Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:49 03/10/2019
48. Người khiêm tốn sẽ không hung dữ, bởi vì khiêm tốn dựa vào đức ái để cùng nhau vươn lên.
(Thánh Francis de Sales)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:02 03/10/2019
28. KHÔNG CẤM CƯỚP MỘ
Mưu Triều Sĩ tính hủ lậu, nhậm chức ở phủ Hà Trung huyện Vưu Môn.
Có một người tên là Tiết Thiếu Khanh trú ngụ rất lâu ở địa phương ấy. Ngày nọ, đột nhiên thấy cây thông và cây tu trên mộ của tổ tiên bị ai chặt mất tiêu, bèn đi đến huyện báo cáo.
Triều Sĩ cầm tờ cáo trạng vừa mới coi không biết rõ đâu đuôi như thế nào, bèn phán:
- “Vườn ngự uyển của Châu Văn vương thì bá tánh đều có thể đến đó đốn củi, thả trâu bò. Còn phần mộ của mày, Tiết Thiếu Khanh, có gì là không ổn mà cấm người ta đốn củi chứ !”
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 28:
Người dân thường mà hủ lậu thì người ta vẫn còn thứ tha thông cảm chứ người làm quan mà hủ lậu thì khó mà được người khác thông cảm, bởi vì cái hủ lậu của người dân ít làm hại ai, còn cái hủ lậu của người làm quan thì không những làm hại nước hại dân, mà còn làm cho người khác không tiến bộ được vì cái hủ lậu của họ.
Người hủ lậu là người có đầu óc lạc hậu và lỗi thời.
Có những người Ki-tô hữu ít đi lễ nhà thờ để nghe giảng, hoặc ít đến các lớp giáo lý để tìm hiểu thêm giáo lý của Giáo Hội nên họ sống đạo cách lạc hậu bằng cách giữ đạo hơn là sống đạo, nên họ chưa trưởng thành trong đời sống tín ngưỡng của mình.
Thời nay vẫn còn có một vài ông trùm ông biện trong giáo xứ lạc hậu và lỗi thời, các vị này đến nhà thờ vẫn còn cầm cây roi mây (tre) thu giấu sau lưng để quất đám trẻ con chơi giỡn nơi nhà thờ, họ vẫn còn bạt tai trẻ con khi chúng nó nói chuyện hoặc ngủ gục trong nhà thờ, mà không nhẹ nhàng nhắc nhở cho chúng nó biết nhà thờ là nơi mọi người cùng cầu nguyện đừng làm ồn người khác…
Giáo Hội luôn canh tân và đổi mới theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Thánh Thần, thì chúng ta cũng cần phải đi theo Giáo Hội để canh tân mình trước rồi canh tân người khác sau…
Đốn củi nơi nghĩa địa và chặt cây trồng trên mộ thì khác nhau xa, một bên thì đốn những cây không có chủ một bên thì chặt và phá hoại cây người ta trồng trên mộ.
Giữ đạo là đem đạo của mình “cất” trong ngăn tủ không cho ai biết và cũng chẳng cho ai, nhưng sống đạo là đem đạo mà mình tin mình yêu ra thực hành trong cuộc sống, làm cho đạo của mình trở thành ngọn đèn trước là soi sáng mình sau là soi sáng tha nhân để họ nhận ra Đức Chúa Giê-su Kitô đang sống trong chúng ta vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mưu Triều Sĩ tính hủ lậu, nhậm chức ở phủ Hà Trung huyện Vưu Môn.
Có một người tên là Tiết Thiếu Khanh trú ngụ rất lâu ở địa phương ấy. Ngày nọ, đột nhiên thấy cây thông và cây tu trên mộ của tổ tiên bị ai chặt mất tiêu, bèn đi đến huyện báo cáo.
Triều Sĩ cầm tờ cáo trạng vừa mới coi không biết rõ đâu đuôi như thế nào, bèn phán:
- “Vườn ngự uyển của Châu Văn vương thì bá tánh đều có thể đến đó đốn củi, thả trâu bò. Còn phần mộ của mày, Tiết Thiếu Khanh, có gì là không ổn mà cấm người ta đốn củi chứ !”
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 28:
Người dân thường mà hủ lậu thì người ta vẫn còn thứ tha thông cảm chứ người làm quan mà hủ lậu thì khó mà được người khác thông cảm, bởi vì cái hủ lậu của người dân ít làm hại ai, còn cái hủ lậu của người làm quan thì không những làm hại nước hại dân, mà còn làm cho người khác không tiến bộ được vì cái hủ lậu của họ.
Người hủ lậu là người có đầu óc lạc hậu và lỗi thời.
Có những người Ki-tô hữu ít đi lễ nhà thờ để nghe giảng, hoặc ít đến các lớp giáo lý để tìm hiểu thêm giáo lý của Giáo Hội nên họ sống đạo cách lạc hậu bằng cách giữ đạo hơn là sống đạo, nên họ chưa trưởng thành trong đời sống tín ngưỡng của mình.
Thời nay vẫn còn có một vài ông trùm ông biện trong giáo xứ lạc hậu và lỗi thời, các vị này đến nhà thờ vẫn còn cầm cây roi mây (tre) thu giấu sau lưng để quất đám trẻ con chơi giỡn nơi nhà thờ, họ vẫn còn bạt tai trẻ con khi chúng nó nói chuyện hoặc ngủ gục trong nhà thờ, mà không nhẹ nhàng nhắc nhở cho chúng nó biết nhà thờ là nơi mọi người cùng cầu nguyện đừng làm ồn người khác…
Giáo Hội luôn canh tân và đổi mới theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Thánh Thần, thì chúng ta cũng cần phải đi theo Giáo Hội để canh tân mình trước rồi canh tân người khác sau…
Đốn củi nơi nghĩa địa và chặt cây trồng trên mộ thì khác nhau xa, một bên thì đốn những cây không có chủ một bên thì chặt và phá hoại cây người ta trồng trên mộ.
Giữ đạo là đem đạo của mình “cất” trong ngăn tủ không cho ai biết và cũng chẳng cho ai, nhưng sống đạo là đem đạo mà mình tin mình yêu ra thực hành trong cuộc sống, làm cho đạo của mình trở thành ngọn đèn trước là soi sáng mình sau là soi sáng tha nhân để họ nhận ra Đức Chúa Giê-su Kitô đang sống trong chúng ta vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Chia sẻ với em: KINH MÂN CÔI (tiếp theo)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:27 03/10/2019
Chia sẻ với em: KINH MÂN CÔI (tiếp theo)
NĂM SỰ MỪNG
Niềm vui cứu độ
1. Đức Chúa Giê-su sống lại.
Thánh Phao-lô tông đồ rao giảng cho giáo đoàn Cô-rin-tô về Đức Chúa Giê-su sống lại như sau: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em chinh điều mà tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.”(1Cr 15, 3-4) Đức Chúa Giê-su đã sống lại, như lời Ngài đã mạc khải cho các người Pha-ri-siêu, nhưng có lẽ vì đầu óc kiêu ngạo mà họ không tin hoặc không muốn biết: “Quả thật, ông Giô-na ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.”(Mt 12, 40)
Đức Chúa Giê-su đã sống lại như lời các thiên sứ đã báo cho hai bà Maria Magdala và một bà Maria khác: “Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói.”(Mt 28, 5b-6)
Đức Chúa Giê-su đã sống lại vả đang giải thích Sách Thánh cho hai môn đệ trên đường Em-mau: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?”(Lc 24, 25-26)
Và còn rất nhiều bằng chứng để cho chúng ta biết được và tin rằng: Đức Chúa Giê-su đẵ sống lại thật rồi, và từ đây tiếng hát vui mừng Alleluia sẽ được vang xa đến tận chân trời góc biển, và kéo dài cho đến khi Chúa lại đến lần thứ hai trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Đức Chúa Giê-su đã sống lại là niềm tin căn bản của người Ki-tô hữu, một niềm tin mà nếu không có ân sủng đặc biệt thì chắc chắn không một ai tin được, bởi vì như một số người ác cảm với Giáo Hội, chống đối Thiên Chúa, đã nói rằng, Đức Chúa Giê-su sống lại chỉ là chuyện cổ tích hoang đường của các môn đệ Ngài bịa đặt láo khoét. Thế nhưng, dù họ tin hay không tin, công nhận hay phủ nhận, thì Đức Chúa Giê-su vẫn cứ là Thiên Chúa làm người, Đấng đã từ trong cõi chết sống lại, và muôn đời sự chết sẽ không còn làm chủ được Ngài nữa, mà trái lại, muôn loài trên trời dưới đất đều phải tùng phục quyền bính của Ngài, bởi vì trong Ngài mà mọi loài được tạo thành (Cl 1, 16).
Đức Mẹ Ma-ri-a –Đấng đồng công cứu chuộc loài người- đã chờ đợi từng giây từng phút lịch sử này, giờ đây đã rất vui mừng vì Con mình đã sống lại, và Mẹ càng vui mừng hơn nữa khi nhân loại, từ đây, sẽ nhận biết bao là ân sủng từ trời xuống bởi sự sống lại của Đức Chúa Giê-su.
Hạt lúa mì gieo vào lòng đất giờ đây đã nẩy mầm, sự sống bất diệt –Đức Chúa Giê-su – từ đây sẽ không bao giờ chết nữa. Các thiên thần vui mừng vì thần dữ sa tan từ đây sẽ không còn quyền lực gì trên sự sống, các thánh trong ngục tổ tông vui mừng vì họ đã thoát khỏi cảnh giam cầm trong tối tăm để lên thiên đàng với Đức Chúa Giê-su, người thế vui mừng, vì từ đây họ sẽ được hạnh phúc đón nhận lại thiên chức làm con của Chúa qua sự chết và sống lại của Đức Chúa Giê-su. Cả trên trời dưới đất đều vui mừng, và triều thiên vinh quang bất diệt thuộc về Đức Chúa Giê-su –Đấng Thiên Chúa làm người- như trong sách Khải Huyền đã viết: “Con Chiên đã bị giết xứng đáng nhận quyền năng và Thiên Tính, sự khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và phúc lộc. Lạy Chúa, Chúa đã cứu chuộc chúng con trong máu Chúa, chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi sắc dân, mọi quốc gia, Chúa làm cho chúng con trở thành vương tước và tư tế của Thiên Chúa, và chúng con sẽ thống trị trái đất.”(Kh 5, 9-12)
“Đức Chúa Giê-su đã sống lại” Giáo Hội cầu xin cho mỗi người trong chúng ta sống lại thật về phần linh hồn.
Sống lại thật về phần linh hồn, tức là ăn năn đền tội và cải thiện đời sống như Đức Mẹ Ma-ri-a dạy, bởi vì chỉ có thật lòng cải thiện, thật lòng thay đổi cuộc sống cũ qua cuộc sống mới của mình mới có thể sống lại với Đức Chúa Giê-su.
Sự thay đổi thật nào có đau khổ, hy sinh và rướm máu thì sự thay đổi ấy mới có giá trị, như Đức Chúa Giê-su đã đi từ đau khổ qua sự chết để đến vinh quang phục sinh. Các môn đệ của Ngài cũng không đi ra khỏi quỷ đạo ấy, tức là đi theo con đường mà Chúa đã đi qua, như lời Ngài nói với thánh Tô-ma: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Đức Chúa Cha mà không qua Thầy.”(Ga 14, 6) và chỉ có con đường này mới làm cho chúng ta phục sinh với Đức Chúa Giê-su mà thôi.
Đức Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết là một phép lạ vĩ đại nhất để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật, cũng như để củng cố niềm tin cho các tông đồ. Ngài chính là sự cứu rỗi của nhân loại và là niềm hy vọng của những người tin kính và yêu mến Ngài.
2. Đức Chúa Giê-su lên trời.
Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gởi cho giáo đoàn Ê-phê-xô đã viết: “Khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.”(Ep 1, 20)
Mầu nhiệm kinh Mân Côi không dừng lại ở việc suy niệm Đức Chúa Giê-su sống lại mà thôi, nhưng còn mời gọi chúng ta tiếp tục suy ngắm quê hương thật của chúng ta là thiên đàng, nơi mà Đức Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi sống lại từ cõi chết. Lên trời tức là lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nơi mà Đức Chúa Giê-su đã khước từ vinh quang để xuống thế mặc xác phàm nhân như con người, ngoại trừ tội lỗi. Để từ đây Đức Chúa Giê-su “từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.”(Ep 1, 3b)
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương tạm ở trần gian và một quê hương thật ở trên trời; quê hương tạm là nơi để chúng ta đền tội, lập công, là nơi để chúng ta chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Thiên Chúa trên thiên đàng mai sau, tuy nhiên, việc được về quê thật hay không là tùy thuộc vào những công việc mà chúng ta làm ở trần gian này. Nếu ở trần gian này chúng ta biết nghe và thực hành Lời Chúa dạy, thì việc sẽ được cư ngụ vĩnh viễn trên thiên đàng sẽ là hiện thực, nhưng nếu chúng ta sống như những người con của tội lỗi, của ma quỷ, nghĩa là chúng ta sống theo dục vọng, để bản năng thống trị ý chí tinh thần mà trở thành công cụ của ma quỷ, thì chắc chắn nơi ở của chúng ta trên trời sẽ bị người khác chiếm đoạt.
Tại sao Đức Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, bởi vì Thiên Chúa muốn chúng ta nhờ Ngài mà được lên thiên đàng; tại sao Đức Chúa Giê-su phải chịu chết trên thánh giá, bởi vì ý Thiên Chúa muốn nhờ Ngài mà chúng ta được dự phần thiên đàng; tại sao Đức Mẹ Ma-ri-a lại luôn thôi thúc chúng ta ăn năn đền tội cải thiện đời sống, là bởi vì Mẹ biết rằng, nếu không ăn năn hối cải thì chúng ta sẽ đời đời xa cách Thiên Chúa mà nhập bọn với ma quỷ trong hỏa ngục.
Giáo Hội mời gọi chúng ta yêu mến ái mộ những sự trên trời khi suy ngắm mầu nhiệm lên trời của Đức Chúa Giê-su, bởi vì nếu không yêu mến những hạnh phúc mà các thánh đã đạt tới trên thiên đàng, thì chúng ta không thể nào sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này được.
Yêu mến và ái mộ những sự trên trời, tức là yêu mến Cha và mong đợi ngày được sum họp với Cha trên trời, đó cũng chính là điều mà Đức Chúa Giê-su đã mạc khải cho chúng ta khi dạy chúng ta cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời...”(Mt 6, 9-13)
Đức Mẹ Ma-ri-a từ trời hiện xuống để dạy dỗ con cái mình biết thực hành ý của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, để ngày sau được hưởng thiên đàng với Chúa, với Mẹ, với các thiên thần và các thánh nam nữ. Đó cũng là mục đích sống ở đời này của chúng ta.
3. Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi về trời, Đức Chúa Giê-su đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống cho các tông đồ: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Đức Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”(Cv 1, 7-8a) Và việc trước tiên mà Đức Chúa Giê-su sau khi về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phải làm là ban Chúa Thánh Thần xuống cho các tông đồ, để Thánh Thần trở nên Thần Khí, Đấng an ủi, Đấng bảo trợ của các tông đồ và tất cả những kẻ tin vào Ngài.
Thánh sử Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu lại một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống trên từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.”(Cv 2, 1-4) Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi mà Đức Chúa Giê-su sai đến nhân danh Ngài để giúp các tông đồ trong giai đoạn “mồ côi” này, chính Ngài –trong ngày lễ Ngũ Tuần- đã khai sinh Giáo Hội Chúa Ki-tô ở trần gian, chính Ngài hướng dẫn Giáo Hội đi theo đường hướng mà Đức Chúa Giê-su đã vạch ra cho các tông đồ trong những ngày giàng dạy tại trần gian là: yêu thương, hiệp nhất và phục vụ.
Hiệu quả của ơn Thánh Thần ban cho các tông đồ ngay lập tức khi đón nhận là ơn nói tiếng lạ, bởi vì Thánh Thần là thầy dạy, nên Ngài biết nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn sơ khai của Giáo Hội là truyền đạt tin mừng Nước Trời cho muôn dân thiên hạ, chứ không riêng gì cho dân tộc Do Thái. Và như một cơ hội hiếm có -mà như có bàn tay Chúa sắp đặt- trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, rất đông người đến tham dự, đủ mọi dân tộc, mọi thứ ngôn ngữ, và nắm bắt cơ hội này, các tông đồ lập tức nói về Đức Chúa Giê-su cho mọi người nghe, và ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.(Cv 2, 6)
Chúa Thánh Thần hiện xuống để khai mở lòng trí các tông đồ, để các ngài nhớ lại những gì mà Đức Chúa Giê-su đã dạy các ông, và từ đó các tông đồ đã mạnh dạn ra đi rao truyền Phúc Âm cho mọi người. Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng đã hiện diện giữa các tông đồ, Mẹ cũng được diễm phúc đón nhận Chúa Thánh Thần, như một dấu chỉ và điềm báo trước là từ nay Đức Mẹ Ma-ri-a có một vị thế rất quan trọng trong Giáo Hội của Chúa Ki-tô ở trần gian, và Mẹ đã nên Đấng cầu bàu cho chúng ta và Đức Chúa Giê-su.
Giáo Hội của Chúa Ki-tô được lập ra vì trần gian và cho trần gian, nhưng không phải của trần gian, do đó cần phải được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và dạy bảo, chính nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội Công Giáo đã đi suốt chặng đường lịch sử hơn hai ngàn năm và sẽ tồn tại cho đến khi viên mãn trong Nước Trời, tức là ngày Đức Chúa Giê-su lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết
Đức Mẹ Ma-ri-a ngay từ khi sứ thần Gabriel truyền tin, đã được sung mãn ơn Chúa Thánh Thần, và nhờ Thánh Thần soi sáng mà Mẹ mau mắn nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện trên trần gian, do đó mà Mẹ đã mạnh dạn cất tiếng đáp trả lời đề nghị của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”( Lc 1, 38) Và hôm nay, trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần lại ngự xuống trên Mẹ cùng với các tông đồ, lần hiện xuống này Chúa Thánh Thần đã mạc khải cho các tông đồ nhận ra Đức Mẹ Ma-ri-a là Mẹ của Giáo Hội, bởi vì chính Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế, là thầy và là Chúa của các tông đồ, do đó, Mẹ vẫn luôn đồng hành với Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su để nâng đỡ, an ủi và dạy bảo Giáo Hội giữa cảnh phong ba thế tục này.
Chúa Thánh Thần là ngự xuống trên các tông đồ và Đức Mẹ Ma-ri-a trong ngày lễ Ngũ Tuần, và vẫn còn hiện diện với Giáo Hội luôn mãi cho đến ngày tận thế, vai trò Chúa Thánh Thần trong suốt chặng đường lịch sử của Giáo Hội rất quan trọng, bởi vì Giáo Hội như chiếc thuyền đang đi trên biển lớn trần gian để cập bến Nước Trời, mà Chúa Thánh Thần chính là bánh lái điều khiển con thuyền theo đường hướng của Đức Chúa Giê-su đã dạy, và các tông đồ cũng như những người kế vị các ngài trong chức giám mục đều cứ nhắm hướng ấy mà hướng dẫn con tàu đụa phương đi đến đích của mình là Nước Trời.
Giáo Hội khi suy ngắm đến việc Chúa Thánh Thần hiện xuống cho các tông đồ và Đức Mẹ Ma-ri-a trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đã mời gọi chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Giê-su luôn ban ơn Thánh Thần xuống cho mình để hướng dẫn và dạy bảo chúng ta sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này. Tâm hồn của chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, là nơi mà Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, Đức Mẹ Ma-ri-a đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta hiểu biết điều ấy khi Mẹ luôn dạy chúng ta hãy ăn năn sám hối, hãy cải thiện đời sống. Để làm gì ? Là để cho tâm hồn chúng ta được thanh sạch, để xứng đáng là nơi ngự của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần là để chúng ta biết phân biệt được đâu là công việc của Chúa và đâu là việc của ma quỷ, đâu là tiếng nói của Chúa và đâu là tiếng nói của tự ái kiêu căng, đâu là việc nên làm và đâu là việc không nên làm. Để như lời thánh Phao-lô tông đồ nói: “Những ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa, người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.”(2 Cr 10, 17-18)
4. Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời.
