chúa Kitô.
• (Eph 1:17-23) Chúng ta đang ngồi với Người, "Vượt trên mọi thẩm quyền..."
• (Lc 10:19) Được trao toàn thẩm quyền trên quyền lực của kẻ thù.
• (Rm 8:29; 1Ga 3:8) Thiên Chúa tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Con Người, và do đó, làm như Người đã làm: tiêu diệt công việc của ma quỷ.
• (Cl. 2:13-15) Vấn đề của chúng ta không phải ở Satan, hắn đã bị đánh bại. Vấn đề là mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, biết chúng ta là ai và là gì trong Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, chúng ta phải giữ cho kẻ thù không có chỗ đứng nào trong cuộc sống của mình bằng cách tự do trong các lĩnh vực sau: (Gcb 4:6-8)
* Gia phả: (Gl. 3:13-14) Nhận ra và biết rằng Máu Chúa Giêsu đã giải thoát tôi khỏi lời nguyền rủa của thế hệ (Xh 18:20 ).
* Hoàn cảnh sống: (Mt. 16:24-25; Cl. 1:10-11) Không còn phản ứng hay bị kiểm soát bởi những yếu tố bên ngoài của cuộc sống, bởi những sự tấn công bản thân, bởi những áp lực của thế gian, bởi những thử thách và hoạn nạn, nhưng đáp ứng theo sự thúc giục và quyền năng của Chúa Thánh Thần (Gcb 1:2-4).
* Môi trường: (1 Ga 2:15; 2Pr 1:4) Dự phần vào sự sống và bản tính thần linh, và đã thoát khỏi hệ thống dục vọng của thế gian. Ma quỷ không có gì trên tôi. Bây giờ tôi đang ở trong tư thế có thể vượt qua hắn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tôi càng lớn mạnh về nhân đức chừng nào thì Chúa Kitô càng sống trong đời tôi bấy nhiêu.
Những đặc điểm của một người chiến thắng:
• (Eph 3:9-10) Tuyên xưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với kẻ thù: vì đây là một trận chiến khôn ngoan.
• (Pl 1:11) Hãy làm mọi điều để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa để vinh quang của Người được bày tỏ và được công nhận.
• (Cn 24:10) Không điều gì có thể giới hạn hoặc đánh bại chúng ta trong Chúa Kitô. Chúng ta tiến hành cho đến khi chiến thắng chiếm ưu thế.
• (Cn 21:22) Không thỏa hiệp: chúng ta tiến lên, chúng ta tấn công và đánh đổ mọi sự chống đối.
• (Lc 11:20-23; 1Ga 4:4; Is 9:6) Chúng ta ngày càng mạnh mẽ hơn vì vương quốc của Thiên Chúa không bao giờ kết thúc. Chúng ta được ủy thác để thiết lập Vương quốc hòa bình và niềm vui của Người trên trái đất.
Là người chiến thắng, chúng ta hoàn thành mục đích của Thiên Chúa dành cho đời sống mình bằng cách trở nên giống hình ảnh Con của Người. Chúng ta làm như Người đã làm, bước đi như Người đã bước đi: làm tất cả để tiêu diệt công việc của ma quỷ nơi chúng ta và nơi người khác.
Hãy tìm sự cứu rỗi của bạn : (Pl 2:12-13)
(Các) câu Kinh thánh để nhớ: 1 Cr. 10:13
Việc sùng kính: Khuôn khổ nghiên cứu và áp dụng Kinh Thánh: Rm. 12:1-2; Gl. 5:16-17.
Cởi bỏ/Mặc vào: Xem lại danh sách mẫu ấn chỉ (bên dưới) và Eph. 4:22-32, hãy lưu ý những vấn đề bạn đang gặp phải mà Thiên Chúa muốn bạn giải quyết trong khóa học này. Giải quyết từng vấn đề một bằng cách sử dụng Phần A.4, “Bảng câu hỏi Chiến thắng Tội lỗi”.
Danh sách mẫu ấn chỉ các vấn đề giúp bạn quyết định các lĩnh vực có vấn đề: ngoại tình, giận dữ, chán ăn, háu ăn, nói xấu, trầm cảm, thiếu kỷ luật, sợ hãi, gian dâm, tham lam, tội lỗi, đồng tính luyến ái, thiếu kiên nhẫn, lười biếng, háu ăn, cô đơn, ham muốn, nói dối, vấn đề hôn nhân, kiêu ngạo, trì hoãn, nổi loạn, tủi thân, lạm dụng chất gây nghiện, lo lắng, cay đắng, thất vọng, trộm cắp, vấn đề kỷ luật con cái, ghen tuông, đố kỵ, thất vọng, trộm cắp, xung đột và tranh chấp liên ngã.
Còn tiếp
1. Putin sẽ không đến thăm thành viên ICC Mễ Tây Cơ để dự lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Sheinbaum
Vladimir Putin sẽ không bay đến Mễ Tây Cơ để dự lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Claudia Sheinbaum.
Putin sẽ không bay đến Mexico để dự lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Claudia Sheinbaum, Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết trong cuộc họp báo thường kỳ hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín.
Peskov xác nhận rằng Nga đã nhận được lời mời từ Mễ Tây Cơ nhưng cho biết đại diện của Putin sẽ tham dự lễ nhậm chức thay thế.
Mễ Tây Cơ đã ký Quy chế Rôma vào năm 2005 và chịu sự quản lý của Tòa án Hình sự Quốc tế, gọi tắt là ICC, nơi đã ban hành lệnh bắt giữ Putin vào năm ngoái.
Ukraine đã yêu cầu chính phủ Mễ Tây Cơ bắt giữ Putin theo lệnh của ICC nếu ông tham dự lễ nhậm chức của Sheinbaum vào ngày 1 tháng 10. Chính phủ Mexico cho biết họ sẽ không đáp ứng yêu cầu của Kyiv.
Peskov không đưa ra lý do cho quyết định không tới Mễ Tây Cơ của Putin nhưng cho biết “Mạc Tư Khoa đã hành động theo thông lệ giao thức hiện hành và nghĩa vụ của nhà lãnh đạo Nga”.
Vào đầu tháng 9, Putin đã đến thăm Mông Cổ theo lời mời của Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh. Đây là chuyến đi đầu tiên của ông tới một quốc gia thành viên ICC đã phê chuẩn Quy chế Rôma kể từ khi lệnh bắt giữ được ban hành.
ICC đã ban hành lệnh bắt giữ Putin vào ngày 18 tháng 3 năm 2023 vì tội cưỡng bức bắt cóc trẻ em từ các khu vực bị Nga tạm chiếm ở Ukraine.
Cả Ukraine và phương Tây đều kêu gọi Mông Cổ bắt giữ tổng thống Nga. Sau khi nước này không làm như vậy, Heorhii Tykhyi, phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Ukraine, cho biết Mông Cổ sẽ phải đối mặt với “hậu quả” vì quyết định của mình.
Một số quan sát viên cho rằng nếu Putin đến Mễ Tây Cơ, có nhiều khả năng ông ta sẽ bị các nhóm băng đảng ở nước này bắt giao cho Hoa Kỳ để đổi lấy các ông trùm đang bị giam trong các nhà tù Mỹ.
[Kyiv Independent: Putin won't visit ICC member Mexico for President-elect Sheinbaum's inauguration]
2. Thêm một mối âu lo cho Vladimir Putin. Robot mặt đất trang bị súng của Ukraine vừa dọn sạch chiến hào của Nga ở Kursk
Vào tháng 5, các nhà phát triển người Ukraine đã tiết lộ một robot mặt đất vũ trang mới—được gọi là Fury. Bốn tháng sau, một Fury đã chiến đấu—và được cho là đã giành chiến thắng—trong cuộc giao tranh lớn đầu tiên của loại này.
Theo báo cáo của quân Ukraine và cả các blogger quân sự Nga, hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, một trong những chiếc Fury bốn bánh, có kích thước bằng một chiếc xe đẩy hàng đã tấn công một chiến hào ở Kursk của Nga.
Tránh mìn và bắn súng máy phối hợp với máy bay điều khiển từ xa và súng cối, người máy đã đánh bại một nhóm nhỏ lính Nga.
“Kết quả: một phần của đối phương đã bị tiêu diệt, phần còn lại đã bỏ chạy”, Biệt đội 1 của Trung đoàn Biệt Kích số 8, là những người điều khiển người máy này, đã thông báo trên phương tiện truyền thông xã hội. “Robot đã bị trúng một số phát đạn RPG và FPV”— tức là lựu đạn phóng bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất—”nhưng vẫn kiên trì, hoàn thành nhiệm vụ và quay trở lại để phục hồi.”
Fury là một trong số nhiều xe mặt đất điều khiển từ xa có vũ trang mà các kỹ sư Ukraine đã phát triển trong 30 tháng kể từ khi Nga mở rộng cuộc xâm lược Ukraine—và là một trong những loại đầu tiên tham gia chiến đấu lớn. Fury có bốn bánh xe, radio để nhận lệnh của người điều khiển, máy quay video và súng máy được ngắm từ xa. Nó được chế tạo dày với các tấm giáp bảo vệ các bộ phận dễ bị tổn thương nhất.
“Robot Fury tấn công các vị trí của Nga và bảo vệ những người bảo vệ chúng ta trong cuộc tấn công”, Mykhailo Fedorov, Bộ trưởng Kỹ Thuật Số của Ukraine, cho biết. “Quân đội thích vì nó dễ điều khiển và lưu ý đến mức độ liên lạc vô tuyến và video cao của robot, cũng như khả năng quan sát tốt và bắn tự động cả ngày lẫn đêm”.
Fury không phải là duy nhất—người Nga cũng có robot mặt đất được trang bị vũ khí. Nhưng sau khi chiến thắng và sống sót sau trận chiến lớn đầu tiên, Fury của Ukraine nổi bật. Trong khi máy bay điều khiển từ xa có thể di chuyển tự do trong không gian ba chiều, robot chiến đấu trên mặt đất phải vật lộn với nhiều chướng ngại vật mà chúng thường gặp ngay cả trên bề mặt được lát đá như ổ gà và hố bom, cành cây đổ, sườn dốc.
