Phụng Vụ - Mục Vụ
Tinh thần siêu thoát là điều kiện để theo làm môn đệ Chúa
Lm Đan Vinh
06:53 10/10/2018
CN 28 TN B
Kn 7,7-11 ; Dt 4,12-13 ; Mc 10,17-30
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 10,17-30
(17) Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. (18) Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”.(20) Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. (21) Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (23) Đức Giê-su rảo mắt nhìn xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (24) Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (27) Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. (28) Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (29) Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, (30) mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau”.
2. Ý CHÍNH:
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa ngay từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và tín thác để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Bán gia sản đem phân phát cho người nghèo để biến thành kho báu thiêng liêng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều các môn đệ đã tự nguyện từ bỏ mà đi theo Thầy. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và đời sau sẽ được sự sống muôn đời!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 17-18: + Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rõ hơn là: “Có một thủ lãnh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20). + quì xuống trước mặt Người: Đây là thái độ biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Giê-su, mà người Do Thái quen làm đối với vị rab-bi mà họ kính trọng. + Thưa Thầy nhân lành: Khi gọi Đức Giê-su là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ý ngưỡng mộ Đức Giê-su khi chứng kiến lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ. + tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: Sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giê-su tư vấn giúp anh biết phải làm gì để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và chuẩn bị thiết lập. + Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính lòai người, Đức Giê-su đã khiêm tốn từ chối không dám nhận mình là « nhân lành ». + Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa: Người cho anh ta biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành”.
- C 19-20: + Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người...”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về quan hệ phải có giữa người này với người kia. Nêu ra những giới răn này, Đức Giê-su muốn anh thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những việc bổn phận phải làm. + “Tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy sự thành tâm, không chút tự mãn như là người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu này, anh ta chỉ muốn hỏi: Từ nhỏ đến nay tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều gì. Vậy tôi cần làm gì để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).
- C 21-22: + Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến: Người biểu lộ tình cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này, + Anh chỉ thiếu có một điều: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi: .Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đã làm, Đức Giê-su khuyên anh hãy làm thêm ba việc này: Một là về bán gia sản để không còn bị của cải vật chất ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải: Chàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ của cải vật chất như Đức Giê-su đòi hỏi. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải anh đang chiếm hữu. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn ý muốn nên hoàn thiện.
- C 23-25: + Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao !”: Câu nói tỏ ý thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị của cải đời này trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên tới sự trọn lành ! + Các môn đệ sững sờ: Các ông sững sờ kinh ngạc, vì lời dạy của Đức Giê-su khác hẳn với suy nghĩ xưa nay của các ông: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa ban thưởng cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đã viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Dòng giống mai sau hưởng phúc lành. Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung...” (Tv 37,25-28). + “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giê-su dùng hình ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ bé để dạy rằng: Người giàu có hoặc tham lam coi trọng đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!
- C 26-27: + Thế thì ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giê-su, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng khi nghĩ đến bản thân các ông cũng có lòng tham lam tiền bạc, nên chắc cũng khó vào được Nước Thiên Chúa, nên các ông đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu!?”. + “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”: Đức Giê-su cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những gì lòai người không thể vượt qua, thì sẽ chẳng là gì trước quyền năng của Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).
- c 28-30: + Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường đi theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt thòi cho các ông. + Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng: Đức Giê-su hứa chắc rằng: những ai đã quảng đại từ bỏ của cải, tình cảm ruột thịt vì lòng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, thì sẽ được bù đắp lại gấp trăm những gì đã dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đình mới là Cộng Đoàn Hội Thánh, sẽ được quản lý các công trình to lớn của Hội Thánh... và cuối cùng còn được hưởng hạnh phúc là sự sống đời đời. + cùng với sự ngược đãi: Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo sẽ có những đau khổ mà các ông phải chịu do các đầu mục gây ra, để cùng Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).
4. CÂU HỎI:
1) Thái độ quì gối xuống trước mặt Đức Giê-su của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều gì?
2) Tại sao anh ta gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành”?
3) Đức Giê-su kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích gì?
4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy tình trạng tâm hồn anh thế nào?
5) Đức Giê-su biểu lộ cảm tình đối với anh ta ra sao?
6) Ba điều Đức Giê-su dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc gì?
7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giê-su dạy mà buồn rầu bỏ đi?
8) Câu Đức Giê-su nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều gì?
9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc khi nghe Đức Giê-su cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa?
10) Đức Giê-su còn dùng hình ảnh nào cho thấy người giàu thật khó vào được Nước Thiên Chúa?
11) Các môn đệ đã thốt lên điều gì biểu lộ thái độ hoang mang của các ông?
12) Lời Đức Giê-su trấn an các môn đệ về sức mạnh của ơn Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào của sứ thần trong biến cố Truyền Tin?
13) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi theo Người?
14) Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì qua câu nói : “kèm theo sự ngược đãi”?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi (Mc 10,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THAM THÌ THÂM :
Các thợ săn vùng Phi Châu có một lối bắt khỉ rất tài tình: Họ bổ đôi trái dừa, moi hết cùi dừa bên trong ra. Ở một nửa vỏ dừa, họ đục một cái lỗ to vừa đủ để con khỉ có thể thò tay qua, còn nửa kia, họ đặt vào một trái cam chín. Rồi dùng dây kẽm cột chặt hai nửa vỏ trái dừa lại. Tiếp đến, họ dùng dây thừng cột chắc trái dừa này vào một thân cây, và núp vào bụi rậm gần đó rình chờ.
Chẳng bao lâu sau, một chú khỉ đu đưa trên cành cây, đánh hơi được mùi thơm của trái cam phát ra từ trái dừa. Nó đu tới, thò tay qua cái lỗ và cầm chắc lấy trái cam chín ở bên trong trái dừa, rồi mau mắn rút tay ra khỏi cái lỗ dừa đó nhưng không thể được, vì lúc ấy bản tay đang nắm trái cam đã to hơn cái lỗ. Chú khỉ cứ cố gắng rút tay ra mà không để ý đến nguy hiểm đang rình chờ. Lúc ấy, những người thợ săn đã nhào đến quăng lưới để bắt con khỉ bị sập bẫy này. Con khỉ không biết rằng để tránh nguy cơ bị bắt, nó chỉ cần bỏ trái cam đang nắm trong bàn tay là có thể dễ dàng rút tay ra khỏi vỏ dừa và chạy trốn. Lối đánh bắt khỉ này rất hiệu quả, vì con khỉ do lòng tham đã không muốn bỏ trái cam mà nó đang nắm giữ. Nếu biết cầu nguyện chắc nó sẽ nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con khỏi bị bắt. Nhưng xin đừng đòi con phải bỏ trái cam con đang nắm trong bàn tay”.
Chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng cũng giống như con khỉ trong câu chuyện trên: chỉ biết nắm lấy của cải đang có hơn ước muốn đi theo làm môn đệ Chúa. Đức Giê-su đã chỉ cho anh ta con đường sáng như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng ở trên trời. Rồi hãy đến theo Ta.” (Mc 10, 21b). Nhưng anh ta đã buồn rầu bỏ đi vì anh không bỏ được lòng ham mê của cải trần gian đang chiếm hữu.
2) THẾ NÀO LÀ LÒNG THAM ?
Một cậu học trò tinh nghịch hỏi thầy giáo: “Thầy ơi, tham lam là gì ?”.
Giáo viên liền nhẹ nhàng đáp: “Để tìm ra câu trả lời, em hãy đến nhà máy sô-cô-la cạnh trường và mang về đây một thanh kẹo sô-cô-la mà em thích nhất nhé. Tuy nhiên, em không được quay lại những chỗ đã đi qua mà chỉ được chọn một thanh kẹo ở phía trước mặt”.
Vâng lời thầy, em học trò liền đi tới nhà máy và đến các cửa hàng trưng bày sản phẩm của nhà máy. Thấy cửa hàng đầu tiên trưng bày các thỏi sô-cô-la đẹp mắt, em liền muốn giơ tay ra lấy một thanh. Nhưng lại nghĩ: “Liệu có thanh sô-cô-la nào khác to và ngon hơn thanh này không? » Rồi em tiếp tục bước đi tới các gian hàng khác. Trước mỗi gian hàng chứa đủ loại kẹo sô-cô-la với nhiều mầu sắc hình dạng bắt mắt nhưng em không lấy thanh kẹo nào vì sợ sẽ có nhiều thanh khác ngon hơn ở phía trước. Sau khi đã đi qua mọi gian hàng mà không lấy được một thanh sô-cô-la nào ưa thích nhất. Cuối cùng, em đến gặp thầy giáo với hai bàn tay trắng... Ông thầy nói với em: “Chắc em đã xem thấy nhiều thanh kẹo ưng ý nhưng do muốn có thanh khác vừa ý hơn. Cuối cùng em đã không thể chọn ra thanh kẹo ưng ý nhất phải không ? Thái độ đó của em diễn tả thói tham lam đấy”.
Phần lớn chúng ta đều giống như em học trò trong câu chuyện trên : Chúng ta luôn “Đứng núi này trông núi kia cao !” nên không bằng lòng với những gì mình đang có. Lòng tham của con người ví như một cái túi không đáy, nếu ta cứ « bỏ mồi bắt bóng » thì cuối cùng sẽ chẳng có được gì cả.
3) CÁI GIẾNG NƯỚC:
Một vị thiền sư đi ngao du thiên hạ. Một hôm đi đến một vùng cao nguyên thì ông bị đau nặng và té xỉu nằm trên đường. Ông được bà chủ quán nước trà bên đường nhìn thấy và huy động người nhà ra đưa ông về nhà và tận tình chăm sóc. Ba tháng sau vị thiền sư đã bình phục. Trước khi lên đường, cảm động trước lòng tốt của bà chủ quán, vị thiền sư đã đào một cái giếng bên cạnh quán để bà không phải hằng ngày ra tận suối để xách bình nước về.
Từ khi dùng nước giếng do vị thiền sư đào để pha trà bán cho khách, nước trà của bà có mùi thơm đặc biệt và vị của trà cũng trở nên rất ngon. Ai uống một lần cũng đều nhớ mùi và phải quay lại. Tiếng lành đồn xa, quán trà của bà goá ngày một đông khách và bà thành người giàu trong vùng
Một hôm vị thiền sư lại có dịp đi ngang và ghé thăm vị ân nhân của mình. Ông thấy quán nước giờ khang trang hơn, nên đã chúc mừng bà. Khi hỏi về cái giếng nước, bà goá liền nói rằng: “Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cứ hay bị cạn, lâu lâu mới có nước lại, nên tôi không đủ nước trà bán cho khách ngày một thêm đông”. Vị thiền sư nghe xong liền nói: “Bà không tốn tiền để đào giếng, nhưng vẫn có nguồn nước tự nhiên do Trời ban cho và kiếm được nhiều tiền, thế mà bà vẫn chưa hài lòng hay sao?”. Ông cầm bút viết lên tường câu: “Trời đất mênh mông bao la nhưng lòng tham của con người còn lớn hơn thế nữa ! ” rồi ông lẳng lặng bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Từ ngày ấy giếng nước cạnh quán trà cũng ngày một cạn dần và cuối cùng khô hẳn.
Có lẽ phần đông chúng ta cũng đều có lòng tham giống như bà goá trong câu chuyên trên khi chúng ta không bao giờ bằng lòng với những cái mình đang có mà luôn “Được voi đòi tiên”. Chúng ta cần nghe Lời Chúa dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).
4) COI THƯỜNG TIỀN BẠC LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN:
Một người nhà giàu đã nhận thánh PHI-LIP-PHÊ NÊ-RI làm linh hướng và mỗi tháng đều đến xưng tội với thánh nhân. Ông này vừa giàu có lại vừa muốn nên thánh. Nhưng sau một thời gian không mấy tiến bộ, ông cảm thấy chán nản, không còn đến gặp thày như trước. Mấy tháng liền không thấy ông đến, thánh Phi-lip-phê liền đến nhà thăm. Ngài thấy ngôi nhà của ông bài trí rất sang trọng và tại góc phòng có kê một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, bên trong chứa đựng các đồ chén bát nhiều kiểu dáng đẹp quý giá. Thấy trên tường phòng khách có treo một cây thánh giá cao quá tầm tay, ngài liền nói với ông: “Tôi thấy ông cao lớn. Vậy ông thử đứng với tay lên xem có chạm được tới cây thánh giá trên tường kia không ?”. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng ông nhà giàu vẫn không sao với tay tới được cây thánh giá. Bấy giờ thánh nhân liền cùng với ông kéo chiếc tủ gỗ ở góc phòng làm bệ kê và lần này ông nhà giầu đã dễ dàng chạm tới được cây thánh giá.
Khi trở lại chỗ ngồi, thánh nhân mới nói như sau: “Để có thể nên thánh giống như Chúa Giê-su, điều quan trọng nhất là ông phải coi của cải như bệ kê chân để đến gần Chúa, bằng cách mang chia sẻ tiền bạc cho những người nghèo khổ bất hạnh như Chúa đã nói với người thanh niên trong Tin Mừng rằng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10,21).
3. THẢO LUẬN: Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui lòng một người”, ngoài sự dốc quyết ra, mỗi người chúng ta còn phải làm gì ?
4. SUY NIỆM:
1) Giá trị của đồng tiền:
- Cần ý thức về giá trị lớn lao của đồng tiền: Trong cuộc sống hằng ngày, xem ra tiền bạc có sức mạnh lớn lao như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và ”Đồng tiền là Tiên là Phật”… vì đồng tiền có khả năng mang lại cho con người một cuộc sống ấm no hơn. Thực vậy : Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của bản thân như : ăn ở, đi lại, may mặc, học hành, giải trí… Đồng thời tránh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội nếu rơi vào hoàn cảnh « khố rách áo ôm », « chạy ăn từng bữa », vì: “Đói ăn vụng, túng làm liều”.
- Nhưng đồng tiền cũng chỉ có giá trị tương đối : Tuy nhiên tiền bạc thực ra không có sức vạn năng mà có giới hạn như có người đã nói :
Tiền bạc có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ.
Có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được hạnh phúc.
Có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sức khỏe.
Có thể mua được đầy tớ, nhưng không mua được lòng trung thành.
Có thể mua được sắc đẹp, nhưng không mua được tình yêu…
2) Thái độ của Đức Giê-su đối với tiền bạc của cải:
- Gương Chúa làm: Đức Giê-su đã chọn lối sống nghèo khó khi chấp nhận sinh ra trong hang đá giữa bầy chiên cừu tại ngoại ô thành Be-lem. Người đã sống ba mươi năm ẩn dật tại Na-da-rét bằng nghề thợ mộc vất vả. Khi ra giảng đạo trong gần ba năm, Người đã sống cảnh nay đây mai đó như Người đã trả lời cho một người muốn theo làm môn đệ rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu » (Mt 8,20).
- Lời Chúa dạy : Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã đòi chàng thanh niên giàu có muốn theo làm môn đệ của Người: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi đến theo tôi” (Mc 10,21).
Người không bảo anh vứt bỏ gia sản đang chiếm hữu vào thùng rác, nhưng dạy anh hãy biến đồng tiền vật chất thành đồng tiền thiêng liêng khi quảng đại phân phát cho những người nghèo, như điều kiện phải làm trước khi theo làm môn đệ của Người: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
3) Các tín hữu phải sống tinh thần siêu thoát thế nào? :
- Trong thực tế, ngoài các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân theo Chúa để khấn trọn đời phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, còn nói chung các tín hữu chúng ta đang sống giữa đời không nhất thiết phải cho đi tất cả tài sản hợp pháp của mình. Vì cũng như mọi người, chúng ta cần có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng hằng ngày như : ăn uống, đi lại, học hành, giải trí… để không trở thành gánh nặng cho tha nhân (x 2 Tx 3,8), để không làm mất đi phẩm giá nếu bị "khố rách áo ôm",... Điều Đức Giê-su muốn các tín hữu phải làm là không làm tôi hai chủ: "Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13). Chúng ta sẽ không coi tiền bạc là ông chủ, nhưng là đầy tớ, vì: "Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt".
- Bước theo Đức Giê-su hôm nay đòi chúng ta phải có lối sống siêu thoát như lời Chúa dạy : « Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về trần gian » (x. Ga 15,18-25). Cần tránh lòng ham mê của cải bất chính vì « Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc » (1 Tm 6,10). Không phải chúng ta chỉ cần từ bỏ một lần, nhưng là từ bỏ mỗi ngày như lời Chúa phán : “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hằng ngày mà theo tôi” (Mt 16,24).
4) Cụ thể chúng ta cần từ bỏ những gì ?
- Mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ những gì mình đang có, nhất là loại trừ các tội lỗi « trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót », nhất là thói tham lam các của cải bất chính, thói ham hưởng thụ các lạc thú xác thịt bất chính…. Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ hãy xét mình xem hôm nay mình đã loại bỏ được một thói hư cụ thể nào. Chẳng hạn: Thói chửi thề, thói thêm chữ « bố mẹ » như trong câu nói « mặc mẹ nó ! »; Thói hay chấp nhất lời nói của kẻ khác đi đến cự cãi; Sẵn sàng trả lại cho chủ của khi nhặt được đồ vật người khác đánh rơi …
- «Cho thì có phúc hơn nhận » (Cv 20,35) : Tập sống quảng đại bằng cách mỗi ngày quyết tâm sẽ cho người nghèo một vật cụ thể như : tiền bạc, đồ ăn, một việc phục vụ... Nếu chúng ta biết quảng đại chia sẻ và cho đi như thế, thì Thiên Chúa cũng sẽ ban lại cho chúng ta gấp bội như lời Chúa phán : “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng cái đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng cái đấu ấy” (Lc 6,38).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy là do lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con coi của cải là tài sản riêng mình nên không muốn chia cho người khác. Còn nếu đang nghèo khó, con lại ước mong trở thành giàu sang để được thỏa mãn các đam mê. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống phục vụ con người, nhưng lại không mấy bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự cho con. Chúa muốn con trước hết hãy “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn các cái khác như : ăn gì, mặc gì, làm gì… thì chính Chúa sẽ giúp cho sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại chia sẻ và phục vụ Chúa trong mọi người, để đáp lại lời Chúa mời gọi chúng con từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Vì : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Kn 7,7-11 ; Dt 4,12-13 ; Mc 10,17-30
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 10,17-30
(17) Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. (18) Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”.(20) Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. (21) Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (23) Đức Giê-su rảo mắt nhìn xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (24) Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (27) Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. (28) Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (29) Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, (30) mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau”.
2. Ý CHÍNH:
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa ngay từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và tín thác để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Bán gia sản đem phân phát cho người nghèo để biến thành kho báu thiêng liêng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều các môn đệ đã tự nguyện từ bỏ mà đi theo Thầy. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và đời sau sẽ được sự sống muôn đời!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 17-18: + Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rõ hơn là: “Có một thủ lãnh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20). + quì xuống trước mặt Người: Đây là thái độ biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Giê-su, mà người Do Thái quen làm đối với vị rab-bi mà họ kính trọng. + Thưa Thầy nhân lành: Khi gọi Đức Giê-su là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ý ngưỡng mộ Đức Giê-su khi chứng kiến lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ. + tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: Sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giê-su tư vấn giúp anh biết phải làm gì để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và chuẩn bị thiết lập. + Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính lòai người, Đức Giê-su đã khiêm tốn từ chối không dám nhận mình là « nhân lành ». + Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa: Người cho anh ta biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành”.
- C 19-20: + Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người...”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về quan hệ phải có giữa người này với người kia. Nêu ra những giới răn này, Đức Giê-su muốn anh thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những việc bổn phận phải làm. + “Tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy sự thành tâm, không chút tự mãn như là người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu này, anh ta chỉ muốn hỏi: Từ nhỏ đến nay tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều gì. Vậy tôi cần làm gì để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).
- C 21-22: + Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến: Người biểu lộ tình cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này, + Anh chỉ thiếu có một điều: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi: .Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đã làm, Đức Giê-su khuyên anh hãy làm thêm ba việc này: Một là về bán gia sản để không còn bị của cải vật chất ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải: Chàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ của cải vật chất như Đức Giê-su đòi hỏi. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải anh đang chiếm hữu. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn ý muốn nên hoàn thiện.
- C 23-25: + Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao !”: Câu nói tỏ ý thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị của cải đời này trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên tới sự trọn lành ! + Các môn đệ sững sờ: Các ông sững sờ kinh ngạc, vì lời dạy của Đức Giê-su khác hẳn với suy nghĩ xưa nay của các ông: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa ban thưởng cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đã viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Dòng giống mai sau hưởng phúc lành. Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung...” (Tv 37,25-28). + “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giê-su dùng hình ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ bé để dạy rằng: Người giàu có hoặc tham lam coi trọng đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!
- C 26-27: + Thế thì ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giê-su, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng khi nghĩ đến bản thân các ông cũng có lòng tham lam tiền bạc, nên chắc cũng khó vào được Nước Thiên Chúa, nên các ông đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu!?”. + “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”: Đức Giê-su cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những gì lòai người không thể vượt qua, thì sẽ chẳng là gì trước quyền năng của Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).
- c 28-30: + Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường đi theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt thòi cho các ông. + Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng: Đức Giê-su hứa chắc rằng: những ai đã quảng đại từ bỏ của cải, tình cảm ruột thịt vì lòng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, thì sẽ được bù đắp lại gấp trăm những gì đã dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đình mới là Cộng Đoàn Hội Thánh, sẽ được quản lý các công trình to lớn của Hội Thánh... và cuối cùng còn được hưởng hạnh phúc là sự sống đời đời. + cùng với sự ngược đãi: Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo sẽ có những đau khổ mà các ông phải chịu do các đầu mục gây ra, để cùng Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).
4. CÂU HỎI:
1) Thái độ quì gối xuống trước mặt Đức Giê-su của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều gì?
2) Tại sao anh ta gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành”?
3) Đức Giê-su kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích gì?
4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy tình trạng tâm hồn anh thế nào?
5) Đức Giê-su biểu lộ cảm tình đối với anh ta ra sao?
6) Ba điều Đức Giê-su dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc gì?
7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giê-su dạy mà buồn rầu bỏ đi?
8) Câu Đức Giê-su nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều gì?
9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc khi nghe Đức Giê-su cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa?
10) Đức Giê-su còn dùng hình ảnh nào cho thấy người giàu thật khó vào được Nước Thiên Chúa?
11) Các môn đệ đã thốt lên điều gì biểu lộ thái độ hoang mang của các ông?
12) Lời Đức Giê-su trấn an các môn đệ về sức mạnh của ơn Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào của sứ thần trong biến cố Truyền Tin?
13) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi theo Người?
14) Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì qua câu nói : “kèm theo sự ngược đãi”?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi (Mc 10,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THAM THÌ THÂM :
Các thợ săn vùng Phi Châu có một lối bắt khỉ rất tài tình: Họ bổ đôi trái dừa, moi hết cùi dừa bên trong ra. Ở một nửa vỏ dừa, họ đục một cái lỗ to vừa đủ để con khỉ có thể thò tay qua, còn nửa kia, họ đặt vào một trái cam chín. Rồi dùng dây kẽm cột chặt hai nửa vỏ trái dừa lại. Tiếp đến, họ dùng dây thừng cột chắc trái dừa này vào một thân cây, và núp vào bụi rậm gần đó rình chờ.
Chẳng bao lâu sau, một chú khỉ đu đưa trên cành cây, đánh hơi được mùi thơm của trái cam phát ra từ trái dừa. Nó đu tới, thò tay qua cái lỗ và cầm chắc lấy trái cam chín ở bên trong trái dừa, rồi mau mắn rút tay ra khỏi cái lỗ dừa đó nhưng không thể được, vì lúc ấy bản tay đang nắm trái cam đã to hơn cái lỗ. Chú khỉ cứ cố gắng rút tay ra mà không để ý đến nguy hiểm đang rình chờ. Lúc ấy, những người thợ săn đã nhào đến quăng lưới để bắt con khỉ bị sập bẫy này. Con khỉ không biết rằng để tránh nguy cơ bị bắt, nó chỉ cần bỏ trái cam đang nắm trong bàn tay là có thể dễ dàng rút tay ra khỏi vỏ dừa và chạy trốn. Lối đánh bắt khỉ này rất hiệu quả, vì con khỉ do lòng tham đã không muốn bỏ trái cam mà nó đang nắm giữ. Nếu biết cầu nguyện chắc nó sẽ nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con khỏi bị bắt. Nhưng xin đừng đòi con phải bỏ trái cam con đang nắm trong bàn tay”.
Chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng cũng giống như con khỉ trong câu chuyện trên: chỉ biết nắm lấy của cải đang có hơn ước muốn đi theo làm môn đệ Chúa. Đức Giê-su đã chỉ cho anh ta con đường sáng như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng ở trên trời. Rồi hãy đến theo Ta.” (Mc 10, 21b). Nhưng anh ta đã buồn rầu bỏ đi vì anh không bỏ được lòng ham mê của cải trần gian đang chiếm hữu.
2) THẾ NÀO LÀ LÒNG THAM ?
Một cậu học trò tinh nghịch hỏi thầy giáo: “Thầy ơi, tham lam là gì ?”.
Giáo viên liền nhẹ nhàng đáp: “Để tìm ra câu trả lời, em hãy đến nhà máy sô-cô-la cạnh trường và mang về đây một thanh kẹo sô-cô-la mà em thích nhất nhé. Tuy nhiên, em không được quay lại những chỗ đã đi qua mà chỉ được chọn một thanh kẹo ở phía trước mặt”.
Vâng lời thầy, em học trò liền đi tới nhà máy và đến các cửa hàng trưng bày sản phẩm của nhà máy. Thấy cửa hàng đầu tiên trưng bày các thỏi sô-cô-la đẹp mắt, em liền muốn giơ tay ra lấy một thanh. Nhưng lại nghĩ: “Liệu có thanh sô-cô-la nào khác to và ngon hơn thanh này không? » Rồi em tiếp tục bước đi tới các gian hàng khác. Trước mỗi gian hàng chứa đủ loại kẹo sô-cô-la với nhiều mầu sắc hình dạng bắt mắt nhưng em không lấy thanh kẹo nào vì sợ sẽ có nhiều thanh khác ngon hơn ở phía trước. Sau khi đã đi qua mọi gian hàng mà không lấy được một thanh sô-cô-la nào ưa thích nhất. Cuối cùng, em đến gặp thầy giáo với hai bàn tay trắng... Ông thầy nói với em: “Chắc em đã xem thấy nhiều thanh kẹo ưng ý nhưng do muốn có thanh khác vừa ý hơn. Cuối cùng em đã không thể chọn ra thanh kẹo ưng ý nhất phải không ? Thái độ đó của em diễn tả thói tham lam đấy”.
Phần lớn chúng ta đều giống như em học trò trong câu chuyện trên : Chúng ta luôn “Đứng núi này trông núi kia cao !” nên không bằng lòng với những gì mình đang có. Lòng tham của con người ví như một cái túi không đáy, nếu ta cứ « bỏ mồi bắt bóng » thì cuối cùng sẽ chẳng có được gì cả.
3) CÁI GIẾNG NƯỚC:
Một vị thiền sư đi ngao du thiên hạ. Một hôm đi đến một vùng cao nguyên thì ông bị đau nặng và té xỉu nằm trên đường. Ông được bà chủ quán nước trà bên đường nhìn thấy và huy động người nhà ra đưa ông về nhà và tận tình chăm sóc. Ba tháng sau vị thiền sư đã bình phục. Trước khi lên đường, cảm động trước lòng tốt của bà chủ quán, vị thiền sư đã đào một cái giếng bên cạnh quán để bà không phải hằng ngày ra tận suối để xách bình nước về.
Từ khi dùng nước giếng do vị thiền sư đào để pha trà bán cho khách, nước trà của bà có mùi thơm đặc biệt và vị của trà cũng trở nên rất ngon. Ai uống một lần cũng đều nhớ mùi và phải quay lại. Tiếng lành đồn xa, quán trà của bà goá ngày một đông khách và bà thành người giàu trong vùng
Một hôm vị thiền sư lại có dịp đi ngang và ghé thăm vị ân nhân của mình. Ông thấy quán nước giờ khang trang hơn, nên đã chúc mừng bà. Khi hỏi về cái giếng nước, bà goá liền nói rằng: “Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cứ hay bị cạn, lâu lâu mới có nước lại, nên tôi không đủ nước trà bán cho khách ngày một thêm đông”. Vị thiền sư nghe xong liền nói: “Bà không tốn tiền để đào giếng, nhưng vẫn có nguồn nước tự nhiên do Trời ban cho và kiếm được nhiều tiền, thế mà bà vẫn chưa hài lòng hay sao?”. Ông cầm bút viết lên tường câu: “Trời đất mênh mông bao la nhưng lòng tham của con người còn lớn hơn thế nữa ! ” rồi ông lẳng lặng bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Từ ngày ấy giếng nước cạnh quán trà cũng ngày một cạn dần và cuối cùng khô hẳn.
Có lẽ phần đông chúng ta cũng đều có lòng tham giống như bà goá trong câu chuyên trên khi chúng ta không bao giờ bằng lòng với những cái mình đang có mà luôn “Được voi đòi tiên”. Chúng ta cần nghe Lời Chúa dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).
4) COI THƯỜNG TIỀN BẠC LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN:
Một người nhà giàu đã nhận thánh PHI-LIP-PHÊ NÊ-RI làm linh hướng và mỗi tháng đều đến xưng tội với thánh nhân. Ông này vừa giàu có lại vừa muốn nên thánh. Nhưng sau một thời gian không mấy tiến bộ, ông cảm thấy chán nản, không còn đến gặp thày như trước. Mấy tháng liền không thấy ông đến, thánh Phi-lip-phê liền đến nhà thăm. Ngài thấy ngôi nhà của ông bài trí rất sang trọng và tại góc phòng có kê một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, bên trong chứa đựng các đồ chén bát nhiều kiểu dáng đẹp quý giá. Thấy trên tường phòng khách có treo một cây thánh giá cao quá tầm tay, ngài liền nói với ông: “Tôi thấy ông cao lớn. Vậy ông thử đứng với tay lên xem có chạm được tới cây thánh giá trên tường kia không ?”. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng ông nhà giàu vẫn không sao với tay tới được cây thánh giá. Bấy giờ thánh nhân liền cùng với ông kéo chiếc tủ gỗ ở góc phòng làm bệ kê và lần này ông nhà giầu đã dễ dàng chạm tới được cây thánh giá.
Khi trở lại chỗ ngồi, thánh nhân mới nói như sau: “Để có thể nên thánh giống như Chúa Giê-su, điều quan trọng nhất là ông phải coi của cải như bệ kê chân để đến gần Chúa, bằng cách mang chia sẻ tiền bạc cho những người nghèo khổ bất hạnh như Chúa đã nói với người thanh niên trong Tin Mừng rằng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10,21).
3. THẢO LUẬN: Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui lòng một người”, ngoài sự dốc quyết ra, mỗi người chúng ta còn phải làm gì ?
4. SUY NIỆM:
1) Giá trị của đồng tiền:
- Cần ý thức về giá trị lớn lao của đồng tiền: Trong cuộc sống hằng ngày, xem ra tiền bạc có sức mạnh lớn lao như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và ”Đồng tiền là Tiên là Phật”… vì đồng tiền có khả năng mang lại cho con người một cuộc sống ấm no hơn. Thực vậy : Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của bản thân như : ăn ở, đi lại, may mặc, học hành, giải trí… Đồng thời tránh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội nếu rơi vào hoàn cảnh « khố rách áo ôm », « chạy ăn từng bữa », vì: “Đói ăn vụng, túng làm liều”.
- Nhưng đồng tiền cũng chỉ có giá trị tương đối : Tuy nhiên tiền bạc thực ra không có sức vạn năng mà có giới hạn như có người đã nói :
Tiền bạc có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ.
Có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được hạnh phúc.
Có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sức khỏe.
Có thể mua được đầy tớ, nhưng không mua được lòng trung thành.
Có thể mua được sắc đẹp, nhưng không mua được tình yêu…
2) Thái độ của Đức Giê-su đối với tiền bạc của cải:
- Gương Chúa làm: Đức Giê-su đã chọn lối sống nghèo khó khi chấp nhận sinh ra trong hang đá giữa bầy chiên cừu tại ngoại ô thành Be-lem. Người đã sống ba mươi năm ẩn dật tại Na-da-rét bằng nghề thợ mộc vất vả. Khi ra giảng đạo trong gần ba năm, Người đã sống cảnh nay đây mai đó như Người đã trả lời cho một người muốn theo làm môn đệ rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu » (Mt 8,20).
- Lời Chúa dạy : Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã đòi chàng thanh niên giàu có muốn theo làm môn đệ của Người: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi đến theo tôi” (Mc 10,21).
Người không bảo anh vứt bỏ gia sản đang chiếm hữu vào thùng rác, nhưng dạy anh hãy biến đồng tiền vật chất thành đồng tiền thiêng liêng khi quảng đại phân phát cho những người nghèo, như điều kiện phải làm trước khi theo làm môn đệ của Người: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
3) Các tín hữu phải sống tinh thần siêu thoát thế nào? :
- Trong thực tế, ngoài các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân theo Chúa để khấn trọn đời phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, còn nói chung các tín hữu chúng ta đang sống giữa đời không nhất thiết phải cho đi tất cả tài sản hợp pháp của mình. Vì cũng như mọi người, chúng ta cần có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng hằng ngày như : ăn uống, đi lại, học hành, giải trí… để không trở thành gánh nặng cho tha nhân (x 2 Tx 3,8), để không làm mất đi phẩm giá nếu bị "khố rách áo ôm",... Điều Đức Giê-su muốn các tín hữu phải làm là không làm tôi hai chủ: "Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13). Chúng ta sẽ không coi tiền bạc là ông chủ, nhưng là đầy tớ, vì: "Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt".
- Bước theo Đức Giê-su hôm nay đòi chúng ta phải có lối sống siêu thoát như lời Chúa dạy : « Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về trần gian » (x. Ga 15,18-25). Cần tránh lòng ham mê của cải bất chính vì « Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc » (1 Tm 6,10). Không phải chúng ta chỉ cần từ bỏ một lần, nhưng là từ bỏ mỗi ngày như lời Chúa phán : “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hằng ngày mà theo tôi” (Mt 16,24).
4) Cụ thể chúng ta cần từ bỏ những gì ?
- Mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ những gì mình đang có, nhất là loại trừ các tội lỗi « trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót », nhất là thói tham lam các của cải bất chính, thói ham hưởng thụ các lạc thú xác thịt bất chính…. Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ hãy xét mình xem hôm nay mình đã loại bỏ được một thói hư cụ thể nào. Chẳng hạn: Thói chửi thề, thói thêm chữ « bố mẹ » như trong câu nói « mặc mẹ nó ! »; Thói hay chấp nhất lời nói của kẻ khác đi đến cự cãi; Sẵn sàng trả lại cho chủ của khi nhặt được đồ vật người khác đánh rơi …
- «Cho thì có phúc hơn nhận » (Cv 20,35) : Tập sống quảng đại bằng cách mỗi ngày quyết tâm sẽ cho người nghèo một vật cụ thể như : tiền bạc, đồ ăn, một việc phục vụ... Nếu chúng ta biết quảng đại chia sẻ và cho đi như thế, thì Thiên Chúa cũng sẽ ban lại cho chúng ta gấp bội như lời Chúa phán : “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng cái đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng cái đấu ấy” (Lc 6,38).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy là do lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con coi của cải là tài sản riêng mình nên không muốn chia cho người khác. Còn nếu đang nghèo khó, con lại ước mong trở thành giàu sang để được thỏa mãn các đam mê. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống phục vụ con người, nhưng lại không mấy bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự cho con. Chúa muốn con trước hết hãy “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn các cái khác như : ăn gì, mặc gì, làm gì… thì chính Chúa sẽ giúp cho sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại chia sẻ và phục vụ Chúa trong mọi người, để đáp lại lời Chúa mời gọi chúng con từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Vì : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:04 10/10/2018
9. CÁI CHĂN TRÊN MẶT
Có một anh học trò nhà rất nghèo, ngủ cũng không có chăn đắp, chỉ dùng chiếu cỏ che thân.
Nhưng chiếu cỏ vừa nhỏ vừa hẹp, che thân trên thì thân dưới lộ ra, anh ta cảm thấy nếu mà để lộ chân thì chi bằng để lộ tay, và còn nói với người bên cạnh rằng:
- “Anh coi, chúng ta là những người đọc sách thường không rời bút nghiên, dù cho khi chúng ta ngủ thì những ngón tay giống như cây bút lộ ra bên ngoài nè.”
