Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:47 13/10/2025
22. Một chút cần thiết cũng không nên ảnh hưởng đến sự hoàn mỹ của bản thân chúng ta, nhưng nên đem tất cả những thứ ấy quy về Thiên Chúa.
(Thánh Thánh Francis de Sales)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:51 13/10/2025
67. OAN KHIÊN NÊN KHÔNG TRẮNG NỔI
Trần Câu Sơn đã sáu mươi tuổi nhưng râu tóc thì không có một sợi trắng. Người bạn là Cầu Văn Đạt nói đùa:
- “Nếu lấy tuổi tác làm tiêu chuẩn để so sánh, thì tóc râu của anh có thể nói là ôm nổi oan mà khuất phục”.
Họ Trần kinh ngạc hỏi duyên cớ, Cầu trả lời:
- “Chúng nó chịu đựng oan khiên nên không trắng nổi đó”.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 67:
Con người ta khi đến tuổi bốn, năm mươi trở lên thì tóc đã muối tiêu rồi, sáu mươi tuổi mà tóc vẫn còn đen thì là điều kỳ lạ hoặc là do nhuộm đen mà có, chứ không ai chịu oan ức mà tóc đen cả...
Đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu cũng thế, sống đạo đã gần hết đời người rồi mà vẫn không cải thiện được tính hư nết xấu của mình thì đúng là chuyện lạ, chuyện lạ là vì từng giây phút trong cuộc đời họ đều nhận lãnh được ơn hoán cải của Thiên Chúa ban cho qua hoàn cảnh sống, qua việc làm, qua thánh lễ, qua việc lãnh nhận các bí tích.v.v...
Không cải thiện đời sống tội lỗi của mình là do nơi mình, chứ không thể oán trách Thiên Chúa sao bất công và hà khắc với mình...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Trần Câu Sơn đã sáu mươi tuổi nhưng râu tóc thì không có một sợi trắng. Người bạn là Cầu Văn Đạt nói đùa:
- “Nếu lấy tuổi tác làm tiêu chuẩn để so sánh, thì tóc râu của anh có thể nói là ôm nổi oan mà khuất phục”.
Họ Trần kinh ngạc hỏi duyên cớ, Cầu trả lời:
- “Chúng nó chịu đựng oan khiên nên không trắng nổi đó”.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 67:
Con người ta khi đến tuổi bốn, năm mươi trở lên thì tóc đã muối tiêu rồi, sáu mươi tuổi mà tóc vẫn còn đen thì là điều kỳ lạ hoặc là do nhuộm đen mà có, chứ không ai chịu oan ức mà tóc đen cả...
Đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu cũng thế, sống đạo đã gần hết đời người rồi mà vẫn không cải thiện được tính hư nết xấu của mình thì đúng là chuyện lạ, chuyện lạ là vì từng giây phút trong cuộc đời họ đều nhận lãnh được ơn hoán cải của Thiên Chúa ban cho qua hoàn cảnh sống, qua việc làm, qua thánh lễ, qua việc lãnh nhận các bí tích.v.v...
Không cải thiện đời sống tội lỗi của mình là do nơi mình, chứ không thể oán trách Thiên Chúa sao bất công và hà khắc với mình...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Ngày 14/10: Đừng giả hình – Lm. Giuse Lăng Kinh Luân, CS
Giáo Hội Năm Châu
02:21 13/10/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Này, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Thật là ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”
Đó là Lời Chúa
Trói buộc
Lm. Minh Anh
16:24 13/10/2025
TRÓI BUỘC
“Thật là ngốc!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!
Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong - như Ngài nói - là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” - Phanxicô.
Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” - Søren Kierkegaard.
Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” - và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu - “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” - bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” - C. S. Lewis.
Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp - Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!
Anh Chị em,
“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” - Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” - Thánh Vịnh đáp ca!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Thật là ngốc!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!
Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong - như Ngài nói - là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” - Phanxicô.
Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” - Søren Kierkegaard.
Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” - và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu - “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” - bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” - C. S. Lewis.
Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp - Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!
Anh Chị em,
“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” - Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” - Thánh Vịnh đáp ca!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.
(Tgp. Huế)
Cầu nguyện - Hành động - Tin tưởng
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
19:59 13/10/2025
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM C : LC 18,1-8
1Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2Người nói : “Trong thành kia có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3Trong thành đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Xin ngài minh xét cho tôi khỏi tay đối phương.’ 4Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng ông ta nghĩ bụng : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5nhưng mụ góa này cứ quấy rầy mãi, thì ta sẽ minh xét cho mụ, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.’”
6Rồi Chúa nói : “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó ! 7Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ? 8Thầy bảo anh em : Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng ?”
CẦU NGUYỆN - HÀNH ĐỘNG - TIN TƯỞNG
Hết thảy chúng ta đều có kinh nghiệm gây bối rối là “cầu xin không được nhậm lời.” Tửng kêu lên với Thiên Chúa (“kêu van” và “cầu nguyện” đều cùng một chữ trong tiếng Hip-ri), chúng ta bao phen có cảm tưởng Người đã chẳng nghe gì ! Khiến chúng ta đôi khi tự nhủ : Cầu nguyện ích chi, nếu Thiên Chúa không đáp trả? Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su từng biết rất rõ nỗi khó khăn của việc cầu nguyện : đấy là kinh nghiệm đớn đau về sự “im lặng của Cha trên trời.” Thiên Chúa im lặng hay Người có trả lời mà chúng ta không nghe? Phần Đức Giê-su, Người nói gì với chúng ta về vấn đề ấy?
1- Cầu nguyện đi đôi với hành động.