Cuộc sống ở trần gian cũng có lúc đến hồi kết thúc, Đức Mẹ Ma-ri-a được Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác, đó là một đặc ân cao quý vô cùng, như lời Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 1.11.1950: “Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF, 207).
Thiên Chúa tôn vinh Mẹ, Giáo Hội tôn vinh Mẹ và mỗi người con đều hân hoan vui sướng vì người mẹ cao quý của mình đã được diễm phúc lên trời cả hồn lẫn xác. Qua miệng của vị đại diện Con Mẹ ở trần gian, Giáo Hội nhìn nhận và tin rằng: Đức Mẹ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác. Đó không phải là chuyện thần thoại hoang đường, nhưng là một thực tại của đức tin, đức tin mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã biểu hiện ngay khi còn ở thế gian, nhất là khi nói hai tiếng Xin Vâng thì đức tin của Mẹ càng thêm mạnh mẽ, và càng mạnh mẽ hơn khi Đức Chúa Giê-su sinh ra cho đến khi Ngài bị đóng đinh vào thập giá và chết, và niềm tin tuyệt vời này đã sinh hoa trái là Đức Chúa Giê-su Con Mẹ đã sống lại vinh quang.
Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời cả hồn lẫn xác, để rồi được tôn vinh là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương trên trời dưới đất, và biết bao danh hiệu đẹp và cao quý khác mà nhân loại dành cho Mẹ. Chính việc lên trời cả hồn lẫn xác này mà Mẹ đã trở thành kẻ cầu bàu cho chúng ta trước mặt Đức Chúa Giê-su. Cũng như Đức Chúa Giê-su, Mẹ lên trời để dọn chỗ cho chúng ta là con cái của Mẹ, Mẹ biết vị trí tương lai của từng đứa con một trên thiên đàng, và khi thấy nhân loại ngày càng xa cách Thiên Chúa và vị trí của họ trên thiên đàng đang mất dần, thì Mẹ lại xuất hiện nhắc nhở, khuyên bảo con cái hãy cải thiện đời sống, hãy ăn năn đền tội để nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và để vị trí của họ trên thiên đàng khỏi mất.
Đức Mẹ Ma-ri-a từ giả cõi đời bình an trong vòng tay thân yêu và trong sự thương tiếc của các tông đồ, những môn đệ thân yêu của Đức Chúa Giê-su, từ nay vị thế cao trọng của Mẹ trước mặt Thiên Chúa càng cao hơn và quyền thế hơn, không những cho Mẹ mà còn cho nhân loại được nhờ công phúc của Mẹ mà được đến gần với Chúa hơn.
Giáo Hội mời gọi chúng ta khi suy ngắm đến mầu nhiệm Mẹ lên trời này, thì cầu xin Mẹ phù hộ cho chúng ta được ơn chết lành trong tay Mẹ, đó là lời cầu xin xứng đáng, như Mẹ đã từng hứa cho những ai hết lòng yêu mến Mẹ và Đức Chúa Giê-su con Mẹ, được sự an ủi và giúp đỡ của Mẹ trong giờ lâm chung. Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời là cả một niềm hy vọng cho chúng ta, những đứa con của Mẹ, bởi vì Thiên Chúa không tàn nhẫn để mẹ con cách biệt sau khi từ giả cõi đời, Mẹ ờ đâu thì con ở đó, chỉ khi nào chúng ta tự mình muốn tách khỏi Mẹ để đi tìm cho mình một nơi khác ngoài thiên đàng mà thôi.
Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời là niềm hy vọng và ủi an của giáo hữu ở trần gian, bởi vì một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ được ở trên thiên đàng với Mẹ.
5. Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời.
Đức Mẹ Ma-ri-a đã lên trời, đó là phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những ai khi còn sống ở thế gian này mà hết lòng kính mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình. Nhưng Thiên Chúa còn muốn thưởng Đức Mẹ Ma-ri-a những ơn khác ở khi Mẹ ở trên trời, để nhờ Mẹ mà nhân loại chúng ta đón nhận dồi dào những ơn của Chúa hơn.
Trước hết, Thiên Chúa đặt Mẹ làm Nữ Vương trên trời dưới đất, cũng có nghĩa là Mẹ có toàn quyền ban phát ơn lành cho người thế, và là Đấng cầu bàu rất có thế giá trước mặt Thiên Chúa và con của mình là Đức Chúa Giê-su. Nói như thế không phải là Mẹ quyền năng phép tắc hơn Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người, Ngài rất “rành” tâm lý của con người, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao trọng, mà con người khi phạm tội thì không dám đến trước mặt Chúa để xin lỗi, nên nhờ công nghiệp của Mẹ và chức vị Nữ Vương của Mẹ để xin Chúa tha tội cho họ, bởi vì không một ai yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a mà lại không kính thờ Thiên Chúa.
Ơn cao trọng kế tiếp mà Thiên Chúa thưởng cho Đức Mẹ Ma-ri-a khi ở trên trời chính là Mẹ trở nên kho tàng mọi ân sủng của trời cao, có thể nói tất cả ân sủng của Thiên Chúa đều đã ban cho Mẹ, như lời dạy của thánh Công Đồng Vatican II: “Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài (Mẹ) trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn luôn tiếp tục cầu bàu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời.”(Cđ Vatican II: Hiến chế tín lý về giáo hội, ch. 8 số 62) Giáo Hội đã xác định như thế, vì Giáo Hội qua bao nhiêu thăng trầm của chính mình và của thế giới, đã cảm nghiệm được quyền thế của Đức Mẹ Ma-ri-a trước tòa Thiên Chúa, và nhờ đó mà Mẹ can thiệp kịp thời và ban ơn lành xuống cho Giáo Hội và cho thế giới.
Đức Mẹ Ma-ri-a là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa, có nghĩa là Mẹ cũng được Thiên Chúa cho phép được chia sẻ một phần nhỏ vào vinh quang và quyền năng của Ngài, để qua Mẹ mà nhân loại dễ dàng đến với Chúa hơn.
Những lần Đức Mẹ Ma-ri-a hiện ra cho loài người, là những lần Mẹ tỏ cho loài người thấy và biết quyền thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa, những lời Mẹ dạy, những phép lạ Mẹ làm đều phù hợp với ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Và thánh công đồng Vatican II lại một lẫn nữa khẳng định Mẹ chính là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa: “Thật thế mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Đức Trinh Nữ trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Ki-tô.”(Cđ Vatican II: Hiến chế tín lý về giáo hội, ch. 8 số 61)
Thiên Chúa thưởng công cho Đức Mẹ Ma-ri-a trên trời là kết thúc mầu nhiệm mùa Mừng, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống xứng đáng với những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho, qua trung gian Đức Mẹ Ma-ri-a, để ngày sau chúng ta cũng được Thiên Chúa thưởng ở trên trời với Mẹ. Bởi vì được sum họp vớ Chúa và Mẹ trên trời chính là mục đích sống của chúng ta ở đời này.
Mầu nhiệm mùa Mừng của kinh Mân Côi là niềm vui và hy vọng cứu độ của chúng ta, suy ngắm và sống với mầu nhiệm này là chúng ta biết Thiên Chúa và Đức Mẹ Ma-ri-a yêu thương chúng ta đến chừng nào.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
NĂM SỰ MỪNG
Niềm vui cứu độ
1. Đức Chúa Giê-su sống lại.
Thánh Phao-lô tông đồ rao giảng cho giáo đoàn Cô-rin-tô về Đức Chúa Giê-su sống lại như sau: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em chinh điều mà tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.”(1Cr 15, 3-4) Đức Chúa Giê-su đã sống lại, như lời Ngài đã mạc khải cho các người Pha-ri-siêu, nhưng có lẽ vì đầu óc kiêu ngạo mà họ không tin hoặc không muốn biết: “Quả thật, ông Giô-na ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.”(Mt 12, 40)
Đức Chúa Giê-su đã sống lại như lời các thiên sứ đã báo cho hai bà Maria Magdala và một bà Maria khác: “Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói.”(Mt 28, 5b-6)
Đức Chúa Giê-su đã sống lại vả đang giải thích Sách Thánh cho hai môn đệ trên đường Em-mau: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?”(Lc 24, 25-26)
Và còn rất nhiều bằng chứng để cho chúng ta biết được và tin rằng: Đức Chúa Giê-su đẵ sống lại thật rồi, và từ đây tiếng hát vui mừng Alleluia sẽ được vang xa đến tận chân trời góc biển, và kéo dài cho đến khi Chúa lại đến lần thứ hai trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Đức Chúa Giê-su đã sống lại là niềm tin căn bản của người Ki-tô hữu, một niềm tin mà nếu không có ân sủng đặc biệt thì chắc chắn không một ai tin được, bởi vì như một số người ác cảm với Giáo Hội, chống đối Thiên Chúa, đã nói rằng, Đức Chúa Giê-su sống lại chỉ là chuyện cổ tích hoang đường của các môn đệ Ngài bịa đặt láo khoét. Thế nhưng, dù họ tin hay không tin, công nhận hay phủ nhận, thì Đức Chúa Giê-su vẫn cứ là Thiên Chúa làm người, Đấng đã từ trong cõi chết sống lại, và muôn đời sự chết sẽ không còn làm chủ được Ngài nữa, mà trái lại, muôn loài trên trời dưới đất đều phải tùng phục quyền bính của Ngài, bởi vì trong Ngài mà mọi loài được tạo thành (Cl 1, 16).
Đức Mẹ Ma-ri-a –Đấng đồng công cứu chuộc loài người- đã chờ đợi từng giây từng phút lịch sử này, giờ đây đã rất vui mừng vì Con mình đã sống lại, và Mẹ càng vui mừng hơn nữa khi nhân loại, từ đây, sẽ nhận biết bao là ân sủng từ trời xuống bởi sự sống lại của Đức Chúa Giê-su.
Hạt lúa mì gieo vào lòng đất giờ đây đã nẩy mầm, sự sống bất diệt –Đức Chúa Giê-su – từ đây sẽ không bao giờ chết nữa. Các thiên thần vui mừng vì thần dữ sa tan từ đây sẽ không còn quyền lực gì trên sự sống, các thánh trong ngục tổ tông vui mừng vì họ đã thoát khỏi cảnh giam cầm trong tối tăm để lên thiên đàng với Đức Chúa Giê-su, người thế vui mừng, vì từ đây họ sẽ được hạnh phúc đón nhận lại thiên chức làm con của Chúa qua sự chết và sống lại của Đức Chúa Giê-su. Cả trên trời dưới đất đều vui mừng, và triều thiên vinh quang bất diệt thuộc về Đức Chúa Giê-su –Đấng Thiên Chúa làm người- như trong sách Khải Huyền đã viết: “Con Chiên đã bị giết xứng đáng nhận quyền năng và Thiên Tính, sự khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và phúc lộc. Lạy Chúa, Chúa đã cứu chuộc chúng con trong máu Chúa, chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi sắc dân, mọi quốc gia, Chúa làm cho chúng con trở thành vương tước và tư tế của Thiên Chúa, và chúng con sẽ thống trị trái đất.”(Kh 5, 9-12)
“Đức Chúa Giê-su đã sống lại” Giáo Hội cầu xin cho mỗi người trong chúng ta sống lại thật về phần linh hồn.
Sống lại thật về phần linh hồn, tức là ăn năn đền tội và cải thiện đời sống như Đức Mẹ Ma-ri-a dạy, bởi vì chỉ có thật lòng cải thiện, thật lòng thay đổi cuộc sống cũ qua cuộc sống mới của mình mới có thể sống lại với Đức Chúa Giê-su.
Sự thay đổi thật nào có đau khổ, hy sinh và rướm máu thì sự thay đổi ấy mới có giá trị, như Đức Chúa Giê-su đã đi từ đau khổ qua sự chết để đến vinh quang phục sinh. Các môn đệ của Ngài cũng không đi ra khỏi quỷ đạo ấy, tức là đi theo con đường mà Chúa đã đi qua, như lời Ngài nói với thánh Tô-ma: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Đức Chúa Cha mà không qua Thầy.”(Ga 14, 6) và chỉ có con đường này mới làm cho chúng ta phục sinh với Đức Chúa Giê-su mà thôi.
Đức Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết là một phép lạ vĩ đại nhất để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật, cũng như để củng cố niềm tin cho các tông đồ. Ngài chính là sự cứu rỗi của nhân loại và là niềm hy vọng của những người tin kính và yêu mến Ngài.
2. Đức Chúa Giê-su lên trời.
Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gởi cho giáo đoàn Ê-phê-xô đã viết: “Khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.”(Ep 1, 20)
Mầu nhiệm kinh Mân Côi không dừng lại ở việc suy niệm Đức Chúa Giê-su sống lại mà thôi, nhưng còn mời gọi chúng ta tiếp tục suy ngắm quê hương thật của chúng ta là thiên đàng, nơi mà Đức Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi sống lại từ cõi chết. Lên trời tức là lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nơi mà Đức Chúa Giê-su đã khước từ vinh quang để xuống thế mặc xác phàm nhân như con người, ngoại trừ tội lỗi. Để từ đây Đức Chúa Giê-su “từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.”(Ep 1, 3b)
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương tạm ở trần gian và một quê hương thật ở trên trời; quê hương tạm là nơi để chúng ta đền tội, lập công, là nơi để chúng ta chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Thiên Chúa trên thiên đàng mai sau, tuy nhiên, việc được về quê thật hay không là tùy thuộc vào những công việc mà chúng ta làm ở trần gian này. Nếu ở trần gian này chúng ta biết nghe và thực hành Lời Chúa dạy, thì việc sẽ được cư ngụ vĩnh viễn trên thiên đàng sẽ là hiện thực, nhưng nếu chúng ta sống như những người con của tội lỗi, của ma quỷ, nghĩa là chúng ta sống theo dục vọng, để bản năng thống trị ý chí tinh thần mà trở thành công cụ của ma quỷ, thì chắc chắn nơi ở của chúng ta trên trời sẽ bị người khác chiếm đoạt.
Tại sao Đức Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, bởi vì Thiên Chúa muốn chúng ta nhờ Ngài mà được lên thiên đàng; tại sao Đức Chúa Giê-su phải chịu chết trên thánh giá, bởi vì ý Thiên Chúa muốn nhờ Ngài mà chúng ta được dự phần thiên đàng; tại sao Đức Mẹ Ma-ri-a lại luôn thôi thúc chúng ta ăn năn đền tội cải thiện đời sống, là bởi vì Mẹ biết rằng, nếu không ăn năn hối cải thì chúng ta sẽ đời đời xa cách Thiên Chúa mà nhập bọn với ma quỷ trong hỏa ngục.
Giáo Hội mời gọi chúng ta yêu mến ái mộ những sự trên trời khi suy ngắm mầu nhiệm lên trời của Đức Chúa Giê-su, bởi vì nếu không yêu mến những hạnh phúc mà các thánh đã đạt tới trên thiên đàng, thì chúng ta không thể nào sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này được.
Yêu mến và ái mộ những sự trên trời, tức là yêu mến Cha và mong đợi ngày được sum họp với Cha trên trời, đó cũng chính là điều mà Đức Chúa Giê-su đã mạc khải cho chúng ta khi dạy chúng ta cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời...”(Mt 6, 9-13)
Đức Mẹ Ma-ri-a từ trời hiện xuống để dạy dỗ con cái mình biết thực hành ý của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, để ngày sau được hưởng thiên đàng với Chúa, với Mẹ, với các thiên thần và các thánh nam nữ. Đó cũng là mục đích sống ở đời này của chúng ta.
3. Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi về trời, Đức Chúa Giê-su đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống cho các tông đồ: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Đức Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”(Cv 1, 7-8a) Và việc trước tiên mà Đức Chúa Giê-su sau khi về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phải làm là ban Chúa Thánh Thần xuống cho các tông đồ, để Thánh Thần trở nên Thần Khí, Đấng an ủi, Đấng bảo trợ của các tông đồ và tất cả những kẻ tin vào Ngài.
Thánh sử Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu lại một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống trên từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.”(Cv 2, 1-4) Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi mà Đức Chúa Giê-su sai đến nhân danh Ngài để giúp các tông đồ trong giai đoạn “mồ côi” này, chính Ngài –trong ngày lễ Ngũ Tuần- đã khai sinh Giáo Hội Chúa Ki-tô ở trần gian, chính Ngài hướng dẫn Giáo Hội đi theo đường hướng mà Đức Chúa Giê-su đã vạch ra cho các tông đồ trong những ngày giàng dạy tại trần gian là: yêu thương, hiệp nhất và phục vụ.
Hiệu quả của ơn Thánh Thần ban cho các tông đồ ngay lập tức khi đón nhận là ơn nói tiếng lạ, bởi vì Thánh Thần là thầy dạy, nên Ngài biết nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn sơ khai của Giáo Hội là truyền đạt tin mừng Nước Trời cho muôn dân thiên hạ, chứ không riêng gì cho dân tộc Do Thái. Và như một cơ hội hiếm có -mà như có bàn tay Chúa sắp đặt- trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, rất đông người đến tham dự, đủ mọi dân tộc, mọi thứ ngôn ngữ, và nắm bắt cơ hội này, các tông đồ lập tức nói về Đức Chúa Giê-su cho mọi người nghe, và ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.(Cv 2, 6)
Chúa Thánh Thần hiện xuống để khai mở lòng trí các tông đồ, để các ngài nhớ lại những gì mà Đức Chúa Giê-su đã dạy các ông, và từ đó các tông đồ đã mạnh dạn ra đi rao truyền Phúc Âm cho mọi người. Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng đã hiện diện giữa các tông đồ, Mẹ cũng được diễm phúc đón nhận Chúa Thánh Thần, như một dấu chỉ và điềm báo trước là từ nay Đức Mẹ Ma-ri-a có một vị thế rất quan trọng trong Giáo Hội của Chúa Ki-tô ở trần gian, và Mẹ đã nên Đấng cầu bàu cho chúng ta và Đức Chúa Giê-su.
Giáo Hội của Chúa Ki-tô được lập ra vì trần gian và cho trần gian, nhưng không phải của trần gian, do đó cần phải được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và dạy bảo, chính nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội Công Giáo đã đi suốt chặng đường lịch sử hơn hai ngàn năm và sẽ tồn tại cho đến khi viên mãn trong Nước Trời, tức là ngày Đức Chúa Giê-su lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết
Đức Mẹ Ma-ri-a ngay từ khi sứ thần Gabriel truyền tin, đã được sung mãn ơn Chúa Thánh Thần, và nhờ Thánh Thần soi sáng mà Mẹ mau mắn nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện trên trần gian, do đó mà Mẹ đã mạnh dạn cất tiếng đáp trả lời đề nghị của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”( Lc 1, 38) Và hôm nay, trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần lại ngự xuống trên Mẹ cùng với các tông đồ, lần hiện xuống này Chúa Thánh Thần đã mạc khải cho các tông đồ nhận ra Đức Mẹ Ma-ri-a là Mẹ của Giáo Hội, bởi vì chính Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế, là thầy và là Chúa của các tông đồ, do đó, Mẹ vẫn luôn đồng hành với Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su để nâng đỡ, an ủi và dạy bảo Giáo Hội giữa cảnh phong ba thế tục này.