Mọi người không tin, bèn hỏi con trai của anh ta:
- “Nhà mày khi ngủ thì đắp bằng cái gì ?
Đứa con của anh ta thật thà nói:
- “Chiếu cỏ”.
Anh học trò biết được thì nổi cơn lôi đình đánh thằng con một trận, và dặn dò nó:
- “Lần sau nếu ai có hỏi thì mày chỉ được phép nói là đắp chăn, không được phép nói cái gì khác, nghe chưa ?”
Một hôm, anh ta từ trong buồng ngủ đi ra tiếp khách, đứa con thấy trên râu của anh ta có dính một cọng cói, bèn chạy theo sau lưng mà nói:
- “Bố, bố, bố lấy cái chăn trên mặt xuống !” (Hài ngữ)
Suy tư 9:
Việc trước tiên mà trẻ em học được trong gia đình chính là yêu thương, không một nơi nào trên mặt đất có thể trở thành tổ ấm yêu thương của các em cho bằng gia đình -dù cho gia đình nghèo chỉ có chái nhà là một mái tranh- bởi vì trong gia đình ấy có sự yêu thương của cha của mẹ và của anh chị em.
Việc thứ hai mà các trẻ em học được nơi gia đình mình chính là biết phục vụ lẫn nhau giữa các thành vên trong gia đình, cha mẹ nói con nghe, anh chị nói em nghe, tất cả đều chỉ có chung một mục đích đó là hạnh phúc gia đình, đó chính là sự quan tâm và phục vụ nhau vậy.
Nhưng gia đình cũng sẽ là một nhà tù giam lỏng trẻ em khi mà các thành viên trong gia đình không còn yêu thương nhau nữa, mà cái làm cho tình thương chấp cánh bay xa chính là những người trong gia đình không còn tin tưởng lẫn nhau, tức là mọi người tìm cách nói dối nhau và dạy nhau nói dối...
Theo các nhà đạo đức học, con nít biết nói láo và nói láo nhiều là do người lớn trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ dạy cho nó. Trực tiếp dạy con nói láo là như anh học trò nhà nghèo trên đây, gián tiếp dạy con nói láo là cha mẹ hoặc người lớn làm gương xấu, hay nói láo trước mặt trẻ con...
Như một lổ hổng bị xói mòn nơi bờ đê, lâu ngày sẽ làm cho bờ đê vở toang vô phương cứu chữa và tai hại khó lường được. Cũng vậy, nói dối cũng sẽ làm cho gia đình tan nát vô phương hàn gắn nếu chúng ta –những người làm cha mẹ- không thành thật với nhau và thường nói láo trước mặt con cái của mình.
Muốn con cái sống thành thật, thì cha mẹ và những người lớn trong gia đình phải sống thành thật trước tiên...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
------------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Có một anh học trò nhà rất nghèo, ngủ cũng không có chăn đắp, chỉ dùng chiếu cỏ che thân.
Nhưng chiếu cỏ vừa nhỏ vừa hẹp, che thân trên thì thân dưới lộ ra, anh ta cảm thấy nếu mà để lộ chân thì chi bằng để lộ tay, và còn nói với người bên cạnh rằng:
- “Anh coi, chúng ta là những người đọc sách thường không rời bút nghiên, dù cho khi chúng ta ngủ thì những ngón tay giống như cây bút lộ ra bên ngoài nè.”
Mọi người không tin, bèn hỏi con trai của anh ta:
- “Nhà mày khi ngủ thì đắp bằng cái gì ?
Đứa con của anh ta thật thà nói:
- “Chiếu cỏ”.
Anh học trò biết được thì nổi cơn lôi đình đánh thằng con một trận, và dặn dò nó:
- “Lần sau nếu ai có hỏi thì mày chỉ được phép nói là đắp chăn, không được phép nói cái gì khác, nghe chưa ?”
Một hôm, anh ta từ trong buồng ngủ đi ra tiếp khách, đứa con thấy trên râu của anh ta có dính một cọng cói, bèn chạy theo sau lưng mà nói:
- “Bố, bố, bố lấy cái chăn trên mặt xuống !” (Hài ngữ)
Suy tư 9:
Việc trước tiên mà trẻ em học được trong gia đình chính là yêu thương, không một nơi nào trên mặt đất có thể trở thành tổ ấm yêu thương của các em cho bằng gia đình -dù cho gia đình nghèo chỉ có chái nhà là một mái tranh- bởi vì trong gia đình ấy có sự yêu thương của cha của mẹ và của anh chị em.
Việc thứ hai mà các trẻ em học được nơi gia đình mình chính là biết phục vụ lẫn nhau giữa các thành vên trong gia đình, cha mẹ nói con nghe, anh chị nói em nghe, tất cả đều chỉ có chung một mục đích đó là hạnh phúc gia đình, đó chính là sự quan tâm và phục vụ nhau vậy.
Nhưng gia đình cũng sẽ là một nhà tù giam lỏng trẻ em khi mà các thành viên trong gia đình không còn yêu thương nhau nữa, mà cái làm cho tình thương chấp cánh bay xa chính là những người trong gia đình không còn tin tưởng lẫn nhau, tức là mọi người tìm cách nói dối nhau và dạy nhau nói dối...
Theo các nhà đạo đức học, con nít biết nói láo và nói láo nhiều là do người lớn trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ dạy cho nó. Trực tiếp dạy con nói láo là như anh học trò nhà nghèo trên đây, gián tiếp dạy con nói láo là cha mẹ hoặc người lớn làm gương xấu, hay nói láo trước mặt trẻ con...
Như một lổ hổng bị xói mòn nơi bờ đê, lâu ngày sẽ làm cho bờ đê vở toang vô phương cứu chữa và tai hại khó lường được. Cũng vậy, nói dối cũng sẽ làm cho gia đình tan nát vô phương hàn gắn nếu chúng ta –những người làm cha mẹ- không thành thật với nhau và thường nói láo trước mặt con cái của mình.
Muốn con cái sống thành thật, thì cha mẹ và những người lớn trong gia đình phải sống thành thật trước tiên...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
------------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:07 10/10/2018
58. Cuộc sống như thế nào thì chân lý như thế ấy. (Thánh John Chrysostom.
(Gioan Kim Khẩu)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:35 10/10/2018
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII– B
(Mc 10, 17-30)
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.
Chuyện kể rằng : Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có bán sự khôn ngoan". Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là "Sự khôn ngoan".
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích" .
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.
Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra : Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu : "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời? " (Mc 10, 17)
Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói : "Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không" (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.
Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10, 22).
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố : "Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (x. Mc 10, 23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa : "Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì? " (Mc 10, 28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: "Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu" (Mc 10, 29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.
Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
VĨNH CỬU VÀ TẠM THỜI
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII - B
(Mc 10, 17 – 30)
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích những gì là bền vững.
Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh, khấn sinh và tập sinh tại hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô kể, ngài đã nghe một chủng sinh, một chủng sinh tốt lành nói rằng anh muốn phục vụ Đức Kitô, nhưng chỉ 10 năm thôi, và rồi anh sẽ nghĩ đến việc bắt đầu một cuộc sống khác... và ngài kết luận, thật nguy hiểm! Tuy tạm thời, nhưng điều này thật nguy hiểm bởi vì ta không đánh cược đời mình một lần cho tất cả. Tôi kết hôn chừng nào còn yêu; tôi sẽ là một nữ tu nhưng chỉ trong một "thời gian ngắn" thôi, trong "một khoảng thời gian nào đó" và tôi sẽ tính tiếp, tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Thế này thì không phải với Đức Giêsu! Đúng là cái thứ văn hóa tạm thời, nó không làm cho chúng ta nên tốt đẹp: bởi vì đưa ra một lựa chọn dứt khoát ngày nay thật là khó. Chúng ta là những nạn nhân của nền văn hóa tạm thời này.
Cái tạm thời đã cản trở chàng thanh niên
Chành thanh niên trong Tin Mừng là ai? Là con nhà giàu có. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một thiếu gia. Nhưng một thiếu gia có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi ăn diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả Mười Giới Răn một cách nghiêm túc từ thủa nhỏ, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của Mười Điều Răn.
Hơn thế nữa, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, để hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Người còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải là cái tạm thời và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời là cái vĩnh cửu, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Người. Tin Mừng cho biết: "Anh sù nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10,22). Vậy là, cái tạm thời đã rào cản anh.
Vượt qua rào cản
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời. Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.
Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giêsu là Đấng mà anh gọi là nhân lành. Đức Giêsu đã chỉ cho anh : "Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người khó khó" (Mc 10,17). Bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao ?Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Đây là một rào cản anh phải vượt qua, trở nên nghèo vì người nghèo. Vì chính lúc nghèo như thế, "anh có một kho báu trên trời" (Mc 10, 21). Kho báu đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Thế nên, Đức Giêsu mới nói : "Rồi đến theo Ta" (Mc 10,21). Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự không ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,24). "Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2, 3). Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan ? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan : "Đem so sánh sự giầu sang với sự không ngoan, tôi kể sự giầu sang như không" (Kn 7, 8). Chàng thanh niên chưa vượt qua được rào cản về tài sản, nên anh mới kinh ngạc về đề nghị và lời mời gọi của Đức Giêsu.Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”,là do chính của cải, tài sản mà anh đang có.
Chọn chung kết
Chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ cái tạm bợ là sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, sự giàu sang và của cải là một cản trở làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Chính Chúa tuyên bố : "Những người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao" (Mc 10, 23). Chúa biết khó, nhưng Người vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao, đòi hỏi con người phải trả giá. Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu, thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo hội từng có những vị thánh xuất thân từ ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stêphan nước Hungari. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho người nghèo.
Của cái là phúc lành của Thiên Chúa như sách Châm ngôn viết : "Chính phúc lành của Đức Chúa cho ta được giầu sang" (Cn10, 22) ; "Chúa bắt phải nghèo và cho giầu có" (1Sm 2,7). Người giầu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giầu sang quyền quí như Giakêu, Nicôđêmô, Matthêu v.v…
Như vậy, tiền bạc và sự giầu sang không phải là đối tượng nguyền rủa. Đức Giêsu muốn chúng ta dùng nó làm bàn đạp để bước lên bậc hoàn thiện chiếm được nước trời có Chúa làm gia nghiệp đời ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Mc 10, 17-30)
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.
Chuyện kể rằng : Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có bán sự khôn ngoan". Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là "Sự khôn ngoan".
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích" .
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.
Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra : Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu : "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời? " (Mc 10, 17)
Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói : "Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không" (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.
Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10, 22).
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố : "Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (x. Mc 10, 23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa : "Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì? " (Mc 10, 28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: "Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu" (Mc 10, 29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.
Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
VĨNH CỬU VÀ TẠM THỜI
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII - B
(Mc 10, 17 – 30)
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích những gì là bền vững.
Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh, khấn sinh và tập sinh tại hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô kể, ngài đã nghe một chủng sinh, một chủng sinh tốt lành nói rằng anh muốn phục vụ Đức Kitô, nhưng chỉ 10 năm thôi, và rồi anh sẽ nghĩ đến việc bắt đầu một cuộc sống khác... và ngài kết luận, thật nguy hiểm! Tuy tạm thời, nhưng điều này thật nguy hiểm bởi vì ta không đánh cược đời mình một lần cho tất cả. Tôi kết hôn chừng nào còn yêu; tôi sẽ là một nữ tu nhưng chỉ trong một "thời gian ngắn" thôi, trong "một khoảng thời gian nào đó" và tôi sẽ tính tiếp, tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Thế này thì không phải với Đức Giêsu! Đúng là cái thứ văn hóa tạm thời, nó không làm cho chúng ta nên tốt đẹp: bởi vì đưa ra một lựa chọn dứt khoát ngày nay thật là khó. Chúng ta là những nạn nhân của nền văn hóa tạm thời này.
Cái tạm thời đã cản trở chàng thanh niên
Chành thanh niên trong Tin Mừng là ai? Là con nhà giàu có. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một thiếu gia. Nhưng một thiếu gia có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi ăn diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả Mười Giới Răn một cách nghiêm túc từ thủa nhỏ, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của Mười Điều Răn.
Hơn thế nữa, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, để hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Người còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải là cái tạm thời và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời là cái vĩnh cửu, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Người. Tin Mừng cho biết: "Anh sù nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10,22). Vậy là, cái tạm thời đã rào cản anh.
Vượt qua rào cản
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời. Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.
Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giêsu là Đấng mà anh gọi là nhân lành. Đức Giêsu đã chỉ cho anh : "Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người khó khó" (Mc 10,17). Bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao ?Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Đây là một rào cản anh phải vượt qua, trở nên nghèo vì người nghèo. Vì chính lúc nghèo như thế, "anh có một kho báu trên trời" (Mc 10, 21). Kho báu đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Thế nên, Đức Giêsu mới nói : "Rồi đến theo Ta" (Mc 10,21). Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự không ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,24). "Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2, 3). Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan ? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan : "Đem so sánh sự giầu sang với sự không ngoan, tôi kể sự giầu sang như không" (Kn 7, 8). Chàng thanh niên chưa vượt qua được rào cản về tài sản, nên anh mới kinh ngạc về đề nghị và lời mời gọi của Đức Giêsu.Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”,là do chính của cải, tài sản mà anh đang có.
Chọn chung kết
Chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ cái tạm bợ là sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, sự giàu sang và của cải là một cản trở làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Chính Chúa tuyên bố : "Những người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao" (Mc 10, 23). Chúa biết khó, nhưng Người vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao, đòi hỏi con người phải trả giá. Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu, thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo hội từng có những vị thánh xuất thân từ ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stêphan nước Hungari. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho người nghèo.
Của cái là phúc lành của Thiên Chúa như sách Châm ngôn viết : "Chính phúc lành của Đức Chúa cho ta được giầu sang" (Cn10, 22) ; "Chúa bắt phải nghèo và cho giầu có" (1Sm 2,7). Người giầu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giầu sang quyền quí như Giakêu, Nicôđêmô, Matthêu v.v…
Như vậy, tiền bạc và sự giầu sang không phải là đối tượng nguyền rủa. Đức Giêsu muốn chúng ta dùng nó làm bàn đạp để bước lên bậc hoàn thiện chiếm được nước trời có Chúa làm gia nghiệp đời ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thi ca suy niệm Chúa Nhật tuần 28 thường niên B
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
08:56 10/10/2018
(Mc 10, 17-30)
NHÂN LÀNH
Một người quì gối van xin,
Giê-su nhân hậu, con tin lời Thầy.
Tấm lòng thành khẩn đong đầy,
Ước mong cuộc sống, tràn đầy phúc ân.
Làm sao cuộc sống tinh thần,
Muôn đời hưởng phúc, dự phần ngày mai.
Chu toàn giới luật chẳng phai,
Ngoại tình xin tránh, họa tai gia đình.
Giết người, trộm cắp, phụ tình,
Chứng gian, lường gạt, nhục hình khổ đau.
Thảo cha kính mẹ trước sau,
Vui thay thuở nhỏ, cùng nhau thực hành.
Chúa thương dạy bảo đường lành,
Một điều thiếu xót, bán nhanh gia tài.
Rồi đem bố thí tiền tài,
Giúp người nghèo khó, ngày mai theo Thầy.
Một người thanh niên tốt bụng chạy đến cùng Chúa Giêsu tìm hỏi cách nào đạt tới sự sống đời đời. Chúa Giêsu nhìn anh cách trìu mến và ân cần hỏi han. Anh tự động đến gặp Chúa. Anh tỏ bày cho chúng ta một chút hình ảnh về đời sống riêng tư. Anh thuộc gia đình giầu có, ngoan đạo và giữ lề luật Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Anh không trộm cắp, không giết người và rất thảo kính cha mẹ. Xem ra anh hãnh diện và an vui trong đời sống gia đình. Anh có tất cả cuộc sống vật chất đầy đủ, tiện nghi và thoải mái.
Chúa Giêsu muốn anh tiến thêm một bậc trên đường trọn lành. Chúa nói với anh rằng: Bán tất cả gia tài và đem bố thí cho người nghèo. Anh giật nẩy mình như một cái gì vượt ngoài sự dự đoán. Anh đã không thể chấp nhận sự từ bỏ của cải. Anh là người giầu có và anh muốn được cả hai. Vừa hưởng phước của cải trần gian và mong hưởng phước thiên đàng. Thế là anh buồn rầu bỏ ra đi. Chúng ta thông cảm hoàn cảnh của anh. Đây cũng là thói thường ở đời.
Chúng ta cũng ở trong hoàn cảnh như anh ta thôi. Có lẽ chúng ta không giầu có nhưng cũng chẳng nghèo. Chúng ta cũng đã cố gắng chu toàn luật Chúa và tránh xa các dịp tội. Nếu Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta như Chúa đã đòi hỏi anh ta, có lẽ chúng ta cũng xụ mặt bỏ đi. Bao nhiêu người trong chúng ta dám từ bỏ của cải do công khó mình làm ra để rồi chia xớt cho người nghèo? Nếu Chúa bảo rằng con hãy cho đi chút chút thì được nhưng cho cả thì con lấy gì mà sống chứ! Của cải gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền nối liền khúc ruột mà.
Bác sĩ Gordon kể ngày nọ có một ông nhà giầu nhưng lại keo kiệt, đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải giải phẫu cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ông hỏi bác sĩ: Giá cả bao nhiêu? Bác sĩ nói: Chữa một mắt giá 1000 đô. Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và sự mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ: Tôi chỉ xin chữa một mắt thôi vì có một mắt cũng đủ thấy tiền, kiếm tiền và lại đỡ tốn.
Người thanh niên trong câu truyện của bài Phúc âm hôm nay, vì tiếc của và sự hẹp hòi, anh đã chọn của cải đời này, thay vì sự sống đời sau. Nên Chúa Giêsu nói rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim dễ hơn người giầu và nước thiên đàng là thế. Còn chúng ta nghĩ rằng chúng ta không giầu, nên chúng ta không cần phải bán và không cần phải cho ai. Chúng ta theo Chúa xa xa cầm chừng để khỏi phải bị luận phạt đời đời. Chúng ta tính toán thật kỹ về ngân khoản của cải trần gian.
Noi gương các thánh Tông đồ, các vị truyền giáo, các tu sĩ nhà Dòng, họ bỏ tất cả và cho đi tất cả vì danh Chúa Kitô. Còn chúng ta cũng có nhiều thứ để cho như cho đi thời giờ, cho đi khả năng và cả tiền bạc. Những gì chúng ta đã lãnh nhận nhưng không, chúng ta có thể cho đi nhưng không. Chúa sẽ ban lại dồi dào cho chúng ta. Sự rộng lượng của Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta đâu.
THỨ HAI, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 29-32).
ĐIỀM LẠ
Dân chúng tụ tập bên Thầy,
Mong tìm điềm lạ, sa lầy yếu tin.
Giống dòng gian ác van xin,
Giô-na bụng cá, hãy nhìn gẫm suy.
Ni-ni-vê đó cứu nguy,
Ăn năn sám hối, tư duy trở về.
Dân này cứng cổ bội thề,
Không ban dấu lạ, bến mê cuộc đời.
Chối từ lời giảng Con Trời,
Tà tâm kiêu hãnh, sống đời ác gian.
Con Người điềm lạ trao ban,
Chứng nhân cao cả, thiên nhan rạng ngời.
Chúa Con xuống thế làm người,
Cứu nhân độ thế, vào đời truyền rao.
Mong rằng dân chúng khát khao,
Đổi đời cải quá, tuôn trào hông ân.
THỨ BA, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 37-41).
RỬA TAY
Một người mời Chúa tới nhà,
Ông là Biệt Phái, vị tha trong đời.
Chung vui dự tiệc khách mời,
Ngạc nhiên thấy Chúa, không rời bàn ăn.
Rửa tay nghi thức tự căn,
Phàn nàn lỗi luật, can ngăn thói đời.
Chúa cần giải thích đôi lời,
Bề ngoài chén dĩa, mọi nơi gọn gàng.
Nội tâm sâu thẳm không màng,
Tham lam gian ác, xếp hàng tội nhân.
Hỡi người ngu dại thế trần,
Hóa công sáng tạo, điều cần nội tâm.
Rộng lòng bố thí âm thầm,
Xác hồn trong sạch, tránh lầm bến mê.
Bề ngoài hào nhoáng khen chê,
Lương tâm ngay chính, hướng về thiêng cung.
THỨ TƯ, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 42-46).
GÁNH NẶNG
Khốn thay Biệt Phái rao truyền,
Thập phân nộp thuế, thề nguyền tín trung.
Bạc hà rau qủa hưởng dùng,
No đầy hoan hỉ, tôn sùng ngoại lai.
Công bình chính trực nhạt phai,
Thiếu lòng yêu mến, thần tài tựa nương.
Thích ngồi ghế nhất hội đường,
Mong người chào hỏi, noi gương chính mình.
Bề ngoài mồ mả tô hình,
Người ta cất bước, vô tình dẫm lên.
Một ngài Tiến Sĩ đứng bên,
Thưa Thầy, xỉ nhục cả tên nhóm này.
Khốn cho tiến sĩ luật bày,
Chất lên gánh nặng, đổ đầy lên vai.
Người dân khốn khổ kêu nài,
Các ông thong thả, quản cai luật đời.
THỨ NĂM, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 11, 47-54).
KHỐN THAY
Nặng lời Chúa trách người trần,
Khốn thay xây cất mộ phần ông cha.
Các người giết chết hằng hà,
Tiên tri tổ phụ, lòng tà dậy khơi.
Tán thành làm chứng mọi thời,
Cha ông sát hại, bao đời trước đây,
Các ngươi đắp mả dựng xây,
Mồ cao mả đẹp, công thầy ơn cha.
Khôn ngoan Thiên Chúa tỏ ra,
Tiên tri sai đến, chẳng tha người nào.
Giết đi bách hại xiết bao,
Giống dòng nợ máu, tự cao trong đời.
Các người Tiến Sĩ xa rời,
Giữ riêng chìa khóa, vào nơi Nước Trời.
Các người không đáp lời mời,
Lại còn ngăn cản, những người muốn vô.
THỨ SÁU, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 12, 1-7).
Ý TỨ
Bắt đầu dậy dỗ môn đồ,
Các con ý tứ, men hồ người ta.
Thứ men Biệt Phái kiêu sa,
Giả hình khoe mẽ, tránh xa thói này.
Không gì che đậy chẳng hay,
Mà không tiết lộ, tỏ bày công khai.
Không gì dấu kín chê bai,
Giãi bầy ánh sáng, ngày mai tỏ tường.
Điều nơi tăm tối không lường,
Nói ra sáng sủa, mọi phương vạch trần.
Rỉ tai buồng kín tha nhân,
Mái nhà rao giảng, toàn dân rõ ràng.
Các con đừng sợ cái bang,
Thủ tiêu thân xác, đầu hàng hồn thiêng.
Linh hồn cao cả thiêng liêng,
Phục tùng kính sợ, chỉ riêng Chúa Trời.
THỨ BẢY, TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
(Lc 12, 8-12).
NHÂN CHỨNG
Phán cùng môn đệ lời này,
Xưng Thầy trước mặt, ra ngay người đời.
Đi làm nhân chứng cho Người,
Con Người xưng nhận, đón mời phúc vinh.
Thiên thần đón tiếp cung đình,
Trước ngai Thiên Chúa, an bình rạng danh.
Còn ai chối bỏ Thánh Danh,
Tội này tha thứ, thực hành ăn năn.
Con Người dong duổi nhọc nhằn,
Hy sinh cứu độ, xả lăn thế trần.
Nói năng phạm thượng Thánh Thần.
Tội này nghiêm trọng, nợ nần không tha.
Người ta bắt bớ mọi nhà,
Hội đường quan xét, thực thà đừng lo.
Thánh Thần Chúa dậy đắn đo,
Lời ăn tiếng nói là do ơn trời.
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật 28 Mùa Quanh Năm B 14.10.2018
Lm Francis Lý văn Ca
16:18 10/10/2018
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Tuần vừa qua chúng ta cùng hiệp ý với Giáo Hội cầu nguyện cho những Anh Chị Em sống trong bậc vợ chồng và những ai sắp bước vào đời sống đôi bạn.
Tuần nầy, chúng ta hướng những ý nguyện cầu dành cho những ai đươc Chúa mời gọi bước vào đời sống hiến dâng. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta nhiều tư tưởng để suy nghĩ và sống trong xã hội hôm nay. Đồng thời cầu nguyện cho những ai đang sống đời dâng hiến hay đang chuẩn bị để bước vào đời sống hiến dâng.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Vua Salomon không xin sự giàu sang như vua Cha là Đavít, nhưng xin sự khôn ngoan để cai trị dân. Chúa ban cho ông điều ông mong ước và những điều khác nữa.
TRƯỚC BÀI II:
Lời Chúa như lưỡi gươm hai lưỡi thấu suốt vào tâm hồn và trí khôn. Với những suy nghĩ của trí khôn và tâm hồn rộng mở, chúng ta tiếp nhận Lời Chúa và đem ra thực hành.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Câu chuyện người thanh niên giàu có hướng chúng ta đến sự hiến dâng, chia sẻ phần vật chất. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta sống đời dâng hiến.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện để cầu cho Giáo Hội và những ai đang hoặc sẽ sống đời hiến dâng.
1. Xin cho Đức Thánh Cha Phanxicô, Các Đức Giám Mục, Linh mục, Phó Tế: luôn trung thành trong ơn gọi để phục vụ Chúa và tha nhân trong đời sống hiến dâng và phục vụ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho Quý Thầy, Quý Tu Sĩ Nam Nữ đang sống đời hiến dâng: luôn được niềm vui, ủi an trong cuộc đời theo Chúa. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho chúng con luôn khám phá ra những nhu cầu cần thiết của Anh Chị Em sống xung quanh: để giúp đỡ, chia sẻ những hồng ân Chúa ban. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam đuợc bình an, tôn giáo được tự do và nhân quyền được tôn trọng. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Chúng con nhớ đến Quý Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ của Chúa đã qua đời; Xin ban cho các Ngài sau cuộc đời phục vụ và hiến dâng, được xum họp trong bàn tiệc Nước Trời. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Chúa là nguồn mọi ân phúc, Chúa ban co chúng con sự tự do để chọn con đường đi theo Chúa. Xin ban cho chúng con sự khôn ngoan như vua Salomon, để chúng con chọn đúng con đường chúng con đi. Con đuờng đó sẽ dẫn chúng con vào cuộc sống vĩnh cửu mai ngày. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Tuần vừa qua chúng ta cùng hiệp ý với Giáo Hội cầu nguyện cho những Anh Chị Em sống trong bậc vợ chồng và những ai sắp bước vào đời sống đôi bạn.
Tuần nầy, chúng ta hướng những ý nguyện cầu dành cho những ai đươc Chúa mời gọi bước vào đời sống hiến dâng. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta nhiều tư tưởng để suy nghĩ và sống trong xã hội hôm nay. Đồng thời cầu nguyện cho những ai đang sống đời dâng hiến hay đang chuẩn bị để bước vào đời sống hiến dâng.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Vua Salomon không xin sự giàu sang như vua Cha là Đavít, nhưng xin sự khôn ngoan để cai trị dân. Chúa ban cho ông điều ông mong ước và những điều khác nữa.
TRƯỚC BÀI II:
Lời Chúa như lưỡi gươm hai lưỡi thấu suốt vào tâm hồn và trí khôn. Với những suy nghĩ của trí khôn và tâm hồn rộng mở, chúng ta tiếp nhận Lời Chúa và đem ra thực hành.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Câu chuyện người thanh niên giàu có hướng chúng ta đến sự hiến dâng, chia sẻ phần vật chất. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta sống đời dâng hiến.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện để cầu cho Giáo Hội và những ai đang hoặc sẽ sống đời hiến dâng.
1. Xin cho Đức Thánh Cha Phanxicô, Các Đức Giám Mục, Linh mục, Phó Tế: luôn trung thành trong ơn gọi để phục vụ Chúa và tha nhân trong đời sống hiến dâng và phục vụ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho Quý Thầy, Quý Tu Sĩ Nam Nữ đang sống đời hiến dâng: luôn được niềm vui, ủi an trong cuộc đời theo Chúa. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho chúng con luôn khám phá ra những nhu cầu cần thiết của Anh Chị Em sống xung quanh: để giúp đỡ, chia sẻ những hồng ân Chúa ban. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam đuợc bình an, tôn giáo được tự do và nhân quyền được tôn trọng. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Chúng con nhớ đến Quý Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ của Chúa đã qua đời; Xin ban cho các Ngài sau cuộc đời phục vụ và hiến dâng, được xum họp trong bàn tiệc Nước Trời. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Chúa là nguồn mọi ân phúc, Chúa ban co chúng con sự tự do để chọn con đường đi theo Chúa. Xin ban cho chúng con sự khôn ngoan như vua Salomon, để chúng con chọn đúng con đường chúng con đi. Con đuờng đó sẽ dẫn chúng con vào cuộc sống vĩnh cửu mai ngày. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thượng Hội Đồng về Tuổi Trẻ: Phúc Trình của nhóm C nói tiếng Anh
Vũ Văn An
04:22 10/10/2018
Phúc Trình Nhóm C nói tiếng Anh
Chương 1 – Làm người trẻ hôm nay
Sợ hãi
• Chương 1 thảo luận rất nhiều về sự sợ hãi: tham nhũng, ma túy, việc làm. Đây là toàn bộ lãnh vực để nói đến.
11-13: Gia đình
• Loại gia đình họ được nuôi dưỡng là điều rất quan trọng. Các gia đình ở thế giới phương Tây đang thu nhỏ về mặt sinh suất. Cần phải tập trung vào việc làm mẹ, làm cha, dành thì giờ một cách rộng lượng với con cái của họ.
• Một thách thức quan trọng mà chúng ta gặp phải: số lượng thanh niên xuất thân từ các gia đình cha mẹ đơn độc. Trong một số xã hội, số này khá cao. Thiếu kiến thức về việc làm mẹ hoặc làm cha (ý nghĩa của nó). Điều này tạo ra nhiều thách thức cho người trẻ khi họ lớn hơn. Điều này có trong tài liệu hay không?
• Thừa tác vụ gia đình là một lãnh vực đầy thách đố để chúng ta dấn thân vào. Cha mẹ muốn kiếm tiền để hỗ trợ con cái của họ. Nếu chúng ta bảo họ ở nhà nhiều hơn, lời nói của chúng ta không được đón nhận cho lắm.
• Người trẻ đồng ý với tính trung tâm của gia đình, nhưng chúng ta cần cả một ngôi làng để nuôi dạy một đứa trẻ. Nếu chúng ta có thể tạo ra các cộng đồng biết hỗ trợ các gia đình, thì các gia đình có thể làm tốt hơn trong việc cung cấp cuộc sống tốt đẹp cho con cái họ.
• Giáo Hội phải là một gia đình. Ở các nước phát triển, chúng ta có xu hướng biến nhà thờ thành một thánh lễ trong 1 giờ vào cuối tuần.
◦ Ukraine đang trải qua một cuộc "giải phóng". Vài năm trước, họ nhận thấy một cuộc khủng hoảng lớn trong các gia đình. Một nửa số gia đình thất bại. Nhiều người cha lên đường qua Tây Âu kiếm việc làm, gửi tiền về nhà: người trẻ có tiền nhưng không có giáo dục (những người được gọi là "mồ côi về xã hội"). Giáo hội có ý nghĩa gì đối với tuổi trẻ ngày nay? Đối với nhiều người, nó chỉ có nghĩa là một tòa nhà thánh thiêng, không phải là một cộng đồng. Họ có các nhà thờ và cha xứ, nhưng không có các giáo xứ. Giáo Hội Công Giáo Ukraine sống sót thời Xô Viết bởi vì nó là một cộng đồng, một dân tộc, thậm chí không có một tòa nhà. Giờ đây, người Công Giáo rất hấp dẫn vì có một cộng đồng. Chiến tranh đang tạo ra thứ rối loạn hậu chấn thương (PTSD) nơi giới trẻ. Chúng ta cần giáo hội trở thành nơi của gia đình, của các mối liên hệ nhân bản.
• Các cộng đồng của chúng ta phải là các cộng đồng chia sẻ. Ngay cả việc chia sẻ vật chất, như trong sách Công Vụ Tông Đồ. Các cộng đồng căn bản nhỏ là cơ hội để chia sẻ hỗ tương các mối quan tâm vật chất và tinh thần. Có một số sáng kiến tạo ra các nhóm nhỏ, như Con Đường Tân Dự Tòng (Neo-catechumenal Way).
• Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi từ các cộng đồng di dân (một giám mục từ Hoa Kỳ nói như thế). Các gia đình cảm thấy nhu cần phải đến với nhau và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng đôi khi họ bị bác bỏ vì điều đó!
• Một trong những việc gom nhóm nhanh nhất trong giáo hội là các tân phong trào. Những nhóm phát triển nhất là những nhóm nơi các gia đình và các nhóm gia đình đến với nhau như các đơn vị.
• Ở Namibia, có vấn đề trẻ em trở thành cha mẹ (14 hoặc 15 tuổi).
• Anh chị em thường là “người lớn” quan trọng nhất trong cuộc đời một người trẻ.
• Ở Myanmar, thanh niên đi xa - làng chỉ có con nít và người già.
• # 11: bạn muốn nói gì khi nói đến một gia đình truyền thống? Nên giải thích thuật ngữ này.
◦ Có phải nó có nghĩa là gia đình hạt nhân? Một gia đình rộng lớn hơn? Một gia đình với một người đàn ông đứng đầu?
◦ Điều này có phát xuất từ bối cảnh châu Phi, nơi nó có nghĩa là gia đình mở rộng?
◦ Có phải nó đang được sử dụng để phản đối các gia đình “phi truyền thống” không?
◦ Cha mẹ đơn độc? Bà nội bà ngoại?
• Giáo hội có thể cung cấp những gì còn thiếu trong gia đình - cần một mô thức (modus), có lẽ thêm vào # 12
• gia đình kết hôn hỗn hợp và sự chuyển giao (transmission) gia đình - không hề được đề cập
14 & 15: các mối liên hệ liên thế hệ
• Đức Giáo Hoàng Phanxicô coi tuổi trẻ và người già cả hai như bị “vứt bỏ”. Chúng ta cần tìm cách mang họ lại với nhau. Việc này có lợi cho cả hai phía.
• Thường thì tuổi trẻ có mối liên hệ tốt với người lớn tuổi hơn, họ gặp khó khăn với nhóm 40-60. Thế hệ già hơn dường như là thế hệ lắng nghe tốt hơn. Trong đời sống tôn giáo, một cộng đồng đặc thù luôn bao gồm các chị em lớn tuổi hơn vì họ là những người ngồi đó và lắng nghe.
• Kinh nghiệm của người trẻ: mối liên hệ với người lớn tuổi sẽ tốt khi lớp người lớn tuổi này nhìn nhận nhu cầu và có khả năng lắng nghe người trẻ. Bất kể tuổi tác, khả năng có đối thoại và trò chuyện là chìa khóa cho mối liên hệ liên thế hệ tốt đẹp.
• Trong bối cảnh châu Á, một giám mục nói rằng ngài chưa bao giờ thấy những căn nhà dành cho người cao niên. Những người lớn tuổi hơn được "nhận nuôi" trong các gia đình.
• Ở châu Âu, không có ai bắc cầu giữa người già và người trẻ. Mỗi phía dường như cô lập đối với nhau.
• Ở Nam Phi, thường có một bà ngoại hay bà nội thay thế cha mẹ (có lẽ cha mẹ đã chết). Các bà ngoại bà nội này thường nói rằng họ không được đánh giá cao bất chấp các hy sinh của họ.
• Tại Kerala, nhà dành cho tuổi già thường được áp đặt bởi nhu cầu liên quan đến việc làm (ví dụ: công nhân di dân không thể ở gần cha mẹ).
16-18: Các lựa chọn đời sống
• điều này nghe có vẻ giống như ngôn ngữ của một cuốn sách giáo dục, mà không nhắc nhiều đến Thiên Chúa
• không đề cập gì đến sự can thiệp của Thiên Chúa trong đời sống tuổi trẻ
• không lắng nghe Thiên Chúa trong việc thực hiện các lựa chọn của đời sống
19-21: Giáo dục
• Ở Myanmar, trẻ em thường phải làm việc để nuôi sống gia đình, vì vậy chúng không được học hành.
