Ngày 13-10-2013
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Sống biết ơn gắn liền với lòng thảo kính
Lm. Đaminh Hương Quất
08:15 13/10/2013
SỐNG BIẾT ƠN GẮN LIỀN VỚI LÒNG THẢO KÍNH

(Lc 17, 11-19)

Người cùi thời Chúa Giêsu khốn khổ trăm bề.

Họ không chỉ đớn đau về thân xác, nhất là những đêm có trăng, con cùi nổi loạn, gặm nhấm thịt da bệnh nhân, nhức buốt; mà cái đau khổ hơn là về tinh thần, bị mọi người xa lánh, khinh ra mặt, bè rỉu ra mặt…Tột cùng của nỗi thống tâm- đau phần tinh thần, người Do Thái giáo quan niệm, bệnh tật là án phạt của Chúa vì phạm tội lỗi. Bệnh phong cùi thuộc loại bệnh gớm ghê nhất, cho thấy rõ án Chúa phạt với những ai phạm tội ghê tởm nhất. Người bệnh phong bị vạ tuyệt thông, bị loại ra khỏi cộng đoàn, cấm tiếp xúc, ai tiếp xúc họ cũng bị lây tội lỗi.

Nói thế để thấy tâm trạng khốn khổ biết chừng nào của người mắc bệnh phong. Nói thế để thấy rằng, khi được Chúa chữa khỏi, người bênh phong đang bị cả dân tộc xa tránh, khinh bỉ vui biết chừng nào.

Mười người cùi hôm nay được Chúa Giêsu chữa khỏi, thế mà chỉ có 1 người quay lại tạ ơn Chúa, mà lại là người Samaria, tức dân ngoại.

Chúa Giêsu nói: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”

Câu hỏi của Chúa Giêsu từ ngàn xa xưa ấy, dường như đang nói với chúng ta, từng người trong chúng ta về lòng biết ơn.

Tại sao 9 người Do Thái kia không quay lại để thể hiện sự biết ơn? Phải chăng họ không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường; hay họ nghĩ mình là Dân riêng Chúa chọn nên họ đương nhiên được Chúa ban ơn?.

Biết đâu đấy cũng là tâm trạng của chúng ta hôm nay?

Lòng biết ơn thuộc về nhân đức nhân bản thiết yếu để làm người. Không có hoặc thiếu lòng biết ơn, thì người đó không còn hay thiếu phẩm chất làm người- một thụ tạo hữu hình duy nhất Chúa dựng nên giống Hình ảnh Thiên Chúa, thuộc về gia đình Thiên Chúa.

Nói thể, để thấy khi ta sống có ơn nghĩa là đang phản ánh, đang tỏa sáng hình ảnh Thiên Chúa nơi ta.

Hai tiếng “Cám ơn- xin lỗi” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa. Khi ta cám ơn- xin lỗi ai, người ta sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa. Nghe ta nói cám ơn- xin lỗi, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn, thấy cuộc đời còn nhiều người biết ân nghĩa, đáng sống…. Như thế khi ta biết nói cám ơn- xin lỗi góp phần làm cho cuộc sống thêm niềm vui, thêm tin yêu- hy vọng.

Hai tiếng “cám ơn- xin lỗi” khi được thốt ra bởi lòng thành, từ những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn Osin... Càng thiết thức hơn để xây dựng gia đình hạnh phúc nếu Vợ - chồng biết thật lòng trao cho nhau lời cám ơn- xin lỗi.

Nói lời cám ơn- xin lỗi thật tâm, tưởng dễ song lại không đơn giản, bởi nó đòi cần ta biết sống khiêm nhường.

Thật buồn, ngày nay trong xã hội đang ta mất dần, ngày càng vắng lời nói cám ơn xin lỗi. Dấu hiệu đó cho thấy phần nào, xã hội hiện đang đang suy trầm đạo đức.

Sống tâm tình tạ ơn, trước hết ta hãy khởi đi từ gia đình, mà khởi đầu là biết ơn các đấng sinh thành ra mình- ông bà cha mẹ. Nói cách khác, sống biết ơn tất yếu đưa ta đến đời sống thảo hiếu. Trong Thư Chung của Hội Đồng Giám mục vừa qua (10.2013) gởi cộng đồng dân Chúa kêu mời Tân Phúc âm hóa nhấn mặt ưu tiên sống Phúc âm hóa trong đời sống gia đình, rồi đên giáo xứ và các cộng đoàn, rồi lan tỏa ra ngoài đời sống xã hội (số 4)

Gia đình nào còn ông bà cha mẹ, chúng ta, nhất là các bạn trẻ cần nhận ra Hồng ân lớn ấy để sống sao để mai sau các cụ giã biệt dương thế chúng ta không phải hối hận, mà nếu có hối hận thì qua muộn.

Một Phóng viên hỏi một người nổi tiếng, mới cưới cô vợ xinh đẹp: Trong một chuyến tàu cùng với mẹ già và vợ trẻ, chẳng mau tàu bị đắm, giả thuyết khả năng cứu sống một người như nhau, anh sẽ ưu tiên chọn cứu ai.

Câu nhiều nổi tiếng trả lời, làm cho cả khán phóng bấy ngờ: - Tôi sẽ chọn cứu mẹ già.

- Tại sao?

- Đơn giản, mẹ chết thì mất luôn, không có mẹ thứ hai thay thế. Còn vợ mất, có thể vẫn lấy được vợ thứ hai.

Câu chuyện vui có tính giả tưởng, và hai hước ấy, cho thấy sự thật: ông bà cha mẹ một khi mất đi thì không thể lấy lại được.

Chúng ta đang bước vào mùa đám cưới, càng phải biết ơn cội nguồn của mình. Gần và trực tiếp là ông bà cha mẹ, xa hơn là tổ tiên, và Cội nguồn của cội nguồn chính là Thiên Chúa.

Nói thế, để mùa cưới, chúng ta không chỉ chăm bo cho chú rể cô dâu. Đây là dịp tốt để hướng lòng và làm cho nổi bật tâm tình tri ân- tạ ơn Chúa, sống hiếu thảo.

Thông thường, khi có ra đình mới, các bạn trẻ dễ thường thiếu sự quan tâm đên các bậc sinh thành. Ta có nhiều giờ bên nhau, cả ngày cả tuần du lịch bên nhau… song dành thời gian để thăm mẹ cha nội ngoại lại viện cớ không có thời gian.

Sự hiếu thảo, không có nghĩa cứ hàng tuần, hàng tháng ném một cục tiền kể như xong. Sự hiện diện của con cháu, nói lời thăm hỏi, ăn một bữa cơm với các đấng sinh thành quan trọng hơn của cải vật chất.

Minh họa: Ngày đầu tiên về nhà chồng, sau đêm tân hôn, trời mới tỏ rạng, nàng đã thể hiện con dâu đảm đang chăm chỉ, lấy chổi quét sân.

‘CHồng Yêu’ thấy vậy đưa ‘vợ yêu’ ly sữa nóng pha mới, thơm nồng hương khói:

- Em thật đảm đang, mẹ thấy chắc vui lắm.

Nói rồi, cHồng Yêu đưa ly sữa cho vợ yêu, cầm chổi phụ quét:

Ở một góc khuất trong bếp, người mẹ già với đôi mắt đỏ hoe.

Bà khóc không phải cảm động trước tình yêu con trai dành cho vợ mới.

Mà vì… tủi hổ!

Mấy chục năm, cả đời bà đến lúc này, bà chưa bao giờ được người con trai quan tâm, thương yêu như thế, dù chỉ một chút như thế.

Có lần, bà nhờ con trai lấy rùm chổi bà quét. Con lấy, nhưng không đưa, mà là ném chổi cho bà với thái độ khó chịu.

Mẹ già càng nghĩ, càng tủi thân… càng thêm nước mắt!

Sống biết ơn gắn liền sống hiếu thảo, bởi trên trên gian này, người ta mang ơn lớn nhất chính là ông bà cha mẹ.

Đấy là trên bình diện nhân bản.

Trên bình diện Đức tin, đối với Kitô giáo, Tạ ơn không dừng lại ở bề mặt xã giao, nhân bản, mà còn giữa vai trò chính yếu của đời sống Đức tin, thuộc về bản tính của Giao Ước mới .

Hy tế Thập Giá chính là hy tế Tạ Ơn hoàn hoàn hảo nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Qua Thánh Lễ, Giáo Hội theo lệnh truyền Chúa Giêsu tiếp tục hiện tại hóa Hy lễ Thập giá.

Bỏi thế, mỗi khi tham dự Thánh lễ, ta đang cùng Giáo Hội đang dâng Hy tế Tạ ơn- Hy tế Cứu độ là chính Chúa Giêsu Kitô lên Cha chúng ta ở trên trời.

Kitô hữu sống sống tâm tình Tạ ơn đồng nghĩa sống trong hoan ca, vinh chúc, là sống Tin mừng chứ không phải tin buồn. Giữa cuộc đời được coi là “bể thảm” mà ta vẫn vui sống, tràn đầy hoan ca sẽ là một câu hỏi lớn trước một thế giới mà nền văn minh sự chết bao trùm.

Lạy Chúa Giêsu xin cho Trái tim chúng con con biết nhạy cảm trước ơn lành Chúa ban, nhờ tham dự Thánh lễ Tạ ơn mỗi ngay, hàng tuần xin thêm lòng biết ơn, sống hiếu thảo cho chúng con. Amen

Lm. Đaminh Hương Quất
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Lễ Phong Chân phúc cho các vị Tử đạo DCCT tại Cuenca - Tây Ban Nha
Rev Michael Brehl, C.Ss.R
09:15 13/10/2013
DÒNG CHÚA CỨU THẾ
Bề trên Tổng quyền
0000 225/2013


Roma, ngày 5 tháng 10 năm 2013
Lễ Chân phúc Francis Xavier Seelos, C.Ss.R.