Chúa Thánh Thần là ngự xuống trên các tông đồ và Đức Mẹ Ma-ri-a trong ngày lễ Ngũ Tuần, và vẫn còn hiện diện với Giáo Hội luôn mãi cho đến ngày tận thế, vai trò Chúa Thánh Thần trong suốt chặng đường lịch sử của Giáo Hội rất quan trọng, bởi vì Giáo Hội như chiếc thuyền đang đi trên biển lớn trần gian để cập bến Nước Trời, mà Chúa Thánh Thần chính là bánh lái điều khiển con thuyền theo đường hướng của Đức Chúa Giê-su đã dạy, và các tông đồ cũng như những người kế vị các ngài trong chức giám mục đều cứ nhắm hướng ấy mà hướng dẫn con tàu đụa phương đi đến đích của mình là Nước Trời.
Giáo Hội khi suy ngắm đến việc Chúa Thánh Thần hiện xuống cho các tông đồ và Đức Mẹ Ma-ri-a trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đã mời gọi chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Giê-su luôn ban ơn Thánh Thần xuống cho mình để hướng dẫn và dạy bảo chúng ta sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này. Tâm hồn của chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, là nơi mà Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, Đức Mẹ Ma-ri-a đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta hiểu biết điều ấy khi Mẹ luôn dạy chúng ta hãy ăn năn sám hối, hãy cải thiện đời sống. Để làm gì ? Là để cho tâm hồn chúng ta được thanh sạch, để xứng đáng là nơi ngự của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần là để chúng ta biết phân biệt được đâu là công việc của Chúa và đâu là việc của ma quỷ, đâu là tiếng nói của Chúa và đâu là tiếng nói của tự ái kiêu căng, đâu là việc nên làm và đâu là việc không nên làm. Để như lời thánh Phao-lô tông đồ nói: “Những ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa, người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.”(2 Cr 10, 17-18)
4. Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời.
Cuộc sống ở trần gian cũng có lúc đến hồi kết thúc, Đức Mẹ Ma-ri-a được Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác, đó là một đặc ân cao quý vô cùng, như lời Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 1.11.1950: “Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF, 207).
Thiên Chúa tôn vinh Mẹ, Giáo Hội tôn vinh Mẹ và mỗi người con đều hân hoan vui sướng vì người mẹ cao quý của mình đã được diễm phúc lên trời cả hồn lẫn xác. Qua miệng của vị đại diện Con Mẹ ở trần gian, Giáo Hội nhìn nhận và tin rằng: Đức Mẹ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác. Đó không phải là chuyện thần thoại hoang đường, nhưng là một thực tại của đức tin, đức tin mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã biểu hiện ngay khi còn ở thế gian, nhất là khi nói hai tiếng Xin Vâng thì đức tin của Mẹ càng thêm mạnh mẽ, và càng mạnh mẽ hơn khi Đức Chúa Giê-su sinh ra cho đến khi Ngài bị đóng đinh vào thập giá và chết, và niềm tin tuyệt vời này đã sinh hoa trái là Đức Chúa Giê-su Con Mẹ đã sống lại vinh quang.
Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời cả hồn lẫn xác, để rồi được tôn vinh là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương trên trời dưới đất, và biết bao danh hiệu đẹp và cao quý khác mà nhân loại dành cho Mẹ. Chính việc lên trời cả hồn lẫn xác này mà Mẹ đã trở thành kẻ cầu bàu cho chúng ta trước mặt Đức Chúa Giê-su. Cũng như Đức Chúa Giê-su, Mẹ lên trời để dọn chỗ cho chúng ta là con cái của Mẹ, Mẹ biết vị trí tương lai của từng đứa con một trên thiên đàng, và khi thấy nhân loại ngày càng xa cách Thiên Chúa và vị trí của họ trên thiên đàng đang mất dần, thì Mẹ lại xuất hiện nhắc nhở, khuyên bảo con cái hãy cải thiện đời sống, hãy ăn năn đền tội để nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và để vị trí của họ trên thiên đàng khỏi mất.
Đức Mẹ Ma-ri-a từ giả cõi đời bình an trong vòng tay thân yêu và trong sự thương tiếc của các tông đồ, những môn đệ thân yêu của Đức Chúa Giê-su, từ nay vị thế cao trọng của Mẹ trước mặt Thiên Chúa càng cao hơn và quyền thế hơn, không những cho Mẹ mà còn cho nhân loại được nhờ công phúc của Mẹ mà được đến gần với Chúa hơn.
Giáo Hội mời gọi chúng ta khi suy ngắm đến mầu nhiệm Mẹ lên trời này, thì cầu xin Mẹ phù hộ cho chúng ta được ơn chết lành trong tay Mẹ, đó là lời cầu xin xứng đáng, như Mẹ đã từng hứa cho những ai hết lòng yêu mến Mẹ và Đức Chúa Giê-su con Mẹ, được sự an ủi và giúp đỡ của Mẹ trong giờ lâm chung. Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời là cả một niềm hy vọng cho chúng ta, những đứa con của Mẹ, bởi vì Thiên Chúa không tàn nhẫn để mẹ con cách biệt sau khi từ giả cõi đời, Mẹ ờ đâu thì con ở đó, chỉ khi nào chúng ta tự mình muốn tách khỏi Mẹ để đi tìm cho mình một nơi khác ngoài thiên đàng mà thôi.
Đức Mẹ Ma-ri-a lên trời là niềm hy vọng và ủi an của giáo hữu ở trần gian, bởi vì một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ được ở trên thiên đàng với Mẹ.
5. Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời.
Đức Mẹ Ma-ri-a đã lên trời, đó là phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những ai khi còn sống ở thế gian này mà hết lòng kính mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình. Nhưng Thiên Chúa còn muốn thưởng Đức Mẹ Ma-ri-a những ơn khác ở khi Mẹ ở trên trời, để nhờ Mẹ mà nhân loại chúng ta đón nhận dồi dào những ơn của Chúa hơn.
Trước hết, Thiên Chúa đặt Mẹ làm Nữ Vương trên trời dưới đất, cũng có nghĩa là Mẹ có toàn quyền ban phát ơn lành cho người thế, và là Đấng cầu bàu rất có thế giá trước mặt Thiên Chúa và con của mình là Đức Chúa Giê-su. Nói như thế không phải là Mẹ quyền năng phép tắc hơn Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người, Ngài rất “rành” tâm lý của con người, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao trọng, mà con người khi phạm tội thì không dám đến trước mặt Chúa để xin lỗi, nên nhờ công nghiệp của Mẹ và chức vị Nữ Vương của Mẹ để xin Chúa tha tội cho họ, bởi vì không một ai yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a mà lại không kính thờ Thiên Chúa.
Ơn cao trọng kế tiếp mà Thiên Chúa thưởng cho Đức Mẹ Ma-ri-a khi ở trên trời chính là Mẹ trở nên kho tàng mọi ân sủng của trời cao, có thể nói tất cả ân sủng của Thiên Chúa đều đã ban cho Mẹ, như lời dạy của thánh Công Đồng Vatican II: “Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài (Mẹ) trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn luôn tiếp tục cầu bàu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời.”(Cđ Vatican II: Hiến chế tín lý về giáo hội, ch. 8 số 62) Giáo Hội đã xác định như thế, vì Giáo Hội qua bao nhiêu thăng trầm của chính mình và của thế giới, đã cảm nghiệm được quyền thế của Đức Mẹ Ma-ri-a trước tòa Thiên Chúa, và nhờ đó mà Mẹ can thiệp kịp thời và ban ơn lành xuống cho Giáo Hội và cho thế giới.
Đức Mẹ Ma-ri-a là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa, có nghĩa là Mẹ cũng được Thiên Chúa cho phép được chia sẻ một phần nhỏ vào vinh quang và quyền năng của Ngài, để qua Mẹ mà nhân loại dễ dàng đến với Chúa hơn.
Những lần Đức Mẹ Ma-ri-a hiện ra cho loài người, là những lần Mẹ tỏ cho loài người thấy và biết quyền thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa, những lời Mẹ dạy, những phép lạ Mẹ làm đều phù hợp với ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Và thánh công đồng Vatican II lại một lẫn nữa khẳng định Mẹ chính là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa: “Thật thế mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Đức Trinh Nữ trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Ki-tô.”(Cđ Vatican II: Hiến chế tín lý về giáo hội, ch. 8 số 61)
Thiên Chúa thưởng công cho Đức Mẹ Ma-ri-a trên trời là kết thúc mầu nhiệm mùa Mừng, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống xứng đáng với những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho, qua trung gian Đức Mẹ Ma-ri-a, để ngày sau chúng ta cũng được Thiên Chúa thưởng ở trên trời với Mẹ. Bởi vì được sum họp vớ Chúa và Mẹ trên trời chính là mục đích sống của chúng ta ở đời này.
Mầu nhiệm mùa Mừng của kinh Mân Côi là niềm vui và hy vọng cứu độ của chúng ta, suy ngắm và sống với mầu nhiệm này là chúng ta biết Thiên Chúa và Đức Mẹ Ma-ri-a yêu thương chúng ta đến chừng nào.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Xin Ban Thêm Đức Tin Cho Chúng Con
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:52 03/10/2019
Chúa Nhật XXVII TN C
Một hiện trạng của con người trong nền văn minh hiện đại đó là sự bất an. Khi nền khoa học công nghệ càng phát triển tân kỳ thì con người càng như thấy mình đang đối diện với nhiều dữ kiện bất thường. Đó không chỉ là những biến đổi khó lường của thiên nhiên mà còn là những đổi thay trong đời sống xã hội và nhất là những xáo trộn trong đời sống tâm lý lẫn tâm linh của con người. Mọi sự đều là có thể. Câu ngạn ngữ này trước đây vốn ám chỉ đến khả năng to lớn của con người, thì nay lại dường như ứng với các tình huống xấu đang rình chờ ập xuống trên nhân loại chúng ta.
Các tiện nghi vật chất không bảo đảm cho sự yên bình. Nền khoa học hiện đại cũng không là một bảo đảm cho sự ổn định. Nhìn vào hệ thống an ninh, tình báo, quân sự “khổng lồ” của các nước phát triển chúng ta nhận ra sự thật này: nhân loại chúng ta đang sống trong cảnh bất an. Sự bất an, bất định ấy nó diễn ra ngay trong chính cái nền tảng của xã hội đó là cuộc sống gia đình. Các con số thống kê về tỉ lệ hôn nhân đổ vỡ, về tình trạng ly thân, li dị đủ để minh chứng điều này.
Tình trạng “bấp bênh” trên đây chính là một thách đố lớn cho con người thời đại hôm nay. Đối diện với thách đố ấy, bên cạnh những nỗ lực khắc phục mang tính kỷ thuật công nghệ hay mang tính tâm lý xã hội thì niềm tin chính là chiếc chìa khóa giải mã cho vấn đề. Dù không phổ biến những cũng đã từng có nhiều người, nhiều tập thể tìm sự giải thoát bằng sự cuồng tín, bằng nhiều hình thức mê tín lầm lạc.
Trong cảnh khốn cùng dường như vô vọng của dân Chúa xưa, ngôn sứ Khabacuc đã thấy thị kiến và nhận lệnh: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy…Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng tin của mình”(Kb 2,2-4).
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5). Sau khi khẳng định rằng: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”, thì Chúa Giêsu đã minh họa lòng tin ấy bằng thái độ phục vụ của người đầy tớ, một người ý thức rằng “mình chỉ làm những việc phải làm” theo ý của chủ mà thôi.
Thánh tông đồ dân ngoại nhắc nhủ môn đệ Timôtê rằng: “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một Thần Khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một thần khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ” (2Tm 1,7). Như thế chúng ta có thể nhận ra thánh ý của vị chủ tể tối cao để thực thi đó là:
-Biết tự chủ: Làm chủ bản thân là tiền đề của việc thành nhân và thành người con Chúa đúng nghĩa. Ai không làm chủ được các cảm xúc, các tham muốn và các hành động của mình thì vẫn mãi còn là trẻ con hay dù đã lớn nhưng chưa trưởng thành. Một trong những nét phân biệt giữa con người với loài vật đó là biết dừng, biết nói không với những gì xấu xa, bất chính và với cả những gì tuy tự chúng không xấu nhưng có thể làm cản trở mình vươn lên tới những điều tốt đẹp hơn.
-Can đảm sống yêu thương đến cùng: Yêu thương ở đây không phải chỉ với tình cảm nhân loại thường tình nhưng phải như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu của Chúa Kitô dành cho chúng ta được minh họa rõ nét qua mầu nhiệm tự hủy, tự hạ của Người. Vốn giàu sang, Người đã tự nguyện trở nên nghèo hèn vì chúng ta. Vốn là Thiên Chúa, Người đã mang lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vốn là con chiên tinh tuyền Người đã nhận lấy án hình của một tội nhân đầy nhuốc hổ thay cho chúng ta (x.Pl 2,6-11).
Tin không đơn thuần là một sự chấp thuận của lý trí, nhưng trên hết đó là một sự dấn thân của ý chí tự do. Kitô hữu chúng ta tin không phải là chấp thuận một vài chân lý, một vài tín điều nào đó, nhưng chúng ta tin nghĩa là chúng ta quyết đi theo một Đấng và Đấng ấy chính là Giêsu Kitô.
Theo Chúa Kitô với bước khởi đầu là làm chủ con người mình để rồi biết sống yêu thương đến cùng, thì dù nhiều sự khó khăn vẫn còn đó, dù cho những điều bất trắc của cuộc sống có lẽ sẽ không ít đi, nhưng chúng ta lại có sự bình an đích thực. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Lời khẳng định của Chúa Giêsu trên đây giúp chúng ta hiểu thế nào là tin.
Ngày nay vẫn có đó nhiều người trong chúng ta, thậm chí cả những đấng bậc đáng kính trong Giáo Hội không ngừng kêu gọi sự tự chế, mời gọi hăng say rao giảng tình yêu, nhưng bản thân lại còn ngần ngại từ bỏ danh phận, quyền uy, lợi lộc của mình, và dĩ nhiên cũng khó bề từ bỏ cả mạng sống mình. Chính Chúa Kitô đã từng than thở: “Khi Con Người đến, liệu người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”(Lc 18,8).
“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Thậm nghĩ rằng đây là một lời cầu khẩn thiết cần được lặp đi lặp lại từng ngày. Và ước gì sự lặp đi lặp lại này không dừng lại trên môi miệng mà phải được hiện thực hóa bằng thái độ sống, qua những hành động cụ thể, đáng tin.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Một hiện trạng của con người trong nền văn minh hiện đại đó là sự bất an. Khi nền khoa học công nghệ càng phát triển tân kỳ thì con người càng như thấy mình đang đối diện với nhiều dữ kiện bất thường. Đó không chỉ là những biến đổi khó lường của thiên nhiên mà còn là những đổi thay trong đời sống xã hội và nhất là những xáo trộn trong đời sống tâm lý lẫn tâm linh của con người. Mọi sự đều là có thể. Câu ngạn ngữ này trước đây vốn ám chỉ đến khả năng to lớn của con người, thì nay lại dường như ứng với các tình huống xấu đang rình chờ ập xuống trên nhân loại chúng ta.
Các tiện nghi vật chất không bảo đảm cho sự yên bình. Nền khoa học hiện đại cũng không là một bảo đảm cho sự ổn định. Nhìn vào hệ thống an ninh, tình báo, quân sự “khổng lồ” của các nước phát triển chúng ta nhận ra sự thật này: nhân loại chúng ta đang sống trong cảnh bất an. Sự bất an, bất định ấy nó diễn ra ngay trong chính cái nền tảng của xã hội đó là cuộc sống gia đình. Các con số thống kê về tỉ lệ hôn nhân đổ vỡ, về tình trạng ly thân, li dị đủ để minh chứng điều này.
Tình trạng “bấp bênh” trên đây chính là một thách đố lớn cho con người thời đại hôm nay. Đối diện với thách đố ấy, bên cạnh những nỗ lực khắc phục mang tính kỷ thuật công nghệ hay mang tính tâm lý xã hội thì niềm tin chính là chiếc chìa khóa giải mã cho vấn đề. Dù không phổ biến những cũng đã từng có nhiều người, nhiều tập thể tìm sự giải thoát bằng sự cuồng tín, bằng nhiều hình thức mê tín lầm lạc.
Trong cảnh khốn cùng dường như vô vọng của dân Chúa xưa, ngôn sứ Khabacuc đã thấy thị kiến và nhận lệnh: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy…Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng tin của mình”(Kb 2,2-4).
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5). Sau khi khẳng định rằng: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”, thì Chúa Giêsu đã minh họa lòng tin ấy bằng thái độ phục vụ của người đầy tớ, một người ý thức rằng “mình chỉ làm những việc phải làm” theo ý của chủ mà thôi.
Thánh tông đồ dân ngoại nhắc nhủ môn đệ Timôtê rằng: “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một Thần Khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một thần khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ” (2Tm 1,7). Như thế chúng ta có thể nhận ra thánh ý của vị chủ tể tối cao để thực thi đó là:
-Biết tự chủ: Làm chủ bản thân là tiền đề của việc thành nhân và thành người con Chúa đúng nghĩa. Ai không làm chủ được các cảm xúc, các tham muốn và các hành động của mình thì vẫn mãi còn là trẻ con hay dù đã lớn nhưng chưa trưởng thành. Một trong những nét phân biệt giữa con người với loài vật đó là biết dừng, biết nói không với những gì xấu xa, bất chính và với cả những gì tuy tự chúng không xấu nhưng có thể làm cản trở mình vươn lên tới những điều tốt đẹp hơn.
-Can đảm sống yêu thương đến cùng: Yêu thương ở đây không phải chỉ với tình cảm nhân loại thường tình nhưng phải như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu của Chúa Kitô dành cho chúng ta được minh họa rõ nét qua mầu nhiệm tự hủy, tự hạ của Người. Vốn giàu sang, Người đã tự nguyện trở nên nghèo hèn vì chúng ta. Vốn là Thiên Chúa, Người đã mang lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vốn là con chiên tinh tuyền Người đã nhận lấy án hình của một tội nhân đầy nhuốc hổ thay cho chúng ta (x.Pl 2,6-11).
Tin không đơn thuần là một sự chấp thuận của lý trí, nhưng trên hết đó là một sự dấn thân của ý chí tự do. Kitô hữu chúng ta tin không phải là chấp thuận một vài chân lý, một vài tín điều nào đó, nhưng chúng ta tin nghĩa là chúng ta quyết đi theo một Đấng và Đấng ấy chính là Giêsu Kitô.
Theo Chúa Kitô với bước khởi đầu là làm chủ con người mình để rồi biết sống yêu thương đến cùng, thì dù nhiều sự khó khăn vẫn còn đó, dù cho những điều bất trắc của cuộc sống có lẽ sẽ không ít đi, nhưng chúng ta lại có sự bình an đích thực. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Lời khẳng định của Chúa Giêsu trên đây giúp chúng ta hiểu thế nào là tin.
Ngày nay vẫn có đó nhiều người trong chúng ta, thậm chí cả những đấng bậc đáng kính trong Giáo Hội không ngừng kêu gọi sự tự chế, mời gọi hăng say rao giảng tình yêu, nhưng bản thân lại còn ngần ngại từ bỏ danh phận, quyền uy, lợi lộc của mình, và dĩ nhiên cũng khó bề từ bỏ cả mạng sống mình. Chính Chúa Kitô đã từng than thở: “Khi Con Người đến, liệu người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”(Lc 18,8).