Những bề mặt không trải nhựa thậm chí còn khó đi hơn. Chỉ cần tiếp cận được chiến trường đã là một thách thức lớn đối với một phương tiện mặt đất điều khiển từ xa—chưa nói đến việc làm bất cứ điều gì hữu ích khi nó đến nơi. Các nhà phát triển Fury đã khôn ngoan nhấn mạnh đến tính di động và trang bị cho người máy của họ bánh xe lớn, trọng tâm thấp và khung gầm cao với khoảng cách lớn từ gầm xe đến mặt đất.
Thật thú vị khi Fury tham gia cuộc giao tranh lớn đầu tiên của mình: tại thị trấn Volfino của Nga, ngay bên kia biên giới Nga-Ukraine. Volfino nằm ở phía tây của cuộc tấn công lớn thứ hai của Ukraine vào Kursk của Nga, bắt đầu vào tuần trước.
Trong khi lực lượng lớn của Ukraine chiến đấu để giữ 1.300 vuông Kursk mà họ đã chiếm được vào tháng 8, một lực lượng nhỏ hơn—bao gồm Trung đoàn Biệt Kích số 8 và robot Fury—đang cố gắng tiến vào Kursk cách đó 32km về phía tây, rõ ràng là nhằm mục đích bao vây lực lượng Nga giữa nó và mũi tấn công chính của Ukraine.
Cuộc phản công của quân Nga được tường trình là đã thất bại. Quân Putin rút lui để tránh bị bao vây. Tuy nhiên, người Ukraine vẫn tiếp tục thọc sâu hơn vào lãnh thổ Nga.
Đây là một hoạt động căng thẳng đối với quân đội Ukraine đang quá tải. Nhưng nó có một chút trợ giúp công nghệ cao dưới dạng ít nhất một robot mặt đất có súng.
[Forbes: Ukraine’s Gun-Armed Ground Robot Just Cleared A Russian Trench In Kursk]
3. Ba người lính Nga bất hạnh đang chết đói trong chiến hào. Người Ukraine đóng giả làm người Nga đã lừa họ đầu hàng.
Lực lượng vệ binh quốc gia Ukraine từ Lữ đoàn Azov số 12 đã giải phóng một phần nhỏ của Rừng Kreminna ở miền đông Ukraine. Phần lớn, lữ đoàn đã chiến đấu như thường lệ: với các cuộc tấn công bộ binh nhanh chóng và dữ dội. Nhưng trong một trường hợp, một nhóm vệ binh Azov đã đóng giả làm lính Nga đã lừa ba người Nga đầu hàng mà không chiến đấu—và ghi lại toàn bộ trò hề trên video.
Ngay cả người Nga cũng có ấn tượng mạnh. “Năm sao” là cách một tù nhân đánh giá việc bắt giữ mình. “Tôi nghĩ chúng tôi đã bị bắt một cách tuyệt vời”, một người khác nói.
Ba người Nga—hai người từ Trung đoàn xe tăng 153 và một người từ Lữ đoàn yểm trợ 69, một đơn vị tuần tra biên giới— đang trấn giữ một chiến hào có lẽ là ở rìa phía trước của chiến trường.
Người chỉ huy của họ đã bỏ đi để tìm thức ăn… và không bao giờ quay trở lại. Ba người đàn ông trong chiến hào cho biết họ cho rằng ông đã bị thương. Họ không có radio—và bên cạnh đó, việc gây nhiễu của Ukraine khiến việc liên lạc trở nên khó khăn ngay cả khi radio đã được sạc đầy.
Ba người Nga đói và khát. Averin Valeriy Vasilievich, một lính súng trường 52 tuổi thuộc Trung đoàn xe tăng 153, cầm ấm nước và rời khỏi chiến hào để lấy nước. Đó là lúc anh gặp ba người lính có vẻ là người Nga, vì họ nói tiếng Nga và mặc quân phục Nga.
Những người lính Azov đóng vai trò là lính trinh sát không kích của Nga, những người mà họ tuyên bố là được lệnh của bộ chỉ huy Nga cử đến để tìm ba người Nga cô đơn trong chiến hào biệt lập của họ. Người Ukraine giả vờ bực bội. “Tại sao chúng tôi phải đi tìm các người ở đây? Chúng tôi không có việc gì khác để làm sao?”
Những người Nga khác rời khỏi chiến hào của họ, không có vũ khí, để gặp những người được tin là đồng minh của họ. Người Ukraine đã nói chuyện phiếm với ba người Nga—chế giễu vị chỉ huy vắng mặt của họ và tuyên bố rằng ông ta đã gọi ba người là “đồ ngốc”—và sau đó đánh lạc hướng những người Nga đói khát bằng một thanh Snickers, chia làm ba phần.
Và rồi đến câu đùa tinh tế này. “Các người đã rơi vào tay một người Ukraine chính cống”, một trong những người lính Azov nói. Người Ukraine ra lệnh cho người Nga nằm xuống và đặt tay ra sau đầu. “Cư xử cho đàng hoàng”, một người Ukraine nói. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi”.
Trở lại căn cứ Azov, các tù nhân Nga đã được mời thưởng thức cà phê, xúc xích, bánh bao, bánh quế và trái cây. Vasilievich nhớ lại cách anh ta đã kết thúc cuộc chiến đấu—và sau đó xa nhà ở Ukraine. Anh ta nói rằng anh ta đang uống rượu tại quán bar của một người bạn ở Mạc Tư Khoa khi những người tuyển dụng đến trong một chiếc xe tải và buộc anh ta phải ký hợp đồng quân đội.
Anh cho biết quá trình huấn luyện của ông còn tệ hơn cả sơ sài. Khi được yêu cầu đánh giá từ một đến 10, Vasilievich trả lời, “Zero”. Điều đó có thể giải thích cho sự mâu thuẫn của ông đối với tình trạng bị giam cầm. “Mẹ, anh trai, con ổn”, anh ta nói với gia đình ở quê nhà khi được người Ukraine cho phép. “Mọi thứ đều ổn”.
[Forbes: Three Unhappy Russian Soldiers Were Starving In A Trench. Ukrainians Posing As Russians Tricked Them Into Surrendering.]
4. Tờ Guardian cho biết các tài liệu bị tịch thu cho thấy các chỉ huy Nga đã được cảnh báo về kế hoạch tấn công xuyên biên giới vào Kursk của Ukraine trước nhiều tháng.
Các chỉ huy Nga đã dự đoán rằng Ukraine đang lên kế hoạch tấn công vào Tỉnh Kursk nhiều tháng trước khi sự việc xảy ra, tờ Guardian đưa tin vào ngày 20 tháng 9, trích dẫn một bộ sưu tập tài liệu mà binh lính Ukraine cho biết họ đã thu giữ được từ các vị trí bỏ hoang của Nga.
Các tài liệu bao gồm các tài liệu in và các giấy tờ viết tay của các chỉ huy Nga.
Ukraine đã tiến hành cuộc tấn công xuyên biên giới vào Tỉnh Kursk của Nga vào đầu tháng 8, tuyên bố đã chiếm giữ khoảng 102 thị trấn và hơn 1.300 km2.
Nga dường như đã bị bất ngờ trước cuộc tấn công, tạo điều kiện cho lực lượng Ukraine nhanh chóng tràn qua biên giới và tiến sâu vào lãnh thổ Nga.
Theo các tài liệu thu giữ được, các chỉ huy Nga đã cảnh báo rằng một bước đột phá xuyên biên giới tiềm tàng có thể xảy ra ngay từ Tháng Giêng năm 2024.
Trong khi các cảnh báo trước đó phần lớn còn mơ hồ, chúng ngày càng chi tiết hơn — bao gồm các mối đe dọa cụ thể rằng Ukraine sẽ cố gắng chiếm thành phố Sudzha — một cảnh báo đã trở thành hiện thực sau khi Ukraine chiếm được thị trấn này vào tháng 8.
Các tài liệu thu giữ được cũng tiết lộ rằng các chỉ huy Nga đã cố gắng tăng cường an ninh tại biên giới ở Tỉnh Kursk và “tổ chức các cuộc tập trận bổ sung cho ban chỉ huy các đơn vị và cứ điểm về việc tổ chức phòng thủ hợp lý” trước một cuộc tấn công có thể xảy ra của Ukraine.
Những tiết lộ khác từ các tài liệu là tuyên bố của các chỉ huy về tinh thần suy giảm của binh lính Nga trong khu vực.
“Phân tích tình hình hiện tại liên quan đến tự tử cho thấy vấn đề quân nhân tử vong do tự tử vẫn còn căng thẳng”, một tài liệu viết.
Một mục khác nêu chi tiết về vụ tự tử của một người lính.
“Cuộc điều tra về vụ việc đã xác định rằng nguyên nhân dẫn đến vụ tự tử và cái chết là do suy nhược thần kinh và tâm lý, do tình trạng trầm cảm kéo dài do phục vụ trong quân đội”.
Các chỉ huy cũng viết hướng dẫn về cách nâng cao tinh thần, bao gồm một đề xuất rằng binh lính nên được học các bài học chính trị hàng ngày “nhằm duy trì và nâng cao tình trạng chính trị, đạo đức và tâm lý của quân nhân”.
[Kyiv Independent: Guardian: Russia commanders warned of plans for Ukraine's Kursk incursion months in advance, seized documents show]
5. Diễn biến ngỡ ngàng: Đã bị xâm lược lại còn phải xin lỗi kẻ xâm lược. Các chuyên gia cho biết lời 'xin lỗi' của nhà lãnh đạo Georgia về cuộc chiến năm 2008 có thể là chiến thắng cho Nga
Lãnh đạo thực tế của đảng cầm quyền Giấc mơ Georgia đã khiến người dân Georgia - những người hiếm khi bị sốc trước tình hình chính trị hỗn loạn ở đất nước này - sửng sốt khi tuyên bố rằng Georgia nên “xin lỗi” vì cuộc chiến tranh năm 2008 của Nga chống lại nước này.
Tuyên bố của nhà tài phiệt Bidzina Ivanishvili hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín, là một lời hứa trong chiến dịch tranh cử được đưa ra trước cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 10 sắp tới và là một phần trong xu hướng xích lại gần hơn với Nga của đảng ông.
