Ngày 01-10-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Kinh Mân Côi lời kinh tuyệt vời
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
05:48 01/10/2019
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Lc 1,26-38

Thiên Chúa đã chọn con đường mà nhân loại đã đi để cho Con Một của Người là Chúa Giêsu có Mẹ,có Cha và được sống, lớn lên trong một gia đình. Đó là con đường mà ai không có lý do đặc biệt nào đó hoặc sống độc thân, hoặc dâng hiến cách riêng cho Thiên Chúa, đều phải bước qua. Mặc dầu, lời sứ thần Gabrien truyền tin, Mẹ chưa hiểu rõ ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ ngỡ ngàng, lo âu, bối rối, nhưng khi được sứ thần giải thích,và để chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện, Mẹ đã cúi đầu cất lời xin vâng làm theo thiên ý. Thật thế, như chúng ta từng nghe thánh Bênađô diễn tả :” Nói về Mẹ không bao giờ cùng “ ( De Maria num quam satis !).

Lễ Mân Côi được mọi người biết và mừng rất trọng thể vào năm 1571 khi Mẹ Maria ban ơn cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Népante.

Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho phổ biến thánh lễ Mân Côi rộng rãi trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã viết nhiều Thông điệp nói lên tầm quan trọng của Lễ Mân Côi dưới triều đại của Ngài.Và ngày nay, Giáo Hội hoàn vũ và đặc biệt Hội Thánh Việt Nam luôn hân hoan mừng lễ Mẹ Mân Côi một cách trọng thể và dạt dào tình thương.

Vâng, Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra trên thế giới, lần nào Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại ăn năn sám hối và siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Với Kinh Mân Côi, chúng ta hiểu được lịch sử cứu rỗi. Bởi vì, qua năm sự vui, lịch sử cứu độ được bắt đầu khi Mẹ nói lời xin vâng làm theo ý Chúa. Với năm sự thương, cả lịch sử cứu độ được tỏ lộ qua sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Với năm sự mừng, lịch sử cứu độ được hoàn thành khi Chúa chết và ba ngày sống lại. Kinh Mân Côi là cuốn Kinh Thánh thu gọn. Đọc kinh Mân Côi chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Mẹ và chỗ đứng, địa vị của Mẹ trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta hãnh diện vì Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Chính Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện và cũng chỉ có Mẹ được diễm phúc ấy.

Tên của Mẹ thật dịu hiền. Ai nghe danh thánh Mẹ cũng cảm phục sự hiền lành, đơn sơ, trong trắng, thánh thiện của Mẹ. Mẹ Maria đã hiện ra ở Fatima với ba trẻ là Lucia, Phanxicô va Jacinta. Mẹ khuyên nhủ các em phải siêng năng lần chuỗi Mân Côi và loan báo cho nhiều người lần chuỗi Mân Côi, ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với Bernadette, tay Mẹ đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ bảo Bernadette lần hạt, rồi Mẹ cũng đọc kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Mẹ hiện ra nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới và ở đâu Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại, con người phải siêng năng lần chuỗi, cải tà qui chánh, ăn năn trở lại. Mẹ đã công khai xác nhận hiệu quả của việc lần hạt Mân Côi. Các Đức Thánh Cha đã luôn khuyến khích, khuyên nhủ Giáo Hội yêu mến Mẹ và siêng năng lần hạt Mân Côi. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết nhiều Tông thư nói về Mẹ, Ngài viết :” Sau việc đọc kinh Nhật Tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhứt, hữu hiệu nhứt mà gia đình Công Giáo được khuyến khích đọc “. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã luôn tin tưởng, cậy trông Mẹ. Ngài đã dâng triều đại Giáo Hoàng của Ngài cho Mẹ :” Totus Tuus “ . Toàn thân của Đức Giáo Hoàng là thuộc về Mẹ.

Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Nhân loại, Giáo Hội ca tụng Mẹ vì nhờ Mẹ mà Đấng cứu độ được sinh ra nơi trần thế này. Với Kinh mân Côi chúng ta đi từng biến cố trong lịch sử cứu rỗi: biến cố của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đời sống đức tin của chúng ta sẽ được đảm bảo nếu chúng ta bám chặt lấy Chúa và đi từng chặng đường cứu rỗi qua việc đọc kinh Mân Côi. Lần chuỗi là hình thức đạo đức bình dân nhất mà lại có hiệu quả cứu rỗi nhất bởi vì kinh Mân Côi ai cũng có thể đọc được, suy gẫm và chiêm ngắm Chúa Giêsu và Mẹ Maria cách dễ dàng. Chúng ta có thể lần chuỗi riêng, chung trong nhóm, trong gia đình hay trong Nhà thờ. Kinh Mân Côi là giây bền đỗ của mọi người.

Lời kinh Mân Côi đẹp biết bao vì khi chúng ta cất lên kinh Kính Mừng là chúng ta chào Mẹ và chúng ta cao rao tình yêu bao la của Mẹ. Lời kinh Mân Côi quả là tuyệt vời. Cha Cantalamessa viết :” Thật là khích lệ khi khám phá thấy rằng, ngay cả những nhà khai sáng phong trào Cải cách cũng đã nhìn nhận tước hiệu và đặc quyền làm Mẹ của Đức Maria, Mẹ theo nghĩa Mẹ của chúng ta và quyền làm mẹ của Đức Maria và Mẹ của ơn cứu độ. Chúng ta hãy nghe Luther trong một bài giảng Lễ Giáng Sinh : “ Niềm an ủi và lòng nhân hậu dư tràn của Thiên Chúa là thế này : khi tin, con người có thể tự vinh vang về niềm hạnh phúc quí giá đến nhường ấy, được Đức Maria thực sự làm Mẹ, Đức Kitô làm Anh và Thiên Chúa làm Cha của mình…Nếu bạn tin như thế , thì bây giờ bạn thực sự được nghỉ ngơi nơi lòng Đức Trinh Nữ Maria và bạn là con chí ái của Người “.

Nhiều vị thánh đã khuyên nhủ, thúc giục nhân loại, con người đọc kinh Mân Côi như thánh Đaminh, thánh Anphongsô, thánh Don Bosco và nhiều vị thánh khác.Do đó, là Kitô hữu chúng ta phải siêng năng lần chuỗi Mân Côi vì chuỗi Mân Côi là giây bền đỗ của mỗi người chúng ta.

Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phước lạ .
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử
.

Lạy Mẹ Maria xin dạy và xin giúp chúng con luôn yêu mến lần chuỗi Mân Côi.Xin giúp chúng con biết noi gương bắt chước Mẹ sống lời “ Xin Vâng “ làm theo ý Chúa.Xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm, quảng đại, hiến mình như Mẹ đã mau mắn hiến mình cho thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Amen.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:38 01/10/2019

48. Người khiêm tốn sẽ không hung dữ, bởi vì khiêm tốn dựa vào đức ái để cùng nhau vươn lên.

(Thánh Francis de Sales)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:44 01/10/2019
26. NHẶT PHỔ HÚC SỪNG

Ở Giang Lăng có một người tên là Cổ Vân, ngẫu nhiên nhặt được một quyển phổ của Gia Cát Lượng viết về quân sự. Bèn tự cho mình là nổi tiếng, nên nghĩ rằng mình có thể lãnh mười vạn binh cũng có thể đủ thôn tính thiên hạ, thì cũng không ngoa chút nào.

Cứ mỗi lần nói về việc binh với người khác, thì nhất định là phải xắn tay áo lên gọi lớn tiếng giống như đang cùng đối đầu với địch quân vậy. Có người đặt cho ông ta mỹ danh là “nhặt phổ húc sừng” (1).

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 26:

Nhặt được sách dụng binh thì khác với việc học cách dụng binh, hai việc khác xa nhau một trời một vực.

“Lượm nhặt” được những kiến thức Lời Chúa nơi các lớp bồi dưỡng đức tin thì khác với việc sống Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì có người sau khi tan ca thì đạp xe một mạch đến các lớp giáo lý nơi các họ đạo lớn để tham dự, nhưng về đến họ đạo của mình thì hết phê bình người này dốt giáo lý, đến phê bình người kia là không hiểu thánh kinh…

Học hỏi Lời Chúa là việc làm rất đáng khuyến khích, nhưng sống đời khiêm tốn và vui tươi như giáo lý mình đã học thì hạnh phúc hơn, bởi vì người hạnh phúc là người không hay xắn tay áo lên để la lối thóa mạ người khác, nhưng là người được mọi người yêu mến vì họ đã sống đúng những gì mà họ đã “nhặt được” nơi các lớp giáo lý bồi dưỡng đức tin của mình.

Học và hành khác nhau là ở đó vậy !

(1) Người coi sách đấu vật thi đấu vật với người đấu vật.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Xin thêm lòng tin cho chúng con
Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
07:49 01/10/2019
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 - Năm C

(Lc 17, 5-10)

Đức tin là chủ đề nổi bật trong phụng vụ Chúa Nhật tuần này. Đức tin được đề cập đến trong bài đọc I : "Người công chính sẽ sống nhờ trung tín " (Kb 1,4). Ý tưởng này được Thánh Phaolo lấy để khuyên môn đệ mình là Thimôthê : "Con hãy lấy những lời lành lẽ phải… làm mẫu mực trong đức tin… " (2Tm 1,13-17). Bài Tin Mừng bắt đầu với lời cầu xin của các tông đồ cùng Chúa Giêsu : "Xin thêm lòng tin cho chúng con! " (Lc 17, 5-6).

Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn. Người nói : "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng :'hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biến', nó liền vâng lời các con " (Lc 17,6). Chúng ta lấy câu này làm lời cầu xin của mình trong thế giới hôm nay. Chúa Giêsu có ngoa ngữ hay không khi nói đức tin của các môn đệ chỉ bằng hạt cải thôi, cũng có thể làm những điều con người không bao giờ nghĩ tới. Đúng như vậy, người đơn sơ, khiêm tốn nhưng có đức tin mạnh mẽ thì có thể chuyển núi dời non. Chẳng hạn như, một người cha hay một người mẹ, lúc phải đối mặt với những khó khăn nặng nề hay một ai đó đang lâm bệnh rất nặng mà có đức tin, thì những người đến thăm họ sẽ cảm nhận được sự thanh thản và bình an. Quả thật, những người ấy, nhờ đức tin của họ, đã không tự hào về những gì mình làm, nhưng, như Chúa Giêsu bảo họ: "Chúng con chỉ là những người tôi tớ. Chúng con chỉ làm những điều phải làm" (Lc 17,10).

Sống trong thời buổi ngày hôm nay, hỏi bao nhiêu người trong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để làm được những điều cả thể.

Đức Tin là gì ?

Đức tin không phải là một vấn đề phức tạp. Những hoàn cảnh vốn phức tạp, nhưng bản thân đức tin lại rất đơn giản. Tin chính là biết Thiên Chúa là ai, biết Ngài hằng yêu thương và muốn giúp đỡ chúng ta, Ngài sẽ thực hiện cho dù sự hiểu biết ấy trái ngược với những hiểu biết thông thường của chúng ta và biết rằng Ngài nghe lời chúng ta cầu nguyện.

Đức tin thì không giao động hoặc hoài nghi. Thiên Chúa biết chúng ta không hoàn hảo. Khi chúng ta có lòng tin, chúng ta sẽ vững vàng tin tưởng vào Chúa, không bị lay động bởi những tin tức xấu hoặc xu hướng xấu (x. Tv 112,7). Mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho (x.Rm 12,3). Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban cho món quà của Thần Khí là ơn đức tin (x. 1 Cr 12,9). Xin Thiên Chúa gia tăng lòng tin nơi chúng ta (x. Lc 17, 5).

Sự cần thiết của Đức Tin

Còn sống là còn cần đến đức tin. Đức tin để tin tưởng và đón nhận Lời được viết; để nghe những Lời từ Thiên Chúa ; để vâng phục và thi hành ý Chúa; tin vào Chúa trong những lúc ngặt nghèo; phó thác mọi sự trong tay Chúa; đương đầu với những thử thách và ngay cả những hoàn cảnh không thể. Tiên tri Khabacuc mô tả người có đức tin, cậy dựa vào Chúa, nhưng bị thử thách quá sức : "Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng" (Kb 1,2-3). Chúa bảo : "Người công chính sẽ sống nhờ trung tín" (Kb 1,5). Đức tin cho ta rất nhiều thứ.

Để hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời ta, chắc chắn chúng ta phải cần đến đức tin. Làm sao để đức tin của chúng ta lớn mạnh là việc chúng ta phải làm ngay hôm nay. Chúng ta sẽ không có được đức tin để chuẩn bị cho tương lai nếu chúng ta không bắt đầu luyện tập và củng cố thêm đức tin của chúng ta ngay từ bây giờ.

Tháng truyền giáo, tháng Mân Côi

Bước vào tháng Mười, tháng dành riêng cho việc truyền giáo, với chủ đề : "Được Rửa tội và được sai đi. Giáo Hội của Chúa Kitô với sứ mạng truyền giáo trên thế giới". Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành "Tháng ngoại thường về truyền giáo" này để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.

Chúng ta nhớ đến các nhà truyền giáo đang hăng say rao giảng và mang Tin Mừng đến cho người khác, họ đã phải vượt qua những khó khăn đủ loại, kể cả trao ban sự sống. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho họ ơn can đam, nâng đỡ họ, để họ can đảm, như thánh Phaolo nói với Timôthê : "Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa" (2Tm 1,8). Mỗi chúng ta cũng có thể làm chứng cho Chúa, với sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của niềm tin. Ðức tin của chúng ta nhỏ bé nhưng mạnh mẽ: với sức mạnh đó chúng ta làm chứng cho Chúa Giêsu, là những người Kitô hữu bằng đời sống, bằng chứng ta của chúng ta.

Và làm thế nào để chúng ta có được sức mạnh ấy? Chúng ta phải cầu xin. Lời cầu nguyện là hơi thở của đức tin. Lời cầu nguyện, đức tin, tình yêu liên kết với nhau vốn là điều không thể thiếu, lời cầu nguyện là thưa chuyện với Thiên Chúa.

Tháng 10 cũng là tháng Mân Côi, chúng ta hiệp ý cùng nhau cử hành hành vi đức tin với Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh Mân Côi, Mẹ chúng ta, đồng thời xin Mẹ là cô giáo của trường cầu nguyện, trường đức tin dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi để cầu cho thế giới được muôn muôn sự lành. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 
Nhắm mắt – Bịt tai
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
07:53 01/10/2019
Nhắm Mắt – Bịt Tai

Dụ ngôn người phú hộ và Lagiarô – Lc 16,19-31

Hỏi thiếu nhi: Có phải khi sống ở đời này gặp nhiều sự nay lành thì ngày sau phải khốn khổ đời đời không? Các em thưa lớn: Dạ không. Nếu khi sống ở đời này chúng ta chịu cực chịu khổ như kiếp ăn xin, ghẻ chốc đầy mình thì ngày sau được lên thiên đàng phải không? – Dạ không. Các em tiếp ngay, không chút do dự.

Quan niệm rằng cố gắng chịu cực chịu khổ ở đời này để mai sau được hưởng phúc thiên đàng đã từng là một trong những nguyên nhân khiến cho Karl Marx đề xuất chủ nghĩa cộng sản với mục đích là “xây dựng thiên đàng trần thế”. Và lịch sử cho thấy rằng đây là một chủ nghĩa đã mang lại thảm họa cho nhân loại thật khó lường. Vậy thì phải hiểu câu chuyện Chúa Giêsu kể về người phú hộ giàu có và anh Lagiarô nghèo khó như thế nào đây?