“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Thậm nghĩ rằng đây là một lời cầu khẩn thiết cần được lặp đi lặp lại từng ngày. Và ước gì sự lặp đi lặp lại này không dừng lại trên môi miệng mà phải được hiện thực hóa bằng thái độ sống, qua những hành động cụ thể, đáng tin.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Mẹ Mân Côi: Người Dẫn Lối Về Trời
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:07 03/10/2019
(Chúa Nhật kính Mẹ Mân Côi)
Nói đến cha thánh Gioan Maria Vianey, hẳn chúng ta ít nhiều nghe kể về một chuyện như giai thoại của vị linh mục ngày đầu về nhận xứ. Vì không biết đường đến nhà thờ, cha Vianey bèn hỏi một em bé: Bé ơi, chỉ cho cha con đường đến Nhà Thờ xứ này đi, rồi cha sẽ chỉ cho bé con đường về trời. Em bé đáp ngay: Xạo quá ông cha ơi, con đường đến nhà thờ mà ông còn chưa biết thì đường về trời ông làm sao biết được.
Cậu nhóc xem ra có lý lắm chứ. Con đường về trời quá xa xôi, thậm chí có khi là xa vời vợi thì làm sao biết được. Không ai có thể lên trời nếu không phải là người đã từ trời xuống hay là đã thực sự đến đích nghĩa là đã về trời. Trong niềm tin, chúng ta khẳng định rằng một người trong nhân loại đã thực sự về trời cách trọn hảo chính là Mẹ Maria, Mẹ Đấng Cứu độ cũng là Mẹ của chúng ta. Bước chân của Mẹ đã đến đích là Nước Trời vì Mẹ là người đã dõi theo chân Giêsu, Con của Mẹ cách chính xác nhất.
Đã về trời với Người Con dấu yêu, Giêsu, nhưng tấm lòng của Mẹ vẫn mãi canh cánh với đoàn con nhân loại đang còn lữ thứ là những người con mà Mẹ đã chính thức đón nhận khi đứng dưới chân thập giá năm xưa (x.Ga 19,26-27). Để dẫn đưa bước chân đoàn con nhân loại thẳng hướng về trời, thì Mẹ đã thương trao tặng một cẩm nang “chỉ thiên” đó là tràng chuỗi mân côi. Tràng chuỗi mân côi với các mầu nhiệm vui, thương, mừng và gần đây Đức cố giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thêm năm sụ sáng chính là những điểm mốc trên quảng đường Mẹ đã dõi theo Giêsu để về trời hưởng hạnh phúc viên mãn.
Cuộc đời là một chuyến đi. Kiếp người là một cuộc lữ hành. Nói đến chuyện lữ hành, chuyện đi lại, người ta liên tưởng đến chuyện giao thông. Người dân nước Việt, đặc biệt tại các thành phố lớn đã phần nào chứng nghiệm sự vất vả và lộn xộn của việc giao thông hiện nay. Ngoài một vài nguyên nhân dễ thấy như hệ thống hạ tầng là đường xá, cầu cống nhỏ hẹp, hư hỏng…hay các nguyên nhân nằm trong tâm thức người tham gia giao thông đó là thiếu tôn trọng kẻ khác, đặt lợi ích của mình lên trên hết…thì người ta cũng phải nhìn nhận sự thật này, đó là luật lệ giao thông của chúng ta còn bất cập, các quy hoạch làm đường, cách thế phân luồng, những bảng biểu chỉ dẫn giao thông…còn thiếu tính khoa học, hợp lý và đồng bộ, nghĩa là việc hướng dẫn giao thông ở tầm vĩ mô còn bị hạn chế. Ngay tại các nước tiến tiến, dù đã có những bảng biển hướng dẫn cụ thể, rõ ràng với chữ, số lớn dễ đọc dễ thấy, thế mà vẫn có người lạc lối, lầm đường. Dĩ nhiên sự thường, đó là những người say sưa hoặc bất cẩn, cũng có thể là những người bị hạn chế khả năng nhìn do tuổi tác hay bệnh tật…
“Trên con đường về quê, mà vắng bóng Mẹ, con biết cậy vào ai, biết nương nhờ ai?” Một ca từ kính Mẹ Maria đã từng bị nhận định là sai thần học, nay đã được đổi thành: “Trên con đường về quê, cùng đi với Mẹ…”. Cùng đi với Mẹ, đúng hơn là được Mẹ cùng đi thì ta không sợ lạc lối, lầm đường. Tràng chuỗi mân côi không nguyên chỉ là cuốn cẩm nang hướng dẫn đường về trời mà Mẹ trao cho chúng ta như một vật hay một cuốn sách nhưng đó là một cách thế vừa dịu dàng mà hiệu quả để về trời, vì Mẹ Maria đang cùng chúng ta bước đi.
Những lần Mẹ hiện ra gần đây như ở Fatima, khi các trẻ bé Gianxinta, Phanxiô và Luxia lần chuỗi thì các em đã thấy Mẹ cùng đọc kinh Lạy Cha và Kinh Sáng Danh và khi các em đọc các kinh Kính Mừng thì Mẹ im lặng, lắng nghe. Khi chúng ta chào: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc…”, thì Mẹ hiện diện với chúng ta. Có người mẹ nào khi con cái chào kính mà lại tránh mặt làm ngơ! Và khi chúng ta thực tâm và chuyên chăm xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử” thì chắc chắn Mẹ phải nhậm lời.
Chuyện lạc lối hay lầm đường của hành trình làm người là chuyện không hiếm, thậm chí là nhan nhãn vì “nhân bất thập toàn” và “đa thọ thì đa nhục”, tuổi đời càng cao thì lầm lỗi càng nhiều. Tháng mân côi lại về, đặc biệt trong ngày kính Lễ Mẹ mân côi, chúng ta thành tâm dâng lên Mẹ tâm tình cảm mến tri ân, vì món quà vô giá Mẹ đã trao tặng là tràng chuỗi mân côi, một phương thế tuyệt hảo dẫn lối chúng ta về trời. Các nhà tu đức không chỉ ví von tràng chuỗi mân côi là cuốn Tin mừng tóm gọn mà còn xác nhận rằng tràng chuỗi mân côi là cuốn Tin mừng cho mọi người, mọi hoàn cảnh. Trẻ bé cũng có thể thân thưa: Kính mừng Maria..Người già cũng có thể cầu: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…Người dân dã, ít học cần lần chuỗi mân côi hay vị bác học như Louis Pasteur cũng cần lần chuỗi hạt để biết cách thế về trời.
Là Kitô hữu Công Giáo, có thể nói rằng không một ai là không yêu mến, tôn kính Mẹ Maria. Lòng tôn kính, mến yêu Mẹ đích thực như lời dạy của Hội Thánh “phải thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến Mẹ chúng ta và noi gương các nhân đức của Mẹ” (GH 67). Một trong những cách thế yêu mến Mẹ và noi gương các nhân đức của Mẹ đẹp lòng Mẹ nhất đó là lần chuỗi mân côi. Khi lần chuỗi mân côi chúng ta hãy sốt sắng suy ngắm các mầu nhiệm mà Mẹ đã dõi bước theo chân Chúa Giêsu năm xưa và hãy nhớ rằng Mẹ cũng đang song hành với chúng ta.
Một thực tiển trong Giáo Hội Công Giáo đó là các vị quyền cao chức trọng mấy đi nữa, các vị uyên bác thần học thâm sâu mấy đi nữa thì đến khi tuổi đà xế bóng, dường như luôn “kè kè” tràng chuỗi mân côi bên mình. Tín hữu Công Giáo lại có thói quen đạo đức rất tốt là thường đặt vào tay những người quá cố tràng chuỗi mân côi. Trên con đường về quê, cùng đi với Mẹ, con luôn vững tin, con luôn an bình…
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Nói đến cha thánh Gioan Maria Vianey, hẳn chúng ta ít nhiều nghe kể về một chuyện như giai thoại của vị linh mục ngày đầu về nhận xứ. Vì không biết đường đến nhà thờ, cha Vianey bèn hỏi một em bé: Bé ơi, chỉ cho cha con đường đến Nhà Thờ xứ này đi, rồi cha sẽ chỉ cho bé con đường về trời. Em bé đáp ngay: Xạo quá ông cha ơi, con đường đến nhà thờ mà ông còn chưa biết thì đường về trời ông làm sao biết được.
Cậu nhóc xem ra có lý lắm chứ. Con đường về trời quá xa xôi, thậm chí có khi là xa vời vợi thì làm sao biết được. Không ai có thể lên trời nếu không phải là người đã từ trời xuống hay là đã thực sự đến đích nghĩa là đã về trời. Trong niềm tin, chúng ta khẳng định rằng một người trong nhân loại đã thực sự về trời cách trọn hảo chính là Mẹ Maria, Mẹ Đấng Cứu độ cũng là Mẹ của chúng ta. Bước chân của Mẹ đã đến đích là Nước Trời vì Mẹ là người đã dõi theo chân Giêsu, Con của Mẹ cách chính xác nhất.
Đã về trời với Người Con dấu yêu, Giêsu, nhưng tấm lòng của Mẹ vẫn mãi canh cánh với đoàn con nhân loại đang còn lữ thứ là những người con mà Mẹ đã chính thức đón nhận khi đứng dưới chân thập giá năm xưa (x.Ga 19,26-27). Để dẫn đưa bước chân đoàn con nhân loại thẳng hướng về trời, thì Mẹ đã thương trao tặng một cẩm nang “chỉ thiên” đó là tràng chuỗi mân côi. Tràng chuỗi mân côi với các mầu nhiệm vui, thương, mừng và gần đây Đức cố giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thêm năm sụ sáng chính là những điểm mốc trên quảng đường Mẹ đã dõi theo Giêsu để về trời hưởng hạnh phúc viên mãn.
Cuộc đời là một chuyến đi. Kiếp người là một cuộc lữ hành. Nói đến chuyện lữ hành, chuyện đi lại, người ta liên tưởng đến chuyện giao thông. Người dân nước Việt, đặc biệt tại các thành phố lớn đã phần nào chứng nghiệm sự vất vả và lộn xộn của việc giao thông hiện nay. Ngoài một vài nguyên nhân dễ thấy như hệ thống hạ tầng là đường xá, cầu cống nhỏ hẹp, hư hỏng…hay các nguyên nhân nằm trong tâm thức người tham gia giao thông đó là thiếu tôn trọng kẻ khác, đặt lợi ích của mình lên trên hết…thì người ta cũng phải nhìn nhận sự thật này, đó là luật lệ giao thông của chúng ta còn bất cập, các quy hoạch làm đường, cách thế phân luồng, những bảng biểu chỉ dẫn giao thông…còn thiếu tính khoa học, hợp lý và đồng bộ, nghĩa là việc hướng dẫn giao thông ở tầm vĩ mô còn bị hạn chế. Ngay tại các nước tiến tiến, dù đã có những bảng biển hướng dẫn cụ thể, rõ ràng với chữ, số lớn dễ đọc dễ thấy, thế mà vẫn có người lạc lối, lầm đường. Dĩ nhiên sự thường, đó là những người say sưa hoặc bất cẩn, cũng có thể là những người bị hạn chế khả năng nhìn do tuổi tác hay bệnh tật…
“Trên con đường về quê, mà vắng bóng Mẹ, con biết cậy vào ai, biết nương nhờ ai?” Một ca từ kính Mẹ Maria đã từng bị nhận định là sai thần học, nay đã được đổi thành: “Trên con đường về quê, cùng đi với Mẹ…”. Cùng đi với Mẹ, đúng hơn là được Mẹ cùng đi thì ta không sợ lạc lối, lầm đường. Tràng chuỗi mân côi không nguyên chỉ là cuốn cẩm nang hướng dẫn đường về trời mà Mẹ trao cho chúng ta như một vật hay một cuốn sách nhưng đó là một cách thế vừa dịu dàng mà hiệu quả để về trời, vì Mẹ Maria đang cùng chúng ta bước đi.
Những lần Mẹ hiện ra gần đây như ở Fatima, khi các trẻ bé Gianxinta, Phanxiô và Luxia lần chuỗi thì các em đã thấy Mẹ cùng đọc kinh Lạy Cha và Kinh Sáng Danh và khi các em đọc các kinh Kính Mừng thì Mẹ im lặng, lắng nghe. Khi chúng ta chào: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc…”, thì Mẹ hiện diện với chúng ta. Có người mẹ nào khi con cái chào kính mà lại tránh mặt làm ngơ! Và khi chúng ta thực tâm và chuyên chăm xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử” thì chắc chắn Mẹ phải nhậm lời.
Chuyện lạc lối hay lầm đường của hành trình làm người là chuyện không hiếm, thậm chí là nhan nhãn vì “nhân bất thập toàn” và “đa thọ thì đa nhục”, tuổi đời càng cao thì lầm lỗi càng nhiều. Tháng mân côi lại về, đặc biệt trong ngày kính Lễ Mẹ mân côi, chúng ta thành tâm dâng lên Mẹ tâm tình cảm mến tri ân, vì món quà vô giá Mẹ đã trao tặng là tràng chuỗi mân côi, một phương thế tuyệt hảo dẫn lối chúng ta về trời. Các nhà tu đức không chỉ ví von tràng chuỗi mân côi là cuốn Tin mừng tóm gọn mà còn xác nhận rằng tràng chuỗi mân côi là cuốn Tin mừng cho mọi người, mọi hoàn cảnh. Trẻ bé cũng có thể thân thưa: Kính mừng Maria..Người già cũng có thể cầu: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…Người dân dã, ít học cần lần chuỗi mân côi hay vị bác học như Louis Pasteur cũng cần lần chuỗi hạt để biết cách thế về trời.
Là Kitô hữu Công Giáo, có thể nói rằng không một ai là không yêu mến, tôn kính Mẹ Maria. Lòng tôn kính, mến yêu Mẹ đích thực như lời dạy của Hội Thánh “phải thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến Mẹ chúng ta và noi gương các nhân đức của Mẹ” (GH 67). Một trong những cách thế yêu mến Mẹ và noi gương các nhân đức của Mẹ đẹp lòng Mẹ nhất đó là lần chuỗi mân côi. Khi lần chuỗi mân côi chúng ta hãy sốt sắng suy ngắm các mầu nhiệm mà Mẹ đã dõi bước theo chân Chúa Giêsu năm xưa và hãy nhớ rằng Mẹ cũng đang song hành với chúng ta.
Một thực tiển trong Giáo Hội Công Giáo đó là các vị quyền cao chức trọng mấy đi nữa, các vị uyên bác thần học thâm sâu mấy đi nữa thì đến khi tuổi đà xế bóng, dường như luôn “kè kè” tràng chuỗi mân côi bên mình. Tín hữu Công Giáo lại có thói quen đạo đức rất tốt là thường đặt vào tay những người quá cố tràng chuỗi mân côi. Trên con đường về quê, cùng đi với Mẹ, con luôn vững tin, con luôn an bình…
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Tin có Chúa nhờ vũ trụ
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
15:20 03/10/2019
Chúa Nhật XXVII Thường Niên
Kh 1,2-3; 2,2-4; 2 Tm 1,6-8.13-14; Lc 17,5-10
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng lời cầu xin của các Tông Đồ với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Thay vì làm thỏa mãn nguyện vọng của họ, Chúa Giêsu có vẻ như muốn đánh thức họ. Người nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc,’ nó cũng sẽ vâng lời anh em.”
Rõ ràng đức tin là chủ đề chính của Chúa Nhật này. Thật vậy, trong bài đọc I, chúng ta nghe lời khẳng định nổi tiếng của Khabacúc, được thánh Phaolô lấy lại trong thư gửi tín hữu Rôma: “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17).
Đức tin có nhiều ý nghĩa khác nhau. Theo nghĩa chủ quan, tin là lý trí chấp nhận những chân lý được Thiên Chúa mạc khải. Theo đó, hành vi đức tin của chúng ta được hình thành theo những cách thế khác nhau, nhờ nhận thức, tìm kiếm, hiểu biết cũng như ý muốn của chúng ta. Theo nghĩa khách quan, tin là một ơn ban nhưng không đến từ Thiên Chúa. Hay nói cách khác, với ơn ban đó, chúng ta bước theo, phó thác, yêu mến và hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Trong lần này, tôi muốn suy từ về một khía cạnh của đức tin, đó là tin hoặc không tin vào Thiên Chúa.
Đây không phải là đức tin mà một người quyết định trở thành một người Công Giáo, Tin Lành, Kitô hữu hoặc Hồi Giáo, nhưng là đức tin mà một người quyết định để trở nên một kẻ tin hoặc không tin, một người có tôn giáo hoặc là người vô thần. Một bản văn Kinh Thánh nói rằng: “Vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Hr 11,6). Đây là bước thứ nhất của đức tin, không có nó, chúng ta không thể đi tiếp những bước khác.
Nói về đức tin theo sự nhận thức chung như thế, chúng ta không dựa trên Kinh Thánh bởi vì Kinh Thánh chỉ có giá trị đối với những người Kitô hữu, và một phần Cựu Ước đối với người Do Thái, nhưng đối với những người ngoài tôn giáo, họ không nhìn nhận giá trị của nó. Thật may mắn cho chúng ta vì Thiên Chúa đã viết ra hai “cuốn sách”: một cuốn là Kinh Thánh và một cuốn sách “tự nhiên.” Một cuốn được biên soạn nhờ chữ và lời, một cuốn được viết bằng muôn loài, muôn vật và muôn tinh tú.
Bởi lẽ, không phải bất cứ ai đều hiểu biết và có thể đọc cuốn sách Kinh Thánh; nhưng tất cả mọi người, mọi nơi, mọi nền văn hóa, đều có thể đọc cuốn sách “tự nhiên” này. “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 18,2). Thánh Phaolô viết: “Từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được” (Rm 1,20).
Thật không có cơ sở để nói rằng ngày hôm nay khoa học đã giải quyết xong hết mọi vấn đề. Trái lại, khoa học cho thấy những giới hạn của nó và phải nhìn nhận rằng: thế giới này cần phải nại đến Ý Tưởng về một thực tại cao hơn mà ta gọi là Thiên Chúa. Theo một nghĩa nào đó, ngày nay, khoa học đã đưa chúng ta tới gần niềm tin vào một Đấng Tạo Thành hơn lúc nào hết.
Chúng ta hãy tìm hiểu thuyết nổi tiếng về Big Bang giải thích nguồn gốc của vũ trụ này bằng một vụ nổ lớn – Big Bang, đó là một sự bùng nổ vĩ đại xảy ra từ nguyên khởi. Trong một phần tỷ tỷ của một giây, thế giới bắt đầu từ một tình trạng chưa có gì, chưa có không gian và thời gian, đến một tình trạng mà trong đó, thời gian khởi đầu, không gian hiện hữu, và xuất hiện những hạt li ti của vật chất, những tiềm thể của vũ trụ dần dần hình thành với hàng tỷ dải ngân hà, như ngày nay chúng ta biết về vũ trụ.
Chúng ta cần quay trở về với lịch sử ban đầu của thế giới để khám phá ý nghĩa hiện hữu của chúng. Khởi đầu vũ trụ do ai?
Có người cho rằng: “Khi cố gắng quay lại lịch sử vũ trụ là giống như đang lần lượt đọc những trang của một cuốn sách vĩ đại bắt đầu từ những trang cuối cùng rồi lần ngược lên, tới điểm khởi đầu, tới đó, chúng ta thấy trang đầu tiên đã biến mất.” Hay những trang đầu không có.
Nhưng tôi tin rằng Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta những thông tin chính xác về trang đầu tiên này: “Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất” (St 1,1). Theo Kinh Thánh, thế giới bắt đầu như thế. Khoa học không thể trả lời cho câu hỏi về “trang đầu tiên này,” vì nó ở ngoài thời gian, nó không thuộc phạm vi khoa học, khoa học cũng không thể khép lại vòng quay này, khi cho rằng mọi sự đều được giải quyết. Khoa học thường chỉ giải thích các hiện tượng xảy ra như thế nào, chứ không bao giờ có thể giải thích lý do “tại sao” trong từng trường hợp, “cái tại sao cuối cùng.”