Tài phiệt Bidzina Ivanishvili, người có gần như toàn bộ tài sản trong các ngân hàng Nga cho rằng “Mình phải xét lại xem mình ăn ở cư xử như thế nào người ta mới phải xâm lược mình. Một lời xin lỗi chân thành cần phải được đưa ra để hòa giải hai bên.”
Nhưng theo các nhà phân tích phát biểu với tờ Kyiv Independent, việc cho rằng Georgia, chứ không phải Nga, phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến có thể là một bước đi quá xa và khó có thể mang lại tác động tích cực cho đảng Giấc mơ Georgia về mặt bầu cử.
Tinatin Japaridze, một nhà phân tích rủi ro tại Eurasia Group, cho biết: “Tuyên bố này sẽ không khiến Giấc mơ Georgia được các cử tri ủng hộ nhiều hơn, những người đã thích họ sẽ bỏ phiếu cho họ bất kể thế nào, và tôi nghĩ những người chưa quyết định sẽ sẽ mất hứng thú với tuyên bố này”.
“Đây là một tình huống từ thua đến thua đối với Tbilisi, nhưng chắc chắn là một lợi ích cho Mạc Tư Khoa vì họ có thể tránh xa trách nhiệm về cuộc chiến năm 2008,” Japaridze nói với tờ Kyiv Independent. Cuộc chiến kéo dài năm ngày vào năm 2008, khiến hàng trăm người thiệt mạng, gần 130.000 người phải di dời và củng cố sự xâm lược của Nga đối với khoảng 20% đất nước, từ lâu đã là một vấn đề chính trị nóng bỏng đối với Georgia.
“Đây là tình huống không có lợi cho Tbilisi nhưng chắc chắn là có lợi ích quá lớn cho Mạc Tư Khoa.”
Trong khi đề xuất của Ivanishvili rằng Georgia nên xin lỗi người Nga và người Ossetia, là nhóm dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở khu vực Nam Ossetia bị Nga tạm chiếm, là tuyên bố mạnh mẽ nhất cho đến nay, thì đây không phải là lần đầu tiên Ivanishvili hoặc các quan chức khác đổ lỗi cho đất nước của họ về cuộc xâm lược của Nga vào lãnh thổ có chủ quyền của Georgia.
Nhiều cuộc khảo sát đã phát hiện ra rằng phần lớn người dân Georgia vẫn tin rằng Nga là mối đe dọa chính mà đất nước này phải đối mặt. Theo một cuộc thăm dò năm 2023, chỉ có 3% số người được hỏi cho biết họ muốn một chính phủ thân Nga. Đồng thời, phần lớn những người được hỏi, bao gồm cả những người ủng hộ các đảng đối lập, cho biết chính sách đối ngoại của Georgia nên “ủng hộ phương Tây, tuy nhiên chúng ta nên duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Nga”.
Japaridze cho biết Điện Cẩm Linh chắc chắn muốn duy trì ảnh hưởng đối với Georgia, nhưng không coi trọng những diễn biến chính trị ở đó như ở Ukraine.
Japaridze cho biết: “Miễn là lợi ích của Điện Cẩm Linh không bị thách thức, và lý tưởng nhất là chúng được đại diện bởi bất kỳ ai thuộc đảng Giấc Mơ Georgia, thì Mạc Tư Khoa sẽ ổn”.
“Tôi không nghĩ rằng họ nhất thiết sẽ cố gắng xâm lược Georgia hoặc cố gắng sáp nhập Georgia như trong trường hợp Ukraine. Tôi không nghĩ rằng họ cần phải làm điều đó, họ có quá nhiều kẻ thân Nga, là những người có thể kiểm soát Georgia thay cho Điện Cẩm Linh”, bà nói thêm.
[Kyiv Independent: Georgian leader's 'apology' for 2008 war could be a win for Russia, experts say]
6. Nga buộc tội binh lính vì tra tấn làm Russell Bentley, người Mỹ quê ở Texas mất mạng
Theo tờ báo chính phủ Nga Rg.Ru, Mạc Tư Khoa đã buộc tội bốn quân nhân Nga về cái chết của Russell Bentley, một người Texas chiến đấu chống lại Ukraine tại Cộng hòa Nhân dân Donetsk, là người đã thiệt mạng vào ngày 8 tháng 4.
Theo Trung Tướng Igor Krasnov, Tổng Công Tố Nga, một cuộc điều tra của Ủy ban điều tra Nga về hoàn cảnh cái chết của ông đã phát hiện ra rằng Bentley, 64 tuổi, đã bị các thành viên của Lữ đoàn 5 tra tấn và giết chết tại mỏ Petrovskaya. Astra Press, một hãng truyền thông độc lập của Nga đưa tin.
Ủy ban điều tra Nga đã cáo buộc Vitaly Vansyatsky, Vladislav Agaltsev, Vladimir Bazhin và Andrei Iordanov, là các thành viên của Quân đội Liên bang Nga, về tội tra tấn và giết chết Bentley, một hành động được cho là vượt quá thẩm quyền của họ, Rg.Ru đưa tin.
Nhóm này cũng bị cáo buộc che giấu tội ác nghiêm trọng bằng cách di chuyển thi thể Bentley đến một địa điểm khác.
Cuộc điều tra cáo buộc Agaltsev và Iordanov đã tra tấn người đàn ông Texas này, dẫn đến cái chết của anh ta.
Cuộc điều tra cũng cáo buộc Vansyatsky và Agaltsev đã cho nổ tung hài cốt của Bentley trong chiếc xe VAZ 2115 bằng khối thuốc nổ TNT, và Bazhin, một quân nhân khác trong đơn vị quân đội, được cho là đã chuyển hài cốt của ông đến một địa điểm khác.
Một người bạn của vợ Bentley, Lyudmila Bentley, xác nhận với Astra Press rằng người lính Mỹ này đã chết do bị tra tấn bằng dòng điện, bà cho biết tim của anh ta không thể chịu được những cú sốc điện.
Vợ của Bentley cho biết họ đến Donetsk vì “công việc cá nhân” vào ngày 8 tháng 4 và đã từng sống tại ủy ban điều hành quận Petrovsky của Donetsk trong nhiều năm.
Theo nguồn tin này, Bentley đã biến mất sau khi được cho là đi hỗ trợ những người bị thương sau cuộc pháo kích của lực lượng Ukraine, và các nhân chứng cho biết anh đã bị những người mặc đồ ngụy trang bắt đi.
Mặc dù bốn quân nhân đã bị buộc tội, vẫn chưa có thông tin nào về ngày xét xử.
Bentley, một phóng viên chiến trường và chiến binh của Điện Cẩm Linh, đã viết blog và ghi lại vlog về cuộc chiến cho kênh YouTube của mình. Ông đã gia nhập lực lượng Nga vào năm 2014, như Newsweek đã đưa tin trước đó.
“Cao bồi Donbas”, như Bentley tự gọi mình, là một người trồng cây ở Austin, Texas, trước khi gia nhập quân đội Nga. Sau đó, ông kết hôn với một phụ nữ Nga và có quốc tịch Nga.
Bentley chia sẻ với Newsweek vào năm 2022, “Nếu tôi kể lại tất cả những lần tôi cận kề cái chết trong gang tấc, trước hết, chúng ta sẽ ở đây suốt đêm, và thứ hai, bạn thậm chí sẽ không tin tôi.”
Anh ta nói tiếp, “Tôi có thể nói với bạn rằng tôi là người may mắn nhất mà tôi từng biết. Tôi tin vào các thiên thần hộ mệnh vì tôi đã may mắn như thế nào khi được sống ở đây. Chỗ này tốt hơn cả ngàn lần nước Mỹ mà tôi đã từ bỏ”
[Newsweek: Russia Charges Soldiers Over Torture, Murder of Texan Russell Bentley]
7. NATO được kêu gọi phản ứng với máy bay điều khiển từ xa của Nga
Các thành viên ở sườn phía đông của NATO cho biết, các cuộc xâm nhập liên tục vào không phận NATO của máy bay điều khiển từ xa chiến đấu của Nga đòi hỏi phải có “câu trả lời chung” từ liên minh.
Tuyên bố chung của khối Bucharest 9 được đưa ra sau những lo ngại ngày càng tăng về máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn của Nga hạ cánh trên lãnh thổ NATO trong cuộc chiến do Vladimir Putin phát động.
Tuần trước, hãng thông tấn độc lập Verstka của Nga đưa tin rằng các mảnh vỡ từ hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa đã rơi xuống các quốc gia lân cận cuộc xung đột 34 lần, trong đó có 20 lần là các quốc gia thành viên NATO.
Lãnh thổ Rumani đã bị ảnh hưởng 13 lần, thường là gần các cảng trên sông Danube của Ukraine, nơi thường xuyên là mục tiêu của Nga.
Có ba vụ việc xảy ra ở Bulgaria, hai vụ ở Ba Lan và một vụ ở Latvia và Croatia. Hầu hết các thiết bị là của Nga, mặc dù một số do Ukraine bắn, Verstka cho biết. Các quốc gia khác bị ảnh hưởng là Belarus, đồng minh của Nga và Moldova, thành viên không thuộc NATO.
“Chúng tôi bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về các cuộc xâm nhập liên tục vào không phận NATO…của máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn của Liên bang Nga, cũng như tình hình căng thẳng leo thang dọc biên giới NATO,” 9 bộ trưởng quốc phòng Bucharest cho biết trong một tuyên bố chung hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín.
Khối này đã họp tại thủ đô Rumani trong hai ngày 18 và 19 Tháng Chín, và bao gồm các quốc gia nơi máy bay điều khiển từ xa đã hạ cánh cũng như Cộng hòa Tiệp, Estonia, Hung Gia Lợi, Lithuania và Cộng hòa Slovakia.
“Đây là một thực tế mới không thể bị bỏ qua”, tuyên bố nói thêm. “Chúng ta cần một câu trả lời chung trong NATO cho những thách thức do vũ khí và công nghệ hiện đại đặt ra”.
Thứ trưởng Quốc phòng Ba Lan Pawel Zalewski cho biết khi các bộ trưởng quốc phòng NATO họp vào tháng 10, việc tiêu diệt máy bay điều khiển từ xa xâm phạm không phận của liên minh sẽ là trọng tâm khi ông cáo buộc Mạc Tư Khoa thực hiện “các cuộc tấn công hỗn hợp”.