Chìa khóa để hiểu câu chuyện Chúa Giêsu kể là ở văn phong “dụ ngôn” (parabole). Người dùng thể văn dụ ngôn là thông qua một câu chuyện kể để rồi chỉ nhắm truyền đạt một điều gì đó và thường là ở câu kết của chuyện kể. Các chi tiết của câu chuyện có thể dẫn đến kết luận cách nào đó nhưng tự chúng không mang ý nghĩa riêng như trong thể văn phóng dụ hay ám dụ (allégorie).

Kết thúc câu chuyện kể về người phú hộ và anh Lagiarô thì chính Abraham đã nói với ông phú hộ rằng: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các ngôn sứ thì dù cho kẻ chết sống lại chúng cũng chẳng chịu nghe đâu” (Lc 16,31). “Chúng” đây chính là 5 anh em của ông phú hộ đang còn sống và cả chính ông ta khi còn sống trên cõi dương trần.

Vì sao họ không chịu nghe, đúng hơn là đã bịt tai trước những lẽ khôn ngoan và lời chân lý? Xin thưa trong nhiều lý do thì có lý do chủ yếu này: Vì họ đã bịt mắt trước nổi khổ của đồng loại. Cái tội của của ông phú hộ không phải là ông giàu có, vì biết đâu nhờ siêng năng làm ăn cách chân chính mà ông nên giàu có. Tội của ông cũng không phải do ông ngày ngày yến tiệc linh đình. Tội của ông chính là đã bịt mắt trước cảnh khổ của người đồng loại đó là Lagiarô đang nằm trước cổng nhà ông mà chẳng được ai đoái hoài.

Khi đã bịt mắt trước cảnh tình khốn khổ của tha nhân thì chúng ta cũng sẽ dễ bịt tai trước tiếng Chúa trong lương tâm của mình hay qua sự góp ý, lời khuyên bảo, sự chỉ dạy của những người khôn ngoan, các hiền nhân, các đấng bậc có trách nhiệm… Và ngược lại nếu hỏi vì sao nhiều vị lãnh đạo các quốc gia không biết tiếp thu những ý kiến vừa có tâm vừa khá đủ tầm của nhiều người hết tình vì vận mệnh quê hương và tương lai của dân tộc? Xin thưa rằng rất có thể là vì họ đã không thấy, không cảm, đúng hơn là đã bịt mắt trước nổi lầm than của đại đa số người dân. Còn trong giáo hội thì nếu có đó những mục tử chưa lắng nghe sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần khởi đi từ nhiều nguồn thì cũng rất có thể là vì các vị đã không “thấm mùi chiên”, nói theo ngôn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Khi đã “bịt mắt” thì chuyện “bịt tai” là hệ lụy kéo theo như tất yếu vậy.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
 
Thi ca suy niệm Chúa Nhật tuần 27C thường niên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
08:28 01/10/2019
Chúa Nhật 27 THƯỜNG NIÊN. C
(Luca 17: 5-10)
ĐỨC TIN


Đức tin ân sủng Chúa ban,
Nguồn thiêng cao quý, chứa chan ân tình.
Niềm tin hạt cải nhỏ xinh,
Cậy trông phó thác, an bình tâm can.
Ai mà tin tưởng nài van,
Ơn trên đổ xuống, tràn lan tâm hồn.
Khiến dâu bứng rễ ra cồn,
Nó liền vâng lệnh, trồng chôn biển này.
Lòng tin củng cố mỗi ngày,
Trau dồi học hỏi, sống ngay giữa đời.
Dụ ngôn đầy tớ gọi mời,
Là người vô dụng, một thời lao công.
Giúp cho ông chủ ruộng đồng,
Chu toàn bổn phận, kể công làm gì.
Nấu cơm dọn bữa thường khi,
Hoàn thành trách nhiệm, thực thi mọi điều.
Trả công sòng phẳng chi tiêu,
Chủ không mắc nợ, bao nhiêu việc nhà.
Các con đầy tớ thật thà,
Thi hành ý Chúa, mới là tôi trung.

Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con. Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm những việc phi thường. Các Tông đồ là những người được Chúa gọi, chọn, theo và nghe Chúa cùng chứng kiến nhiều phép lạ, thế mà các ngài vẫn cảm thấy thiếu niềm tin. Các ngài xin Chúa thêm đức tin để chu toàn sứ vụ.

Chúa ví đức tin như hạt cải bé nhỏ, nhưng qua thời gian nó sẽ phát triển và lớn mạnh. Đức tin chỉ bé bằng hạt cải cũng có thể bứng cây dâu đi trồng dưới biển. Đức tin là tin tưởng và phó thác hoàn toàn trong quyền năng của Chúa. Đức tin không do học hỏi hay kiến thức mà có được. Đức tin là ơn Chúa ban. Có biết bao người trí thức, có bằng cấp nhưng họ không có đức tin. Trong khi những người quê mùa, thất học, đơn sơ lại có đức tin mạnh mẽ. Nếu đòi mọi sự sáng tỏ rồi ta mới tin, thì không còn là đức tin nữa.

Chúng ta thừa hưởng kho tàng đức tin qua Giáo Hội. Chúng ta nhận lãnh đức tin trong Bí tích Rửa Tội. Đức tin cần được trau dồi, học hỏi và cần sống niềm tin. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Chúng ta không thể lãnh nhận đức tin rồi đem cất dấu nhưng cần được tỏa sáng ra bằng việc phục vụ.

Thánh Tôma Thiện mồ côi cha từ nhỏ. Thời Vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo và muốn tiêu diệt tận gốc người tin Chúa. Họ bắt người Công Giáo phải đạp ảnh thánh giá để tỏ dấu bỏ đạo. Năm 18 tuổi, Tôma bị bắt và bị đeo gông cùm giải về Quảng Trị và bị đánh đập tra tấn. Quan hứa rằng: Nếu chịu bỏ đạo sẽ được tha. Cậu trả lời: Đạo dậy tôi thờ kính Thiên Chúa là đạo thật, tôi không thể bỏ đạo. Quan lại nói: Có lệnh Vua, nếu không bỏ đạo, sẽ bị chém đầu. Cậu trả lời: Tôi sẵn sàng chịu chém đầu chứ không bỏ đạo. Dù quan có hứa đủ điều và dạy cách giả vờ chối đạo, cậu kiên trung không sợ chết để giữ vững đức tin và lãnh triều thiên tử đạo.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Có đức tin vào Thiên Chúa chúng ta sẽ vững tâm và sống an bình. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và bình tâm trước mọi sự thử thách. Có người đến gặp bà hy vọng học được bí quyết để sống hạnh phúc. Ông hỏi bà: Thưa bà, có phải bà có đức tin lớn lao. Bà trả lời: Ô, không đâu, tôi không có đức tin lớn lao mà tôi có một đức tin nhỏ bé đặt vào Thiên Chúa lớn lao.

THỨ HAI, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 10, 25-37).
LUẬT YÊU THƯƠNG


Một người thông luật hỏi rằng:
Làm sao được sống vĩnh hằng, Thầy ơi.
Ghi trong sách luật bao lời,
Trả lời thông suốt, một thời trông mong.
Mến yêu Thiên Chúa hết lòng,
Linh hồn hết sức, theo dòng thời gian.
Thứ hai yêu mến tỏa lan,
Bà con bạn hữu, chứa chan ân tình.
Điều răn ghi nhớ hết mình,
Chúa thương ưu ái, dủ tình ủi an.
Yêu người mến Chúa liên can,
Dụ ngôn Chúa dậy, sẻ san thực hành.
Một người bị đánh tan tành,
Kẻ thương giúp đỡ, thi hành ái nhân.
Yêu người đã dám xả thân,
Hy sinh nâng đỡ, khi cần cứu nguy.

THỨ BA, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 10, 38-42).
LẮNG NGHE


Đi vào làng nhỏ ghé thăm,
Hai người phụ nữ, chuyên chăm việc nhà.
Mar-tha vồn vã mặn mà,
Tâm tình hiếu khách, thật thà đáng khen.
Dọn nhà dọn cửa chưng đèn,
Nấu cơm dọn bữa, sang hèn quý thay.
Ma-ry tiếp Chúa nơi này,
Ngồi nghe Chúa giảng, cả ngày bên chân.
Chọn phần tốt nhất tinh thần,
Lắng nghe lời Chúa, ân cần xét suy.
Mar-tha bận bịu phụ tùy,
Long đong lận đận, phát huy bên ngoài.
Tay chân lao động mệt nhoài,
Lắng lo nhiều chuyện, cũng hoài công thôi.
Cuộc đời như áng mây trôi,
Ma-ry nghe Chúa, chọn ngồi ngay bên.

THỨ TƯ, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 1-4).
CẦU NGUYỆN


Chúa lên cầu nguyện sườn đồi,
Cha Con kết hợp, một hồi đã lâu.
Môn đồ đứng đợi vội tâu,
Xin Thầy chỉ dậy, lời cầu dâng Cha.
Tình yêu Thiên Chúa bao la,
Nguyện cầu dâng tiến, ngợi ca danh Người.
Lạy Cha, Đấng ngự trên trời,
Nguyện danh cả sáng, cao vời thiên cung.
Nước Cha trị đến tôn sùng,
Ban cho lương thực, đủ dùng thế nhân.
Xin thương tha nợ gian trần,
Chúng con đền đáp, cũng cần tha nhau.
Đừng xa cám dỗ, tránh mau,
Không rơi sự dữ, thương đau chất chồng.
Sáng danh Thượng Đế Hóa Công,
Con người thụ tạo, ngước trông kính thờ.

THỨ NĂM, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 5-13).
CẦU XIN


Đêm khuya bạn hữu đến gần,
Trước nhà gõ cửa, tôi cần giúp ngay.
Bạn tôi ghé lại đêm nay,
Không gì thiết đãi, tới vay bạn hiền.
Anh ơi, trời tối đừng phiền,
Con tôi đã ngủ, mặt tiền cài then.
Tôi không chỗi dậy thắp đèn,
Cho vay chiếc bánh, bon chen quấy rầy.
Kiên tâm năn nỉ nơi đây,
Chủ nhà nao núng, sợ gây bất bình.
Ông ta không dậy vì tình,
Nhưng vì quấy rối, bực mình cho vay.
Ai xin thì được có ngay,
Ai tìm thì gặp, cơ may trong đời.
Chúa Cha, Đấng ngự trên trời,
Rộng ban ân phúc, cho người cầu xin.

THỨ SÁU, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 15-26).
ĐOÀN KẾT


Đám đông dân chúng xầm xì:
Thầy nhờ tướng quỷ, mà đì quỉ con.
Nghi ngờ quyền phép Chúa Con,
Họ đòi dấu lạ, lại còn sinh nghi.
Chúa rành biết ý muốn gì,
Trong lòng nghi vấn, chỉ vì tà tâm.
Nước nào chia rẽ khơi mầm,
Cửa nhà sụp đổ, nguy lầm phá tan.
Bê-el-giê-bút Sa-tan,
Nước nào chia rẽ, hoang tàn ngay thôi.
Uy quyền trừ quỷ tinh khôi,
Ngón tay Thiên Chúa, trừ nôi quỷ thần.
Ai không thu quén góp phần,
Là người phân tán, xa dần lối ngay.
Chúa thương cứu giúp đời này,
Xua trừ ma quỷ, bàn tay Chúa Trời.

THỨ BẢY, TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 27-28).
THỰC HÀNH


Ba năm giảng dậy truyền rao,
Nước Trời mạc khải, biết bao sự lành.
Ngôi Lời Thiên Chúa ẩn danh,
Hạ thân giáng thế, thi hành lệnh Cha.
Nhiệm mầu ẩn dấu bao la,
Quyền năng tuyệt đối, hải hà hồng ân.
Ơn ban cứu độ nhân trần,
Mở lòng mở trí, tinh thần phát huy.
Đám đông dân chúng so bì,
Phúc thay lòng dạ, đại bi sinh Thầy.
Dưỡng nuôi chăm sóc đong đầy,
Đền ơn đáp nghĩa, dựng xây Nước Trời.
Yêu thương tình Chúa cao vời.
Mở lòng đón nhận, mọi người thế gian.
Lắng nghe Lời Chúa trao ban,
Thực hành tuân giữ, vạn ngàn phúc vinh.
 
Chia sẻ với em: KINH MÂN CÔI
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:06 01/10/2019
CHIA SẺ VỚI EM: KINH MÂN CÔI

A. KINH MÂN CÔI LÀ LỜI TÂM TÌNH CỦA MẸ.

Khi hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, Đức Mẹ Ma-ri-a đã bày tỏ nổi lòng yêu mến nhân loại và đau khổ trước những tội lỗi mà nhân loại đang xúc phạm đến Thiên Chúa. Và chính Mẹ -chứ không ai khác- hiểu rất rõ sự công bằng của Thiên Chúa, sự công bằng này luôn nghiêng về phía yêu thương nhân loại mà Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ loài người, thế nhưng Thiên Chúa yêu thương càng nhiều, thì nhân loại càng gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Vì vậy, Đức Mẹ Ma-ri-a chính là nơi để chúng ta –nhân loại tội lỗi- trú ẩn trước cơn thịnh nộ bởi sự công bằng của Thiên Chúa.

Nỗi lòng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trãi ra khi nói với em bé Lucia: “Các con hãy cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi và hãy tôn sùng trái tim Mẹ”.

Chính những lời nói phát xuất từ miệng của người mẹ cao cả này mà Giáo Hội tin tưởng rằng: sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa không còn bao lâu nữa, nên ngày càng thôi thúc chúng ta hãy thực hiện gấp ba mệnh lệnh và cũng là ba lời tâm tình của Đức Mẹ Ma-ri-a:

Lời tâm tình thứ nhất: Hãy cải thiện đời sống.

Không một người mẹ nào hãnh diện với hàng xóm khi có đứa con đi bụi đời, thành tích bất hảo đếm không nổi; không có người mẹ nào nở được nụ cười, khi con cái mình ngày càng hư đốn không nghe lời dạy bảo.

Đức Mẹ Ma-ri-a là mẹ của chúng ta, Mẹ không thể nào nhắm mắt làm ngơ khi sự kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, mà nhân loại vẫn cứ ngày càng sống trong đêm tối của tội lỗi; Mẹ cũng không thể một mình giúp nhân loại nếu nhân loại chúng ta không cộng tác với Mẹ, bởi vì nhân loại ngày càng lợi dụng tình yêu của Thiên Chúa ban cho để phủ nhận Ngài, lợi dụng sự tự do để làm tất cả những gì mà tính ích kỷ của con người đòi hỏi, kể cả những công việc mà ngay chính lương tâm của họ cũng lên án như giết người, phá thai và bốc lột người nghèo.v.v...

Mẹ, như người mẹ đau khổ vì những đứa con là nhân loại tội lỗi, Mẹ đang nhờ những em nhỏ bé đơn sơ ở làng Fatima để nhắc nhở nhân loại: hãy cải thiện đời sống.

Cải thiện đời sống tức là thay đổi cuộc sống của mình từ xấu qua tốt, từ gian ác qua thánh thiện, từ gian dối qua thật thà, từ ghen ghét qua yêu thương, từ ích kỷ qua quảng đại, tắt một lời là thay đổi cách sống của mình để ngày càng trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn, đó chính là điều mà Mẹ muốn mỗi người trong chúng ta phải thực hiện trước khi cơn thịnh nộ vì sự công bằng của Thiên Chúa đến.