Trước tiên xin lưu ý : bà góa khốn khổ nơi dụ ngôn hôm nay là một sinh vật yếu đuối mà trong Kinh Thánh, bên cạnh trẻ mồ côi, là biểu tượng của những kẻ hèn mọn nhất, phải chịu mọi hình thức ngược đãi, bị tước đoạt người bào chữa ngoại trừ Thiên Chúa. Với lòng can đảm tuyệt vọng, phụ nữ này đã dám bước vào những căn phòng lạnh lẽo của pháp đường, vượt qua những rào cản thờ ơ của các viên chức, và xuất hiện trước ông quan tòa hống hách lẫn khó chịu để hét lên lời kêu gọi công lý. Bị lính canh đuổi ra ngoài, bà đã quay lại không chỉ một lần mà hàng chục lần, đã “chiến đấu” với sự gan lì để được “minh xét” (từ này lặp lại 4-5 chỗ). Phẩm chất cơ bản của góa phụ là đức kiên trì không hề lay chuyển, bất chấp sự im lặng của viên thẩm phán, vị cay đắng trong thái độ thờ ơ của ông, thậm chí cả sự nghiệt ngã trong ứng xử thù nghịch che giấu của ông. Cuối cùng phép lạ đã xảy đến. Viên quan tòa ngang ngược, chán ngán sự hiện diện can đảm và kiên quyết này, đã chấp nhận đưa ra phán quyết mong đợi từ lâu. Như vậy, người phụ nữ được Đức Giê-su đem làm gương cho chúng ta đâu có ăn không ngồi rồi ! Đúng hơn, đấy là một chiến binh như thiên hạ nói hiện giờ. Chính việc cầu xin của bà là một cuộc chiến đấu, một sự dấn thân trọn vẹn.
Qua đó ta thấy cầu nguyện không dễ dàng như việc đọc một công thức ma thuật vốn san bằng mọi cản trở và giải quyết mọi công chuyện. Cầu nguyện là một cuộc phiêu lưu mầu nhiệm mà trong Kinh Thánh thường mang bộ mặt của một cuộc chiến đấu như vừa thấy : hãy nghĩ đến giai thoại nổi tiếng là cuộc vật lộn của Gia-cóp với Thiên Chúa bên bờ sông Giáp-bốc (St 32,23-33) mà chính ngôn sứ Hô-sê diễn giải như một biểu tượng của việc cầu nguyện (12,4-6). Cũng hãy nghĩ đến cụm từ kỳ lạ thánh Phao-lô đã sử dụng trong Thư Rô-ma : "Tôi khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu nguyện" (15,30). Và trong tiếng Hy-lạp, đấy là chữ "agonia", nghĩa là cuộc chiến chung quyết và tối hậu. Do đó, một phẩm chất không thể thiếu của việc cầu nguyện là trung thành ngay cả trong những lúc Thiên Chúa im lặng, giữa thời điểm khô khan và tăm tối.
Cùng một bài học toát ra từ bài đọc thứ nhất (Xh 17,8-13) nhưng với nét sáng sủa hơn, trong một hình ảnh cụ thể khó quên nổi. Suốt cuộc hành trình dài qua hoang địa vùng Xi-nai, dân Ít-ra-en bị tấn công bởi lắm kẻ thù đáng sợ. Họ phản ứng bằng hai cử chỉ : trên đồi, gần Thiên Chúa, Mô-sê đưa hai tay lên trời… Giô-suê, trong cánh đồng, cùng quân của mình, chiến đấu với vũ khí cầm tay… Cầu nguyện và hành động ! Không chỉ cầu nguyện, nhưng cầu nguyện và dấn thân. Song không chỉ dấn thân mà chẳng cầu nguyện !
Thành thử việc cầu nguyện đích thực không thể bù đắp cho các hành động của chúng ta. Đừng chờ Thiên Chúa hoàn tất thay cho ta những gì ta đã chẳng có can đảm thực hiện. Thắp một ngọn nến kính thánh An-tôn để được thi đậu cuối niên học, hay như ở Việt Nam hiện thời, trước mùa khảo thí, nhiều sĩ tử đến Văn Miếu-Quốc Tử Giám tại Hà Nội dâng hương hoa lễ vật để xin thi cử trót lọt, đang lúc đã chẳng hề lo “gạo bài”, thế là không lương thiện ! Người ta hiểu Thiên Chúa và các “văn thánh” (nếu có linh thiêng) chẳng nhậm kiểu cầu xin này. Thiên Chúa đâu phải là “kẻ trám lỗ” cho những biếng nhác của chúng ta, nơi trú ẩn cho những cuộc trốn chạy của chúng ta, cũng chẳng là sự khuyến khích cho những hèn nhát của chúng ta !!!
2- Cầu nguyện đi đôi với tin tưởng.
Bài học thứ hai về việc cầu nguyện được trình bày thông qua một kỹ thuật lập luận thường mang tên : phương chi, huống hồ (a fortiori) : nếu một quan tòa tồi tệ và bất công như thế, chuyên nhạo báng Thiên Chúa lẫn loài người, nhưng để tránh bị quấy rầy không ngớt, cuối cùng phải nhậm lời góa phụ yếu đuối, cô độc, khốn khổ đang van nài, một “con mụ” vốn chẳng là gì đối với ông cả, thì vị Thẩm phán chí công và trọn hảo, tức Thiên Chúa, lại càng làm như vậy biết bao; phương chi là Cha anh em -Đức Giê-su nói- Đấng vô cùng nhân hậu, chẳng nhậm lời các kẻ Người đã tuyển chọn, yêu dấu, khi họ kêu cầu Người với lòng tin? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ? Lu-ca từng trình bày cùng một nhận định này -cũng về chủ đề cầu nguyện- trong một câu nói tuyệt đẹp của Đức Giê-su : "Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi là Cha trên trời, sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người." (11,13).
Như thế, niềm tin vào tình hiền phụ của Thiên Chúa là gốc rễ của việc cầu nguyện và quyết định phong cách cũng như bầu khí của việc này. Trong Nhật ký ngày 06-01-1839, đại triết gia và tín hữu người Đan Mạch, Soren Kierkegaard, từng viết : "Lạy Cha trên trời, khi ý tưởng về Cha nổi lên trong lời cầu nguyện của chúng con, xin Cha làm cho ý tưởng ấy nổi lên không như một con chim hoảng hốt và lạc hướng, chao đảo qua lại, nhưng như một đứa trẻ thức dậy với nụ cười thiên đàng." Đâu phải ngẫu nhiên mà đoạn Kinh Thánh, vốn biểu trưng rõ nét nhất cho mối quan hệ nguyện cầu giữa Thiên Chúa với con người, Thánh vịnh 131, lại dùng hình ảnh một trẻ thơ nép mình lòng mẹ, hồn lặng lẽ an vui.
“Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng?" Với câu kết lạnh gáy này, Đức Giê-su cho ta thấy rằng nguy cơ chẳng được nhậm lời cầu không đến từ phía Thiên Chúa, nhưng từ phía con người, vốn thiếu lòng tin tưởng. Đây là cách để nói lại với ta rằng trong cuộc sống ta, vừa có vai trò của Thiên Chúa vừa có vai trò của phàm nhân. Và Thiên Chúa tôn trọng vai trò của phàm nhân mà Người đã dựng nên có tự do thật sự. Niềm tôn trọng ấy đối với vai trò bất khả thay thế là vai trò của chúng ta, còn đi đến chỗ dự kiến thất bại của chính việc Đấng Cứu Thế hiện diện, do chúng ta thiếu cầu nguyện, do đức tin ta thiếu chiều sâu. Người có tìm được lòng tin trong con tim chúng ta chăng khi “Người đến để mau chóng minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn”?
Lòng tin đó cho phép nhìn thấy việc thực sự nhậm lời ta cầu nguyện. Ngay cả khi bên ngoài, lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được nhậm, Đức Giê-su bảo, vẫn có một sự nhậm lời bên trong, từ phía Thiên Chúa. Chúng ta có tin như thế chăng? Nếu ai đó từng hỏi cha Maximilien Kolbe, ngày thứ 14 cơn hấp hối của ngài trong hầm ngục giam đói, rằng lời cầu nguyện của ngài có được nhậm chăng… ngài hẳn trả lời là được… vì bên kia cái chết của mình, ngài đã thấy được việc nhậm lời tuyệt diệu của Thiên Chúa trên nước Ba-lan vài thập niên sau (thoát ách độc tài toàn trị). Cũng vậy, lời cầu tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghet-sê-ma-ni “xin cất chén này xa con” (Mc 14,36) bên ngoài đã không được nhậm bằng việc bảo vệ khỏi cái chết đang đến gần. Nhưng nó đã được nhậm qua sự phong nhiêu tuyệt diệu của hy tế Người ! Hàng tỷ linh hồn đã được cứu nhờ chén đắng ấy ! Việc nhậm lời đích thực chính là cuộc Phục sinh.
Như thế, nếu có lòng tin sâu xa mà Đức Giê-su chờ đợi, chúng ta có thể tin rằng mọi lời cầu nguyện của chúng ta, ngay cả không được nhậm ở mức độ bên ngoài, vẫn nhận được một sự đoái nhậm trong Thiên Chúa, ở một mức độ khác. Lời cầu nguyện ít nhất có kết quả này là biến đổi con tim chúng ta : bị cám dỗ nói : “Xin cho ý con thể hiện…” nó sẽ khiến chúng ta thưa : “Xin cho ý Cha thể hiện !” (x. Lc 22,42).
1Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2Người nói : “Trong thành kia có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3Trong thành đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Xin ngài minh xét cho tôi khỏi tay đối phương.’ 4Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng ông ta nghĩ bụng : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5nhưng mụ góa này cứ quấy rầy mãi, thì ta sẽ minh xét cho mụ, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.’”
6Rồi Chúa nói : “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó ! 7Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ? 8Thầy bảo anh em : Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng ?”
CẦU NGUYỆN - HÀNH ĐỘNG - TIN TƯỞNG
Hết thảy chúng ta đều có kinh nghiệm gây bối rối là “cầu xin không được nhậm lời.” Tửng kêu lên với Thiên Chúa (“kêu van” và “cầu nguyện” đều cùng một chữ trong tiếng Hip-ri), chúng ta bao phen có cảm tưởng Người đã chẳng nghe gì ! Khiến chúng ta đôi khi tự nhủ : Cầu nguyện ích chi, nếu Thiên Chúa không đáp trả? Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su từng biết rất rõ nỗi khó khăn của việc cầu nguyện : đấy là kinh nghiệm đớn đau về sự “im lặng của Cha trên trời.” Thiên Chúa im lặng hay Người có trả lời mà chúng ta không nghe? Phần Đức Giê-su, Người nói gì với chúng ta về vấn đề ấy?
1- Cầu nguyện đi đôi với hành động.
Trước tiên xin lưu ý : bà góa khốn khổ nơi dụ ngôn hôm nay là một sinh vật yếu đuối mà trong Kinh Thánh, bên cạnh trẻ mồ côi, là biểu tượng của những kẻ hèn mọn nhất, phải chịu mọi hình thức ngược đãi, bị tước đoạt người bào chữa ngoại trừ Thiên Chúa. Với lòng can đảm tuyệt vọng, phụ nữ này đã dám bước vào những căn phòng lạnh lẽo của pháp đường, vượt qua những rào cản thờ ơ của các viên chức, và xuất hiện trước ông quan tòa hống hách lẫn khó chịu để hét lên lời kêu gọi công lý. Bị lính canh đuổi ra ngoài, bà đã quay lại không chỉ một lần mà hàng chục lần, đã “chiến đấu” với sự gan lì để được “minh xét” (từ này lặp lại 4-5 chỗ). Phẩm chất cơ bản của góa phụ là đức kiên trì không hề lay chuyển, bất chấp sự im lặng của viên thẩm phán, vị cay đắng trong thái độ thờ ơ của ông, thậm chí cả sự nghiệt ngã trong ứng xử thù nghịch che giấu của ông. Cuối cùng phép lạ đã xảy đến. Viên quan tòa ngang ngược, chán ngán sự hiện diện can đảm và kiên quyết này, đã chấp nhận đưa ra phán quyết mong đợi từ lâu. Như vậy, người phụ nữ được Đức Giê-su đem làm gương cho chúng ta đâu có ăn không ngồi rồi ! Đúng hơn, đấy là một chiến binh như thiên hạ nói hiện giờ. Chính việc cầu xin của bà là một cuộc chiến đấu, một sự dấn thân trọn vẹn.
Qua đó ta thấy cầu nguyện không dễ dàng như việc đọc một công thức ma thuật vốn san bằng mọi cản trở và giải quyết mọi công chuyện. Cầu nguyện là một cuộc phiêu lưu mầu nhiệm mà trong Kinh Thánh thường mang bộ mặt của một cuộc chiến đấu như vừa thấy : hãy nghĩ đến giai thoại nổi tiếng là cuộc vật lộn của Gia-cóp với Thiên Chúa bên bờ sông Giáp-bốc (St 32,23-33) mà chính ngôn sứ Hô-sê diễn giải như một biểu tượng của việc cầu nguyện (12,4-6). Cũng hãy nghĩ đến cụm từ kỳ lạ thánh Phao-lô đã sử dụng trong Thư Rô-ma : "Tôi khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu nguyện" (15,30). Và trong tiếng Hy-lạp, đấy là chữ "agonia", nghĩa là cuộc chiến chung quyết và tối hậu. Do đó, một phẩm chất không thể thiếu của việc cầu nguyện là trung thành ngay cả trong những lúc Thiên Chúa im lặng, giữa thời điểm khô khan và tăm tối.