• Zimbabwe: Các tôn giáo khác đang tối đa hóa giáo dục. Những người không có khả năng trả học phí được nhử vào các trường học qua ngả trả học phí. Các trường Công Giáo của chúng ta đã trở nên học thuật nhiều hơn và là nơi để đào tạo theo triết lý sống Công Giáo.
• Nigeria: Trong khi lớn lên, cha mẹ học miễn phí, nhưng nhiều người không thể đi học vì nó quá đắt. Giáo hội có thể làm cho các trường Công Giáo có học phí phải chăng không? Hoặc gây quỹ cho những người không thể trả học phí? Cho những người không có đầu óc học thuật nhưng có kỹ năng. Các giáo hội Ngũ Tuần trả tiền cho các dịch vụ đòi phải có kỹ năng - họ hứa việc làm, chỗ ở, thực phẩm, một nơi để phát triển và bán kỹ năng (nên họ nhận cả việc thiện nguyện vì nhiều lợi ích khác). Các trường Công Giáo được xây bằng các đóng góp của tín hữu, nhưng chỉ các trẻ em của giới ưu tú mới có thể học ở những trường đó.
• Đức thượng phụ: giáo dục có thể được sử dụng để cổ vũ một hình thức thao túng, và về phương diện hoàn cầu, chúng ta đang thấy điều này - giáo dục bị biến thành dụng cụ để thao túng con người ngày nay - vì vậy chúng ta thấy xu hướng loại trừ sự hiện diện của giáo hội
• không hề nhắc đến việc chăm sóc mục vụ và hướng dẫn tâm linh như một phần của bối cảnh đào tạo; có thể đề cập đến các ban tuyên úy hay không, ví dụ: các trung tâm Newman (xem 147-148)
• Các trường học tại nhà - một mô hình phát xuất từ Mỹ.
◦ Hoa Kỳ có nhiều trẻ học tại nhà – các giám mục ở Hoa Kỳ không thống nhất, vì việc học ở nhà có thể có cơ sở ý thức hệ - trẻ em có thể có các nhu cầu đặc biệt
◦ các cha mẹ có đủ tư cách để dạy con cái ở nhà hay không?
23: Việc làm và nghề nghiệp
• cũng có thể liên quan đến rất nhiều cuộc di dân nội bộ
• phong trào thiện nguyện cần được bao gồm như một chủ đề, vì một số người phụ thuộc vào những gì họ nhận được từ phong trào thiện nguyện - việc thiện nguyện trong giáo hội phải sinh hoa trái trong giáo hội
26: Kinh nghiệm và các loại ngôn ngữ
• Ngôn ngữ thực sự không được đề cập ở đây! Chúng tôi sẽ gọi đó là trải nghiệm và các hình thức diễn đạt
28: Dấn thân và tham gia xã hội
• Trong khi người trẻ có thể thấy các thất bại về phía tiên tri của Giáo Hội, một cách tích cực hơn họ muốn thấy giáo hội như nơi chốn của trung thực, an toàn, và không thiên vị
29-30: Linh đạo và lòng sùng đạo
• Chúa Thánh Thần không hề được nhắc đến - điều này có phản ánh thực tại hay không? Một “modus” (mô thức?) có nên được đặt ở nơi khác trong tài liệu không? - ở Indonesia Chúa Thánh Thần nên được đề cập - những phong trào mới mạnh mẽ nhắc đến Chúa Thánh Thần - cần một “modus” cho phần này
• không đề cập đến các phái tôn giáo hay bán tôn giáo
• cũng nên nói đến cách tìm được sự tự thể hiện chính bản thân mình về phương diện tâm lý học
• Chúa Giêsu là một nhà ảo thuật? mối liên hệ có tính mê tín với Người?
• Tìm ở đâu chỗ đứng của phụng vụ trong phần nói đến linh đạo và tôn giáo?
31-33: Người trẻ trong đời sống Giáo Hội
• khó tìm được không gian vì những người khác không dành chỗ cho họ
• giáo hội như một trường dạy việc làm môn đệ (cần một mô-thức có tính quy tắc sau này)
34-35: lục địa kỹ thuật số
• hãy nhớ rằng nhiều người trẻ không có khả năng truy cập internet!
• môi trường kỹ thuật số cho phép xiết bao các dạng phát biểu mới như trò chuyện, nhóm trực tuyến, nhắn tình (sexting)
• các phương tiện này có cho phép gặp gỡ những người mới và thực hiện các kết nối mới, tức sự đa dạng? hay chúng chỉ được sử dụng để tăng lực cho các tình bạn đã có, tức y như cũ (sameness)? sự y như cũ có thể cho phép một cuộc tiếp xúc đa dạng khi có sự quan tâm chung
63: Bên kia việc thế tục hóa
• Nghe thấy người trẻ là người tâm linh chứ không phải người tôn giáo – tâm linh không chỉ ở trong Giáo Hội mà ở cả trong xã hội nữa. Việc thế tục hóa không phải là điều chúng ta nên phản đối.
36-38: Âm nhạc và các hình thức diễn đạt nghệ thuật khác
• Cần đề cập đến Truyền Hình, Video và các trò chơi video
• Cần phân biệt người sản xuất và người tiêu dùng
39-40: Thế giới thể thao
• Vincent: những người lưu ý tới các nhân vật thể thao được coi như những người lãng phí thời gian của mình; nhưng giờ đây các giáo hội thệ phản đang thành lập các câu lạc bộ thể thao cho các thành viên của họ, được sử dụng như một hình thức cải đạo.
• Đánh cá: cờ bạc trên các môn thể thao
• Video chơi xì phé, các trò chơi đánh cá điện tử khác
• Sử dụng các môn thể thao để xây dựng nhân cách và xây dựng tinh thần đồng đội – MỘT “MODUS” SẼ ĐƯỢC THỰC HIỆN
• Các môn thể thao chuyên nghiệp như các đấu sĩ mới - khai thác những người có tài năng từ các quốc gia nghèo hơn
• Những người thích phối hợp các hoạt động thể lý và tinh thần, như: yoga - không có chỗ đứng trong giáo hội nào dành cho điều này
• Đức Hồng Y Coutts muốn được thấy một đoạn nói về thể thao như một điều vui chơi
Chương III - Trong nền văn hóa vứt bỏ
45-47: Thanh niên di dân
• cần chú ý đặc biệt đến những người trong các trại tị nạn
• Giám mục Myanmar: những người di tản nội bộ cũng nên được đưa vào; nó không hoàn toàn cùng là một việc y như nhau
48: Các nguồn kỳ thị khác nhau
• chúng ta nên thêm vị thế pháp lý và quốc tịch như một nguồn kỳ thị
• chúng ta nên thêm tuổi trẻ khuyết tật như một nguồn kỳ thị
Chương IV – Các thách thức nhân học và văn hóa
52-53: Cơ thể, cảm giới và tính dục
• Chúng ta nên đề cập đến chủ nghĩa nhân biến (transhumanism)
• cần phải thêm việc phẫu thuật thẩm mỹ vào khái niệm (“modus” đã gửi đi)
• chúng ta cần đảm bảo biết rõ ràng rằng những người trẻ không đồng ý với giáo hội về tình dục vẫn là thành viên của giáo hội
• “kinh nghiệm cực độ” có nghĩa là gì? thể thao cực độ? hoạt động tình dục cực độ? Ma túy cực độ? cũng cần phải đề cập đến áp lực xã hội
58-60: Không đồng tình với các định chế
• tại sao quá ít nhắc đến các hình thức tham gia mới? chẳng hạn như các mạng lưới hỗ trợ xã hội?
61: Tê liệt ra quyết định, vv
• Tiêu đề phải được làm cho rõ hơn để cho thấy nó phản ánh các quyết định dài hạn. Không có sự tê liệt đối với các quyết định ngắn hạn.
Chương V Tiêu đề
• Chương này không chỉ là về việc lắng nghe, vì vậy tiêu đề cần được sửa đổi
65: Việc khó lắng nghe
• Vấn đề không chỉ là lắng nghe người trẻ; nhiều người muốn Giáo hội lắng nghe!
• Làm thế nào chúng ta có thể tạo ra một nền văn hóa lắng nghe trong Giáo Hội?
• Chúng ta cần lắng nghe để dấn thân – bố trí "lắng nghe ra sao" cho một phần sau này, ví dụ: lắng nghe một cách tương cảm, mà chúng ta đã làm nhưng có thể làm nhiều hơn
• Thầy Alois: "lắng nghe với nhân loại" là điều người ta thấy rất nhiều ở Taizé - chúng ta có thể có một "thừa tác vụ lắng nghe" không?
Đón đọc: Phúc Trình của nhóm D nói tiếng Anh
Chương 1 – Làm người trẻ hôm nay
Sợ hãi
• Chương 1 thảo luận rất nhiều về sự sợ hãi: tham nhũng, ma túy, việc làm. Đây là toàn bộ lãnh vực để nói đến.
11-13: Gia đình
• Loại gia đình họ được nuôi dưỡng là điều rất quan trọng. Các gia đình ở thế giới phương Tây đang thu nhỏ về mặt sinh suất. Cần phải tập trung vào việc làm mẹ, làm cha, dành thì giờ một cách rộng lượng với con cái của họ.
• Một thách thức quan trọng mà chúng ta gặp phải: số lượng thanh niên xuất thân từ các gia đình cha mẹ đơn độc. Trong một số xã hội, số này khá cao. Thiếu kiến thức về việc làm mẹ hoặc làm cha (ý nghĩa của nó). Điều này tạo ra nhiều thách thức cho người trẻ khi họ lớn hơn. Điều này có trong tài liệu hay không?
• Thừa tác vụ gia đình là một lãnh vực đầy thách đố để chúng ta dấn thân vào. Cha mẹ muốn kiếm tiền để hỗ trợ con cái của họ. Nếu chúng ta bảo họ ở nhà nhiều hơn, lời nói của chúng ta không được đón nhận cho lắm.
• Người trẻ đồng ý với tính trung tâm của gia đình, nhưng chúng ta cần cả một ngôi làng để nuôi dạy một đứa trẻ. Nếu chúng ta có thể tạo ra các cộng đồng biết hỗ trợ các gia đình, thì các gia đình có thể làm tốt hơn trong việc cung cấp cuộc sống tốt đẹp cho con cái họ.
• Giáo Hội phải là một gia đình. Ở các nước phát triển, chúng ta có xu hướng biến nhà thờ thành một thánh lễ trong 1 giờ vào cuối tuần.
◦ Ukraine đang trải qua một cuộc "giải phóng". Vài năm trước, họ nhận thấy một cuộc khủng hoảng lớn trong các gia đình. Một nửa số gia đình thất bại. Nhiều người cha lên đường qua Tây Âu kiếm việc làm, gửi tiền về nhà: người trẻ có tiền nhưng không có giáo dục (những người được gọi là "mồ côi về xã hội"). Giáo hội có ý nghĩa gì đối với tuổi trẻ ngày nay? Đối với nhiều người, nó chỉ có nghĩa là một tòa nhà thánh thiêng, không phải là một cộng đồng. Họ có các nhà thờ và cha xứ, nhưng không có các giáo xứ. Giáo Hội Công Giáo Ukraine sống sót thời Xô Viết bởi vì nó là một cộng đồng, một dân tộc, thậm chí không có một tòa nhà. Giờ đây, người Công Giáo rất hấp dẫn vì có một cộng đồng. Chiến tranh đang tạo ra thứ rối loạn hậu chấn thương (PTSD) nơi giới trẻ. Chúng ta cần giáo hội trở thành nơi của gia đình, của các mối liên hệ nhân bản.
• Các cộng đồng của chúng ta phải là các cộng đồng chia sẻ. Ngay cả việc chia sẻ vật chất, như trong sách Công Vụ Tông Đồ. Các cộng đồng căn bản nhỏ là cơ hội để chia sẻ hỗ tương các mối quan tâm vật chất và tinh thần. Có một số sáng kiến tạo ra các nhóm nhỏ, như Con Đường Tân Dự Tòng (Neo-catechumenal Way).
• Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi từ các cộng đồng di dân (một giám mục từ Hoa Kỳ nói như thế). Các gia đình cảm thấy nhu cần phải đến với nhau và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng đôi khi họ bị bác bỏ vì điều đó!
• Một trong những việc gom nhóm nhanh nhất trong giáo hội là các tân phong trào. Những nhóm phát triển nhất là những nhóm nơi các gia đình và các nhóm gia đình đến với nhau như các đơn vị.
• Ở Namibia, có vấn đề trẻ em trở thành cha mẹ (14 hoặc 15 tuổi).
• Anh chị em thường là “người lớn” quan trọng nhất trong cuộc đời một người trẻ.
• Ở Myanmar, thanh niên đi xa - làng chỉ có con nít và người già.
• # 11: bạn muốn nói gì khi nói đến một gia đình truyền thống? Nên giải thích thuật ngữ này.
◦ Có phải nó có nghĩa là gia đình hạt nhân? Một gia đình rộng lớn hơn? Một gia đình với một người đàn ông đứng đầu?
◦ Điều này có phát xuất từ bối cảnh châu Phi, nơi nó có nghĩa là gia đình mở rộng?
◦ Có phải nó đang được sử dụng để phản đối các gia đình “phi truyền thống” không?
◦ Cha mẹ đơn độc? Bà nội bà ngoại?
• Giáo hội có thể cung cấp những gì còn thiếu trong gia đình - cần một mô thức (modus), có lẽ thêm vào # 12
• gia đình kết hôn hỗn hợp và sự chuyển giao (transmission) gia đình - không hề được đề cập
14 & 15: các mối liên hệ liên thế hệ
• Đức Giáo Hoàng Phanxicô coi tuổi trẻ và người già cả hai như bị “vứt bỏ”. Chúng ta cần tìm cách mang họ lại với nhau. Việc này có lợi cho cả hai phía.
• Thường thì tuổi trẻ có mối liên hệ tốt với người lớn tuổi hơn, họ gặp khó khăn với nhóm 40-60. Thế hệ già hơn dường như là thế hệ lắng nghe tốt hơn. Trong đời sống tôn giáo, một cộng đồng đặc thù luôn bao gồm các chị em lớn tuổi hơn vì họ là những người ngồi đó và lắng nghe.
• Kinh nghiệm của người trẻ: mối liên hệ với người lớn tuổi sẽ tốt khi lớp người lớn tuổi này nhìn nhận nhu cầu và có khả năng lắng nghe người trẻ. Bất kể tuổi tác, khả năng có đối thoại và trò chuyện là chìa khóa cho mối liên hệ liên thế hệ tốt đẹp.
• Trong bối cảnh châu Á, một giám mục nói rằng ngài chưa bao giờ thấy những căn nhà dành cho người cao niên. Những người lớn tuổi hơn được "nhận nuôi" trong các gia đình.
• Ở châu Âu, không có ai bắc cầu giữa người già và người trẻ. Mỗi phía dường như cô lập đối với nhau.
• Ở Nam Phi, thường có một bà ngoại hay bà nội thay thế cha mẹ (có lẽ cha mẹ đã chết). Các bà ngoại bà nội này thường nói rằng họ không được đánh giá cao bất chấp các hy sinh của họ.
• Tại Kerala, nhà dành cho tuổi già thường được áp đặt bởi nhu cầu liên quan đến việc làm (ví dụ: công nhân di dân không thể ở gần cha mẹ).
16-18: Các lựa chọn đời sống
• điều này nghe có vẻ giống như ngôn ngữ của một cuốn sách giáo dục, mà không nhắc nhiều đến Thiên Chúa
• không đề cập gì đến sự can thiệp của Thiên Chúa trong đời sống tuổi trẻ
• không lắng nghe Thiên Chúa trong việc thực hiện các lựa chọn của đời sống
19-21: Giáo dục
• Ở Myanmar, trẻ em thường phải làm việc để nuôi sống gia đình, vì vậy chúng không được học hành.
• Zimbabwe: Các tôn giáo khác đang tối đa hóa giáo dục. Những người không có khả năng trả học phí được nhử vào các trường học qua ngả trả học phí. Các trường Công Giáo của chúng ta đã trở nên học thuật nhiều hơn và là nơi để đào tạo theo triết lý sống Công Giáo.
• Nigeria: Trong khi lớn lên, cha mẹ học miễn phí, nhưng nhiều người không thể đi học vì nó quá đắt. Giáo hội có thể làm cho các trường Công Giáo có học phí phải chăng không? Hoặc gây quỹ cho những người không thể trả học phí? Cho những người không có đầu óc học thuật nhưng có kỹ năng. Các giáo hội Ngũ Tuần trả tiền cho các dịch vụ đòi phải có kỹ năng - họ hứa việc làm, chỗ ở, thực phẩm, một nơi để phát triển và bán kỹ năng (nên họ nhận cả việc thiện nguyện vì nhiều lợi ích khác). Các trường Công Giáo được xây bằng các đóng góp của tín hữu, nhưng chỉ các trẻ em của giới ưu tú mới có thể học ở những trường đó.
• Đức thượng phụ: giáo dục có thể được sử dụng để cổ vũ một hình thức thao túng, và về phương diện hoàn cầu, chúng ta đang thấy điều này - giáo dục bị biến thành dụng cụ để thao túng con người ngày nay - vì vậy chúng ta thấy xu hướng loại trừ sự hiện diện của giáo hội
• không hề nhắc đến việc chăm sóc mục vụ và hướng dẫn tâm linh như một phần của bối cảnh đào tạo; có thể đề cập đến các ban tuyên úy hay không, ví dụ: các trung tâm Newman (xem 147-148)
• Các trường học tại nhà - một mô hình phát xuất từ Mỹ.
◦ Hoa Kỳ có nhiều trẻ học tại nhà – các giám mục ở Hoa Kỳ không thống nhất, vì việc học ở nhà có thể có cơ sở ý thức hệ - trẻ em có thể có các nhu cầu đặc biệt
◦ các cha mẹ có đủ tư cách để dạy con cái ở nhà hay không?
23: Việc làm và nghề nghiệp
• cũng có thể liên quan đến rất nhiều cuộc di dân nội bộ
• phong trào thiện nguyện cần được bao gồm như một chủ đề, vì một số người phụ thuộc vào những gì họ nhận được từ phong trào thiện nguyện - việc thiện nguyện trong giáo hội phải sinh hoa trái trong giáo hội
26: Kinh nghiệm và các loại ngôn ngữ
• Ngôn ngữ thực sự không được đề cập ở đây! Chúng tôi sẽ gọi đó là trải nghiệm và các hình thức diễn đạt
28: Dấn thân và tham gia xã hội
• Trong khi người trẻ có thể thấy các thất bại về phía tiên tri của Giáo Hội, một cách tích cực hơn họ muốn thấy giáo hội như nơi chốn của trung thực, an toàn, và không thiên vị
29-30: Linh đạo và lòng sùng đạo
• Chúa Thánh Thần không hề được nhắc đến - điều này có phản ánh thực tại hay không? Một “modus” (mô thức?) có nên được đặt ở nơi khác trong tài liệu không? - ở Indonesia Chúa Thánh Thần nên được đề cập - những phong trào mới mạnh mẽ nhắc đến Chúa Thánh Thần - cần một “modus” cho phần này
• không đề cập đến các phái tôn giáo hay bán tôn giáo
• cũng nên nói đến cách tìm được sự tự thể hiện chính bản thân mình về phương diện tâm lý học
• Chúa Giêsu là một nhà ảo thuật? mối liên hệ có tính mê tín với Người?
• Tìm ở đâu chỗ đứng của phụng vụ trong phần nói đến linh đạo và tôn giáo?
31-33: Người trẻ trong đời sống Giáo Hội
• khó tìm được không gian vì những người khác không dành chỗ cho họ
• giáo hội như một trường dạy việc làm môn đệ (cần một mô-thức có tính quy tắc sau này)
34-35: lục địa kỹ thuật số
• hãy nhớ rằng nhiều người trẻ không có khả năng truy cập internet!
• môi trường kỹ thuật số cho phép xiết bao các dạng phát biểu mới như trò chuyện, nhóm trực tuyến, nhắn tình (sexting)
• các phương tiện này có cho phép gặp gỡ những người mới và thực hiện các kết nối mới, tức sự đa dạng? hay chúng chỉ được sử dụng để tăng lực cho các tình bạn đã có, tức y như cũ (sameness)? sự y như cũ có thể cho phép một cuộc tiếp xúc đa dạng khi có sự quan tâm chung
63: Bên kia việc thế tục hóa
• Nghe thấy người trẻ là người tâm linh chứ không phải người tôn giáo – tâm linh không chỉ ở trong Giáo Hội mà ở cả trong xã hội nữa. Việc thế tục hóa không phải là điều chúng ta nên phản đối.
36-38: Âm nhạc và các hình thức diễn đạt nghệ thuật khác
• Cần đề cập đến Truyền Hình, Video và các trò chơi video
• Cần phân biệt người sản xuất và người tiêu dùng
39-40: Thế giới thể thao
• Vincent: những người lưu ý tới các nhân vật thể thao được coi như những người lãng phí thời gian của mình; nhưng giờ đây các giáo hội thệ phản đang thành lập các câu lạc bộ thể thao cho các thành viên của họ, được sử dụng như một hình thức cải đạo.
• Đánh cá: cờ bạc trên các môn thể thao
• Video chơi xì phé, các trò chơi đánh cá điện tử khác
• Sử dụng các môn thể thao để xây dựng nhân cách và xây dựng tinh thần đồng đội – MỘT “MODUS” SẼ ĐƯỢC THỰC HIỆN
• Các môn thể thao chuyên nghiệp như các đấu sĩ mới - khai thác những người có tài năng từ các quốc gia nghèo hơn
• Những người thích phối hợp các hoạt động thể lý và tinh thần, như: yoga - không có chỗ đứng trong giáo hội nào dành cho điều này
• Đức Hồng Y Coutts muốn được thấy một đoạn nói về thể thao như một điều vui chơi
Chương III - Trong nền văn hóa vứt bỏ
45-47: Thanh niên di dân
• cần chú ý đặc biệt đến những người trong các trại tị nạn
• Giám mục Myanmar: những người di tản nội bộ cũng nên được đưa vào; nó không hoàn toàn cùng là một việc y như nhau
48: Các nguồn kỳ thị khác nhau
• chúng ta nên thêm vị thế pháp lý và quốc tịch như một nguồn kỳ thị
• chúng ta nên thêm tuổi trẻ khuyết tật như một nguồn kỳ thị
Chương IV – Các thách thức nhân học và văn hóa
52-53: Cơ thể, cảm giới và tính dục
• Chúng ta nên đề cập đến chủ nghĩa nhân biến (transhumanism)
• cần phải thêm việc phẫu thuật thẩm mỹ vào khái niệm (“modus” đã gửi đi)
• chúng ta cần đảm bảo biết rõ ràng rằng những người trẻ không đồng ý với giáo hội về tình dục vẫn là thành viên của giáo hội
• “kinh nghiệm cực độ” có nghĩa là gì? thể thao cực độ? hoạt động tình dục cực độ? Ma túy cực độ? cũng cần phải đề cập đến áp lực xã hội
58-60: Không đồng tình với các định chế
• tại sao quá ít nhắc đến các hình thức tham gia mới? chẳng hạn như các mạng lưới hỗ trợ xã hội?
61: Tê liệt ra quyết định, vv
• Tiêu đề phải được làm cho rõ hơn để cho thấy nó phản ánh các quyết định dài hạn. Không có sự tê liệt đối với các quyết định ngắn hạn.
Chương V Tiêu đề
• Chương này không chỉ là về việc lắng nghe, vì vậy tiêu đề cần được sửa đổi
65: Việc khó lắng nghe
• Vấn đề không chỉ là lắng nghe người trẻ; nhiều người muốn Giáo hội lắng nghe!
• Làm thế nào chúng ta có thể tạo ra một nền văn hóa lắng nghe trong Giáo Hội?
• Chúng ta cần lắng nghe để dấn thân – bố trí "lắng nghe ra sao" cho một phần sau này, ví dụ: lắng nghe một cách tương cảm, mà chúng ta đã làm nhưng có thể làm nhiều hơn
• Thầy Alois: "lắng nghe với nhân loại" là điều người ta thấy rất nhiều ở Taizé - chúng ta có thể có một "thừa tác vụ lắng nghe" không?
Đón đọc: Phúc Trình của nhóm D nói tiếng Anh
Hai Giám Mục Trung Quốc tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên sẽ ra về trước khi các nghị phụ bỏ phiếu
Đặng Tự Do
16:18 10/10/2018
Vatican đã xác nhận rằng hai giám mục Trung Quốc đang tham dự lần đầu tiên Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ trở về nhà trước khi các nghị phụ thảo ra kết luận cuối cùng của các ngài và trình lên Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Bộ trưởng bộ truyền thông của Vatican, ông Paolo Ruffini, cho biết hôm thứ Tư 10/10 rằng “không có gì đáng ngạc nhiên” về sự ra về sớm của Giám mục Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình (Yang Xiaoting -楊曉亭)của Diên An, và Giám mục Giuse Quách Kim Tài (Guo Jincai - 郭金才) của Thừa Đức. Ông cho biết đã biết hai người có những công việc khác nên phải cắt ngắn sự tham gia của họ.
Đức Thánh Cha Phanxicô tỏ ra nghẹn ngào khi thông báo về sự hiện diện của hai Giám Mục Trung Quốc vào ngày đầu tiên của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên, mô tả sự hiện diện của họ như hoa trái tỏ tường đầu tiên của thỏa hiệp ngày 22 tháng 9 liên quan đến việc bổ nhiệm các giám mục nhằm chấm dứt nhiều thập kỷ căng thẳng giữa Rôma và Bắc Kinh.
Bất kể thái độ và những tuyên bố bất phục tùng Tòa Thánh trước đây của hai vị, các vị Giám Mục Trung Quốc này đã được đối xử như những vị khách quý tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên.
Cả hai người từ lâu đã là những người thực thi ngoan ngoãn các mệnh lệnh của chính quyền Trung Quốc. Quách Kim Tài là một trong bảy người còn sống được tha vạ tuyệt thông – và cũng là tổng thư ký của cái gọi là Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc, do Hội Công Giáo Yêu Nước dựng lên. Quách Kim Tài còn là Phó Chủ Tịch Hội Công Giáo Yêu Nước của “giáo hoàng đen” Lưu Bách Niên.
Cha Raymond de Souza, tổng biên tập tờ Convivium, ghi nhận rằng nhiều người cảm thấy bối rối trước việc đảng cộng sản Trung Quốc có quyền bổ nhiệm nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Vatican.
Trong bài “Who appointed the Youth Synod’s Chinese bishops” – (“Ai đã bổ nhiệm các nghị phụ Trung Quốc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên”), đăng trên tờ Catholic Herald, cha Raymond cho biết:
“Các nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục ở Rôma được bổ nhiệm bằng nhiều cách khác nhau. Hội Đồng Giám Mục của các quốc gia bầu các đại biểu giám mục của mình; một số quan chức trong giáo triều Rôma [lãnh đạo các bộ và các cơ quan ngang bộ\ đương nhiên là nghị phụ; các Giáo hội Đông phương cũng được chỉ định các đại diện của họ; và Đức Thánh Cha cũng có thể mời thêm một số vị khác.”
“Giáo luật và cả Tông Hiến [Episcopalis Communio] nhằm mở rộng quyền hạn và thẩm quyền của Thượng Hội Đồng Giám Mục, được Đức Thánh Cha công bố cách đây vài tuần cũng không bao gồm bất kỳ điều khoản nào cho phép đảng cộng sản Trung Quốc được bổ nhiệm nghị phụ tại Thượng Hội Đồng Giám Mục. Nhưng mọi thứ đang thay đổi nhanh chóng ở Rôma.”
Source: AP - 2 Chinese bishops to return early from Vatican meeting
Bộ trưởng bộ truyền thông của Vatican, ông Paolo Ruffini, cho biết hôm thứ Tư 10/10 rằng “không có gì đáng ngạc nhiên” về sự ra về sớm của Giám mục Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình (Yang Xiaoting -楊曉亭)của Diên An, và Giám mục Giuse Quách Kim Tài (Guo Jincai - 郭金才) của Thừa Đức. Ông cho biết đã biết hai người có những công việc khác nên phải cắt ngắn sự tham gia của họ.
Đức Thánh Cha Phanxicô tỏ ra nghẹn ngào khi thông báo về sự hiện diện của hai Giám Mục Trung Quốc vào ngày đầu tiên của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên, mô tả sự hiện diện của họ như hoa trái tỏ tường đầu tiên của thỏa hiệp ngày 22 tháng 9 liên quan đến việc bổ nhiệm các giám mục nhằm chấm dứt nhiều thập kỷ căng thẳng giữa Rôma và Bắc Kinh.
Bất kể thái độ và những tuyên bố bất phục tùng Tòa Thánh trước đây của hai vị, các vị Giám Mục Trung Quốc này đã được đối xử như những vị khách quý tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên.
Cả hai người từ lâu đã là những người thực thi ngoan ngoãn các mệnh lệnh của chính quyền Trung Quốc. Quách Kim Tài là một trong bảy người còn sống được tha vạ tuyệt thông – và cũng là tổng thư ký của cái gọi là Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc, do Hội Công Giáo Yêu Nước dựng lên. Quách Kim Tài còn là Phó Chủ Tịch Hội Công Giáo Yêu Nước của “giáo hoàng đen” Lưu Bách Niên.
Cha Raymond de Souza, tổng biên tập tờ Convivium, ghi nhận rằng nhiều người cảm thấy bối rối trước việc đảng cộng sản Trung Quốc có quyền bổ nhiệm nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Vatican.
Trong bài “Who appointed the Youth Synod’s Chinese bishops” – (“Ai đã bổ nhiệm các nghị phụ Trung Quốc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên”), đăng trên tờ Catholic Herald, cha Raymond cho biết:
“Các nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục ở Rôma được bổ nhiệm bằng nhiều cách khác nhau. Hội Đồng Giám Mục của các quốc gia bầu các đại biểu giám mục của mình; một số quan chức trong giáo triều Rôma [lãnh đạo các bộ và các cơ quan ngang bộ\ đương nhiên là nghị phụ; các Giáo hội Đông phương cũng được chỉ định các đại diện của họ; và Đức Thánh Cha cũng có thể mời thêm một số vị khác.”
“Giáo luật và cả Tông Hiến [Episcopalis Communio] nhằm mở rộng quyền hạn và thẩm quyền của Thượng Hội Đồng Giám Mục, được Đức Thánh Cha công bố cách đây vài tuần cũng không bao gồm bất kỳ điều khoản nào cho phép đảng cộng sản Trung Quốc được bổ nhiệm nghị phụ tại Thượng Hội Đồng Giám Mục. Nhưng mọi thứ đang thay đổi nhanh chóng ở Rôma.”
Source: AP - 2 Chinese bishops to return early from Vatican meeting
Tòa án tối cao Pakistan giữ nguyên án tử hình người phụ nữ Công Giáo bị cáo buộc phạm thượng
Đặng Tự Do
16:50 10/10/2018
Tòa án tối cao Pakistan được tường thuật là đã giữ nguyên phán quyết của tòa dưới đối với trường hợp của Asia Bibi, một phụ nữ Công Giáo bị kết án tử hình vì tội phỉ báng tiên tri Muhammad. Báo chí tại Pakistan cho biết như thế hôm thứ Hai.
Hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán đã được triệu tập theo lời thỉnh cầu cuối cùng của Bibi nhằm chống lại phán quyết được đưa ra vào năm 2010. Hội đồng xét xử đã đưa ra phán quyết nhưng từ chối công bố quyết định của họ, và không biết khi nào họ mới công bố quyết định sau cùng này.
Cho đến nay người ta vẫn chưa được biết lý do của sự chậm trễ này.
Năm 2009, Bibi bị buộc tội đưa ra những nhận xét phỉ báng tiên tri Hồi giáo Muhammad sau một cuộc tranh luận bắt nguồn từ một ly nước. Bibi đang thu hoạch quả dâu với các công nhân nông trại khác khi được yêu cầu đi lấy nước từ giếng.
Một người nhìn thấy cô uống nước từ một cái ly mà trước đó đã được những người Hồi giáo sử dụng. Người ấy nói với Bibi rằng một Kitô hữu không thể sử dụng chung một ly nước với người Hồi Giáo, vì Kitô hữu là người ô uế. Một cuộc cãi vã xảy ra sau đó, và năm ngày sau đó người ta báo cáo với một giáo sĩ Hồi giáo rằng Bibi đã phỉ báng Muhammad. Bibi và gia đình cô là những Kitô hữu duy nhất trong khu vực, và đã phải đối mặt với những áp lực buộc cải đạo sang Hồi giáo.
Cô bị kết tội phạm tội phạm thượng vào năm 2010, và bị kết án tử hình bằng cách treo cổ. Cô kháng cáo ngay lập tức. Tòa án Tối cao Lahore đã y án vào năm 2014, sau đó cô đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao của Pakistan. Tòa án tối cao đã đồng ý nghe kháng cáo của cô vào năm 2015 nhưng khất lần hẹn nữa cho đến nay mới xử.
Kể từ khi bị bắt giữ, Bibi đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới kêu gọi trả tự do ngay lập tức cho cô, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 và Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào năm 2015, Đức Phanxicô đã tiếp chồng và con gái cô và cầu nguyện cho cô.
Ở Pakistan, những người Hồi giáo cứng rắn đã kêu gọi tử hình cô ngay từ khi cô bị kết tội lần đầu. Thủ tướng Pakistan Imran Khan nói rằng ông ủng hộ các luật chống báng bổ khắc nghiệt của quốc gia này.
Nếu Tòa án tối cao Pakistan giữ nguyên phán quyết của tòa dưới như báo chí Pakistan tường thuật, Bibi sẽ trở thành người đầu tiên ở Pakistan bị tử hình vì tội phỉ báng.
Luật phỉ báng của Pakistan áp đặt hình phạt nghiêm khắc đối với những người xúc phạm Kinh Qur'an hoặc phỉ báng Muhammad. Hồi giáo là quốc giáo của Pakistan, và khoảng 97% dân số là người Hồi giáo.
Mặc dù chính phủ chưa bao giờ hành quyết một người bị cáo buộc báng bổ, nhưng không phải vì họ nhân nhượng với luật này. Đa số các nạn nhân bị cáo buộc phỉ báng Hồi Giáo bị đánh chết ngay tại chỗ hay bị sát hại trong nhà giam.
Source: Catholic Herald Pakistani Supreme Court reserves judgement on Asia Bibi blasphemy case
Hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán đã được triệu tập theo lời thỉnh cầu cuối cùng của Bibi nhằm chống lại phán quyết được đưa ra vào năm 2010. Hội đồng xét xử đã đưa ra phán quyết nhưng từ chối công bố quyết định của họ, và không biết khi nào họ mới công bố quyết định sau cùng này.
Cho đến nay người ta vẫn chưa được biết lý do của sự chậm trễ này.
Năm 2009, Bibi bị buộc tội đưa ra những nhận xét phỉ báng tiên tri Hồi giáo Muhammad sau một cuộc tranh luận bắt nguồn từ một ly nước. Bibi đang thu hoạch quả dâu với các công nhân nông trại khác khi được yêu cầu đi lấy nước từ giếng.
Một người nhìn thấy cô uống nước từ một cái ly mà trước đó đã được những người Hồi giáo sử dụng. Người ấy nói với Bibi rằng một Kitô hữu không thể sử dụng chung một ly nước với người Hồi Giáo, vì Kitô hữu là người ô uế. Một cuộc cãi vã xảy ra sau đó, và năm ngày sau đó người ta báo cáo với một giáo sĩ Hồi giáo rằng Bibi đã phỉ báng Muhammad. Bibi và gia đình cô là những Kitô hữu duy nhất trong khu vực, và đã phải đối mặt với những áp lực buộc cải đạo sang Hồi giáo.
Cô bị kết tội phạm tội phạm thượng vào năm 2010, và bị kết án tử hình bằng cách treo cổ. Cô kháng cáo ngay lập tức. Tòa án Tối cao Lahore đã y án vào năm 2014, sau đó cô đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao của Pakistan. Tòa án tối cao đã đồng ý nghe kháng cáo của cô vào năm 2015 nhưng khất lần hẹn nữa cho đến nay mới xử.