Lời tâm tình yêu thương chứa đựng sự van nài của Đức Mẹ Ma-ri-a đến nay vẫn còn vang dội trên khắp thế giới. Chỉ có thay đổi cuộc sống của mình thì hòa bình sẽ đến, và chỉ có thay đổi cuộc sống của mình đề sống Lời Chúa thì mới có thể kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, và như thế cũng có nghĩa là Nước Trời thật sự đang hiện diện ở trần gian này.

Lời tâm tình thứ hai: Yêu mến Trái Tim Mẹ.

Đức Chúa Giê-su khi còn là bào thai trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a, thì mỗi nhịp đập tim của Mẹ là một nhịp sống của Ngài, mỗi một hơi thở của Mẹ là một động lực thúc đẩy Ngài từng giây phút lớn lên. Mẹ đã chia sẻ phần máu thịt của mình để làm nên hình hài của Đức Chúa Giê-su, và hơn ai hết, Đức Chúa Giê-su hiểu rất rõ, cảm nghiệm sâu sắc tình mẫu tử của Đức Mẹ Ma-ri-a đối với Ngài và với nhân loại. Tình mẫu tử này đã được thể hiện trên đồi Can-vê trước giờ hấp hối, Phúc Âm của thánh Gioan thuật lại rằng:”Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh. Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”(Ga 19, 26-27).

Yêu mến Mẫu Tâm Đức Mẹ Ma-ri-a là chúng ta yêu mến Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su, cả hai trái tim này đều vì nhân loại mà chịu đau khổ.

Trái tim Đức Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu để giọt máu yêu thương nhân loại cuối cùng trong tim chảy ra cho hết, để nước nơi cạnh sườn Ngài chảy ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Một trái tim của Đức Mẹ Ma-ri-a bị bảy lưỡi dao sắc đâm thâu, khiến mẹ trở nên người mẹ đồng công cứu chuộc nhân loại với con của mình là Đức Chúa Giê-su, hai trái tim đồng nhịp yêu thương vì nhân loại tội lỗi bất trung.

Yêu mến Trái Tim Mẹ là bởi vì trái tim ấy rất yêu mến loài người, đã hy sinh tất cả vì loài người, hy sinh ngay cả người con độc nhất để cứu chuộc loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để xoa dịu nỗii đau khổ của Thiên Chúa và của Mẹ vẫn còn đang chịu hằng ngày vì tội lỗi của loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để chúng ta biết yêu mến Đức Chúa Giê-su hơn khi hiệp thông với những đau khổ của Ngài phải chịu vì chúng ta.Một người mẹ chịu quá nhiều đau khổ thì không than trách với ai cả, mà chỉ thầm thỉ với những đứa con nhỏ bé đơn sơ của mình mà thôi. Đức Mẹ Ma-ri-a như người mẹ hiền đau khổ vì những đứa con ngỗ nghịch đã bày tỏ tâm tình với ba trẻ ở làng Fatima, bằng cách cho ba em biết những bí mật của Giáo Hội mà vị đại diện Đức Chúa Giê-su ở trần gian là Đức Giáo Hoàng phải chịu đau khổ, và nhân loại phải chịu vì những tai ươn do chính tội lỗi của mình mang đến: chiến tranh, ôn dịch, đói khát.v.v...

Yêu mến Trái Tim Mẹ, không phải chỉ là đọc kinh sáng tối, hay là đọc kinh Mân Côi cho thật nhiều mà không muốn thực hành lời Mẹ dạy là ăn ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, nhưng yêu mến Trái Tim Mẹ chính là đem con tim của mình đi yêu thương và chia sẻ những đau khổ của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a nơi những người khác, để đền bù tội lỗi của mình và để kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Lời tâm tình thứ ba: Siêng năng lần hạt Mân Côi.

Không có vị thánh nào mà không yêu mến chuỗi Mân Côi, cũng có nghĩa là nói: không có vị thánh nào mà không yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a, chính lòng yêu mến Đức Mẹ mà các thánh siêng năng lần hạt Mân Côi, bởi vì các ngài biết rằng, chuỗi Mân Côi là phương thế hữu hiệu mà đơn sơ nhất để được đến gần với Thiên Chúa, bởi vì nơi kinh Mân Côi này, các ngài nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài không những nhờ công nghiệp của Đức Chúa Giê-su, mà còn nhờ sự vui lòng cộng tác vào ơn cứu độ ấy của Đức Mẹ Ma-ri-a.

Chuỗi Mân Côi, như các nhà thần học nói, chính là sách Phúc Âm rút gọn lại những mốc chính của cuộc đời Đức Chúa Giê-su khi ở trần gian này, mà Giáo Hội –qua mọi thời đại- đã suy tư chiêm ngắm và chia làm hai mươi “mốc” quan trọng: từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, cho đến khi Đức Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác. Hai mươi mốc lịch sử này, chúng ta gọi là hai mươi mầu nhiệm kinh Mân Côi, và như là hai mươi đóa hoa hồng mà Giáo Hội kính dâng tặng cho Đức Mẹ Ma-ri-a, để rồi qua kinh Mân Côi này, mà Thiên Chúa ban xuống cho chúng ta rất nhiều ơn trọng qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ.

Lý do mà Đức Mẹ Ma-ri-a dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi, không gì khác hơn là Mẹ muốn con cái của Mẹ suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho nhân loại. Bởi vì, qua kinh Mân Côi này, mà người quyền quý cũng như người bình dân, người có học thức cũng như người không có học thức, đều có thể suy tư và cảm nghiệm, rồi từ đó mà diễn tả lại cuộc sống của Đức Chúa Giê-su qua cuộc sống của mình.

Có rất nhiều người được ơn trở lại là nhờ siêng năng đọc kinh Mân Côi, có rất nhiều người được ơn chết lành là nhờ đọc và suy ngắm kinh Mân Côi, và nhờ kinh Mân Côi mà các linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ được ơn bền đỗ trong ơn gọi của mình.

Đức Mẹ Ma-ri-a đã đem hết tình mẫu tử để dạy và khuyên bảo chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, không phải vì Mẹ muốn “chơi nổi” qua mặt Chúa như có người lầm tưởng, nhưng chính nơi chuỗi Mân Côi này, Mẹ dạy chúng ta biết ca ngợi Thiên Chúa bằng kinh Sáng Danh; biết dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Cha trên trời, biết ngợi khen hồng phúc của Mẹ và kêu cầu Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử bằng kinh Kính Mừng, và nhất là biết suy ngắm các mầu nhiệm cứu chuộc loài người của Đức Chúa Giê-su.

B. MẦU NHIỆM KINH MÂN CÔI

Những lần hiện ra ở Fatima cũng như ở Mễ Du, Đức Mẹ Ma-ri-a thường thiết tha kêu gọi nhân loại: hãy hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Chỉ cần con người có tâm tình hoán cải, tức là cải thiện đời sống của mình, thì Mẹ sẽ ban cho họ phương tiện để thực hành sự hoán cải của mình, đó là kinh Mân Côi, còn gọi là chuỗi Mân Côi.

Bất cứ thời đại nào, từ khi Đức Mẹ Ma-ri-a hiện ra và dạy thánh Đa Minh truyền bá kinh Mân Côi trong Giáo Hội, thì các Đức Giáo Hoàng đã tích cực ủng hộ truyền bá và siêng năng lần hạt Mân Côi, coi đó như phương tiện để người tín hữu được đến gần Thiên Chúa hơn. Đức Thánh Cha Gregory XII cũng cho rằng: "Kinh Mân Côi được chính Thánh Đa-minh thiết lập, để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và để cầu xin Rất Thánh Trinh Nữ bầu cử”.

Trong thông diệp “Trong tháng năm (Mense Maio) Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Kinh Mân Côi rất đẹp lòng Đức Mẹ và được các giáo hoàng khuyến khích”, và thánh Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II trong bài giảng ngày 13.5.1982 tại Fatima đã nói: "Lời kêu gọi thống hối bao giờ cũng được gắn liền với cầu nguyện. Hợp với truyền thống của bao thế kỷ, Đức Mẹ của sứ điệp này đã đề cập đến Kinh Mân Côi, một kinh có thể được khẳng định là Kinh của Đức Mẹ Ma-ri-a, một kinh mà Mẹ đặc biệt cảm thấy gắn liền với chúng ta."

Ngoại trừ thánh lễ ra, thì kinh Mân Côi chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người Ki-tô hữu, và thực tế đã chứng minh được điều ấy, khi mà trong các chủng viện, các dòng tu và các tu hội, cũng như các đoàn thể và cá nhân tín hữu đều nô nức yêu mến đọc kinh Mân Côi trong các đoàn thể của mình, và đặc biệt các gia đình công giáo đều không thể thiếu vắng kinh Mân Côi trong gia đình của mình. Kinh Mân Côi mau chóng được các chủ chăn và con cái trong Giáo Hội đón nhận, là vì nó như cái phao cứu hộ cứu được rất nhiều linh hồn khỏi chết đời đời trong hỏa ngục, nó làm cho nhiều người trở về nẻo chính đàng ngay, và nhờ kinh Mân Côi, mà Thiên Chúa ban thêm đức tin cho những người yếu đuối được vững mạnh trong đường trọn lành...

Khi đọc và suy niệm kinh Mân Côi với tất cả tâm hồn, thì cuộc đời của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a khi sống ở trần gian như đoạn phim mầu nhiệm sống động quay lại trước mắt chúng ta, và nhờ đó mà đức tin của chúng ta được tăng trưởng, lòng yêu mến của chúng ta được nhân rộng, và lòng cậy trông của chúng ta được củng cố thêm lên.

--------------------------

NĂM SỰ VUI:

Chiếc phao cứu độ linh hồn.

1. Thiên Thần truyền tin.

Năm sự Vui của kinh Mân Côi nhắc nhở chúng ta suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi Ngài tuyên án con rắn – hình ảnh của ma quỷ và sự dữ- rằng: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn gót nó” (st 3, 14) Và lời hứa này đã thực hiện nơi Đức Mẹ Ma-ri-a –người nữ sẽ đạp đầu con rắn- bởi lòng khiêm tốn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa trong ngày Mẹ được sứ thần truyền tin.

Năm sự Vui của kinh Mân Côi được bắt đầu từ mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a bởi hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ, hai tiếng Xin Vâng này đã làm cho đất trời bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cứu độ, ân sủng và hòa bình mà muôn dân đang trông đợi, và bởi lòng khiêm tốn và luôn đặt mình vào trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nên Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành kho tàng ân sủng của Thiên Chúa –qua Đức Chúa Giê-su- để ban phát cho tất cả những ai nhờ Mẹ để đến với Đức Chúa Giê-su là nguồn mọi ân sủng.

Bởi tiếng Xin Vâng này, mà các thánh trong ngục tổ tông vui mừng, cửa thiên đàng rộng mở và tâm hồn những người công chính như nở hoa, bởi vì ngày cứu độ đã đến rồi.

Bởi tiếng Xin Vâng này mà Đức Mẹ Ma-ri-a được chọn làm Mẹ của Thiên Chúa, như lời của thánh công đồng Va-ti-ca-nô II đã dạy rằng: “Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn cùng thân xác, và đem Sự Sống đến cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế.” ( CĐ Vat. II: “Hiến chế tín lý về Giáo Hội” chương 8, số 53.

)

Và với ưu thế là mẹ Thiên Chúa ấy, mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã không đành lòng nhìn thấy Máu Thánh của Con mình đổ ra vô ích, Mẹ không đành lòng nhìn thấy những đứa con ngày càng đi xuống vực thẳm tội lỗi, Mẹ cũng đã không đành lòng khi thấy thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, nên Mẹ đã ra tay can thiệp với tất cả uy quyền của người mẹ trước tòa Thiên Chúa, để xin Ngài tha tội cho nhân loại. Thánh I-rê-nê đã nói rất chí lý: “Chính Ngài (Đức Mẹ Ma-ri-a), nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”.

“Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng”, sự khiêm nhượng này phải như khiêm nhượng của Đức Mẹ Ma-ri-a, tức là biết nhận ra thánh ý của Thiên Chúa cách minh bạch, và rồi mau mắn đáp trả và phó thác tương lai của mình trong tay Ngài. Con người ta thường có khuynh hướng ưa làm nổi mình dù biết rằng mình chẳng tài cán bao nhiêu, và thích khiêm nhượng kiểu “ống điếu” để người khác chiều chuộng, mời mọc mới có giá trị.v.v..

Như vậy, tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành chiếc phao cứu hộ của cả nhân loại, và khi chúng ta suy niệm đến cái mốc lịch sử này, thì phải nhận ra giá trị vô giá nơi hai tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a.

2. Đi thăm bà Ê-li-sa-bét.

Ơn cứu độ này, niềm vui này cần phải được chia sẻ với mọi người, trước hết là những người trong bà con thân thuộc, rồi sau đó đến với người khác.

Đức Mẹ Ma-ri-a là một phụ nữ nhạy cảm, một người có tâm hồn đang tràn ngập niềm vui thiên quốc và lòng yêu mến tha nhân, cho nên Mẹ đã không quản ngại đường sá xa xôi để đi đến phục vụ cho người chị em của mình là bà Ê-li-sa-bét, bà cũng đang mang thai được sáu tháng (Lc 1, 42),đây là một hành động của người đang có niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui này không thể ấp ủ hưởng thụ một mình, nhưng là cho đi, đem tới và tỏa rộng để chia sẻ với tha nhân, nó như ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi chứ không chiếu sáng một mình ai, và đó chính là điểm bắt đầu của niềm vui cứu độ.

Trước mắt chúng ta là cảnh bà Ê-li-sa-bét ngạc nhiên và vui mừng tột cùng khi Đức Mẹ Ma-ri-a đến viếng thăm, bà ôm chầm lấy người em gái họ dễ thương và như có một sự thôi thúc đặc biệt tự trong tâm, bà đã thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 26a), sự thôi thúc ấy chính là Đức Chúa Thánh Thần đã dùng môi miệng của bà Ê-lia-sa-bét để ca ngợi hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ Ma-ri-a. Nhưng quan trọng hơn cả lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét, là lời chào của Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm cho thai nhi sáu tháng tuổi trong bụng bà Ê-li-sa-bét cảm nghiệm được ơn cứu độ của Thiên Chúa đã ưu ái đến mình nên mừng vui nhảy lên sung sướng, và hiệu quả của lời chào này là thai nhi –Gioan Tẩy Giả- được diễm phúc đón mừng Chúa Cứu Thế khi còn trong bụng mẹ.

Cuộc thăm viếng lịch sử này của Đức Mẹ Ma-ri-a là chiếc phao cứu độ cho thánh Gioan Tẩy Giả, là đem niềm vui và hạnh phúc đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Cuộc thăm viếng này, có thể nói là Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm người tiên phong trong việc loan báo tin mừng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.

Ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, chỉ có điều là có người được đón nhận trước và có người đón nhận sau, nhưng tất cả những ai đã diễm phúc đón nhận ơn cứu độ này, thì noi gương của Đức Mẹ Ma-ri-a ra đi, đến với và đến cùng tha nhân, để giới thiệu cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa ngay chính trong cuộc sống của mình.