Phong Chân phúc cho các vị Tử đạo DCCT tại Cuenca (Tây Ban Nha)


Rev. José Javier
Gorosterratzu Jaunarena
(1877-1936)
Rev. Ciriaco Olarte y Pérez
de Mendiguren (1893-1936)
Rev. Miguel Goñi Ariz (1902-1936)
Rev. Julián Pozo y Ruiz de
Samaniego (1920-1936)
Rev. Pedro Romero Espejo
(1871-1938)
Brother Víctor (Victoriano)
Calvo Lozano (1896-1936)
Kính gửi anh chị em Tu sĩ DCCT,
Các cộng tác viên giáo dân và bạn hữu,


“Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ… Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm điều thiện.” (1 Pr 4,13.19)

Chúa Nhật 13/10/2013 sẽ diễn ra Thánh lễ phong Chân phúc cho 522 vị Tử đạo trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939), tại Tarragona, TBN. Trong số đó có 6 Tu sĩ DCCT Cuenca: các Cha Javier Gorosterratzu Jaunarena, Ciriaco Olarte Pérez de Mendiguren, Miguel Goñi Áriz, Julián Pozo Ruiz de Samaniego, Pedro Romero Espejo, và Thầy Victoriano Calvo Lozano. Sự kiện này không những là một biến cố lịch sử quan trọng đối với Tỉnh DCCT TBN và Giáo Hội TBN mà còn có ý nghĩa đối với cả nhà Dòng chúng ta.

Chúng ta cần biết bối cảnh lịch sử khiến cho các vị Tử đạo chấp nhận hy sinh mạng sống mình. Rất nhiều người bị giết trong cuộc nội chiến ở TBN. Khoảng 270.000 người chết trong đó có cả quân đội và người dân. Nhiều người chết vì chiến tranh, nhưng cũng có những người chết vì bị trả thù, vì bệnh tật và đói. Khoảng 6.850 người chết do bị đàn áp tôn giáo. Trong số này có 13 Giám mục và trên 6.000 linh mục và tu sĩ. Khoảng 1000 vị Tử đạo đã được tuyên phong hiển Thánh hoặc Chân phúc. Gần 2000 trường hợp khác đang được xem xét. Trong dịp sắp kết thúc Năm Đức tin, việc tuyên phong Chân phúc cho 522 vị tử đạo này nhằm tôn vinh việc tử đạo của các chứng nhân ấy là một hành vi tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa trung thành, cũng như chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô. Gia đình DCCT được phúc chia sẻ 6 chứng nhân. Chúng ta cũng nhớ đến 14 vị tử đạo DCCT khác đang được xem xét hồ sơ.

Thông tin về các vị tử đạo này đã được đăng tải bằng một vài ngôn ngữ khác nhau. Website Tỉnh DCCT Madrid có đăng tiểu sử ngắn gọn của các ngài, cũng như chân dung của các vị và các thông tin khác. (www.redentoristas.org). Những ấn phẩm và thông tin khác sẽ được đăng tải trong tương lai gần (x. http://testigosdelaredencion.blogspot.com.es).

Trong bức thư ngắn ngủi này, tôi không thể viết chi tiết về từng anh em tử đạo của chúng ta. Tôi khích lệ anh chị em học hỏi thêm về các ngài. Những câu chuyện của các ngài gợi hứng và thách thức chúng ta ngày nay. Trong thư này, tôi chỉ nói một chút về ý nghĩa của các ngài đối với chúng ta hôm nay trong việc sống linh đạo DCCT.

Chứng tá của các vị tử đạo rất có ý nghĩa đối với Hội Thánh. Các môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô đã xem tử đạo là đi theo sát bước chân của Chúa Giêsu và chia sẻ những đau khổ của Người, như thánh Phêrô đã diễn tả trong thư của ngài như đoạn trích đầu thư. Chứng tá của các vị tử đạo lớn lao hơn việc các ngài chịu đựng một cái chết đầy đau đớn. Chứng tá ấy diễn tả lý do các ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình: chứng tá đối với Đức Giêsu Kitô và để loan báo ơn cứu độ chứa chan cho mọi người. Tử đạo là một lời công bố Tin Mừng, và các vị tử đạo trở thành chứng nhân của Tin Mừng, “cứ làm điều thiện” vì lợi ích của tha nhân.

Trong suốt 200 năm từ khi thành lập, DCCT chúng ta chưa có thừa sai nào bị giết và được Giáo Hội công nhận tử đạo. Thánh Anphong từng mơ ước các thừa sai DCCT loan báo Tin Mừng ở những vùng xa xôi và tử đạo trong việc trung tín với Tin Mừng. Tuy nhiên, trước năm 1936, chưa có một thừa sai DCCT nào tử đạo vì đức tin. Tôi nghĩ thánh Anphong không bao giờ ngờ rằng các thừa sai DCCT đầu tiên tử đạo sẽ là người TBN. Điều đáng nói là từ năm 2001, Giáo Hội đã công nhận 11 vị tử đạo DCCT, tất cả đều diễn ra trong thế kỷ 20 và các ngài đều thuộc châu Âu (TBN), Ukraina và Slovakia.

Cuối tháng 7/1936, khi có nhiều cuộc bách hại tại Cuenca, một trong các vị Chân phúc Tử đạo của chúng ta là Cha Julián Pozo, bắt đầu linh cảm rằng tử đạo là điều có thể xảy ra. Ngài nói: “DCCT chúng ta chưa có ai tử đạo; anh em có muốn thấy rằng chúng ta sẽ là những người tử đạo đầu tiên không?” Không lâu sau đó, điều linh cảm ấy trở thành hiện thực. Không ai trong 6 vị này tìm kiếm sự tử đạo. Có vài vị rõ ràng sợ điều đó xảy ra. Họ đã hy sinh mạng sống như những chứng tá của ơn cứu đô. Cái chết của các ngài nhắc nhở chúng ta rằng ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục chết vì là nạn nhân của bạo lực, kỳ thị, chiến tranh và đói nghèo. Đời sống và cái chết anh dũng của các ngài mời gọi chúng ta xây dựng nền văn hóa gặp gỡ và đối thoại như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ để vượt qua các thế lực sự dữ đang tiếp tục hoành hành xã hội con người.

Sáu anh em người TBN sắp được tuyên phong Chân phúc này chỉ là những thừa sai DCCT bình thường. Cha Javier Gorosterratzu là một thần học gia và được đề nghị về Rome nghiên cứu Văn khố Vatican. Cha Ciriaco Olarte từng đi truyền giáo ở Mexico. Ngài trở về TBN vì cuộc cách mạng và đàn áp tôn giáo ở quê nhà. Các cha Miguel Goñi và Fr. Julián Pozo chịu đau khổ vì bệnh tật và bị hạn chế hoạt động truyền giáo. Những người biết 2 cha đều đánh giá cao là những gì các ngài đã giảng và hướng dẫn thiêng liêng cho họ. Thầy Victoriano Calvo thinh lặng và sâu sắc, một con người cầu nguyện và phục vụ những ai cần đến. Cha Pedro Romero được các bề trên đánh giá là không có gì đặc biệt trong thừa tác vụ ngoại thường, nhưng đã chứng tỏ một sự can đảm và trung tín tuyệt vời khi ngài tiếp tục sứ vụ Cuenca, thường sống vô gia cư trên các nẻo đường trong suốt thời gian bị đàn áp tôn giáo. Ngài chết rũ tù và 2 năm sau họ buộc ngài phải rời khỏi Tu viện DCCT.

Đối với 5 anh em trong số này, việc tử đạo đến rất nhanh. Tôi nghĩ rằng cuộc từ bỏ cuối cùng của các ngài, hiến dâng mạng sống mình trong tay Thiên Chúa là kết quả của một quá trình lâu dài hơn nhiều. Lòng trung thành của các ngài đối với Thiên Chúa trong khoảnh khắc tử đạo được định hình bởi quyết định “xin vâng” với Chúa Giêsu Kitô hàng ngày khi họ sống ơn gọi thừa sai DCCT. Trong sứ vụ rao giảng và giải tội, cầu nguyện và phục vụ tha nhân, giảng dạy và hướng dẫn thiêng liêng, các ngài đã sống ơn gọi thừa sai với sự trung thành. Khi đối diện với bệnh kinh niên nghiêm trọng, các ngài học đón nhận người khác một cách ân cần và tươi cười. Ngay cả khi thất bại trong một vài nỗ lực tông đồ, các ngài không tuyệt vọng hay từ bỏ, mà vẫn tiếp tục rao giảng Phúc Âm.

Nhờ lời khấn Dòng và lòng trung thành, các ngài đã hiến dâng đời sống mỗi ngày như một thừa sai trước khi các ngài tử đạo. “Với việc khấn Dòng, mọi tu sĩ DCCT thực sự là thừa sai, dù khi gánh vác những nhiệm vụ khác nhau trong thừa tác vụ tông đồ, dù khi lâm phải tình trạng bất động, dù khi phải đảm trách phục vụ Dòng và anh em dưới muôn hình thức, hoặc khi già cả, tật nguyền, không còn có thể hoạt động bề ngoài, và nhất là khi phải chịu đau khổ và chết vì sự cứu độ thế gian.” (HP. 55).

Năm 2003, Tổng Công hội thứ XXIII đã chọn chủ đề “Hiến mình cho Ơn Cứu Độ chứa chan” nhằm quả quyết rằng việc hiến mình là trọng tâm của Ơn gọi Thừa sai DCCT. Các vị tử đạo Cuenca đã sống ơn gọi ấy và đã hiến dâng đời mình như các chứng nhân của ơn cứu độ. Các ngài cũng chứng thực rằng lời mời gọi tử đạo có thể đến với bất cứ người môn đệ nào trong mọi nơi và mọi lúc. Rất ít Thừa sai DCCT được kêu gọi từ bỏ đời sống mình như các vị tử đạo đã làm. Một số nhỏ Kitô hữu đổ máu mình ra qua cái chết mạnh mẽ để làm chứng niềm tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều được kêu gọi hiến mình cho ơn cứu độ chứa chan qua việc loan báo Phúc Âm và phục vụ anh chị em mình. “Được Thánh Thần thúc đẩy và trợ lực, các tu sĩ gắng đạt tới việc dâng hiến toàn diện đời mình cho Chúa.” (HP. 56).