Kể từ khi bị bắt giữ, Bibi đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới kêu gọi trả tự do ngay lập tức cho cô, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 và Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào năm 2015, Đức Phanxicô đã tiếp chồng và con gái cô và cầu nguyện cho cô.
Ở Pakistan, những người Hồi giáo cứng rắn đã kêu gọi tử hình cô ngay từ khi cô bị kết tội lần đầu. Thủ tướng Pakistan Imran Khan nói rằng ông ủng hộ các luật chống báng bổ khắc nghiệt của quốc gia này.
Nếu Tòa án tối cao Pakistan giữ nguyên phán quyết của tòa dưới như báo chí Pakistan tường thuật, Bibi sẽ trở thành người đầu tiên ở Pakistan bị tử hình vì tội phỉ báng.
Luật phỉ báng của Pakistan áp đặt hình phạt nghiêm khắc đối với những người xúc phạm Kinh Qur'an hoặc phỉ báng Muhammad. Hồi giáo là quốc giáo của Pakistan, và khoảng 97% dân số là người Hồi giáo.
Mặc dù chính phủ chưa bao giờ hành quyết một người bị cáo buộc báng bổ, nhưng không phải vì họ nhân nhượng với luật này. Đa số các nạn nhân bị cáo buộc phỉ báng Hồi Giáo bị đánh chết ngay tại chỗ hay bị sát hại trong nhà giam.
Source: Catholic Herald Pakistani Supreme Court reserves judgement on Asia Bibi blasphemy case
Thượng Hội Đồng về Tuổi Trẻ: Phúc Trình của nhóm D nói tiếng Anh
Vũ Văn An
18:06 10/10/2018
Phúc Trình của Nhóm D nói tiếng Anh
Nhóm D nói tiếng Anh đặt dưới sự điều hợp của Đức Hồng Y Daniel N. DiNARDO với Đức Cha Robert Emmet BARRON làm phúc trình viên. Sau đây là nguyên văn bản Phúc Trình:
Thực là một đặc ân cho tôi được phúc trình thay mặt cho nhóm nhỏ nói tiếng Anh “D”, một cộng đồng những người nói tiếng Anh cực kỳ đa dạng và sống động từ khắp nơi trên thế giới. Để ngắn gọn, tôi sẽ làm nổi bật bảy chủ đề từ cuộc mạn đàm có phạm vi hết sức rộng lớn.
Thứ nhất, nhóm chúng tôi mạnh mẽ đồng thuận rằng tài liệu nên bắt đầu, không phải bằng một phân tích xã hội học, mà đúng hơn bằng một hình tượng Thánh Kinh có thể dùng như một chủ đề quán xuyến (leitmotif) cho toàn bộ tài liệu. Chúng tôi cảm thấy câu truyện về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Emmaus — đã được nhắc đến trong Tài Liệu Làm Việc — sẽ là sự lựa chọn lý tưởng, vì nó trình bầy một cách đẹp đẽ Chúa Giêsu trong cả cách lắng nghe và giảng dạy của Người. Hơn nữa, hình ảnh của các môn đệ — vẫn còn được Chúa lôi cuốn ấy thế nhưng lại lang thang theo hướng sai lầm — mô tả rất thích đáng tình trạng của nhiều người trẻ ngày nay. Một khi hình tượng trau chuốt đã được định vị, chúng ta sẽ cảm thấy khuôn khổ diễn giải tổng thể “xem, xét và hành động” của Tài Liệu Làm Việc nên được duy trì.
Thứ hai, nhóm chúng tôi có một cảm thức mạnh mẽ rằng phần mở đầu của Tài Liệu Làm Việc quá tiêu cực trong âm điệu, vì tập trung quá mức vào các nguy hiểm và thách thức mà những người trẻ phải đương đầu, đặc biệt về phương diện đức tin. Chúng tôi tự hỏi liệu có nên nhấn mạnh nhiều hơn tới nhiều điển hình về những người trẻ đang hân hoan sống thực đạo Công Giáo của họ, bất chấp các khó khăn của thời điểm văn hóa này. Có gợi ý cho rằng Ngày Giới Trẻ Thế Giới vẫn còn hết sức thành công, do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khai mở, là một trong những dấu hiệu chính của việc dấn thân tích cực của người trẻ.
Một chủ đề thứ ba, được nhiều vị trong nhóm của chúng tôi đưa ra, đó là bản văn của Tài Liệu Làm Việc, xét theo nhiều cách, vẫn còn quá phương Tây về trọng tâm và âm điệu. Chuyên biệt hơn, nó đã bỏ qua tình hình của những người trẻ ở những nơi trên thế giới trong đó các Kitô hữu bị bách hại thực sự và, theo nghĩa đen, đang chiến đấu cho mạng sống của họ. Và nó không xét đến các cuộc đấu tranh của những người ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba, nơi sự hỗ trợ về kinh tế và y tế của các quốc gia giàu có hơn thường bị liên kết với sự phục tùng các giá trị đạo đức phương Tây liên quan đến tính dục và hôn nhân. Chính sách thực dân ý thức hệ này, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chính xác mô tả, làm hại người trẻ một cách đặc biệt. Ngoài ra, việc quảng cáo hiện thời, một quảng cáo dạy người ta đừng hài lòng với hàng hóa họ hiện có, đóng góp mạnh mẽ vào nền văn hóa vứt bỏ, từng bị Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên án. Động lực này đặc biệt có tính phá hoại ở các nước nghèo hơn.
Một chủ đề thứ tư của Tài Liệu Làm Việc gây âm hưởng đặc biệt nơi nhóm của chúng tôi là chủ đề làm cha làm mẹ tinh thần. Nhiều vị nghĩ rằng hình ảnh này diễn tả một cách nên thơ những gì người trẻ muốn và mong đợi từ Giáo Hội. Họ muốn có những nhà dìu dắt, hướng dẫn viên, bạn bè tâm linh sẵn lòng cùng đi với họ. Đặc biệt là tại thời điểm này, ít nhất là ở phương Tây, khi gia đình đang bị khủng hoảng, mối liên hệ đáng tin cậy giữa người trẻ và các người mẹ và người cha trong trật tự tâm linh là điều rất quan trọng. Một trong các thành viên châu Phi trong nhóm của chúng tôi nhắc nhở chúng tôi rằng trong nhiều ngôn ngữ châu Phi, không có các từ ngữ chỉ anh em họ hoặc chú hoặc dì vì mọi người trong gia đình đều được coi là anh chị em. Cùng một sự hiệp nhất và kết nối này phải đánh dấu đời sống của Giáo Hội.
Thứ năm, chúng tôi tập chú vào sự thịnh hành và ảnh hưởng của nền văn hóa kỹ thuật số. Trước tiên, chúng tôi muốn đưa ra một nhận xét về văn phong như sau: thực tại kỹ thuật số được thảo luận, đây đó, trong nhiều tiết của phần đầu. Thiển nghĩ sẽ là điều khôn ngoan khi đem tất cả vào một tựa đề. Về mặt nội dung, chúng tôi hoàn toàn nhất trí cho rằng các phương tiện truyền thông xã hội đem lại cả ánh sáng lẫn bóng tối vào đời sống của người trẻ và Tài Liệu Làm Việc đã chính xác chỉ ra điều này. Hai nhận xét đặc thù của nhóm chúng tôi đặc biệt hữu ích ở đây. Một mặt, sự đắm chìm vào thế giới ảo đã tạo ra một loại “di dân kỹ thuật số”, có thể nói, một cuộc lang thang xa rời các giá trị gia đình, văn hóa và tôn giáo để đi vào một thế giới riêng tư và tự sáng chế ra mình. Nhiều di dân cảm thấy bị bứng gốc khỏi ngôi nhà tâm linh của họ thế nào, thì rất nhiều người trẻ ở phương Tây cũng có thể trải nghiệm cùng một loại bứng gốc như thế, ngay cả khi họ vẫn còn hiện diện tại chỗ về phương diện thể lý.
Thứ sáu, chúng tôi đã dành rất nhiều thì giờ để thảo luận về cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục trong Giáo hội, đặc biệt liên quan đến các hậu quả của nó đối với việc phúc âm hóa giới trẻ. Như đã hiển nhiên đối với mọi người, tai tiếng này đã làm suy yếu công việc của Giáo Hội gần như về mọi phương diện, chính xác vì nó đã làm tổn hại đến tính khả tín của chúng ta. Một Giáo Hội không thể được tin cậy thì đơn giản không thể tiếp cận người trẻ một cách hữu hiệu. Dù một số thành viên trong nhóm thảo luận của chúng tôi cảm thấy vấn đề này nên được đề cập ngay ở đầu tài liệu, nhưng chúng tôi đồng thuận rằng nó nên tiếp tục ở lại đoạn sáu mươi sáu, nhưng nên được mở rộng một cách đáng kể. Thí dụ, dù chúng ta nhìn nhận sự hối hận và cảm giác tội lỗi của chúng ta về vấn đề này, nhưng nên nhắc đến các biện pháp rất tích cực và hữu hiệu mà Giáo Hội đã thực hiện từ năm 2002 để giải quyết vấn đề này một cách cụ thể. Và chúng ta nên minh xác rằng cam kết cải tổ, cả trong hai vấn đề tính dục và tài chính, đang có tác dụng ở mọi bình diện của đời sống Giáo Hội. Liên quan đến việc này, chúng ta phải nói rõ sự hiểu biết của Giáo Hội về các giới hạn của cơ thể và tính dục, nhưng chúng ta không nên ngần ngại sử dụng ngôn ngữ của truyền thống thần học, bao gồm cả cơ thể và linh hồn, kêu gọi giữ nhân đức, và lý tưởng khiết tịnh. Nhiều vị bày tỏ lo ngại rằng thuật ngữ của Tài Liệu Làm Việc trong lĩnh vực này bị ảnh hưởng quá rõ ràng của các phạm trù tâm lý học đương thời.
Thứ bảy và cuối cùng, chúng tôi đã có một cuộc thảo luận đặc biệt hăng say xung quanh vấn đề phức tạp là sự tương tác giữa việc lắng nghe và giảng dạy trong đời sống Giáo Hội. Một số thành viên trong nhóm của chúng tôi tự hỏi liệu sự nhấn mạnh của Tài Liệu Làm Việc đối với việc lắng nghe có gây hại hay xem nhẹ sứ mệnh giảng dạy chân chính của Giáo Hội hay không. Có nhận xét cho rằng nhiều người trẻ ngày nay, giữa nền văn hóa hậu hiện đại quá chịu ảnh hưởng của các chủ thuyết duy tương đối và thờ ơ, đang mong đợi sự rõ ràng và đáng tin của học thuyết Giáo Hội. Nhiều vị khác nhấn mạnh rằng việc nhấn mạnh tới lắng nghe và và tính tương quan là điều không thể thiếu vì xét cho cùng không có học thuyết nào, dù đẹp và đúng đến đâu, mà được chấp nhận trừ khi nó phát xuất từ một nguồn đáng tin cậy. Một thành viên nhận xét rằng tư cách làm mẹ của Giáo Hội là một hình ảnh hữu ích về phương diện này, miễn là chúng ta nhớ rằng cách thức mà một người mẹ dạy đứa con nhỏ của bà hoàn toàn khác với cách thức bà dạy đứa con đã trưởng thành. Một trong các vị cao niên hơn trong nhóm của chúng tôi nhấn mạnh rằng chúng ta nên ra khỏi bất cứ cách hiểu đối kháng nhau nào về mối liên hệ giữa lắng nghe và giảng dạy như thể hai việc này ở thế căng thẳng và cạnh tranh nhau. Thay vào đó, ngài nhấn mạnh, chúng là những khoảnh khắc gợi ý lẫn nhau trong bất cứ cuộc đàm đạo mang tính xây dựng nào. Một nhận xét đặc biệt thu hút sự chú ý của nhóm chúng tôi là, khi nói về một Giáo Hội lắng nghe người trẻ, Tài Liệu Làm Việc vô tình đã đặt giới trẻ phần nào ra ngoài Giáo Hội. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng họ đang được lắng nghe, chính trong tư cách chi thể của Nhiệm Thể.
Như lời kết luận, tôi xin đề cập việc này, cùng với trình thuật Kinh Thánh về các môn đệ trên đường Emmaus, hình ảnh trái tim bồn chồn do Thánh Augustine đề xuất từ lâu vẫn còn hấp dẫn đối với những người trẻ ngày nay. Chúng ta có thể sử dụng nó như một chủ đề quán xuyến khác trong suốt tài liệu.
Đón đọc: Phúc Trình của Nhóm A nói tiếng Pháp
Nhóm D nói tiếng Anh đặt dưới sự điều hợp của Đức Hồng Y Daniel N. DiNARDO với Đức Cha Robert Emmet BARRON làm phúc trình viên. Sau đây là nguyên văn bản Phúc Trình:
Thực là một đặc ân cho tôi được phúc trình thay mặt cho nhóm nhỏ nói tiếng Anh “D”, một cộng đồng những người nói tiếng Anh cực kỳ đa dạng và sống động từ khắp nơi trên thế giới. Để ngắn gọn, tôi sẽ làm nổi bật bảy chủ đề từ cuộc mạn đàm có phạm vi hết sức rộng lớn.
Thứ nhất, nhóm chúng tôi mạnh mẽ đồng thuận rằng tài liệu nên bắt đầu, không phải bằng một phân tích xã hội học, mà đúng hơn bằng một hình tượng Thánh Kinh có thể dùng như một chủ đề quán xuyến (leitmotif) cho toàn bộ tài liệu. Chúng tôi cảm thấy câu truyện về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Emmaus — đã được nhắc đến trong Tài Liệu Làm Việc — sẽ là sự lựa chọn lý tưởng, vì nó trình bầy một cách đẹp đẽ Chúa Giêsu trong cả cách lắng nghe và giảng dạy của Người. Hơn nữa, hình ảnh của các môn đệ — vẫn còn được Chúa lôi cuốn ấy thế nhưng lại lang thang theo hướng sai lầm — mô tả rất thích đáng tình trạng của nhiều người trẻ ngày nay. Một khi hình tượng trau chuốt đã được định vị, chúng ta sẽ cảm thấy khuôn khổ diễn giải tổng thể “xem, xét và hành động” của Tài Liệu Làm Việc nên được duy trì.
Thứ hai, nhóm chúng tôi có một cảm thức mạnh mẽ rằng phần mở đầu của Tài Liệu Làm Việc quá tiêu cực trong âm điệu, vì tập trung quá mức vào các nguy hiểm và thách thức mà những người trẻ phải đương đầu, đặc biệt về phương diện đức tin. Chúng tôi tự hỏi liệu có nên nhấn mạnh nhiều hơn tới nhiều điển hình về những người trẻ đang hân hoan sống thực đạo Công Giáo của họ, bất chấp các khó khăn của thời điểm văn hóa này. Có gợi ý cho rằng Ngày Giới Trẻ Thế Giới vẫn còn hết sức thành công, do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khai mở, là một trong những dấu hiệu chính của việc dấn thân tích cực của người trẻ.
Một chủ đề thứ ba, được nhiều vị trong nhóm của chúng tôi đưa ra, đó là bản văn của Tài Liệu Làm Việc, xét theo nhiều cách, vẫn còn quá phương Tây về trọng tâm và âm điệu. Chuyên biệt hơn, nó đã bỏ qua tình hình của những người trẻ ở những nơi trên thế giới trong đó các Kitô hữu bị bách hại thực sự và, theo nghĩa đen, đang chiến đấu cho mạng sống của họ. Và nó không xét đến các cuộc đấu tranh của những người ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba, nơi sự hỗ trợ về kinh tế và y tế của các quốc gia giàu có hơn thường bị liên kết với sự phục tùng các giá trị đạo đức phương Tây liên quan đến tính dục và hôn nhân. Chính sách thực dân ý thức hệ này, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chính xác mô tả, làm hại người trẻ một cách đặc biệt. Ngoài ra, việc quảng cáo hiện thời, một quảng cáo dạy người ta đừng hài lòng với hàng hóa họ hiện có, đóng góp mạnh mẽ vào nền văn hóa vứt bỏ, từng bị Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên án. Động lực này đặc biệt có tính phá hoại ở các nước nghèo hơn.
Một chủ đề thứ tư của Tài Liệu Làm Việc gây âm hưởng đặc biệt nơi nhóm của chúng tôi là chủ đề làm cha làm mẹ tinh thần. Nhiều vị nghĩ rằng hình ảnh này diễn tả một cách nên thơ những gì người trẻ muốn và mong đợi từ Giáo Hội. Họ muốn có những nhà dìu dắt, hướng dẫn viên, bạn bè tâm linh sẵn lòng cùng đi với họ. Đặc biệt là tại thời điểm này, ít nhất là ở phương Tây, khi gia đình đang bị khủng hoảng, mối liên hệ đáng tin cậy giữa người trẻ và các người mẹ và người cha trong trật tự tâm linh là điều rất quan trọng. Một trong các thành viên châu Phi trong nhóm của chúng tôi nhắc nhở chúng tôi rằng trong nhiều ngôn ngữ châu Phi, không có các từ ngữ chỉ anh em họ hoặc chú hoặc dì vì mọi người trong gia đình đều được coi là anh chị em. Cùng một sự hiệp nhất và kết nối này phải đánh dấu đời sống của Giáo Hội.
Thứ năm, chúng tôi tập chú vào sự thịnh hành và ảnh hưởng của nền văn hóa kỹ thuật số. Trước tiên, chúng tôi muốn đưa ra một nhận xét về văn phong như sau: thực tại kỹ thuật số được thảo luận, đây đó, trong nhiều tiết của phần đầu. Thiển nghĩ sẽ là điều khôn ngoan khi đem tất cả vào một tựa đề. Về mặt nội dung, chúng tôi hoàn toàn nhất trí cho rằng các phương tiện truyền thông xã hội đem lại cả ánh sáng lẫn bóng tối vào đời sống của người trẻ và Tài Liệu Làm Việc đã chính xác chỉ ra điều này. Hai nhận xét đặc thù của nhóm chúng tôi đặc biệt hữu ích ở đây. Một mặt, sự đắm chìm vào thế giới ảo đã tạo ra một loại “di dân kỹ thuật số”, có thể nói, một cuộc lang thang xa rời các giá trị gia đình, văn hóa và tôn giáo để đi vào một thế giới riêng tư và tự sáng chế ra mình. Nhiều di dân cảm thấy bị bứng gốc khỏi ngôi nhà tâm linh của họ thế nào, thì rất nhiều người trẻ ở phương Tây cũng có thể trải nghiệm cùng một loại bứng gốc như thế, ngay cả khi họ vẫn còn hiện diện tại chỗ về phương diện thể lý.
Thứ sáu, chúng tôi đã dành rất nhiều thì giờ để thảo luận về cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục trong Giáo hội, đặc biệt liên quan đến các hậu quả của nó đối với việc phúc âm hóa giới trẻ. Như đã hiển nhiên đối với mọi người, tai tiếng này đã làm suy yếu công việc của Giáo Hội gần như về mọi phương diện, chính xác vì nó đã làm tổn hại đến tính khả tín của chúng ta. Một Giáo Hội không thể được tin cậy thì đơn giản không thể tiếp cận người trẻ một cách hữu hiệu. Dù một số thành viên trong nhóm thảo luận của chúng tôi cảm thấy vấn đề này nên được đề cập ngay ở đầu tài liệu, nhưng chúng tôi đồng thuận rằng nó nên tiếp tục ở lại đoạn sáu mươi sáu, nhưng nên được mở rộng một cách đáng kể. Thí dụ, dù chúng ta nhìn nhận sự hối hận và cảm giác tội lỗi của chúng ta về vấn đề này, nhưng nên nhắc đến các biện pháp rất tích cực và hữu hiệu mà Giáo Hội đã thực hiện từ năm 2002 để giải quyết vấn đề này một cách cụ thể. Và chúng ta nên minh xác rằng cam kết cải tổ, cả trong hai vấn đề tính dục và tài chính, đang có tác dụng ở mọi bình diện của đời sống Giáo Hội. Liên quan đến việc này, chúng ta phải nói rõ sự hiểu biết của Giáo Hội về các giới hạn của cơ thể và tính dục, nhưng chúng ta không nên ngần ngại sử dụng ngôn ngữ của truyền thống thần học, bao gồm cả cơ thể và linh hồn, kêu gọi giữ nhân đức, và lý tưởng khiết tịnh. Nhiều vị bày tỏ lo ngại rằng thuật ngữ của Tài Liệu Làm Việc trong lĩnh vực này bị ảnh hưởng quá rõ ràng của các phạm trù tâm lý học đương thời.
Thứ bảy và cuối cùng, chúng tôi đã có một cuộc thảo luận đặc biệt hăng say xung quanh vấn đề phức tạp là sự tương tác giữa việc lắng nghe và giảng dạy trong đời sống Giáo Hội. Một số thành viên trong nhóm của chúng tôi tự hỏi liệu sự nhấn mạnh của Tài Liệu Làm Việc đối với việc lắng nghe có gây hại hay xem nhẹ sứ mệnh giảng dạy chân chính của Giáo Hội hay không. Có nhận xét cho rằng nhiều người trẻ ngày nay, giữa nền văn hóa hậu hiện đại quá chịu ảnh hưởng của các chủ thuyết duy tương đối và thờ ơ, đang mong đợi sự rõ ràng và đáng tin của học thuyết Giáo Hội. Nhiều vị khác nhấn mạnh rằng việc nhấn mạnh tới lắng nghe và và tính tương quan là điều không thể thiếu vì xét cho cùng không có học thuyết nào, dù đẹp và đúng đến đâu, mà được chấp nhận trừ khi nó phát xuất từ một nguồn đáng tin cậy. Một thành viên nhận xét rằng tư cách làm mẹ của Giáo Hội là một hình ảnh hữu ích về phương diện này, miễn là chúng ta nhớ rằng cách thức mà một người mẹ dạy đứa con nhỏ của bà hoàn toàn khác với cách thức bà dạy đứa con đã trưởng thành. Một trong các vị cao niên hơn trong nhóm của chúng tôi nhấn mạnh rằng chúng ta nên ra khỏi bất cứ cách hiểu đối kháng nhau nào về mối liên hệ giữa lắng nghe và giảng dạy như thể hai việc này ở thế căng thẳng và cạnh tranh nhau. Thay vào đó, ngài nhấn mạnh, chúng là những khoảnh khắc gợi ý lẫn nhau trong bất cứ cuộc đàm đạo mang tính xây dựng nào. Một nhận xét đặc biệt thu hút sự chú ý của nhóm chúng tôi là, khi nói về một Giáo Hội lắng nghe người trẻ, Tài Liệu Làm Việc vô tình đã đặt giới trẻ phần nào ra ngoài Giáo Hội. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng họ đang được lắng nghe, chính trong tư cách chi thể của Nhiệm Thể.
Như lời kết luận, tôi xin đề cập việc này, cùng với trình thuật Kinh Thánh về các môn đệ trên đường Emmaus, hình ảnh trái tim bồn chồn do Thánh Augustine đề xuất từ lâu vẫn còn hấp dẫn đối với những người trẻ ngày nay. Chúng ta có thể sử dụng nó như một chủ đề quán xuyến khác trong suốt tài liệu.
Đón đọc: Phúc Trình của Nhóm A nói tiếng Pháp
Bảy điều nên biết về người Công Giáo Hoa Kỳ
Nguyễn Long Thao
21:33 10/10/2018
Trung tâm nghiên cứu Pew ở Hoa Kỳ hôm 10 tháng 9 năm 2018 đã công bố một tài liệu cập nhật về cuộc thăm dò người Công Giáo tại Hoa Kỳ. Trung tâm liệt 7 sự kiện nên biết về người Công Giáo Hoa Kỳ:
1. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ Lớn Hơn Các Tổ Chức Tông Giáo Khác: Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ lớn hơn bất kỳ tổ chức tôn giáo nào khác, với hơn 17.000 giáo xứ, phục vụ một dân số đa dạng gồm 51 triệu người. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây Giáo Hôi Công Giáo Hoa Kỳ đã phải đối diện với một số thách thức, từ sự suy giảm tín hữu đến việc thiếu linh mục và vấn đề đang gây xôn xao trong dư luận. Đó là một số giáo sĩ lạm dụng tình dục.
Hiện nay Hoa Kỳ có khoảng 51 triệu người Công Giáo trưởng thành (Catholic adults ), chiếm khoảng một phần năm tổng số người trưởng thành ở Hoa Kỳ. So sánh năm 2007 với năm 2014, thống kê của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew cho thấy số người Công Giáo giảm từ 24% năm 2007 xuống còn 21% năm 2014.
2. Thay Đổi Giáo Hội Hay Đổi Sang Đạo Khác Số người Công Giáo Hoa Kỳ bị giảm sút là vì giáo dân thay đổi giáo hội: 13% người Công Giáo trưởng thành ở Hoa Kỳ nói họ đã được nuôi dưỡng trong đức tin Công Giáo nhưng khi lớn lên họ nhận là không còn niềm tin tôn giáo hoặc nhận mình là người Tin Lành hay theo tôn giáo khác. Trong khi đó chỉ có 2% người trưởng thành từ một tôn giáo khác chuyển sang Công Giáo
3.Người Công Giáo Gốc Tây Ban Nha Gia Tăng. Giáo dân ở Hoa Kỳ có nguồn gốc rất đa dạng về chủng tộc. Về chủng tộc, cứ 10 người Công Giáo thì 6 người thuộc chủng tộc da trắng; 1/3 là người Latinô. Còn lại là người da đen, gốc Á Châu, hoặc chủng tộc khác. Dữ liệu cũng cho thấy tỷ lệ người Công Giáo Latino ở Hoa Kỳ đang ngày càng gia tăng.
4. Sự Phân Phối Người Công Giáo Theo Khu Vực Điạ Lý. Nói chung, nơi cư ngụ của giáo dân Công Giáo ở Hoa Kỳ được phân chia khá đều đặn trên các tiểu bang: 27% sống ở các tiểu bang miền Nam; 26% miền Đông Bắc; 21% ở miền Trung Tây. Nhưng hiện nay người Công Giáo đang có khuynh hướng chuyển về sinh sống ở các bang miền Tây và Nam Hoa Kỳ. Lý do 3/4 người Latinô là người Công Giáo mới nhập cư. Họ đa số sinh sống ở miền Tây và Nam Hoa Kỳ. Nói chung trung tâm Công Giáo đang chuyển từ vùng Đông Bắc và Trung Tây sang miền Tây và Nam Hoa Kỳ
5. Khuynh Hướng Muốn Thay Đổi: Nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ ủng hộ việc thay đổi giáo lý và chính sách của giáo hội. Nhiều người Công Giáo Mỹ nói rằng họ muốn Giáo Hội có những thay đổi. Ví dụ, 6 trong 10 người nói rằng Giáo Hội nên cho phép các linh mục kết hôn và cho phép phụ nữ trở thành linh mục. Và gần một nửa số người Công Giáo Hoa Kỳ nói rằng Giáo Hội nên chấp nhận hôn nhân đồng tính. .
6. Khuynh Hướng Chính Trị: Cử tri đăng ký là người Công Giáo được chia khá đều giữa Đảng Dân Chủ và Đảng Công Hòa. Đảng Dân Chủ chiếm 47%, trong khi đó Đảng Công Hòa chiếm 46 %. Nhưng xét về chủng tộc thì hầu hết người Công Giáo gốc Tây Ban Nha theo đảng Dân Chủ, trong khi 54 % người Công Giáo da trắng theo đảng Cộng Hòa
7 Đánh Giá Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Đại đa số người Công Giáo Hoa Kỳ ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhưng sau các vụ bê bối tình dục thì đang có dấu hiệu bất mãn gia tăng. Trong năm 2014, 54% người Công Giáo Mỹ nhận xét ĐGH Phanxicô là “tuyệt vời” hoặc “tốt” trong các vụ xử lý về lạm dụng tình dục. Nhưng sau vụ bê bối tình dục trong Giáo Hội Công Giáo Mỹ được công bố thì cuộc thăm dò của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew được thực hiện vào tháng 9 năm 2018 cho thấy tỷ lệ người Công Giáo nói tốt cho ĐGH trước kia nay đã giảm chỉ còn 31% tức giảm 23%.
Về đánh giá tổng thể về ĐGH thì trước đây 84% người Công Giáo Hoa Kỳ nói ngưỡng mộ ĐGH. Nay thì chỉ còn 72 %, tức giảm 12%.
Nguyễn Long Thao
1. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ Lớn Hơn Các Tổ Chức Tông Giáo Khác: Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ lớn hơn bất kỳ tổ chức tôn giáo nào khác, với hơn 17.000 giáo xứ, phục vụ một dân số đa dạng gồm 51 triệu người. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây Giáo Hôi Công Giáo Hoa Kỳ đã phải đối diện với một số thách thức, từ sự suy giảm tín hữu đến việc thiếu linh mục và vấn đề đang gây xôn xao trong dư luận. Đó là một số giáo sĩ lạm dụng tình dục.
Hiện nay Hoa Kỳ có khoảng 51 triệu người Công Giáo trưởng thành (Catholic adults ), chiếm khoảng một phần năm tổng số người trưởng thành ở Hoa Kỳ. So sánh năm 2007 với năm 2014, thống kê của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew cho thấy số người Công Giáo giảm từ 24% năm 2007 xuống còn 21% năm 2014.
2. Thay Đổi Giáo Hội Hay Đổi Sang Đạo Khác Số người Công Giáo Hoa Kỳ bị giảm sút là vì giáo dân thay đổi giáo hội: 13% người Công Giáo trưởng thành ở Hoa Kỳ nói họ đã được nuôi dưỡng trong đức tin Công Giáo nhưng khi lớn lên họ nhận là không còn niềm tin tôn giáo hoặc nhận mình là người Tin Lành hay theo tôn giáo khác. Trong khi đó chỉ có 2% người trưởng thành từ một tôn giáo khác chuyển sang Công Giáo
3.Người Công Giáo Gốc Tây Ban Nha Gia Tăng. Giáo dân ở Hoa Kỳ có nguồn gốc rất đa dạng về chủng tộc. Về chủng tộc, cứ 10 người Công Giáo thì 6 người thuộc chủng tộc da trắng; 1/3 là người Latinô. Còn lại là người da đen, gốc Á Châu, hoặc chủng tộc khác. Dữ liệu cũng cho thấy tỷ lệ người Công Giáo Latino ở Hoa Kỳ đang ngày càng gia tăng.
4. Sự Phân Phối Người Công Giáo Theo Khu Vực Điạ Lý. Nói chung, nơi cư ngụ của giáo dân Công Giáo ở Hoa Kỳ được phân chia khá đều đặn trên các tiểu bang: 27% sống ở các tiểu bang miền Nam; 26% miền Đông Bắc; 21% ở miền Trung Tây. Nhưng hiện nay người Công Giáo đang có khuynh hướng chuyển về sinh sống ở các bang miền Tây và Nam Hoa Kỳ. Lý do 3/4 người Latinô là người Công Giáo mới nhập cư. Họ đa số sinh sống ở miền Tây và Nam Hoa Kỳ. Nói chung trung tâm Công Giáo đang chuyển từ vùng Đông Bắc và Trung Tây sang miền Tây và Nam Hoa Kỳ
5. Khuynh Hướng Muốn Thay Đổi: Nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ ủng hộ việc thay đổi giáo lý và chính sách của giáo hội. Nhiều người Công Giáo Mỹ nói rằng họ muốn Giáo Hội có những thay đổi. Ví dụ, 6 trong 10 người nói rằng Giáo Hội nên cho phép các linh mục kết hôn và cho phép phụ nữ trở thành linh mục. Và gần một nửa số người Công Giáo Hoa Kỳ nói rằng Giáo Hội nên chấp nhận hôn nhân đồng tính. .
6. Khuynh Hướng Chính Trị: Cử tri đăng ký là người Công Giáo được chia khá đều giữa Đảng Dân Chủ và Đảng Công Hòa. Đảng Dân Chủ chiếm 47%, trong khi đó Đảng Công Hòa chiếm 46 %. Nhưng xét về chủng tộc thì hầu hết người Công Giáo gốc Tây Ban Nha theo đảng Dân Chủ, trong khi 54 % người Công Giáo da trắng theo đảng Cộng Hòa
7 Đánh Giá Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Đại đa số người Công Giáo Hoa Kỳ ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhưng sau các vụ bê bối tình dục thì đang có dấu hiệu bất mãn gia tăng. Trong năm 2014, 54% người Công Giáo Mỹ nhận xét ĐGH Phanxicô là “tuyệt vời” hoặc “tốt” trong các vụ xử lý về lạm dụng tình dục. Nhưng sau vụ bê bối tình dục trong Giáo Hội Công Giáo Mỹ được công bố thì cuộc thăm dò của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew được thực hiện vào tháng 9 năm 2018 cho thấy tỷ lệ người Công Giáo nói tốt cho ĐGH trước kia nay đã giảm chỉ còn 31% tức giảm 23%.
Về đánh giá tổng thể về ĐGH thì trước đây 84% người Công Giáo Hoa Kỳ nói ngưỡng mộ ĐGH. Nay thì chỉ còn 72 %, tức giảm 12%.
Nguyễn Long Thao
Thượng Hội Đồng về Tuổi Trẻ: Phúc Trình của Nhóm A nói tiếng Pháp
Vũ Văn An
23:29 10/10/2018
Phúc Trình của Nhóm A nói tiếng Pháp
1. Nhìn trước khi nghe
Nhìn người trẻ để họ nhìn Chúa Kitô
Lắng nghe người trẻ để họ lắng nghe Chúa Kitô
Tài Liệu Làm Việc nhấn mạnh tới sự cần thiết phải lắng nghe người trẻ. Tuy nhiên, nó cũng gợi lên tầm quan trọng của việc nhìn. Phần đầu tiên của nó mang tựa đề "nhận ra". Nhận ra, nghĩa là, khám phá ra thực tại của sự vật và con người, giả thiết trước nhất phải nhìn cách Chúa Kitô, Đấng, bằng một ánh mắt, đã làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa và mời gọi bước vào Giao Ước, cũng như cuộc gặp gỡ của Người với người phụ nữ Samaria ra sao (Ga 4: 5-42).
Ngay trước lời nói và việc nghe, chính nhờ cái nhìn mà mối liên hệ đã được tạo ra. Đây chính là mục đích của Thượng Hội Đồng này: giúp người trẻ gặp gỡ cái nhìn của Chúa Kitô, qua Giáo Hội vốn là nhiệm thể của Người, để họ tự khám phá thấy mình được Người yêu thương, lắng nghe và cam kết theo Người.
Nếu chúng ta đồng ý rằng tất cả chúng ta phải cùng nhau biện phân các nẻo đường trên đó các bạn trẻ sẽ có thể gặp được cái nhìn của Chúa Kitô và bắt đầu lắng nghe Người, chúng ta phải xác định, trong phần đầu này, rằng Đấng Thiên Chúa mà chúng ta đang nói về này là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kytô, chính Chúa Giêsu Kytô dẫn đến Chúa Cha bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người là Đấng đã tỏ lòng thương xót, biết xoa dịu các vết thương, nhưng Người cũng là Đấng đã tố cáo điều trái với Mạc Khải và kêu gọi sự cam kết triệt để đi theo Người.
Như thế, điều cần thiết là phần đầu này, chủ yếu có tính xã hội học, phải mạnh mẽ xác định rằng nó nhằm phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, một giáo hội, nói cho chính xác, phải nhìn người trẻ bằng cái nhìn của Chúa Kitô, để họ hướng cái nhìn của họ về Người và lắng nghe Người: "Lạy Chúa, chúng con biết đi với ai? Chúa có lời ban sự sống đời đời "(Ga 6, 68). Thật vậy, nhiều người trẻ không biết Chúa Kitô và thậm chí không tìm kiếm Người. Việc xác định này cũng sẽ cho thấy mối quan tâm của Giáo Hội là mang Tin Mừng đến cho người trẻ: Giáo Hội là "Mater et Magistra" (Mẹ và Cô Giáo).
Phần đầu này mang một cái nhìn rộng rãi về người trẻ và nếu nó làm nổi bật sự đa dạng lớn lao của họ, thì nó cũng xác định khá nhiều điểm tương đồng: mong muốn của họ được lắng nghe và nhìn nhận, tầm quan trọng của gia đình, khát vọng của họ được làm tác nhân của cuộc sống mình trong thế gian và trong Giáo Hội: họ nói với chúng ta: chúng tôi là Giáo Hội! ... Người trẻ cũng có cùng những câu hỏi về việc làm, tính dục, bảo vệ sáng thế ... Họ tìm kiếm ý nghĩa đem đến cho cuộc sống họ và là nhân chứng không mệt mỏi của hy vọng.