Cùng một bài học toát ra từ bài đọc thứ nhất (Xh 17,8-13) nhưng với nét sáng sủa hơn, trong một hình ảnh cụ thể khó quên nổi. Suốt cuộc hành trình dài qua hoang địa vùng Xi-nai, dân Ít-ra-en bị tấn công bởi lắm kẻ thù đáng sợ. Họ phản ứng bằng hai cử chỉ : trên đồi, gần Thiên Chúa, Mô-sê đưa hai tay lên trời… Giô-suê, trong cánh đồng, cùng quân của mình, chiến đấu với vũ khí cầm tay… Cầu nguyện và hành động ! Không chỉ cầu nguyện, nhưng cầu nguyện và dấn thân. Song không chỉ dấn thân mà chẳng cầu nguyện !
Thành thử việc cầu nguyện đích thực không thể bù đắp cho các hành động của chúng ta. Đừng chờ Thiên Chúa hoàn tất thay cho ta những gì ta đã chẳng có can đảm thực hiện. Thắp một ngọn nến kính thánh An-tôn để được thi đậu cuối niên học, hay như ở Việt Nam hiện thời, trước mùa khảo thí, nhiều sĩ tử đến Văn Miếu-Quốc Tử Giám tại Hà Nội dâng hương hoa lễ vật để xin thi cử trót lọt, đang lúc đã chẳng hề lo “gạo bài”, thế là không lương thiện ! Người ta hiểu Thiên Chúa và các “văn thánh” (nếu có linh thiêng) chẳng nhậm kiểu cầu xin này. Thiên Chúa đâu phải là “kẻ trám lỗ” cho những biếng nhác của chúng ta, nơi trú ẩn cho những cuộc trốn chạy của chúng ta, cũng chẳng là sự khuyến khích cho những hèn nhát của chúng ta !!!
2- Cầu nguyện đi đôi với tin tưởng.
Bài học thứ hai về việc cầu nguyện được trình bày thông qua một kỹ thuật lập luận thường mang tên : phương chi, huống hồ (a fortiori) : nếu một quan tòa tồi tệ và bất công như thế, chuyên nhạo báng Thiên Chúa lẫn loài người, nhưng để tránh bị quấy rầy không ngớt, cuối cùng phải nhậm lời góa phụ yếu đuối, cô độc, khốn khổ đang van nài, một “con mụ” vốn chẳng là gì đối với ông cả, thì vị Thẩm phán chí công và trọn hảo, tức Thiên Chúa, lại càng làm như vậy biết bao; phương chi là Cha anh em -Đức Giê-su nói- Đấng vô cùng nhân hậu, chẳng nhậm lời các kẻ Người đã tuyển chọn, yêu dấu, khi họ kêu cầu Người với lòng tin? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ? Lu-ca từng trình bày cùng một nhận định này -cũng về chủ đề cầu nguyện- trong một câu nói tuyệt đẹp của Đức Giê-su : "Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi là Cha trên trời, sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người." (11,13).
Như thế, niềm tin vào tình hiền phụ của Thiên Chúa là gốc rễ của việc cầu nguyện và quyết định phong cách cũng như bầu khí của việc này. Trong Nhật ký ngày 06-01-1839, đại triết gia và tín hữu người Đan Mạch, Soren Kierkegaard, từng viết : "Lạy Cha trên trời, khi ý tưởng về Cha nổi lên trong lời cầu nguyện của chúng con, xin Cha làm cho ý tưởng ấy nổi lên không như một con chim hoảng hốt và lạc hướng, chao đảo qua lại, nhưng như một đứa trẻ thức dậy với nụ cười thiên đàng." Đâu phải ngẫu nhiên mà đoạn Kinh Thánh, vốn biểu trưng rõ nét nhất cho mối quan hệ nguyện cầu giữa Thiên Chúa với con người, Thánh vịnh 131, lại dùng hình ảnh một trẻ thơ nép mình lòng mẹ, hồn lặng lẽ an vui.
“Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng?" Với câu kết lạnh gáy này, Đức Giê-su cho ta thấy rằng nguy cơ chẳng được nhậm lời cầu không đến từ phía Thiên Chúa, nhưng từ phía con người, vốn thiếu lòng tin tưởng. Đây là cách để nói lại với ta rằng trong cuộc sống ta, vừa có vai trò của Thiên Chúa vừa có vai trò của phàm nhân. Và Thiên Chúa tôn trọng vai trò của phàm nhân mà Người đã dựng nên có tự do thật sự. Niềm tôn trọng ấy đối với vai trò bất khả thay thế là vai trò của chúng ta, còn đi đến chỗ dự kiến thất bại của chính việc Đấng Cứu Thế hiện diện, do chúng ta thiếu cầu nguyện, do đức tin ta thiếu chiều sâu. Người có tìm được lòng tin trong con tim chúng ta chăng khi “Người đến để mau chóng minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn”?
Lòng tin đó cho phép nhìn thấy việc thực sự nhậm lời ta cầu nguyện. Ngay cả khi bên ngoài, lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được nhậm, Đức Giê-su bảo, vẫn có một sự nhậm lời bên trong, từ phía Thiên Chúa. Chúng ta có tin như thế chăng? Nếu ai đó từng hỏi cha Maximilien Kolbe, ngày thứ 14 cơn hấp hối của ngài trong hầm ngục giam đói, rằng lời cầu nguyện của ngài có được nhậm chăng… ngài hẳn trả lời là được… vì bên kia cái chết của mình, ngài đã thấy được việc nhậm lời tuyệt diệu của Thiên Chúa trên nước Ba-lan vài thập niên sau (thoát ách độc tài toàn trị). Cũng vậy, lời cầu tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghet-sê-ma-ni “xin cất chén này xa con” (Mc 14,36) bên ngoài đã không được nhậm bằng việc bảo vệ khỏi cái chết đang đến gần. Nhưng nó đã được nhậm qua sự phong nhiêu tuyệt diệu của hy tế Người ! Hàng tỷ linh hồn đã được cứu nhờ chén đắng ấy ! Việc nhậm lời đích thực chính là cuộc Phục sinh.