Trong Năm Ơn gọi Thừa sai DCCT này, ước gì đời sống và việc tử đạo của những người anh em của chúng ta khích lệ chúng ta cải tổ và đào sâu những chia sẻ của chúng ta trong đặc sủng DCCT. Tu sĩ DCCT nam cũng như nữ, giáo dân và các tu sĩ, chúng ta là các thừa sai, được kêu gọi trở nên chứng nhân và thừa sai của ơn cứu độ. Chúng ta được kêu gọi hiến dâng đời mình một cách quảng đại và sẵn sàng trong sự hiệp thông với các anh em tử đạo tại Cuenca.

Mặc dù không phải tất cả chúng ta có thể hiện diện một cách thể lý tại Tarragona vào ngày 13/10/2013 để cử hành lễ tuyên phòng Chân phúc, tôi xin mỗi Thừa sai DCCT, Nữ tu DCCT và các cộng tác viên giáo dân tham gia hiệp thông thiêng liêng vào ngày lễ này. Xin hãy ghi nhớ biến cố quan trọng này trong tất cả mọi nhà thờ và nhà nguyện, trong mỗi Thánh lễ hay giờ cầu nguyện chung. Tôi xin mỗi cộng đoàn dành một khoảng thời gian vào ngày 13/10 để cầu nguyện chung với nhau và hiệp thông với các anh em tân Chân phúc. Nơi nào có thể được, tôi xin anh em cử hành giờ cầu nguyện này cùng với dân Chúa để chia sẻ tin vui với họ.

“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,24). Xin cho những lời cầu nguyện và chuyển cầu của các Chân phúc Tử đạo DCCT tại Cuenca là nguồn cảm hứng và phúc lành cho chúng ta trong suốt Năm Ơn gọi Thừa sai DCCT này. Xin cho gương hy sinh của các ngài lôi cuốn mọi người chia sẻ sự dấn thân khi “noi gương Chúa Giêsu Cứu Thế bằng cách rao giảng lời Chúa cho người nghèo khó” (HP.1). Xin Thánh Anphong và Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đồng hành với chúng ta khi chúng ta rao giảng Phúc Âm theo cung cách mới và hiến mình cho ơn cứu độ chứa chan.

Trong Chúa Cứu Thế,

Michael Brehl, C.Ss.R.
Bề trên Tổng quyền



CONGREGATIO SS. REDEMPTORIS
Superior Generalis


0000 225/2013

Roma, October 5, 2013

Memorial of Blessed Francis Xavier Seelos, C.Ss.R.
Beatification of the Redemptorist Martyrs of Cuenca



Dear Confreres, Sisters, Lay Associates and friends,

“Rejoice insofar as you are sharing Christ’s sufferings, so that you may also be glad and shout for joy when his glory is revealed…Therefore, let those suffering in accordance with God’s will entrust themselves to a faithful Creator, while continuing to do good.” (1 Peter 4:13, 19)

On Sunday, October 13, 2013, the beatification of 522 martyrs of the Spanish Civil War (1936-1939) will take place in Tarragona, Spain. Among those to be beatified are the six Redemptorist Martyrs of Cuenca: Fathers Javier Gorosterratzu Jaunarena, Ciriaco Olarte Pérez de Mendiguren, Miguel Goñi Áriz, Julián Pozo Ruiz de Samaniego, Pedro Romero Espejo, and Brother Victoriano Calvo Lozano. This beatification is an historic and important event, not only for the Province of Madrid and the Church of Spain, but also for the entire Congregation.

It is important to remember the context in which these martyrs to be beatified gave their lives. There were many casualties of the Spanish Civil War. Approximately 270,000 people died, including soldiers and civilians. Many died from acts of war, but many also died from acts of reprisal, from disease, and from hunger. Approximately 6,850 died as a direct result of religious persecution. Of these, 13 were bishops, and over 6,000 were priests and religious. Among these, almost 1000 have already been canonised or beatified. Another 2000 cases are in process. As the Year of Faith draws to a close, the beatification of these 522 martyrs celebrates the witness of martyrdom as an act trust in our faithful Creator, as well as sharing the sufferings of Christ. Without neglecting the importance of the collective witness of all these martyrs, the Redemptorist family remembers in a particular way the six Redemptorist Martyrs of Cuenca in a particular way. We also remember that the cases involving fourteen other Redemptorist martyrs are still in process.

Information about these confreres is already available in several languages. The website of the Redemptorist Province of Madrid (www.redentoristas.org) has short biographies, as well as portraits of the martyrs and other information. Other publications and information will be available in the near future (see also http://testigosdelaredencion.blogspot.com.es).

In this short letter, I cannot speak in detail about each of these confreres individually. I encourage you to learn more about them as material becomes available. Their stories are inspiring and challenging for us today. In this letter, I would like to say a few words about the significance of these martyrs for all of us who live the Redemptorist charism.

The witness of martyrs has always been very significant for the Church. The first disciples of Christ viewed martyrdom as following closely in the footsteps of Jesus and sharing his sufferings, as St. Peter expresses in the above quote from his first letter. The witness of the martyrs goes beyond the act of enduring a violent death. It expresses the reason for which they are willing to give their lives: as witnesses to Jesus Christ and to announce plentiful redemption for all. Martyrdom is a proclamation of the Good News, and the martyrs become witnesses to the Gospel, “continuing to do good” for the sake of their sisters and brothers.

For the first 200 years of the Congregation of the Most Holy Redeemer, no Redemptorist Missionary was killed and recognized by the Church as a martyr. St. Alphonsus had dreamed of Redemptorist Missionaries proclaiming the gospel in distant places and embracing martyrdom in fidelity to the Gospel. However, before 1936, no Redemptorist Missionary had yet been martyred for the faith. I doubt that Alphonsus ever thought that the first members of his Congregation to experience martyrdom would do so in Spain. It is remarkable that since 2001, the Church has recognized eleven Redemptorist Martyrs who gave their lives for Christ and his people, all in the 20th century and all in Europe – in Spain, Ukraine and Slovakia.

In late July, 1936, as the signs of persecution increased in Cuenca, one of our Blessed Martyrs, Fr. Julián Pozo, began to intuit that martyrdom was a real possibility. He said: “We (the Redemptorists) don’t have martyrs; do you want to see that we will be the first martyrs?” It was not long before his intuition became reality. None of these six confreres sought martyrdom. Several clearly feared the possibility. All gave their lives as witnesses to redemption. Their deaths also remind us that today many people continue to die as the victims of violence, prejudice, war and poverty. Their lives and their violent deaths call us to build the culture of encounter and dialogue envisioned by Pope Francis in order to overcome these evils which continue to afflict human society.

In most ways, these first six Spanish confreres to be beatified were ordinary Redemptorist Missionaries. Fr. Javier Gorosterratzu was an historian who was supposed to be in Rome doing research in the Vatican Archives. Fr. Ciriaco Olarte had been a missionary in Mexico. He returned to Spain due to the revolution and religious persecution in that country. Fr. Miguel Goñi and Fr. Julián Pozo were both suffering from ill health and were more restricted in their ministry and missionary activity. Both were well appreciated for their preaching and spiritual counsel by those who knew them. Brother Victoriano Calvo was quiet and deep, a man of prayer and service to those in need. Fr. Pedro Romero, judged by his superiors as unqualified for extraordinary ministry, showed extraordinary courage and faithfulness as he continued to minister in Cuenca, often living homeless in the streets during the period of persecution. He died in prison of his wounds and suffering, two years after he was forced to leave the Redemptorist convent.

For five of these six confreres, martyrdom came quickly. Yet it seems to me that the final surrender of their lives into the hands of God was the result of a much longer process. Their fidelity to God at the moment of martyrdom was shaped by the daily decision to say ‘yes’ to Jesus Christ as they lived their Redemptorist missionary vocation. In the daily ministry of preaching and confessions, prayer and service to others, teaching and spiritual direction, they lived this missionary vocation with fidelity. In the face of serious chronic illness, they learned to welcome others graciously and with a smile. Even in the experience of the failure of some apostolic endeavours, they did not despair or give up, but continued to proclaim the Gospel.

Through their religious profession and fidelity, they gave their lives daily as missionaries before they gave their lives as martyrs. “Profession makes all Redemptorists truly missionaries, whether they are engaged in different activities of apostolic ministry or hindered from working at all, whether they are occupied with various services on behalf of the Congregation or the confreres, or are advanced in age, sick, or incapable of external work or whether, above all, they are suffering and dying for the salvation of the world” (Cons. 55).

In 2003, the theme chosen by the XXIII General Chapter affirmed that “Giving our lives for Plentiful Redemption” is at the heart of the Redemptorist Missionary Vocation. The martyrs of Cuenca lived this vocation and gave their lives as witnesses to redemption. They also testify to the truth that the call to martyrdom can come to any disciple at the most unexpected time and in the least expected place. Very few Redemptorist missionaries are asked to lay down their lives as these martyrs did. A small number of Christian disciples will shed their blood through violent death in testimony to their faith in Jesus Christ. However, all of us are called to give our lives for plentiful redemption through the proclamation of the Gospel and service of our sisters and brothers. “Moved and strengthened by the Holy Spirit, the members spare no effort to arrive at a total gift of themselves” (Cons. 56).

During this Year for the Promotion of the Redemptorist Missionary Vocation, may the lives and martyrdom of our confreres inspire us to renew and deepen our own share in the Redemptorist charism. Confreres and Sisters, Lay and Religious, we are missionaries – called to be Witnesses and Missionaries of Redemption. We are called to give our lives, with generosity and availability, in union with our brothers the martyrs of Cuenca.

Although not all of us can be physically present in Tarragona on October 13th for the celebration of the Beatification, I ask every Redemptorist Missionary, Sister, and Lay Collaborator to join in spiritual communion with this celebration. Please remember this important event in all of our Churches and Chapels, in each Mass and common prayer. I ask each community to dedicate some moment on October 13th to come together in prayer and communion with our newly-beatified brothers. Where possible, I ask you to do this with the People of God and to share this Good News with them.

“Very truly, I tell you, unless a grain of wheat falls into the earth and dies, it remains a single grain; but if it dies, it bears much fruit” (John 12:24). May the prayers and intercession of the Blessed Redemptorist Martyrs of Cuenca be a source of inspiration and blessing for us during this Year of the Redemptorist Missionary Vocation. May their example and self-gift attract others to share their commitment to follow “Jesus Christ the Redeemer by preaching the word of God to the poor” (Cons. 1). May St. Alphonsus Liguori and Our Mother of Perpetual Help accompany us as we preach the Gospel ever anew and give our lives for plentiful redemption.