2. Gia đình trong đời sống người trẻ
Tài Liệu Làm Việc nhắc đến mối liên kết giữa hai thượng hội đồng trước đây về gia đình và thượng hội đồng này (n ° 11). Nhưng chúng tôi muốn dây liên kết này được minh giải hơn nữa và tầm quan trọng của gia đình được tái khẳng định, trong chiều hướng sự kết hợp ổn định giữa một người đàn ông và một người đàn bà, cả hai mở lòng ra đón nhận hồng ân sự sống, vì cách thức người trẻ tự xây dựng họ phần lớn tùy thuộc vào những gì họ nhận được hay không nhận được trong gia đình họ. Cũng thế, điều cần thiết là đưa ra các đề xuất biết trân qúi lý tưởng gia đình bằng cách chứng tỏ rằng đời sống của cặp vợ chồng và của gia đình như Giáo Hội đề xuất là điều có thể, và là con đường để chu toàn ơn gọi của mình.
Ngoài ra, vì gia đình không phải là một ý niệm trừu tượng, nên cần nhớ rằng nếu các gia đình để cho mình bị tan hòa vào mô hình duy cá nhân hiện hành, họ sẽ gặp những mối nguy hiểm lớn. Các gia đình mãi trung thành với sứ mệnh của họ là những gia đình, một cách kiên nhẫn, với dòng thời gian, học cách tự chào đón mình, cha mẹ và con cái, chào đón cuộc sống dưới mọi hình thức của nó, và làm chứng cho tình yêu của họ bằng cách dấn thân cho công lý và phẩm giá của mỗi con người, đặc biệt những người yếu ớt nhất. Chắc chắn vì các lý do này mà phần lớn người trẻ vẫn gắn bó với giá trị gia đình.
3. Một thế hệ "được kết nối"?
Tài Liệu Làm Việc quả quyết rằng "thực tại các phương tiện truyền thông kỹ thuật số và các mạng xã hội hiện diện khắp nơi giữa giới trẻ" (# 34). Như thế là quên rằng nhiều người trẻ không được kết nối. Chúng ta có thể nói rằng ở bình diện thế giới, tùy theo quốc gia hoặc sự kiện người trẻ sống ở các thành phố hoặc khu vực nông thôn, có một sự "gián đoạn kỹ thuật số".
Tài Liệu Làm Việc, trong khi nêu bật những phương tiện để thành công và tiềm năng kinh khủng được các phương tiện truyền thông và các mạng xã hội cung cấp, cũng cho thấy các giới hạn và sự nguy hiểm của chúng. Chúng ta có thể tưởng tượng được gì để, tuy không hạ nhục các phương tiện truyền thông mới này, nhưng đào tạo những người trẻ tuổi và người lớn đồng hành với họ trở thành các nhân chứng của đức tin và đức cậy trong các mạng kỹ thuật số?
4. Người di dân trẻ
Chúng tôi muốn báo hiệu ở đây các âu lo của các cộng đồng Kitô Giáo Trung và Cận Đông, những người đang thắc mắc về tương lai của họ khi họ thấy người trẻ của họ ra đi, cũng như sự phức tạp của vấn đề di dân. Việc di dân như đang diễn ra hôm nay là một hiện tượng chưa từng có. Bên cạnh các di dân trẻ, những người ra đi để tránh chiến tranh và bách hại, có những người tự để mình bị quyến rũ bởi ảo ảnh phương Tây và được khuyến khích ra đi. Họ không đo lường được các hậu quả của việc tách rời khỏi mảnh đất của họ, gia đình của họ, văn hóa của họ. Làm thế nào Giáo hội có thể đồng hành với những người trẻ này để giúp họ khám phá ra rằng Thiên Chúa đang mở ra cho họ một con đường thành đạt ở ngay các quốc gia nơi họ sinh ra? Cũng thế, làm thế nào các nước chào đón nhiều di dân, có thể giúp các tín hữu Công Giáo sống lòng hiếu khách theo Tin Mừng khi họ thiếu tài nguyên và sự quân bình xã hội dường như đang bị đe dọa? Đặc biệt ở châu Âu, chúng tôi lo lắng nhìn thấy việc lớn mạnh của tâm tình bài ngoại.
Đức Thánh Cha, qua lời kêu gọi tiếp nhận người di dân, mời gọi chúng ta lắng nghe những gì Thiên Chúa đang nói với chúng ta qua họ. Những di dân trẻ đang hy vọng tất cả bất chấp tất cả. Há đó không phải là một lực lượng mà Giáo Hội phải nhìn bằng con mắt tiên tri hay sao? Những người trẻ này đang mang một dự án sống, trong khi những người khác, những người vẫn ở lại, sa vào ma túy, bạo lực ... Như vậy, làm thế nào Giáo Hội có thể giúp đỡ họ, tại các nước di dân họ đã chọn, để thể hiện dự án của họ, tới chỗ, tại sao không, cho phép họ khám phá ra dự án của Thiên Chúa dành cho họ?
5. Xây dựng hòa bình bằng đối thoại liên tôn, tìm kiếm hợp nhất
Chúng tôi đã chia sẻ những kinh nghiệm đẹp đẽ của tiền thượng hội đồng ở Libăng, quy tụ đại diện trẻ của các giáo phận Maronite, các nước Ả Rập và lưu vong, cũng như đại diện của các Giáo Hội khác và người Hồi giáo. Các người Công Giáo trẻ đang bắc nhiều cầu nối với các truyền thống tôn giáo khác trong nhiều sáng kiến, cũng như với các giáo phái Kitô giáo khác. Lời mời gọi này kết nhập nhiều người khác, thuộc nhiều nước khác, đang tìm cách cổ vũ đối thoại và "sống chung". Điều tối thiết là Giáo Hội hỗ trợ họ.
Chúng tôi cũng đã nhấn mạnh ước muốn của người trẻ được dấn thân tìm kiếm sự hợp nhất Kitô giáo. Họ công phẫn trước các chia rẽ. Một ước muốn đã được phát biểu: Từ hơn 40 năm nay, các Kitô hữu đã yêu cầu lễ Phục Sinh được cử hành trong cùng một ngày. Đây sẽ là một bằng chứng rất mạnh mẽ để các quốc gia nơi các Kitô hữu thuộc các tín phái khác nhau sống gần gũi với nhau.
6. Mong muốn của các cộng đồng Kitô giáo chân chính
Giáo hội là thân thể Chúa Kitô và mỗi chi thể của nó đều cần thiết cho đời sống và sứ mệnh của nó (1 Cr 12), đó là lý do tại sao kinh nghiệm cộng đồng là yếu tố cấu thành căn tính người môn đệ của Chúa Kitô. Hay, chúng tôi nhận thấy những khó khăn mà người trẻ đôi khi gặp phải để được tiếp đón và nhận được chỗ đứng trong các cộng đồng Kitô giáo (giáo xứ, phong trào, vv). Do đó, chúng ta phải trau chuốt khái niệm "cộng đồng" trên bình diện thần học và mục vụ, để cung cấp cho giới trẻ một " Giáo hội gia đình " làm nhà của họ.
Những người trẻ rất hào hứng trước các thời điểm mạnh của giáo hội trong đó, họ hiệp thông trong cùng một đức tin. Chúng là điều chủ yếu cho sự tăng trưởng trong đức tin và khơi dậy ơn gọi. Tuy nhiên, do vậy, một số người cảm thấy khó khăn khi phải tự ý tham dự hành trình tâm linh thực sự với những người khác. Do đó, cần phải nêu rõ những thời điểm mạnh này bằng các đề xuất cho các người trẻ trong suốt một năm.
Đón đọc: Phúc Trình của Nhóm B nói tiếng Pháp
1. Nhìn trước khi nghe
Nhìn người trẻ để họ nhìn Chúa Kitô
Lắng nghe người trẻ để họ lắng nghe Chúa Kitô
Tài Liệu Làm Việc nhấn mạnh tới sự cần thiết phải lắng nghe người trẻ. Tuy nhiên, nó cũng gợi lên tầm quan trọng của việc nhìn. Phần đầu tiên của nó mang tựa đề "nhận ra". Nhận ra, nghĩa là, khám phá ra thực tại của sự vật và con người, giả thiết trước nhất phải nhìn cách Chúa Kitô, Đấng, bằng một ánh mắt, đã làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa và mời gọi bước vào Giao Ước, cũng như cuộc gặp gỡ của Người với người phụ nữ Samaria ra sao (Ga 4: 5-42).
Ngay trước lời nói và việc nghe, chính nhờ cái nhìn mà mối liên hệ đã được tạo ra. Đây chính là mục đích của Thượng Hội Đồng này: giúp người trẻ gặp gỡ cái nhìn của Chúa Kitô, qua Giáo Hội vốn là nhiệm thể của Người, để họ tự khám phá thấy mình được Người yêu thương, lắng nghe và cam kết theo Người.
Nếu chúng ta đồng ý rằng tất cả chúng ta phải cùng nhau biện phân các nẻo đường trên đó các bạn trẻ sẽ có thể gặp được cái nhìn của Chúa Kitô và bắt đầu lắng nghe Người, chúng ta phải xác định, trong phần đầu này, rằng Đấng Thiên Chúa mà chúng ta đang nói về này là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kytô, chính Chúa Giêsu Kytô dẫn đến Chúa Cha bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người là Đấng đã tỏ lòng thương xót, biết xoa dịu các vết thương, nhưng Người cũng là Đấng đã tố cáo điều trái với Mạc Khải và kêu gọi sự cam kết triệt để đi theo Người.
Như thế, điều cần thiết là phần đầu này, chủ yếu có tính xã hội học, phải mạnh mẽ xác định rằng nó nhằm phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, một giáo hội, nói cho chính xác, phải nhìn người trẻ bằng cái nhìn của Chúa Kitô, để họ hướng cái nhìn của họ về Người và lắng nghe Người: "Lạy Chúa, chúng con biết đi với ai? Chúa có lời ban sự sống đời đời "(Ga 6, 68). Thật vậy, nhiều người trẻ không biết Chúa Kitô và thậm chí không tìm kiếm Người. Việc xác định này cũng sẽ cho thấy mối quan tâm của Giáo Hội là mang Tin Mừng đến cho người trẻ: Giáo Hội là "Mater et Magistra" (Mẹ và Cô Giáo).
Phần đầu này mang một cái nhìn rộng rãi về người trẻ và nếu nó làm nổi bật sự đa dạng lớn lao của họ, thì nó cũng xác định khá nhiều điểm tương đồng: mong muốn của họ được lắng nghe và nhìn nhận, tầm quan trọng của gia đình, khát vọng của họ được làm tác nhân của cuộc sống mình trong thế gian và trong Giáo Hội: họ nói với chúng ta: chúng tôi là Giáo Hội! ... Người trẻ cũng có cùng những câu hỏi về việc làm, tính dục, bảo vệ sáng thế ... Họ tìm kiếm ý nghĩa đem đến cho cuộc sống họ và là nhân chứng không mệt mỏi của hy vọng.
2. Gia đình trong đời sống người trẻ
Tài Liệu Làm Việc nhắc đến mối liên kết giữa hai thượng hội đồng trước đây về gia đình và thượng hội đồng này (n ° 11). Nhưng chúng tôi muốn dây liên kết này được minh giải hơn nữa và tầm quan trọng của gia đình được tái khẳng định, trong chiều hướng sự kết hợp ổn định giữa một người đàn ông và một người đàn bà, cả hai mở lòng ra đón nhận hồng ân sự sống, vì cách thức người trẻ tự xây dựng họ phần lớn tùy thuộc vào những gì họ nhận được hay không nhận được trong gia đình họ. Cũng thế, điều cần thiết là đưa ra các đề xuất biết trân qúi lý tưởng gia đình bằng cách chứng tỏ rằng đời sống của cặp vợ chồng và của gia đình như Giáo Hội đề xuất là điều có thể, và là con đường để chu toàn ơn gọi của mình.
Ngoài ra, vì gia đình không phải là một ý niệm trừu tượng, nên cần nhớ rằng nếu các gia đình để cho mình bị tan hòa vào mô hình duy cá nhân hiện hành, họ sẽ gặp những mối nguy hiểm lớn. Các gia đình mãi trung thành với sứ mệnh của họ là những gia đình, một cách kiên nhẫn, với dòng thời gian, học cách tự chào đón mình, cha mẹ và con cái, chào đón cuộc sống dưới mọi hình thức của nó, và làm chứng cho tình yêu của họ bằng cách dấn thân cho công lý và phẩm giá của mỗi con người, đặc biệt những người yếu ớt nhất. Chắc chắn vì các lý do này mà phần lớn người trẻ vẫn gắn bó với giá trị gia đình.
3. Một thế hệ "được kết nối"?
Tài Liệu Làm Việc quả quyết rằng "thực tại các phương tiện truyền thông kỹ thuật số và các mạng xã hội hiện diện khắp nơi giữa giới trẻ" (# 34). Như thế là quên rằng nhiều người trẻ không được kết nối. Chúng ta có thể nói rằng ở bình diện thế giới, tùy theo quốc gia hoặc sự kiện người trẻ sống ở các thành phố hoặc khu vực nông thôn, có một sự "gián đoạn kỹ thuật số".
Tài Liệu Làm Việc, trong khi nêu bật những phương tiện để thành công và tiềm năng kinh khủng được các phương tiện truyền thông và các mạng xã hội cung cấp, cũng cho thấy các giới hạn và sự nguy hiểm của chúng. Chúng ta có thể tưởng tượng được gì để, tuy không hạ nhục các phương tiện truyền thông mới này, nhưng đào tạo những người trẻ tuổi và người lớn đồng hành với họ trở thành các nhân chứng của đức tin và đức cậy trong các mạng kỹ thuật số?
4. Người di dân trẻ
Chúng tôi muốn báo hiệu ở đây các âu lo của các cộng đồng Kitô Giáo Trung và Cận Đông, những người đang thắc mắc về tương lai của họ khi họ thấy người trẻ của họ ra đi, cũng như sự phức tạp của vấn đề di dân. Việc di dân như đang diễn ra hôm nay là một hiện tượng chưa từng có. Bên cạnh các di dân trẻ, những người ra đi để tránh chiến tranh và bách hại, có những người tự để mình bị quyến rũ bởi ảo ảnh phương Tây và được khuyến khích ra đi. Họ không đo lường được các hậu quả của việc tách rời khỏi mảnh đất của họ, gia đình của họ, văn hóa của họ. Làm thế nào Giáo hội có thể đồng hành với những người trẻ này để giúp họ khám phá ra rằng Thiên Chúa đang mở ra cho họ một con đường thành đạt ở ngay các quốc gia nơi họ sinh ra? Cũng thế, làm thế nào các nước chào đón nhiều di dân, có thể giúp các tín hữu Công Giáo sống lòng hiếu khách theo Tin Mừng khi họ thiếu tài nguyên và sự quân bình xã hội dường như đang bị đe dọa? Đặc biệt ở châu Âu, chúng tôi lo lắng nhìn thấy việc lớn mạnh của tâm tình bài ngoại.
Đức Thánh Cha, qua lời kêu gọi tiếp nhận người di dân, mời gọi chúng ta lắng nghe những gì Thiên Chúa đang nói với chúng ta qua họ. Những di dân trẻ đang hy vọng tất cả bất chấp tất cả. Há đó không phải là một lực lượng mà Giáo Hội phải nhìn bằng con mắt tiên tri hay sao? Những người trẻ này đang mang một dự án sống, trong khi những người khác, những người vẫn ở lại, sa vào ma túy, bạo lực ... Như vậy, làm thế nào Giáo Hội có thể giúp đỡ họ, tại các nước di dân họ đã chọn, để thể hiện dự án của họ, tới chỗ, tại sao không, cho phép họ khám phá ra dự án của Thiên Chúa dành cho họ?
5. Xây dựng hòa bình bằng đối thoại liên tôn, tìm kiếm hợp nhất
Chúng tôi đã chia sẻ những kinh nghiệm đẹp đẽ của tiền thượng hội đồng ở Libăng, quy tụ đại diện trẻ của các giáo phận Maronite, các nước Ả Rập và lưu vong, cũng như đại diện của các Giáo Hội khác và người Hồi giáo. Các người Công Giáo trẻ đang bắc nhiều cầu nối với các truyền thống tôn giáo khác trong nhiều sáng kiến, cũng như với các giáo phái Kitô giáo khác. Lời mời gọi này kết nhập nhiều người khác, thuộc nhiều nước khác, đang tìm cách cổ vũ đối thoại và "sống chung". Điều tối thiết là Giáo Hội hỗ trợ họ.
Chúng tôi cũng đã nhấn mạnh ước muốn của người trẻ được dấn thân tìm kiếm sự hợp nhất Kitô giáo. Họ công phẫn trước các chia rẽ. Một ước muốn đã được phát biểu: Từ hơn 40 năm nay, các Kitô hữu đã yêu cầu lễ Phục Sinh được cử hành trong cùng một ngày. Đây sẽ là một bằng chứng rất mạnh mẽ để các quốc gia nơi các Kitô hữu thuộc các tín phái khác nhau sống gần gũi với nhau.
6. Mong muốn của các cộng đồng Kitô giáo chân chính
Giáo hội là thân thể Chúa Kitô và mỗi chi thể của nó đều cần thiết cho đời sống và sứ mệnh của nó (1 Cr 12), đó là lý do tại sao kinh nghiệm cộng đồng là yếu tố cấu thành căn tính người môn đệ của Chúa Kitô. Hay, chúng tôi nhận thấy những khó khăn mà người trẻ đôi khi gặp phải để được tiếp đón và nhận được chỗ đứng trong các cộng đồng Kitô giáo (giáo xứ, phong trào, vv). Do đó, chúng ta phải trau chuốt khái niệm "cộng đồng" trên bình diện thần học và mục vụ, để cung cấp cho giới trẻ một " Giáo hội gia đình " làm nhà của họ.
Những người trẻ rất hào hứng trước các thời điểm mạnh của giáo hội trong đó, họ hiệp thông trong cùng một đức tin. Chúng là điều chủ yếu cho sự tăng trưởng trong đức tin và khơi dậy ơn gọi. Tuy nhiên, do vậy, một số người cảm thấy khó khăn khi phải tự ý tham dự hành trình tâm linh thực sự với những người khác. Do đó, cần phải nêu rõ những thời điểm mạnh này bằng các đề xuất cho các người trẻ trong suốt một năm.
Đón đọc: Phúc Trình của Nhóm B nói tiếng Pháp
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hội Bác Ái Vinh Sơn Đức Quốc hành hương kính Đức Mẹ Banneux và thăm dòng kín VN.ở Boussu Vương Quốc Bỉ
Trầm Hương Thơ
08:40 10/10/2018
Kinh Kính Mừng thưa nhẹ nên thơ
Banneux linh thánh bến mơ
Ban cho nhân loại Mẹ chờ chúng con.
Như chúng ta đa số đều đã biết, các Nữ tu Dòng Kín (Kame) thì không có tiếp xúc với bên ngoài. Nhưng mỗi năm có ngày lễ Bổn Mạng thì ngoại lệ các sơ mở cửa và tiếp xúc với mọi người bên ngoài, vì vậy đã nhiều năm qua qúy Sơ tổ chức và mời mọi người đến chung vui ngày lễ với nhà dòng.
Hôm nay không chỉ có phái đoàn từ Đức sang thôi mà còn có Pháp, Hòa Lan, Lục Xâm Bảo, Bỉ, v.v...
Xem Hình
Mặc dù hôm nay đã 07 tây tháng mười nhưng trời nắng chan hòa và ấm áp lắm, người người chào nhau rôm rả vì có nhiều người quen từ các nước gặp nhau. Hôm nay trong khuôn viên nhà dòng và thánh lễ có sự hiện diện khá đặc biệt của hai vợ chồng cô Ls Têrêsa Trần Kiều Ngọc đến từ Úc Châu nhân chuyến sang Âu Châu để nói chuyện chia sẻ vận động về nhân quyền cho Việt Nam.
Thánh lễ đồng tế hôm nay có tổng cộng chín Linh mục đến từ Pháp, Bỉ, Đức, Việt Nam, v.v...Bài chia sẻ của Linh mục hôm nay rất hay. Ngài nhắc nhiều tới tình hình quê hương và đất nước Việt Nam đang trong cơn nguy khôn, vì biển thì chết và rừng thì hết, còn lòng người thì tan nát đau thương. Những lời nguyện xin Thiên Chúa mở cho chung con một con đường sống, con đường yêu thương và tha thứ v.v...
Vì chỉ có sự yêu thương và tha thứ mới cứu nổi mà thôi, vì chúng con cần sự yêu thương của Ngài nữa.
Sau thánh lễ những bông hồng Têrêsa được làm phép và qúy Sơ trao cho từng người một như một lời tạ ơn vì đã đến đây hiệp dâng thánh lễ tạ ơn và chung vui kính thánh Bổn Mạng của nhà dòng là thánh tiến sĩ Hội Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Những bông hồng này là dó chính tay qúy Sơ tự làm. Mây trăm bông hồng này qúy Sơ làm chắc nhiều công lắm, nhưng khi trao đến từng người thì chỉ trong chốc lát đã hết sạch, mỗi người đều có qùa đem vể lưu niệm.
Chúng tôi cũng cảm ơn và cầu xin cho qúy Sơ được tràn đầy ơn Chúa và mạnh khỏe, hẹmn năm sau. Hội Bác Ái năm nào sang đây cũng có qùa tặng qúy Sơ để góp chút gì trang trảo cho nhà dòng vì chúng ta biết rằng các sơ dòng kím không có đi làm ra tiền nhưng chỉ là vườn và làm nến, bán thêm chút ảnh tượng để sinh sống.
Từ giã ra về để cho kịp giờ hành hương đến Đức Mẹ Banneux lúc 19 giờ nhận phòng ngủ và cơm chiều. Bôn nay Phái đoàn có một buổi tối thật vui vẻ nơi Linh Địa Banneux này ví có 3 Lm. ở đây với chúng tôi tại đây.
Ngoài những giờ sinh hoạt riêng thì cũng có những sinh hoạt chung. Những giời kinh chung trong tinh thần hành hương về bên Đức Mẹ Banneux.
Bannneux nguồn suối ơn lành
Tình Mẹ yêu dấu Mẹ dành cho con.
Vâng, lời của Mẹ đã nói với chị Mariette Beco như thế trong lịch sử tất cả 8 lần Đức Mẹ hiện ra nơi đây từ ngày 15.01.1933 đến ngày 02 tháng 03.1933. Dòng suối ơn lành này Mẹ trao ban để dành cho tất cả nhưng ai đã và đang nghèo nàn đến đây với Mẹ sẽ được no thỏa ơn lành. Cái nghèo như lời Mẹ nói không chỉ là vật chất, mà còn cà cái nghèo tâm linh. Cái nghèo này nó còn thảm thê hơn cả cái nghèo đói về vật chất.
Banneux suối ngọt tình yêu
Hỡi ai vất vả trăm chiều về đây
Gội đi cơ cực tháng ngày
Mẹ ban ân phúc đong đầy bình an.
Chúa Nhật lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, chúng tôi được tham dự thánh lễ Quốc tế theo bộ lễ bằng tiếng La Tinh với ba ngôn ngữ Đức, Pháp, Hòa Lan do Đức Giám Mục và nhiều Linh Mục đồng tế, trong đó có 2 Lm. người VN. Sau thánh lễ quốc tế thì tôi thấy người giáo dân Ban Lan hành hương về đây hôm nay rất đông. Chúng tôi chưa kịp ra khỏi Đại thánh đường thì họ đã ào ào tiến vào muốn đầy cả Đại thánh đường, hỏi thăm ra mới biết hôm nay là ngày hành hương của họ nên mới đông thế.
Chúng tôi ra đài Đức Mẹ nơi có nguồn suối nước ơn lành để cùng nhau đọc kinh cầu cho Tổ Quốc và Giáo Hội Việt Nam được mau chóng thoát ách cộng sản vô thần. Lm. Thắng đã chia sẻ ngắn gọn về ý nghĩa của thánh lễ Mân Cội kính Đức Mẹ hôm nay đây cho chúng tôi hiểu rõ hơn và ngày lễ kính Mẹ mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
12giờ trưa chúng tôi chụp chung với nhau tấm ảnh để lưu niệm . Phái đoàn ở lại và Lm. Fernand sau buổi trưa nay sẽ đến sinh hoạt với Hội vì ngày chính là Linh hướng của hội hiện nay.
Ngài sẽ hướng dẫn giải thích thêm, tĩnh tâm và thánh lễ chiều nay nữa chương trình tất hấp dẫn nữa nhưng rất tiếc tôi có việc chung của Cộng Đoàn nơi tôi ở nên phải về sớm cho kịp. Phái đoàn còn ở lại cho đến chiều tối mới lên đường trở về Đức.
Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cho chúng con hai ngày cuối tuần thật trong tháng Mân Côi tràn đầy ân sủng của Ngài.
Trầm Hương Thơ
09.10.2018
https://photos.Trầm-Hương-Thơ
Thánh lễ an táng cha bề trên Phaolô Lê Tấn Thành - nguyên Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
08:50 10/10/2018
Thánh lễ an táng cha bề trên Phaolô Lê Tấn Thành được cử hành cách long trọng vào lúc 8g30 ngày 10.10.2018, tại lễ đài Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn (đối diện căn phòng cha bề trên ở 45 năm).
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm chủ tế và giảng lễ. Đoàn đồng tế có Đức cha Tôma Nguyễn văn Trâm, Đức cha Antôn Vũ Huy Chương, Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Đức cha Gioan Đỗ Đức Ngân, cha Tổng Đại diện Ignaxiô Hồ Văn Xuân, các cha quản Hạt trưởng, bề trên các dòng tu cùng đông đảo các linh mục học trò trong và ngoài giáo phận Sài Gòn. Đến hiệp dâng Thánh lễ có đông đảo quý tu sĩ nam nữ, gia đình và bà con giáo dân đến từ các giáo xứ.
Xem Hình
Trước lễ, Lm Giuse Bùi Công Trác - Giám đốc ĐCV đọc tiểu sử cha cố Phaolô Lê Tấn Thành.
-11.12.1927: Sinh tại Thuận Giao Bình Dương
- 14.12.1927: Rửa tội tại Lái Thiêu
- 14.08.1939: Vào Tiểu chủng viện Thánh Giuse
- 11.08.1945: Vào Đại chủng viện Thánh Giuse
- 14.08.1953: Lên đường du học Pháp
- 11.08.1954: Chịu chức phó tế tại Paris
- 29.06.1955: Chịu chức linh mục tại Nhà thờ Đức Bà Paris
- 08.09.1960: Về Việt Nam
- 1960 - 2005: Phục vụ tại ĐCV Thánh Giuse
- 1987 - 1992: Phó giám đốc ĐCV Thánh Giuse
- 1992 - 2005: Giám Đốc ĐCV Thánh Giuse
- 2005 - 2018: Nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng Chí Hoà
- Ngày 07.10.2018, Lễ Đức Mẹ Mân Côi (cùng ngày giỗ cha Wibeau, bề trên tiên khởi), ngài đã về nhà Cha, hưởng thọ 91 tuổi với 63 năm linh mục.
Khởi đầu thánh lễ, Đức cha Phêrô ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ:
Chúng ta tụ họp chung quanh bàn thánh Chúa và chung quanh linh cửu cha bề trên Phaolô Lê Tấn Thành là một người anh em trong hàng linh mục, và cũng là một người thầy người cha đáng kính đáng mến. Mỗi thánh lễ đều là một lễ tế tạ ơn. Chúng ta dâng thánh lễ hôm nay để tạ ơn Chúa đã ban Đức Giêsu Kitô là quà tặng vô giá, đồng thời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta cha bề trên Phaolô, một trong những trụ cột của TGP thành phố, một nhà đào tạo tâm huyết đối với nhiều thế hệ linh mục. Xin dâng ngài cho Chúa, Đấng mà suốt đời ngài đã tin tưởng và tận tụy phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng.Xin Chúa đón nhận ngài vào nước của Chúa, nước của bình an niềm hạnh phúc trong Thánh Thần.
Đức cha Phêrô giảng lễ:
Chúng ta đang hiện diện trong một Thánh lễ có nhiều linh mục hơn giáo dân. Ngoài những vị linh mục tại Sài Gòn, còn có các vị đến từ Mỹ Tho, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết và Đà Lạt... Điều này giúp chúng ta hiểu vị linh mục chúng ta tiễn đưa hôm nay đã đào tạo rất nhiều linh mục. Cuộc đời của ngài gắn liền với Chủng viện cho đến khi về nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng Chí Hoà. Cuối đời, lúc nằm bệnh viện, ngài cũng chỉ mong về Chủng viện để nói với Giám mục giáo phận về Chủng viện.
Khi nhớ lại chân dung ngài trong vai trò đào tạo, chắc quý vị cũng đồng ý với tôi trong nhận xét “Cha giáo Phaolô là vị linh mục sống tinh thần nghèo khó, tự hủy như Đức Kitô”. Ngài toàn tâm toàn ý lo việc đào tạo các linh mục. Một đàng ngài rất nghiêm khắc, đàng khác ngài rất thương học trò. Ngài là một nhà trí thức uyên thâm, sống đơn giản trong cách ăn mặc cũng như trong lời nói, không những trao cho học trò tri thức mà còn kiến thức sống để thành các linh mục như lòng Chúa mong ước.
Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam, cách riêng chủng viện, một nhà đào tạo thánh thiện. Cùng với tâm tình đó, chúng ta không những dâng lời cầu nguyện cho ngài ở đây mà còn về giáo xứ cầu nguyện cho ngài nữa.
Cuối cùng, như trong bài đọc 2 thư Thánh Phaolô gởi Timôthê: "Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin". Phải chăng đây cũng là tâm tình dành cho ngài: “Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến, trông đợi Người xuất hiện". Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban nhiều phần thưởng đời đời, ban triều thiên công chính cho cha bề trên chúng con. Amen.
Sau lời nguyện hiệp lễ, linh mục GB Nguyễn Minh Hùng đại diện dòng tộc dâng lời tri ân.
Đức cha Antôn Vũ Huy Chương cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt cha cố Phaolô.
Sau đó, khi đưa linh cữu ngài được đưa đi hỏa tang ở Trung tâm hỏa tang Bình Hưng Hòa.
Thân xác từ bụi đất rồi trở về cát bụi, chờ đợi ngày thân xác sống lại trong sự sống bất diệt của Đức Kitô Phục sinh.Trong mạch thời gian, sự sống và cái chết đổi chỗ lẫn nhau. Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Trầm tư trước cái chết để nghĩ về sự như nối dài cuộc sống bình thường đến cõi thiêng liêng. Con người sinh ra ở trần gian không phải để rồi vĩnh viễn cư ngụ tại đó, mà là khởi đầu một cuộc hành trình về với Chúa. Tham dự lễ an táng, với lời ca kinh hạt nguyện cầu, cùng với niềm xác tín vào Lời của Đấng Phục Sinh: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống.Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết”.
Con người càng lớn lao, càng giản dị. George Washington (1732-1799) là Tổng thống đầu tiên và được bình chọn là Tổng thống vĩ đại thứ hai của Hoa Kỳ sau Abraham Lincoln. George Washington được người dân Mỹ tôn sùng, vậy mà khi mất ông cũng chỉ yên nghỉ trong ngôi mộ rất bình thường không có gì đặc biệt so với ngôi mộ của những người khác… Tiếng tăm của một người để lại do cuộc đời tận tụy cống hiến, phụng sự cho đất nước chứ không phải do cái hào nhoáng bên ngoài của lăng mộ. Cuộc đời của cha bề trên Phaolô nhà đào tạo thánh thiện được tưởng thưởng bằng niềm hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa. Trong sự tiễn đưa ấm áp nghĩa tình của các thế hệ linh mục học trò, trong sự đón nhận ấm áp của đất trời...cha bề trên thật sự vui mừng về với Thiên Chúa Tình Yêu.
Chính trong khát vọng về với Thiên Chúa, cội nguồn sự sống mà thi sĩ Tagore đã dâng lời kinh tha thiết:
“Như đàn hạc hoài hương
Bay thẳng về tổ ấm
Trên đỉnh núi vút cao
Qua vùng trời thăm thẳm
Lên tận chốn huyền siêu”. (Gitanjali 103,4).
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm chủ tế và giảng lễ. Đoàn đồng tế có Đức cha Tôma Nguyễn văn Trâm, Đức cha Antôn Vũ Huy Chương, Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Đức cha Gioan Đỗ Đức Ngân, cha Tổng Đại diện Ignaxiô Hồ Văn Xuân, các cha quản Hạt trưởng, bề trên các dòng tu cùng đông đảo các linh mục học trò trong và ngoài giáo phận Sài Gòn. Đến hiệp dâng Thánh lễ có đông đảo quý tu sĩ nam nữ, gia đình và bà con giáo dân đến từ các giáo xứ.
Xem Hình
Trước lễ, Lm Giuse Bùi Công Trác - Giám đốc ĐCV đọc tiểu sử cha cố Phaolô Lê Tấn Thành.
-11.12.1927: Sinh tại Thuận Giao Bình Dương
- 14.12.1927: Rửa tội tại Lái Thiêu
- 14.08.1939: Vào Tiểu chủng viện Thánh Giuse
- 11.08.1945: Vào Đại chủng viện Thánh Giuse
- 14.08.1953: Lên đường du học Pháp
- 11.08.1954: Chịu chức phó tế tại Paris
- 29.06.1955: Chịu chức linh mục tại Nhà thờ Đức Bà Paris
- 08.09.1960: Về Việt Nam
- 1960 - 2005: Phục vụ tại ĐCV Thánh Giuse
- 1987 - 1992: Phó giám đốc ĐCV Thánh Giuse
- 1992 - 2005: Giám Đốc ĐCV Thánh Giuse
- 2005 - 2018: Nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng Chí Hoà
- Ngày 07.10.2018, Lễ Đức Mẹ Mân Côi (cùng ngày giỗ cha Wibeau, bề trên tiên khởi), ngài đã về nhà Cha, hưởng thọ 91 tuổi với 63 năm linh mục.
Khởi đầu thánh lễ, Đức cha Phêrô ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ:
Chúng ta tụ họp chung quanh bàn thánh Chúa và chung quanh linh cửu cha bề trên Phaolô Lê Tấn Thành là một người anh em trong hàng linh mục, và cũng là một người thầy người cha đáng kính đáng mến. Mỗi thánh lễ đều là một lễ tế tạ ơn. Chúng ta dâng thánh lễ hôm nay để tạ ơn Chúa đã ban Đức Giêsu Kitô là quà tặng vô giá, đồng thời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta cha bề trên Phaolô, một trong những trụ cột của TGP thành phố, một nhà đào tạo tâm huyết đối với nhiều thế hệ linh mục. Xin dâng ngài cho Chúa, Đấng mà suốt đời ngài đã tin tưởng và tận tụy phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng.Xin Chúa đón nhận ngài vào nước của Chúa, nước của bình an niềm hạnh phúc trong Thánh Thần.
Đức cha Phêrô giảng lễ:
Chúng ta đang hiện diện trong một Thánh lễ có nhiều linh mục hơn giáo dân. Ngoài những vị linh mục tại Sài Gòn, còn có các vị đến từ Mỹ Tho, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết và Đà Lạt... Điều này giúp chúng ta hiểu vị linh mục chúng ta tiễn đưa hôm nay đã đào tạo rất nhiều linh mục. Cuộc đời của ngài gắn liền với Chủng viện cho đến khi về nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng Chí Hoà. Cuối đời, lúc nằm bệnh viện, ngài cũng chỉ mong về Chủng viện để nói với Giám mục giáo phận về Chủng viện.
Khi nhớ lại chân dung ngài trong vai trò đào tạo, chắc quý vị cũng đồng ý với tôi trong nhận xét “Cha giáo Phaolô là vị linh mục sống tinh thần nghèo khó, tự hủy như Đức Kitô”. Ngài toàn tâm toàn ý lo việc đào tạo các linh mục. Một đàng ngài rất nghiêm khắc, đàng khác ngài rất thương học trò. Ngài là một nhà trí thức uyên thâm, sống đơn giản trong cách ăn mặc cũng như trong lời nói, không những trao cho học trò tri thức mà còn kiến thức sống để thành các linh mục như lòng Chúa mong ước.
Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam, cách riêng chủng viện, một nhà đào tạo thánh thiện. Cùng với tâm tình đó, chúng ta không những dâng lời cầu nguyện cho ngài ở đây mà còn về giáo xứ cầu nguyện cho ngài nữa.
Cuối cùng, như trong bài đọc 2 thư Thánh Phaolô gởi Timôthê: "Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin". Phải chăng đây cũng là tâm tình dành cho ngài: “Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến, trông đợi Người xuất hiện". Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban nhiều phần thưởng đời đời, ban triều thiên công chính cho cha bề trên chúng con. Amen.
Sau lời nguyện hiệp lễ, linh mục GB Nguyễn Minh Hùng đại diện dòng tộc dâng lời tri ân.
Đức cha Antôn Vũ Huy Chương cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt cha cố Phaolô.
Sau đó, khi đưa linh cữu ngài được đưa đi hỏa tang ở Trung tâm hỏa tang Bình Hưng Hòa.
Thân xác từ bụi đất rồi trở về cát bụi, chờ đợi ngày thân xác sống lại trong sự sống bất diệt của Đức Kitô Phục sinh.Trong mạch thời gian, sự sống và cái chết đổi chỗ lẫn nhau. Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Trầm tư trước cái chết để nghĩ về sự như nối dài cuộc sống bình thường đến cõi thiêng liêng. Con người sinh ra ở trần gian không phải để rồi vĩnh viễn cư ngụ tại đó, mà là khởi đầu một cuộc hành trình về với Chúa. Tham dự lễ an táng, với lời ca kinh hạt nguyện cầu, cùng với niềm xác tín vào Lời của Đấng Phục Sinh: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống.Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết”.
Con người càng lớn lao, càng giản dị. George Washington (1732-1799) là Tổng thống đầu tiên và được bình chọn là Tổng thống vĩ đại thứ hai của Hoa Kỳ sau Abraham Lincoln. George Washington được người dân Mỹ tôn sùng, vậy mà khi mất ông cũng chỉ yên nghỉ trong ngôi mộ rất bình thường không có gì đặc biệt so với ngôi mộ của những người khác… Tiếng tăm của một người để lại do cuộc đời tận tụy cống hiến, phụng sự cho đất nước chứ không phải do cái hào nhoáng bên ngoài của lăng mộ. Cuộc đời của cha bề trên Phaolô nhà đào tạo thánh thiện được tưởng thưởng bằng niềm hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa. Trong sự tiễn đưa ấm áp nghĩa tình của các thế hệ linh mục học trò, trong sự đón nhận ấm áp của đất trời...cha bề trên thật sự vui mừng về với Thiên Chúa Tình Yêu.
Chính trong khát vọng về với Thiên Chúa, cội nguồn sự sống mà thi sĩ Tagore đã dâng lời kinh tha thiết:
“Như đàn hạc hoài hương
Bay thẳng về tổ ấm
Trên đỉnh núi vút cao
Qua vùng trời thăm thẳm
Lên tận chốn huyền siêu”. (Gitanjali 103,4).
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Khánh Thành Nhà Thờ Giáo Xứ Việt An – Giáo Phận Đà Nẵng, 10 / 10 / 2018
Tôma Trương Văn Ân
16:46 10/10/2018
Sơ lược:
Nhà thờ Giáo xứ Việt An tọa lạc tại thôn Đông Nhì, xã Bình Lâm, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam, cách Tòa giám mục Đà Nẵng khoản 70 km về hướng tây nam, từ ngã tư Hà Lam đi về hướng tây trên quốc lộ 14 E khoản hơn 20 Km.
Xem Hình
Giáo họ Việt An được Đấng Bản quyền thành lậpnăm 1939, thuộc Giáo xứ An Sơn, do Cha Minh Ái quản xứ. Nhà thờ của Họ Đạo Việt An bị tàn phá trong chiến tranh, năm 1971 Giáo họ thuộc Giáo xứ Hà Lam. Sau ngày thống nhất đất nước 1975, khu đất của Giáo họ, Chính Quyền trưng dụng. Vì thế, Giáo dân duy trì đời sống Đức tin tại gia đình và nhà thờ Giáo xứ Hà Lam cách đó 24 Km. Sau rất nhiều năm với nhiều Cha Quản xứ, trong những thời gian kế tiếp nhau: Cha Giuse Châu Ngọc Tri (1989 đến 1998 )- hiện nay làm Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng; Cha An-phong Nguyễn Hữu Long (1998 đến 2000 ) hiện nay làm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Hưng Hóa; Cha Giuse Nguyễn Trung Thành (2000); Cha Phê-rô Hoàng Gia Thành ( 2001 đến 2007) và Cha đương kim Quản xứ Giuse Huỳnh Công Duy Minh ( từ 12 / 07 / 2007 đến nay ). Các Cha và cộng đoàn Giáo Họ đã kiên trì đề đạt nguyện vọng nhu cầu Tôn Giáo chính đáng của Người dân với Chính Quyền. Cuối năm 2007, Chính Quyền chính thức cấp khu đất hiện nay để xây nhà thờ và nhà xứ.Năm 2009, Ngôi nhà nguyện nhỏ lợp tôn khung tre được dựng lên làm nơi nguyện cầu yêu thương và hiệp nhất trong Thiên Chúa, đồng thời xây dựng hàng rào phân định ranh giới. Trong dịp mừng Kim Khánh thành lập Giáo phận Đà Nẵng ( 1963 – 2013 ), ngày 26 / 9 / 2012, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng nâng Giáo họ Việt An lên thành Giáo xứ Việt An, Giáo xứ nhận Thánh Tâm Chúa Giê-su làm bổn mạng, Cha Giuse Huỳnh Công Duy Minh là Cha Quản xứ tiên khởi Giáo xứ Việt An.
Ngày 11 / 8 / 2015, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã chủ sự Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ. Nhờ Ơn Thiên Chúa, qua Giáo Hội, quý Ân nhân và nổ lực hết mình của Cộng đoàn, sau hơn 3 năm kiến thiết xây dựng, Ngôi nhà thờ được hoàn thành.
Hiện nay Giáo xứ Việt An có khoản 650 người, sống rải rác trong các xã Tân An, Quế Thọ, Bình Lãnh, Bình Lâm của vùng trung du miền núi huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
Thánh lễ tạ ơn, khánh thành nhà thờ Giáo xứ Việt An:
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ Trà Kiệu và Thánh Cả Giuse, nhân dịp khánh thành nhà thờ, Lúc 9 giờ ngày 10 / 10 / 2018, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã chủ sự Nghi thức cắt băng khánh thành nhà thờ và Thánh lễ đồng tế: Tạ ơn, Cung hiến Bàn thờ và làm phép Thánh hóa nhà thờ Giáo xứ Việt An.
Cha Tổng Đại diện Bonaventura, Quý Cha, quý Ân nhân và Đại diện Hội đồng mục vụ các Giáo xứ trong Giáo phận cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện với Giáo xứ. Chính Quyền và Đại diện các Tôn Giáo bạn: Tin Lành, Phật Giáo và Cao Đài cùng chia sẻ niềm vui với Giáo xứ.
Qua đoạn Tin Mừng ông Gia-kêu trèo lên cây để được nhìn thấy Chúa Giê-su đi qua (Lc 19, 1-10), Đức Giám Mục mời gọi mỗi người cách đặc biệt trong cộng đoàn có những sáng kiến vươn lên, những thiện chí yêu thương hy vọng và hội nhập, những giá trị tốt đẹp của cuộc đời.
Cuối Thánh lễ, Cha Quản xứ Giuse và ông Trưởng Ban Thường vụ Hội đồng mục vụ có lời cám ơn cách đặc biệt đến: Đức Cha Giuse đương kim Giám mục Giáo phận Đà Nẵng; Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Giáo phận Lạng Sơn cao bằng – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã yêu thương nâng đỡ Giáo xứ Việt An rất nhiều trong thời gian là Linh mục Quản xứ, và nay trong dịp Khánh thành, Ngài đã cầu nguyện, gửi Thư Chúc mừng và tặng quà; Đức Cha An-phong Nguyễn Hữu Long – Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Hưng Hóa ( nguyên Linh mục quản xứ). Cha Quản xứ và ông Trưởng ban cũng không quên cám ơn Quý Cha đồng tế, cám ơn Chính Quyền các cấp Tỉnh Quảng Nam, Quý Ân nhân, Quý Hội đồng mục vụ các Giáo xứ, các Ban ngành trong Giáo xứ Việt An, Ban Truyền thông và tất cả những người cộng tác cho sự phát triển và hoàn thành Ngôi nhà thờ. Cha và Ông Trưởng Ban cũng nói lên tâm tình tri ân Tiền nhân, trân trọng hiện tại và cùng cộng tác cho một tương lai phát triển.
Đáp từ, Đức Cha Giuse chủ tế cùng mời gọi cộng đoàn hiện diện cất lên lời ca LÊN NÚI SION: “…. Hôm nay đáng ghi muôn đời, hôm nay Chúa thương Dân Người….” cùng ca vang lời tạ ơn Thiên Chúa, tri ân Tiền nhân và Ân nhân…. Tất cả là hồng ân trong tình Chúa và tình người. Ngài mời gọi cùng chia sẻ sự hiệp thông, những giá trị phục vụ, niềm vui và an bình. Đức Cha đã có lời cám ơn và lời chúc tốt đẹp đến với Chính Quyền, các Vị Đại diện các Tôn Giáo và tất cả mọi người hiện diện.
Cuối Thánh lễ, Cộng đoàn cùng Chầu Mình Thánh Chúa, tạ ơn vì mọi ơn lành Thiên Chúa tuôn đổ cho Giáo xứ Việt An.
Những tấm hình lưu niệm và liên hoan chia sẻ niềm vui của Đức Giám Mục, quý Cha, Quý Quan khách với cộng đoàn Giáo xứ, ghi một dấu mốc thật tuyệt vời vào trang lịch sử của Giáo xứ Việt An.
Nhà thờ Giáo xứ Việt An có diện tích xây dựng: dài 31m x rộng 16m = 496 m2, tháp chuông giữa cao 24m với 2 tháp lững hai bên mang phong cách cổ điển kết hợp với hiện đại, có khoản 400 chổ ngồi. Tầng dưới nhà thờ có phòng đa năng rộng thoáng. Nhà xứ bên cạnh xây dựng chưa xong, hiện đã thành hình 6 phòng, có những phòng tường chưa tô và chưa có cửa. Dự kiến các phòng dùng cho các sinh hoạt mục vụ và dạy Giáo lý cho con em trong Giáo xứ. xin Thiên Chúa ban nhiều ơn cho quý vị Ân nhân trong việc quảng đại chia sẻ, để việc hoàn thành nhà xứ được tốt đẹp trong một tương lai gần.
Toma Trương Văn Ân
Tài liệu tham khảo:
- Lịch sử Giáo xứ Việt An
- https://www.giaophandanang.org/viet-an-dat-vien-da-xay-dung-nha-tho-giao-xu.html
Nhà thờ Giáo xứ Việt An tọa lạc tại thôn Đông Nhì, xã Bình Lâm, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam, cách Tòa giám mục Đà Nẵng khoản 70 km về hướng tây nam, từ ngã tư Hà Lam đi về hướng tây trên quốc lộ 14 E khoản hơn 20 Km.
Xem Hình
Giáo họ Việt An được Đấng Bản quyền thành lậpnăm 1939, thuộc Giáo xứ An Sơn, do Cha Minh Ái quản xứ. Nhà thờ của Họ Đạo Việt An bị tàn phá trong chiến tranh, năm 1971 Giáo họ thuộc Giáo xứ Hà Lam. Sau ngày thống nhất đất nước 1975, khu đất của Giáo họ, Chính Quyền trưng dụng. Vì thế, Giáo dân duy trì đời sống Đức tin tại gia đình và nhà thờ Giáo xứ Hà Lam cách đó 24 Km. Sau rất nhiều năm với nhiều Cha Quản xứ, trong những thời gian kế tiếp nhau: Cha Giuse Châu Ngọc Tri (1989 đến 1998 )- hiện nay làm Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng; Cha An-phong Nguyễn Hữu Long (1998 đến 2000 ) hiện nay làm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Hưng Hóa; Cha Giuse Nguyễn Trung Thành (2000); Cha Phê-rô Hoàng Gia Thành ( 2001 đến 2007) và Cha đương kim Quản xứ Giuse Huỳnh Công Duy Minh ( từ 12 / 07 / 2007 đến nay ). Các Cha và cộng đoàn Giáo Họ đã kiên trì đề đạt nguyện vọng nhu cầu Tôn Giáo chính đáng của Người dân với Chính Quyền. Cuối năm 2007, Chính Quyền chính thức cấp khu đất hiện nay để xây nhà thờ và nhà xứ.Năm 2009, Ngôi nhà nguyện nhỏ lợp tôn khung tre được dựng lên làm nơi nguyện cầu yêu thương và hiệp nhất trong Thiên Chúa, đồng thời xây dựng hàng rào phân định ranh giới. Trong dịp mừng Kim Khánh thành lập Giáo phận Đà Nẵng ( 1963 – 2013 ), ngày 26 / 9 / 2012, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng nâng Giáo họ Việt An lên thành Giáo xứ Việt An, Giáo xứ nhận Thánh Tâm Chúa Giê-su làm bổn mạng, Cha Giuse Huỳnh Công Duy Minh là Cha Quản xứ tiên khởi Giáo xứ Việt An.
Ngày 11 / 8 / 2015, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã chủ sự Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ. Nhờ Ơn Thiên Chúa, qua Giáo Hội, quý Ân nhân và nổ lực hết mình của Cộng đoàn, sau hơn 3 năm kiến thiết xây dựng, Ngôi nhà thờ được hoàn thành.
Hiện nay Giáo xứ Việt An có khoản 650 người, sống rải rác trong các xã Tân An, Quế Thọ, Bình Lãnh, Bình Lâm của vùng trung du miền núi huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
Thánh lễ tạ ơn, khánh thành nhà thờ Giáo xứ Việt An:
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ Trà Kiệu và Thánh Cả Giuse, nhân dịp khánh thành nhà thờ, Lúc 9 giờ ngày 10 / 10 / 2018, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã chủ sự Nghi thức cắt băng khánh thành nhà thờ và Thánh lễ đồng tế: Tạ ơn, Cung hiến Bàn thờ và làm phép Thánh hóa nhà thờ Giáo xứ Việt An.
Cha Tổng Đại diện Bonaventura, Quý Cha, quý Ân nhân và Đại diện Hội đồng mục vụ các Giáo xứ trong Giáo phận cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện với Giáo xứ. Chính Quyền và Đại diện các Tôn Giáo bạn: Tin Lành, Phật Giáo và Cao Đài cùng chia sẻ niềm vui với Giáo xứ.
Qua đoạn Tin Mừng ông Gia-kêu trèo lên cây để được nhìn thấy Chúa Giê-su đi qua (Lc 19, 1-10), Đức Giám Mục mời gọi mỗi người cách đặc biệt trong cộng đoàn có những sáng kiến vươn lên, những thiện chí yêu thương hy vọng và hội nhập, những giá trị tốt đẹp của cuộc đời.
Cuối Thánh lễ, Cha Quản xứ Giuse và ông Trưởng Ban Thường vụ Hội đồng mục vụ có lời cám ơn cách đặc biệt đến: Đức Cha Giuse đương kim Giám mục Giáo phận Đà Nẵng; Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Giáo phận Lạng Sơn cao bằng – nguyên Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã yêu thương nâng đỡ Giáo xứ Việt An rất nhiều trong thời gian là Linh mục Quản xứ, và nay trong dịp Khánh thành, Ngài đã cầu nguyện, gửi Thư Chúc mừng và tặng quà; Đức Cha An-phong Nguyễn Hữu Long – Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Hưng Hóa ( nguyên Linh mục quản xứ). Cha Quản xứ và ông Trưởng ban cũng không quên cám ơn Quý Cha đồng tế, cám ơn Chính Quyền các cấp Tỉnh Quảng Nam, Quý Ân nhân, Quý Hội đồng mục vụ các Giáo xứ, các Ban ngành trong Giáo xứ Việt An, Ban Truyền thông và tất cả những người cộng tác cho sự phát triển và hoàn thành Ngôi nhà thờ. Cha và Ông Trưởng Ban cũng nói lên tâm tình tri ân Tiền nhân, trân trọng hiện tại và cùng cộng tác cho một tương lai phát triển.
Đáp từ, Đức Cha Giuse chủ tế cùng mời gọi cộng đoàn hiện diện cất lên lời ca LÊN NÚI SION: “…. Hôm nay đáng ghi muôn đời, hôm nay Chúa thương Dân Người….” cùng ca vang lời tạ ơn Thiên Chúa, tri ân Tiền nhân và Ân nhân…. Tất cả là hồng ân trong tình Chúa và tình người. Ngài mời gọi cùng chia sẻ sự hiệp thông, những giá trị phục vụ, niềm vui và an bình. Đức Cha đã có lời cám ơn và lời chúc tốt đẹp đến với Chính Quyền, các Vị Đại diện các Tôn Giáo và tất cả mọi người hiện diện.
Cuối Thánh lễ, Cộng đoàn cùng Chầu Mình Thánh Chúa, tạ ơn vì mọi ơn lành Thiên Chúa tuôn đổ cho Giáo xứ Việt An.
Những tấm hình lưu niệm và liên hoan chia sẻ niềm vui của Đức Giám Mục, quý Cha, Quý Quan khách với cộng đoàn Giáo xứ, ghi một dấu mốc thật tuyệt vời vào trang lịch sử của Giáo xứ Việt An.
Nhà thờ Giáo xứ Việt An có diện tích xây dựng: dài 31m x rộng 16m = 496 m2, tháp chuông giữa cao 24m với 2 tháp lững hai bên mang phong cách cổ điển kết hợp với hiện đại, có khoản 400 chổ ngồi. Tầng dưới nhà thờ có phòng đa năng rộng thoáng. Nhà xứ bên cạnh xây dựng chưa xong, hiện đã thành hình 6 phòng, có những phòng tường chưa tô và chưa có cửa. Dự kiến các phòng dùng cho các sinh hoạt mục vụ và dạy Giáo lý cho con em trong Giáo xứ. xin Thiên Chúa ban nhiều ơn cho quý vị Ân nhân trong việc quảng đại chia sẻ, để việc hoàn thành nhà xứ được tốt đẹp trong một tương lai gần.
Toma Trương Văn Ân
Tài liệu tham khảo:
- Lịch sử Giáo xứ Việt An
- https://www.giaophandanang.org/viet-an-dat-vien-da-xay-dung-nha-tho-giao-xu.html
Tài Liệu - Sưu Khảo
Nhân sự kiện giáo phận Qui Nhơn kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng : Đã Làm Được Gì Trong'' Mục Vụ Ôn Cố'' ?
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
19:40 10/10/2018
ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ TRONG “MỤC VỤ ÔN CỐ”
(Một chút cảm nhận lịch sử nhân sự kiện giáo phận Qui Nhơn kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng)
“ÔN CỐ”: đó là “một chương quan trọng” trong chương trình “Mục Vụ Năm Thánh 400 năm” của giáo phận Qui Nhơn.
Mặc dù Năm Thánh 400 năm đã trôi qua, nhưng các định hướng mục vụ của Năm Thánh lại cần phải dấn thân thực hiện như là những công cuộc “mới bắt đầu”.
Một trong những “định hướng” quan trọng và là nền tảng của mục vụ Năm Thánh đó chính là “ÔN CỐ”. Chúng ta thử tìm lại những “bài học ôn cố” để từ đó rút ra những áp dụng mục vụ cụ thể cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá hôm nay trên quê hương giáo phận.
I. NĂM THÁNH QUI NHƠN VÀ CHƯƠNG TRÌNH “ÔN CỐ”:
1. Các định hướng “Ôn Cố” của Hội Thánh:
Không thể phủ nhận điều nầy: Năm Thánh giáo phận Qui Nhơn gần như đã được “chuẩn bị cách tiềm tàng” với những định hướng mục vụ của Giáo Hội hoàn vũ cũng như của Giáo Hội Việt Nam xuyên qua những cuộc cử hành Năm Thánh: Đại Năm Thánh 2000 của Giáo Hội hoàn vũ và Năm Thánh của Giáo Hội Việt nam mừng kỷ niệm 350 hai Giáo phận Tông tòa đầu tiên tại Việt Nam…1659-2009 và 60 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam: 1960-2010.
Chúng ta có thể nhận ra “những chuẩn bị tiềm tàng” nầy trong định hướng mang chiều kích “ÔN CỐ” với các văn kiện Huấn quyền sau đây:
1.1/. Định hướng “ôn cố” của Đại Năm Thánh 2000 của Giáo Hội hoàn vũ:
- Để chuẩn bị hướng tới đại Năm Thánh 2000: Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio adveniente), nhấn mạnh: không được quên đi quá khứ:
“Giáo Hội trong ngàn năm thứ nhất được sinh ra nhờ máu của các vị tử đạo: (…). Việc làm chứng cho Chúa Kitô cho đến đổ máu mình ra đã trở nên một di sản chung của những người Công Giáo, Chính Thống Giáo và Thệ Phản, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên trong bài giảng của ngài, khi phong thánh cho các vị tử đạo ở Ugandan (x. Acta Apostolicae 56 -1964- 906). Chứng từ này không thể nào được phép quên đi. Giáo Hội của các thế kỷ đầu tiên, mặc dầu phải đối diện với những khó khăn đáng kể có tính cách tổ chức hóa, cũng đã viết xuống những sổ bộ chứng tích (martyrologies), đặc biệt về những chứng tá của các vị tử đạo. Những sổ bộ chứng tích này, qua các thế kỷ được liên tục thêm vào, và việc ghi danh tích các thánh cũng như các chân phước không phải chỉ kể đến những vị đổ máu ra vì Chúa Kitô, mà còn cả các vị thày dậy đức tin, các nhà truyền giáo, các vị giải tội, các Đức Giám Mục, các linh mục, các trinh nữ, các cặp vợ chồng, các bà góa và các trẻ em nữa.
Trong thế kỷ của chúng ta đây, các vị tử đạo đã trở lại, nhiều vị trong các ngài không có tên tuổi, như những người lính vô danh cho ý muốn cao cả của Thiên Chúa. Giáo Hội phải cố gắng hết sức để chứng tích của họ không bị mất đi.….”[1]
- “Ôn cố” qua tông sắc khai mạc Năm Thánh 2000 “Mầu nhiệm Nhập Thể” (Incarnationis Mysterium): tưởng nhớ và noi gương các thánh tử đạo:
“Được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong suốt năm thánh, chúng ta được tiếp sức để cất cao bài thánh thi tạ ơn Cha bằng tiếng hát: Đạo binh các anh hùng Tử đạo chúc vinh Ngài (Te martyrum candidatus laudat exercitus). Vâng, đây chính là đoàn người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 14). Vì lẽ đó, Hội Thánh trên toàn cõi đất phải hết lòng bảo tồn và ghi sâu trong tâm khảm của mình lời chứng của các vị tử đạo. Khi được củng cố lòng tin nhờ gương sáng của các chiến sỹ đức tin kiên cường thuộc mọi thời đại, ngôn ngữ và sắc tộc, xin cho dân Chúa được tràn đầy xác tín tiến bước qua ngưỡng cửa Thiên niên kỷ thứ ba.”[2]
1.2/. Các định hướng khác của Huấn Quyền để khai triển và đào sâu:
- Cũng đừng quên, trong Năm Đức Tin (2012-2013) để kỷ niệm 50 năm khai mở Công Đồng Vatican II, ĐGH Bênêđictô XV, trong tự sắc “Cánh cửa đức tin” (Porta Fidei) đã lưu ý dân Chúa cần phải ôn lại “lịch sử đức tin”, một việc “ôn cố” cần thiết trong hành trình sống đức tin của dân Chúa. Xin trích:
“Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.”[3]
- Văn kiện hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu tức tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, đã đặc biệt lưu ý đến việc chiêm ngưỡng các Thánh Tử Đạo, như một điểm quy chiếu cần thiết cho công cuộc Tân Phúc âm hoá tại Á Châu. Xin trích:
“Qua các thời đại, Á Châu đã cung cấp cho Giáo Hội và thế giới một đoàn đông đảo các vị Anh Hùng Đức Tin, và từ con tim của Á Châu, trổi lên bài ca vĩ đại: Te martyrum candidatus laudat exercitus (đoàn tử đạo quang huy hùng dũng, máu đào đổ ra minh chứng về Ngài). Đó là bài ca của những vị đã chết vì Đức Kitô trên phần đất Á Châu trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội, và đó cũng là tiếng kêu đầy vui mừng của những người nam và nữ của các thời gần đây, như thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, thánh Lôrensô Ruiz và các bạn tử đạo, thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, thánh Anrê Kim Taegon và các bạn tử đạo. Xin đoàn đông đảo Các Thánh Tử Đạo Á Châu xưa cũng như nay, không ngừng dạy dỗ Giáo Hội tại Á Châu biết thế nào là làm chứng cho Chiên Con mà các ngài đã giặt trắng áo trong máu của Người (x. Kh 7,14). Ước chi các ngài luôn là những chứng nhân bất khuất cho chân lý này, là các Kitô hữu được kêu gọi, luôn luôn và mọi nơi, loan báo không điều gì khác ngoài quyền lực của Thánh Giá Chúa! Và xin cho máu Các Thánh Tử Đạo Á Châu, bây giờ cũng như mãi mãi, là hạt giống sinh sự sống mới cho Giáo Hội tại mọi hang cùng ngõ hẻm của lục địa!”[4]
1.3/. Định hướng “Ôn cố” của Năm Thánh GHVN:
Bám theo “lộ trình ôn cố” như một định hướng nền tảng, Năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam cũng được khai mở và hành động theo những hướng dẫn mục vụ gắn liền với những gương chứng nhân tử đạo của công cuộc loan báo Tin Mừng.
- Văn thư của Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc dành cho Giáo Hội tại Việt Nam nhân dịp Năm Thánh đã long trọng nhắc đến các anh hùng tử đạo:
“...Việc khai mạc Năm Thánh được cử hành vào chính ngày Lễ Kính 117 Vị Tử Đạo Việt Nam, điều đó mang một ý nghĩa đặc biệt. Thật vậy, cơ hội này mời gọi chúng ta hiệp lòng dâng lời cầu nguyện để cảm tạ các vị anh hùng đức tin đã đổ máu mình làm chứng cho lòng trung thành và tình yêu mến đối với Chúa Giêsu-Kitô. Những giọt máu đào các ngài đổ ra trên mảnh đất Việt Nam, kết hợp với Máu Chúa Kitô trên Thánh giá, nay đã làm nẩy sinh một Giáo Hội Công Giáo phồn vinh, đang tăng trưởng nhanh chóng và mang đầy hứa hẹn giữa vô vàn khó khăn và thử thách. Năm Thánh 2010 mời gọi chúng ta nhìn lại, với tâm tình tri ân cảm tạ, lịch sử ngót 500 năm công cuộc Phúc Âm hoá một Đất Nước, nơi mà vào năm 1533, Chúa Quan Phòng nhân hậu đã gửi tới vị thừa sai tiên khởi, gieo vãi những hạt giống Phúc Âm đầu tiên, để rồi những hạt giống ấy triển nở cách lạ lùng xuyên qua những bước thăng trầm của lịch sử. Năm Thánh 2010 cũng đánh dấu chặng đường nửa thế kỷ lịch sử kể từ khi Đức Giáo Hoàng, Chân Phước Gioan XXIII, thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo vào năm 1960 và quyết định ký thác các Giáo Hội địa phương tại Việt Nam cho sự hướng dẫn mục vụ của các Giám mục bản xứ. Nhìn lại lịch sử đầy ân sủng và phúc lành do Thiên Chúa ban, chúng ta chỉ biết cảm tạ Thiên Chúa và cất tiếng hát ngợi khen: “vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương !” (Tv 136,1).[5]
- Thư Công bố Năm Thánh của HĐGMVN cũng long trọng nhắc đến các chứng nhân Tử Đạo:
“Năm 2010 ghi dấu những sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam: 350 năm thiết lập hai giáo phận tông toà Đàng Ngoài và Đàng Trong (1659-2009), 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010). Đây là thời điểm cho chúng ta nhìn lại quá khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học của lịch sử….”[6]
- Và dĩ nhiên, khi nói tới “bài học lịch sử” thì phải hướng đến các chứng nhân Tử Đạo:
“Các Thánh Tử đạo đã nhiệt tâm làm chứng cho đức tin đến độ dám hy sinh cả mạng sống. Máu các ngài đổ ra đã tưới thắm mảnh đất quê hương, trở nên hạt giống làm nẩy sinh nhiều cộng đoàn tín hữu trên đất nước Việt Nam. Khai mạc Năm Thánh vào ngày lễ Các Thánh Tử Đạo mời gọi chúng ta tạ ơn Chúa về hồng ân đức tin đã lãnh nhận, tri ân các bậc tiền nhân, các ân nhân và chứng nhân đã gieo vãi và vun trồng hạt giống đức tin trên quê hương đất nước nầy, đồng thời ý thức giá trị cao quý của hồng ân đức tin để sống và làm chứng cho Tin Mừng, tích cực xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô trong môi trường Chúa sai chúng ta đến…”[7]
2. Định hướng “Ôn Cố” của Năm Thánh” của Giáo phận Qui Nhơn:
Được thúc đẩy và hướng dẫn bới những giáo huấn nền tảng và cần thiết trên, giáo phận Qui Nhơn khi chuẩn bị mở Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng cũng đã lưu ý đặc biệt định hướng mục vụ mang chiều kích “Ôn Cố”; nội dung ý nghĩa nầy được phản ảnh qua nhiều biểu hiện cụ thể sau:
2.1/. Những bản Kinh Năm Thánh của Giáo phận Qui Nhơn:
- Bản Kinh Chuẩn Bị Năm Thánh:
“…chúng con chúc tụng và cảm tạ Chúa vì gần bốn trăm năm qua Chúa luôn làm muôn điều kỳ diệu cho Giáo phận Qui Nhơn chúng con. Chúa đã gửi đến các nhà truyền giáo nhiệt thành thánh thiện / và nhiều người kế tục không ngừng, dấn thân gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất thân yêu nầy. Xin cho chúng con biết giữ gìn và làm sinh hoa kết quả hạt giống đức tin mà chúng con đã lãnh nhận. (…). Xin Chúa ban cho chúng con được đầy ơn Chúa Thánh Thần và lòng nhiệt thành truyền giáo, biết theo gương các bậc tiền nhân, can trường hy sinh và sống bác ái, biết góp công góp sức xây dựng Giáo phận, tái thiết các giáo xứ mà các ngài đã dày công gầy dựng và hăng say làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc...”[8]
- Bản kinh trong Năm Thánh:
“…Suốt 400 năm qua, trên cuộc lữ hành đức tin đầy chông gai và thử thách, nhờ có Chúa luôn đồng hành để hướng dẫn, nâng đỡ, trợ giúp, với lòng nhiệt thành của các vị thừa sai, bao hy sinh của các chứng nhân anh dũng, và công khó của các thế hệ cha ông, Lời Chúa đã lan rộng khắp nơi, hình thành các giáo phận của cả miền nam đất Việt. Chúng con xin cùng nhau cúi đầu thống hối, vì bao tội lỗi bất trung và thiếu sót, trước tình yêu hải hà của Chúa, và ơn sâu nghĩa nặng của các bậc tiền nhân….”[9]
2.2/. Các thư mục vụ của Chủ chăn Giáo phận Qui Nhơn:
- Thư Mùa Chay và Tết Mậu Tuất 2018:
“Đối với Giáo phận Qui Nhơn chúng ta, Mùa Chay năm nay diễn ra trong khung cảnh Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng. Đây là cơ hội thuận tiện để chúng ta nhìn về quá khứ và học được những mẫu gương tuyệt vời về sự thánh thiện, tình yêu và nhiệt tình tông đồ của các bậc tiền nhân, đến độ các ngài đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho Thiên Chúa và tha nhân…”[10]
- Bài giảng trong Thánh lễ Khai Mạc Năm Thánh tại Làng Sông:
“Thánh lễ khai mạc này được lồng trong khung cảnh phụng vụ của lễ kính trọng thể Chân phước Anrê Phú Yên, học trò của các thừa sai Dòng Tên, tử đạo năm 1644. Ngài là hoa trái đầu tiên của hạt giống Tin Mừng chỉ sau 26 năm hạt giống này được gieo trồng vào mảnh đất Giáo phận. Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi và là người chứng thứ nhất của Giáo Hội Việt Nam đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân phước vào Chúa Nhật, ngày 05 tháng 03 năm 2000, là Năm thánh của Giáo Hội hoàn vũ. (…).
Hòa chung với dòng máu tử đạo của các chứng nhân đức tin, còn có biết bao mồ hôi và nước mắt của các thế hệ tiền nhân qua dòng thời gian suốt 400 năm qua, từ buổi sơ khai tại cảng thị Nước Mặn một thời vang bóng cho đến hôm nay. Đó là các thừa sai Dòng Tên đã lập cư sở đầu tiên của dòng tại Nước Mặn, vừa làm khởi điểm truyền giáo, vừa làm chiếc nôi của chữ quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. Tiếp đến là Đức cha Phêrô Lambert de La Motte, vị Đại diện Tông tòa tiên khởi của Giáo Đàng Trong, người đã truyền chức linh mục cho người Việt tiên khởi là cha Giuse Trang, quê ở Quảng Ngãi, vào ngày 31 tháng 03 năm 1668 và đã thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá của Đàng Trong tại An Chỉ (Quảng Ngãi) vào năm 1671. Từ đó đến nay các vị Giám mục cùng với các linh mục, tu sĩ, thầy giảng và giáo dân, đã đồng lao cộng khổ để canh tác trên cánh đồng truyền giáo của Giáo phận, để làm cho hạt giống Tin Mừng tiếp tục sinh sôi nẩy nở, bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Thánh lễ hôm nay được cử hành tại khuôn viên chủng viện cổ kính Làng Sông, nơi xuất thân của một số Giám mục, biết bao linh mục và tông đồ giáo dân, giữa hai hàng sao đại thụ 125 năm tuổi, bên cạnh Tòa Giám mục ngày xưa, như chứng tích không phai nhòa của một lịch sử truyền giáo lâu dài, để dẫn đưa mỗi người chúng ta trở về nguồn, với tâm tình tri ân cảm tạ đối với Thiên Chúa, vì biết bao ơn lành Ngài đã ban xuống cho Giáo phận Qui Nhơn chúng ta trong suốt 400 năm qua, đồng thời cũng để ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân đã hiến dâng mạng sống, nước mắt mồ hôi, cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất mẹ Qui Nhơn.
Giờ đây Năm thánh được mở ra để mọi người con đất mẹ được dịp thể hiện những tâm tình ấy, đồng thời cũng để cầu xin Thiên Chúa tiếp tục ban ơn giúp đỡ để mỗi người chúng ta sống xứng đáng với bao hồng ân đã lãnh nhận và noi gương các bậc tiền nhân, tiếp tục làm cho hạt giống đức tin mà các ngài đã dày công gieo vãi được trổ sinh hoa trái dồi dào.”[11]
- Diễn từ của của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli:
“…Hôm nay, tôi muốn suy gẫm về một ít sự kiện quan trọng được cắm rễ sâu trong lịch sử của anh chị em, bởi vì chúng ta góp phần làm nên cuộc hành hương vĩ đại đã khởi sự khi Chúa Giêsu ủy thác cho các Tông đồ và môn đệ của Ngài ra đi đến tận cùng thế giới, “để làm cho muôn dân trờ thành môn đệ của Ngài, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Các vị truyền giáo dòng Tên từ Hội An đã đến lập cư sở tại Nước Mặn, Qui Nhơn vào tháng 7 năm 1618 và tất cả chúng ta, lớp con cháu tinh thần của những con người dũng cảm ấy, có thể vui mừng và tự hào về tầm nhìn, lòng can đảm và niềm tin của các vị.
Một mốc quan trọng khác trong cuộc hành hương đức tin của cộng đoàn Giáo phận anh chị em là việc thiết lập Giáo phận Đại diện Tông tòa Đàng Trong vào năm 1659, đã đặt nền tảng cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.