3. Sinh hạ Đức Chúa Giê-su.

Ngày tháng trông đợi Đấng Thiên Sai đến của người Do Thái thật dài đăng đẳng, biết bao nhiêu người đã qua đi khi trong lòng họ mong mỏi được nhìn thấy Đấng Cứu Thế, nhưng dù không đợi chờ được thì họ vẫn cảm thấy thỏa lòng vì lời hứa ấy vẫn luôn được các tiên tri loan báo qua các thời đại, nhất là tiên tri I-sai-a, vị tiên tri khoảng hơn sáu trăm năm trước Đức Chúa Giê-su sinh ra đã loan báo niềm hy vọng và ngày cứu rỗi đến:

- “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1).

- Vì một trẻ thơ đã chào đời đã cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 0, 5).

- Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa...”. (Is 11, 1-9)

- “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45, 8).

- Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” (Is 7, 14b)


Và cuộc đợi chờ nào cũng sẽ có hồi kết thúc, Đức Chúa Giê-su đã được Đức Mẹ Ma-ri-a sinh hạ trong hang lừa ở thành Bê-lem, làng Na-da-rét, xứ Pa-lét-tin.

Mầu nhiệm nhập thế này là cả một công trình sáng tạo của yêu thương, mà không có một kiến trúc sư nào trên thế gian thiết kế được, chỉ có Thiên Chúa –Đấng là tình yêu- mới làm được như thế: hy sinh Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại.

Nơi hang lừa Bê-lem, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người, một hài nhi nhỏ bé nghèo nàn, đang được bọc trong khăn (bởi vì không có áo), đang chia sẻ thân phận nghèo khó với những con người nghèo khó, cả tình yêu trời đất đang ở đó, Đấng cứu độ nhân loại đang ở đó nhưng nào có ai hay ! Đức Mẹ Ma-ri-a hiểu thấu sự thiếu thốn này như là một sự chia sẻ của con mình với nhân loại, và như thế càng làm nổi bật tính “đồng công” cứu chuộc nơi Mẹ hơn.

Nhưng sự nghèo khó thiếu thốn của Mẹ không làm chùn bước các mục đồng đến thờ lạy, không làm cho các nhà bác học xa xôi đến bái thờ Đấng Cứu Thế mới sinh ra...

Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta đọc kinh Mân Côi và suy ngắm mầu nhiệm Nhập Thế này, không phải để chúng ta cảm thấy tội nghiệp cho Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ, nhưng là để chúng ta thấy được tình yêu vô biên của Cha trên trời –qua kinh Mân Côi- và nhận ra rằng, Đức Chúa Giê-su chính là Đấng cứu độ nhân loại, là chiếc phao cứu rỗi các linh hồn đang chới với giữa biển trần gian...

4. Dâng Đức Chúa Giê-su trong đền thánh.

Một cái mốc quan trọng nữa trong mầu nhiệm Nhập Thế của kinh Mân Côi –năm sự Vui- đó là suy ngắm đến Đức Chúa Giê-su khi mang thân phận con người như chúng ta, chịu lệ thuộc vào lề luật của con người như tất cả mọi người khác, đó là luật dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa như luật Mô-sê chỉ định: “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa.” (Lc 2, 23)

Đức Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se là những người công chính thánh thiện, luôn là mẫu gương tuân giữ lề luật của cha ông mà dâng con trai đầu lòng của mình cho Thiên Chúa, dù nghèo, nhưng không vì thế mà chuẩn chước cho mình khỏi tuân giữ lề luật, bởi vì các ngài biết rằng, tuân giữ lề luật là thực hành ý Chúa truyền dạy.

Trong ngày dâng Chúa trong đền thánh này, mọi việc liên quan đến Đức Chúa Giê-su mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã biết, thì giờ đây được bày tỏ công khai với mọi người qua lời tiên báo của một người công chính và sùng đạo là Si-mê-on:

“Muôn lây Chúa, giờ đây

Theo lời Ngài đã hứa,

Xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

Là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài.” (Lc 2, 29-32)


Ông già Si-mê-on là đại biểu cho những người Do Thái công chính mong đợi Đấng Cứu Thế, sự mong đợi này Thiên Chúa đã tỏ mình đặc biệt cho ông thấy nhãn tiền Hài Nhi mà ông đang ẳm trên tay chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm, và Chúa Thánh Thần đã qua miệng ông đã nói với Đức Mẹ Ma-ri-a rằng: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà...” (Lc 2, 34)

Dâng con cho Thiên Chúa, thay vì nhận được những lời chúc phúc thì lại nghe những lời tiên báo về tương lai của con mình và chính mình, người mẹ nào lại không buồn bả lo âu, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng thế, Mẹ lo âu buồn bả vì lời tiên đoán thì ít, mà vì tội lỗi của loài người thì nhiều, và lời tiên báo này hiệu nghiệm khi Mẹ đứng dưới chân thập giá để cùng đồng công cứu chuộc nhân loại với con mình khi một lưỡi đòng đâm thâu cạnh nương long Đức Chúa Giê-su, thì đồng thời cũng có một lưỡi gươm sắc bén thiêng liêng đâm thâu qua Trái Tim cực thánh của Mẹ...

Lần hiện ra ở Fatima với ba trẻ, Đức Mẹ Ma-ri-a đã cho các em thấy được sự khốn nạn của hỏa ngục và những linh hồn bị giam cầm trong đó, và Mẹ không muốn một đứa con nào của Mẹ đã được Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su đổ ra để rửa sạch, tha thứ và ban ơn phải vào trong hỏa ngục chịu hình phạt đời đời nữa, nên Mẹ đã nhiều lần và nhiều cách hiện ra nhắn nhủ nhắc nhở và dạy bảo hãy ăn năn đền tội và cải thiện đời sống. Đời sống mà ngay từ khi đón nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta đã trở nên con của Thiên Chúa, được trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần và đương nhiên là đón nhận chính cuộc sống của Đức Chúa Giê-su vào trong cuộc sống đời thường của mình.

Dâng Đức Chúa Giê-su vào đền thánh, một cái mốc lịch sử của ơn cứu độ, khi suy niệm điều này, Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta hãy dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa, để Ngài làm chủ chiếm trọn lấy linh hồn và thân xác của mình, và chỉ có những ai thành tâm dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa thì như người trôi nổi phiêu bạt long đong trên biển cả nắm được cái phao cứu hộ, họ sẽ được sống và sống đời đời với Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Đức Mẹ Ma-ri-a, các thiên thần và các thánh nam nữ.

5. Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ.

Em thân mến,

Nếu chẳng may em đánh mất một chiếc nhẫn kim cương quý giá mà tìm lại được, thì niềm vui của em sẽ không bút nào tả xiết; nhưng nếu chẳng may em mất đi người thân yêu, thì nỗi buồn sẽ tăng gấp nhiều lần, bởi vì em không bao giờ được gặp lại người thân yêu đã ra đi nữa.

Đức Chúa Giê-su là con duy nhất của Đức Mẹ Ma-ri-a, là cả kho tàng yêu thương và hạnh phúc của Mẹ và thánh cả Giu-se, lạc mất Đức Chúa Giê-su cũng có nghĩa là Mẹ đã mất cả hạnh phúc của cả đời mình, Mẹ buồn lắm và cùng với thánh cả Giu-se tất tả tìm kiếm khắp nơi như lời tường thuật của thánh sử Lu-ca: “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết, ông bà cứ tưởng cậu là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người thân thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.” (Lc 2, 43-45)

Lòng dạ của người mẹ khi lạc mất con thì như có lửa đốt cháy, nóng bừng và rối bời bời, bà chạy khắp nơi hỏi han người này người nọ để coi có ai biết tung tích con mình không ? Đức Mẹ Ma-ri-a cũng vậy, ba ngày tìm kiếm con là ba ngày Mẹ như sống trên lửa cho đến khi tìm gặp lại Đức Chúa Giê-su ở trong đền thờ ngồi giữa các thầy thông thái mà trò chuyện, và ai nghe Ngài nói cũng đều thán phục trí thông minh và những lời đối đáp của Ngài (Lc 2, 46-48). Không có niềm vui nào sánh bằng khi tìm lại được con mình sau ba ngày lạc mất, Đức Mẹ Ma-ri-a vừa vui mừng vùa suy nghĩ những việc vừa xảy ra để chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa, để chuẩn bị chia sẻ và đón chịu những nổi buồn lớn hơn sau này, khi Đức Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.

Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta suy niệm về việc tìm lại được Đức Chúa Giê-su trong đền thánh của Mẹ và của thánh cả Giu-se, là để chúng ta nhìn lại bản thân mình, đã bao lần chúng ta lạc mất Đức Chúa Giê-su, đã bao lần chúng ta lạc đường chính lộ, đã bao lần chúng ta đã vì sự thế phù vân mà lạc mất đường về với tình yêu của Cha trên trời ?

Mẹ mời gọi mọi người chúng ta hãy trở về nẻo chính đường ngay, tức là cải thiện cách sống của mình cho phù hợp lời dạy của Đức Chúa Giê-su. Đã có nhiều linh hồn cố chấp trước lời mời gọi thiết tha của Mẹ nên đã bị hình phạt hỏa ngục, đã có nhiều người biết mình lạc mất phương hướng trong đời sống tu đức, nhưng vẫn cố chấp kiêu ngạo không sửa đổi, nên đã bị án phạt đời đời trong hỏa ngục như các linh hồn mà ba trẻ ở Fatima đã được Đức Mẹ Ma-ri-a cho thấy.

Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ là một niềm vui và là một bài học cho chúng ta, Đức Mẹ Ma-ri-a đã lo âu khi Đức Chúa Giê-su lạc mất thế nào, thì Mẹ cũng lo âu khi chúng ta lạc mất Ngài như vậy, đó là niềm hy vọng và là niềm vui của những người con tội lỗi là chúng ta. Mau mắn trở về với Chúa và từ bỏ con đường lầm lạc để trở lại con đường mà Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a đã đi qua, đó là con đường hẹp, đường lên núi Sọ, đường đưa đến hạnh phúc đời đời.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

---------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:27 01/10/2019
Bước vào tháng Mười, tháng Mân Côi, hình ảnh Đức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.

1. Đức Maria đầy ơn phúc

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Mẹ có phúc vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ có phúc vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Chúa Giêsu là Quả Phúc lòng Mẹ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại lời mừng chúc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Xem video và nghe bài giảng

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Mẹ tìm mọi phương thế để chúng ta được hạnh phúc. Một trong những phương thế ấy là hiện ra dạy chúng ta đọc Kinh Kính Mừng, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn hầu đạt tới cõi trời vinh phúc.

Truyền khẩu rằng, trước thế kỷ XII, chưa có Kinh Kính Mừng. Các tín hữu với lòng mến Mẹ đã hái hoa hồng kết thành triều thiên dâng kính Mẹ, miệng ngâm nga mừng hát Thánh Thi. Có anh lái buôn vì lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn hái hoa dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù, thay vì hái hoa dâng Mẹ, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin vì nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ vậy. Sáng kiến ấy được nhiều người thực hành theo. Đó là gốc tích kinh Kính Mừng hay kinh Mân Côi.

Khởi đi từ lời của sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet : " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc", Giáo hội đã dùng để chúc khen Mẹ. Đồng thời, thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".

2. Chuỗi Ngọc Mân Côi

Tại sao tràng hạt lại gồm năm ngắm ?

Không biết tràng hạt phát xuất từ tôn giáo nào, vì không chỉ có Công Giáo có, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.

Tại sao lại có tràng hạt mười lăm ngắm ?

Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở nấm mồ, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi diễn tả niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ.

Tại sao lại có ba mùa Vui – Thương – Mừng?

Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569. Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui) ; Tử Nạn (Thương) ; đến sống lại vinh quang (Mừng).

Ngày 16/10/2002 II trong Tông Thư gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II thêm vào Năm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu chuộc loài người.

Tại sao đọc 150 kinh kính mừng?

Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Nên đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh. Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn cứu độ.

3. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Vì muốn con cái mình hạnh phúc, nên mỗi lần hiện ra là một lần nhắn nhủ : "Hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Vậy, hãy biến đời mình thánh chuỗi Mân Côi.

Đời con một chuỗi Mân Côi.

Hạt thương hạt sáng hạt vui hạt mừng.

Ngày đêm nguyện gẫm không ngừng.

Như cây nến cháy nhỏ từng lời kinh.

Thế thì, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa Nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng, bởi "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng" (St Bênađô).

Nhiều bạn trẻ cho rằng : Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không đâu, Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học cho chúng ta kinh nghiệm : động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro, nam sinh nữ tú chê ông quê mùa, mà không hay biết ông là người thầy của mình.

Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa. Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ" (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: "Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".

Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Mân Côi, xin cho mỗi người chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi:

Gửi em một chục Mân Côi

Để em sớm tối học lời cầu kinh

Mẹ trên cao sẽ thương tình

Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.

Đức Mẹ Phùng Khoang, cầu cho chúng con. Amen.



Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Người nghèo Phi Luật Tân nghĩ : Nghèo nên không nhận được bí tích
Nguyễn Long Thao
12:38 01/10/2019
Manila (AsiaNews / Agencies) - Tại nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thủ đô Manila, Phi Luật Tân, Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, tổng giám mục Manila, đã rửa tội cho 450 trẻ em đường phố. Các em được quỹ Anak-Tulay ng Kabataan (TNK) chăm sóc.Đúc Hồng Yđích thân cử hành nghi thức rửa tội cho các em để dân chúng Phi Luật Tân biết rằng, phép rửa tội là một trong những bí tích dành cho mọi người.

Nhiều người Phi Luật Tân nghèo tin rằng, vì họ nghèo hoặc thiếu nguồn tài chính, nên họ không nhận được ân sủng của các bí tích.

Tổng giáo phận Manila và Quỹ TNK đang cố gắng đánh tan niềm tin của một số người Công Giáo Phi nghĩ rằng họ phải trả tiền để nhận được các bí tích.

Đức Hồng Y chào đón các em tại nhà thờ Manila Ngài nói. "Cuộc sống đơn giản và nghèo khó không phải là trở ngại để nhận được ân sủng của Thiên Chúa. Ngài nói tiếp." Ân sủng của Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo. Ân sủng không thể mua được bằng tiền. Ân sủng không có giá.

Bảy linh mục đã tham gia với Đức Hồng Y trong nghi thức rửa tội

Trong bài giảng, Đức Hồng Y nhắc nhở bổn phận của cha mẹ là củng cố niêm tin cho con cái. Cha mẹ đẻ cũng như cha mẹ đỡ đầu phải giúp con cái lớn lên trong đức tin, thành những môn đồ tốt lành của Chúa Giêsu, một thành viên tốt của Giáo hội và là một công dân có trách nhiệm với đất nước này. ĐHY Tag Tagle giải thích thêm: Muốn điều này xảy ra, xin các bậc cha mẹ cũng phải phát triển trong đức tin.

Quỹ Tulay ng Kabataan đã phục vụ trẻ em nghèo nhất tại Manila kể từ năm 1998.Hơn 55.000 trẻ em đã được săn sóc trong những năm qua.

Nguyễn Long Thao
 
FBI trao giải để lùng bắt thủ phạm mưu toan đốt ba nhà thờ Công Giáo tại El Paso.
Đặng Tự Do
16:37 01/10/2019
Sáng sớm ngày 7 tháng 5, khi trời còn nhá nhem tối, một người nào đó đã ném một thiết bị gây cháy nổ vào Nhà thờ Công Giáo Thánh Matthêu ở El Paso nhưng bật vào tường dội ngược trở ra làm cháy nám một đoạn đường.