Khi nhìn ngắm trật tự vũ trụ, hàng tỷ tỷ tinh tú không rơi vào hỗn loạn, nhưng chúng vận hành cách hòa điệu đến mức hoàn hảo và trật tự. Chúng ta thấy mọi thứ đều vận hành đúng giờ, theo những quy luật tự nhiên hài hòa mà không hề có một ách tắc nào cả. Ai có thể giải thích được sự kỳ diệu đó, nếu không phải do bàn tay của Thiên Chúa?
Có một câu chuyện cười rất thú vị liên quan đến câu chuyện đang bàn. Một ngày nọ, một nhóm nhà khoa học họp mặt, họ đi đến kết luận rằng: con người đã làm được rất nhiều vĩ đại, nên không cần đến Thiên Chúa nữa. Elessero, một người trong nhóm, đã đưa họ tới gặp Thiên Chúa và nói: “Chúng tôi không còn cần đến Thiên Chúa nữa. Chúng tôi đã thực hiện việc sinh sản vô tính một con người và chúng tôi có thể tự mình làm tất cả.” Thiên Chúa kiên nhẫn lắng nghe và cuối cùng Người trả lời: “Tốt lắm, vậy chúng ta có thể làm một cuộc thi để biết ai làm ra con người tốt hơn? “Đồng ý,” nhà khoa học vui vẻ trả lời. Thiên Chúa nói: “Chúng ta sẽ thực hiện giống như lúc khởi đầu sáng tạo Ađam.” “Chắc chắn rồi, không có vấn đề,” nhà khoa học đáp và cúi xuống đất lấy một nắm bùn. Thiên Chúa nhìn ông và nói: “Không được, không được, không được, anh phải dùng bùn của anh, anh không thể dùng bùn của tôi được!” Như thế, câu chuyện muốn nói khoa học chỉ có thể đóng vai trò là khám phá và phát triển những tiềm năng mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Tuy nhiên, một điều chúng ta cần phải đưa ra ánh sáng rằng, rõ ràng tự khoa học không làm cho con người xa rời đức tin, hoặc khoa học không thể vượt qua đức tin, như một số người thiển cận nghĩ. Phần lớn những người có tên trong sổ vàng khoa học là những người tín hữu. Nhà khoa học Pasteur nói rằng: “Nhờ việc nghiên cứu và suy niệm rất nhiều mà tôi đã có đức tin như một người nông dân ở Breton. Nếu bạn suy niệm và nghiên cứu nhiều, bạn cũng sẽ có đức tin như một người phụ nữ ở Breton.”
Beckerel, người nhận giải thưởng Nobel cùng với Curie về vật lý, đã nói rằng: “Những nghiên cứu của tôi đã đưa tôi tới niềm tin vào Thiên Chúa.” Chúng ta biết đức tin của Galilêa như thế nào rồi. Newton nói rằng, hệ sinh thái kỳ diệu của mặt trời, các hành tinh, sao chổi không thể gán cho một “sự tất yếu mù lòa” nào đó, nhưng phải khám phá từ công trình này có một Đấng quyền năng và thông minh đang điều khiển mọi sự, không như linh hồn của thế giới, nhưng như Chúa của vũ trụ.” Keplero kết thúc công trình của ông rằng: “Sự hòa điệu của vũ trụ cùng với một lời cầu nguyện sốt sắng dâng lên Chúa các tầng trời, trăng sao và muôn tinh tú.” Einstein nói rằng luật tự nhiên mạc khải cách tuyệt vời về một Thượng Trí mà khi đối diện, tư tưởng loài người chỉ là một suy tư hết sức nghèo nàn. Như thế, đức tin và khoa học không có mâu thuẫn nhau, cũng không có cạnh tranh nhau, nhưng bổ túc cho nhau, như câu châm ngôn nổi tiếng của Đức Gioan Phaolô II: “Đức tin và khoa học như đôi cánh nhờ đó làm cho chúng ta bay cao hơn” (Tông Huấn Đức tin và Lý Trí).
Tuy nhiên, với sự hiểu biết thông thường, chúng ta không thể chứng minh cách hiển nhiên Thiên Chúa hiện hữu. Qua công trình tạo thành, chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa như nhìn qua một tấm gương, như thánh Phaolô nói: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12).
Giống như một tia sáng của mặt trời chiếu vào trong căn phòng, người ta không thể nhìn thấy chính tia sáng đó được, nhưng nhờ các hạt bụi bay nhảy, tiếp nhận và chiếu tỏa ánh sáng, làm chúng ta nhìn thấy ánh sáng. Điều này tương tự đối với Thiên Chúa: chúng ta không thấy Thiên Chúa trực tiếp, nhưng như sự phản chiếu ánh sáng, qua trật tự của vạn vật tự nhiên, chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa hiện hữu. Bức tranh này giải thích tại sao chúng ta không thể tìm gặp Thiên Chúa nếu không có “một cú nhảy” của đức tin. Đức tin đó giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, quan phòng và an bài mọi sự thật kỳ diệu. Người là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Kh 1,2-3; 2,2-4; 2 Tm 1,6-8.13-14; Lc 17,5-10
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng lời cầu xin của các Tông Đồ với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Thay vì làm thỏa mãn nguyện vọng của họ, Chúa Giêsu có vẻ như muốn đánh thức họ. Người nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc,’ nó cũng sẽ vâng lời anh em.”
Rõ ràng đức tin là chủ đề chính của Chúa Nhật này. Thật vậy, trong bài đọc I, chúng ta nghe lời khẳng định nổi tiếng của Khabacúc, được thánh Phaolô lấy lại trong thư gửi tín hữu Rôma: “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17).
Đức tin có nhiều ý nghĩa khác nhau. Theo nghĩa chủ quan, tin là lý trí chấp nhận những chân lý được Thiên Chúa mạc khải. Theo đó, hành vi đức tin của chúng ta được hình thành theo những cách thế khác nhau, nhờ nhận thức, tìm kiếm, hiểu biết cũng như ý muốn của chúng ta. Theo nghĩa khách quan, tin là một ơn ban nhưng không đến từ Thiên Chúa. Hay nói cách khác, với ơn ban đó, chúng ta bước theo, phó thác, yêu mến và hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Trong lần này, tôi muốn suy từ về một khía cạnh của đức tin, đó là tin hoặc không tin vào Thiên Chúa.
Đây không phải là đức tin mà một người quyết định trở thành một người Công Giáo, Tin Lành, Kitô hữu hoặc Hồi Giáo, nhưng là đức tin mà một người quyết định để trở nên một kẻ tin hoặc không tin, một người có tôn giáo hoặc là người vô thần. Một bản văn Kinh Thánh nói rằng: “Vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Hr 11,6). Đây là bước thứ nhất của đức tin, không có nó, chúng ta không thể đi tiếp những bước khác.
Nói về đức tin theo sự nhận thức chung như thế, chúng ta không dựa trên Kinh Thánh bởi vì Kinh Thánh chỉ có giá trị đối với những người Kitô hữu, và một phần Cựu Ước đối với người Do Thái, nhưng đối với những người ngoài tôn giáo, họ không nhìn nhận giá trị của nó. Thật may mắn cho chúng ta vì Thiên Chúa đã viết ra hai “cuốn sách”: một cuốn là Kinh Thánh và một cuốn sách “tự nhiên.” Một cuốn được biên soạn nhờ chữ và lời, một cuốn được viết bằng muôn loài, muôn vật và muôn tinh tú.
Bởi lẽ, không phải bất cứ ai đều hiểu biết và có thể đọc cuốn sách Kinh Thánh; nhưng tất cả mọi người, mọi nơi, mọi nền văn hóa, đều có thể đọc cuốn sách “tự nhiên” này. “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 18,2). Thánh Phaolô viết: “Từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được” (Rm 1,20).
Thật không có cơ sở để nói rằng ngày hôm nay khoa học đã giải quyết xong hết mọi vấn đề. Trái lại, khoa học cho thấy những giới hạn của nó và phải nhìn nhận rằng: thế giới này cần phải nại đến Ý Tưởng về một thực tại cao hơn mà ta gọi là Thiên Chúa. Theo một nghĩa nào đó, ngày nay, khoa học đã đưa chúng ta tới gần niềm tin vào một Đấng Tạo Thành hơn lúc nào hết.
Chúng ta hãy tìm hiểu thuyết nổi tiếng về Big Bang giải thích nguồn gốc của vũ trụ này bằng một vụ nổ lớn – Big Bang, đó là một sự bùng nổ vĩ đại xảy ra từ nguyên khởi. Trong một phần tỷ tỷ của một giây, thế giới bắt đầu từ một tình trạng chưa có gì, chưa có không gian và thời gian, đến một tình trạng mà trong đó, thời gian khởi đầu, không gian hiện hữu, và xuất hiện những hạt li ti của vật chất, những tiềm thể của vũ trụ dần dần hình thành với hàng tỷ dải ngân hà, như ngày nay chúng ta biết về vũ trụ.
Chúng ta cần quay trở về với lịch sử ban đầu của thế giới để khám phá ý nghĩa hiện hữu của chúng. Khởi đầu vũ trụ do ai?
Có người cho rằng: “Khi cố gắng quay lại lịch sử vũ trụ là giống như đang lần lượt đọc những trang của một cuốn sách vĩ đại bắt đầu từ những trang cuối cùng rồi lần ngược lên, tới điểm khởi đầu, tới đó, chúng ta thấy trang đầu tiên đã biến mất.” Hay những trang đầu không có.
Nhưng tôi tin rằng Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta những thông tin chính xác về trang đầu tiên này: “Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất” (St 1,1). Theo Kinh Thánh, thế giới bắt đầu như thế. Khoa học không thể trả lời cho câu hỏi về “trang đầu tiên này,” vì nó ở ngoài thời gian, nó không thuộc phạm vi khoa học, khoa học cũng không thể khép lại vòng quay này, khi cho rằng mọi sự đều được giải quyết. Khoa học thường chỉ giải thích các hiện tượng xảy ra như thế nào, chứ không bao giờ có thể giải thích lý do “tại sao” trong từng trường hợp, “cái tại sao cuối cùng.”
Khi nhìn ngắm trật tự vũ trụ, hàng tỷ tỷ tinh tú không rơi vào hỗn loạn, nhưng chúng vận hành cách hòa điệu đến mức hoàn hảo và trật tự. Chúng ta thấy mọi thứ đều vận hành đúng giờ, theo những quy luật tự nhiên hài hòa mà không hề có một ách tắc nào cả. Ai có thể giải thích được sự kỳ diệu đó, nếu không phải do bàn tay của Thiên Chúa?
Có một câu chuyện cười rất thú vị liên quan đến câu chuyện đang bàn. Một ngày nọ, một nhóm nhà khoa học họp mặt, họ đi đến kết luận rằng: con người đã làm được rất nhiều vĩ đại, nên không cần đến Thiên Chúa nữa. Elessero, một người trong nhóm, đã đưa họ tới gặp Thiên Chúa và nói: “Chúng tôi không còn cần đến Thiên Chúa nữa. Chúng tôi đã thực hiện việc sinh sản vô tính một con người và chúng tôi có thể tự mình làm tất cả.” Thiên Chúa kiên nhẫn lắng nghe và cuối cùng Người trả lời: “Tốt lắm, vậy chúng ta có thể làm một cuộc thi để biết ai làm ra con người tốt hơn? “Đồng ý,” nhà khoa học vui vẻ trả lời. Thiên Chúa nói: “Chúng ta sẽ thực hiện giống như lúc khởi đầu sáng tạo Ađam.” “Chắc chắn rồi, không có vấn đề,” nhà khoa học đáp và cúi xuống đất lấy một nắm bùn. Thiên Chúa nhìn ông và nói: “Không được, không được, không được, anh phải dùng bùn của anh, anh không thể dùng bùn của tôi được!” Như thế, câu chuyện muốn nói khoa học chỉ có thể đóng vai trò là khám phá và phát triển những tiềm năng mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Tuy nhiên, một điều chúng ta cần phải đưa ra ánh sáng rằng, rõ ràng tự khoa học không làm cho con người xa rời đức tin, hoặc khoa học không thể vượt qua đức tin, như một số người thiển cận nghĩ. Phần lớn những người có tên trong sổ vàng khoa học là những người tín hữu. Nhà khoa học Pasteur nói rằng: “Nhờ việc nghiên cứu và suy niệm rất nhiều mà tôi đã có đức tin như một người nông dân ở Breton. Nếu bạn suy niệm và nghiên cứu nhiều, bạn cũng sẽ có đức tin như một người phụ nữ ở Breton.”
Beckerel, người nhận giải thưởng Nobel cùng với Curie về vật lý, đã nói rằng: “Những nghiên cứu của tôi đã đưa tôi tới niềm tin vào Thiên Chúa.” Chúng ta biết đức tin của Galilêa như thế nào rồi. Newton nói rằng, hệ sinh thái kỳ diệu của mặt trời, các hành tinh, sao chổi không thể gán cho một “sự tất yếu mù lòa” nào đó, nhưng phải khám phá từ công trình này có một Đấng quyền năng và thông minh đang điều khiển mọi sự, không như linh hồn của thế giới, nhưng như Chúa của vũ trụ.” Keplero kết thúc công trình của ông rằng: “Sự hòa điệu của vũ trụ cùng với một lời cầu nguyện sốt sắng dâng lên Chúa các tầng trời, trăng sao và muôn tinh tú.” Einstein nói rằng luật tự nhiên mạc khải cách tuyệt vời về một Thượng Trí mà khi đối diện, tư tưởng loài người chỉ là một suy tư hết sức nghèo nàn. Như thế, đức tin và khoa học không có mâu thuẫn nhau, cũng không có cạnh tranh nhau, nhưng bổ túc cho nhau, như câu châm ngôn nổi tiếng của Đức Gioan Phaolô II: “Đức tin và khoa học như đôi cánh nhờ đó làm cho chúng ta bay cao hơn” (Tông Huấn Đức tin và Lý Trí).
Tuy nhiên, với sự hiểu biết thông thường, chúng ta không thể chứng minh cách hiển nhiên Thiên Chúa hiện hữu. Qua công trình tạo thành, chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa như nhìn qua một tấm gương, như thánh Phaolô nói: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12).
Giống như một tia sáng của mặt trời chiếu vào trong căn phòng, người ta không thể nhìn thấy chính tia sáng đó được, nhưng nhờ các hạt bụi bay nhảy, tiếp nhận và chiếu tỏa ánh sáng, làm chúng ta nhìn thấy ánh sáng. Điều này tương tự đối với Thiên Chúa: chúng ta không thấy Thiên Chúa trực tiếp, nhưng như sự phản chiếu ánh sáng, qua trật tự của vạn vật tự nhiên, chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa hiện hữu. Bức tranh này giải thích tại sao chúng ta không thể tìm gặp Thiên Chúa nếu không có “một cú nhảy” của đức tin. Đức tin đó giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, quan phòng và an bài mọi sự thật kỳ diệu. Người là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Lễ Mẹ Mân Côi
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
15:27 03/10/2019
Sao không
Đức Ông Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Sao không”, rất tâm tình và thật lắng sâu vào lòng người. Lời thơ mời gọi hãy siêng năng cầu nguyện với Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi. Nhạc sĩ Thông Vi Vu dệt thành ca khúc “Sao không”. Tam Ca Áo Trắng hát với cả tâm hồn mến yêu.
Tháng Mân Côi nghe ca khúc “Sao không”, thấy lòng lâng lâng tình thương của MẸ, nghe ơn thánh trải qua từng lời kinh.
Sao em không lần chuỗi?
Những lúc trời gió mưa,
Khi đêm về tăm tối,
Khi lá rụng vườn trưa.
Sao em không lần chuỗi?
Khi trời mới rạng đông,
Khi sương mai ngọt bùi,
Tỏa ngát trên ruộng đồng.
Sao em không lần chuỗi?
Cảm tạ MẸ nhân lành
Ơn MẸ như mưa tưới,
Hồn em cánh đòng xanh.
Sao không lần chuỗi?
Sao không lần chuỗi?
Bước đường em đi tới,
Lần chuỗi nhé em ơi!
Sao em không lần chuỗi?
Mái tóc thề chấm vai,
Bâng khâng ngày dong duổi
Nhung nhớ bóng hình ai.
Sao em không lần chuỗi?
Khi lặng ngắm chiều buông,
Trong cô đơn ngậm ngùi,
Lệ đắng chảy vào hồn.
Sao em không lần chuỗi?
Cảm tạ MẸ nhân lành
Ơn MẸ như mưa tưới,
Hồn em cánh đồng xanh.
Sao không lần chuỗi?
Khi trái gió trở trời,
Em mong manh yếu đuối,
Đến cùng MẸ em ơi.
Mẹ Maria rất hài lòng khi con cái siêng năng lần chuỗi Mân Côi cách sốt sắng. Đức Mẹ đã từng nói điều này với Bênađetta khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh nữ tại Lộ Đức. Đức Mẹ cũng dạy cho ba trẻ tại Fatima nhận biết năng lực của kinh Mân Côi và Mẹ đã giới thiệu mình là Mẹ Mân Côi rồi cùng lần hạt với ba trẻ như muốn giới thiệu Kinh Mân Côi là “kinh kỳ diệu”.
Đức Giáo Hoàng Piô V thiết lập lễ Mẹ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7 tháng 10 năm 1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi.
Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã thiết lập Tháng Mười là Tháng Mân Côi vào ngày 1 tháng 9 năm 1883 và đã công bố 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại giáo hoàng của ngài.
Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Đây là một bộ kinh gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 sự kiện quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một sự kiện. 20 sự kiện ấy được chia làm 4 nhóm:
- Năm sự vui: gồm 5 sự kiện trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu.
- Năm sự sáng: gồm 5 sự kiện trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu.
- Năm sự thương: gồm 5 sự kiện trong cuộc thương khó của Đức Giêsu.
- Năm sự mừng: gồm 5 sự kiện vinh quang.
20 mầu nhiệm ấy là những sự kiện cốt yếu trong Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm suy niệm những sự kiện quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Maria. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI trong Tông huấn “Marialis Cultus” đã gọi Kinh Mân Côi là “Cuốn Phúc Âm rút gọn”. Hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui - Sáng – Thương - Mừng với tinh thần của lời “xin vâng” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng Mẹ.
Chuỗi Mân Côi mang hai đặc điểm nổi bật là chất Tin Mừng và tính Hội Thánh.
Chuỗi Mân Côi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối.
Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người Công Giáo họp nhau lại. Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Hội Thánh công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế. Sau khi đã chiêm ngắm những mầu nhiệm ấy, người tín hữu còn cầu xin những điều hết sức đơn sơ như “xin ơn khiêm nhường, yêu người, khó nghèo”.
Mân Côi chính là hoa hồng. Mân Côi là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Như thế, bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Nói đến Mân Côi là nói đến hoa. Những bông hoa muôn màu muôn sắc dâng trước tòa Mẹ. Những bông hoa kinh nguyện sốt sắng kết dệt nên những lời ca tụng Mẹ. Những bông hoa hy sinh, bác ái muốn tỏa hương dưới chân Mẹ.
Những bông hoa nói lên lòng yêu mến của con cái đối với Mẹ hiền. Những bông hoa cũng cố gắng diễn tả phần nào nét đẹp của Mẹ. Thật vậy, giữa ngàn hoa, Đức Maria nổi bật như bông hoa cao quý xinh đẹp nhất. Đẹp đến độ "đẹp lòng Thiên Chúa". Đức Maria là bông hoa thanh khiết diễn tả được nét đẹp của Thiên Chúa vì Mẹ là tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần "rợp bóng trên Mẹ" nên Mẹ sống dưới sự che chở của Thánh Thần, theo ơn hướng dẫn của Thánh Thần và sống trong tình yêu của Thánh Thần.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên Thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”, là người được “Đức Chúa ở cùng”, là người “đẹp lòng Thiên Chúa” .