Cuộc hành trình đức tin mà anh chị em đang tiến bước là con đường dài. Từ Rôma đến Qui Nhơn, chúng ta có thể nhìn thấy và cử hành với niềm vui trên con đường đức tin cúa mình. Tuy nhiên, việc kỷ niệm thời điểm lịch sử này chỉ đạt được ý nghía trọn vẹn khi chúng ta có một cam kết dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Ấm hóa….”[12]
- Bảy bức thư mục vụ gởi cho 7 giáo hạt trong dịp cử hành Năm Thánh tại giáo hạt: Quảng Ngãi, Bồng Sơn, Kim Châu, Gò Thị, Qui Nhơn, Mằng Lăng, Tuy Hoà. Trong những dịp cử hành “Thánh lễ Trạm” nầy, Đức Giám Mục giáo phận đã khơi lại dòng lịch sử hào hùng đã chảy qua phần đất của các giáo xứ thuộc địa bàn giáo hạt hiện hay.
II. GIÁO PHẬN QUI NHƠN VÀ VIỆC ÁP DỤNG MỤC VỤ ÔN CỐ
1. Những công việc “trong nhà”:
Việc “tri ân cảm tạ các tiền nhân” và noi gương các ngài trong việc thể hiện niềm tin, theo những gì mà các “văn bản hướng dẫn”, chắc chắn không ít thì nhiều đã được cộng đoàn dân Chúa khắp nơi trong giáo phận thực hiện; cho dù với con mắt trần tục, chúng ta có thể không nhận ra những biểu hiện cụ thể, nhưng phải xác tín rằng, Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ tác động trên dân Chúa qua mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội.
Ở đây, chỉ xin dừng lại những việc làm mang tính “ôn cố” mà mọi người có thể thấy được, xem được và có thể vận dụng như một phương thế cho công cuộc tân phúc âm hoá trong bối cảnh xã hội hôm nay.
a/. Trước hết: đó là tài liệu lịch sử chính thức của Giáo phận qua cuốn sách mang tên: GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN.
Để nắm bắt khái quát nội dung tập sách quan trọng được phát hành đúng vào dịp Khai mạc Năm thánh nầy, chúng ta thử đọc lại đôi dòng trong lời giới thiệu của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, nguyên Giám Mục giáo phận Qui Nhơn:
“(…).Trong tinh thần "ôn cố tri tân" chúng ta lần theo dấu vết lịch sử, trước là để cảm đội ơn Chúa đã luôn phù trì che chở và ban sức mạnh cho các bậc tiền nhân chúng ta; sau là để noi gương anh dũng của cha ông trong việc kế tục sự nghiệp mở mang Nước Chúa và rao giảng Tin Mừng. Ngày nay người Kitô hữu chúng ta vẫn không thiếu những chướng ngại to lớn đang ngăn trở đức tin của mình, đáng sợ nhất là não trạng tôn sùng vật chất, chạy theo lợi nhuận, đang là nguy cơ làm cho đức tin người tín hữu bị lung lay hầu như tận gốc.
Để củng cố niềm tin Kitô giáo và mời gọi các tín hữu chuẩn bị tích cực đón nhận hồng ân Năm thánh của Giáo phận, Đức Giám Mục Giáo phận đã hoàn tất việc biên soạn và ấn hành quyển Giáo phận Qui Nhơn theo dòng thời gian, căn cứ trên sử liệu được trình bày hết sức khách quan và trung thực, đây là một công trình đáng ghi nhớ cũng như món quà quý báu của Giáo phận Qui Nhơn.
Xin được tóm tắt những cảm nhận và suy tư trên với lời chia sẻ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ sáu ngày 27 tháng 01 năm 2017 tại nguyện đường Santa Marta đã nói rằng: "Anh chị em không thể hiểu đời sống Kitô hữu mà không ghi nhớ ký ức. Anh chị em không thể hiểu đời sống thiêng liêng nếu không ghi nhớ ký ức. Anh chị em không thể sống đời sống Kitô hữu nếu không ghi nhớ ký ức". Ký ức ngài nói đây chính là lịch sử, là nòng cốt để xây dựng và phát triển đức tin Kitô giáo cũng như đời sống của người Kitô hữu.
Xin trân trọng giới thiệu với anh chị em công trình biên khảo lịch sử rất giá trị: Giáo phận Qui Nhơn theo dòng thời gian và ước mong được mọi người đón nhận với tâm tình tạ ơn Chúa và với quyết tâm củng cố đức tin của chính mình và của con cháu. Hãy cầm lấy mà đọc...”[13]
Và nếu “Lời Giới Thiệu” đầu sách mời gọi chúng ta “Hãy cầm lấy mà đọc”, thì nơi những dòng cuối cuốn lịch sử quan trọng nầy đã nêu bật tiêu đích của việc “đọc lại lịch sử” đó là để “viết nên những trang sử truyền giáo mới”:
“Năm thánh sẽ bế mạc vào ngày 26.07.2018, nhưng không phải để khép lại quá khứ và biến nó thành một thứ báu vật trong viện bảo tàng, nhưng Năm thánh là một khung cửa mở ra cho tương lai, để toàn thể Giáo phận lên đường loan báo Tin Mừng theo gương các tiền nhân, viết nên những trang sử truyền giáo mới bằng một cuộc tân Phúc Âm hóa, với nhiệt tình, phương pháp và cách diễn tả mới, phù hợp với thời đại mới, để xây dựng trời mới đất mới trên quê hương Giáo phận Qui Nhơn.”[14]
b/. Tác phẩm thứ hai hoàn thành trước ngày diễn ra đại lễ Tạ ơn-Bế mạc Năm Thánh, đó là cuốn mang tên: KỶ YẾU GIÁO PHẬN QUI NHƠN MỪNG 400 NĂM LOAN BÁO TIN MỪNG.
Đây là một bản toát lược toàn cảnh giáo phận Qui Nhơn về khái quát lịch sử giáo phận, tóm lượt lịch sử và địa lý, địa bàn mục vụ các giáo hạt, giáo xứ, giáo họ biệt lập, các Hội Dòng, các hội đoàn, các sinh hoạt mục vụ trọng điểm, các thánh nhân và danh nhân của giáo phận, các tác phẩm và công trình văn hoá, các trung tâm hành hương và di tích tử đạo…
Cho dù còn nhiều yếu tố phải hoàn chỉnh, bổ sung, nhưng chung chung, đây là một tài liệu quý giá để giới thiệu cho mọi người biết được “bà mẹ Qui Nhơn” 400 năm tuổi đang hiện diện và phát triển thế nào.
c/. Quần thể chủng viện làng Sông: Đây có thể nói được là công trình văn hoá vừa “vật thể” vừa “phi vật thể”.
- “Văn hoá vật thể”: đó chính là các hạng mục của cơ sở chủng viện Làng Sông với bề dày lịch sử trên dưới 170 năm mà chứng tích rõ nét là những hàng sao cao vút; riêng hàng sao ngay lối chính diện có tuổi thọ đúng 125 năm.
Công trình thuộc hạng “quý hiếm” nầy, với những mái nhà rêu phong và các đường nét, hoạ tiết kiến trúc cổ kính được phục chế, đã ghi đậm một thời vang bóng của một trung tâm điều hành và huấn luyện (Toà Giám Mục, chủng viện…) mục vụ cho một giáo phận Qui Nhơn rộng lớn bao gồm từ Quảng Nam đến Khánh Hoà và lên tận Tây nguyên.
- “Văn hoá phi vật thể”: Nơi đây cũng là cái nôi và trung tâm phát triển chữ quốc ngữ trong giai đoạn kiện toàn và củng cố mà nhà in Làng Sông chính là một công cụ hiệu quả và rất hiện đại. Cũng từ địa điểm phục vụ văn hoá chuyên biệt nầy, tủ sách Nước Mặn được hình thành để kế thừa truyền thống văn hoá-văn học về chữ quốc ngữ của nhà in Làng Sông khi xưa. Tủ sách nầy hiện nay đã có trên 50 đầu sách (Trong đó có những cuốn liên quan trực tiếp đến lịch sử 400 năm của giáo phận).
c/. Phòng Truyền thống và “ký ức cha ông”: Không thể không nhắc đến một công trình “ôn cố” đặc biệt đó chính là “PHÒNG TRUYỀN THỐNG GIÁO PHẬN”. Toạ lạc tại dãy lầu tầng trên của khu nhà sở quản lý, phòng truyền thông giáo phận vừa kịp khánh thành đúng vào sáng ngày 26.7.2018. Nơi đây, không phải chỉ là nơi “bảo tàng các cổ vật được sưu tập” mà là “mái nhà xưa của mẹ Qui Nhơn”, nơi cất giữ, chất chứa bao nhiêu kỷ vật và kỷ niệm của cha ông.
Thật vậy, qua các “kỷ vật biết nói” nầy, chúng ta sẽ thấy một “mẹ già Qui Nhơn” với đoàn lũ con cái đã ra đi trên những nẻo đường mục vụ, đã sống qua qua bao thăng trầm dâu bể của thời gian, đã trải qua bao gian nan thử thách…và đã để lại một gia tài thiêng liêng cao quý cho các thế hệ cháu con. Đây chính là một lịch sử sống của giáo phận.
2. Những điểm nhấn văn hoá với Giáo Hội và xã hội Việt Nam:
Trước hết, nếu chọn cột mốc thời gian “tháng 7/1618” để liên hệ đến buổi đầu đón nhận Tin Mừng thì phải nhắc đến “Nước Mặn” nơi mà vào đúng thời điểm trên, các thừa sai Dòng Tên đã “đóng đô” tại đó để hình thành “Cư sở truyền giáo chính thức đầu tiên của Dòng Tên tại Đàng Trong” và cũng là cư sở truyền giáo chính thức của Giáo Hội Công Giáo tại Việt nam vào thế kỷ 17.
Sở dĩ nhắc đến “địa danh” nầy, vì nếu không có biến cố xảy ra “vào tháng 7/1618 tại Nước Mặn”, chắc chắn sẽ không có sự kiện “Qui Nhơn mừng 400 năm đón nhận Tin Mừng”.
Thật vậy, khi nhìn về Miền Trung Việt Nam, nhất là vùng mang biệt danh “liên khu 5” gồm 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, thường ai cũng nghĩ ngay đến hình ảnh và khái niệm “đất cày lên sỏi đá, xứ dân gầy, khỉ ho cò gáy, máu lửa chiến tranh…”, mà ít khi liên tưởng đến: đây chính là “cái nôi” ghi những dấu chân đầu tiên xây dựng nền móng cho hai công trình đáng gọi là “vĩ đại” cho đất nước, dân tộc và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam:
- Công trình văn hóa: TRUNG TÂM GẦY DỰNG CHỮ QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN: NƯỚC MẶN.
- Công trình tôn giáo: CƯ SỞ TRUYỀN GIÁO CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN CỦA CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN TẠI VIỆT NAM: NƯỚC MẶN.
Để khẳng định được “hai điểm nhấn lịch sử” quan trọng nầy, không phải chuyện cứ “ăn theo nói leo” (như một số các nhà nghiên cứu không chuyên vấp phải), mà phải là cuộc “truy lùng” tận ngọn, một cuộc đào bới công phu các chứng tích, các tư liệu liên quan trực tiếp đến chuyên đề lịch sử khá tế nhị và cũng lắm mờ mịt nầy.
Và đây chính là một cố gắng không nhỏ, nếu không nói, là một điểm son chói lọi, trong chương trình mục vụ tổng quát của Giáo Phận Qui Nhơn đón mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng, một đại lễ Tạ ơn mới vừa được long trọng cử hành tại chủng viện Qui Nhơn chiều ngày 26.7.2018 để bế mạc một Năm Thánh đã khai diễn vào cùng ngày năm trước tại tiểu chủng viện Làng Sông (26.7.2017).
a/. Cái nôi của chữ quốc ngữ:
Trước hết, chúng ta hãy để các nhà chuyên môn về sử học và ngôn ngữ lên tiếng.
- Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đã phát biểu tổng kết trong cuộc Hội Thảo Khoa học liên ngành (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện Ngôn ngữ Việt Nam, UBND tỉnh Bình Định…) tại Bình Định ngày 13.01.2016, với chuyên đề: “BÌNH ĐỊNH VỚI CHỮ QUỐC NGỮ”. Xin trích:
“Chữ quốc ngữ trong trạng thái phôi thai, ra đời sớm nhất ở ba trung tâm: Nước Mặn, Hội An và Dinh Chiêm, trong đó Nước Mặn có phần sơm hơn”.[15]
Nhưng thẩm quyền để chuẩn nhận cho “thời điểm lịch sử nầy”, chỉ có những người trong cuộc với những chứng từ của chính những nhân vật đó. Và đây là những chứng nhân lịch sử đó. Chúng ta cùng đọc lại giai đoạn lịch sử đặc biệt nầy qua tài liệu GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN[16]:
2.2.2. Cư sở Nước Mặn, Qui Nhơn.[17]
Được tin cha Buzomi bị bệnh và các thừa sai gặp nạn, nhân có chuyến tàu buôn đầu năm 1618, Bề trên Tỉnh Dòng ở Ma Cao sai hai thừa sai khác đến giúp là cha Pedro Marques (Nhật) và cha Chistoforo Borri (Ý). Cha Marques sẽ đến ở trong khu cư trú của người Nhật nên mặc áo thừa sai, còn cha Borri được sai đến bí mật truyền giáo cho người Việt nên phải cải trang làm đầy tớ trên tàu.
Sau một thời gian chữa bệnh tại tư dinh ông Trần Đức Hòa ở Qui Nhơn, cha Buzomi đã bình phục. Một hôm ông Trần Đức Hòa đi ra Cửa Hàn, có cha Buzomi đi theo và tình cờ gặp cha Borri. Hai cha cùng về Hội An, gặp được cha Marques, cha Pina và hai tu huynh. Trong cuộc gặp gỡ vui vẻ này, các cha thảo luận với nhau về những việc phải làm để đem lại lợi ích thiêng liêng cho khu vực truyền giáo và đã đi đến quyết định: cha Marques ở lại Hội An với tu huynh người Nhật, còn cha Buzomi, cha Pina, cha Borri cùng với tu huynh người Bồ đi theo quan trấn thủ Trần Đức Hòa về Qui Nhơn theo lời mời tha thiết của ông.[18]
Sau đây là lời tường thuật của cha Borri, người trong cuộc: "Chúng tôi bỏ Hội An, cha Buzomi, cha Pina và tôi, để đi Qui Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và tiếp đãi chúng tôi rất đặc biệt. Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt con người bắt buộc ông phải xử như thế. Cho nên rất rõ ràng và hiển nhiên là những sự ông săn sóc phải coi như hiệu quả của Thiên Chúa quan phòng. Ông dành riêng cho chúng tôi một chiếc thuyền để phục dịch một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng chiều đậu bến. Thường thì các hải cảng ở cạnh những thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh Quảng Nghĩa. Nơi đây ông có quyền như ở Qui Nhơn, mọi người đều ra đón, chúc mừng và tỏ lòng qui phục cùng nhận quyền với rất nhiều lễ vật quí và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh quan trấn thủ muốn thế. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy chúng tôi được trọng đãi và vì thế chúng tôi được người ta quí mến và có thịnh tình với chúng tôi. Ông cũng nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp, mỗi lần có vụ xử một trọng tội nào. Chúng tôi chưa mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng lòng ban ngay rồi. Do đó chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không kém quan trấn thủ. Thấy chúng tôi có lòng bác ái và thương xót hết mọi người, nên mọi người đều quí mến và tìm đến chúng tôi...
"Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh, sau tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành riêng cho các ông hoàng bà chúa... Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc Âm hơn, còn nếu ở trong tư dinh thì không làm được dễ dàng bằng, vì ở xa tỉnh chừng một dặm rưỡi, trong miền thôn quê như ở đây. Quan trấn đã vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và buồn phiền khi phải xa chúng tôi. Thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm: trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng tôi trèo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tùy tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi".[19]
Đây mới là đoàn thừa sai chính thức đến Nước Mặn để tiến hành công cuộc truyền giáo tại Qui Nhơn, vì lần cha Buzomi đến Nước Mặn trước đây chỉ là để chữa bệnh. Tháng 07 năm 1618, quan phủ cho thợ dựng cho các thừa sai một ngôi nhà gỗ rộng rãi tại Nước Mặn. Các ngài được yên ổn tự do truyền giáo và được ông chu cấp mọi nhu cầu. Đôi khi ông còn đích thân đến bàn chuyện với các ngài về tôn giáo. Sau đó ông còn cho một ngàn tráng đinh đến dựng cho các ngài một ngôi nhà nguyện lớn. Như vậy Nước Mặn mới thực sự là Cư sở đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên ở Đàng Trong, mặc dù các ngài đã đến Cửa Hàn trước đó ba năm.[20]
Trong bản báo cáo thường niên năm 1618 của học viện Ma Cao, sau mục báo cáo chung về Đàng Trong "Missione di Cocincina", có mục báo cáo riêng "Della Residentia di Pulocambi – Về Cư sở Pulocambi (Nước Mặn)",[21] sau đó không có cư sở nào khác ở Đàng Trong được đề cập đến trong báo cáo. Từ năm 1618 đến năm 1620, số thừa sai hoạt động truyền giáo ở Nước Mặn gồm có cha Buzomi, cha Pina, cha Borri và tu huynh Dias, trong đó cha Buzomi là Bề trên của Cư sở.”[22]
b/. Các “điểm nhấn lịch sử” khác trong Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam:
Trả lại “vị trí ưu tiên cho Nước Mặn” trong vai trò “cái nôi đầu tiên của chữ Quốc ngữ” rồi đây sẽ được giới nghiên cứu lịch sử về văn hoá, văn học liên quan đến chữ Quốc ngữ từ từ khẳng định cách thuyết phục và đầy chứng lý lịch sử cũng như khoa học khách quan.
Cách riêng, vai trò “tiên khởi” của Nước Mặn trong công cuộc truyền giáo tại Việt nam thì ước mong các nhà biên soạn Giáo sử cũng cần nhuận chính sao cho các thế hệ tín hữu Việt Nam và cả mọi người, khi tìm tới cội nguồn lịch sử của công cuộc loan báo Tin Mừng, sẽ gặp được một lịch sử Giáo Hội Việt Nam chuẩn xác và đồng bộ.
Cùng với “điểm nhấn lịch sử” liên quan đến “Nước Mặn”, qua sự kiện giáo phận Qui Nhơn mừng 400 năm loan báo Tin Mừng, nhất là với những nỗ lực trong mục vụ “ÔN CỐ”, cũng cần trả lại “vai trò tiên khởi” cho các nhân vật sau:
- CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN: Vị Tử đạo “đầu tiên” của Giáo Hội Việt Nam. Đây chính là “danh xưng” đã được Hội Thánh chính thức sử dụng trong văn bản mang tính pháp lý và phụng vụ. Xin trích nguyên văn câu tiếng La tinh trong “SẮC LỆNH TUYÊN PHONG CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN” của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II: “IOANNES PAULUS PP-II ad perpetuam rei memoriam.
- In nomine Jesu omne genu flectatur caelestium et terrestrium et infernorum, et omnis lingua confiteatur: - Dominus Jesus Christus !-, in gloriam Dei Patris – Philp 2,10-11. Juvenis Andreas, protomartyr Ecclesiae Dei quae est in Vietnamia…” [23]
- LINH MỤC GIUSE TRANG: Người Việt Nam đầu tiên duy nhất được phong chức linh mục đó là thầy Giuse Trang, 28 tuổi, quê Quảng Nghĩa. Thầy Trang được Đức cha Lambert de la Motte phong chức đúng vào ngày lễ Vọng Phục Sinh, ngày 31 tháng 3 năm 1668 tại Ajuthia Thái Lan. Cùng thụ phong linh mục với cha Trang có cha Francisco Perez, sau nầy làm Giám mục Đại diện Tông toà tại Đàng Trong (1690-1728).[24]
- Các linh mục Việt Nam khác: Hai cha Gioan Huệ và Bênêđictô Hiền (Đàng Ngoài) được thụ phong vào tháng 6 năm 1668, tức là sau lễ phong chức cha Giuse Trang 3 tháng. Trong khi đó cha Luca Bền (Đàng Trong) được phong chức vào đầu năm 1669.[25]
- Nếu nói “thế hệ linh mục Việt nam đầu tiên”, thì có thể xếp chung 4 vị linh mục có tên vừa kể; còn nếu nói linh mục người Việt nam đầu tiên thì phải dành riêng cho linh mục GIUSE TRANG. Vì chứng liệu lịch sử đã ghi thật chính xác.
Thay lời kết:
Thật sự, làm sao học cho hết “bài học của lịch sử”. Nhân sự kiện Năm Thánh 400 năm loan báo Tin Mừng, giáo phận Qui Nhơn được Chúa thúc đẩy để nhìn lại lịch sử vừa để cùng nhau cảm tạ tri ân, vừa để dốc lòng “hoán cải mục vụ”, và nhất là, để cùng nhau lên đường “viết những trang sử truyền giáo mới”.
Trong việc áp dụng “mục vụ ôn cố” không phải chỉ dừng lại ở những chuyện phần nào có vẽ không mấy thực tế nầy rồi thôi; nhưng dù sao, đó cũng là những chất xúc tác để qua “sự kiện 400 năm”, nhiều lệch lạc sẽ được chuẩn hoá, và có thể, để mọi người yêu mến và tìm đến với Giáo Hội nhiều hơn !
Mong thay.
Giuse Trương Đình Hiền
Tháng 9/10/2018
[1] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio adveniente). Số 37.
[2] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể” (Incarnationis Mysterium), ban hành tại Rôma ngày
[3] ĐGH Bênêđictô XVI, Tự sắc “Cánh cửa đức tin” (Porta fidei) ban hành tại Rôma ngày 11.10.2011, số 13.
[4] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia) 2001, số 49.
[5] Hồng Y Ivan DIAS, Tổng trưởng + Robert SARAH, Thư ký. Thư gởi Đức Cha Phêrô NGUYỄN VĂN NHƠN Giám mục Giáo phận Đàlạt Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ngày 14 tháng 11 năm 2009. Bộ Phúc âm hoá các dâ tộc, Prot. 4522/09.
[6] THƯ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI CỘNG ĐỒNG dân Chúa CÔNG BỐ NĂM THÁNH 2010. Làm tại Xuân Lộc ngày 9/10/2009. Ct/HĐGMVN: Gm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Số 1
[7] Ibid. Số 2.
[8] Kinh cầu nguyện trong thời gian 6 năm chuẩn bị gần Năm Thánh 400 năm (2012-2018)
[9] Kinh Năm Thánh từ 26/7/2017-26/7/2018.
[10] ĐGM. Mathhêô Nguyễn Văn Khôi, Thư Mùa Chay và Tết Nguyên Đán Mậu Tuất 2018.
[11] ĐGM. Mathhêô Nguyễn Văn Khôi. Bài giảng Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh tại Làng Sông, 26.7.2017.
[12] TGM. Leopoldo Girelli. Diễn từ trong Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh tại Làng Sông, 26.7.2017.
[13] Ban biên soạn lịch sử giáo phận. GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN. Nxb. An Tôn & Đuốc sáng 2017. Lời Giới Thiệu của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn. Tr. 5-6
[14] Ibid. Phần “Tổng Kết”. Tr. 413.
[15] GS. Phan Huy Lê, Nguyễn Thanh Quang, Lm. Võ Đình Đệ, Ts. Trương Anh Thuận (đồng tác giả): CHỮ QUỐC NGỮ TỪ NƯỚC MẶN ĐẾN LÀNG SÔNG. Kỷ niệm 400 năm Chữ Quốc Ngữ. NXB Đồng Nai 2018. Lời giới thiệu, tr. 6
[16] Ban biên soạn lịch sử giáo phận. GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN. Nxb. An Tôn & Đuốc sáng 2017. Chương II. CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN TỪ MA CAO ĐẾN ĐÀNG TRONG. Cư sở Nước Mặn. Tr. 51-54.
[17] Vị trí của cư sở này ngày nay có thể được xác định tại thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ngày 15.07.2011, Tòa Giám mục Qui Nhơn đã dựng bia kỷ niệm tại đó.
[18] Xem CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, sđd., tr. 126.
[19] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, sđd., tr. 127-138. Tường trình về Khu truyền giáo, sđd, tr. 72 – 78.
[20] Xem DANIELLO BARTOLI, Dell' Istoria della Compagnia di Gesù, sđd., vol.17, terza parte, libro terzo, tr. 269.
[21] Địa danh "Pulo Cambi", phát xuất từ cách gọi của người Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ XVI, thời kỳ mà các chủ thuyền Bồ Đào Nha mướn các tài công và các hoa tiêu Mã Lai để đi lại trên Biển Đông. Địa danh này được ghi trên các bản đồ xưa. Khởi đầu, đây là tên của một hòn đảo (Cù Lao Xanh, trong tiếng Mã Lai là Poulo Gambir), nhưng sau đó được dùng để gọi vùng bờ biển chung quanh. Các bản đồ Bồ Đào Nha phân biệt Pulo Cambi de Mar (ngoài biển) và Pulo Cambi de Terra (trên đất liền); địa điểm thứ hai này hẳn là bán đảo Phương Mai, mà đỉnh cao là một điểm mốc rất dễ thấy cho giao thông đường biển, nhờ đó tàu thuyền có thể từ biển đi vào đầm Thị Nại, rồi đến phố cảng Nước Mặn là cửa ngõ của phủ Qui Nhơn. Từ đó danh xưng Pulocambi được các thừa sai dùng khi thì để chỉ phố cảng Nước Mặn, khi thì để chỉ phần đất của phủ Qui Nhơn ngày xưa.
[22] Xem "Lettera annuale del Collegio di Macao al molto Riverente Padre Mutio Vitelleschi Generale della Compagnia di Giesù, l'anno 1618", trong Lettere annue del Giappone, China, Goa, et Ethiopia. Scritte al M.R.P. Generale della Compagnia di Giesù. Da Padri dell' istessa Compagnia negli anni 1615.1616.1617.1618.1619, P. Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, tr. 387-401. ĐỖ QUANG CHÍNH SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, sđd., tr. 66.
[23] ĐGH Gioan-Phaolô II, Sắc lệnh phong chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên.
[24] [Amep, volume 121, page 748] [Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Siam. Documents historiques, tome I: 1657-1811, Paris, Téqui, 1920, p. 26]
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques [1668], « sub tilulo missionum »; l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques, et l’autre François Pérez, fils d’un Portugais originaire de Negapalan sur la côte de Coromandel, âgé de 24 à 25 ans. Ces deux sujets sont considérables pour leur piété et leur dégagement. Le premier a eu l’honneur de recevoir plusieurs coups de bâton dans les prisons de Cochinchinois, à cause qu’on le voyait assister les généreux fidèles qui y étaient détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ils professaient la religion chrétienne; le second a été le seul Portugais qui ne sortit point du séminaire, lorsque l’on publia le papier contre les missionnaires sous le nom du commissaire du Saint-Office. On ne peut assez bénir Dieu de ce qu’il a donné à la mission ces deux personnes, qui ont de belles dispositions pour être quelque jour de grands missionnaires.
- (xem thêm Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Cochinchine. tome I: 1658-1728, Paris, 2000, p. 62]:
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques sub tilulo missionum; l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques; il a eu l’ honneur de recevoir plusieurs coups de baton dans les prisons de la Cochinchine à cause qu’ on le voyait assister les généreurx fidèles qui y étaitent détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ ils professaient la religion chrétienne.
- (Xem thêm: BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 119).
[25] Ibid.
(Một chút cảm nhận lịch sử nhân sự kiện giáo phận Qui Nhơn kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng)
“ÔN CỐ”: đó là “một chương quan trọng” trong chương trình “Mục Vụ Năm Thánh 400 năm” của giáo phận Qui Nhơn.
Mặc dù Năm Thánh 400 năm đã trôi qua, nhưng các định hướng mục vụ của Năm Thánh lại cần phải dấn thân thực hiện như là những công cuộc “mới bắt đầu”.
Một trong những “định hướng” quan trọng và là nền tảng của mục vụ Năm Thánh đó chính là “ÔN CỐ”. Chúng ta thử tìm lại những “bài học ôn cố” để từ đó rút ra những áp dụng mục vụ cụ thể cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá hôm nay trên quê hương giáo phận.
I. NĂM THÁNH QUI NHƠN VÀ CHƯƠNG TRÌNH “ÔN CỐ”:
1. Các định hướng “Ôn Cố” của Hội Thánh:
Không thể phủ nhận điều nầy: Năm Thánh giáo phận Qui Nhơn gần như đã được “chuẩn bị cách tiềm tàng” với những định hướng mục vụ của Giáo Hội hoàn vũ cũng như của Giáo Hội Việt Nam xuyên qua những cuộc cử hành Năm Thánh: Đại Năm Thánh 2000 của Giáo Hội hoàn vũ và Năm Thánh của Giáo Hội Việt nam mừng kỷ niệm 350 hai Giáo phận Tông tòa đầu tiên tại Việt Nam…1659-2009 và 60 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam: 1960-2010.
Chúng ta có thể nhận ra “những chuẩn bị tiềm tàng” nầy trong định hướng mang chiều kích “ÔN CỐ” với các văn kiện Huấn quyền sau đây:
1.1/. Định hướng “ôn cố” của Đại Năm Thánh 2000 của Giáo Hội hoàn vũ:
- Để chuẩn bị hướng tới đại Năm Thánh 2000: Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio adveniente), nhấn mạnh: không được quên đi quá khứ:
“Giáo Hội trong ngàn năm thứ nhất được sinh ra nhờ máu của các vị tử đạo: (…). Việc làm chứng cho Chúa Kitô cho đến đổ máu mình ra đã trở nên một di sản chung của những người Công Giáo, Chính Thống Giáo và Thệ Phản, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên trong bài giảng của ngài, khi phong thánh cho các vị tử đạo ở Ugandan (x. Acta Apostolicae 56 -1964- 906). Chứng từ này không thể nào được phép quên đi. Giáo Hội của các thế kỷ đầu tiên, mặc dầu phải đối diện với những khó khăn đáng kể có tính cách tổ chức hóa, cũng đã viết xuống những sổ bộ chứng tích (martyrologies), đặc biệt về những chứng tá của các vị tử đạo. Những sổ bộ chứng tích này, qua các thế kỷ được liên tục thêm vào, và việc ghi danh tích các thánh cũng như các chân phước không phải chỉ kể đến những vị đổ máu ra vì Chúa Kitô, mà còn cả các vị thày dậy đức tin, các nhà truyền giáo, các vị giải tội, các Đức Giám Mục, các linh mục, các trinh nữ, các cặp vợ chồng, các bà góa và các trẻ em nữa.
Trong thế kỷ của chúng ta đây, các vị tử đạo đã trở lại, nhiều vị trong các ngài không có tên tuổi, như những người lính vô danh cho ý muốn cao cả của Thiên Chúa. Giáo Hội phải cố gắng hết sức để chứng tích của họ không bị mất đi.….”[1]
- “Ôn cố” qua tông sắc khai mạc Năm Thánh 2000 “Mầu nhiệm Nhập Thể” (Incarnationis Mysterium): tưởng nhớ và noi gương các thánh tử đạo:
“Được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong suốt năm thánh, chúng ta được tiếp sức để cất cao bài thánh thi tạ ơn Cha bằng tiếng hát: Đạo binh các anh hùng Tử đạo chúc vinh Ngài (Te martyrum candidatus laudat exercitus). Vâng, đây chính là đoàn người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 14). Vì lẽ đó, Hội Thánh trên toàn cõi đất phải hết lòng bảo tồn và ghi sâu trong tâm khảm của mình lời chứng của các vị tử đạo. Khi được củng cố lòng tin nhờ gương sáng của các chiến sỹ đức tin kiên cường thuộc mọi thời đại, ngôn ngữ và sắc tộc, xin cho dân Chúa được tràn đầy xác tín tiến bước qua ngưỡng cửa Thiên niên kỷ thứ ba.”[2]
1.2/. Các định hướng khác của Huấn Quyền để khai triển và đào sâu:
- Cũng đừng quên, trong Năm Đức Tin (2012-2013) để kỷ niệm 50 năm khai mở Công Đồng Vatican II, ĐGH Bênêđictô XV, trong tự sắc “Cánh cửa đức tin” (Porta Fidei) đã lưu ý dân Chúa cần phải ôn lại “lịch sử đức tin”, một việc “ôn cố” cần thiết trong hành trình sống đức tin của dân Chúa. Xin trích:
“Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.”[3]
- Văn kiện hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu tức tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, đã đặc biệt lưu ý đến việc chiêm ngưỡng các Thánh Tử Đạo, như một điểm quy chiếu cần thiết cho công cuộc Tân Phúc âm hoá tại Á Châu. Xin trích:
“Qua các thời đại, Á Châu đã cung cấp cho Giáo Hội và thế giới một đoàn đông đảo các vị Anh Hùng Đức Tin, và từ con tim của Á Châu, trổi lên bài ca vĩ đại: Te martyrum candidatus laudat exercitus (đoàn tử đạo quang huy hùng dũng, máu đào đổ ra minh chứng về Ngài). Đó là bài ca của những vị đã chết vì Đức Kitô trên phần đất Á Châu trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội, và đó cũng là tiếng kêu đầy vui mừng của những người nam và nữ của các thời gần đây, như thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, thánh Lôrensô Ruiz và các bạn tử đạo, thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, thánh Anrê Kim Taegon và các bạn tử đạo. Xin đoàn đông đảo Các Thánh Tử Đạo Á Châu xưa cũng như nay, không ngừng dạy dỗ Giáo Hội tại Á Châu biết thế nào là làm chứng cho Chiên Con mà các ngài đã giặt trắng áo trong máu của Người (x. Kh 7,14). Ước chi các ngài luôn là những chứng nhân bất khuất cho chân lý này, là các Kitô hữu được kêu gọi, luôn luôn và mọi nơi, loan báo không điều gì khác ngoài quyền lực của Thánh Giá Chúa! Và xin cho máu Các Thánh Tử Đạo Á Châu, bây giờ cũng như mãi mãi, là hạt giống sinh sự sống mới cho Giáo Hội tại mọi hang cùng ngõ hẻm của lục địa!”[4]
1.3/. Định hướng “Ôn cố” của Năm Thánh GHVN:
Bám theo “lộ trình ôn cố” như một định hướng nền tảng, Năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam cũng được khai mở và hành động theo những hướng dẫn mục vụ gắn liền với những gương chứng nhân tử đạo của công cuộc loan báo Tin Mừng.