Your brother in the Redeemer,

Michael Brehl, C.Ss.R.

 
Không cần xin vé để dự lễ Phong Thánh cho hai Đức Giáo Hoàng
LM. Trần Đức Anh OP
09:17 13/10/2013
VATICAN. Hôm 12-10-2013, Phủ Giáo Hoàng thông báo không cần xin vé để tham dự lễ tôn phong Hiển Thánh cho hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vào Chúa Nhật 27-4-2014 tại Roma.

Thông cáo nói rằng việc tham dự lễ này được mở rộng cho tất cả những ai tìm được chỗ tại Quảng trường Thánh Phêrô, Quảng trường Piô 12 và Đường Hòa Giải (Via Conciliazione).

”Như đã xảy ra trong những dịp trước đây, các tín hữu cần cảnh giác về những vụ ”bán vé lậu” hoặc những vụ đòi tiền từ phía các hãng hoặc nhân viên du lịch để được vé dự lễ phong thánh.

Và cũng nên nhớ rằng các vé để tham dự các buổi tiếp kiến hoặc các buổi lễ do Đức Thánh Cha chủ sự hoàn toàn miễn phí.

Phủ Giáo Hoàng ra thông cáo trên đây vì trong thời gian qua đã có nhiều người hoặc tổ chức gửi thư đến để xin giữ vé dự lễ phong Hiển Thánh cho hai Đức Chân Phước Giáo Hoàng.
 
Thánh lễ và nghi thức phó thác cho Đức Mẹ Fatima do Đức Thánh Cha cử hành
LM. Trần Đức Anh OP
09:19 13/10/2013
VATICAN - 200 ngàn tín hữu đã tham dự thánh lễ ĐTC Phanxicô cử hành sáng ngày 13-10-2013 với nghi thức phó thác cho Đức Mẹ Fatima vào cuối thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Lúc 8 giờ sáng, Tượng Đức Mẹ Fatima nguyên bản đã được trực thăng của không lực Italia chở từ Đền Thánh Đức Mẹ Tình Yêu Thiên Chúa (Divino Amore) từ ngoại ô Roma, nơi diễn ra buổi canh thức suốt đêm, về Vatican, và sau đó được rước ra Quảng trường Thánh Phêrô, trong khi chờ đợi thánh lễ ĐTC cử hành từ lúc 10 giờ rưỡi. Giống như chiều thứ bẩy hôm trước, Tượng Đức Mẹ đã được rước qua các lối đi để các tín hữu chào kính.

Thánh lễ sáng hôm qua là cao điểm trong hai Ngày Thánh Mẫu được tổ chức tại Roma trong khuôn khổ Năm Đức tin. Các tín hữu hiện diện tại Quảng trường, tràn ra đến gần cuối đường Hòa Giải, trong số này có 48 phái đoàn chính thức đại diện các Hội đoàn Thánh Mẫu tại 48 nước trên thế giới, kể cả một số nước ở xa như Australia, Ấn độ, Argentina, Nhật Bản, Hoa Kỳ và nhiều nước Nam Mỹ. Đồng tế với ĐTC có hơn 1 ngàn LM và một số GM trong áo lễ màu xanh lá cây.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh Lễ, dựa vào các bài đọc của Chúa Nhật thứ 28 thường niên năm C, ĐTC nêu bật tấm gương của Mẹ Maria để cho Chúa làm kinh ngạc, trung thành với Chúa và xác tín Chúa là sức mạnh của chúng ta. Ngài nói:
”Hãy hát mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện những việc diệu kỳ” (Tv 97,1).

Ngày hôm nay chúng ta đứng trước một trong những điều kỳ diệu của Chúa: đó là Đức Maria! Một thụ tạo khiêm hạ và yếu đuối như chúng ta, được chọn để làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Tạo Hóa.

Chính khi nhìn Mẹ Maria, dưới ánh sáng các bài đọc chúng ta đã nghe, tôi muốn cùng với anh chị em suy tư về 3 thực tại: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành, Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta.

1. Thứ I: Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Sự tích Naaman, tư lệnh quân đội của vua Aram, thật là đặc biệt; để được khỏi bệnh phong cùi, ông ngỏ lời với vị Ngôn Sứ của Thiên Chúa là Eliseo, nhưng Người không làm những nghi thức ma thuật, cũng chẳng yêu cầu ông tướng những điều ngoại thường, nhưng chỉ tín thác với Thiên Chúa và dìm mình trong nước sông; nhưng không phải là những sông cả của thành Damasco, mà là dòng sông Giordan bé nhỏ. Đó là một lời yêu cầu làm cho tướng Naaman ngỡ ngàng, kinh ngạc; phải chăng Thiên Chúa có thể là vị yêu cầu những chuyện đơn giản như vậy sao? Ông muốn trở lui, nhưng rồi ông cũng đi dìm mình trong sông Giordan và tức thì ông được lành mạnh. Ta thấy Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên; chính trong sự nghèo hèn, yếu đuối, khiêm hạ mà Chúa tỏ mình ra và ban cho chúng ta tình yêu cứu độ của Ngài, chữa lành và ban sức mạnh cho chúng ta. Chúa chỉ yêu cầu chúng ta ngheo lời và tín thác nơi Ngài.
Đó là kinh nghiệm của Đức Trinh Nữ Maria: trước lời loan báo của Thiên Thần, Trinh Nữ không giấu sự ngạc nhiên. Đó là sự ngỡ ngàng khi thấy rằng Thiên Chúa, để làm người, đã chọn một thiếu nữ tầm thường ở Nazareth, không sống trong các dinh thự của những người quyền thế và giàu sang, không thi hành những công trình ngoại thường, nhưng cởi mở đối với Thiên Chúa, biết tín thác nơi Ngài, cho dù không hiểu tất cả: ”Này tôi là tôi tớ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo lời Sứ Thần” (Lc 1,38). Đó là câu trả lời của Người. Thiên Chúa luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên, Ngài phá vỡ những khung nền của chúng ta, làm cho những dự phóng của chúng ta bị khủng hoảng, và Chúa nói với chúng ta: con hãy tín thác nơi Cha, đừng sợ, hãy để cho con được ngạc nhiên, hãy ra khỏi chính mình và theo Cha!

Hôm nay tất cả chúng ta cũng hãy tự hỏi xem mình có sợ điều mà Thiên Chúa có thể yêu cầu chúng ta hoặc điều mà chúng ta xin Chúa hay không. Tôi có để cho Chúa làm cho ngạc nhiên, như Chúa đã làm với Mẹ Maria hay không, hoặc tôi khép kín mình trong những điều an toàn của tôi, an toàn vật chất, an toàn trí thức, an toàn ý thức hệ, an toàn các dự phóng của tôi? Tôi có để cho Chúa thực sự đi vào trong cuộc sống của tôi hay không? Tôi trả lời Chúa như thế nào?

2. Trong đoạn thư thánh Phaolô chúng ta đã nghe, thánh Tông Đồ ngỏ lời với môn đệ Timôthêo và nói rằng: ”con hãy nhớ Chúa Giêsu Kitô, nếu chúng ta kiên trì với Ngài, chúng ta sẽ được cùng Ngài hiển trị” (Xc 2 Tm 2,8-13). Và đây là điểm thứ hai: hãy luôn nhớ đến Chúa Kitô, kiên trì trong đức tin: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên bằng tình thương của Ngài, nhưng Chúa yêu cầu chúng ta hãy trung thành theo Ngài. Chúng ta có thể ”không trung thành”, nhưng Chúa thì không, Chúa là Đấng Trung Thành, và Ngài yêu cầu chúng ta hãy trung thành như vậy. Chúng ta hãy nghĩ đến bao nhiêu lần chúng ta hăng hái phấn khởi vì một điều gì, vì một sáng kiến, một sự dấn thân nào đó, nhưng rồi, trước những vấn đề đầu tiên xảy ra, chúng ta tháo lui. Và rất tiếc là điều này cũng xảy ra trong những chọn lựa cơ bản như hôn phối. Người ta khó kiên trì bền chí, khó trung thành với những quyết định đã đề ra, với những cam kết đã quyết tâm. Nói ”xin vâng”, ”đồng ý' thì dễ, nhưng rồi người ta không lập lại được quyết tâm đồng thuận như vậy.

Mẹ Maria đã thưa ”xin vâng” với Thiên Chúa, một lời ”xin vâng” đã đảo lộn cuộc sống khiêm hạ của Mẹ ở Nazareth, nhưng không phải là lời thưa 'xin vâng' duy nhất, nhưng đó là lời đầu tiên trong bao nhiêu lời thưa 'xin vâng' được xướng lên trong tâm hồn những lúc vui tươi, cũng nhưng trong những lúc đau khổ, bao nhiêu lời thưa ”xin vâng đạt tới đột đỉnh trong lời “xin vâng' dưới cây Thập Giá. Hôm nay, ở đây có bao nhiêu bà mẹ; chị em hãy nghĩ đến lòng trungthành của Mẹ Maria với Thiên Chúa tới mức độ nào: khi thấy Con duy nhất của Mẹ trên Thập Giá. Mẹ là phụ nữ trung thành, đứng đó, lòng tan nát, nhưng trung thành và can đảm.

Tôi có phải là một Kitô hữu tùy lúc hay là một Kitô hữu luôn luôn? Nền văn hóa tạm bợ, tương đối, cũng lẻn vào cuộc sống đức tin. Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành với Ngài, mỗi ngày, trong những hoạt động thường nhật và Ngài thêm rằng cả khi chúng ta không trung thành với Chúa, Chúa vẫn luôn trung thành, và với lòng từ bi, Ngài không ngừng giơ tay cho chúng ta để nâng chúng ta dậy, khuyến khích chúng ta hãy tiếp tục hành trình, trở về cùng Ngài và thưa với Ngài về sự yếu đuối để Ngài ban sức mạnh cho chúng ta.