Roger Hilton, nghiên cứu viên quốc phòng tại tổ chức tư vấn GLOBSEC có trụ sở tại Slovakia, cho biết mặc dù đã có những đề xuất cho các thành viên NATO bắn hạ hỏa tiễn của Nga, nhưng vẫn chưa có chính sách chung chắc chắn nào được đưa ra trên toàn liên minh và vẫn còn nhiều câu hỏi về mục đích của chiến lược như vậy.
Ông nói với Newsweek rằng: “Các đồng minh có thể vô hiệu hóa máy bay điều khiển từ xa bằng tác chiến điện tử hoặc hệ thống động lực học nhưng phải đánh giá xem liệu việc làm như vậy có phải là chất xúc tác gây ra một vòng leo thang mới khiến liên minh này tiến gần hơn đến cuộc đối đầu với Điện Cẩm Linh hay không”.
Điều 5 của NATO quy định rằng một cuộc tấn công vào một thành viên được coi là cuộc tấn công vào tất cả các thành viên, mặc dù cho đến nay vẫn chưa có cáo buộc trực tiếp nào cho thấy Nga cố tình nhắm vào các quốc gia NATO.
Hilton cho biết: “Nếu không có tiền lệ hoặc hướng dẫn chính sách theo xu hướng về một chính sách quan trọng hơn nhiều, tôi hy vọng các quốc gia sẽ bày tỏ sự không hài lòng nhưng không đưa ra bất kỳ hành động trực tiếp nào chống lại máy bay điều khiển từ xa”.
Hilton cho biết trong vòng chưa đầy hai tuần nữa, Mark Rutte sẽ đảm nhiệm vị trí Tổng thư ký mới của NATO, điều này khiến cho bất kỳ quyết định rõ ràng nào trước khi ông nhậm chức đều rất khó có thể xảy ra.
“Những điều này sẽ trói buộc ông ấy vào các quyết định trước khi ông ấy tiếp quản và có khả năng làm chệch hướng tầm nhìn tương lai và các ý tưởng chính sách của ông ấy,” ông nói.
Nghị quyết Bucharest 9 kêu gọi tăng cường Phòng thủ hỏa tiễn và không quân tích hợp toàn diện của NATO, tăng cường năng lực phòng thủ hỏa tiễn và không quân của Âu Châu và tăng cường sườn phía đông của NATO.
“Chúng tôi nhắc lại nhu cầu Nga phải tuân thủ đầy đủ luật pháp quốc tế, bao gồm cả quyền bất khả xâm phạm không phận NATO”, tuyên bố nói thêm.
[Newsweek: NATO Called On To Respond to Russian Drones]
8. Von der Leyen của Liên Hiệp Âu Châu công bố khoản vay 35 tỷ euro cho Ukraine như một phần trong cam kết của G7
Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen ngày 20 tháng 9 đã công bố khoản vay 35 tỷ euro hay 39 tỷ đô la cho Ukraine như một phần trong cam kết 50 tỷ đô la của G7.
“Các cuộc tấn công liên tục của Nga có nghĩa là Ukraine cần sự hỗ trợ liên tục của Liên Hiệp Âu Châu”, nhà lãnh đạo nhánh hành pháp của Liên Hiệp Âu Châu phát biểu trong chuyến thăm Kyiv.
“Ủy ban Âu Châu sẽ cung cấp khoản vay lên tới 35 tỷ euro cho Ukraine như một phần của cam kết nhóm bẩy cường quốc trên thế giới. Đây là một đóng góp lớn khác của Liên Hiệp Âu Châu cho quá trình phục hồi của Ukraine.”
Von der Leyen đã đến thủ đô của Ukraine vào đầu ngày Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, để thảo luận về sự hỗ trợ của Âu Châu trong nhiều lĩnh vực “từ chuẩn bị cho mùa đông đến quốc phòng, đến việc gia nhập và tiến độ cho các khoản vay của G7”.
Vào tháng 6, nhóm bẩy cường quốc trên thế giới, thường được gọi là G7, đã đồng thanh cung cấp cho Ukraine khoản vay 50 tỷ đô la vào cuối năm, được thanh toán bằng số tiền thu được từ các tài sản bị tịch thu của Nga.
Kế hoạch hiện đang đứng trên bờ vực bấp bênh vì Hoa Kỳ, vốn được cho là sẽ gánh 20 tỷ đô la trong số tiền này, lại miễn cưỡng cam kết trừ khi Liên Hiệp Âu Châu gia hạn lệnh trừng phạt làm tê liệt tài sản của Nga. Một bước đi như vậy đòi hỏi phải có một cuộc bỏ phiếu đồng thanh, hiện đang bị Hung Gia Lợi, thành viên gần gũi nhất với Điện Cẩm Linh của Liên Hiệp Âu Châu, chặn lại.
Tờ Financial Times đưa tin vào ngày 17 tháng 9 rằng Liên Hiệp Âu Châu hiện đang soạn thảo kế hoạch cung cấp khoản vay có hoặc không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, với mục tiêu thu thập từ 20 tỷ đến 40 tỷ euro. Tờ báo bình luận rằng số tiền 35 tỷ euro là một sự thỏa hiệp cho phép Washington can thiệp vào sau này.
Ukraine đang rất cần nguồn tài chính như vậy khi Nga nhắm vào cơ sở hạ tầng năng lượng của nước này bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa cũng như tăng cường tấn công trên bộ ở phía đông.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cảm ơn G7 vì khoản vay 50 tỷ đô la đã cam kết nhưng cũng thúc giục tạo ra một cơ chế để tịch thu toàn bộ 300 tỷ đô la trong các quỹ bị đóng băng của Nga. Khoảng hai phần ba được giữ tại công ty dịch vụ tài chính Euroclear có trụ sở tại Bỉ.
[Kyiv Independent: EU's von der Leyen unveils 35 billion euro loan to Ukraine as part of G7 pledge]
9. Zelenskiy sẽ gặp Tổng thống Biden, Harris tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 26 tháng 9
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy sẽ tới thăm Tòa Bạch Ốc vào ngày 26 tháng 9 để thảo luận về cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine với Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris.
Thiếu tướng John Kirby, điều phối viên truyền thông của Hội đồng An ninh Quốc gia cho biết: “Các nhà lãnh đạo sẽ thảo luận về tình hình chiến tranh giữa Nga và Ukraine, bao gồm kế hoạch chiến lược của Ukraine và sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Ukraine trong việc phòng thủ trước sự xâm lược của Nga”.
Zelenskiy đang trên đường đến Hoa Kỳ để tham dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 79 tại New York và trình bày một kế hoạch chiến thắng gồm năm điểm cho giới lãnh đạo Hoa Kỳ. Các quan chức Hoa Kỳ cho biết họ đã làm quen với các yếu tố trong chiến lược của Zelenskiy và bày tỏ niềm tin “rằng nó có thể hiệu quả”.
Tổng thống Biden, người đã ngồi tại Tòa Bạch Ốc trong suốt cuộc xâm lược toàn diện của Vladimir Putin vào Ukraine và đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng liên minh ủng hộ Kyiv, sẽ rời nhiệm sở vào Tháng Giêng năm sau. Trong khi định vị Washington là nhà tài trợ quân sự hàng đầu của Ukraine, chính quyền Tổng thống Biden đã bị chỉ trích vì đường lối thận trọng và từng phần của mình trong việc cung cấp viện trợ.
Trong những tuần gần đây, Kyiv ngày càng chỉ trích các đối tác của mình, nói rằng mặc dù dự luật viện trợ 61 tỷ đô la của Hoa Kỳ đã được thông qua vào tháng 4, nhưng khoản viện trợ này đang được chuyển đến quá chậm và thậm chí không đủ để trang bị cho “bốn trong số 14 lữ đoàn” mà đất nước đang huy động.
Ukraine cũng vẫn đang chờ đợi quyết định về các cuộc tấn công tầm xa vào Nga bằng vũ khí của phương Tây, điều mà Washington vẫn chưa muốn chấp thuận.
Đầu năm sau, Tổng thống Biden sẽ trao chìa khóa Tòa Bạch Ốc cho ứng cử viên Dân chủ Harris hoặc đối thủ Cộng hòa của bà, Ông Donald Trump. Cựu Tổng thống Trump cho biết ông “có thể” sẽ gặp Zelenskiy vào tuần tới, vì nhà lãnh đạo Ukraine cho biết ông cũng muốn trình bày kế hoạch chiến thắng với ông.
[Kyiv Independent: Zelensky to meet Biden, Harris in White House on Sept. 26]
10. Liên Hiệp Âu Châu đang xem xét chấm dứt quyền tiếp cận miễn thị thực của Georgia vì đảng cầm quyền đã thoái lui về dân chủ
Liên Hiệp Âu Châu đang cân nhắc khả năng chấm dứt chế độ miễn thị thực cho Georgia vào khối này do sự thoái trào dân chủ dưới thời đảng Giấc mơ Georgia cầm quyền
Phát ngôn nhân Liên Hiệp Âu Châu cho biết “Mọi phương án đều được cân nhắc” nếu Georgia không đảo ngược xu hướng độc tài của mình, “bao gồm cả khả năng tạm thời đình chỉ chương trình tự do hóa thị thực”.
Mối lo ngại về nền dân chủ của Georgia đã lên đến đỉnh điểm sau khi đảng Giấc mơ Georgia cầm quyền thông qua luật đặc vụ nước ngoài, theo đó các tổ chức nhận tài trợ nước ngoài phải được dán nhãn là “đặc vụ nước ngoài” và phản ánh luật pháp hà khắc của Nga được sử dụng để đàn áp những người chỉ trích chế độ Điện Cẩm Linh.
Các đối tác phương Tây truyền thống của Georgia — Liên Hiệp Âu Châu và Hoa Kỳ, đã phản ứng với việc thông qua luật và cuộc đàn áp người biểu tình liên quan bằng cách dừng viện trợ, đóng băng nỗ lực gia nhập Liên Hiệp Âu Châu của nước này và trừng phạt các quan chức chính phủ.