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm Mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng “xin vâng” khởi đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Kinh Mân Côi là một chuỗi “xin vâng” của người tín hữu dâng Thiên Chúa, theo mẫu gương đáp trả của Mẹ Maria.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta gần gũi thiết thân với Mẹ Maria.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công Giáo: “Khi gia đình được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông “.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Khi đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fatima, dù ở Guadalupe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày. ” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lucia 13/10/1917).
Thánh Đaminh là người có công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi để cầu xin Chúa bảo vệ Hội Thánh trước sự tấn công của kẻ thù. Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”. Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu” .
Chuỗi hạt Mân Côi nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ Maria. Cầm Chuỗi Mân Côi trên tay, chúng ta sẽ thấy mình được tăng thêm nghị lực, sống vươn lên với niềm Tin, Cậy, Mến. Hãy tập thói quen đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Kinh Mân Côi là hành trang gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân gia đình và xã hội. Nhớ mang theo một tràng chuỗi Mân Côi trong túi áo, hay đeo chuỗi mười hạt ở tay, mình rất dễ tìm thời giờ mỗi ngày để đọc lời kinh phong phú này. Chuỗi hạt Mân Côi mang đến vô vàn ơn phúc huyền diệu cho con người.
Chuỗi Mân Côi diệu vời như thế, “sao em lại không lần chuỗi”? Hãy siêng năng “lần chuỗi nhé em ơi”!
Đức Ông Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Sao không”, rất tâm tình và thật lắng sâu vào lòng người. Lời thơ mời gọi hãy siêng năng cầu nguyện với Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi. Nhạc sĩ Thông Vi Vu dệt thành ca khúc “Sao không”. Tam Ca Áo Trắng hát với cả tâm hồn mến yêu.
Tháng Mân Côi nghe ca khúc “Sao không”, thấy lòng lâng lâng tình thương của MẸ, nghe ơn thánh trải qua từng lời kinh.
Sao em không lần chuỗi?
Những lúc trời gió mưa,
Khi đêm về tăm tối,
Khi lá rụng vườn trưa.
Sao em không lần chuỗi?
Khi trời mới rạng đông,
Khi sương mai ngọt bùi,
Tỏa ngát trên ruộng đồng.
Sao em không lần chuỗi?
Cảm tạ MẸ nhân lành
Ơn MẸ như mưa tưới,
Hồn em cánh đòng xanh.
Sao không lần chuỗi?
Sao không lần chuỗi?
Bước đường em đi tới,
Lần chuỗi nhé em ơi!
Sao em không lần chuỗi?
Mái tóc thề chấm vai,
Bâng khâng ngày dong duổi
Nhung nhớ bóng hình ai.
Sao em không lần chuỗi?
Khi lặng ngắm chiều buông,
Trong cô đơn ngậm ngùi,
Lệ đắng chảy vào hồn.
Sao em không lần chuỗi?
Cảm tạ MẸ nhân lành
Ơn MẸ như mưa tưới,
Hồn em cánh đồng xanh.
Sao không lần chuỗi?
Khi trái gió trở trời,
Em mong manh yếu đuối,
Đến cùng MẸ em ơi.
Mẹ Maria rất hài lòng khi con cái siêng năng lần chuỗi Mân Côi cách sốt sắng. Đức Mẹ đã từng nói điều này với Bênađetta khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh nữ tại Lộ Đức. Đức Mẹ cũng dạy cho ba trẻ tại Fatima nhận biết năng lực của kinh Mân Côi và Mẹ đã giới thiệu mình là Mẹ Mân Côi rồi cùng lần hạt với ba trẻ như muốn giới thiệu Kinh Mân Côi là “kinh kỳ diệu”.
Đức Giáo Hoàng Piô V thiết lập lễ Mẹ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7 tháng 10 năm 1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi.
Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã thiết lập Tháng Mười là Tháng Mân Côi vào ngày 1 tháng 9 năm 1883 và đã công bố 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại giáo hoàng của ngài.
Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Đây là một bộ kinh gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 sự kiện quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một sự kiện. 20 sự kiện ấy được chia làm 4 nhóm:
- Năm sự vui: gồm 5 sự kiện trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu.
- Năm sự sáng: gồm 5 sự kiện trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu.
- Năm sự thương: gồm 5 sự kiện trong cuộc thương khó của Đức Giêsu.
- Năm sự mừng: gồm 5 sự kiện vinh quang.
20 mầu nhiệm ấy là những sự kiện cốt yếu trong Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm suy niệm những sự kiện quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Maria. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI trong Tông huấn “Marialis Cultus” đã gọi Kinh Mân Côi là “Cuốn Phúc Âm rút gọn”. Hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui - Sáng – Thương - Mừng với tinh thần của lời “xin vâng” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng Mẹ.
Chuỗi Mân Côi mang hai đặc điểm nổi bật là chất Tin Mừng và tính Hội Thánh.
Chuỗi Mân Côi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối.
Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người Công Giáo họp nhau lại. Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Hội Thánh công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế. Sau khi đã chiêm ngắm những mầu nhiệm ấy, người tín hữu còn cầu xin những điều hết sức đơn sơ như “xin ơn khiêm nhường, yêu người, khó nghèo”.
Mân Côi chính là hoa hồng. Mân Côi là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Như thế, bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Nói đến Mân Côi là nói đến hoa. Những bông hoa muôn màu muôn sắc dâng trước tòa Mẹ. Những bông hoa kinh nguyện sốt sắng kết dệt nên những lời ca tụng Mẹ. Những bông hoa hy sinh, bác ái muốn tỏa hương dưới chân Mẹ.
Những bông hoa nói lên lòng yêu mến của con cái đối với Mẹ hiền. Những bông hoa cũng cố gắng diễn tả phần nào nét đẹp của Mẹ. Thật vậy, giữa ngàn hoa, Đức Maria nổi bật như bông hoa cao quý xinh đẹp nhất. Đẹp đến độ "đẹp lòng Thiên Chúa". Đức Maria là bông hoa thanh khiết diễn tả được nét đẹp của Thiên Chúa vì Mẹ là tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần "rợp bóng trên Mẹ" nên Mẹ sống dưới sự che chở của Thánh Thần, theo ơn hướng dẫn của Thánh Thần và sống trong tình yêu của Thánh Thần.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên Thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”, là người được “Đức Chúa ở cùng”, là người “đẹp lòng Thiên Chúa” .
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm Mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng “xin vâng” khởi đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Kinh Mân Côi là một chuỗi “xin vâng” của người tín hữu dâng Thiên Chúa, theo mẫu gương đáp trả của Mẹ Maria.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta gần gũi thiết thân với Mẹ Maria.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công Giáo: “Khi gia đình được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông “.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Khi đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fatima, dù ở Guadalupe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày. ” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lucia 13/10/1917).
Thánh Đaminh là người có công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi để cầu xin Chúa bảo vệ Hội Thánh trước sự tấn công của kẻ thù. Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”. Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu” .
Chuỗi hạt Mân Côi nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ Maria. Cầm Chuỗi Mân Côi trên tay, chúng ta sẽ thấy mình được tăng thêm nghị lực, sống vươn lên với niềm Tin, Cậy, Mến. Hãy tập thói quen đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Kinh Mân Côi là hành trang gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân gia đình và xã hội. Nhớ mang theo một tràng chuỗi Mân Côi trong túi áo, hay đeo chuỗi mười hạt ở tay, mình rất dễ tìm thời giờ mỗi ngày để đọc lời kinh phong phú này. Chuỗi hạt Mân Côi mang đến vô vàn ơn phúc huyền diệu cho con người.
Chuỗi Mân Côi diệu vời như thế, “sao em lại không lần chuỗi”? Hãy siêng năng “lần chuỗi nhé em ơi”!
Dẫn Nhập và Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật 27 Mùa Quanh Năm C 6.10.2019
Lm Francis Lý văn Ca
15:38 03/10/2019
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Tuyệt đỉnh của mối tương quan giữa ta với Chúa đó là đức tin. Đức tin đòi hỏi một sự phó thác, không tính toán, đòi hỏi hơn thiệt hay lý do.
Trong giáo lý Công Giáo, có hai lãnh vực chúng ta đón nhận với lòng yêu mến, đó là Đức Tin và Luân Lý, nếu những điều nầy được Giáo Hội công bố trên ngai tòa Thánh Phêrô do chính vị Đại Diện của Ngài nơi trần gian.
Giáo Hội luôn trung thành trong những giáo huấn Tông Truyền, với Tin Mừng Chúa soi dẫn, Giáo Hội luôn vững bước trong đường lối của Chúa Thánh Linh. Chính vì điều nầy mà Giáo Hội sẽ không sai lầm trong hai lãnh vực trên.
Với tâm tình phó thác nơi Mẹ dưới đất - là Giáo Hội - trên con đường đức tin không điều kiện, chúng ta sống trung thành tuân giữ những giáo huấn của Giáo Hội. Xin Mẹ Maria, là Đấng chúng ta luôn kính yêu, là Sao Mai dẫn đường chúng ta đi trong những lúc đức tin bị lung lay.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Tiên tri Habacúc chứng kiến cảnh bất công, áp bức xảy đến cho những ngưòi công chính. Ông đã oán trách Thiên Chúa. Chúa đã cắt nghĩa cho ông thấy đường nẻo kẻ công chính sẽ được sáng chói trong ngày sau hết.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô khuyên nhủ người tông đồ trẻ Timôthêô sống trọn vẹn thiên chức linh mục, qua sự đặt tay của Ngài. Đó là sự thông truyền miêu duệ của chức linh mục ngàn đời cho muôn thế hệ.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các tông đồ đức tin. Đời sống của mỗi người tín hữu chúng ta, nếu thiếu nền tảng đức tin, chúng ta sẽ dễ bị dòng đời lôi cuốn theo những tà thuyết, đạo giáo mới của thế giới hôm nay.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi đức tin chúng ta chỉ lớn bằng hạt cải thì có thể khiến cây dâu bứng rễ trồng xuống biển thì nó liền vâng. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta một đức tin vững mạnh.
1. Xin cho Đức Thánh Cha Phanxicô, là vị hướng đạo của toàn thể Dân Thánh Chúa, trên con đường đức tin. Xin cho Ngài luôn trung kiên trên con đường đức tin đó. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin ban cho hàng giáo phẩm được đầy khôn ngoan và Thánh Thần, để các Ngài chu toàn trách vụ Chủ Chăn của Giáo Phận chúng ta.
Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho những anh chị em đang tìm hiểu về đạo Công Giáo, qua sự giúp đỡ của các giảng viên giáo lý, họ sẽ nhận ra ánh sáng của Chúa đang hướng dẫn họ trong lộ trình đức tin mà họ đang tìm hiểu. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin cho những anh chị em đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn nhân, được đầy khôn ngoan để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc Bí Tích mà họ sắp lãnh nhận. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tín hữu của Chúa đã qua đời, qua lời cầu nguyện của chúng ta, được hưởng kiến nhan thánh Chúa. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con
Linh mục:
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin cho chúng con, với ơn thánh Chúa ban, chúng con sẽ trung thành giữ những lệnh truyền của Chúa qua sự hướng dẫn của Giáo Hội là Mẹ Thánh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Tuyệt đỉnh của mối tương quan giữa ta với Chúa đó là đức tin. Đức tin đòi hỏi một sự phó thác, không tính toán, đòi hỏi hơn thiệt hay lý do.
Trong giáo lý Công Giáo, có hai lãnh vực chúng ta đón nhận với lòng yêu mến, đó là Đức Tin và Luân Lý, nếu những điều nầy được Giáo Hội công bố trên ngai tòa Thánh Phêrô do chính vị Đại Diện của Ngài nơi trần gian.
Giáo Hội luôn trung thành trong những giáo huấn Tông Truyền, với Tin Mừng Chúa soi dẫn, Giáo Hội luôn vững bước trong đường lối của Chúa Thánh Linh. Chính vì điều nầy mà Giáo Hội sẽ không sai lầm trong hai lãnh vực trên.
Với tâm tình phó thác nơi Mẹ dưới đất - là Giáo Hội - trên con đường đức tin không điều kiện, chúng ta sống trung thành tuân giữ những giáo huấn của Giáo Hội. Xin Mẹ Maria, là Đấng chúng ta luôn kính yêu, là Sao Mai dẫn đường chúng ta đi trong những lúc đức tin bị lung lay.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Tiên tri Habacúc chứng kiến cảnh bất công, áp bức xảy đến cho những ngưòi công chính. Ông đã oán trách Thiên Chúa. Chúa đã cắt nghĩa cho ông thấy đường nẻo kẻ công chính sẽ được sáng chói trong ngày sau hết.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô khuyên nhủ người tông đồ trẻ Timôthêô sống trọn vẹn thiên chức linh mục, qua sự đặt tay của Ngài. Đó là sự thông truyền miêu duệ của chức linh mục ngàn đời cho muôn thế hệ.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các tông đồ đức tin. Đời sống của mỗi người tín hữu chúng ta, nếu thiếu nền tảng đức tin, chúng ta sẽ dễ bị dòng đời lôi cuốn theo những tà thuyết, đạo giáo mới của thế giới hôm nay.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi đức tin chúng ta chỉ lớn bằng hạt cải thì có thể khiến cây dâu bứng rễ trồng xuống biển thì nó liền vâng. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta một đức tin vững mạnh.
1. Xin cho Đức Thánh Cha Phanxicô, là vị hướng đạo của toàn thể Dân Thánh Chúa, trên con đường đức tin. Xin cho Ngài luôn trung kiên trên con đường đức tin đó. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin ban cho hàng giáo phẩm được đầy khôn ngoan và Thánh Thần, để các Ngài chu toàn trách vụ Chủ Chăn của Giáo Phận chúng ta.
Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho những anh chị em đang tìm hiểu về đạo Công Giáo, qua sự giúp đỡ của các giảng viên giáo lý, họ sẽ nhận ra ánh sáng của Chúa đang hướng dẫn họ trong lộ trình đức tin mà họ đang tìm hiểu. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin cho những anh chị em đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn nhân, được đầy khôn ngoan để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc Bí Tích mà họ sắp lãnh nhận. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tín hữu của Chúa đã qua đời, qua lời cầu nguyện của chúng ta, được hưởng kiến nhan thánh Chúa. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con
Linh mục:
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin cho chúng con, với ơn thánh Chúa ban, chúng con sẽ trung thành giữ những lệnh truyền của Chúa qua sự hướng dẫn của Giáo Hội là Mẹ Thánh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Marc Ouellet, tổng trưởng Bộ Giám Mục, lên tiếng về luật độc thân linh mục
Đặng Tự Do
18:06 03/10/2019
Trong một diễn biến khá bất ngờ đối với nhiều người, chỉ vài ngày trước khi khai mạc Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon, một vị Hồng Y đang tại chức và đang nắm một trong những bộ quan trọng nhất trong giáo triều Rôma đã vừa tham gia vào cuộc tranh luận về đề nghị phong chức cho những người có gia đình, và có một đời sống đức hạnh trong vùng Amazon.
Hôm thứ Năm 3 tháng Mười, Inés San Martín của tờ Crux có bài tường thuật về biến cố này từ Rôma. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Top Vatican cardinal ‘skeptical’ on married priests for the Amazon
Inés San Martín
Hồng Y cao cấp tại Vatican ‘hoài nghi’ về đề nghị linh mục có gia đình cho vùng Amazon
Hôm thứ Tư 2 tháng Mười, một quan chức cấp cao của Vatican từng được đồn đại là ứng viên Giáo Hoàng sáng giá cho biết ngài hoài nghi về việc phong chức linh mục cho những người đã có gia đình nhằm giải quyết tình trạng thiếu linh mục ở các vùng nông thôn như Amazon. Dịp này, ngài cũng lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ luật độc thân của linh mục.
“Tôi hoài nghi về điều này, và tôi nghĩ rằng tôi không phải là người duy nhất,” Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Trưởng một trong các Thánh Bộ rất có uy quyền tại Vatican, là Bộ Giám Mục, đã nói như trên trong một cuộc họp báo rất hiếm của ngài để ra mắt cuốn sách mới nhất mà ngài là tác giả.
“Trên tôi có một người thậm chí còn hoài nghi chuyện này hơn nữa, là người đã cho phép các cuộc tranh luận này, và như thế đối với tôi là OK,” Đức Hồng Y Ouellet nói.
Khi được hỏi liệu có phải ngài muốn đề cập đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong câu nói này hay không, Đức Hồng Y Ouellet từ chối đưa ra câu trả lời có hay không, nhưng thực tế, người duy nhất là cấp trên của Đức Hồng Y Ouellet là Đức Giáo Hoàng và chính ngài là người mở ra Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon từ ngày 6 đến 27 tháng Mười này, trong đó nhiều người hy vọng sẽ có thể tranh luận về việc phong chức cho những người đàn ông đã kết hôn được gọi là “viri probati”, tức là những người đàn ông có đức hạnh đã được chứng minh.
Những nhận xét của Đức Hồng Y Ouellet đã được đưa ra khi ngài ra mắt cuốn sách “Friends of the Bridegroom: For a Renewed Vision of Priestly Celibacy” – “Những Người Bạn Của Chú Rể: Hướng Đến Một Cái Nhìn Mới Về Luật Độc Thân Linh Mục.” Trong cuốn sách này ngài đề cập đến sự suy giảm trong các ơn gọi và cuộc khủng hoảng uy tín gây ra bởi các tai tiếng lạm dụng tình dục.
Đức Hồng Y Ouellet không chỉ đứng đầu Bộ Giám Mục, nhưng ngài còn lãnh đạo Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh. Cả hai sứ vụ này đều khiến cho ngài xứng đáng là thành viên của hội nghị sắp tới, và ngài sẽ tham gia vào một nhóm những tiếng nói nhỏ nhưng đa dạng của những người đã bày tỏ sự nghi ngờ về viri probati.
Đức Giáo Hoàng đã cho phép đưa vấn đề lên bàn thảo luận, nhưng ngài cũng nói ngài coi trọng luật độc thân linh mục và ngài không có ý định thay đổi một cách đột ngột truyền thống này của Giáo Hội.
Đức Hồng Y Ouellet nói rằng ngài “cởi mở” với cuộc tranh luận tại hội nghị sắp tới, nhưng cũng nói thêm rằng ngài hoài nghi về đề xuất này vì trong khu vực Amazon chẳng có bao nhiêu giáo lý viên không được phong chức đang dạy dỗ giáo dân. Đào tạo người bản địa để phục vụ như phó tế hoặc linh mục, theo Đức Hồng Y, là một thách đố thậm chí còn cấp bách hơn.
Đức Hồng Y Canada được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI bổ nhiệm vào tháng 6 năm 2010 và Đức Phanxicô đã lưu nhiệm ngài ở vị trí này vượt quá cả mức năm năm được lưu nhiệm không chính thức.
Trong bài thuyết trình về cuốn sách, Đức Hồng Y Ouellet khẳng định rằng ngài không chống lại việc có một cuộc tranh luận về việc truyền chức cho những người đàn ông đã lập gia đình, nhưng ngài nói rằng vào thời điểm này trong lịch sử cần có một nhu cầu suy tư và phân định. Do đó, ngài viết cuốn sách này như một sự đóng góp nhằm “mang lại một cái gì đó cần thiết để hỗ trợ sự phân định.”
“Chúng ta phải nghe nhiều tiếng nói khác, từ vùng này, và từ các giám mục tại chỗ,” ngài nói với các nhà báo nói tiếng Anh. “Tôi cần lắng nghe các vị ấy để nắm bắt tình hình tốt hơn. Nhưng tôi vẫn giữ sự hoài nghi xuất phát từ những xác tín và kiến thức về truyền thống Công Giáo.”
Sau đó, Đức Hồng Y cho biết ngài đã tặng hai cuốn sách này cho vị Giáo Hoàng người Mỹ Latinh và Đức Giáo Hoàng nói ngài vui mừng khi thấy Đức Hồng Y tham gia vào cuộc tranh luận này.