- Văn thư của Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc dành cho Giáo Hội tại Việt Nam nhân dịp Năm Thánh đã long trọng nhắc đến các anh hùng tử đạo:
“...Việc khai mạc Năm Thánh được cử hành vào chính ngày Lễ Kính 117 Vị Tử Đạo Việt Nam, điều đó mang một ý nghĩa đặc biệt. Thật vậy, cơ hội này mời gọi chúng ta hiệp lòng dâng lời cầu nguyện để cảm tạ các vị anh hùng đức tin đã đổ máu mình làm chứng cho lòng trung thành và tình yêu mến đối với Chúa Giêsu-Kitô. Những giọt máu đào các ngài đổ ra trên mảnh đất Việt Nam, kết hợp với Máu Chúa Kitô trên Thánh giá, nay đã làm nẩy sinh một Giáo Hội Công Giáo phồn vinh, đang tăng trưởng nhanh chóng và mang đầy hứa hẹn giữa vô vàn khó khăn và thử thách. Năm Thánh 2010 mời gọi chúng ta nhìn lại, với tâm tình tri ân cảm tạ, lịch sử ngót 500 năm công cuộc Phúc Âm hoá một Đất Nước, nơi mà vào năm 1533, Chúa Quan Phòng nhân hậu đã gửi tới vị thừa sai tiên khởi, gieo vãi những hạt giống Phúc Âm đầu tiên, để rồi những hạt giống ấy triển nở cách lạ lùng xuyên qua những bước thăng trầm của lịch sử. Năm Thánh 2010 cũng đánh dấu chặng đường nửa thế kỷ lịch sử kể từ khi Đức Giáo Hoàng, Chân Phước Gioan XXIII, thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo vào năm 1960 và quyết định ký thác các Giáo Hội địa phương tại Việt Nam cho sự hướng dẫn mục vụ của các Giám mục bản xứ. Nhìn lại lịch sử đầy ân sủng và phúc lành do Thiên Chúa ban, chúng ta chỉ biết cảm tạ Thiên Chúa và cất tiếng hát ngợi khen: “vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương !” (Tv 136,1).[5]
- Thư Công bố Năm Thánh của HĐGMVN cũng long trọng nhắc đến các chứng nhân Tử Đạo:
“Năm 2010 ghi dấu những sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam: 350 năm thiết lập hai giáo phận tông toà Đàng Ngoài và Đàng Trong (1659-2009), 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010). Đây là thời điểm cho chúng ta nhìn lại quá khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học của lịch sử….”[6]
- Và dĩ nhiên, khi nói tới “bài học lịch sử” thì phải hướng đến các chứng nhân Tử Đạo:
“Các Thánh Tử đạo đã nhiệt tâm làm chứng cho đức tin đến độ dám hy sinh cả mạng sống. Máu các ngài đổ ra đã tưới thắm mảnh đất quê hương, trở nên hạt giống làm nẩy sinh nhiều cộng đoàn tín hữu trên đất nước Việt Nam. Khai mạc Năm Thánh vào ngày lễ Các Thánh Tử Đạo mời gọi chúng ta tạ ơn Chúa về hồng ân đức tin đã lãnh nhận, tri ân các bậc tiền nhân, các ân nhân và chứng nhân đã gieo vãi và vun trồng hạt giống đức tin trên quê hương đất nước nầy, đồng thời ý thức giá trị cao quý của hồng ân đức tin để sống và làm chứng cho Tin Mừng, tích cực xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô trong môi trường Chúa sai chúng ta đến…”[7]
2. Định hướng “Ôn Cố” của Năm Thánh” của Giáo phận Qui Nhơn:
Được thúc đẩy và hướng dẫn bới những giáo huấn nền tảng và cần thiết trên, giáo phận Qui Nhơn khi chuẩn bị mở Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng cũng đã lưu ý đặc biệt định hướng mục vụ mang chiều kích “Ôn Cố”; nội dung ý nghĩa nầy được phản ảnh qua nhiều biểu hiện cụ thể sau:
2.1/. Những bản Kinh Năm Thánh của Giáo phận Qui Nhơn:
- Bản Kinh Chuẩn Bị Năm Thánh:
“…chúng con chúc tụng và cảm tạ Chúa vì gần bốn trăm năm qua Chúa luôn làm muôn điều kỳ diệu cho Giáo phận Qui Nhơn chúng con. Chúa đã gửi đến các nhà truyền giáo nhiệt thành thánh thiện / và nhiều người kế tục không ngừng, dấn thân gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất thân yêu nầy. Xin cho chúng con biết giữ gìn và làm sinh hoa kết quả hạt giống đức tin mà chúng con đã lãnh nhận. (…). Xin Chúa ban cho chúng con được đầy ơn Chúa Thánh Thần và lòng nhiệt thành truyền giáo, biết theo gương các bậc tiền nhân, can trường hy sinh và sống bác ái, biết góp công góp sức xây dựng Giáo phận, tái thiết các giáo xứ mà các ngài đã dày công gầy dựng và hăng say làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc...”[8]
- Bản kinh trong Năm Thánh:
“…Suốt 400 năm qua, trên cuộc lữ hành đức tin đầy chông gai và thử thách, nhờ có Chúa luôn đồng hành để hướng dẫn, nâng đỡ, trợ giúp, với lòng nhiệt thành của các vị thừa sai, bao hy sinh của các chứng nhân anh dũng, và công khó của các thế hệ cha ông, Lời Chúa đã lan rộng khắp nơi, hình thành các giáo phận của cả miền nam đất Việt. Chúng con xin cùng nhau cúi đầu thống hối, vì bao tội lỗi bất trung và thiếu sót, trước tình yêu hải hà của Chúa, và ơn sâu nghĩa nặng của các bậc tiền nhân….”[9]
2.2/. Các thư mục vụ của Chủ chăn Giáo phận Qui Nhơn:
- Thư Mùa Chay và Tết Mậu Tuất 2018:
“Đối với Giáo phận Qui Nhơn chúng ta, Mùa Chay năm nay diễn ra trong khung cảnh Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng. Đây là cơ hội thuận tiện để chúng ta nhìn về quá khứ và học được những mẫu gương tuyệt vời về sự thánh thiện, tình yêu và nhiệt tình tông đồ của các bậc tiền nhân, đến độ các ngài đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho Thiên Chúa và tha nhân…”[10]
- Bài giảng trong Thánh lễ Khai Mạc Năm Thánh tại Làng Sông:
“Thánh lễ khai mạc này được lồng trong khung cảnh phụng vụ của lễ kính trọng thể Chân phước Anrê Phú Yên, học trò của các thừa sai Dòng Tên, tử đạo năm 1644. Ngài là hoa trái đầu tiên của hạt giống Tin Mừng chỉ sau 26 năm hạt giống này được gieo trồng vào mảnh đất Giáo phận. Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi và là người chứng thứ nhất của Giáo Hội Việt Nam đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân phước vào Chúa Nhật, ngày 05 tháng 03 năm 2000, là Năm thánh của Giáo Hội hoàn vũ. (…).
Hòa chung với dòng máu tử đạo của các chứng nhân đức tin, còn có biết bao mồ hôi và nước mắt của các thế hệ tiền nhân qua dòng thời gian suốt 400 năm qua, từ buổi sơ khai tại cảng thị Nước Mặn một thời vang bóng cho đến hôm nay. Đó là các thừa sai Dòng Tên đã lập cư sở đầu tiên của dòng tại Nước Mặn, vừa làm khởi điểm truyền giáo, vừa làm chiếc nôi của chữ quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. Tiếp đến là Đức cha Phêrô Lambert de La Motte, vị Đại diện Tông tòa tiên khởi của Giáo Đàng Trong, người đã truyền chức linh mục cho người Việt tiên khởi là cha Giuse Trang, quê ở Quảng Ngãi, vào ngày 31 tháng 03 năm 1668 và đã thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá của Đàng Trong tại An Chỉ (Quảng Ngãi) vào năm 1671. Từ đó đến nay các vị Giám mục cùng với các linh mục, tu sĩ, thầy giảng và giáo dân, đã đồng lao cộng khổ để canh tác trên cánh đồng truyền giáo của Giáo phận, để làm cho hạt giống Tin Mừng tiếp tục sinh sôi nẩy nở, bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Thánh lễ hôm nay được cử hành tại khuôn viên chủng viện cổ kính Làng Sông, nơi xuất thân của một số Giám mục, biết bao linh mục và tông đồ giáo dân, giữa hai hàng sao đại thụ 125 năm tuổi, bên cạnh Tòa Giám mục ngày xưa, như chứng tích không phai nhòa của một lịch sử truyền giáo lâu dài, để dẫn đưa mỗi người chúng ta trở về nguồn, với tâm tình tri ân cảm tạ đối với Thiên Chúa, vì biết bao ơn lành Ngài đã ban xuống cho Giáo phận Qui Nhơn chúng ta trong suốt 400 năm qua, đồng thời cũng để ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân đã hiến dâng mạng sống, nước mắt mồ hôi, cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất mẹ Qui Nhơn.
Giờ đây Năm thánh được mở ra để mọi người con đất mẹ được dịp thể hiện những tâm tình ấy, đồng thời cũng để cầu xin Thiên Chúa tiếp tục ban ơn giúp đỡ để mỗi người chúng ta sống xứng đáng với bao hồng ân đã lãnh nhận và noi gương các bậc tiền nhân, tiếp tục làm cho hạt giống đức tin mà các ngài đã dày công gieo vãi được trổ sinh hoa trái dồi dào.”[11]
- Diễn từ của của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli:
“…Hôm nay, tôi muốn suy gẫm về một ít sự kiện quan trọng được cắm rễ sâu trong lịch sử của anh chị em, bởi vì chúng ta góp phần làm nên cuộc hành hương vĩ đại đã khởi sự khi Chúa Giêsu ủy thác cho các Tông đồ và môn đệ của Ngài ra đi đến tận cùng thế giới, “để làm cho muôn dân trờ thành môn đệ của Ngài, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Các vị truyền giáo dòng Tên từ Hội An đã đến lập cư sở tại Nước Mặn, Qui Nhơn vào tháng 7 năm 1618 và tất cả chúng ta, lớp con cháu tinh thần của những con người dũng cảm ấy, có thể vui mừng và tự hào về tầm nhìn, lòng can đảm và niềm tin của các vị.
Một mốc quan trọng khác trong cuộc hành hương đức tin của cộng đoàn Giáo phận anh chị em là việc thiết lập Giáo phận Đại diện Tông tòa Đàng Trong vào năm 1659, đã đặt nền tảng cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.
Cuộc hành trình đức tin mà anh chị em đang tiến bước là con đường dài. Từ Rôma đến Qui Nhơn, chúng ta có thể nhìn thấy và cử hành với niềm vui trên con đường đức tin cúa mình. Tuy nhiên, việc kỷ niệm thời điểm lịch sử này chỉ đạt được ý nghía trọn vẹn khi chúng ta có một cam kết dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Ấm hóa….”[12]
- Bảy bức thư mục vụ gởi cho 7 giáo hạt trong dịp cử hành Năm Thánh tại giáo hạt: Quảng Ngãi, Bồng Sơn, Kim Châu, Gò Thị, Qui Nhơn, Mằng Lăng, Tuy Hoà. Trong những dịp cử hành “Thánh lễ Trạm” nầy, Đức Giám Mục giáo phận đã khơi lại dòng lịch sử hào hùng đã chảy qua phần đất của các giáo xứ thuộc địa bàn giáo hạt hiện hay.
II. GIÁO PHẬN QUI NHƠN VÀ VIỆC ÁP DỤNG MỤC VỤ ÔN CỐ
1. Những công việc “trong nhà”:
Việc “tri ân cảm tạ các tiền nhân” và noi gương các ngài trong việc thể hiện niềm tin, theo những gì mà các “văn bản hướng dẫn”, chắc chắn không ít thì nhiều đã được cộng đoàn dân Chúa khắp nơi trong giáo phận thực hiện; cho dù với con mắt trần tục, chúng ta có thể không nhận ra những biểu hiện cụ thể, nhưng phải xác tín rằng, Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ tác động trên dân Chúa qua mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội.
Ở đây, chỉ xin dừng lại những việc làm mang tính “ôn cố” mà mọi người có thể thấy được, xem được và có thể vận dụng như một phương thế cho công cuộc tân phúc âm hoá trong bối cảnh xã hội hôm nay.
a/. Trước hết: đó là tài liệu lịch sử chính thức của Giáo phận qua cuốn sách mang tên: GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN.
Để nắm bắt khái quát nội dung tập sách quan trọng được phát hành đúng vào dịp Khai mạc Năm thánh nầy, chúng ta thử đọc lại đôi dòng trong lời giới thiệu của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, nguyên Giám Mục giáo phận Qui Nhơn:
“(…).Trong tinh thần "ôn cố tri tân" chúng ta lần theo dấu vết lịch sử, trước là để cảm đội ơn Chúa đã luôn phù trì che chở và ban sức mạnh cho các bậc tiền nhân chúng ta; sau là để noi gương anh dũng của cha ông trong việc kế tục sự nghiệp mở mang Nước Chúa và rao giảng Tin Mừng. Ngày nay người Kitô hữu chúng ta vẫn không thiếu những chướng ngại to lớn đang ngăn trở đức tin của mình, đáng sợ nhất là não trạng tôn sùng vật chất, chạy theo lợi nhuận, đang là nguy cơ làm cho đức tin người tín hữu bị lung lay hầu như tận gốc.
Để củng cố niềm tin Kitô giáo và mời gọi các tín hữu chuẩn bị tích cực đón nhận hồng ân Năm thánh của Giáo phận, Đức Giám Mục Giáo phận đã hoàn tất việc biên soạn và ấn hành quyển Giáo phận Qui Nhơn theo dòng thời gian, căn cứ trên sử liệu được trình bày hết sức khách quan và trung thực, đây là một công trình đáng ghi nhớ cũng như món quà quý báu của Giáo phận Qui Nhơn.
Xin được tóm tắt những cảm nhận và suy tư trên với lời chia sẻ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ sáu ngày 27 tháng 01 năm 2017 tại nguyện đường Santa Marta đã nói rằng: "Anh chị em không thể hiểu đời sống Kitô hữu mà không ghi nhớ ký ức. Anh chị em không thể hiểu đời sống thiêng liêng nếu không ghi nhớ ký ức. Anh chị em không thể sống đời sống Kitô hữu nếu không ghi nhớ ký ức". Ký ức ngài nói đây chính là lịch sử, là nòng cốt để xây dựng và phát triển đức tin Kitô giáo cũng như đời sống của người Kitô hữu.
Xin trân trọng giới thiệu với anh chị em công trình biên khảo lịch sử rất giá trị: Giáo phận Qui Nhơn theo dòng thời gian và ước mong được mọi người đón nhận với tâm tình tạ ơn Chúa và với quyết tâm củng cố đức tin của chính mình và của con cháu. Hãy cầm lấy mà đọc...”[13]
Và nếu “Lời Giới Thiệu” đầu sách mời gọi chúng ta “Hãy cầm lấy mà đọc”, thì nơi những dòng cuối cuốn lịch sử quan trọng nầy đã nêu bật tiêu đích của việc “đọc lại lịch sử” đó là để “viết nên những trang sử truyền giáo mới”:
“Năm thánh sẽ bế mạc vào ngày 26.07.2018, nhưng không phải để khép lại quá khứ và biến nó thành một thứ báu vật trong viện bảo tàng, nhưng Năm thánh là một khung cửa mở ra cho tương lai, để toàn thể Giáo phận lên đường loan báo Tin Mừng theo gương các tiền nhân, viết nên những trang sử truyền giáo mới bằng một cuộc tân Phúc Âm hóa, với nhiệt tình, phương pháp và cách diễn tả mới, phù hợp với thời đại mới, để xây dựng trời mới đất mới trên quê hương Giáo phận Qui Nhơn.”[14]
b/. Tác phẩm thứ hai hoàn thành trước ngày diễn ra đại lễ Tạ ơn-Bế mạc Năm Thánh, đó là cuốn mang tên: KỶ YẾU GIÁO PHẬN QUI NHƠN MỪNG 400 NĂM LOAN BÁO TIN MỪNG.
Đây là một bản toát lược toàn cảnh giáo phận Qui Nhơn về khái quát lịch sử giáo phận, tóm lượt lịch sử và địa lý, địa bàn mục vụ các giáo hạt, giáo xứ, giáo họ biệt lập, các Hội Dòng, các hội đoàn, các sinh hoạt mục vụ trọng điểm, các thánh nhân và danh nhân của giáo phận, các tác phẩm và công trình văn hoá, các trung tâm hành hương và di tích tử đạo…
Cho dù còn nhiều yếu tố phải hoàn chỉnh, bổ sung, nhưng chung chung, đây là một tài liệu quý giá để giới thiệu cho mọi người biết được “bà mẹ Qui Nhơn” 400 năm tuổi đang hiện diện và phát triển thế nào.
c/. Quần thể chủng viện làng Sông: Đây có thể nói được là công trình văn hoá vừa “vật thể” vừa “phi vật thể”.
- “Văn hoá vật thể”: đó chính là các hạng mục của cơ sở chủng viện Làng Sông với bề dày lịch sử trên dưới 170 năm mà chứng tích rõ nét là những hàng sao cao vút; riêng hàng sao ngay lối chính diện có tuổi thọ đúng 125 năm.
Công trình thuộc hạng “quý hiếm” nầy, với những mái nhà rêu phong và các đường nét, hoạ tiết kiến trúc cổ kính được phục chế, đã ghi đậm một thời vang bóng của một trung tâm điều hành và huấn luyện (Toà Giám Mục, chủng viện…) mục vụ cho một giáo phận Qui Nhơn rộng lớn bao gồm từ Quảng Nam đến Khánh Hoà và lên tận Tây nguyên.
- “Văn hoá phi vật thể”: Nơi đây cũng là cái nôi và trung tâm phát triển chữ quốc ngữ trong giai đoạn kiện toàn và củng cố mà nhà in Làng Sông chính là một công cụ hiệu quả và rất hiện đại. Cũng từ địa điểm phục vụ văn hoá chuyên biệt nầy, tủ sách Nước Mặn được hình thành để kế thừa truyền thống văn hoá-văn học về chữ quốc ngữ của nhà in Làng Sông khi xưa. Tủ sách nầy hiện nay đã có trên 50 đầu sách (Trong đó có những cuốn liên quan trực tiếp đến lịch sử 400 năm của giáo phận).
c/. Phòng Truyền thống và “ký ức cha ông”: Không thể không nhắc đến một công trình “ôn cố” đặc biệt đó chính là “PHÒNG TRUYỀN THỐNG GIÁO PHẬN”. Toạ lạc tại dãy lầu tầng trên của khu nhà sở quản lý, phòng truyền thông giáo phận vừa kịp khánh thành đúng vào sáng ngày 26.7.2018. Nơi đây, không phải chỉ là nơi “bảo tàng các cổ vật được sưu tập” mà là “mái nhà xưa của mẹ Qui Nhơn”, nơi cất giữ, chất chứa bao nhiêu kỷ vật và kỷ niệm của cha ông.
Thật vậy, qua các “kỷ vật biết nói” nầy, chúng ta sẽ thấy một “mẹ già Qui Nhơn” với đoàn lũ con cái đã ra đi trên những nẻo đường mục vụ, đã sống qua qua bao thăng trầm dâu bể của thời gian, đã trải qua bao gian nan thử thách…và đã để lại một gia tài thiêng liêng cao quý cho các thế hệ cháu con. Đây chính là một lịch sử sống của giáo phận.
2. Những điểm nhấn văn hoá với Giáo Hội và xã hội Việt Nam:
Trước hết, nếu chọn cột mốc thời gian “tháng 7/1618” để liên hệ đến buổi đầu đón nhận Tin Mừng thì phải nhắc đến “Nước Mặn” nơi mà vào đúng thời điểm trên, các thừa sai Dòng Tên đã “đóng đô” tại đó để hình thành “Cư sở truyền giáo chính thức đầu tiên của Dòng Tên tại Đàng Trong” và cũng là cư sở truyền giáo chính thức của Giáo Hội Công Giáo tại Việt nam vào thế kỷ 17.
Sở dĩ nhắc đến “địa danh” nầy, vì nếu không có biến cố xảy ra “vào tháng 7/1618 tại Nước Mặn”, chắc chắn sẽ không có sự kiện “Qui Nhơn mừng 400 năm đón nhận Tin Mừng”.
Thật vậy, khi nhìn về Miền Trung Việt Nam, nhất là vùng mang biệt danh “liên khu 5” gồm 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, thường ai cũng nghĩ ngay đến hình ảnh và khái niệm “đất cày lên sỏi đá, xứ dân gầy, khỉ ho cò gáy, máu lửa chiến tranh…”, mà ít khi liên tưởng đến: đây chính là “cái nôi” ghi những dấu chân đầu tiên xây dựng nền móng cho hai công trình đáng gọi là “vĩ đại” cho đất nước, dân tộc và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam:
- Công trình văn hóa: TRUNG TÂM GẦY DỰNG CHỮ QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN: NƯỚC MẶN.
- Công trình tôn giáo: CƯ SỞ TRUYỀN GIÁO CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN CỦA CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN TẠI VIỆT NAM: NƯỚC MẶN.
Để khẳng định được “hai điểm nhấn lịch sử” quan trọng nầy, không phải chuyện cứ “ăn theo nói leo” (như một số các nhà nghiên cứu không chuyên vấp phải), mà phải là cuộc “truy lùng” tận ngọn, một cuộc đào bới công phu các chứng tích, các tư liệu liên quan trực tiếp đến chuyên đề lịch sử khá tế nhị và cũng lắm mờ mịt nầy.
Và đây chính là một cố gắng không nhỏ, nếu không nói, là một điểm son chói lọi, trong chương trình mục vụ tổng quát của Giáo Phận Qui Nhơn đón mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng, một đại lễ Tạ ơn mới vừa được long trọng cử hành tại chủng viện Qui Nhơn chiều ngày 26.7.2018 để bế mạc một Năm Thánh đã khai diễn vào cùng ngày năm trước tại tiểu chủng viện Làng Sông (26.7.2017).
a/. Cái nôi của chữ quốc ngữ:
Trước hết, chúng ta hãy để các nhà chuyên môn về sử học và ngôn ngữ lên tiếng.
- Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đã phát biểu tổng kết trong cuộc Hội Thảo Khoa học liên ngành (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện Ngôn ngữ Việt Nam, UBND tỉnh Bình Định…) tại Bình Định ngày 13.01.2016, với chuyên đề: “BÌNH ĐỊNH VỚI CHỮ QUỐC NGỮ”. Xin trích:
“Chữ quốc ngữ trong trạng thái phôi thai, ra đời sớm nhất ở ba trung tâm: Nước Mặn, Hội An và Dinh Chiêm, trong đó Nước Mặn có phần sơm hơn”.[15]
Nhưng thẩm quyền để chuẩn nhận cho “thời điểm lịch sử nầy”, chỉ có những người trong cuộc với những chứng từ của chính những nhân vật đó. Và đây là những chứng nhân lịch sử đó. Chúng ta cùng đọc lại giai đoạn lịch sử đặc biệt nầy qua tài liệu GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN[16]:
2.2.2. Cư sở Nước Mặn, Qui Nhơn.[17]
Được tin cha Buzomi bị bệnh và các thừa sai gặp nạn, nhân có chuyến tàu buôn đầu năm 1618, Bề trên Tỉnh Dòng ở Ma Cao sai hai thừa sai khác đến giúp là cha Pedro Marques (Nhật) và cha Chistoforo Borri (Ý). Cha Marques sẽ đến ở trong khu cư trú của người Nhật nên mặc áo thừa sai, còn cha Borri được sai đến bí mật truyền giáo cho người Việt nên phải cải trang làm đầy tớ trên tàu.
Sau một thời gian chữa bệnh tại tư dinh ông Trần Đức Hòa ở Qui Nhơn, cha Buzomi đã bình phục. Một hôm ông Trần Đức Hòa đi ra Cửa Hàn, có cha Buzomi đi theo và tình cờ gặp cha Borri. Hai cha cùng về Hội An, gặp được cha Marques, cha Pina và hai tu huynh. Trong cuộc gặp gỡ vui vẻ này, các cha thảo luận với nhau về những việc phải làm để đem lại lợi ích thiêng liêng cho khu vực truyền giáo và đã đi đến quyết định: cha Marques ở lại Hội An với tu huynh người Nhật, còn cha Buzomi, cha Pina, cha Borri cùng với tu huynh người Bồ đi theo quan trấn thủ Trần Đức Hòa về Qui Nhơn theo lời mời tha thiết của ông.[18]
Sau đây là lời tường thuật của cha Borri, người trong cuộc: "Chúng tôi bỏ Hội An, cha Buzomi, cha Pina và tôi, để đi Qui Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và tiếp đãi chúng tôi rất đặc biệt. Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt con người bắt buộc ông phải xử như thế. Cho nên rất rõ ràng và hiển nhiên là những sự ông săn sóc phải coi như hiệu quả của Thiên Chúa quan phòng. Ông dành riêng cho chúng tôi một chiếc thuyền để phục dịch một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng chiều đậu bến. Thường thì các hải cảng ở cạnh những thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh Quảng Nghĩa. Nơi đây ông có quyền như ở Qui Nhơn, mọi người đều ra đón, chúc mừng và tỏ lòng qui phục cùng nhận quyền với rất nhiều lễ vật quí và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh quan trấn thủ muốn thế. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy chúng tôi được trọng đãi và vì thế chúng tôi được người ta quí mến và có thịnh tình với chúng tôi. Ông cũng nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp, mỗi lần có vụ xử một trọng tội nào. Chúng tôi chưa mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng lòng ban ngay rồi. Do đó chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không kém quan trấn thủ. Thấy chúng tôi có lòng bác ái và thương xót hết mọi người, nên mọi người đều quí mến và tìm đến chúng tôi...
"Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh, sau tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành riêng cho các ông hoàng bà chúa... Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc Âm hơn, còn nếu ở trong tư dinh thì không làm được dễ dàng bằng, vì ở xa tỉnh chừng một dặm rưỡi, trong miền thôn quê như ở đây. Quan trấn đã vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và buồn phiền khi phải xa chúng tôi. Thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm: trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng tôi trèo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tùy tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi".[19]
Đây mới là đoàn thừa sai chính thức đến Nước Mặn để tiến hành công cuộc truyền giáo tại Qui Nhơn, vì lần cha Buzomi đến Nước Mặn trước đây chỉ là để chữa bệnh. Tháng 07 năm 1618, quan phủ cho thợ dựng cho các thừa sai một ngôi nhà gỗ rộng rãi tại Nước Mặn. Các ngài được yên ổn tự do truyền giáo và được ông chu cấp mọi nhu cầu. Đôi khi ông còn đích thân đến bàn chuyện với các ngài về tôn giáo. Sau đó ông còn cho một ngàn tráng đinh đến dựng cho các ngài một ngôi nhà nguyện lớn. Như vậy Nước Mặn mới thực sự là Cư sở đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên ở Đàng Trong, mặc dù các ngài đã đến Cửa Hàn trước đó ba năm.[20]
Trong bản báo cáo thường niên năm 1618 của học viện Ma Cao, sau mục báo cáo chung về Đàng Trong "Missione di Cocincina", có mục báo cáo riêng "Della Residentia di Pulocambi – Về Cư sở Pulocambi (Nước Mặn)",[21] sau đó không có cư sở nào khác ở Đàng Trong được đề cập đến trong báo cáo. Từ năm 1618 đến năm 1620, số thừa sai hoạt động truyền giáo ở Nước Mặn gồm có cha Buzomi, cha Pina, cha Borri và tu huynh Dias, trong đó cha Buzomi là Bề trên của Cư sở.”[22]
b/. Các “điểm nhấn lịch sử” khác trong Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam:
Trả lại “vị trí ưu tiên cho Nước Mặn” trong vai trò “cái nôi đầu tiên của chữ Quốc ngữ” rồi đây sẽ được giới nghiên cứu lịch sử về văn hoá, văn học liên quan đến chữ Quốc ngữ từ từ khẳng định cách thuyết phục và đầy chứng lý lịch sử cũng như khoa học khách quan.
Cách riêng, vai trò “tiên khởi” của Nước Mặn trong công cuộc truyền giáo tại Việt nam thì ước mong các nhà biên soạn Giáo sử cũng cần nhuận chính sao cho các thế hệ tín hữu Việt Nam và cả mọi người, khi tìm tới cội nguồn lịch sử của công cuộc loan báo Tin Mừng, sẽ gặp được một lịch sử Giáo Hội Việt Nam chuẩn xác và đồng bộ.
Cùng với “điểm nhấn lịch sử” liên quan đến “Nước Mặn”, qua sự kiện giáo phận Qui Nhơn mừng 400 năm loan báo Tin Mừng, nhất là với những nỗ lực trong mục vụ “ÔN CỐ”, cũng cần trả lại “vai trò tiên khởi” cho các nhân vật sau:
- CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN: Vị Tử đạo “đầu tiên” của Giáo Hội Việt Nam. Đây chính là “danh xưng” đã được Hội Thánh chính thức sử dụng trong văn bản mang tính pháp lý và phụng vụ. Xin trích nguyên văn câu tiếng La tinh trong “SẮC LỆNH TUYÊN PHONG CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN” của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II: “IOANNES PAULUS PP-II ad perpetuam rei memoriam.
- In nomine Jesu omne genu flectatur caelestium et terrestrium et infernorum, et omnis lingua confiteatur: - Dominus Jesus Christus !-, in gloriam Dei Patris – Philp 2,10-11. Juvenis Andreas, protomartyr Ecclesiae Dei quae est in Vietnamia…” [23]
- LINH MỤC GIUSE TRANG: Người Việt Nam đầu tiên duy nhất được phong chức linh mục đó là thầy Giuse Trang, 28 tuổi, quê Quảng Nghĩa. Thầy Trang được Đức cha Lambert de la Motte phong chức đúng vào ngày lễ Vọng Phục Sinh, ngày 31 tháng 3 năm 1668 tại Ajuthia Thái Lan. Cùng thụ phong linh mục với cha Trang có cha Francisco Perez, sau nầy làm Giám mục Đại diện Tông toà tại Đàng Trong (1690-1728).[24]
- Các linh mục Việt Nam khác: Hai cha Gioan Huệ và Bênêđictô Hiền (Đàng Ngoài) được thụ phong vào tháng 6 năm 1668, tức là sau lễ phong chức cha Giuse Trang 3 tháng. Trong khi đó cha Luca Bền (Đàng Trong) được phong chức vào đầu năm 1669.[25]
- Nếu nói “thế hệ linh mục Việt nam đầu tiên”, thì có thể xếp chung 4 vị linh mục có tên vừa kể; còn nếu nói linh mục người Việt nam đầu tiên thì phải dành riêng cho linh mục GIUSE TRANG. Vì chứng liệu lịch sử đã ghi thật chính xác.
Thay lời kết:
Thật sự, làm sao học cho hết “bài học của lịch sử”. Nhân sự kiện Năm Thánh 400 năm loan báo Tin Mừng, giáo phận Qui Nhơn được Chúa thúc đẩy để nhìn lại lịch sử vừa để cùng nhau cảm tạ tri ân, vừa để dốc lòng “hoán cải mục vụ”, và nhất là, để cùng nhau lên đường “viết những trang sử truyền giáo mới”.
Trong việc áp dụng “mục vụ ôn cố” không phải chỉ dừng lại ở những chuyện phần nào có vẽ không mấy thực tế nầy rồi thôi; nhưng dù sao, đó cũng là những chất xúc tác để qua “sự kiện 400 năm”, nhiều lệch lạc sẽ được chuẩn hoá, và có thể, để mọi người yêu mến và tìm đến với Giáo Hội nhiều hơn !
Mong thay.
Giuse Trương Đình Hiền
Tháng 9/10/2018
[1] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio adveniente). Số 37.
[2] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể” (Incarnationis Mysterium), ban hành tại Rôma ngày
[3] ĐGH Bênêđictô XVI, Tự sắc “Cánh cửa đức tin” (Porta fidei) ban hành tại Rôma ngày 11.10.2011, số 13.
[4] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia) 2001, số 49.
[5] Hồng Y Ivan DIAS, Tổng trưởng + Robert SARAH, Thư ký. Thư gởi Đức Cha Phêrô NGUYỄN VĂN NHƠN Giám mục Giáo phận Đàlạt Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ngày 14 tháng 11 năm 2009. Bộ Phúc âm hoá các dâ tộc, Prot. 4522/09.
[6] THƯ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI CỘNG ĐỒNG dân Chúa CÔNG BỐ NĂM THÁNH 2010. Làm tại Xuân Lộc ngày 9/10/2009. Ct/HĐGMVN: Gm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Số 1
[7] Ibid. Số 2.
[8] Kinh cầu nguyện trong thời gian 6 năm chuẩn bị gần Năm Thánh 400 năm (2012-2018)
[9] Kinh Năm Thánh từ 26/7/2017-26/7/2018.
[10] ĐGM. Mathhêô Nguyễn Văn Khôi, Thư Mùa Chay và Tết Nguyên Đán Mậu Tuất 2018.
[11] ĐGM. Mathhêô Nguyễn Văn Khôi. Bài giảng Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh tại Làng Sông, 26.7.2017.
[12] TGM. Leopoldo Girelli. Diễn từ trong Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh tại Làng Sông, 26.7.2017.
[13] Ban biên soạn lịch sử giáo phận. GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN. Nxb. An Tôn & Đuốc sáng 2017. Lời Giới Thiệu của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn. Tr. 5-6
[14] Ibid. Phần “Tổng Kết”. Tr. 413.
[15] GS. Phan Huy Lê, Nguyễn Thanh Quang, Lm. Võ Đình Đệ, Ts. Trương Anh Thuận (đồng tác giả): CHỮ QUỐC NGỮ TỪ NƯỚC MẶN ĐẾN LÀNG SÔNG. Kỷ niệm 400 năm Chữ Quốc Ngữ. NXB Đồng Nai 2018. Lời giới thiệu, tr. 6
[16] Ban biên soạn lịch sử giáo phận. GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN. Nxb. An Tôn & Đuốc sáng 2017. Chương II. CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN TỪ MA CAO ĐẾN ĐÀNG TRONG. Cư sở Nước Mặn. Tr. 51-54.
[17] Vị trí của cư sở này ngày nay có thể được xác định tại thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ngày 15.07.2011, Tòa Giám mục Qui Nhơn đã dựng bia kỷ niệm tại đó.
[18] Xem CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, sđd., tr. 126.
[19] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, sđd., tr. 127-138. Tường trình về Khu truyền giáo, sđd, tr. 72 – 78.
[20] Xem DANIELLO BARTOLI, Dell' Istoria della Compagnia di Gesù, sđd., vol.17, terza parte, libro terzo, tr. 269.
[21] Địa danh "Pulo Cambi", phát xuất từ cách gọi của người Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ XVI, thời kỳ mà các chủ thuyền Bồ Đào Nha mướn các tài công và các hoa tiêu Mã Lai để đi lại trên Biển Đông. Địa danh này được ghi trên các bản đồ xưa. Khởi đầu, đây là tên của một hòn đảo (Cù Lao Xanh, trong tiếng Mã Lai là Poulo Gambir), nhưng sau đó được dùng để gọi vùng bờ biển chung quanh. Các bản đồ Bồ Đào Nha phân biệt Pulo Cambi de Mar (ngoài biển) và Pulo Cambi de Terra (trên đất liền); địa điểm thứ hai này hẳn là bán đảo Phương Mai, mà đỉnh cao là một điểm mốc rất dễ thấy cho giao thông đường biển, nhờ đó tàu thuyền có thể từ biển đi vào đầm Thị Nại, rồi đến phố cảng Nước Mặn là cửa ngõ của phủ Qui Nhơn. Từ đó danh xưng Pulocambi được các thừa sai dùng khi thì để chỉ phố cảng Nước Mặn, khi thì để chỉ phần đất của phủ Qui Nhơn ngày xưa.
[22] Xem "Lettera annuale del Collegio di Macao al molto Riverente Padre Mutio Vitelleschi Generale della Compagnia di Giesù, l'anno 1618", trong Lettere annue del Giappone, China, Goa, et Ethiopia. Scritte al M.R.P. Generale della Compagnia di Giesù. Da Padri dell' istessa Compagnia negli anni 1615.1616.1617.1618.1619, P. Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, tr. 387-401. ĐỖ QUANG CHÍNH SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, sđd., tr. 66.
[23] ĐGH Gioan-Phaolô II, Sắc lệnh phong chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên.
[24] [Amep, volume 121, page 748] [Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Siam. Documents historiques, tome I: 1657-1811, Paris, Téqui, 1920, p. 26]
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques [1668], « sub tilulo missionum »; l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques, et l’autre François Pérez, fils d’un Portugais originaire de Negapalan sur la côte de Coromandel, âgé de 24 à 25 ans. Ces deux sujets sont considérables pour leur piété et leur dégagement. Le premier a eu l’honneur de recevoir plusieurs coups de bâton dans les prisons de Cochinchinois, à cause qu’on le voyait assister les généreux fidèles qui y étaient détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ils professaient la religion chrétienne; le second a été le seul Portugais qui ne sortit point du séminaire, lorsque l’on publia le papier contre les missionnaires sous le nom du commissaire du Saint-Office. On ne peut assez bénir Dieu de ce qu’il a donné à la mission ces deux personnes, qui ont de belles dispositions pour être quelque jour de grands missionnaires.
- (xem thêm Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Cochinchine. tome I: 1658-1728, Paris, 2000, p. 62]:
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques sub tilulo missionum; l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques; il a eu l’ honneur de recevoir plusieurs coups de baton dans les prisons de la Cochinchine à cause qu’ on le voyait assister les généreurx fidèles qui y étaitent détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ ils professaient la religion chrétienne.
- (Xem thêm: BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 119).
[25] Ibid.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bướm Hoa Bên Đường
Đặng Đức Cương
08:16 10/10/2018
Ảnh của Đặng Đức Cương
Hoa tím mọc bên đường
Ong bướm lượn nhởn nhơ
Hoa chung thủy đợi chờ
Nhớ mong hình bóng cũ
(KD)