Như thế, nếu có lòng tin sâu xa mà Đức Giê-su chờ đợi, chúng ta có thể tin rằng mọi lời cầu nguyện của chúng ta, ngay cả không được nhậm ở mức độ bên ngoài, vẫn nhận được một sự đoái nhậm trong Thiên Chúa, ở một mức độ khác. Lời cầu nguyện ít nhất có kết quả này là biến đổi con tim chúng ta : bị cám dỗ nói : “Xin cho ý con thể hiện…” nó sẽ khiến chúng ta thưa : “Xin cho ý Cha thể hiện !” (x. Lc 22,42).
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
‘Phép lạ Mặt Trời’ ở Fátima đã góp phần chấm dứt một chế độ vô thần
Vũ Văn An
13:38 13/10/2025

Hãng tin CNA, ngày 13 tháng 10 năm 2025, tường trình:
Ngày 13 tháng 10 năm 1917 đánh dấu lần hiện ra cuối cùng của Đức Mẹ tại Fátima và là ngày mà hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ mặt trời nhảy múa — một phép lạ đã phá vỡ niềm tin phổ biến vào thời điểm đó co rằng Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa.
Marco Daniel Duarte, một nhà thần học và giám đốc bảo tàng Đền thánh Fátima, đã chia sẻ với CNA về tác động của phép lạ mặt trời trong những ngày đó ở Bồ Đào Nha.
Nếu ai đó mở sách triết học trong thời kỳ đó, có lẽ họ sẽ đọc được điều gì đó tương tự như khái niệm mà triết gia người Đức Friedrich Nietzsche đã đưa ra, người đã mạnh dạn khẳng định vào cuối những năm 1800 rằng "Thiên Chúa đã chết".
Ngoài ra, vào năm 1917, Bồ Đào Nha và phần lớn thế giới đã bị cuốn vào chiến tranh. Khi Thế chiến thứ nhất hoành hành khắp châu Âu, Bồ Đào Nha thấy mình không thể duy trì sự trung lập ban đầu và đã gia nhập lực lượng Đồng minh. Hơn 220,000 thường dân Bồ Đào Nha đã chết trong chiến tranh, hàng ngàn người chết vì thiếu lương thực và hàng ngàn người khác chết vì cúm Tây Ban Nha.
Vài năm trước đó, một cuộc cách mạng đã dẫn đến việc thành lập Đệ nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha vào năm 1910 và một hiến pháp tự do mới đã được soạn thảo dưới ảnh hưởng của Hội Tam Điểm, nhằm dẹp bỏ đức tin khỏi đời sống công cộng. Các nhà thờ và trường học Công Giáo bị chính quyền tịch thu, và việc mặc trang phục giáo sĩ ở nơi công cộng, rung chuông nhà thờ và cử hành các lễ hội tôn giáo công cộng đều bị cấm. Từ năm 1911 đến năm 1916, gần 2,000 linh mục, tu sĩ nam nữ đã bị các nhóm chống Kitô giáo sát hại.
Đây chính là bối cảnh mà vào năm 1917, một người phụ nữ được cho là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria đã hiện ra với ba trẻ chăn cừu — Lucia dos Santos, 10 tuổi, và hai anh chị em họ Francisco và Jacinta Marto, 9 và 7 tuổi — trên một cánh đồng ở Fátima, Bồ Đào Nha, mang theo lời yêu cầu đọc kinh Mân Côi, dâng lễ hy sinh cầu nguyện cho các tội nhân, và một bí mật liên quan đến số phận của thế giới.
Để chứng minh rằng những lần hiện ra là có thật, người phụ nữ đã hứa với các em rằng trong lần hiện ra cuối cùng trong sáu lần hiện ra, bà sẽ ban cho một dấu hiệu để mọi người tin vào những lần hiện ra và thông điệp của bà. Những gì xảy ra vào ngày hôm đó — ngày 13 tháng 10 năm 1917 — được gọi là "Phép lạ Mặt trời", hay "ngày mặt trời nhảy múa".
Theo nhiều lời kể khác nhau, một đám đông khoảng 70,000 người - cả những người tin và những người hoài nghi - đã tụ tập để chứng kiến phép lạ được hứa hẹn: Bầu trời mưa bỗng quang đãng, mây tan, và mặt đất, vốn ẩm ướt và lầy lội vì mưa, giờ đã khô ráo. Một tấm màn trong suốt phủ lên mặt trời, giúp dễ dàng nhìn thấy, và những ánh sáng nhiều màu trải dài khắp cảnh quan. Sau đó, mặt trời bắt đầu quay tròn trên bầu trời, và có lúc dường như hướng về phía trái đất trước khi trở lại vị trí của nó trên bầu trời.
Sự kiện kinh hoàng này là một sự mâu thuẫn trực tiếp và rất thuyết phục đối với các chế độ vô thần thời bấy giờ, bằng chứng là tờ báo đầu tiên đưa tin về phép lạ trên toàn trang nhất lại là một tờ báo chống Công Giáo, thuộc Hội Tam Điểm ở Lisbon có tên là O Seculo.
Duarte nói: Phép lạ mặt trời được người dân hiểu là "dấu ấn, sự đảm bảo rằng ba đứa trẻ đó thực sự đã nói sự thật". Ngay cả ngày nay, “Fátima khiến mọi người thay đổi tri nhận về Thiên Chúa”, vì “một trong những thông điệp quan trọng nhất của những lần hiện ra là ngay cả khi ai đó đã xa rời Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn hiện diện trong lịch sử nhân loại và không từ bỏ nhân loại”.
Làm sao chúng ta có thể nghe được tiếng Thiên Chúa khi internet có thể lấp đầy bất kỳ khoảng im lặng nào?
Vũ Văn An
14:13 13/10/2025

Michael Quinn (*) của tạp chí America, ngày 9 tháng 10 năm 2025, tâm sự:
Cầu nguyện là một cuộc trò chuyện với Thiên Chúa, nhưng tôi không nghe thấy bất cứ lời nào. Đó chẳng phải là vấn đề sao?