3. Điểm sau cùng: Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta. Tôi nghĩ đến 10 người phong cùi trong Phúc Âm được Chúa Giêsu chữa lành: họ đến gặp Ngài, dừng lại từ xa xa và kêu lên: ”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” (Lc 17,13). Họ là những người bệnh, đang cần được thương yêu, được sức mạnh và tìm kiếm người chữa trị họ. Và Chúa Giêsu đáp lại, giải thoát tất cả khỏi bệnh tật của họ. Nhưng thật là điều ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người trở lại để lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và cảm tạ Chúa. Chính Chúa Giêsu nhận xét điều đó: 10 người đã kêu lớn tiếng để được chữa lành và chỉ có một người trở lại để kêu lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa và nhìn nhận rằng Chúa là sức mạnh của chúng ta. Biết cảm tạ, chúc tụng vì những gì Chúa làm cho chúng ta.

”Chúng ta hãy nhìn Mẹ Maria: sau khi được truyền tin, cử chỉ đầu tiên Mẹ thực hiện là cử chỉ bác ái đối với bà chị họ cao niên Elisabeth; và những lời đầu tiên Mẹ nói lên là: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, bài ca chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, không những vì điều Chúa đã làm nơi Mẹ, nhưng vì hoạt động của Chúa trong toàn thể lịch sử cứu độ. Tất cả là hồng ân; Nếu chúng ta có thể hiểu tất cả là hồng ân của Chúa, thì tâm hồn chúng ta sẽ được hạnh phúc dường nào! Tất cả là hồng ân.

Chúa chính là sức mạnh của chúng ta! Cảm tạ thật là điều dễ dàng, nhưng cũng rất khó khăn! Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn trong gia đình? Đó là một trong những lời chủ yếu của cuộc sống chung. ”Xin phép”, ”xin lỗi”, ”cám ơn”: nếu trong một gia đình, có 3 lời ấy được người ta nói lên, thì gia đình tiếp tục tiến bước. Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn người giúp đỡ chúng ta, người ở gần chúng ta, tháp tùng chúng ta trong cuộc sống. Nhiều khi chúng ta coi đó là điều dĩ nhiên! Và điều này cũng xảy ra đối với Thiên Chúa.

”Tiếp tục Thánh Lễ, chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, không kháng cự, trung thành với Chúa hằng ngày, chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài là sức mạnh của chúng ta.

Nghi thức phó thác

Cuối thánh lễ, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cũng là trưởng ban tổ chức đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC.

Rồi ĐTC tiến đến trước Tượng Đức Mẹ Fatima và đọc kinh phó thác:

”Lạy Đức Trinh Nữ Fatima diễm phúc, với lòng biết ơn được đổi mới vì sự hiện diện từ mẫu của Mẹ, chúng con hợp tiếng với tất cả mọi thế hệ đã chúc tụng Mẹ là người diễm phúc.

Nơi Mẹ chúng con ngợi khen những công trình bao la của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi, từ bi cúi mình trên nhân loại sầu muộn vì sự ác và tổn thương vì tội lỗi, để chữa lành và cứu vớt loài người!

Xin Mẹ vui lòng đón nhận hành động phó thác mà hôm nay, với lòng tin tưởng chúng con thực hiện trước ảnh tượng này của Mẹ mà chúng con rất quí mến.

Chúng con chắc chắn rằng mỗi người chúng con đều quí giá trước mắt Mẹ và không điều gì trong tâm hồn chúng con xa lạ đối với Mẹ. Chúng con để cái nhìn rất dịu dàng của Mẹ đi tới chúng con và đón nhận sự âu yếm an ủi qua nụ cười của Mẹ.

Xin Mẹ giữ gìn cuộc sống của chúng con trong vòng tay của Mẹ: xin chúc phúc và củng cố mọi ước muốn làm điều thiện; xin khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin, nâng đỡ và soi sáng đức cậy, khích động và linh hoạt đức ái; xin Mẹ hướng dẫn tất cả chúng con trên con đường thánh thiện.

Xin dạy chúng con tình yêu thương của Mẹ ưu tiên dành cho những người bé nhỏ nghèo hèn, những người bị loại trừ và đau khổ, các tội nhân và những người có tâm hồn lạc hướng, xin tập họp tất cả dưới sự che chở của Mẹ và giao phó tất cả cho Con Yêu Dấu của Mẹ là Chúa Giêsu của chúng con. Amen

Sau kinh phó thác ĐTC xông hương trước tượng Đức Mẹ. Trước khi đọc Kinh Truyền Tin, ĐTC đã nhắc mọi người về phong chân phước Chúa Nhật hôm qua 13-10, tại thành Tarragona, Tây Ban Nha cho khoảng 500 vị tử đạo trong thời nội chiến, thập niên 1930. Ngài nói: ”Chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì những chứng nhân can đảm của Ngài và nhờ lời chuyển cầu của các vị, chúng ta hãy cầu xin Chúa giải thoát thế giới khỏi mọi bạo lực”.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người, ĐTC còn bắt tay chào thăm rất nhiều người, các phái đoàn chính thức, đông đảo các LM, trước khi đi xe díp màu trắng mui trần tiến qua các lối đi và đến tận gần cuối đường Hòa Giải để chào thăm các tín hữu.
 
Đức Phanxicô và hội chứng “người con trai trưởng”
Vũ Văn An
20:25 13/10/2013
Với cuộc thăm viếng Assisi ngày 4 tháng Mười vừa qua và việc công bố Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về gia đình và hôn nhân, cảm tình và ngưỡng mộ dành cho Đức Phanxicô càng lên cao hơn nữa. Tuy nhiên, song song với cảm tình và sự ngưỡng mộ ấy, Đức Phanxicô đang càng ngày càng phải đối diện hơn với hội chứng “người con trai trưởng”.

Hẳn ai cũng nhớ câu truyện người con trai hoang đàng, một dụ ngôn được nhiều quan sát viên cho rằng rất thích hợp nhắc lại trong bối cảnh hiện nay với Đức Phanxicô đứng đầu Giáo Hội. Vì xét trong căn bản, trong 8 tháng qua, ngài liên tục giết nhiều con bê béo cho những con trai con gái hoang đàng của thời hậu hiện đại, qua hành động vươn tay ra với người đồng tính, với phụ nữ, người vô tín ngưỡng và gần như mọi thành phần khác bên trong và bên ngoài Giáo Hội từng cảm thấy mình bị coi như người xa lạ.

Hẳn nhiên, số con hoang đàng này phải thật đông, nên Đức Giáo Hoàng mới được nổi tiếng đến thế.

Nhưng cũng vì vậy, càng ngày càng có những người Công Giáo thấy mình giống người con trưởng trong dụ ngôn, ngỡ ngàng nghĩ rằng điều mình luôn cho là lòng trung thành với Giáo Hội, với ngôi vị giáo hoàng, thực sự đã bị hạ giá một cách “khó lòng chối cãi”.

Nhà báo John Allen cho rằng họ thuộc ít nhất ba nhóm người sau đây:

* Một số nhân viên tại Vatican, những người từ trước đến nay luôn làm tất cả những gì mình có thể làm được để phục vụ người kế vị Thánh Phêrô, nay cảm thấy ngã lòng khi nghe Đức Giáo Hoàng mô tả môi trường làm việc của họ nặc mùi duy nghiệp, “qui Vatican”, và là “phong cùi” kiểu triều đình vua chúa.

* Một số người Công Giáo phò sự sống, những người từ trước đến nay vốn phục vụ quyền lợi Giáo Hội trong các vấn đề gây tranh cãi và đôi lúc khá không được lòng người như phá thai và hôn nhân đồng tính, nhưng nay bỗng có cảm thức: Đức Giáo Hoàng coi một số cố gắng của họ đặt không đúng chỗ hay quá đáng.

* Một số người Công Giáo có tinh thần phúc âm, cả giáo sĩ lẫn giáo dân, những người vốn cố gắng tái khẳng định một ý thức mạnh mẽ về căn tính Công Giáo chống lại các lực lượng bị họ coi như đang tìm cách hạ giá căn tính này, nay thấy như Đức Giáo Hoàng đang làm họ hụt hẫng. Một số nhà lãnh đạo thuộc thể loại hộ giáo tái sinh Công Giáo, chẳng hạn, đang rất hân hoan trong những ngày vừa qua khi nghe Đức Phanxicô cho rằng cải đạo là chuyện “vô nghĩa một cách long trọng”.

Cho đến lúc này, những trực cảm trên có được biện minh hay không và được biện minh tới đâu không hẳn là trọng điểm. Nhưng chúng có đó, và những người với lỗ tai thính trong các giới này xem ra đang rất lo âu.

Hôm thứ Ba vừa qua, văn sĩ Công Giáo Ý nổi tiếng là Vittorio Messori có cho đăng một tiểu luận trên trang nhất tờ báo hàng đầu của Ý là tờ Corriere della Sera, biểu lộ nhiều “hoài cảm nhớ thương” mà nhiều người trong giới của ông dành cho Đức Bênêđíctô XVI. Ông nhắc bạn đọc nhớ rằng đối với các tín hữu, trung thành với Đức Giáo Hoàng, bất kể vị ấy là ai, “được đặt căn bản trên một điều gì đó rất khác với cảm tình cá nhân”.

Messori nổi tiếng trước nhất nhờ là tác giả của Phúc Trình Ratzinger, một cuộc phỏng vấn gây chấn động “ông hoàng tín lý” của Vatican lúc ấy, và cũng là người đã cho xuất bản cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” với Đức GH Gioan Phaolô II năm 1994. Lịch sử ấy đem lại cho ông một khả tín tính rất mạnh, nhất là trong các giới Công Giáo có chút bảo thủ.

Một cách gián tiếp, dường như Messori muốn nhắn gửi bạn đọc rằng: dù thích hay không, nhưng vì Đức Phanxicô là giáo hoàng, nên bạn cũng phải vào hàng ngũ thôi.

Một nhà văn Ý khác, là Andrea Gagliarducci, cũng cho đăng một bài báo bàn tới điều các giới bên trong Vatican đang ưu tư hiện nay.

Ông viết: “Hiện nay, xem ra điều người ngoài Giáo Hội nghĩ quan trọng hơn điều người bên trong Giáo Hội nghĩ. Vatican [dưới thời Đức Phanxicô] hướng về các VIP [những nhân vật nổi tiếng] để cổ vũ việc mình làm, và không bao giờ nghĩ tới việc trân qúi các nhà chuyên nghiệp cao cấp mình vốn đang có”.