Ngày 13 tháng 5, âm mưu tương tự cũng đã xảy ra tại nhà thờ chính tòa St. Patrick và cũng bị thất bại.

Và vào ngày 15 tháng 6, một thiết bị gây cháy đã được ném vào Nhà thờ Công Giáo San Judas Tadeo, đốt cháy một số hàng ghế và trần nhà thờ.

Ba trường hợp đốt nhà thờ ở phía tây thành phố vẫn chưa được giải quyết, nhưng chính quyền tin rằng chúng có liên quan. Hôm thứ Năm, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ gọi tắt là FBI ra thông báo trao giải thưởng lên tới 15,000 Mỹ Kim cho ai cung cấp thông tin dẫn đến việc xác định hoặc bắt giữ thủ phạm.

Giáo phận Công Giáo El Paso cho biết không có ai ở bên trong các tòa nhà trong thời gian bị tấn công và, ngoài trường hợp nhà thờ San Judas Tadeo, các nhà thờ khác đã không bị thiệt hại gì.

Tuy nhiên, tội ác đã buộc thành phố phải đương đầu một cách cấp bách, đặc biệt là sau khi đã xảy ra một vụ xả súng giết người hàng loạt tại siêu thị Walmart ở El Paso khiến 22 người chết.

Ông Ceniceros, phát ngôn viên của giáo phận nói anh chị em giáo dân đã giúp sửa chữa các nhà thờ và quyên góp các vật liệu cần thiết. “Chúng tôi không có cảm giác sợ hãi; nhưng lại có cảm giác đến với nhau nhiều hơn.”

Ông Ceniceros cho biết trong cả ba vụ nổ, diễn ra vào sáng sớm, có vẻ như ai đó đã cố ném một chai bom xăng vào nhà thờ qua một trong những cửa sổ.

“Tại San Judas, một người nào đó đã phá vỡ một cửa sổ và sau đó ném một thiết bị vào bên trong, đốt những chiếc ghế ở phía sau nhà thờ và trần nhà,” ông Ceniceros nói.

“Có vẻ như cùng một hung thủ thực hiện việc này,” ông Ceniceros nói.

Ông cho biết giáo phận cũng trao phần thưởng trị giá 5,000 Mỹ Kim bên cạnh phần thưởng của FBI.


Source:New York Times
 
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi Kinh Chiều khai mạc Tháng Truyền giáo Ngoại thường
J.B. Đặng Minh An dịch
17:45 01/10/2019
Lúc 6 giờ chiều ngày thứ Ba 1 tháng Mười, Đức Thánh Cha đã khai mạc Tháng Truyền giáo Ngoại thường với chủ đề: “Được Rửa tội và sai đi: Giáo Hội của Chúa Kitô tiếp tục sứ vụ trên thế giới”.

Đức Thánh Cha đã đánh dấu dịp này trong buổi Kinh Chiều trong Đền Thờ Thánh Phêrô để kính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, đấng bảo trợ cho các xứ truyền giáo.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến từ “chứng nhân” là điều mà ngài gọi là từ chủ yếu để bắt đầu sứ vụ truyền giáo mà Chúa ủy thác cho mỗi một người trong chúng ta.

Đức Thánh Cha nói:


Trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, Chúa được trình bày như một người đàn ông kia, trước khi cất bước lên đường, gọi các đầy tớ của mình và giao phó tài sản cho họ (x. Mt 25:14). Thiên Chúa đã giao cho chúng ta những kho báu lớn nhất của Người: đó là cuộc sống của chính chúng ta và cuộc sống của những người khác. Ngài đã ủy thác tất cả mọi ân sủng đa dạng cho mỗi người chúng ta. Những ân sủng này, những tài năng này, không phải là thứ để cất giữ trong két sắt, nhưng là một ơn gọi thực sự: Chúa kêu gọi chúng ta làm cho tài năng của chúng ta sinh hoa kết trái, bằng sự liều lĩnh và sáng tạo. Chúa không đòi chúng ta phải giữ gìn cuộc sống và đức tin cho riêng mình, nhưng thay vào đó, Ngài đòi chúng ta phải bước tới và chấp nhận rủi ro, thậm chí là chịu mất thể diện. Tháng Truyền giáo Ngoại thường này phải khiến cho chúng ta cảm thấy hăng hái và thúc đẩy chúng ta tích cực làm việc thiện. Không phải như những người cất giữ đức tin và bảo vệ ân sủng, nhưng như các nhà truyền giáo.

Nhưng làm thế nào để bắt đầu trở thành một nhà truyền giáo? Thưa: Bằng cách sống như những chứng nhân: hãy làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta như những người đã biết đến Chúa Giêsu. Chứng nhân là từ chủ yếu: đó là một từ có cùng gốc gác với từ “tử đạo”. Các vị tử đạo là các chứng nhân chính của đức tin: không phải bằng lời nói nhưng bằng chính cuộc sống của các ngài. Các vị tử đạo biết rằng đức tin không phải là chuyện tuyên truyền hay chiêu dụ tín đồ: nhưng đó là một món quà đáng trân trọng trong đời người. Các ngài sống bằng cách truyền bá an bình và niềm vui, bằng cách yêu thương mọi người, thậm chí là kẻ thù của mình, vì tình yêu dành cho Chúa Giêsu. Chúng ta, những người đã khám phá ra rằng chúng ta là con cái của Cha trên trời, có thể nào lại giữ im lặng trước niềm vui chúng ta được Chúa yêu thương, và trước niềm xác tín rằng chúng ta trở nên quý giá trong mắt Chúa? Đó là một thông điệp mà rất nhiều người đang chờ đợi để nghe. Và đó là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta hãy tự hỏi mình trong tháng này: tôi là một nhân chứng tốt đến mức nào?

Vào cuối dụ ngôn này, Chúa mô tả những người đầy tớ dám liều lĩnh như những đầy tớ “tốt lành và đáng tin cậy”, và những người đầy tớ khiếp đảm như những kẻ “độc ác và lười biếng” (câu. 21.23.26). Tại sao Thiên Chúa lại khắc nghiệt như thế với người đầy tớ nhát đảm? Người ấy có làm gì ác đâu? Thưa: Cái ác của anh ta là đã không làm điều tốt; anh ta phạm tội chểnh mảng. Đây có thể là tội lỗi cả một đời người, vì chúng ta đã được ban sự sống không phải để chôn vùi sự sống ấy, nhưng là để tạo ra một cái gì đó từ cuộc sống này; không phải để giữ nó cho bản thân chúng ta, nhưng là cho đi. Bất cứ ai đồng ý với Chúa Giêsu đều biết rằng chúng ta giữ những gì chúng ta cho đi; chúng ta sở hữu những gì chúng ta cho người khác. Bí quyết để sở hữu cuộc sống là cho đi. Sống chểnh mảng là chối bỏ ơn gọi của chúng ta: chểnh mảng là điều tương phản với truyền giáo.

Chúng ta phạm tội bằng cách lơ là, nghĩa là chống lại sứ vụ được trao phó, bất cứ khi nào, thay vì lan truyền niềm vui, chúng ta lại nghĩ rằng mình là nạn nhân, hoặc nghĩ rằng không ai yêu chúng ta hoặc hiểu chúng ta. Chúng ta phạm tội chống lại sứ vụ khi chúng ta chịu khuất phục trước thái độ chủ bại: “Tôi không thể làm điều này: Tôi không làm nổi đâu”. Sao lại có thể như thế được? Chúa đã ban cho anh chị em những tài năng, vậy mà anh chị em lại nghĩ mình nghèo nàn đến mức không thể làm giàu cho bất cứ ai? Chúng ta phạm tội chống lại sứ vụ khi chúng ta phàn nàn và cứ lải nhải rằng mọi thứ đang chuyển từ xấu đến tồi tệ hơn, trên thế giới và trong Giáo Hội. Chúng ta phạm tội chống lại sứ vụ khi chúng ta trở thành nô lệ cho những nỗi sợ khiến chúng ta bất động, khi chúng ta để cho mình bị tê liệt bằng cách nghĩ rằng “mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi”. Chúng ta phạm tội chống lại sứ vụ khi chúng ta sống cuộc sống như một gánh nặng chứ không phải là một ân sủng, khi chúng ta đặt bản thân và những mối quan tâm của chúng ta ở vị thế trung tâm chứ không phải anh chị em của chúng ta, là những người đang chờ đợi để được yêu thương.

“Ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cor 9: 7). Ngài yêu Giáo Hội đang tiến bước. Giáo Hội không tiến bước, thì không còn là Giáo Hội. Một Giáo Hội đang tiến về phía trước, một Giáo Hội truyền giáo là một Giáo Hội không lãng phí thời gian than vãn về những điều sai lầm, những sự bất tín, và những giá trị của thời xa xưa trong quá khứ. Một Giáo Hội không tìm kiếm những ốc đảo an toàn để sống trong an bình, nhưng khao khát trở thành muối của trái đất và là men trong thế giới. Vì Giáo Hội biết rằng sức mạnh của mình là chính Chúa Giêsu, chứ không phải là sự liên quan về mặt xã hội hay thể chế, nhưng là tình yêu khiêm nhường và nhưng không.

Hôm nay chúng ta bắt đầu Tháng Mười Truyền Giáo này với sự đồng hành của ba “đầy tớ” đã mang lại nhiều hoa trái. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chỉ cho chúng ta con đường: thánh nữ biến lời cầu nguyện thành nhiên liệu cho các hoạt động truyền giáo trên thế giới. Đây cũng là Tháng Mân Côi: liệu chúng ta cầu nguyện được bao nhiêu cho việc truyền bá Tin Mừng và lòng hoán cải từ sự chểng mảng sang truyền giáo? Kế đến, chúng ta có Thánh Phanxicô Xaviê, là người, mà có lẽ, sau Thánh Phaolô, là nhà truyền giáo vĩ đại nhất mọi thời đại. Ngài cũng cho chúng ta một khích lệ: liệu chúng ta có dám thoát ra khỏi vỏ bọc của mình và từ bỏ những tiện nghi vì Tin Mừng không? Cuối cùng là Bậc Đáng Kính Pauline Jaricot, một người lao động đã hỗ trợ sứ vụ truyền giáo bằng các công việc hàng ngày của mình: với những số tiền dâng cúng mà cô dành ra từ tiền lương của mình, cô đã giúp đặt nền móng cho các Hội Giáo hoàng Truyền giáo. Liệu chúng ta có dành một món quà hàng ngày để giúp vượt qua sự ngăn cách giữa Tin Mừng và cuộc sống không? Anh chị em, xin vui lòng đừng sống một đức tin “trong phòng thánh”.

Chúng ta được tháp tùng với một nữ tu, một linh mục và một giáo dân. Các ngài nhắc nhở chúng ta rằng không ai được miễn trừ khỏi sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Vâng, trong tháng này, Chúa cũng kêu gọi anh chị em, bởi vì anh chị em, những bậc là cha mẹ của các gia đình; anh chị em, những người trẻ đang mơ ước những điều tuyệt vời; anh chị em, những người đang làm việc trong một nhà máy, cửa hàng, ngân hàng hoặc nhà hàng; anh chị em những người đang thất nghiệp; anh chị em những người đang nằm liệt giường, Chúa đang yêu cầu tất cả anh chị em trở thành một món quà mọi lúc mọi nơi, như anh chị em là cùng với mọi người xung quanh. Ngài đang yêu cầu anh chị em không chỉ đơn giản là đi qua trong cuộc đời này, nhưng là cho đi cuộc sống; không phải là phàn nàn về cuộc sống, nhưng là để chia sẻ trong nước mắt của tất cả những người đau khổ. Hãy can đảm lên! Chúa mong đợi những điều tuyệt vời từ anh chị em. Ngài cũng hy vọng một số anh chị em có can đảm để lên đường và đi bất cứ nơi nào nhân phẩm và hy vọng đang thiếu thốn nhất, ad gentes – hãy đến với muôn dân, nơi mà còn biết bao người vẫn sống mà không có niềm vui của Tin Mừng. Chúa sẽ không để anh chị em cô đơn khi làm chứng cho Ngài; anh chị em sẽ khám phá ra rằng Chúa Thánh Thần đã đi trước anh chị em và dọn đường cho anh chị em. Can đảm lên anh chị em! Can đảm lên Giáo Hội Mẹ! Hãy tái khám phá thành quả của anh chị em trong niềm vui của sứ vụ truyền giáo!


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Phán Quyết Của Chánh Án Weinberg Về Kháng Cáo Của Đức Hồng Y Pell: Đánh giá bằng chứng của người khiếu nại, Điều 39 của JDA - Bất lợi pháp y đáng kể
Vũ Văn An
19:57 01/10/2019
Điều 39 của JDA - Bất lợi pháp y đáng kể

998 Khi Đạo luật Chứng cớ được ban hành, nó có chứa một số điều khoản xử lý điều được gọi là "bằng chứng không đáng dựa vào". Những điều khoản này đã thay thế thường luật về chủ đề đó, đòi hỏi phải đưa ra các lời cảnh giác về nguy cơ kết án khi không có sự hỗ trợ (corroboration).

999 Một điều khoản như vậy là điều 165B, đầu đề là ‘Trì hoãn việc truy tố’. Điều đó sau đó đã bị bãi bỏ và được thay thế bằng điều 39 của JDA. Điều 39 dự liệu rằng luật sư công tố có thể yêu cầu thẩm phán xét xử hướng dẫn bồi thẩm đoàn về những ‘bất lợi pháp y mà bị cáo gặp phải’ vì lý do bị trì hoãn giữa hành vi bị coi là phạm tội và phiên tòa.

1000 Thẩm phán xét xử có thể hướng dẫn bồi thẩm đoàn, nhưng chỉ khi hài lòng rằng bị cáo đã trải qua một 'bất lợi pháp y đáng kể'. Tuy nhiên, thẩm phán có thể không hề nói hoặc gợi ý rằng sẽ là điều nguy hiểm hoặc không an toàn khi kết án trong những trường hợp như vậy. Thẩm phán cũng không thể gợi ý rằng, vì lý do chậm trễ, các bằng chứng của nạn nhân nên được xem xét kỹ lưỡng.

1001 Trong vụ án hiện tại, thẩm phán xét xử đã đúng đắn dành cho bồi thẩm đoàn một hướng dẫn bất lợi pháp y. Quan tòa đã phác thảo một số xem xét mà ông nói với bồi thẩm đoàn rằng họ nên coi như gây ảnh hưởng đến khả năng tự bào chữa của đương đơn. Ông ghi nhận cơ hội bị mất để đương đơn có thể tìm hiểu lúc, hoặc gần lúc bị tố cáo là vi phạm. Điều này bao gồm khả năng của đương đơn được thăm dò trong chi tiết các hoàn cảnh bị tố là phạm tội.

1002 Liên quan đến các nhân chứng, Quan tòa lưu ý rằng do sự chậm trễ giữa việc bị cáo là vi phạm và phiên tòa, hầu hết họ chỉ có thể đưa ra bằng chứng về thực hành và thói quen tổng quát, thay vì ký ức chuyên biệt. Người ta nói rằng ký ức của một số nhân chứng đã suy giảm trong thời gian trôi qua giữa việc cáo buộc là vi phạm và phiên tòa. Quan tòa đã hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng nếu họ thấy rằng sự sáng suốt của một nhân chứng đã bị ảnh hưởng bởi 22 năm trôi qua giữa điều cáo buộc là vi phạm và phiên tòa, thì họ phải xem xét điều này như một bất lợi cho bên bào chữa.