Đối với tôi thì đúng là như vậy. Tôi đã dành 17 năm trong môi trường giáo dục Công Giáo, và cầu nguyện vẫn là một mầu nhiệm. Tôi có một cảm nhận tâm linh mơ hồ. Tôi thích là người Công Giáo. Tôi yêu thi ca. Nhưng ngay lúc đó, nhắm mắt lại, chắp tay lại, tôi cảm thấy bồn chồn và không tự nhiên. Những suy nghĩ của tôi quay cuồng, không liên quan và không phù hợp. Rồi tôi phán xét suy nghĩ của mình và xoáy sâu vào chúng cho đến khi tôi nói lời cảm ơn chung chung, nhờ giúp đỡ và tiếp tục.
Thường thì tôi bỏ cuộc.
Tất nhiên, cầu nguyện rất khó chịu. Tôi sinh năm 1996 và lớn lên trong thế giới kỹ thuật số. Tôi là một đứa trẻ chập chững biết đi trên chiếc iMac. Tâm trạng hồi cấp hai của tôi được phát sóng qua trạng thái AIM. Điện thoại di động của tôi đã ở trong vòng 6 mét gần người tôi gần hai thập niên.
Tôi chưa bao giờ ở một mình. Luôn có một thiết bị, một màn hình, một bài hát hay một podcast. Những thứ đó tồn tại như một sự giải tỏa cho những khó chịu bên trong: những cảm xúc thất thường, những ký ức tự hồi tưởng, những hối tiếc. Bạn phải làm gì với chúng khi bạn phải tiếp tục ngày sống của mình?
Sự thông minh của internet hiện đại nằm ở chỗ nó khai thác mong muốn hiểu biết, mong muốn có câu trả lời của con người. Khi não tôi dao động về sự bất định - trong suy nghĩ, trong cảm xúc - tôi với lấy điện thoại. Thế hệ của tôi là thế hệ đầu tiên có thể nhìn vào màn hình để thoát khỏi bất cứ sự khó chịu xã hội nhỏ nào. Khi bạn cảm thấy điều gì đó không thoải mái, bạn sẽ tìm đến internet. Đó chính là câu trả lời.
Tất nhiên, những lo lắng về ảnh hưởng của kỹ thuật mới đối với giới trẻ đã có từ trước cả internet. Nhà thần học Hans Urs von Balthasar đã nói về truyền hình như sau: “Ai cũng biết rằng nó có sức hấp dẫn [như thế nào] đối với giới trẻ, những người bị tấn công bởi vô số hình ảnh hỗn loạn lướt qua màn hình, không còn khả năng đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống.”
Internet là một cỗ máy giải phóng thế giới khỏi thế giới mầu nhiệm. Chúng ta lên Instagram để tìm hiểu về ngoại hình; TikTok để mua gì, ăn gì; X để nói về những điều nên nói. Còn lại, hãy tìm kiếm trên Google. Mọi thứ kỹ thuật số chúng ta tạo ra đều hướng đến một mục đích chung: Ngừng đặt câu hỏi.
Vậy bạn sẽ làm gì khi gặp phải một vấn đề không có lời giải đáp? Giả sử bạn 26 tuổi, vẫn phụ thuộc tài chính vào cha mẹ, và một ngày nọ ở Pennsylvania, cha bạn qua đời trong phòng ngủ. Sáng hôm sau, mẹ bạn tìm thấy ông và hét lên, và bạn bỏ đi. Rồi hai năm sau, mọi chuyện đã được giải quyết, bạn học cách tự chi trả, mọi người đều khen bạn là một người con ngoan, và bạn nhìn ra cửa sổ mà không hiểu sao mình lại rơi vào hoàn cảnh này.
Trong thực tế, bạn nhầm cành cây với những vết nứt. Khi nhìn thấy người khác đi cùng cha mẹ, bạn tức giận. Bạn mất kiểm soát. Bạn không thể nói chuyện một cách thành thật. Cảm xúc dâng trào trong bạn; có một cơn lốc xoáy trong đám rối thần kinh mặt trời của bạn. Nó không thể được giải quyết. Âm thầm tôn thờ thần tượng của sự lo lắng, bạn lang thang khắp thế gian. Bạn chờ đợi điều tồi tệ tiếp theo, điều mà bạn chắc chắn sẽ xảy ra khi bình minh ló dạng.
Đây chính là tình cảnh của tôi trong Mùa Chay vừa qua, khi mọi thứ kết thúc, tôi quyết tâm cầu nguyện. Tôi gặp một vấn đề không lời giải đáp, và tôi đã từ bỏ lời khuyên của người khác. Tôi đã thử mọi cách khác nhau—thuốc an thần, rượu, danh tiếng trên mạng, các nhóm đọc James Joyce.
Vào Thứ Tư Lễ Tro, tại một buổi lễ thưa thớt người tham dự ở Brooklyn, tôi đã nhận tro cốt và bắt đầu lại. Trong 40 ngày, tôi đã cầu nguyện.
Bằng cách nào? Đầu tiên, tôi thử lập danh sách: Đây là những điều tôi biết ơn, đây là những điều tôi đang vật lộn; xin hãy giúp đỡ. Đây là nền tảng. Tôi lùi lại một bước và nhìn lại cuộc đời mình, vòng xoáy của những thử thách và điều tốt đẹp mà tôi đã vượt qua. Tôi thừa nhận mình không đơn độc.
Nhưng điều này có thể khiến lời cầu nguyện trở nên khá hời hợt. "Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa vì đã cho con chó; Ngài có thể cho con một buổi phỏng vấn xin việc được không?" Việc cầu xin Chúa ban ơn chẳng có gì là huyền bí.
Vậy nên tôi đã viết ra vài lời cầu nguyện: Tôi cầu nguyện cho người bệnh, người nghèo khó, người bị giam cầm, cầu xin hòa bình. Tôi đưa ra những suy tư ngắn ngủi về bản chất thế giới, bạo lực, bất công, và vị trí của tôi trong đó. Một lần nữa, điều này là tốt. Nhưng sự cao cả của nó—bản chất triết học, sự bất khả hữu—khiến tôi cảm thấy mình như một nghệ sĩ biểu diễn. Nó không chân thực. Nó không có trái tim.