Kế hoạch đề xuất chấm dứt quyền miễn thị thực cho Georgia vào Liên Hiệp Âu Châu, được thông qua lần đầu vào năm 2017, là bước đi mới nhất trong mối quan hệ đang xấu đi giữa Georgia và phương Tây.
Phát ngôn nhân của Ủy ban Âu Châu cho biết: “Là một phần của cuộc đối thoại tự do hóa thị thực Liên Hiệp Âu Châu-Georgia và Kế hoạch hành động tương ứng, Georgia được yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể, bao gồm bảo bảo đảm vệ các quyền cơ bản và ngăn ngừa phân biệt đối xử”.
“Tất nhiên sẽ có đánh giá trong trường hợp có những diễn biến gây nguy hiểm cho an ninh nội bộ của khu vực Schengen, cũng như trong trường hợp nền dân chủ ở Georgia tiếp tục suy giảm.”
Sau những tin đồn trong những ngày gần đây rằng chế độ miễn thị thực có thể kết thúc, Thủ tướng Irakli Kobakhidze đã mô tả đề xuất này là một “nỗ lực tống tiền rẻ tiền”.
Kobakhidze còn tuyên bố rằng “điều đó sẽ không ảnh hưởng đến cuộc bầu cử”, ám chỉ đến cuộc bầu cử quốc hội sắp tới dự kiến diễn ra vào tháng 10. Đảng Giấc Mơ Georgia, nắm quyền từ năm 2012, đang tìm kiếm nhiệm kỳ thứ tư. Đây là một đảng thân Nga một cách cuồng dại.
Thật vậy, lãnh đạo thực tế của đảng cầm quyền Giấc mơ Georgia đã khiến người dân Georgia - những người hiếm khi bị sốc trước tình hình chính trị hỗn loạn ở đất nước này - sửng sốt khi tuyên bố rằng Georgia nên “xin lỗi” vì cuộc chiến tranh năm 2008 của Nga chống lại nước này.
Tài phiệt Bidzina Ivanishvili, nhà lãnh đạo trên thực tế của đảng này, người có gần như toàn bộ tài sản trong các ngân hàng Nga cho rằng “Mình phải xét lại xem mình ăn ở cư xử như thế nào người ta mới phải xâm lược mình. Một lời xin lỗi chân thành cần phải được đưa ra để hòa giải hai bên.”
[Politico: EU considering ending Georgia's visa-free access over ruling party's democratic backsliding]
1. Nga mất 35 hệ thống pháo binh, 118 xe và 1.340 quân trong một ngày: Kyiv
Lực lượng của Vladimir Putin được cho là đã mất hơn một ngàn quân, hàng chục hệ thống pháo binh và hơn một trăm xe trong một trong những ngày đẫm máu nhất kể từ khi Nga xâm lược Ukraine.
Trong khi giao tranh vẫn tiếp diễn ở cả hai bên chiến tuyến của Ukraine, số người chết ngày càng tăng trong hàng ngũ quân đội Nga đặt ra câu hỏi liệu Putin có thể duy trì hoạt động tốn kém này được bao lâu nữa.
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, đã công bố số liệu mới nhất về “thiệt hại trong chiến đấu của đối phương”.
Theo ước tính, Quân đội Nga đã mất 118 xe quân sự từ ngày 19 tháng 9 đến ngày 20 tháng 9, bao gồm 20 xe tăng, 39 xe chiến đấu bọc thép và 59 xe chở nhiên liệu, nâng tổng số xe bị mất trong cuộc chiến cho đến nay lên hơn 50.000.
Khoảng 35 hệ thống pháo cũng đã bị Kyiv phá hủy trong giai đoạn này, nâng tổng số hệ thống pháo bị phá hủy lên hơn 18.212, cũng như 52 máy bay điều khiển từ xa, nâng tổng số máy bay điều khiển từ xa của Nga bị mất trong cuộc chiến lên 15.469.
Theo Kyiv, Nga cũng mất 1.340 quân nhân từ thứ năm đến thứ sáu.
Mặc dù vẫn thấp hơn con số kỷ lục 1.740 quân mà Nga mất vào ngày 12 tháng 5, trong giai đoạn giao tranh dữ dội ở vùng Kharkiv, đông bắc Ukraine, con số mới nhất là cao nhất kể từ ngày 9 tháng 9 khi 1.380 quân Nga bị loại khỏi vòng chiến và nằm trong số những ngày thiệt hại nặng nề nhất đối với lực lượng Mạc Tư Khoa kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu vào tháng 2 năm 2022.
Theo ước tính của Kyiv, điều này nâng tổng số quân Nga thiệt hại lên tới 639.480.
Cho đến nay BBC đã xác minh được danh tính của 70.112 tử sĩ với sự trợ giúp của hãng truyền thông độc lập Mediazona của Nga.
BBC cảnh báo rằng con số thực tế có thể “cao hơn rất nhiều lần”, vì họ chỉ có thể xác nhận số ca tử vong thông qua cáo phó được công bố trên phương tiện truyền thông Nga và trực tuyến, sau đó được xác minh với chính quyền hoặc người thân của người đã khuất.
Ngoài tổn thất về người và tinh thần của quân đội, nền kinh tế Nga cũng đang cảm nhận được sức ép từ cuộc xâm lược tốn nhiều vốn này.
Theo Bộ Tài chính Ukraine, sử dụng dữ liệu từ Quân đội, Bộ Quốc phòng và Forbes Ukraine, Nga đã mất khoảng 70,7 tỷ đô la trang thiết bị kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu, tương đương với mức trung bình mỗi ngày chỉ hơn 75 triệu đô la.
Về tổng chi phí của cuộc xâm lược, một quan chức quốc phòng cao cấp của Hoa Kỳ đã nói với các phóng viên vào tháng 2 rằng Nga “có lẽ đã chi 211 tỷ đô la” cho cuộc chiến cho đến thời điểm đó, cùng với 1,3 ngàn tỷ đô la cho “tăng trưởng kinh tế dự kiến trước đó đến năm 2026”.
Chi phí này còn tăng thêm do các lệnh trừng phạt áp đặt lên chế độ Putin kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu, bao gồm các hạn chế xuất khẩu, đóng băng tài sản của Nga tại các ngân hàng nước ngoài và lệnh cấm các quốc gia khác nhập khẩu dầu và khí đốt tự nhiên của Nga.
Trong khi Nga đã nỗ lực để lách các lệnh cấm vận này, nền kinh tế Nga đang trong tình trạng khốn cùng, kết hợp với số liệu thương vong ngày càng tăng, đặt ra câu hỏi Chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga có thể kéo dài được bao lâu.
[Newsweek: Russia Loses 35 Artillery Systems, 118 Vehicles and 1,340 Troops in a Day: Kyiv]
2. Nga cho biết 101 máy bay điều khiển từ xa đã bị bắn hạ trong đêm trong một cuộc tấn công cường tập, có các vụ nổ tại các kho đạn dược
Hôm Thứ Bẩy, 21 Tháng Chín, Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố lực lượng của họ đã bắn hạ và đánh chặn 101 máy bay điều khiển từ xa của Ukraine trong đêm, trong khi các vụ nổ được báo cáo tại các kho đạn dược ở Krasnodar Krai và Tver.
Một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa ở quận Tikhoretsk thuộc vùng Krasnodar Krai của Nga đã gây ra các vụ nổ lớn, Veniamin Kondratyev, thống đốc khu vực, báo cáo vào sáng Thứ Bẩy, 21 Tháng Chín.
Theo tờ Washington Post, quận Tikhoretsk có một kho đạn dược lớn đã được mở rộng trong năm qua để tiếp nhận các chuyến hàng đạn dược từ Bắc Hàn.
Các đơn vị phòng không Nga đã chặn hai máy bay điều khiển từ xa trên quận Tikhoretsk vào ngày 21 tháng 9, Kondratyev cho biết. “Các mảnh vỡ rơi xuống của một trong số các kho đạn đã gây ra hỏa hoạn lan sang các đối tượng nổ làm bùng lên một vụ nổ.”
Kondratyev cho biết người dân địa phương đang được di tản khỏi khu vực gần vụ nổ.
Trong khi Kondratyev không nêu rõ địa điểm xảy ra vụ nổ, kênh tin tức Astra của Telegram Nga đưa tin rằng kho đạn dược Tikhoretsk đã bị tấn công.
Theo Astra, một kho đạn dược ở làng Oktyabrsky thuộc Tver cũng bị tấn công vào đêm qua. Kho đạn dược này nằm gần một kho vũ khí ở Toropets, là một trong những kho vũ khí lớn nhất của Nga, đã bị máy bay điều khiển từ xa của Ukraine tấn công vào ngày 18 tháng 9.
Nhà lãnh đạo cơ quan tình báo quân sự Estonia cho biết cuộc tấn công của Ukraine vào kho vũ khí của Nga ở Toropets, Tver đã phá hủy số đạn dược đủ dùng trong 3 tháng
Chính quyền địa phương ở Tỉnh Tver báo cáo rằng một số lượng máy bay điều khiển từ xa không xác định đã bị bắn hạ trong khu vực nhưng không tiết lộ bất kỳ chi tiết nào về hậu quả của cuộc tấn công.
Theo Bộ Quốc phòng Nga, 53 máy bay điều khiển từ xa đã bị chặn trên vùng Bryansk, 18 trên vùng Krasnodar, 16 trên biển Azov, 5 trên vùng Kaluga và 9 trên vùng Kursk và Smolensk và Crimea bị Nga tạm chiếm.
[Kyiv Independent: Russia says 101 drones downed overnight, explosions reported at ammunition depots]
3. Cựu Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Moldova bị buộc tội phản quốc vì cáo buộc làm gián điệp cho Nga
Igor Gorgan, cựu tổng tham mưu trưởng quân đội Moldova, đã bị buộc tội phản quốc, Đài phát thanh Âu Châu Tự do/Đài phát thanh Tự do đưa tin hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, trích dẫn thông tin từ các công tố viên nước này.
Văn phòng Công tố chống tội phạm có tổ chức và các vụ án đặc biệt cho biết Gorgan “bị buộc tội trong vụ án liên quan đến cáo buộc làm gián điệp cho Nga”.