Tuy không tán thành việc phong chức linh mục cho những người đã có gia đình và hoài nghi về những hiệu quả có thể có của đề nghị viri probati, Đức Hồng Y thừa nhận rằng, luật độc thân linh mục là một truyền thống, không phải là một tín lý và vì thế không nên gọi những người đặt vấn đề đối với luật này là “lạc giáo”.
Nhìn chung, Đức Hồng Y Ouellet đã lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ những giá trị của cuộc sống độc thân linh mục. Ngài ghi nhận sự hy sinh của những người nam đã từ bỏ một mái gia đình để trở thành một linh mục. Ngài gọi đó là một cống hiến mạnh mẽ và “khó có thể so sánh” cho việc làm chứng và loan báo Tin Mừng, đó là một điều Giáo Hội rất cần ngày hôm nay.
Đức Hồng Y nói rằng trong những ngày gần đây nhiều người thường hỏi tại sao ngài quyết định viết cuốn sách này, và ngài trả lời rằng cuốn sách được viết như một lời “khích lệ” dành cho các linh mục, những người, đến nay, đã gánh chịu những đau khổ có khi công bằng nhưng cũng không thiếu những trường hợp bất công, và Đức Hồng Y muốn “nâng đỡ các ngài trong sứ vụ.”
Vì vậy, Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng cuốn sách này có nghĩa là một sự “kéo dài” thông điệp mà Đức Thánh Cha đã gửi cho các linh mục vào ngày 4 tháng Tám để khích lệ các ngài trong sứ vụ.
Bàn đến Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon trong tháng này, Đức Hồng Y Ouellet lập luận rằng “các chiến lược truyền giáo mới đang nổi lên có thể có tác động lâu dài đối với thừa tác vụ linh mục, ở địa phương hoặc rộng hơn, do ảnh hưởng toàn cầu hóa của nền văn hóa truyền thông không biên giới.”
“Một số người mong muốn áp dụng giải pháp mục vụ chóng vánh là viri probati - nghĩa là, phong chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ, những người đứng đầu các gia đình ổn định, để bảo đảm việc cử hành Thánh Thể cho các cộng đồng bản địa phân tán, trong đó giá trị của cuộc sống độc thân linh mục dường như có vẻ xa lạ”.
“Những triển vọng này có thể là hấp dẫn đối với một số người, và gây ra những mối quan tâm nơi những người khác,” đặc biệt khi tính đến các yếu tố ý thức hệ và chiến lược đã được hòa quyện vào nhau nhằm việc tìm kiếm những “kết quả đầy tham vọng và quan trọng ở cấp độ hoàn vũ”.
[Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon được các Giám Mục Đức tài trợ, và Đức Giám Mục Franz-Josef Overbeck của Essen, đã nói rằng sau thượng hội đồng Amazon này, “mọi sự sẽ không có gì giống như trước đây”. Nhiều người quan ngại rằng trong vùng Amazon số giáo lý viên đã lập gia đình có thể được phong chức linh mục theo “diện viri probati” thực ra không có bao nhiêu. Đề nghị viri probati chỉ là bước thứ nhất trong chiến lược xa hơn là bãi bỏ hoàn toàn luật độc thân linh mục trong toàn thể Giáo Hội. Chú thích của người dịch]
Đức Hồng Y người Canada cảnh báo rằng có một số tư tưởng “cấp tiến” hay “phản kháng” đang nổi lên “để lợi dụng tình hình và đề xuất các chương trình cải cách, là những điều vượt qua ý định và định hướng của Đức Thánh Cha Phanxicô.”
Source:CruxTop Vatican cardinal ‘skeptical’ on married priests for the Amazon
Hôm thứ Năm 3 tháng Mười, Inés San Martín của tờ Crux có bài tường thuật về biến cố này từ Rôma. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Top Vatican cardinal ‘skeptical’ on married priests for the Amazon
Inés San Martín
Hồng Y cao cấp tại Vatican ‘hoài nghi’ về đề nghị linh mục có gia đình cho vùng Amazon
Hôm thứ Tư 2 tháng Mười, một quan chức cấp cao của Vatican từng được đồn đại là ứng viên Giáo Hoàng sáng giá cho biết ngài hoài nghi về việc phong chức linh mục cho những người đã có gia đình nhằm giải quyết tình trạng thiếu linh mục ở các vùng nông thôn như Amazon. Dịp này, ngài cũng lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ luật độc thân của linh mục.
“Tôi hoài nghi về điều này, và tôi nghĩ rằng tôi không phải là người duy nhất,” Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Trưởng một trong các Thánh Bộ rất có uy quyền tại Vatican, là Bộ Giám Mục, đã nói như trên trong một cuộc họp báo rất hiếm của ngài để ra mắt cuốn sách mới nhất mà ngài là tác giả.
“Trên tôi có một người thậm chí còn hoài nghi chuyện này hơn nữa, là người đã cho phép các cuộc tranh luận này, và như thế đối với tôi là OK,” Đức Hồng Y Ouellet nói.
Khi được hỏi liệu có phải ngài muốn đề cập đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong câu nói này hay không, Đức Hồng Y Ouellet từ chối đưa ra câu trả lời có hay không, nhưng thực tế, người duy nhất là cấp trên của Đức Hồng Y Ouellet là Đức Giáo Hoàng và chính ngài là người mở ra Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon từ ngày 6 đến 27 tháng Mười này, trong đó nhiều người hy vọng sẽ có thể tranh luận về việc phong chức cho những người đàn ông đã kết hôn được gọi là “viri probati”, tức là những người đàn ông có đức hạnh đã được chứng minh.
Những nhận xét của Đức Hồng Y Ouellet đã được đưa ra khi ngài ra mắt cuốn sách “Friends of the Bridegroom: For a Renewed Vision of Priestly Celibacy” – “Những Người Bạn Của Chú Rể: Hướng Đến Một Cái Nhìn Mới Về Luật Độc Thân Linh Mục.” Trong cuốn sách này ngài đề cập đến sự suy giảm trong các ơn gọi và cuộc khủng hoảng uy tín gây ra bởi các tai tiếng lạm dụng tình dục.
Đức Hồng Y Ouellet không chỉ đứng đầu Bộ Giám Mục, nhưng ngài còn lãnh đạo Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh. Cả hai sứ vụ này đều khiến cho ngài xứng đáng là thành viên của hội nghị sắp tới, và ngài sẽ tham gia vào một nhóm những tiếng nói nhỏ nhưng đa dạng của những người đã bày tỏ sự nghi ngờ về viri probati.
Đức Giáo Hoàng đã cho phép đưa vấn đề lên bàn thảo luận, nhưng ngài cũng nói ngài coi trọng luật độc thân linh mục và ngài không có ý định thay đổi một cách đột ngột truyền thống này của Giáo Hội.
Đức Hồng Y Ouellet nói rằng ngài “cởi mở” với cuộc tranh luận tại hội nghị sắp tới, nhưng cũng nói thêm rằng ngài hoài nghi về đề xuất này vì trong khu vực Amazon chẳng có bao nhiêu giáo lý viên không được phong chức đang dạy dỗ giáo dân. Đào tạo người bản địa để phục vụ như phó tế hoặc linh mục, theo Đức Hồng Y, là một thách đố thậm chí còn cấp bách hơn.
Đức Hồng Y Canada được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI bổ nhiệm vào tháng 6 năm 2010 và Đức Phanxicô đã lưu nhiệm ngài ở vị trí này vượt quá cả mức năm năm được lưu nhiệm không chính thức.
Trong bài thuyết trình về cuốn sách, Đức Hồng Y Ouellet khẳng định rằng ngài không chống lại việc có một cuộc tranh luận về việc truyền chức cho những người đàn ông đã lập gia đình, nhưng ngài nói rằng vào thời điểm này trong lịch sử cần có một nhu cầu suy tư và phân định. Do đó, ngài viết cuốn sách này như một sự đóng góp nhằm “mang lại một cái gì đó cần thiết để hỗ trợ sự phân định.”
“Chúng ta phải nghe nhiều tiếng nói khác, từ vùng này, và từ các giám mục tại chỗ,” ngài nói với các nhà báo nói tiếng Anh. “Tôi cần lắng nghe các vị ấy để nắm bắt tình hình tốt hơn. Nhưng tôi vẫn giữ sự hoài nghi xuất phát từ những xác tín và kiến thức về truyền thống Công Giáo.”
Sau đó, Đức Hồng Y cho biết ngài đã tặng hai cuốn sách này cho vị Giáo Hoàng người Mỹ Latinh và Đức Giáo Hoàng nói ngài vui mừng khi thấy Đức Hồng Y tham gia vào cuộc tranh luận này.
Tuy không tán thành việc phong chức linh mục cho những người đã có gia đình và hoài nghi về những hiệu quả có thể có của đề nghị viri probati, Đức Hồng Y thừa nhận rằng, luật độc thân linh mục là một truyền thống, không phải là một tín lý và vì thế không nên gọi những người đặt vấn đề đối với luật này là “lạc giáo”.
Nhìn chung, Đức Hồng Y Ouellet đã lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ những giá trị của cuộc sống độc thân linh mục. Ngài ghi nhận sự hy sinh của những người nam đã từ bỏ một mái gia đình để trở thành một linh mục. Ngài gọi đó là một cống hiến mạnh mẽ và “khó có thể so sánh” cho việc làm chứng và loan báo Tin Mừng, đó là một điều Giáo Hội rất cần ngày hôm nay.
Đức Hồng Y nói rằng trong những ngày gần đây nhiều người thường hỏi tại sao ngài quyết định viết cuốn sách này, và ngài trả lời rằng cuốn sách được viết như một lời “khích lệ” dành cho các linh mục, những người, đến nay, đã gánh chịu những đau khổ có khi công bằng nhưng cũng không thiếu những trường hợp bất công, và Đức Hồng Y muốn “nâng đỡ các ngài trong sứ vụ.”
Vì vậy, Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng cuốn sách này có nghĩa là một sự “kéo dài” thông điệp mà Đức Thánh Cha đã gửi cho các linh mục vào ngày 4 tháng Tám để khích lệ các ngài trong sứ vụ.
Bàn đến Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon trong tháng này, Đức Hồng Y Ouellet lập luận rằng “các chiến lược truyền giáo mới đang nổi lên có thể có tác động lâu dài đối với thừa tác vụ linh mục, ở địa phương hoặc rộng hơn, do ảnh hưởng toàn cầu hóa của nền văn hóa truyền thông không biên giới.”
“Một số người mong muốn áp dụng giải pháp mục vụ chóng vánh là viri probati - nghĩa là, phong chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ, những người đứng đầu các gia đình ổn định, để bảo đảm việc cử hành Thánh Thể cho các cộng đồng bản địa phân tán, trong đó giá trị của cuộc sống độc thân linh mục dường như có vẻ xa lạ”.
“Những triển vọng này có thể là hấp dẫn đối với một số người, và gây ra những mối quan tâm nơi những người khác,” đặc biệt khi tính đến các yếu tố ý thức hệ và chiến lược đã được hòa quyện vào nhau nhằm việc tìm kiếm những “kết quả đầy tham vọng và quan trọng ở cấp độ hoàn vũ”.
[Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon được các Giám Mục Đức tài trợ, và Đức Giám Mục Franz-Josef Overbeck của Essen, đã nói rằng sau thượng hội đồng Amazon này, “mọi sự sẽ không có gì giống như trước đây”. Nhiều người quan ngại rằng trong vùng Amazon số giáo lý viên đã lập gia đình có thể được phong chức linh mục theo “diện viri probati” thực ra không có bao nhiêu. Đề nghị viri probati chỉ là bước thứ nhất trong chiến lược xa hơn là bãi bỏ hoàn toàn luật độc thân linh mục trong toàn thể Giáo Hội. Chú thích của người dịch]
Đức Hồng Y người Canada cảnh báo rằng có một số tư tưởng “cấp tiến” hay “phản kháng” đang nổi lên “để lợi dụng tình hình và đề xuất các chương trình cải cách, là những điều vượt qua ý định và định hướng của Đức Thánh Cha Phanxicô.”
Source:Crux
Đức Giám Mục Dallas khen ngợi tinh thần Kitô giáo trong vụ án giết người ở Dallas.
Trần Mạnh Trác
20:17 03/10/2019
Ảnh MESQUITE POLICE DEPARTMENT/ AP; FACEBOOK |
“Anh ấy nói rằng đó là điều mà nạn nhân Botham đã có thể mong muốn,” ĐGM nói. “Tôi cầu mong rằng tất cả chúng ta hãy noi gương người thanh niên xuất chúng này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình trong cộng đồng của chúng ta và trên toàn thế giới.”
Cho những ai chưa hề theo dõi vụ án này, chúng tôi xin được tóm lược như sau:
Cô Amber Guyger, 31 tuổi da trắng, là một nhân viên cảnh sát cuả Dallas. Ngày 6 tháng 9 năm ngoái (2018), sau khi đã ‘lên ca’ dài tới 15 giờ liên tiếp, cô mệt mỏi trở về Appartment cuả mình ở lầu 4. Có lẽ vì lo đấu láo điện thoại với ‘bồ trai’ cho nên cô đã đậu xe ở garage tầng thứ 3 và lầm lũi đi vào phòng cuả anh Botham Jean, là một căn phòng bố trí ngay dưới căn phòng cuả cô (ở lầu 4).
Cửa không khoá cho nên cô Amber đã đi vào phòng dễ dàng và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra…
“Show me your hands” (giơ tay lên) cô hét.
Anh Botham ngớ người ra, bất động…Hai phát súng đã nổ, trúng vào tim, giống như những gì được huấn luyện trong phòng tập bắn cuả cảnh sát.
Botham Jean, 26 tuổi da đen, nhập cư từ đảo St Lucia, nhân viên kế toán, hăng say phục vụ trong các hội đoàn cuả nhà thờ (Tin Lành), đã chết trong căn phòng cuả mình một cách bất ngờ, không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong một bối cảnh dầu xôi lửa bỏng vì hai vấn đề mầu da và bạo lực cuả cảnh sát thì cuộc xử tội cô Amber Guyger là vô cùng phiền toái, công tố viện cuả Dallas đã dự định đưa cô ra toà với tội ‘gây chết người’ (manslaughter) nhưng lập tức bị biểu tình phản đối dữ dội và do đó đã đưa cô ra toà với tội ‘sát nhân’ (murder) mà hình phạt có thể là chung thân.
Những ngày vừa qua ở trước toà, cô Amber đã khai rằng cô hối hận và xin lỗi về sự lầm lẫn cuả mình và sẽ không một ngày nào có thể bình yên được trong suốt cuộc đời cô, tuy nhiên khi bị vặn hỏi là khi bắn một người như vậy thì lúc đó cô có ý gì, cô đã trả lời là bắn để giết.
Kết thúc 4 ngày toà, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Ngày hôm qua trong phần luận tội, công tố viện đã đề nghị 28 năm tù nhưng bổi thẩm đoàn đã ân giảm mà chỉ phạt 10 năm tù, trong đó cô có thể xin ân xá sau 5 năm.
Những gì xảy ra sau khi luận tội là một cảnh đối nghịch và hổn độn tuỳ theo bối cảnh xảy ra ở đâu. Ở bên ngoài toà án thì nhiều nhóm bất mãn đã lên tiếng tố cáo là bất công, quá nhẹ, và bà mẹ cuả nạn nhân cũng lên tiếng là công lý chưa được thực hiên, nhưng bên trong toà án thì một cảnh tượng khác hẳn đã xảy ra mà những phóng viên kỳ cựu đã mô tả là chưa từng chứng kiến một sự việc cảm động như thế bao giờ.
Người em trai cuả Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ.
“Nếu cô quả là thực lòng, thì riêng tôi, tôi tha thứ cho cô,” Brandt Jean nói.
“Tôi hy vọng cô tìm đến với Chúa với tất cả mọi cảm giác tội lỗi, tất cả những điều xấu trong quá khứ. Nếu cô đến với Chúa và xin Ngài, Ngài cũng sẽ tha thứ cho cô.”
Anh Brandt đã nghẹn ngào khi nói với cô Guyger rằng, anh thậm chí không muốn cô ấy phải ngồi tù. “Tôi muốn điều tốt nhất cho cô, bởi vì tôi biết đó chính xác là điều mà anh Botham cuả tôi cũng đã muốn, và điều tốt nhất là trao cuộc sống của mình cho Chúa Kitô.”
“Tôi yêu cô như một con người, và tôi không muốn điều gì xấu xảy ra cho cô,” anh Brandt tiếp tục nói như vậy rối xin phép quan toà được ôm cô Guyger.
Hai người đã chia sẻ một cái ôm thật chặt thật lâu và đầy nước mắt, với những tiếng thì thầm riêng tư mà những người chung quanh không thể nghe được, (theo lời mô tả cuả tờ báo Dallas Morning News.)
Sau khi tuyên án, bà thẩm phán Tammy Kemp, da đen. của Tiểu bang cũng đã tặng cho cô Guyger cuốn kinh thánh cá nhân của bà. Bà khuyến khích cô Guyger đọc nó và nói với cô ấy, Hãy tha thứ cho chính mình.
Xin coi youtube lúc anh Brandt Jean nói lời tha thứ cho cô Amber Guyger (video do báo Dallas Morning News:)
Phán Quyết Của Chánh Án Weinberg Về Kháng Cáo Của Đức Hồng Y Pell: Thử nghiệm M v The Queen - chi thứ hai
Vũ Văn An
22:20 03/10/2019
Thử nghiệm M v The Queen - chi thứ hai
1030 Như đã chỉ ra trước đây, bằng chứng của người khiếu nại trong phiên tòa đầu tiên được đưa ra từ một địa điểm ở xa [254]. Điều này phù hợp với thực hành hiện được áp dụng tại Tiểu Bang này trong hầu hết các phiên tòa liên quan đến xâm phạm tình dục. Bằng chứng cũng đã được ghi âm, và do đó có thể được sử dụng trong phiên tòa thứ hai. Do đó, tránh được sự cần thiết phải đối chất người khiếu nại lần thứ hai.
1031 Cũng đã được chỉ ra [255], cả hai phiên tòa đều được quay video hoàn toàn. Điều này có nghĩa là một số nhân chứng đưa ra bằng chứng tại phiên tòa đầu tiên không bắt buộc phải cung cấp lại bằng chứng nữa. Bồi thẩm đoàn chỉ đơn giản được cho xem các bản ghi bằng chứng ban đầu của họ [256].
1032 Sự kiện phiên tòa thứ hai được ghi lại đầy đủ có nghĩa là Tòa án này đã có sẵn cho nó một bản ghi bằng hình ảnh hoàn chỉnh về bằng chứng được đưa ra bởi mọi nhân chứng, trong cả hai phiên tòa.
1033 Các thành viên của Tòa án này đã xem các bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được mỗi bên đề cử là có ý nghĩa đặc thù. Ngoài ra, tất nhiên, chúng tôi đã có sẵn cho chúng tôi toàn bộ bản ghi chép (transcript) của phiên tòa thứ hai, cũng như các phần có liên quan của bản ghi chép phiên tòa đầu tiên.
1034 Như tôi đã nói trong một số dịp, Tòa án Tối cao trong vụ M quy định rằng một tòa phúc thẩm trung gian, khi xử lý một cơ sở kháng cáo cho rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ bằng bằng chứng, phải thực hiện một 'cuộc đánh giá độc lập' về toàn bộ bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Mỗi thành viên của Tòa án phải xem xét liệu ông ta hoặc bà ta có nuôi dưỡng hay không ‘một nghi ngờ’ đối với tội lỗi của bị cáo. Nếu câu hỏi đó được trả lời một cách khẳng định, thì Tòa án phải chuyển sang giai đoạn thứ hai của thử nghiệm M.