“Trái tim cũng là nơi của sự chân thành,” Đức Phanxicô viết trong thông điệp cuối cùng của mình, “Dilexit Nos,” “nơi mà sự lừa dối và ngụy trang không có chỗ đứng. Nó thường chỉ ra những ý định thực sự của chúng ta, những gì chúng ta thực sự nghĩ, tin và mong muốn, những ‘bí mật’ mà chúng ta không nói với ai: nói tóm lại, là sự thật trần trụi về chính mình.”
Liệu tôi có thể đến cầu nguyện trong tình trạng trần trụi không? Với con người tôi? Cái tôi nặng trĩu, sự bực bội, tính nghệ thuật, triết học, tính Philadelphia, tính nữ, hay chính tôi? Điều gì đang ngăn cản tôi? Rằng tôi cảm thấy mình không xứng đáng. Lời cầu nguyện đó là một điều gì đó thần linh, chứ không phải của con người.
Nếu tôi phải giả vờ trước mặt Chúa, chẳng phải tôi cũng phải giả vờ ở khắp mọi nơi sao? Tôi đã đầu hàng. Tôi đã từ bỏ việc cầu nguyện đúng đắn. Tôi đã làm dấu thánh giá. và nói như chính mình, bằng tiếng địa phương, bằng giọng điệu của tôi. Tôi hình dung ra người bạn lắng nghe gần nhất. Tôi lang thang và tô vẽ, tôi chào đón Thiên Chúa vào cuộc đời đầy u ám của mình.
Đáp lại, tôi nghe thấy gì? Chỉ là tiếng xe phanh gấp ở đèn đỏ trên Đại lộ Flushing. Tôi nghe thấy sự im lặng, và sự im lặng được tạo nên từ những gì: luồng không khí, tiếng lá cây xào xạc, tiếng động cơ, tiếng chim hót. Khi tôi bịt tai để tìm kiếm thứ gì đó yên tĩnh hơn, tôi nghe thấy tiếng mạch máu mình đang chảy.
Câu trả lời cho những lời cầu nguyện của chúng ta đến trong những hoàn cảnh thay đổi của cuộc sống: điều gì xảy ra với chúng ta, điều gì không xảy ra, điều gì người khác nói với chúng ta, điều gì trái tim chúng ta mách bảo. Nhưng những tín hiệu này rất đa dạng và phong phú. Hiếm khi có người lạ trên phố ngăn bạn lại và nói: "Đừng nộp đơn vào những vị trí tuyển dụng ngẫu nhiên bạn tìm thấy trên LinkedIn nữa mà hãy tận dụng mạng lưới đại học của mình." Cũng hiếm khi trái tim bạn mách bảo bạn điều đó. Chúng ta được sinh ra để lắng nghe câu trả lời của Thiên Chúa trong môi trường đầy biến động của cuộc sống, phân biệt chúng với sự tình cờ hay trùng hợp ngẫu nhiên, diễn giải chúng và hành động theo chúng. Nhưng bằng cách nào? Thật khó. Thời hiện đại không khuất phục được trái tim trước những điều hữu ích và tốt đẹp. Tệ hơn nữa, những dấu hiệu tôi biết - bầu trời xanh ngắt, những con bạch tuộc nhồi bông có thể đảo ngược, Coca-Cola ăn kiêng - chỉ là những thứ phù phiếm đối với bạn. Việc đào sâu đời sống tâm linh của tôi đồng nghĩa với việc từ bỏ ý nghĩ cho rằng tôi sẽ nhìn thấy cùng một thế giới với mọi người khác. Tôi từ bỏ việc mong đợi người khác hiểu mình. Tôi chấp nhận một vốn từ vựng riêng, vượt ra ngoài ngôn ngữ lời nói. Vốn từ vựng này được tạo thành từ những từ ngữ bằng một ngôn ngữ mà chỉ thế giới mới có thể nói và chỉ tôi mới có thể hiểu. Tôi bước vào cuộc trò chuyện với cuộc sống.
Để nghe được những gì Chúa Thánh Thần đang nói với bạn, bạn phải tắt điện thoại. Hãy ra ngoài. Hành động, hành động liên tục, hành động không hoàn hảo. Đặt mình vào xung đột, hòa mình vào thế giới. Hãy đi, đi, đi.
Vậy nên có lẽ câu hỏi tôi đặt ra đã sai. Giờ tôi biết bạn không thể cầu nguyện, bạn chỉ có thể là một người cầu nguyện. Đây là một hành động theo thói quen, sự tồn tại của nó phụ thuộc vào sự lặp lại của nó. Tôi đã học cách ngồi im lặng.
Việc tĩnh lặng tâm trí không khiến bạn trở nên ngu ngốc, thiếu thông tin. Thực tế, ngược lại. Một nhà trị liệu tuyệt vời từng nói với tôi: "Tại sao lúc nào bạn cũng phải suy nghĩ?" Suy nghĩ là một hành động của tâm trí mà bạn sử dụng để đạt được mục đích. Nếu bạn đang làm điều gì khác, hãy im lặng. Điều bạn cần nhận ra, bạn sẽ nhận ra. Biết được điều này được gọi là đức tin.
Mọi người đã hỏi tôi: Ông ước mình đã làm gì khác đi khi cha ông còn sống? Tôi ước mình không quá sợ hãi khi là chính mình.
Khi nói đến những cuộc trò chuyện với cha tôi - ông là một vận động viên chèo thuyền đẳng cấp thế giới; tôi là một diễn viên sân khấu - tôi đã cố gắng nói những điều mà tôi nghĩ sẽ khiến ông vui vẻ, hứng thú hoặc cười. Giờ đây, tôi nhận ra mục đích của một cuộc trò chuyện không phải là làm hài lòng người khác. Mục đích của cuộc trò chuyện là thể hiện bản thân, một cách chân thực, nhân bản, trong giới hạn cho phép của xã hội, để bạn không sống trong ước mơ mình đã nói điều gì khác.
Tôi đã dành nhiều năm sống trong ước mơ mình đã nói điều gì khác. Tôi sống trong quá khứ. Tôi điên rồ, tôi đã thử nghiệm lời nói của người khác và quyết định xem nó có làm tôi hài lòng hay không. Liệu người này có đủ thông minh, hay đủ hài hước; Liệu họ có hiểu tôi và những gì tôi nói không? Kết quả là, tôi đã bỏ lỡ bất cứ điều gì mọi người nói với tôi. Ngay cả những người tôi yêu thương. Những người yêu thương tôi.