1003 Liên quan đến bằng chứng của người khiếu nại, Quan tòa đã nói với bồi thẩm đoàn rằng:

sự mãn hạn ... cũng làm giảm khả năng để bên bào chữa kiểm tra đầy đủ bằng chứng [của người khiếu nại] ... nếu cuộc điều tra và xét xử này đã được thực hiện ... vào thời điểm gần với năm 1996 thì người ta có thể mong [người khiếu nại] ở một vị trí tốt hơn để trả lời các câu hỏi về một số chi tiết [của việc vi phạm] ...

1004 Cuối cùng, Quan tòa nhận xét rằng cái chết của cậu bé kia, người đáng lẽ là nhân chứng thực chất nếu không có sự chậm trễ kéo dài như vậy, là một bất lợi pháp y khác mà bồi thẩm đoàn phải xem xét có lợi cho đương đơn.

1005 Phải hiểu rằng điều 39 hoạt động, trong các lời lẽ của nó, chỉ có lợi cho bị cáo. Nó không có bất cứ ứng dụng nào liên quan đến công tố, hoặc bất cứ nhân chứng nào của công tố.

1006 Vì điều 4A của JDA, việc lý luận của Tòa án này liên quan đến việc trì hoãn, khi xử lý Cơ sở 1, phải nhất quán với cách thức bồi thẩm đoàn đã được hướng dẫn, theo điều 39.

1007 Sự kiện một số nhân chứng quan trọng, bao gồm, chẳng hạn, Cha xứ McCarthy, không có khả năng đưa ra bằng chứng có thể hỗ trợ cho lý lẽ của bên bào chữa, phải được Tòa án này xem xét, mặc dù chỉ có lợi cho đương đơn. Cha xứ McCarthy không đơn độc. Không ai biết, chẳng hạn, Cha Egan có thể đã nói gì nếu ông được mời ra để cung cấp bằng chứng, như ông chắc chắn đáng lẽ được mời như thế, nếu phiên tòa này diễn ra gần hơn với ngày của biến cố bị cáo buộc là vi phạm.

1008 Điều đặc biệt quan trọng là chỉ có thách thức được công tố đưa ra cho các nhân chứng này là về độ đáng dựa vào của ký ức họ. Potter là một thí dụ rõ ràng, nhưng ông không đơn độc. Trí nhớ của Portelli, và do đó độ đáng dựa vào trong bằng chứng của ông, đã bị tấn công, cũng như McGlone. Theo quan điểm của đương đơn, trong một vụ án phải phụ thuộc rất nhiều vào các vấn đề chi tiết chính xác, việc bất lợi do hơn 20 năm đã trôi qua từ thời điểm của điều bị cáo buộc là vi phạm đem lại không chỉ đơn thuần là đáng kể, mà còn rất sâu xa nữa.

1009 Điều đó không có nghĩa là bằng chứng của người khiếu nại cũng không bị giảm do sự chậm trễ. Ký ức của ông ta về những điều ông ta cho đã diễn ra có thể dễ dàng được chứng minh là không đáng dựa vào trong một số khía cạnh chủ chốt, như trên thực tế đã xảy ra. Tuy nhiên, điều 39 không cho phép sự chậm trễ được tính đến vì ưu ái đối với người khiếu nại. Như đã được báo trước trong những lý do này, có một loạt các điều khoản khác, chẳng hạn như các điều 52, 53 và 54 của Đạo luật, đã cung cấp một đối trọng cho điều 39.

1010 Do đó, để đánh giá tầm quan trọng phải dành cho lý lẽ công tố, và toàn bộ bằng chứng nói chung, cần phải tính đến việc này: cuộc tấn công đầu tiên thực hiện đối với rất nhiều nhân chứng ủng hộ lý lẽ bào chữa đáng lẽ đã hoàn toàn khác, và gần như chắc chắn là ít hiệu nghiệm hơn, nếu đã không có sự chậm trễ của bất cứ điều gì giống như loại này. Rõ ràng, đây là một trường hợp mà điều 39 phải được dành cho một tầm quan trọng rất đáng kể tại phiên tòa, và phải được Tòa án này dành cho một tầm quan trọng tương tự.

Các điều 52, 53 và 54 của JDA

1011 Nếu một thẩm phán xét xử cho rằng có xác suất có bằng chứng trong phiên tòa để gợi ý rằng người khiếu nại đã hoặc triển hạn việc đưa ra khiếu nại, hoặc quả có đưa ra khiếu nại, thẩm phán phải hướng dẫn bồi thẩm đoàn theo điều 52 (4).

1012 Tiểu mục đó đọc như sau:

(4) Khi đưa ra hướng dẫn theo điều này, thẩm phán xét xử phải thông báo cho bồi thẩm đoàn rằng kinh nghiệm cho thấy rằng

(a) người ta có thể phản ứng khác nhau đối với các tội phạm tình dục và không hề có một phản ứng điển hình, thích đáng hoặc bình thường đối với tội phạm tình dục; và

(b) một số người có thể khiếu nại ngay lập tức với người đầu tiên họ thấy, trong khi những người khác có thể không khiếu nại trong một thời gian và có những người khác có thể không bao giờ khiếu nại; và

(c) sự chậm trễ trong việc đưa ra khiếu nại liên quan đến hành vi phạm tội tình dục là một trường hợp phổ biến.

1013 Như đã nhấn mạnh trước đây, điều 53 cho phép công tố yêu cầu thẩm phán xét xử hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng có thể có lý do chính đáng tại sao một người có thể không khiếu nại, hoặc có thể trì hoãn khiếu nại về hành vi phạm tội tình dục.

1014 Điều 54 bãi bỏ một số quy tắc của thường luật từng được Tòa án tối cao khai triển, lần lượt được quy cho vụ Kilby v The Queen [252] và Crofts v The Queen [253]. Thành thử, khi tuân theo Đạo luật, một thẩm phán không còn bị yêu cầu phải hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng việc trì hoãn của người khiếu nại, hoặc đúng hơn, việc không khiếu nại gì cả, có thể tạo ra một nghi ngờ về độ đáng dựa vào trong bằng chứng của người đó.

1015 Điều 52 không có ứng dụng nào đối với cậu bé kia trong trường hợp này. Theo bất cứ ý nghĩa nào, Ông ta cũng không phải là người khiếu nại, theo nghĩa của điều 52 (1). Tuy nhiên, điều này áp dụng cho người khiếu nại. Nó ít nhất trả lời một phần cho đệ trình của bên bào chữa rằng nếu biến cố đầu tiên có xảy ra như bị cáo buộc, thì người khiếu nại và cậu bé kia sẽ phải thảo luận về nó ở một giai đoạn nào đó.

Bản chất ‘hay thay đổi’ (fluid) của lý lẽ công tố

1016 Như đã nêu, cáo trạng buộc tội rằng các tội phạm nói là xảy ra trong biến cố đầu tiên đều được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1996 đến ngày 31 tháng 12 năm 1996. Hành vi phạm tội được trình bầy trong cáo buộc 5 được nói là đã được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1996 và ngày 28 tháng 2 1997.

1017 Tất nhiên, biện hộ giữa các ngày tháng, theo cách đó, khá phổ biến trong các trường hợp liên quan đến tội phạm tình dục đã lâu năm. Trong nhiều trường hợp, không có phương thức thay thế có giá trị nào khác cho việc tiếp nhận diễn trình đó.

1018 Trong vụ án này, bản tóm tắt viết lúc khai mở của công tố chỉ đơn giản là đề cử ‘nửa sau của năm 1996’, là thời gian khi biến cố đầu tiên diễn ra. Nó ấn định ít nhất một tháng sau biến cố [lần đầu tiên] này là ngày xảy ra biến cố thứ hai.

1019 Như đã đề cập trên đây, khi ông Gibson đến lúc mở lý lẽ cho bồi thẩm đoàn, ông không nói chuyên biệt hơn thế. Ông đã nói đến biến cố đầu tiên như xảy ra vào sáng Chúa Nhật, ‘vào cuối năm 1996’. Ông ấy nói đến biến cố thứ hai như đã xảy ra ‘hơn một tháng sau đó’.

1020 Người ta sẽ được nhắc nhở rằng nhật ký Connor chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi phiên tòa đầu tiên đã kết thúc. Cuốn nhật ký đó, cùng với vô số bằng chứng khác, cho thấy rõ ràng rằng Đức Tổng Giám Mục mới được bổ nhiệm chỉ cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính Tòa vào hai ngày chuyên biệt vào năm 1996; 15 và 22 tháng 12.

1021 Công tố đã miễn cưỡng một cách dễ hiểu, trong cả hai phiên tòa, trong việc làm cho trình thuật của người khiếu nại được cố định vào một hoặc các ngày chuyên biệt. Độ chuyên biệt càng lớn, thì càng khó coi trình thuật của người khiếu nại là đáng tin cậy để ông ta tiếp tục khẳng định các biến cố này xảy ra lúc nào.

1022 Như ông Richter lưu ý, nếu, biến cố đầu tiên, giả sử nó có xảy ra, phải xảy ra vào giữa đến cuối tháng 12 năm 1996, biến cố thứ hai không thể xảy ra trước Lễ Giáng sinh năm đó, bất kể người khiếu nại có khăng khăng như thế nào về trình tự đó của các biến cố.

1023 Theo như tôi có thể nói, ông Walker đã đúng khi đệ trình rằng không có bằng chứng nào chuyên biệt nối kết biến cố thứ hai vào tháng 2 năm 1997, lại càng ít hơn khi, cuối cùng, nối kết nó với một ngày được công tố đề cử, ngày 23 tháng 2 năm đó. Điều người ta có thể nói chỉ là đương đơn có mặt tại Nhà thờ Chính tòa vào ngày đó.

1024 Một khi đã rõ ràng rằng hai ngày của tháng 12 năm 1996 là những ngày duy nhất có thể đứng vững được trong đó, biến cố đầu tiên có thể hình dung được là đã xảy ra, công tố đã đối diện với một rào cản đáng kể. Như đã chỉ rõ, đó là vì bằng chứng đã cho thấy rõ ràng rằng đã có các buổi diễn tập của ca đoàn giữa 12 giờ 00 đến 12 giờ 30 trưa vào cả hai ngày đó. Khung thời gian đó quá chặt chẽ đến nỗi khó có thể thấy làm sao trình thuật của người khiếu nại có thể được điều chỉnh cho ăn khớp vào đó được.

1025 Một lần nữa, hầu như không ngạc nhiên gì khi ông Gibson đối chất một số nhân chứng được gọi tới (và đặc biệt là Portelli), nhằm gợi ý rằng có thể đương đơn đã cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính Tòa vào ngày 3 tháng 11 năm 1996 (sau khi ngài, trong cùng buổi sáng hôm đó, đã cử hành Thánh lễ cho huynh đoàn ngành đua). Lý thuyết được giả định là có thể đã có đủ thời gian để đương đơn di chuyển từ nhà thờ St Francis trong thành phố, đến Nhà thờ Chính Tòa, cho phép ngài cử hành Thánh lễ Chúa Nhật lúc 11giờ 00 sáng.

1026 Như đã đề cập trước đây, cuối cùng đã tương đối rõ ràng rằng lý thuyết ngày 3 tháng 11 năm 1996 là hoàn toàn không thể nào hợp lý được. Ông Gibson đáng khen, vì đã tiến đến chỗ đánh giá cao rằng chuyện là như thế, và thực tế đã thừa nhận đại khái là: biến cố đầu tiên chỉ có thể xảy ra vào một trong hai ngày của tháng Mười hai. Điều đó, tất nhiên, có nghĩa là bỏ trình thuật người khiếu nại về việc hai biến cố đã xảy ra trong cùng một năm hợp xướng, trước lễ Giáng sinh.

1027 Điều đó cũng có nghĩa là một ngày thay thế phải được tìm ra để biến cố thứ hai có thể xảy ra. Ngày được đề cử là ngày 23 tháng 2 năm 1997, ngày mà theo nhật ký của Connor, là lần tiếp theo, đương đơn đã có mặt tại Nhà thờ Chính Tòa dự Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật. Tất nhiên, đó là khoảng hai tháng hay gần như thế sau biến cố đầu tiên, thay vì một tháng. Tuy nhiên, đó là điều tốt nhất mà công tố có thể làm.

1028 Có một số khó khăn với kịch bản đó. Một là, đương đơn đã không cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật ngày 23 tháng 2 năm 1997. Thay vào đó, ông chỉ chủ trì Thánh lễ đó. Điều đó có nghĩa là ông sẽ mặc những lễ phục hoàn toàn khác, 'trang phục ca đoàn’, chứ không phải là 'áo lễ đầy đủ' của một Đức Tổng Giám Mục cử hành Thánh lễ, mà người khiếu nại mô tả ông đã mặc vào thời điểm xảy ra biến cố thứ hai. Bằng chứng của Portelli về những chiếc áo lễ đã được mặc khi Đức Tổng Giám Mục chủ trì, thay vì cử hành, Thánh lễ không bị thách thức. Dù sao, nó đã được hỗ trợ bởi bằng chứng của Connor. Không có lý do tại sao bằng chứng đó không nên được chấp nhận.

1029 Bản chất ‘lỏng’ (liquid) của lý lẽ công tố, ít nhất là khi nói đến ngày tháng, là một vấn đề phải được tính đến khi đánh giá sức mạnh của nó. Đây cũng là một vấn đề cần được tính đến khi xem xét điều 39, và bất lợi pháp y. Một bị cáo có quyền đòi lý lẽ chống lại mình được đặc thù hóa cách thích đáng. Theo quan điểm bên bào chữa, trong một trường hợp phụ thuộc rất nhiều vào các vấn đề chi tiết rất phức tạp, việc đề cử một ngày, như ngày 23 tháng 2 năm 1997, mà không có bất cứ sự biện minh đầy đủ nào để làm như vậy phải là một vấn đề đáng quan tâm.

Kỳ tới: Thử nghiệm M v The Queen - chi thứ hai
 
Đức Thánh Cha Phanxicô xác quyết: Thiếu niềm vui Tin mừng, người ta không thể truyền giáo
Thanh Quảng sdb
23:23 01/10/2019
Đức Thánh Cha Phanxicô xác quyết: “Thiếu niềm vui Tin mừng, người ta không thể truyền giáo”



Ngày 30 tháng 9 Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ đại diện nhiều Hội Dòng truyền giáo có nguồn gốc từ Ý và kêu gọi họ hãy tung cánh ra đi và vui mừng loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu.

Ra đi

Đức Thánh Cha đã tiếp khoảng 70 bề trên của các Tu hội vừa nam vừa nữ của các Hội dòng có gốc gác từ Italia như Dòng Comboni, Consolata, Pime và Xaverian. Ngài mời gọi họ hãy làm dấy lên một tâm thức và luồng sóng hăng say nhiệt thành trước sứ vụ truyền giáo trong nếp sống và hoạt động mục vụ của các Hội Dòng.

Các bề trên này đã gặp Đức Thánh Cha vào đêm vọng trước Tháng Truyền giáo đặc biệt bất thường là tháng 10 năm 2019 này mà Ngài đã thiết lập từ tháng 10 năm 2017, và năm nay cũng là năm kỷ niệm 100 năm Tông thư “Maximum Illud” của Đức Giáo Hoàng Benedict XV, nhằm khởi sướng một động lực mới cho sứ vụ truyền giáo của Giáo hội là loan báo Tin Mừng. Đây cũng là chủ đề của tháng Bí tích Thanh tẩy và sai đi.