1035 Tòa án tối cao trong vụ M đã xác lập rằng, thông thường, một nghi ngờ được nuôi dưỡng bởi tòa phúc thẩm cũng sẽ là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải nuôi dưỡng. Việc phải như vậy, trừ khi các thành viên của tòa án đó cho rằng, vì lý do bồi thẩm đoàn đã được nhìn và nghe các nhân chứng đưa ra bằng chứng, lợi thế của họ so với tòa phúc thẩm nên được coi là làm giảm bất cứ sự nghi ngờ nào như vậy.
1036 Như tôi đã nói, mỗi thành viên của Tòa án này đã có cơ hội được thấy và nghe tất cả các nhân chứng đưa ra bằng chứng. Có sự kiện này là việc này chỉ là nhờ cách ghi lại, và rõ ràng có sự khác biệt giữa việc có mặt tại tòa và được thấy nhân chứng trực tiếp, và việc chỉ được xem nhân chứng đó đưa ra bằng chứng trên màn hình tivi hoặc máy tính. Tuy nhiên, đối với người khiếu nại, các thành viên của Tòa án này đã thấy chính xác những gì bồi thẩm đoàn trong phiên tòa thứ hai đã thấy. Rõ ràng, những bồi thẩm viên đó không có lợi thế hơn Tòa án này, ít nhất về mặt đó.
1037 Tất nhiên, liệu một tòa án phúc thẩm trung gian có nên xem bản ghi âm, ít nhất một phần, các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa, là một câu hỏi được phát hiện ở một mức độ nào đó, bởi Tòa án Tối cao trong vụ SKA, mà trước đây, tôi đã đề cập đến nhân vấn đề áp dụng thử nghiệm M.
1038 Trong vụ SKA, một câu hỏi đặt ra là liệu Tòa Phúc thẩm Hình sự New South Wales có sai sót khi không xem các bằng chứng được ghi lại của người khiếu nại hay không. Bằng chứng của cô ta tại phiên tòa đã được đưa ra, một phần, bằng một cuộc phỏng vấn được ghi lại và, một phần, bằng chứng từ viva voce (lời nói trực tiếp, lời dịch của người chuyển ngữ).
1039 Người kháng cáo, và một số nhân chứng bào chữa chủ yếu không bị thách thức, đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm cho mỗi một trong ba ngày trong đó, việc bị cáo buộc là vi phạm có thể xảy ra. Như đã thảo luận trước đây, người kháng cáo đã thách thức các bản án của mình trên cơ sở các lời kết án (verdicts) không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ, liên quan đến bằng chứng.
1040 Quan trọng đối với các mục đích hiện tại, Tòa án Tối cao cho rằng các thành viên của Tòa phúc thẩm hình sự đã không sai lầm khi từ chối xem cho mình đoạn video ghi lại cuộc phỏng vấn của người khiếu nại. Người kháng cáo đã không xác định được bất cứ mục đích pháp y nào có thể hữu ích bằng cách xem bản ghi âm đó [257].
1041 Đa số trong vụ SKA tuyên bố rằng thông thường, trình thuật được đưa ra, và ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhân chứng, có sẵn cho tòa phúc thẩm trung gian từ bản ghi chép, sẽ đủ để cho phép việc duyệt xét đúng mức các bằng chứng tại phiên tòa. Người ta dự ước rằng nếu có bất cứ điều gì có thể được phân định chỉ bằng cách nhìn, hoặc bằng cách nghe, có thể ảnh hưởng đến cách xem của bằng chứng của Tòa án, thì nó phải được nhận diện. Để một tòa án buộc phải đi xa hơn, và xem một bản ghi bằng chứng thực tế, một điều gì đó trong các hoàn cảnh của vụ án sẽ bắt buộc phải tiếp nhận diễn trình đó.
1042 Một cách có liên quan, đa số trong vụ SKA bày tỏ mối lo ngại đối với tiềm năng có sự tập chú không thích đáng vào một khía cạnh của toàn bộ bằng chứng, nếu chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại mà thôi. Điều đó cũng có thể tạo ra một thất bại, về phía Tòa án, trong việc xem xét toàn bộ bằng chứng, vốn là nhiệm vụ cần phải được thi hành.
1043 Trở lại trường hợp hiện tại, người khiếu nại đưa ra bằng chứng của mình trong hơn hai ngày. Ông đã được đối chất khá dài, và mạnh mẽ, như được dự kiến. Ông Richter thách thức cả sự khả tín lẫn sự đáng dựa vào trong trình thuật của ông.
1044 Khi các bên được thông báo bằng văn bản về ý muốn của Tòa án này được xem bản ghi âm bằng chứng của người khiếu nại, cũng như bản ghi âm của một số nhân chứng chủ yếu khác, đương đơn thoạt đầu đã phản đối việc này. Ông đệ trình rằng nếu các thành viên của Tòa án này đuợc lưu ý tự mình xem người khiếu nại đã hành xử ra sao khi đưa ra bằng chứng tại phiên tòa, họ cũng nên xem bằng chứng được ghi lại của một số nhân chứng khác. Tên của những nhân chứng được coi là có liên quan đặc biệt, về phương diện này, đã được nêu ra một cách chuyên biệt.
1045 Theo yêu cầu của đương đơn, các thành viên của Tòa án này, trước khi nghe miệng đơn này, đã xem các bằng chứng được ghi lại không những của người khiếu nại, mà còn của một số nhân chứng khác. Trong trường hợp của tôi, tôi đã xem các bản ghi bằng chứng được đưa ra bởi Portelli, Potter, McGlone, Connor, Finnigan, Cox, Mallinson, Rodney Dearing, David Dearing, Parissi và Bonomy. Diễn trình đó mất một số ngày, nhưng cuối cùng, đã được chứng minh là có giá trị đáng kể.
1046 Tôi nên nói rằng trước khi xem bản ghi âm của những nhân chứng này, tôi đã đọc toàn bộ bản ghi chép của phiên tòa, cũng như một số lượng đáng kể các tài liệu khác. Điều đó bao gồm bản ghi chép của hồ sơ phỏng vấn đương đơn, cũng như các tuyên bố thống nhất về sự kiện.
1047 Các bản ghi âm đều nhất loạt có chất lượng cao. Tương đối khá đơn giản để theo dõi các bằng chứng được đưa ra bởi mỗi nhân chứng, trong khi đồng chỉnh (align) những gì thực sự nói ra với những gì xuất hiện trong bản ghi chép. Trong chừng mực thái độ ứng xử là một nhân tố có liên quan cần phải tính đến khi đánh giá các vấn đề về độ đáng tin và đáng dựa vào, các bản ghi âm, đối với tôi, dường như cung cấp một cơ sở vững chắc để từ đó hình thành một quan điểm về những vấn đề đó.
1048 Tôi chấp nhận rằng bồi thẩm đoàn trong trường hợp hiện tại có một số lợi thế so với các thành viên của Tòa án này trong việc đánh giá tầm quan trọng của các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Vì một là, họ đã có mặt trong phòng xử án trong suốt thời gian toàn bộ bằng chứng đó. Họ quan sát nó như nó được đưa ra cách tuần tự. Họ đã nhìn thấy nhiều người, mặc dù không phải tất cả, trong số các nhân chứng, trong khi tôi không thấy gì ngoài những bản ghi bằng chứng của họ. Do đó, bồi thẩm đoàn đã được chìm đắm trong ‘bầu không khí của phiên tòa’, một cách mà không một thành viên nào của tòa phúc thẩm có thể hy vọng tái tạo được.
1049 Hơn nữa, các bồi thẩm viên còn có thể nhìn và nghe các diễn từ mở màn và kết thúc của luật sư công tố, trong khi các thành viên của Tòa án này chỉ có thể đọc những gì họ nói. Các bồi thẩm viên cũng có thể nhìn và nghe thẩm phán xét xử đưa ra điều rõ ràng là một nhiệm vụ thấu suốt và có cấu trúc rất tốt. Một lần nữa, các thành viên của Tòa án này chỉ có thể dựa vào bản ghi chép những gì Quan tòa nói.
1050 Có lẽ quan trọng nhất, các thành viên của bồi thẩm đoàn đã có lợi điểm nghe các quan điểm của nhau trong các cuộc thảo luận của họ. Họ có thể đem đến kinh nghiệm sống và lương tri của họ, để chịu đựng, để thực hiện nhiệm vụ trước mắt họ. Sự kiện bồi thẩm đoàn đạt tới phán quyết nhất trí về tội lỗi, trong phiên tòa này, nhất định không phải là một điều để xem nhẹ. Nó xác lập mức độ cản trở cao mà đương đơn phải vượt qua để thành công trên cơ sở kháng cáo này. Tuy nhiên, tôi coi lợi thế mà bồi thẩm đoàn được nhìn và nghe bằng chứng được đưa ra trong phiên tòa này là có phần kém hơn so với các vụ án thông thường.
Kỳ tới: Kết luận về Cơ sở 1
1030 Như đã chỉ ra trước đây, bằng chứng của người khiếu nại trong phiên tòa đầu tiên được đưa ra từ một địa điểm ở xa [254]. Điều này phù hợp với thực hành hiện được áp dụng tại Tiểu Bang này trong hầu hết các phiên tòa liên quan đến xâm phạm tình dục. Bằng chứng cũng đã được ghi âm, và do đó có thể được sử dụng trong phiên tòa thứ hai. Do đó, tránh được sự cần thiết phải đối chất người khiếu nại lần thứ hai.
1031 Cũng đã được chỉ ra [255], cả hai phiên tòa đều được quay video hoàn toàn. Điều này có nghĩa là một số nhân chứng đưa ra bằng chứng tại phiên tòa đầu tiên không bắt buộc phải cung cấp lại bằng chứng nữa. Bồi thẩm đoàn chỉ đơn giản được cho xem các bản ghi bằng chứng ban đầu của họ [256].
1032 Sự kiện phiên tòa thứ hai được ghi lại đầy đủ có nghĩa là Tòa án này đã có sẵn cho nó một bản ghi bằng hình ảnh hoàn chỉnh về bằng chứng được đưa ra bởi mọi nhân chứng, trong cả hai phiên tòa.
1033 Các thành viên của Tòa án này đã xem các bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được mỗi bên đề cử là có ý nghĩa đặc thù. Ngoài ra, tất nhiên, chúng tôi đã có sẵn cho chúng tôi toàn bộ bản ghi chép (transcript) của phiên tòa thứ hai, cũng như các phần có liên quan của bản ghi chép phiên tòa đầu tiên.
1034 Như tôi đã nói trong một số dịp, Tòa án Tối cao trong vụ M quy định rằng một tòa phúc thẩm trung gian, khi xử lý một cơ sở kháng cáo cho rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ bằng bằng chứng, phải thực hiện một 'cuộc đánh giá độc lập' về toàn bộ bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Mỗi thành viên của Tòa án phải xem xét liệu ông ta hoặc bà ta có nuôi dưỡng hay không ‘một nghi ngờ’ đối với tội lỗi của bị cáo. Nếu câu hỏi đó được trả lời một cách khẳng định, thì Tòa án phải chuyển sang giai đoạn thứ hai của thử nghiệm M.
1035 Tòa án tối cao trong vụ M đã xác lập rằng, thông thường, một nghi ngờ được nuôi dưỡng bởi tòa phúc thẩm cũng sẽ là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải nuôi dưỡng. Việc phải như vậy, trừ khi các thành viên của tòa án đó cho rằng, vì lý do bồi thẩm đoàn đã được nhìn và nghe các nhân chứng đưa ra bằng chứng, lợi thế của họ so với tòa phúc thẩm nên được coi là làm giảm bất cứ sự nghi ngờ nào như vậy.
1036 Như tôi đã nói, mỗi thành viên của Tòa án này đã có cơ hội được thấy và nghe tất cả các nhân chứng đưa ra bằng chứng. Có sự kiện này là việc này chỉ là nhờ cách ghi lại, và rõ ràng có sự khác biệt giữa việc có mặt tại tòa và được thấy nhân chứng trực tiếp, và việc chỉ được xem nhân chứng đó đưa ra bằng chứng trên màn hình tivi hoặc máy tính. Tuy nhiên, đối với người khiếu nại, các thành viên của Tòa án này đã thấy chính xác những gì bồi thẩm đoàn trong phiên tòa thứ hai đã thấy. Rõ ràng, những bồi thẩm viên đó không có lợi thế hơn Tòa án này, ít nhất về mặt đó.
1037 Tất nhiên, liệu một tòa án phúc thẩm trung gian có nên xem bản ghi âm, ít nhất một phần, các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa, là một câu hỏi được phát hiện ở một mức độ nào đó, bởi Tòa án Tối cao trong vụ SKA, mà trước đây, tôi đã đề cập đến nhân vấn đề áp dụng thử nghiệm M.
1038 Trong vụ SKA, một câu hỏi đặt ra là liệu Tòa Phúc thẩm Hình sự New South Wales có sai sót khi không xem các bằng chứng được ghi lại của người khiếu nại hay không. Bằng chứng của cô ta tại phiên tòa đã được đưa ra, một phần, bằng một cuộc phỏng vấn được ghi lại và, một phần, bằng chứng từ viva voce (lời nói trực tiếp, lời dịch của người chuyển ngữ).
1039 Người kháng cáo, và một số nhân chứng bào chữa chủ yếu không bị thách thức, đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm cho mỗi một trong ba ngày trong đó, việc bị cáo buộc là vi phạm có thể xảy ra. Như đã thảo luận trước đây, người kháng cáo đã thách thức các bản án của mình trên cơ sở các lời kết án (verdicts) không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ, liên quan đến bằng chứng.
1040 Quan trọng đối với các mục đích hiện tại, Tòa án Tối cao cho rằng các thành viên của Tòa phúc thẩm hình sự đã không sai lầm khi từ chối xem cho mình đoạn video ghi lại cuộc phỏng vấn của người khiếu nại. Người kháng cáo đã không xác định được bất cứ mục đích pháp y nào có thể hữu ích bằng cách xem bản ghi âm đó [257].
1041 Đa số trong vụ SKA tuyên bố rằng thông thường, trình thuật được đưa ra, và ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhân chứng, có sẵn cho tòa phúc thẩm trung gian từ bản ghi chép, sẽ đủ để cho phép việc duyệt xét đúng mức các bằng chứng tại phiên tòa. Người ta dự ước rằng nếu có bất cứ điều gì có thể được phân định chỉ bằng cách nhìn, hoặc bằng cách nghe, có thể ảnh hưởng đến cách xem của bằng chứng của Tòa án, thì nó phải được nhận diện. Để một tòa án buộc phải đi xa hơn, và xem một bản ghi bằng chứng thực tế, một điều gì đó trong các hoàn cảnh của vụ án sẽ bắt buộc phải tiếp nhận diễn trình đó.
1042 Một cách có liên quan, đa số trong vụ SKA bày tỏ mối lo ngại đối với tiềm năng có sự tập chú không thích đáng vào một khía cạnh của toàn bộ bằng chứng, nếu chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại mà thôi. Điều đó cũng có thể tạo ra một thất bại, về phía Tòa án, trong việc xem xét toàn bộ bằng chứng, vốn là nhiệm vụ cần phải được thi hành.
1043 Trở lại trường hợp hiện tại, người khiếu nại đưa ra bằng chứng của mình trong hơn hai ngày. Ông đã được đối chất khá dài, và mạnh mẽ, như được dự kiến. Ông Richter thách thức cả sự khả tín lẫn sự đáng dựa vào trong trình thuật của ông.
1044 Khi các bên được thông báo bằng văn bản về ý muốn của Tòa án này được xem bản ghi âm bằng chứng của người khiếu nại, cũng như bản ghi âm của một số nhân chứng chủ yếu khác, đương đơn thoạt đầu đã phản đối việc này. Ông đệ trình rằng nếu các thành viên của Tòa án này đuợc lưu ý tự mình xem người khiếu nại đã hành xử ra sao khi đưa ra bằng chứng tại phiên tòa, họ cũng nên xem bằng chứng được ghi lại của một số nhân chứng khác. Tên của những nhân chứng được coi là có liên quan đặc biệt, về phương diện này, đã được nêu ra một cách chuyên biệt.
1045 Theo yêu cầu của đương đơn, các thành viên của Tòa án này, trước khi nghe miệng đơn này, đã xem các bằng chứng được ghi lại không những của người khiếu nại, mà còn của một số nhân chứng khác. Trong trường hợp của tôi, tôi đã xem các bản ghi bằng chứng được đưa ra bởi Portelli, Potter, McGlone, Connor, Finnigan, Cox, Mallinson, Rodney Dearing, David Dearing, Parissi và Bonomy. Diễn trình đó mất một số ngày, nhưng cuối cùng, đã được chứng minh là có giá trị đáng kể.
1046 Tôi nên nói rằng trước khi xem bản ghi âm của những nhân chứng này, tôi đã đọc toàn bộ bản ghi chép của phiên tòa, cũng như một số lượng đáng kể các tài liệu khác. Điều đó bao gồm bản ghi chép của hồ sơ phỏng vấn đương đơn, cũng như các tuyên bố thống nhất về sự kiện.
1047 Các bản ghi âm đều nhất loạt có chất lượng cao. Tương đối khá đơn giản để theo dõi các bằng chứng được đưa ra bởi mỗi nhân chứng, trong khi đồng chỉnh (align) những gì thực sự nói ra với những gì xuất hiện trong bản ghi chép. Trong chừng mực thái độ ứng xử là một nhân tố có liên quan cần phải tính đến khi đánh giá các vấn đề về độ đáng tin và đáng dựa vào, các bản ghi âm, đối với tôi, dường như cung cấp một cơ sở vững chắc để từ đó hình thành một quan điểm về những vấn đề đó.
1048 Tôi chấp nhận rằng bồi thẩm đoàn trong trường hợp hiện tại có một số lợi thế so với các thành viên của Tòa án này trong việc đánh giá tầm quan trọng của các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Vì một là, họ đã có mặt trong phòng xử án trong suốt thời gian toàn bộ bằng chứng đó. Họ quan sát nó như nó được đưa ra cách tuần tự. Họ đã nhìn thấy nhiều người, mặc dù không phải tất cả, trong số các nhân chứng, trong khi tôi không thấy gì ngoài những bản ghi bằng chứng của họ. Do đó, bồi thẩm đoàn đã được chìm đắm trong ‘bầu không khí của phiên tòa’, một cách mà không một thành viên nào của tòa phúc thẩm có thể hy vọng tái tạo được.
1049 Hơn nữa, các bồi thẩm viên còn có thể nhìn và nghe các diễn từ mở màn và kết thúc của luật sư công tố, trong khi các thành viên của Tòa án này chỉ có thể đọc những gì họ nói. Các bồi thẩm viên cũng có thể nhìn và nghe thẩm phán xét xử đưa ra điều rõ ràng là một nhiệm vụ thấu suốt và có cấu trúc rất tốt. Một lần nữa, các thành viên của Tòa án này chỉ có thể dựa vào bản ghi chép những gì Quan tòa nói.
1050 Có lẽ quan trọng nhất, các thành viên của bồi thẩm đoàn đã có lợi điểm nghe các quan điểm của nhau trong các cuộc thảo luận của họ. Họ có thể đem đến kinh nghiệm sống và lương tri của họ, để chịu đựng, để thực hiện nhiệm vụ trước mắt họ. Sự kiện bồi thẩm đoàn đạt tới phán quyết nhất trí về tội lỗi, trong phiên tòa này, nhất định không phải là một điều để xem nhẹ. Nó xác lập mức độ cản trở cao mà đương đơn phải vượt qua để thành công trên cơ sở kháng cáo này. Tuy nhiên, tôi coi lợi thế mà bồi thẩm đoàn được nhìn và nghe bằng chứng được đưa ra trong phiên tòa này là có phần kém hơn so với các vụ án thông thường.
Kỳ tới: Kết luận về Cơ sở 1