Trang tin điều tra The Insider đưa tin vào tháng 6 rằng Gorgan đã là người cung cấp thông tin cho cơ quan tình báo quân sự Nga, gọi tắt là GRU, trong nhiều năm.
Sĩ quan người Moldova này từng giữ chức Tổng tham mưu trưởng từ năm 2013 đến năm 2016 và được bổ nhiệm lại vào vị trí này vào năm 2019 dưới thời Tổng thống thân Nga Igor Dodon trước khi mất chức vào năm 2021 theo yêu cầu của Tổng thống thân phương Tây Maia Sandu.
Ngay cả sau khi mất chức, vị tướng này vẫn sử dụng các mối quan hệ của mình tại Bộ Quốc phòng và chuyển thông tin nhạy cảm về Moldova và Ukraine cho Nga, The Insider đưa tin.
Nội dung này được cho là bao gồm thông tin tình báo về các tuyến viện trợ quân sự từ Rumani đến Ukraine và tình hình chính trị ở Moldova.
Mặc dù không rõ sự hợp tác giữa Gorgan và GRU bắt đầu khi nào, nhưng hoạt động giao tiếp chung của họ được cho là trở nên đặc biệt tích cực vào tháng 4 năm 2022, tức là ngay sau khi cuộc xâm lược toàn diện của Putin vào Ukraine nổ ra.
Sau cuộc điều tra của giới truyền thông, chính quyền Moldova đã khởi tố vụ án hình sự liên quan đến việc truyền dữ liệu liên quan đến hệ thống phòng thủ quốc gia. Các công tố viên cho biết cuộc điều tra về “bản chất và nội dung của thông tin được cho là đã truyền” vẫn đang được tiến hành.
Gorgan đã phủ nhận những cáo buộc và gọi cuộc điều tra của giới truyền thông là giả mạo.
Chisinau đã ủng hộ Ukraine trong suốt cuộc chiến toàn diện và trấn áp các hoạt động phá hoại của Nga trong nước, trục xuất hàng chục nhà ngoại giao và nhân viên đại sứ quán vào tháng 7 năm 2023 sau khi phát hiện ra các hoạt động gián điệp.
Cuộc xâm lược của Nga đã làm dấy lên lo ngại ở Moldova về khả năng lan rộng của các cuộc xung đột, cụ thể là thông qua khu vực Transnistria của Moldova bị Nga tạm chiếm.
[Kyiv Independent: Moldova's ex-military chief charged with treason over alleged espionage for Russia]
4. Những người đàn ông Ghana bị dụ dỗ chiến đấu cho Nga kêu gọi sự giúp đỡ từ bên trong Ukraine bị tạm chiếm
Những thành viên còn sống sót trong nhóm 14 người đàn ông Ghana bị dụ vào quân đội Nga để chiến đấu chống lại Ukraine đã kêu gọi sự giúp đỡ từ Tỉnh Donetsk bị Nga tạm chiếm, kênh tin tức Ghana TV3 đưa tin hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín.
Nga vẫn tiếp tục cố gắng bổ sung quân đội bằng người nước ngoài và lao động nhập cư để tránh phải huy động quân trong nước thêm một lần nữa khi tổn thất từ cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine ngày càng gia tăng.
Theo TV3, những người đàn ông này đến Nga vào ngày 6 tháng 8 và được đưa đến Kostroma, một thành phố ở phía tây nước Nga, cách Mạc Tư Khoa 300 km về phía đông bắc.
Một người đàn ông khác từ Ghana được cho là chịu trách nhiệm dụ dỗ nhóm này, hứa hẹn cho họ những công việc được trả lương cao ở Nga. Những người đàn ông này cho biết họ đã tự trả tiền vé máy bay và thị thực và được thông báo rằng họ sẽ nhận được một công việc làm trong ngành an ninh, nhưng trước tiên sẽ được quân đội đào tạo.
Những người đàn ông này cho biết sau đó họ đã ký một hợp đồng bằng tiếng Nga, một ngôn ngữ mà không ai trong số họ nói được, và hộ chiếu của họ sau đó đã bị tịch thu.
Ba người đàn ông trong nhóm nói với TV3 rằng họ đang bị giam giữ trái ý muốn tại Tỉnh Donetsk bị Nga tạm chiếm và họ tin rằng họ có thể là những thành viên duy nhất còn sống sót trong nhóm ban đầu gồm 14 người.
Những thành viên khác trong nhóm được cho là đã bị bắt đi chiến đấu và một người đàn ông đã trốn thoát, nhưng không rõ tung tích.
“Chúng tôi hiện đang ở Ukraine... chúng tôi không có kinh nghiệm chiến đấu,” một người đàn ông nói với TV3. “Chúng tôi đang cầu xin, chúng tôi muốn trở về nhà.”
Gia đình của 14 người đàn ông đã kêu gọi Trụ sở Cảnh sát Ghana giúp đỡ, nhà báo Godwin Asediba của TV3 đăng trên X vào ngày 20 tháng 9.
Những trường hợp tương tự về người nước ngoài bị dụ dỗ vào quân đội Nga đã được báo cáo ở Ấn Độ, Ai Cập, Nepal và Cuba, bất chấp những nỗ lực từ các quốc gia này nhằm trấn áp các đường dây buôn người và các chương trình tuyển dụng đưa người đàn ông đến Nga.
Bloomberg đưa tin vào tháng 6 rằng Nga đã ép buộc sinh viên và người di cư Phi Châu chiến đấu bằng cách đe dọa sẽ thu hồi thị thực nếu họ không đồng ý tham gia quân đội.
Truyền thông Ấn Độ đưa tin vào ngày 12 tháng 9 rằng 45 người Ấn Độ bị lừa tham gia quân đội Nga chiến đấu ở Ukraine đã được thả sau khi chính phủ Ấn Độ can thiệp, và Putin đã gặp Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi vào tháng 7.
[Kyiv Independent: Ghanaian men lured to fight for Russia appeal for help from inside occupied Ukraine]
5. Đức chuyển giao hơn 20 xe tăng Leopard 1, pháo phòng không Gepard và nhiều viện trợ khác cho Ukraine
Bộ trưởng Quốc phòng Đức, Boris Pistorius, cho biết hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, rằng Berlin đã bàn giao xong 22 xe tăng Leopard 1 A5, 61.000 viên đạn 155 ly, ba pháo phòng không tự hành Gepard cùng các bộ phận thay thế và các thiết bị khác trong đợt cung cấp viện trợ quân sự mới nhất cho Ukraine.
Đợt tiếp nhận này cũng bao gồm năm xe địa hình Bandvagn 206, hai radar giám sát trên không TRML-4D và một xe chở quân địa hình bánh xích Warthog, cũng như 112 xe từ kho vũ khí của Bundeswehr và các ngành công nghiệp.
Ukraine đã nhận được 30 máy bay điều khiển từ xa Vector, 20 máy bay điều khiển từ xa trinh sát Heidrun RQ-35, 12 máy bay điều khiển từ xa Songbird, sáu máy bay điều khiển từ xa Hornet XR và 20 thuyền điều khiển từ xa.
Berlin còn chuyển giao ba xe tăng đặt cầu Beaver cùng các phụ tùng thay thế, một xe thiết giáp công binh Dachs cùng các phụ tùng thay thế và sáu xe tăng rà phá mìn Wisent 1.
22 xe tăng Leopard 1 A5 cùng phụ tùng thay thế được chuyển giao theo sáng kiến chung với Đan Mạch.
Ban đầu là một đối tác còn do dự, Berlin đã trở thành nhà tài trợ quân sự lớn thứ hai của Ukraine sau Hoa Kỳ, mặc dù Thủ tướng Đức Olaf Scholz vẫn còn ngần ngại cung cấp một số năng lực quan trọng, cụ thể là hỏa tiễn tầm xa Taurus.
Theo ngân sách liên bang đã được thống nhất, viện trợ quân sự của Đức cho Ukraine sẽ bị cắt giảm một nửa vào năm tới khi so sánh với năm 2024. Berlin đã phân bổ khoảng 8 tỷ euro hay 8,7 tỷ đô la, cho Kyiv vào năm 2024, trong khi mức hỗ trợ cho năm tới hiện được ấn định ở mức 4 tỷ euro hay 4,35 tỷ đô la.
[Kyiv Independent: Germany delivers over 20 Leopard 1 tanks, Gepard anti-aircraft guns, other aid to Ukraine]
6. Báo cáo cho thấy Nga đã biết về kế hoạch Kursk của Ukraine trong nhiều tháng nhưng không hành động
Theo các tài liệu mới được tiết lộ của Nga, Mạc Tư Khoa đã biết về kế hoạch tấn công bất ngờ của Ukraine vào khu vực phía Tây Kursk từ năm 2023.
Đã 45 ngày trôi qua kể từ cuộc đột kích, cho đến nay Nga vẫn chưa thể đẩy lùi lực lượng Ukraine ra khỏi các vùng lãnh thổ phía Tây và buộc phải di tản khỏi các thị trấn và chuyển quân khỏi tiền tuyến để ngăn chặn bước tiến của Kyiv.
Trong khi vẫn còn nhiều đồn đoán xung quanh mục tiêu, cuộc đột kích Kursk đã phơi bày sự hỗn loạn đang hoành hành trong bộ chỉ huy quân sự Nga và gây áp lực lên giới lãnh đạo chính trị nước này.
Trong một diễn biến có thể phơi bày hơn nữa tình trạng hỗn loạn của Nga, Vladimir Putin đã chấp thuận một kế hoạch đặt thuốc nổ tại các con đập ở tỉnh Belgorod của nước này. Nhiều người cho rằng biện pháp kịch tính này có thể là nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công xuyên biên giới khác tiến sâu vào lãnh thổ Nga qua ngã Belgorod.
Theo các tài liệu mà quân đội Ukraine thu thập được và chia sẻ với The Guardian, bộ chỉ huy quân sự Nga đã lường trước được cuộc tấn công của Ukraine vào ngày 6 tháng 8 nhưng không hành động theo cảnh báo từ những người trong khu vực.
Các tài liệu mà Ukraine cho biết đã thu giữ được từ các tòa nhà bỏ hoang ở khu vực Kursk bị tạm chiếm có niên đại từ cuối năm 2023 đến chỉ sáu tuần trước cuộc xâm nhập.