Về hiện tượng này, John Allen nhận định rằng nhờ sống phần lớn 3 tuần lễ qua tại Rôma, ông thấy rõ phản ứng bên trong Vatican đối với vị tân giáo hoàng vẫn hết sức tích cực. Phần đông thỏa mãn khi thấy những cải cách hằng mong chờ từ trước nay đã bắt đầu được thực thi; người ta khó có thể cưỡng lại tâm tư này là bạn đang thuộc phe thắng thế.

Tuy nhiên, cùng một lúc, ông cũng nghe được những tiếng lầu bầu đại loại như “ước chi ngài đừng bắn bừa vào chúng tôi nữa”. Trên một bình diện nào đó, Đức Phanxicô không việc chi phải bối rối. Cuộc thay đổi nào cũng gặp chống đối cả, trong khi ngài được sự hỗ trợ lớn lao của quần chúng. Tuy thế, vẫn có hai lý do để tin rằng với thời gian, ngài sẽ lưu tâm tới sự nhậy cảm của những người con trai trưởng.

Thứ nhất, hiển nhiên ngài trân qúi sự hợp nhất trong Giáo Hội, do đó đã dành trọn buổi yết kiến chung, ngày 25 tháng Chín, cho chủ đề này. Hôm ấy, ngài cho hay: “Điều quan trọng là phải tìm cách xây dựng hiệp thông, dạy dỗ về hiệp thông, vượt qua các hiểu lầm và chia rẽ, bắt đầu từ gia đình, từ thực tại Giáo Hội. Thế giới chúng ta cần hợp nhất, chúng ta cần hòa giải và hiệp thông, và Giáo Hội là nhà của hiệp thông”.

Biết rằng nhiều người Công Giáo cảm thấy mình bị bỏ rơi khi tầu rời sân ga, chắc chắn ngài sẽ tìm cách đem họ lên tầu mà vẫn không phản bội viễn kiến nòng cốt hay ý thức ưu tiên của mình.

Thứ hai, Đức Phanxicô là người đủ khôn khéo chính trị để chẳng chóng thì chầy, sẽ biết rõ mình cần những người con trai trưởng này mới mong thực thi được các chương trình của mình.

Một thành viên trong Hội Đồng 8 Hồng Y của Đức Phanxicô cho Allen hay: Đức Phanxicô tỏ ra quan tâm tới việc chăm sóc mục vụ cho các nhân viên Vatican. Ngài muốn họ thấy họ được trân qúi như những con người chứ không phải như những con ốc trong một cỗ máy. Một trong những việc có thể làm được trong khía cạnh này hẳn là việc ngài sẽ ý tứ hơn tới chiều kích tiêu cực trong ngôn từ sắc cạnh của ngài đối với nền văn hóa hiện nay tại Vatican, dù ngôn ngữ này xem ra rất cần thiết hiện nay.

Trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, người cha cuối cùng đã lưu ý tới sự nhậy cảm của người con trai trưởng, nên đã kéo riêng anh ta ra để bảo đảm với anh ta rằng “mọi sự cha có đều là của con”. Chắc chắn sẽ tới lúc, Đức Phanxicô làm như thế với các con trai con gái trưởng của ngài.

Nghĩ tới ta

Mục tử tốt chắc chắn không bỏ rơi 99 chiên ngoan, chỉ tạm thời xa chúng sau khi đã tin chắc chúng được an toàn, để đi tìm 1 chiên lạc. Chúa Giêsu từng long trọng tuyên bố rằng Người không để bất cứ người nào Chúa Cha trao cho Người phải “hư mất”. Đức Phanxicô, với lửa Kitô bừng cháy trên huy hiệu, chắc chắn cũng đã đoan hứa như thế tại nhà nguyện Sistine và nhất là tại nhà nguyện Phaolô lúc ngài được trải nghiệm huyền nhiệm trong ngày được Hồng Y đoàn trao thừa tác vụ Phêrô cho.

Giáo Hội Việt Nam cũng đang chứng kiến một thay đổi đáng kể về lãnh đạo: Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc một mạch từ giáo phận Mỹ Tho thăng chức Tổng Giám Mục phó với quyền kế vị tổng giáo phận Sài Gòn, một việc kế vị chắc chắn sẽ diễn ra nay mai, theo cung cách Hội Đồng Giám Mục Việt Nam “cám ơn” Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn dịp họp hội nghị toàn thể vừa qua. Và dù chưa được nhận dây Pallium, ngài vẫn đã được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bầu chọn vào chức chủ tịch của Hội Đồng. Nói theo kiểu phàm nhân, thì ngài thăng chức nhanh như gió. Cái nhìn đức tin thì tin vào một quan phòng đặc biệt.

Còn nhớ dịp cơ mật viện bầu Đức HY Ratzinger làm giáo hoàng, John Allen, lúc đó tường trình cho cả CNN, nhận định rằng: với người Công Giáo, vị nào được bầu cũng đều được họ thương yêu nhận làm giáo hoàng của họ. Mà đúng như thế. Cảm tình dành cho Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô trong ngày có lời “habemus papam” đều giống nhau. Người Công Giáo nào cũng yêu thương nhận các ngài là giáo hoàng của mình.

Hình như Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc không được như thế nơi người Công Giáo Việt Nam, nhất là nơi một số người Công Giáo Việt Nam hải ngoại. Khi nghe tin ngài được thăng tổng giám mục phó với quyền kế vị, một số người cho phát tán bài nói của ngài mấy năm trước tại Nhà Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành ở Rôma và một nhận định của một linh mục Việt Nam về bài nói đó, ngụ ý không hoan nghênh việc bổ nhiệm này.

Vết thương cũ mấy năm trước nay hình như lại muốn được mưng lại. Và điều này quả không thích hợp chút nào với bầu khí Phanxicô mới mẻ của Giáo Hội Công Giáo nói chung. Bầu khí này đang mời gọi mọi người con của Giáo Hội Việt Nam, cả giáo phẩm lẫn giáo sĩ và giáo dân hồi tâm nhận trách nhiệm của mình trong việc tạo ra và khoét sâu vết thương kia và tìm mọi cách để nó đừng mưng lại.

Cụ thể là Đức TGM phó Bùi Văn Đọc. Điều ngài quả quyết: Giáo Hội Việt Nam có trách nhiệm phải phúc âm hóa cả người Cộng Sản nữa, không sai chút nào với tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu thành Nadarét. Người đến cứu mọi người, kể cả người Cộng Sản, không như người Jansenists ngày nào, cho rằng Người chỉ cứu một nhóm người nhỏ xíu, qui tụ dưới đôi tay xuội lơ thu gọn gần thân mình của Người trên Thánh Giá. Nhưng phải tới năm 2013, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo với một sức hấp dẫn vượt bực mới dám công khai nói thế. Đức Cha Đọc nói hơi sớm hơn thế dù không có được sức hấp dẫn của Đức Phanxicô. Vả lại ở Nhà Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, ngài nói thế nhắm vào ai? Thiển nghĩ nay là lúc các chủ chăn Việt Nam đi theo khuôn thước của Đức Phanxicô và nhất là cung cách cư xử của người cha đối với người con trưởng: lắng nghe và xoa dịu sự nhậy cảm của anh ta. Tình cha con là trọng, xá chi lối ăn nói. Vả lại tương lai Giáo Hội Việt Nam cần cả bàn tay đóng góp của những người con, không hẳn là trưởng, nhưng ưa “lầu bầu” này.

Phần những người con “lầu bầu”, thiển nghĩ họ cần nhận phần trách nhiệm của mình trong việc tạo ra và khoét sâu vết thương ngày nào. Là nạn nhân của chế độ bạo tàn Cộng Sản, ta không thể chịu được thái độ của những người bênh vực chủ nghĩa ấy. Phản ứng của ta vì thế không hẳn phi lý. Tuy nhiên, đã có những quá trớn trong phản ứng này. Nhiều người chỉ trích điều họ gọi là “mục vụ xin tiền” của các giáo phẩm và giáo sĩ Việt Nam, nhưng khôi hài một điều là chính họ cũng làm “mục vụ xin tiền”, bằng cách bán sách, tổ chức tiệc tùng gây quĩ, không hẳn để xây nhà thờ, phòng giáo lý, mà là nhiều mục tiêu khác, trong đó có mục tiêu chính trị. Dĩ nhiên, có những lạm dụng trong việc quyên tiền ngoại quốc từ Việt Nam. Nhưng phải nói sao về hội chứng nhà giầu, hay hội chứng “Mỹ viện trợ”: nhận tiền của tôi phải theo ý tôi, không theo ý tôi, tôi “cúp viện trợ”. Kết quả: chỉ Giáo Hội Việt Nam bị thiệt thòi thôi.

Thời gian ấy, nhiều vị giáo phẩm Việt Nam bị công khai mang ra “hành tội” trước công luận “internet” với đủ thứ ngôn từ kiểu đấu tố của Cộng Sản ngày nào. Lạ một điều, dù nay sự thật đã phơi bày, nhiều sự kiện rành rành chứng minh một số vị không làm tay sai cho Cộng Sản. Nhưng cả những ông vênh vang học vị tiến sĩ, cũng chưa có ai can đảm lên tiếng xin lỗi, hay ít nhất để đính chính cả. Ai trong chúng ta cũng nặng tình với Giáo Hội Việt Nam, không ai muốn Giáo Hội ấy bị thương tổn, kể cả thương tổn ta cho là do “thoả hiệp” với Cộng Sản gây ra. Nhưng cung cách phản ứng của ta vô tình càng đẩy những người của ta về phía địch. Thái độ của người cha đã khiến người con “lầu bầu” chịu cùng vào chung vui với gia đình hẳn là bài học quí giá. Hai thái độ này, thái độ của người cha và thái độ sau đó của người con trưởng, nếu được đem áp dụng vào Giáo Hội Việt Nam, chắc chăn sẽ vực Giáo Hội này lên, đủ sức đương đầu với bất cứ thế lực đen tối nào.
 