Vào một thời điểm mà mọi người như muốn giẫm chân tại chỗ. Đức Thánh Cha đã cảnh giác các Bề trên hãy về nguồn khởi đi từ những nhiệt thành truyền giáo của các đấng sáng lập. Hãy ra đi vì như Đức Thánh Cha nói "An phận trong nhà cao cửa đẹp thì không thể có Giáo hội ở đó!”

Huyền nhiệm của sự tận hiến

Đức Thánh Cha chia sẻ chúng ta cần phải tái khám phá sự huyền bí của cái sứ mạng cao cả và đầy hấp lực này, khao khát được hiệp thông với Chúa Kitô qua những dấn thân và nhân chứng, mà các Đấng sáng lập đã kinh qua, khiến các ngài hoàn toàn dâng hiến. Sư huyền nhiệm thánh thiêng này, như Đức Thánh Cha cho hay đã ban cho các ngài sức mạnh phi thường để tận hiến...

Đức Thánh Cha chia sẻ chính ngài luôn bị thôi thúc trước lời mời gọi truyền giáo, ra đi đến với các dân tộc ngoại biên mà không có bất kỳ một ý nghĩ chiếm hữu nào ngoại trừ một tấm lòng rộng mở trao ban và yêu thương truyền giáo…

Đức Thánh Cha cám ơn các Hội Dòng đã quảng đại cống hiến nhiều ơn gọi cho công cuộc truyền giáo mà theo Ngài Giáo hội luôn gắn liền với sứ mệnh đó, vì sứ mệnh ấy bắt nguồn từ bí tích rửa tội, và gắn bó với các đặc sủng phong phú mà Chúa đã kêu gọi họ.

Sống và ý thức trước sứ mệnh truyền giáo luôn là một thao thức và là một sứ mệnh không phải của cá nhân đơn độc, mà là lời mời gọi của toàn Giáo hội, cộng đoàn trong tình huynh đệ sẻ chia…



Truyền giáo: một sứ điệp hai chiều

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng sứ vụ truyền giáo không phải là con đường một chiều chuyển tải nền văn minh văn hóa của người Kitô hữu từ châu Âu đến cho các phần đất khác của thế giới mà phải là một sự trao đổi hai chiều. Những phần đất xưa kia đã từng đón nhận Tin mừng từ các nhà truyền giáo, thì nay họ đào tạo được nhiều linh mục và tu sĩ cho Giáo hội. Điều này, như Đức Thánh Cha nói đây là một thành quả từ các nhà truyền giáo thánh thiện, đã hy sinh để gieo trồng cho các vùng đất đó sinh nhiều hoa trái. Đó cũng là hành quả của sự hiệp thông và trưởng thành của các Giáo hội và là thành quả của niềm tin yêu vào Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn và làm trổ sinh nhiều hoa trái…
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại hội thứ XIV của Hội đồng Giám mục Việt Nam
Gioan Lê Quang Vinh
08:25 01/10/2019
Chiều ngày thứ hai 30 tháng 9, các Đức Tổng Giám Mục và Giám Mục thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đến Trung Tâm Mục Vụ Giáo Phận Hải Phòng để chuẩn bị khai mạc Đại Hội XIV của HĐGMVN, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 10. Có 31 vị Giám Mục từ 27 giáo phận tham dự Đại Hội lần này.

Xem Hình

Hàng năm, Hội nghị HĐGM được tổ chức lần lượt ở mỗi giáo phận khác nhau. Và cứ 3 năm một lần, HĐGMVN tổ chức Đại hội để bầu cử Ban Thường Vụ cũng như Chủ tịch các Ủy Ban trực thuộc HĐGM.

Chiều tối cùng ngày, Cha Giuse Nguyễn Văn Thông dẫn đầu đoàn đại diện Giáo phận Hải phòng đến chào Đức Tổng Marek Zalewski, Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam, Đức Hồng Y, quý Đức Tổng và quý Đức cha trong Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Lúc 8g tối, quý Đức Giám Mục tham dự giờ Chầu Thánh Thểtại Nhà nguyện Truyền Tin, Trung Tâm Mục Vụ.

Sáng nay ngày 1 tháng 10, vào lúc 8g, Đại hội lần thứ XIV của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã chính thức khai mạc.

Xin Cộng đoàn dân Chúa cầu nguyện cho Đại Hội và cho quý Đức Cha.

Tin: Gioan Lê Quang Vinh - Ảnh: BTTGP Hải Phòng
 
Thông Báo
Thánh Lễ Giỗ Đầu Cha Bề Trên Phaolô Lê Tấn Thành
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
20:23 01/10/2019


CHA GIÁM ĐỐC ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

THÔNG BÁO:

THÁNH LỄ GIỖ ĐẦU

CHA BỀ TRÊN PHAOLÔ LÊ TẤN THÀNH
NGUYÊN GIÁM ĐỐC ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

- CHỦ TẾ: ĐỨC CHA GIÁM QUẢN GIUSE ĐỖ MẠNH HÙNG.
- GIẢNG LỄ: ĐỨC CHA LUY NGUYỄN ANH TUẤN.
- ĐỊA ĐIỂM: NHÀ NGUYỆN CỦA ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN.
- THỜI GIAN: 10 GIỜ 15 THỨ HAI 7.10.2019, NGÀY LỄ Đức Mẹ MÂN CÔI.

CHÚNG TA HIỆP Ý CẦU NGUYỆN CHO CHA BỀ TRÊN.




CHA BỀ TRÊN HẾT LÒNG CHO SỨ VỤ TRONG MỘT LỐI SỐNG NGHÈO KHÓ

BÀI GIẢNG TRÒN MỘT NĂM CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG CHA BỀ TRÊN PHAOLÔ LÊ TẤN THÀNH, HỒI 8 GIỜ 30 SÁNG THỨ TƯ NGÀY 10 THÁNG 10 NĂM 2018, TẠI ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

Kính thưa anh chị em,

Nếu có một phóng viên nào kể lại Thánh Lễ an táng hôm nay, thì tôi nghĩ là thế nào người ta cũng ghi nhận một điều rất đặc biệt. Đó là trong Thánh Lễ này có sự hiện diện rất đông các linh mục và các linh mục đông hơn giáo dân. Đó là chuyện hiếm có.

Các linh mục đông hơn giáo dân bởi vì các linh mục hiện diện ở đây không chỉ thuộc tổng giáo phận thành phố mà còn từ các giáo Mỹ Tho, Phú Cường, Bà Rịa, Xuân Lộc và cả Phan Thiết, Đà Lạt nữa.

Và chỉ nguyên sự hiện diện của các linh mục từ nhiều giáo phận như thế cũng giúp cho chúng ta hiểu là vị linh mục mà chúng ta cử hành Thánh Lễ an táng và tiễn đưa ngài hôm nay là một nhà đào tạo của nhiều thế hệ linh mục.

Cuộc đời của Cha Bề Trên Phaolô gắn liền với Chủng viện như cha Giám đốc Đại Chủng viện giới thiệu trước Thánh Lễ.

Sau khi chịu chức ở Paris và học xong ở Paris, ngài trở về nước năm 1960 và từ đó gắn bó với Chủng viện cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2005. Khi về hưu thì ngài ở nhà hưu Chí Hòa, nhưng trong mấy tuần cuối đời – khi ở trong bệnh viện để được điều trị, thì tôi nghe cha Tổng đại diện Tổng giáo phận thành phố kể cho tôi là ngài chỉ mong được về Chủng viện và được mong gặp Giám mục giáo phận để nói về Chủng viện.

Gợi lại một số chi tiết nho nhỏ như thế, để chúng ta thấy, đối với Cha Bề Trên Phaolô, có thể nói là sứ vụ đào tạo linh mục ngài coi như là sứ vụ mà Chúa trao cho ngài cách riêng đến nỗi mà ngài ăn ngủ với nó, hít thở với nó, sống chết với nó, vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng vì nó: toàn tâm, toàn ý cho sứ vụ đào tạo linh mục.

Và cũng chính vì thế mà hôm nay, anh em linh mục chúng ta ở đây cách riêng, có dịp nhớ lại người cha và người thầy của mình, nhớ lại chân dung của một nhà đào tạo.

Tôi biết chắc là mỗi một người trong anh em đều có những kỷ niệm rất riêng với Cha Bề Trên Phaolô; nhưng tôi nghĩ rằng, anh em đồng ý với tôi trong nhận xét này là: Cha Bề Trên Phaolô của chúng ta là một cha giáo sống tinh thần nghèo khó. Sống mối phúc đầu tiên trong Bài Giảng Trên Núi mà Chúa Giêsu công bố hôm nay: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước trời là của họ.

Và tôi muốn nhìn tinh thần nghèo khó này trong ánh sáng của Mầu Nhiệm tự hủy mà cộng đoàn tín hữu sơ khởi hát lên trong Thánh Thi Philip và rất quen thuộc với chúng ta: "Đức Giêsu Kitô phận là Thiên Chúa nhưng đã không đòi hỏi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, mà trái lại, Ngài đã hủy mình ra không mang lấy thân phận tôi đòi trở nên giống hẳn người phàm".

Cha Bề Trên Phaolô đã sống cái tinh thần nghèo khó, tình thần của mầu nhiệm tự hủy theo gương Chúa Giêsu - Thầy Chí Thánh. Có nghĩa là, ngài không nghĩ gì cho mình, ngài không có lo gì cho bản thân mình, nhưng mà toàn tâm, toàn ý chỉ lo cho sự nghiệp của Chúa thôi. Và một cách cụ thể là sứ vụ mà Chúa trao cho ngài: sứ vụ đào tạo các linh mục trong Hội Thánh của Chúa.

Tôi nghĩ là có như thế, chúng ta mới hiểu được lối sống của Cha Bề Trên Phaolô: một đàng ngài rất nghiêm khắc với học trò (anh em còn nhớ trong việc học hành cũng như trong kỷ luật chủng viện); nhưng đàng khác ngài rất thương học trò, nhất là những anh nào gặp khó khăn, kể cả khi đã làm linh mục rồi.

Cha Bề Trên Phaolô là một nhà trí thức uyên thâm, hiểu biết rộng nhiều lĩnh vực chứ không phải chỉ là một lĩnh vực nhưng lại sống rất bình dân, bình dân từ cách ăn mặc, cho đến lời ăn tiếng nói.
Cha Bề Trên Phaolo là một người có uy tín lớn trong Tổng Giáo phận này, là cố vấn của nhiều Giám mục, là thầy dạy của nhiều thế hệ linh mục nhưng lại sống rất đơn sơ, cư xử rất đơn sơ, không có tỏ vẻ gì mình là người có quyền thế cả. Tôi nghĩ tất cả những điều đó là sự thể hiện ra bên ngoài của tinh thần nghèo khó, của mầu nhiệm hủy mình ra không mà ngài bước theo Chúa Giêsu.

Và như vậy, ngài lo việc đào tạo linh mục không chỉ bằng cách trao cho học trò sự thông tuệ của kiến thức của mình, mà là trao cho học trò chính tấm gương sống của mình, để họ trở nên những linh mục như lòng Chúa mong ước, như Hội Thánh đợi chờ.

Cho nên, kính thưa anh chị em, cách riêng anh em linh mục rất thân mến,

Chúng ta quy tụ ở đây để cùng nhau tạ ơn Chúa; tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt nam và cách riêng cho Tổng Giáo phận, cho Đại Chủng viện này một nhà đào tạo mẫu mực, một nhà đào tạo cống hiến toàn thân, toàn tâm, toàn ý cho công việc đào tạo linh mục trong Hội Thánh của Chúa.

Và cùng với tâm tình tạ ơn đó, anh em chúng ta cầu nguyện cho ngài. Cảm ơn ngài giây phút này, chẳng có cách nào tốt hơn là dâng lời cầu nguyện. Và tôi nghĩ là anh em linh mục chúng ta không chỉ cầu nguyện cho ngài ở đây, nhưng khi trở về giáo xứ của mình, cùng với giáo dân của mình dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho Cha Bề Trên Phaolô, ân nhân của chúng ta.

Và cuối cùng, thưa anh chị em, tôi muốn mời anh chị em nghe lại Bài Đọc II (trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Timothe, Thư thứ 2): “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và giữ vững Đức Tin”.

Lời này lại không phải là lời của Cha Bề Trên Phaolô Lê Tấn Thành trong giây phút này hay sao? Và nếu như thế, thì ước gì những tâm tình tiếp theo của Thánh Phaolô cũng là xác tín của Cha Bề Trên Phaolô, cha giáo của chúng ta: “Từ đây triều thiên công chính dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy. Không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến, trông đợi Người xuất hiện.”

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban phần thưởng đời đời, xin Chúa ban triều thiên công chính cho Cha Bề Trên Phaolô thân yêu của chúng con. Amen.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Rừng Thu Cây Lá Đổi Mầu
Tấn Đạt
09:07 01/10/2019
RỪNG THU CÂY LÁ ĐỔI MẦU
Ảnh của Tấn Đạt

Chớm thu tiết trời se se lạnh
Cây lá đổi mầu khắp núi non
(bt)
 
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 1/10/19: Câu Chuyện Thang Máy Đưa Lên Đỉnh Thánh Thiện
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
00:03 01/10/2019
1. Lòng đạo thờ ơ biến cuộc sống chúng ta thành một bãi tha ma

Suy ngẫm về bài đọc trong ngày trích từ Sách Khác Gai, Đức Thánh Cha đã nói về cách Chúa thúc giục dân Ngài suy tư về hành vi của mình và thay đổi cuộc sống để tái thiết lại Ngôi Nhà của Thiên Chúa là tâm hồn chúng ta. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 26 tháng Chín tại nhà nguyện Santa Marta.

Chần chừ hoán cải

Đức Thánh Cha giải thích rằng Tiên tri Khác Gai đang cố gắng lay động trái tim của những người lười biếng đã cam chịu một cuộc sống thất bại. Ngôi đền là tâm hồn họ đã bị kẻ thù phá hủy, tất cả đều bị hủy hoại, nhưng những người đó đã để năm tháng dần trôi qua mà không có bất kỳ hành động nào để tái thiết.

Chúa đã sai vị tiên tri đến để tái thiết lại Đền thờ, nhưng trái tim của mọi người xem ra đã chán chường, cay đắng và không muốn mạo hiểm, cũng chẳng muốn làm việc.

Những người đó, theo Đức Thánh Cha, không muốn tự đứng dậy để bắt đầu lại. Họ sẽ không để Chúa giúp họ làm điều đó, và lý do mà họ thường nêu ra là thời gian chưa đến.

Điều này là thảm kịch của rất nhiều Kitô hữu thờ ơ. Họ là những người nói rằng: “Vâng Lạy Chúa, không sao đâu. .. cứ từ từ, từ từ, Chúa ơi, hãy để như thế đã... Con sẽ làm điều đó vào ngày mai!”

Tâm linh thờ ơ dẫn đến thứ yên bình của nghĩa trang

Niềm tin nguội lạnh dẫn rất nhiều người đến chỗ tìm ra những lời bào chữa cho thái độ thiếu xác quyết và thúc đẩy xu hướng trì hoãn.