Những điều này bao gồm cảnh báo về “khả năng đột phá tại biên giới quốc gia” của Ukraine, cùng các lệnh tăng cường nhân sự và tổ chức để chuẩn bị cho quân đội ứng phó với khả năng đó.
Tờ Guardian cho biết chúng có vẻ là những thông tin liên lạc quân sự thực sự, chủ yếu từ các đơn vị thuộc Trung đoàn súng trường cơ giới cận vệ 488 của Nga.
Những lo ngại cụ thể về việc Ukraine chiếm thành phố Sudzha và phá hủy các cây cầu bắc qua sông Seym sau đó đã trở thành sự thật, cũng như những cảnh báo rằng lực lượng đồn trú ở biên giới là “lực lượng dự bị có trình độ huấn luyện yếu”.
Bất chấp những cảnh báo này, theo Kyiv, Ukraine cho biết họ có thể kiểm soát 1300km vuông lãnh thổ của Nga cho đến nay và cuộc tấn công xuyên biên giới dường như mang dấu hiệu bất ngờ đối với bộ chỉ huy quân sự của Nga.
Vào giữa tháng 8, Tướng Christopher Cavoli đã ca ngợi “sự bất ngờ về mặt hoạt động và chiến thuật” mà Ukraine đạt được trong cuộc tấn công, đồng thời chỉ trích phản ứng của Nga là “chậm chạp và rải rác”.
Vladimir Putin đã triệu tập một cuộc họp trực tuyến sau vài tuần diễn ra chiến dịch của Ukraine, trong đó ông chỉ trích các cơ quan an ninh của nước này về tình hình ngày càng xấu đi “hiện đang diễn ra ở các khu vực biên giới”.
Gần đây hơn, Nga đã tổ chức một chiến dịch phản công nhằm đẩy lùi lực lượng Ukraine, với thời hạn chót là ngày 1 tháng 10.
Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ, gọi tắt là ISW, đơn vị theo dõi diễn biến cuộc tấn công của Ukraine kể từ ngày 6 tháng 8, lời khai của các blogger quân sự Nga cho thấy Nga có khả năng đã chiếm lại được một thị trấn duy nhất, nhưng một số thị trấn khác lại rơi vào tay quân Ukraine.
Lực lượng của Kyiv đã có thể “đè bẹp” lực lượng phản công này của Nga và điều này chứng tỏ ưu thế của quân đội họ.
[Newsweek: Russia Knew About Ukraine's Kursk Plan for Months, Failed To Act: Report]
7. Điện Cẩm Linh bắt đầu điều tra hình sự đối với tổng biên tập của cơ quan truyền thông độc lập Novaya Gazeta Europe của Nga
Ủy ban điều tra Nga đã bắt đầu cuộc điều tra hình sự đối với Kirill Martynov, tổng biên tập của tờ báo truyền thông độc lập Novaya Gazeta Europe của Nga, Cơ quan An ninh Liên bang Nga, gọi tắt là FSB, cho biết như trên hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín.
Ủy ban điều tra được cho là đã cáo buộc Martynov “đang tiến hành các hoạt động của một tổ chức không mong muốn”.
Novaya Gazeta Europe là một nhánh của tờ báo Nga Novaya Gazeta. Tờ báo này được thành lập tại Latvia ngay sau khi cuộc chiến tranh toàn diện nổ ra và sau đó là cuộc đàn áp quyền tự do ngôn luận của Nga. Novaya Gazeta đã bị tước giấy phép truyền thông tại Nga vào tháng 9 năm 2022.
Vào tháng 6 năm 2023, Văn phòng Tổng công tố Nga tuyên bố Novaya Gazeta Europe là một tổ chức “không mong muốn”.
Luật về các tổ chức “không mong muốn” đã có hiệu lực từ năm 2015 và được sử dụng để nhắm vào những đối tượng bị coi là đối thủ của chế độ Putin, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan truyền thông độc lập, các nhóm nhân quyền và nhiều tổ chức khác.
Chính phủ Nga đã thông qua luật vào tháng 5, mở rộng danh sách các tổ chức “không mong muốn” để bao gồm cả những tổ chức được nước ngoài tài trợ.
Sau vụ kiện tiếp theo do các tổ chức Nga hoạt động bên ngoài đất nước đệ trình, Tòa án Nhân quyền Âu Châu đã phán quyết rằng luật mở rộng này vi phạm Công ước Âu Châu về Nhân quyền.
Các tổ chức “không mong muốn” bị cấm hoạt động tại Nga và việc cá nhân hoặc các phương tiện truyền thông khác chia sẻ nội dung của họ là bất hợp pháp. Những người lãnh đạo các tổ chức như vậy có thể phải đối mặt với án tù lên tới sáu năm và các thành viên có thể bị phạt tù lên tới bốn năm.
[Kyiv Independent: Kremlin begins criminal investigation into chief editor of Russian independent media outlet Novaya Gazeta Europe]
8. 'Đó là vấn đề cá nhân' — Tại sao Đức vẫn từ chối gửi hỏa tiễn Taurus tới Ukraine
Trong khi Washington và Luân Đôn đang phải đối mặt với áp lực cho phép Ukraine tấn công các mục tiêu sâu bên trong nước Nga bằng các hỏa tiễn do phương Tây sản xuất hiện có trong nước này, Berlin thậm chí vẫn tiếp tục từ chối cung cấp các hỏa tiễn như vậy.
“Đức đã đưa ra quyết định rõ ràng về những gì chúng tôi sẽ làm và những gì chúng tôi sẽ không làm. Quyết định này sẽ không thay đổi”, Scholz cho biết hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín. Ông khẳng định vẫn kiên quyết từ chối cung cấp hỏa tiễn tầm xa Taurus của nước này cho Ukraine.
Phát biểu của ông được đưa ra sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Thủ tướng Anh Keir Starmer không dỡ bỏ lệnh hạn chế sử dụng vũ khí tầm xa do phương Tây cung cấp trên lãnh thổ Nga trong cuộc gặp tại Washington.
Vào mùa xuân, Washington xác nhận rằng họ đã bắt đầu cung cấp cho Ukraine Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật quân đội tầm xa (ATACMS). Trước đó, Kyiv đã nhận được hỏa tiễn có thể bay xa tới 160 km, và lô mới bao gồm các hỏa tiễn tiên tiến có tầm bắn lên tới 300 km.
Nhưng việc chuyển giao hỏa tiễn Taurus của Berlin thì không diễn ra sau đó.
Trước đó, Đức đã đi theo Hoa Kỳ trong việc bàn giao hệ thống phòng không Patriot đầu tiên vào đầu năm 2023 và các xe tăng chiến đấu được mong đợi từ lâu.
Khi Kyiv bất ngờ tấn công vào Kursk của Nga, chiến dịch này đã nhận được sự ủng hộ từ Berlin. Bộ Quốc phòng Đức cho biết Ukraine “tự do lựa chọn” vũ khí để sử dụng bên trong nước Nga để tự vệ theo luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, Berlin vẫn tiếp tục trì hoãn yêu cầu của Ukraine về việc cung cấp mảnh ghép cuối cùng, đó là hỏa tiễn có thể nhắm vào quân đội Nga ở phía sau.
“Một kịch bản ác mộng đối với Scholz là Ukraine sẽ sử dụng Taurus để tấn công các mục tiêu chính trị nhạy cảm bên trong nước Nga. Scholz lo ngại rằng điều này có thể leo thang chiến tranh và đẩy Đức vào tình trạng thù địch trực tiếp với Nga”, Fabian Hoffmann, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Oslo, chuyên về công nghệ hỏa tiễn, đã nói với tờ Kyiv Independent vào đầu mùa xuân này.
“Về cơ bản, điều này có nghĩa là Scholz bị hạn chế do thiếu ý chí chính trị, xuất phát từ việc không tin tưởng vào giới lãnh đạo Ukraine sẽ không phá vỡ bất kỳ lời hứa nào.”
Một quyết định chính trị
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho rằng việc Đức từ chối cung cấp hỏa tiễn tầm xa cho Ukraine có liên quan đến động thái đe dọa hạt nhân của Putin.
“Theo tôi hiểu, thủ tướng nói rằng Đức không phải là quốc gia hạt nhân và rằng hỏa tiễn Taurus là hệ thống vũ khí mạnh nhất ở Đức”, tổng thống Ukraine phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với tờ Bild.
Trong những bình luận gần đây, Putin tuyên bố rằng việc bật đèn xanh cho Ukraine sử dụng vũ khí tầm xa chống lại các mục tiêu bên trong nước Nga có nghĩa là NATO đang “có chiến tranh” với Mạc Tư Khoa. Nga liên tục đưa ra những lời đe dọa không thành hiện thực.
Được thiết kế để tấn công các mục tiêu được chôn sâu dưới lòng đất và bảo vệ vững chắc bằng các khối bê tông kiên cố, chẳng hạn như các sở chỉ huy và các cây cầu, hỏa tiễn hành trình Taurus có thể tấn công mục tiêu cách xa 500 km, vượt trội hơn khả năng của các hệ thống tầm xa khác của phương Tây mà Ukraine đang sử dụng.
Ngoài ATACMS, Ukraine còn nhận được hỏa tiễn Storm Shadow của Anh, cùng với hỏa tiễn tương đương của Pháp, hỏa tiễn SCALP, có tầm bắn lên tới 250 km. Kho vũ khí này đã giúp Ukraine tấn công các mục tiêu của Nga ở các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm, bao gồm cả Crimea.
Kyiv đã nhiều lần hứa sẽ không tấn công lãnh thổ Nga bằng vũ khí tầm xa do các đồng minh phương Tây cung cấp nếu không có sự chấp thuận chính thức. Berlin dường như không quan tâm.
Trong số những lý do Scholz đưa ra để không cung cấp hỏa tiễn tầm xa cho Ukraine là lý do được cho là không thể sử dụng chúng nếu không có sự tham gia của binh lính Đức, nhưng lý do này đã bị bác bỏ.