Top Stories
Pope consecrates world to immaculate heart of Mary
Vatican Radio
09:20 13/10/2013
2013-10-13 Vatican - The Pope celebrated mass in St Peter’s square this morning in honour of the Marian Day, an event organised as part of the Year of Faith on the anniversary of the final apparition of the Blessed Virgin Mary at Fatima (13th of October 1917). He also consecrated the world to the Immaculate Heart of Mary. Please find below the full text of Pope Francis’ homily in English translation.

In the Psalm we said: “Sing to the Lord a new song, for he has done marvellous things” (Ps 98:1). Today we consider one of the marvellous things which the Lord has done: Mary! A lowly and weak creature like ourselves, she was chosen to be the Mother of God, the Mother of her Creator.

Considering Mary in the light of the readings we have just heard, I would like to reflect with you on three things: first, God surprises us, second, God asks us to be faithful, and third, God is our strength.

First: God surprises us. The story of Naaman, the commander of the army of the king of Aram, is remarkable. In order to be healed of leprosy, he turns to the prophet of God, Elisha, who does not perform magic or demand anything unusual of him, but asks him simply to trust in God and to wash in the waters of the river. Not, however, in one of the great rivers of Damascus, but in the little stream of the Jordan. Naaman is left surprised, even taken aback. What kind of God is this who asks for something so simple? He wants to turn back, but then he goes ahead, he immerses himself in the Jordan and is immediately healed (cf. 2 Kg 5:1-4). There it is: God surprises us. It is precisely in poverty, in weakness and in humility that he reveals himself and grants us his love, which saves us, heals us and gives us strength. He asks us only to obey his word and to trust in him.

This was the experience of the Virgin Mary. At the message of the angel, she does not hide her surprise. It is the astonishment of realizing that God, to become man, had chosen her, a simple maid of Nazareth. Not someone who lived in a palace amid power and riches, or one who had done extraordinary things, but simply someone who was open to God and put her trust in him, even without understanding everything: “Here I am, the servant of the Lord; let it be with me according to your word” (Lk 1:38). That was her answer. God constantly surprises us, he bursts our categories, he wreaks havoc with our plans. And he tells us: trust me, do not be afraid, let yourself be surprised, leave yourself behind and follow me!

Today let us all ask ourselves whether we are afraid of what God might ask, or of what he does ask. Do I let myself be surprised by God, as Mary was, or do I remain caught up in my own safety zone: in forms of material, intellectual or ideological security, taking refuge in my own projects and plans? Do I truly let God into my life? How do I answer him?

In the passage from Saint Paul which we have heard, the Apostle tells his disciple Timothy: remember Jesus Christ. If we persevere with him, we will also reign with him (cf. 2 Tim 2:8-13). This is the second thing: to remember Christ always – to be mindful of Jesus Christ – and thus to persevere in faith. God surprises us with his love, but he demands that we be faithful in following him. We can be unfaithful, but he cannot: he is “the faithful one” and he demands of us that same fidelity. Think of all the times when we were excited about something or other, some initiative, some task, but afterwards, at the first sign of difficulty, we threw in the towel. Sadly, this also happens in the case of fundamental decisions, such as marriage. It is the difficulty of remaining steadfast, faithful to decisions we have made and to commitments we have made. Often it is easy enough to say “yes”, but then we fail to repeat this “yes” each and every day. We fail to be faithful.

Mary said her “yes” to God: a “yes” which threw her simple life in Nazareth into turmoil, and not only once. Any number of times she had to utter a heartfelt “yes” at moments of joy and sorrow, culminating in the “yes” she spoke at the foot of the Cross. Here today there are many mothers present; think of the full extent of Mary’s faithfulness to God: seeing her only Son hanging on the Cross. The faithful woman, still standing, utterly heartbroken, yet faithful and strong.

And I ask myself: am I a Christian by fits and starts, or am I a Christian full-time? Our culture of the ephemeral, the relative, also takes its toll on the way we live our faith. God asks us to be faithful to him, daily, in our everyday life. He goes on to say that, even if we are sometimes unfaithful to him, he remains faithful. In his mercy, he never tires of stretching out his hand to lift us up, to encourage us to continue our journey, to come back and tell him of our weakness, so that he can grant us his strength. This is the real journey: to walk with the Lord always, even at moments of weakness, even in our sins. Never to prefer a makeshift path of our own. That kills us. Faith is ultimate fidelity, like that of Mary.

The last thing: God is our strength. I think of the ten lepers in the Gospel who were healed by Jesus. They approach him and, keeping their distance, they call out: “Jesus, Master, have mercy on us!” (Lk 17:13). They are sick, they need love and strength, and they are looking for someone to heal them. Jesus responds by freeing them from their disease. Strikingly, however, only one of them comes back, praising God and thanking him in a loud voice. Jesus notes this: ten asked to be healed and only one returned to praise God in a loud voice and to acknowledge that he is our strength. Knowing how to give thanks, to give praise for everything that the Lord has done for us.

Take Mary. After the Annunciation, her first act is one of charity towards her elderly kinswoman Elizabeth. Her first words are: “My soul magnifies the Lord”, in other words, a song of praise and thanksgiving to God not only for what he did for her, but for what he had done throughout the history of salvation. Everything is his gift. If we can realise that everything is God’s gift, how happy will our hearts be! Everything is his gift. He is our strength! Saying “thank you” is such an easy thing, and yet so hard! How often do we say “thank you” to one another in our families? These are essential words for our life in common. “Excuse me”, “sorry”, “thank you”. If families can say these three things, they will be fine. “Excuse me”, “sorry”, “thank you”. How often do we say “thank you” in our families? How often do we say “thank you” to those who help us, those close to us, those at our side throughout life? All too often we take everything for granted! This happens with God too. It is easy to approach the Lord to ask for something, but to go and thank him: “Well, I don’t need to”.

As we continue our celebration of the Eucharist, let us invoke Mary’s intercession. May she help us to be open to God’s surprises, to be faithful to him each and every day, and to praise and thank him, for he is our strength. Amen.
 
Pope Francis: Women called to service, not servitude
Vatican Radio
09:31 13/10/2013
2013-10-12 Vatican - Pope Francis on Saturday spoke about “the vocation and the mission” of women on Saturday when addressing participants of a study seminar organized by the Women’s Section of the Pontifical Council for the Laity on the 25th anniversary of Blessed Pope John Paul II’s Apostolic Letter Mulieris Dignitatem. The letter was the first in papal teaching dedicated entirely to the theme of the woman, and the study seminar in particular discussed the point which says that God entrusts man, the human being, to woman in a special way.

“What does this ‘special entrusting’…of the human being to woman signify? It seems evident to me that my predecessor is referring to maternity,” said Pope Francis.

“Many things can change and have changed in our cultural and social evolution, but the fact remains that it is the woman who conceives, carries in her womb and gives birth to the children of men,” the Pope continued. “And this is not simply a biological matter, but carries a wealth of implications for the woman herself, for her way of being, for her relationships, for the way in which we lend respect to human life and to life in general. Calling a woman to maternity, God entrusted the human being to her in an altogether special manner.”

The Pope warned that there are two dangers always present when speaking about this topic, calling them “two extreme opposites that destroy woman and her vocation.”

“The first is to reduce maternity to a social role, to a task, albeit noble, but which in fact sets the woman aside with her potential and does not value her fully in the building of community. This is both in the civil sphere and in the ecclesial sphere,” explained the Holy Father. “And, in reaction to this, there is the other danger in the opposite direction, that of promoting a type of emancipation which, in order to occupy spaces taken away from the masculine, abandons the feminine with the precious traits that characterize it.”

Pope Francis also spoke about the special gifts given to women in the Church.

“ I would like to underline how the woman has a particular sensitivity for the ‘things of God’, above all in helping us to understand the mercy, tenderness and love that God has for us,” he said. “ And it pleases me to think that the Church is not ‘il Chiesa’ [‘the Church’, masculine]: it is ‘la Chiesa’ [feminine]. The Church is a woman! The Church is a mother! And that’s beautiful, eh? We have to think deeply about this.”

The Pope said the document Mulieris Dignitatem arises in this context and offers a profound, organic reflection, with a solid anthropological base, enlightened by Revelation.

“From here, we must restart that work of deepening and of promoting, for which I have already hoped many times. Even in the Church, it is important to ask oneself: what presence does the woman have?” he said.

“I suffer – speaking truthfully! – when I see in the Church or in some ecclesial organizations that the role of service that we all have, and that we must have - but that the role of service of the woman slips into a role of “servidumbre” [Spanish: servitude]. . . But when I see women that do things out of “servitude” and not out of service,” said Pope Francis. “And that it is not understood well what a woman ought to do. Can she be valued more? It is a reality that is close to my heart and for this I wanted to meet … and bless you and your commitment. Thank you, let us move this forward together! May most holy Mary – a great woman, eh? – the Mother of Jesus and of all God’s children, accompany us. Thank you!”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Melbourne 2013
Trần Bá Nguyệt, Hải Lê, và Trần Minh
06:55 13/10/2013
ĐỒNG HÀNH VỚI MẸ LA VANG TRONG NIỀM TIN

Xem hình ảnh

Cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Melbourne đã tham dự hai ngày Đại Hội Thánh Mẫu Lavang tại Trung Tâm Hoan Thiện, 11 và 12-10-2013.

Mười bốn Cộng đoàn giáo xứ và đoàn thể đã tề tựu tại khu đất khá rộng của Trung tâm Hoan Thiện nằm tại khu vực ngoại ô Keysborough của thành phố Melbourne.

Ngày thứ sáu, 11-10 là ngày của giới trẻ Melbourne gồm cuộc rước Thánh Giá Giới Trẻ, rước kiệu Đức Mẹ LaVang, học hỏi về giáo lý, cầu nguỵện và văn nghệ.

Ngày 12-10 là ngày chính của Đại Hội. Sau khi các đoàn thể và giáo dân tập trung tại sân trung tâm trước tượng Đức Mẹ La vang, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Melbourne đã chào mừng các linh mục và tín hữu về dự Đại Hội.

Sau đó là rước kiệu Đức Mẹ từ chân tượng đài Đức Mẹ vào lễ đài. Đoàn rước kiệu thật dài và ai nấy hân hoan trong tiếng hát vang dội và những cơn gió khá mạnh của một sáng mùa xuân.