Điều đó khiến rất nhiều người lãng phí cuộc sống của mình và chung cuộc là những mảnh đời tơi tả vì họ không làm gì khác ngoài việc cố nuôi dưỡng một cảm thức an bình và sự bình tĩnh trong chính tâm hồn mình. Nhưng điều đó, theo Đức Thánh Cha, chỉ là sự yên bình của nghĩa trang.

Ngài cảnh báo các tín hữu rằng khi chúng ta trở nên “nguội lạnh về mặt tâm linh”, chúng ta trở thành một Kitô hữu nửa vời, không có bản chất. Ngược lại, Chúa muốn chúng ta hoán cải, và hoán cải ngay hôm nay.

Ngài mô tả sự nguội lạnh tâm linh như một thứ gì đó biến cuộc sống của chúng ta thành một nghĩa trang: một nơi không có sự sống.

Đức Thánh Cha kết luận bằng lời cầu nguyện xin Chúa ban ơn cho chúng ta đừng rơi vào tinh thần Kitô giáo nửa vời, là điều biến chúng ta trở thành Kitô hữu mà không có chất – là các “Kitô hữu nước hoa hồng”, chỉ có hương thoang thoảng bên ngoài mà không có thực chất bên trong, đó là những Kitô hữu có lẽ “gặt hái được chẳng bao nhiêu với những cuộc sống đầy những lời hứa, nhưng cuối cùng chẳng làm gì”.

Xin Chúa giúp chúng ta “bừng tỉnh khỏi tình trạng thờ ơ đức tin, và chiến đấu chống lại chất gây mê nhẹ nhàng này trong đời sống tâm linh.”

2. Thang Máy Đưa Lên Đỉnh Thánh Thiện

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Lúc 6 giờ chiều ngày thứ Ba 1 tháng 10, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự kinh chiều trọng thể tại Đền Thờ Thánh Phêrô nhân tháng truyền giáo đặc biệt. Dịp này, ngài kêu cầu cùng Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ truyền giáo, cầu bầu cùng Chúa cho Giáo Hội có một mùa xuân truyền giáo mới trước các hoàn cảnh khó khăn hiện nay.

Vì thế, trong chương trình này Như Ý xin được hân hạnh giới thiệu cùng quý vị và anh chị em câu chuyện về Thánh Nữ có tựa đề: Thang Máy Đưa Lên Đỉnh Thánh Thiện.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Cuối năm 1894, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu suy nghĩ về hơn 6 năm trở thành đan sĩ Cát Minh, chị đã đau khổ nhiều, đã phấn đấu nhiều mà không từ bỏ lòng ước ao nên thánh.

Nhưng khi tự sánh mình với các vị thánh lớn như thánh Phaolô, thánh Augustinô, thánh Têrêsa Avila, do những hy sinh hãm mình, những tài năng và nhân đức, các ngài là những vĩ nhân, các ngài là những ngọn núi cao không thể leo nổi. Còn chị, chị chỉ là hạt cát tầm thường chẳng ai biết đến, chị ý thức về hố sâu ngăn cách giữa chị và các ngài. Chị đã chẳng hay rơi vào những lầm lỗi? Đã chẳng hay ngủ gật lúc đọc kinh đấy ư? Sự thánh thiện, trái với những gì chị đã suy nghĩ trong thời gian nhà Tập, xem ra thực sự không có thể.

Sau kinh nghiệm không thể tránh này, bao nhiêu người nam nữ đã chấp nhận cuộc sống tầm thường. Nhưng Têrêsa quyết tâm không bao giờ ngã lòng vì Thiên Chúa không bao giờ khơi lên những ước nguyện mà không thể thỏa mãn được. Lâu nay chị đã kinh nghiệm rằng những nỗ lực theo ý riêng là hão huyền, và không thể nên thánh được do sức phàm nhân. Chị phải chấp nhận con người thực của mình, với tất cả khuyết điểm của mình. Cha Prou đã chỉ cho chị con đường nhỏ, nhưng cha Pichon lại không sẵn sàng giúp đỡ chị tìm hiểu, các nữ đan sĩ cũng không giúp chị vì họ cho rằng con đường mới lạ này nguy hiểm.

Cuối thể kỷ XIX, khoa học phát triển rực rỡ, các phát minh lần lượt ra đời nào là điện lực, điện thoại, xe hơi, nhiếp ảnh, các loại máy móc… Trong chuyến đi sang Ý năm 1887, chị Têrêsa rất thích đi thang máy. Chỉ trong chốc lát, thang máy đã đưa người ta lên tới đỉnh tòa nhà. Liệu chẳng có phương thế nào tương tự thang máy để đưa người ta tới đỉnh thánh thiện ư? Nếu chị chết sớm, chị sẽ hoàn tất được gì trong cuộc sống của mình?

Trong hành lý nhập tu của chị Céline, chị ruột của Têrêsa, có một số tập vở mà Céline đã ghi chép những đoạn Kinh Thánh từ quyển Kinh Thánh ở nhà cậu Isidore. Têrêsa không có Cựu ước, chị mượn những quyển tập đó và đọc cách say mê. Một hôm, chị đọc đến câu: “Hỡi người bé nhỏ, hãy đến với Ta” (Cn 9,4).

Hay quá, chị là người bé nhỏ ấy. Và Têrêsa đã tự hỏi Thiên Chúa sẽ làm gì cho kẻ bé nhỏ ngây thơ đến với Ngài với lòng tin tưởng? Lời giải đáp cho chị qua sấm ngôn Isaia:

“Các ngươi sẽ được ẵm vào lòng, được nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền ấp ủ con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,12-13).

Chị Têrêsa ngây ngất vì sung sướng, đây là chiếc thang máy mà chị đã tìm kiếm bấy lâu nay. Chúa Giêsu sẽ bế chị lên những đỉnh núi thánh thiện và chị đã khám phá ra một chân lý khác: muốn được Chúa Giêsu bồng bế, thì không những ta phải sống bé nhỏ, mà còn phải trở nên bé nhỏ nữa. Sự đảo nghịch thật là toàn diện, hoàn toàn phù hợp với sự nghịch lý của Tin Mừng. Tâm hồn chị hân hoan dâng lên Chúa lời tri ân:

– Ôi lạy Thiên Chúa, Chúa đã vượt trên tất cả mọi điều con khát vọng, và con muốn hát ca lòng nhân lành Ngài.

Sự bé nhỏ của Têrêsa, sự bất lực của chị đã trở thành căn nguyên khiến chị vui mừng. Bởi lẽ đó là cơ sở mà Tình Yêu Thương Xót có thể biểu hiện.

Kể từ hôm ấy, Têrêsa thường ký tên ở thư là “Têrêsa nhỏ”. Sự khám phá về con đường nhỏ này sẽ làm tăng tốc những bước tiến khổng lồ trên con đường thánh thiện. Vì điều con người không thể làm được, thì Thiên Chúa có khả năng thực hiện, chỉ cần phó thác hoàn toàn cho người Cha nhân lành này. Chị Têrêsa ngày càng minh chứng chân lý về con đường tin tưởng và yêu mến trong cuộc sống hằng ngày của mình.

3. Phó thác và tha thứ là căn tính của Kitô hữu

Dựa trên đoạn sách Tông đồ Công vụ nói về phó tế Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến chiều kích phục vụ của chức phó tế, không phải ở bàn thờ, nhưng là trong cộng đồng. Đức Thánh Cha cũng đề cao gương tử đạo của thánh Stêphanô: phó thác sự sống trong tay Chúa và tha thứ cho những kẻ làm hại mình. Đây chính là căn tính của các Kitô hữu.

Đức Thánh Cha đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 25 tháng Chín với hơn 20 ngàn tín hữu quy tụ tại quảng trường thánh Phêrô. Trong số các tín hữu, có một số tu sĩ của các dòng đang tham dự tổng tu nghị tại Roma, đặc biệt là 80 nữ tu dòng Saint Paul de Chartres, trong đó cũng có một số chị Việt Nam.

Tiếp tục loạt bài giáo lý về sách Tông đồ Công vụ, tuần này Đức Thánh Cha nói về phó tế Stêphanô, thánh tử đạo tiên khởi của Giáo hội. Trước hết, ngài là một phó tế, chức vụ được các Tông đồ thiết lập để phục vụ cộng đoàn. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến chiều kích phục vụ của chức phó tế, không phải ở bàn thờ, nhưng là trong cộng đồng. Đức Thánh Cha cũng đề cao gương tử đạo của thánh Stêphanô: phó thác sự sống trong tay Chúa và tha thứ cho những kẻ làm hại mình. Đây chính là căn tính của các Kitô hữu.

Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý với nhận xét rằng trong sách Tông đồ Công vụ, thánh sử Luca thuật lại sự lan rộng của Lời Chúa và cả những vấn đề nảy sinh trong cộng đoàn Giáo hội sơ khai. Sách Công vụ trình bày về cách cộng đoàn sơ khai hài hòa các khác biệt trong lòng Giáo hội và không để xảy ra những xung khắc và phân rẽ.

Xầm xì nhiều chuyện phá hoại cộng đoàn

Đức Thánh Cha nhận xét: Cộng đoàn sơ khai không chỉ chào đón người Do Thái, mà cả người Hy Lạp, những người đến từ cộng đồng hải ngoại, với văn hóa và sự nhạy cảm của riêng họ; họ cũng thuộc tôn giáo khác. Ngày nay chúng ta gọi họ là “dân ngoại”. Những người này được tiếp đón. Việc sống chung này tạo nên một sự hài hòa mong manh và bấp bênh; và trước những khó khăn này, trong cộng đoàn đã xuất hiện những bất đồng nghiêm trọng. Bất đồng tệ nhất phá hoại cộng đoàn chính là bất đồng xầm xì to nhỏ, nói xấu: người Hy Lạp lẩm bẩm phàn nàn vì cộng đồng thiếu quan tâm đến các bà góa trong nhóm của họ.

Không lơ là loan báo Tin Mừng, cũng không quên phục vụ người nghèo

Trước vấn đề này, các Tông đồ hành động như thế nào? Các ngài bắt đầu một quá trình phân định bao gồm việc xem xét kỹ càng các khó khăn và cùng nhau tìm kiếm các giải pháp. Họ tìm được cách giải quyết bằng cách phân chia các nhiệm vụ khác nhau, để trong toàn Giáo hội có được sự tăng trưởng an bình, và để tránh lơ là sự phát triển của Tin Mừng cũng như việc chăm sóc những thành viên nghèo khổ nhất.

Chức phó tế được thiết lập là để phục vụ cộng đoàn

Các Tông đồ ngày càng nhận thức rằng ơn gọi chính của họ là cầu nguyện và rao giảng Lời Chúa, và các ngài giải quyết vấn đề bằng cách thành lập một nhóm “hạt nhân” gồm “bảy người có danh tiếng tốt, đầy Chúa Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv 6,3), những người này, sau khi được các Tông đồ đặt tay, sẽ lo về các bữa ăn. Chức phó tế được thiết lập là để phục vụ. Trong Giáo hội, phó tế không phải là linh mục hạng hai. Phó tế không phải để phục vụ bàn thờ, nhưng để phục vụ. Đó là người coi sóc các công việc của Giáo Hội. Khi một phó tế rất thích phục vụ ở bàn thờ, thì là sai. Sự hài hòa giữa việc phục vụ Lời Chúa và phục vụ bác ái là chất men làm cho thân thể giáo hội phát triển.

Những lời vu khống giết hại người khác

Trong số bảy “phó tế”, Stêphanô và Philipphê nổi bật cách đặc biệt. Stêphanô rao giảng Tin Mừng với sức mạnh và sự thẳng thắn, nhưng lời nói của ngài gặp phải sự kháng cự ngoan cố nhất. Không tìm được cách nào để khiến ngài bỏ cuộc, các đối thủ của ngài chọn giải pháp tầm thường nhất để tiêu diệt một con người: đó là vu khống hoặc làm chứng gian. Chúng ta biết rằng vu khống giết hại người khác. Chứng “ung thư quái ác” này, xuất phát từ mong muốn hủy hoại danh tiếng của một người, cũng tấn công phần còn lại của cơ thể giáo hội và gây thiệt hại nghiêm trọng khi, vì lợi ích nhỏ nhặt hoặc để che đậy khiếm khuyết của chính mình, người ta liên minh để bôi nhọ ai đó.

Thánh Stêphanô bị dẫn vào Thượng Hội đồng và bị buộc tội bởi các chứng gian. Người Do Thái đã làm như vậy với Chúa Giêsu và người ta sẽ làm như thế với tất cả các vị tử đạo. Trước Thượng Hội đồng, thánh nhân lược lại lịch sử thánh, một lịch sử quy hướng về Chúa Kitô. Cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu chết và sống lại là chìa khóa cho toàn bộ lịch sử của giao ước. Trước lịch sử tràn đầy ơn thánh này, thánh Stêphanô can đảm tố cáo sự giả hình mà chính các ngôn sứ và Chúa Kitô đã tố cáo. Ngài nhắc lại lịch sử: “Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. (Cv 7,52). Thánh Stêphanô không dùng những lời nửa vời, nhưng nói rõ ràng, nói sự thật.

Căn tính môn đệ Chúa Kitô là Phó thác và tha thứ

Điều này khiến những người nghe phản ứng dữ dội và Stêphanô đã bị kết án chết, bị ném đá. Nhưng ngài đã diễn tả căn tính thực sự của người môn đệ Chúa Kitô. Ngài không tìm kiếm cách thoát thân, không cầu cứu những người có thể cứu mạng sống mình, nhưng đặt cuộc sống của mình trong tay Chúa và lời cầu nguyện của ngài trong giây phút ấy thật đẹp - “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con” (Cv 7,59) - và ngài chết như một người con của Chúa bằng cách tha thứ: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội lỗi này “ (Cv 7,60).

Đức Thánh Cha khẳng định: Những lời này của thánh Stêphanô dạy chúng ta rằng không phải là những bài diễn văn hay chứng tỏ căn tính con Thiên Chúa của chúng ta, mà chỉ có sự phó thác cuộc sống của chính mình trong tay Chúa Cha và sự tha thứ cho những người xúc phạm chúng ta, giúp chúng ta nhận ra phẩm chất đức tin của mình.

Các vị tử đạo là những người thực sự chiến thắng

Giáo hội ngày nay có rất nhiều các vị tử đạo. Ngày nay có nhiều vị tử đạo hơn là vào thời đầu của Giáo hội và các vị tử đạo ở khắp mọi nơi; Giáo hội được tưới bằng máu của các ngài; máu của các ngài là “hạt giống của các Kitô hữu mới”, và bảo đảm sự tăng trưởng và phong phú cho dân Chúa. Các vị tử đạo không phải là các “thánh”, nhưng là những người nam nữ bằng xương bằng thịt - như sách Khải huyền nói - “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. (Kh 7,14). Họ là những người chiến thắng thực sự.

Kết thúc bài giáo lý, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cầu xin Chúa để khi chiêm ngắm các vị tử đạo trong quá khứ và ngày nay, chúng ta có thể học cách sống một cuộc sống viên mãn, đón nhận sự tử đạo khi trung thành với Tin Mừng và trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày.

Đức Thánh Cha chào các tín hữu thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau, mời gọi họ theo gương thánh Stêphanô, tín thác vào Chúa trước những khó khăn và làm chứng tá cho Chúa bằng lòng yêu thương, tha thứ đối với những người gây hại cho mình.