“Vào thời điểm này, nó thậm chí đã trở thành thứ mà bạn có thể gọi là vấn đề cá nhân của thủ tướng,” Jessica Berlin, một thành viên cao cấp tại Trung tâm Phân tích Chính sách Âu Châu (CEPA), cho biết. “Có một yếu tố cá nhân liên quan đến các cân nhắc chính trị khác. Đó không phải là động lực duy nhất của quyết định, nhưng chắc chắn đóng một vai trò nào đó.”
Dư luận phản đối Ukraine
Một năm trước cuộc bầu cử quốc hội Đức, phần lớn người Đức ủng hộ quyết định của Scholz không cung cấp hỏa tiễn Taurus cho Ukraine.
Cuộc thăm dò do Viện Forsa thực hiện vào tháng 4 theo yêu cầu của kênh truyền hình Đức RTL cho thấy chỉ có 37% người Đức ủng hộ việc chuyển giao Taurus cho Kyiv, trong khi 56% phản đối động thái này.
Đồng thời, theo cuộc thăm dò của kênh truyền hình ZDF vào tháng 2, 62% người Đức ủng hộ các nước Âu Châu cung cấp thêm vũ khí và đạn dược cho Kyiv, trong khi 32% phản đối.
Jessica Berlin cho biết sự ủng hộ của Đức đối với việc cung cấp Taurus đã giảm trong các cuộc thăm dò, một phần là do thiếu quyết đoán, rõ ràng và lãnh đạo chính trị. Điều này tạo ra một môi trường chín muồi cho tuyên truyền và tường thuật của Nga về “leo thang”, mà không có chiến lược nào của Đức để chống lại hiệu quả, theo chuyên gia.
“Nếu công chúng Đức hiểu đầy đủ bản chất của tình hình và bản chất của mối đe dọa mà chúng ta phải đối mặt từ Nga, họ sẽ bớt sợ hãi khi giúp Ukraine tự vệ bằng vũ khí của Đức, và họ sẽ hiểu rằng đầu tư vào quốc phòng của Ukraine cũng chính là đầu tư vào quốc phòng của Đức.”
Christian Mölling, một chuyên gia an ninh tại Quỹ Bertelsmann có trụ sở tại Đức, nói với tờ Kyiv Independent rằng “mọi người về cơ bản đã từ bỏ việc tranh luận về Taurus”.
[Kyiv Independent: ‘It’s personal’ — Why Germany still refuses to send Taurus missiles to Ukraine]
9. Nga tấn công Kharkiv bằng bom dẫn đường, làm bị thương ít nhất 15 người
Thị trưởng Ihor Terekhov cho biết Nga đã tấn công Kharkiv bằng bom dẫn đường vào tối ngày 20 tháng 9, làm bị thương ít nhất 15 người.
Kharkiv, thành phố lớn thứ hai của Ukraine, thường xuyên bị Nga tấn công, gây ra thương vong cho dân thường và thiệt hại cho thành phố.
Theo Văn phòng Công tố Tỉnh Kharkiv, máy bay phản lực Su-34 của Nga đã phóng ba quả bom dẫn đường từ bên kia biên giới khi còn trong không phận Tỉnh Belgorod của Nga.
Những quả bom đã tấn công nhiều địa điểm trên khắp thành phố, bao gồm nhà dân, xa lộ gần bệnh viện và các doanh nghiệp.
Terekhov cho biết tám người đã phải vào bệnh viện do vụ tấn công. Những người bị thương bao gồm hai trẻ em 10 và 12 tuổi và một thiếu niên 17 tuổi.
Văn phòng công tố làm rõ rằng hai đứa trẻ đang được điều trị những chấn thương liên quan đến căng thẳng.
Vào ngày 15 tháng 9, một cuộc tấn công của Nga vào Kharkiv đã đánh trúng một tòa nhà cao tầng, khiến một phụ nữ 94 tuổi tử vong. 42 người khác bị thương trong vụ tấn công.
[Kyiv Independent: Russia strikes Kharkiv with guided bombs, injuring at least 15]
10. Von der Leyen công bố khoản vay 35 tỷ euro của Liên Hiệp Âu Châu cho Ukraine
Hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín, Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen đã công bố một kế hoạch tại Kyiv nhằm cung cấp khoản vay lên tới 35 tỷ euro của Liên Hiệp Âu Châu cho Ukraine.
“Các cuộc tấn công liên tục của Nga có nghĩa là Ukraine cần sự hỗ trợ liên tục của Liên Hiệp Âu Châu”, bà nói. “Đây là một đóng góp lớn khác của Liên Hiệp Âu Châu cho sự phục hồi của Ukraine.”
Khoản vay này là một phần trong cam kết của các nước G7 vào tháng 7 này nhằm hỗ trợ Kyiv lâu dài thông qua việc cung cấp vũ khí và viện trợ phục hồi, và sẽ được tài trợ từ lợi nhuận trong tương lai từ các tài sản nhà nước bị đóng băng của Nga, chủ yếu được nắm giữ tại Âu Châu.
“Chúng tôi hiện tự tin rằng chúng tôi có thể cung cấp khoản vay này cho Ukraine rất nhanh chóng”, von der Leyen phát biểu tại cuộc họp báo chung với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy.
Khoản vay phải được đa số các nước Liên Hiệp Âu Châu và Nghị viện Âu Châu chấp thuận trước khi kết thúc năm. Số tiền cụ thể của khoản vay Liên Hiệp Âu Châu thực sự được chuyển đến Ukraine phụ thuộc vào số tiền các nước G7 khác sẵn sàng đóng góp.
Theo Ủy ban, khoản vay của G7 sẽ lên tới 45 tỷ euro, vì Canada, Nhật Bản và Vương quốc Anh dự kiến sẽ đóng góp. Có những câu hỏi về việc liệu Hoa Kỳ có đóng vai trò gì trong khoản vay này hay không do những lo ngại lâu nay rằng, do các quy tắc trừng phạt của khối, một quốc gia Liên Hiệp Âu Châu duy nhất có thể giải tỏa tài sản sau mỗi sáu tháng, do đó khiến khoản vay này gặp rủi ro.
Theo một quan chức cao cấp của Ủy ban, người này yêu cầu giấu tên vì không được phép phát biểu công khai, trong nỗ lực thuyết phục Hoa Kỳ tham gia khoản vay của G7, Liên Hiệp Âu Châu sẽ đề xuất mở rộng thời hạn gia hạn tài sản từ sáu tháng như hiện nay lên 36 tháng.
Nhưng điều này có thể trở nên khó khăn vì Hung Gia Lợi đã báo hiệu vào đầu tuần này rằng họ sẽ không cho phép sửa đổi lệnh trừng phạt, đòi hỏi phải có sự đồng thanh, trước cuộc bầu cử Hoa Kỳ vào tháng 11.
Thông báo hôm thứ sáu cho thấy Brussels sẽ chuyển khoản vay có hoặc không có Hoa Kỳ – mặc dù các quan chức Liên Hiệp Âu Châu khẳng định rằng họ muốn có sự tham gia của Washington.
Một quan chức cao cấp của Ủy ban cho biết họ hy vọng sẽ nhận được tín hiệu từ Hoa Kỳ về việc liệu họ có đóng góp hay không vào thời điểm diễn ra cuộc họp của IMF và Ngân hàng Thế giới vào cuối tháng 10.
“Vào khoảng cuối tháng 10, tôi mong đợi chúng tôi sẽ xác nhận hoặc điều chỉnh 'lên tới 35 tỷ euro' khi xem xét tổng cam kết của các đối tác G7”, vị quan chức này cho biết.
Cam kết hỗ trợ lâu dài cho Ukraine của Liên Hiệp Âu Châu cũng được coi là điều kiện để IMF chấp thuận gói hỗ trợ mới nhất cho quốc gia đang bị chiến tranh tàn phá này.
'Rõ ràng và tàn ác'
Von der Leyen cũng đề cập đến các cuộc tấn công gần đây của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng dân sự của Ukraine, gọi các sự việc này là những nỗ lực “trắng trợn và tàn bạo” nhằm “nhấn chìm Ukraine vào bóng tối”.
“Liên minh Âu Châu ở đây để giúp các bạn trong thử thách này: duy trì điện, giữ ấm cho người dân khi mùa đông đang đến gần và duy trì nền kinh tế trong khi các bạn đấu tranh để sinh tồn”, von der Leyen cho biết.
Hôm thứ năm, chủ tịch Ủy ban Âu Châu đã công bố kế hoạch cung cấp năng lượng mùa đông của Brussels cho Ukraine, kế hoạch này sẽ giúp khắc phục thiệt hại cho cơ sở hạ tầng năng lượng do các cuộc tấn công của Nga gây ra và khôi phục công suất 2,5 gigawatt trong mùa đông này, mà Liên Hiệp Âu Châu ước tính là 15 phần trăm nhu cầu của Ukraine trong mùa này.
Ủy ban cũng có kế hoạch kết nối Ukraine với lưới điện của Liên Hiệp Âu Châu để các nước thành viên có thể xuất khẩu thêm 2 gigawatt sang Kyiv trong mùa đông.
[Politico: Von der Leyen announces €35B EU loan for Ukraine]
11. Cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga vào Odessa làm 4 người bị thương, tàu treo cờ Antigua bị hư hại
Thống đốc Oleh Kiper đưa tin lực lượng Nga đã tấn công Odessa vào ngày 20 tháng 9, làm bốn người bị thương.
Theo dữ liệu sơ bộ, Nga đã phóng hỏa tiễn đạn đạo Iskander-M, gây hư hại cho cảng và cơ sở hạ tầng dân sự, cũng như một tàu dân sự treo cờ Antigua.
Một cảnh báo không kích đã vang lên ở Tỉnh Odessa vào khoảng 2 giờ chiều giờ địa phương và những tiếng nổ đầu tiên được nghe thấy trong thành phố vài phút sau đó.
Tỉnh Odessa và các khu vực phía Nam khác của Ukraine thường xuyên là mục tiêu tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa của Nga.
Quân đội Nga đã tấn công Tỉnh Odessa bằng một hỏa tiễn đạn đạo vào ngày 4 tháng 7, khiến một thường dân thiệt mạng, bảy người khác bị thương và đánh trúng cơ sở hạ tầng của cảng.
[Kyiv Independent: Russia missile strike on Odesa injures 4, damages Antiguan-flagged vessel]