Đến 10:30 Đức Cha Nguyễn Văn Long mở đầu bằng một bài giảng về Đức Tin Công Giáo. Ngài nhấn mạnh Đức Tin không phải được tạo thành bởi những hoạt động bên ngoài, hoặc tệ hơn nữa là những tổ chức hào nhoáng rầm rộ và không có chiều sâu. Đức Cha đã nhắc đến việc Giáo Hội từ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã cải tổ giáo triều bằng cách bãi bỏ những lễ phục rườm rà của các vị Hồng Y Roma với những phẩm phục dài tới 20 mét thay vào đó là những phẩm phục ngắn gọn như bây giờ. Đức Cha cũng nhắc đến những hiện tượng rộ lên một thời gian như “hiện tượng chảy dầu” tại Úc, hiện tượng “té ngã, chữa lành” tại Hoa Ký và Úc ít năm gần đây. Những hiện tượng đó không củng cố niềm tin Kitô nhưng lại lôi kéo người tín hữu vào những hoạt động mê tín, xa dần với Đức Tin đích thực của Công Giáo. Đức Cha kêu gọi người Công Giáo sống thực sự niềm tin của mình bằng hành động và lời cầu nguyện, nhất là lần hạt Mân Côi mỗi ngày. Ngài cũng kêu gọi mọi người sống khó nghèo như lời chỉ dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô và luôn luôn phải đấm ngực ăn năn: Tôi là kẻ có tội.

Sau đó, Cha Tiến Lộc, dòng Chúa Cứu Thế, từ Việt Nam sang đã giúp cộng đoàn giải trí bằng bài ca làm dấu Thánh Giá cho đúng nghĩa với những động tác kiểu sinh hoạt ca vui nhộn và dễ nhớ. “Khi ta giang hai tay, ta giống như cậy thập giá.“ Khi ta đua tay qua bên trái, ta sống yêu thương với mọi người..

12:15, Cha Đinh trung Hoà đã thuyết giảng về đề tài, “Sống năm Đức Tin với Thiên Chúa và Mẹ Maria theo tinh thần Công Đồng Vatican II.” Bài giảng đã nhắn mạnh đến Lòng Chúa Thương Xót đối với con cái của Người.

Sau giờ ăn trưa của các giáo xứ và cộng đoàn là buổi thuyết giảng theo nhóm. Có bốn nhóm được chia ra theo những đề tài thích hợp cho mỗi nhóm. Nhóm thiếu nhi với sinh hoạt riêng trên sân cỏ do Cha Hoàng Kim Huy và ban chấp hành Thiếu Nhi Thánh Thể thực hiện. Nhóm giới trẻ với đề tài “Giới trẻ sống Đức tin trước thách đố của niềm tin trong tương lai” do Cha Tiến Lộc hướng dẫn. Nhóm trung niên do Cha Dinh Thanh Bình hướng dẫn với đề tài “Gia đình và niềm tin”. Nhóm cao niên do Cha Rafael Võ Đức Thiện hướng dẫn với đề tài “Chia sẻ gia tài Đức Tin cho thế hệ tương lai.” Và Cha Văn Chi với đề tài “Sống niềm tin, noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.”

Buổi chiều lúc 4:30, cộng đoàn đã lần chuỗi Mân Côi Năm Sự Vui với phần diễn nguyện.

5:15 là Thánh Lễ Đại trào do hai Đức Cha Hilton Beacon và Vinh Sơn Nguyễn Văn Long cùng 20 linh mục và phó tế dâng lễ. Giờ này số giáo dân tham gia ngày Đại Hội đã lên con số gấp đôi buổi sáng, ước lượng có khoảng gần 4000 người ngồi đầy ngoài sân nắng và trong các căn lều trắng và khá rộng. Trong bài giảng, Cha Tiến Lộc đã tập trung vào ba điểm. Ý thứ nhất là Bài Tin Mừng với câu chuyện Chúa chữa lành cho mười người phong cùi, nhưng chỉ có một người ngoại giáo Samaria là quay trở lại cám ơn Chúa. Chúng ta cũng thường quên cám ơn Chúa như vậy. Ý thứ hai là hình ảnh Mẹ Lavang. Mẹ Maria luôn là người cứu chữa con cái khi con cái chạy đến với Mẹ. Và ý thứ ba là Đức Mẹ với người anh em Tin Lành. Trong Kinh Kur’an, giáo chủ Mahomed đã dành một chương nói về sự cao cả tuyệt vời của Đức Mẹ. Martin Luther, lãnh tụ nhóm cải cách của nước Đức sau này trở thành giáo phái Tin Lành tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo La mã, là người đã bảo vệ cho “Sự Đồng Trinh của Đức Mẹ. Và Jean Calvin (1509-1564), một tên tuổi quan trọng trong Đạo Tin Lành (Reformed Churches) đã đề cập đến tập tục của người Do Thái “gọi mọi người là anh em” để bác bỏ lý luận cho rằng Đức Maria có nhiều con cháu.

Thánh lễ đã được khởi sự bằng màn dâng hoa của thiếu nhi, thanh niên, các bà mẹ và các ông kể các các em người Thượng Tây Nguyên do Ca đoàn Cecilia và Vô Nhiễm thực hiện. Đoàn dâng hoa các bà và các ông đông đến 130 người đầy màu sắc rất đẹp. Không thể quên ca đoàn hỗn hợp hát thật hay và hùng mạnh trong thánh lễ hôm nay.

Sau giờ ăn tối là chương trình Văn Nghệ chủ đề với 18 tiết mục đo các ca đoàn và cộng đoàn thực hiện. Phải công bình nhận xét, phần trình diễn và âm thanh tuyệt vời đã làm cho đêm văn nghệ thành công ngoài sức tưởng tượng. Sau cùng là phần thắp nến để cầu nguyện đặc biệt cho quê hương Việt Nam đang chịu nhiều khó khăn trong đời sống đạo.

Hai ngày Đại Hội đã diễn ra với trời nắng ráo và nhiệt độ mát mẻ trên 20 độ. Trước đó ít ngày, tại Melbourne mưa liên tục. Đó cũng là ơn lành của Đức mẹ cho con cái của Người.

Ghi nhanh và hình ảnh:

Nhóm DCUC: Trần Bá Nguyệt, Hải Lê, và Trần Minh
 
Bổn Mạng Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly Sydney
Diệp Hải Dung
09:03 13/10/2013
Sáng Chúa Nhật 13/10/2013 rất đông đảo mọi người đã đến Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly Sydney tham dự Lễ mừng kính Đức Mẹ Fatima Bổn Mạng Ban Mục Vụ Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly.

Xem hình ảnh

Khai mạc giờ đền tạ Đức Mẹ, Cha Phêrô Đặng Đình Nên Đặc trách Ban Mục Vụ Trung Tâm Hành Hương Bringelly xông hương kiệu Thánh tượng Đức Mẹ Fatima đồng thời Cha mời gọi tất cả mọi người hôm nay cầu nguyện dâng Gia Đình, Cộng Đồng và đặc biệt các thành viên trong Ban Mục Vụ Trung Tâm Bringelly lên cho Đức Mẹ, để xin Mẹ chúc lành và che chở.

Sau đó 3 hồi chiêng trống cổ truyền nổi lên và kiệu cung nghinh Thánh tượng Đức Mẹ Fatima về hội trường, cuộc kiệu rất trang nghiêm và long trọng, mọi người đều sốt sắng dâng lên Mẹ chuỗi Mân Côi Mùa Vui nguyện xin Mẹ đoái thương đến con cái Mẹ nơi hải ngoại và Giáo Hội Việt Nam. Khi kiệu Thánh tượng Đức Mẹ an vị trên bàn thờ của hội trường, Cha Đặng Đình Nên ngỏ lời chào mừng quý Cha, quý Quan Khách cùng mọi người và chúc mừng Bổn Mạng Ban Mục Vụ Trung Tâm Bringelly nhân ngày 13 tháng 10 mừng kính Đức Mẹ Fatima. Sau đó quý Cha Đặng Đình Nên, Cha Tuyên uý Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Paul Văn Chi và Cha Nguyễn Thái Hoạch cùng hiệp dâng Thánh lễ.

Trong bài giảng Cha Đặng Đình Nên nói về bài Phúc Âm hôm nay là tâm tình tạ ơn của một người Samaria được Chúa Giêsu chữa lành bệnh phong cùi, quay trở lại tạ ơn Chúa. Cha cũng nêu tấm gương của Đức Mẹ luôn chúc tụng tạ ơn Chúa. Mừng kính Lễ Mẹ Fatima hôm nay mọi người sống noi gương Mẹ luôn tạ ơn Thiên Chúa để phục vụ tha nhân trong tinh thần khiêm tốn…

Sau đó là nghi thức Xức Dầu Thánh cho các vị Cao Niên già yếu bệnh tật, xin Thiên Chúa chữa lành phần hồn cũng như phần xác.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, Anh Hoàng Đức Tính Phó Chủ tịch CĐCGVN Sydney lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly, đặc biệt chúc mừng Ban Mục Vụ Trung Tâm đã đóng góp rất nhiều công sức chăm sóc Trung Tâm ngày thêm khang trang và tiến triển. Sau cùng ông Phạm Văn Khang Trưởng Ban Mục Vụ Trung Tâm ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Tu Sĩ Nam Nữ, quý Quan Khách và tất cả mọi người đã dành thì giờ quý báu đến tham dự ngày Lễ mừng kính Bổn Mạng của Trung Tâm, đặc biệt cám ơn Ca đoàn Monica và quý ân nhân đã đóng góp trợ giúp công của để tổ chức buổi Lễ được trang trọng và tốt đẹp mỹ mãn.

Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ở lại tham dự tiệc tiệc liên hoan mừng Bổn Mạng bên nhà ăn của Trung Tâm.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đêm Thắp Nến
Lê Trị
21:10 13/10/2013
ĐÊM THẮP NẾN
Ảnh của Lê Trị
(Hình chụp đêm thắp nến cầu nguyện cho gx Mỹ Yên tại OC)
Mỹ Yên đàn áp mịt mù
Xem dân như thể quân thù là sao?
Cầm quyền phải xử thế nào
Để cho đất nước tự hào mới hay.
(Trích thơ của Trầm Hương Thơ)