Một ngày nọ, bạn chạm vào bắp chân lạnh ngắt của bố mẹ và nói với người điều phối rằng hô hấp nhân tạo chẳng có ích gì. Bạn biết rằng bố đang cố gắng nói với bạn điều gì đó mà không cần lời nói, nhưng bạn không biết đó là gì. Tôi đang nói rằng trong mỗi cái chết là một thông điệp chỉ bạn hiểu, bằng một ngôn ngữ chỉ bạn nói.
Cầu nguyện là một cuộc trò chuyện. Từ tiếng Latin conversatio - "một cách sống", hoặc tiếng Anh trung đại conversacioun - "một nơi mà người ta trú ngụ".
Cầu nguyện là một vùng đất. Nó nằm giữa vật chất và phi vật chất. Nó có kích thước khoảng một chiếc lá. Nó chứa đầy cảm xúc và suy nghĩ, những tiếng ríu rít của trái tim, ánh sáng rơi trên bề mặt và những rãnh vân tay bạn gặp nhau. Nó chân thực như ngày tồi tệ nhất của bạn. Đây là một nơi trú ngụ luôn theo bạn, bất biến theo thời gian, đơn giản là như vậy.
Nó giống như, ừm, internet vậy.
Chúng ta có thể đến thăm với tư cách là người nước ngoài, người sử dụng, khách khứa, hồn ma, hoặc chúng ta có thể đến thăm với tư cách là chính mình. Nhưng cách duy nhất để biết điều đó là phải đến đó.
⸺
(*) Michael Quinn là một nhà văn sinh ra ở Philadelphia. Vở kịch "The River East" của ông đã lọt vào danh sách rút gọn cho Giải thưởng Kịch nghệ Yale năm 2024. Ông tốt nghiệp Đại học Boston.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Người Công Giáo có cơ hội hỗ trợ các hoạt động truyền giáo ở nước ngoài
Vũ Văn An
14:31 13/10/2025

Elise Ann Allen của tạp chí Crux, ngày 13 tháng 10, 2025, viết:
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi tất cả các tín hữu trên toàn thế giới hỗ trợ các hoạt động truyền giáo ở nước ngoài của Giáo hội bằng cách cung cấp giáo lý và các dịch vụ cơ bản cho những người đang gặp khó khăn.
Trong một thông điệp video được công bố hôm thứ Hai, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV mong đợi Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới lần thứ 99 – Chúa Nhật tới, ngày 19 tháng 10 – một dịp mà “toàn thể Giáo hội cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt cho các nhà truyền giáo và cho công việc tông đồ của họ được đơm hoa kết trái”.
Chủ đề của Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới năm nay là “Những nhà truyền giáo mang hy vọng đến giữa các dân tộc” – một chủ đề đặt sự kiện thường niên này trong khuôn khổ rộng lớn hơn của Năm Thánh Hy vọng 2025 hiện đang diễn ra trên toàn thế giới.
Trong thông điệp video hôm thứ Hai, Đức Giáo Hoàng Leo đã trực tiếp gửi lời đến các giáo xứ Công Giáo, nói rằng lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của họ cho các sứ mệnh “sẽ giúp lan truyền Tin Mừng, cung cấp các chương trình mục vụ và giáo lý, giúp xây dựng các nhà thờ mới, và chăm sóc sức khỏe cũng như nhu cầu giáo dục của anh chị em chúng ta tại các vùng truyền giáo.”
“Chúng ta hãy một lần nữa cam kết thực hiện nhiệm vụ ngọt ngào và vui tươi là mang Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy Vọng của chúng ta đến tận cùng trái đất,” Đức Giáo Hoàng Leo nói, và cảm ơn người Công Giáo vì “mọi điều anh chị em sẽ làm để giúp tôi giúp đỡ các nhà truyền giáo trên khắp thế giới.”
Đức Giáo Hoàng Leo đã phục vụ nhiều năm với tư cách là linh mục truyền giáo và giám mục tại Peru, nơi ngài “tận mắt chứng kiến đức tin, lời cầu nguyện và lòng quảng đại được biểu lộ trong Ngày Thế giới Truyền giáo có thể biến đổi toàn bộ cộng đồng như thế nào.”
Được Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập vào năm 1926 như một ngày cầu nguyện cho các sứ mệnh truyền giáo ở nước ngoài, Ngày Thế giới Truyền giáo được cử hành hàng năm trong Giáo Hội Công Giáo như một dịp để Giáo hội đổi mới cam kết của mình đối với các nỗ lực truyền giáo, do các Hội Truyền giáo Giáo hoàng điều phối.
Các Hội Truyền giáo Giáo hoàng chính thức là một phần của Bộ Truyền giáo của Vatican và được quản lý bởi Bộ Truyền giáo Đầu tiên và các Giáo hội Địa phương Mới.
Toàn bộ tháng Mười được dành riêng cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội và các nhà truyền giáo (cùng với việc đặc biệt dành riêng cho kinh Mân Côi trong tháng Mười).
Mặc dù số lượng tín hữu Công Giáo đang giảm dần trên khắp thế giới phương Tây, nhưng người Công Giáo ở các quốc gia phương Tây vẫn đóng góp phần lớn hỗ trợ tài chính cho các dự án của Giáo hội tại các vùng truyền giáo truyền thống, nơi Công Giáo đang phát triển mạnh mẽ và ơn gọi đang gia tăng đến mức nhiều giáo xứ, ngay cả ở phương Tây, hiện đang được các linh mục từ Châu Phi và Châu Á hỗ trợ.
Trong buổi tiếp kiến các Hội Truyền giáo Giáo hoàng vào ngày 22 tháng 5, Đức Giáo Hoàng Leo đã nhắ lại công việc truyền giáo của mình tại Peru và bày tỏ lòng biết ơn đối với công việc phục vụ "không thể thiếu" mà các Hiệp Hội dành cho Giáo hội và những nỗ lực truyền giáo của Giáo hội trên toàn thế giới. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã phục vụ với tư cách là một nhà truyền giáo ở miền bắc Peru trong dòng Augustinô của ngài, đầu tiên là chưởng ấn của giáo hạt Chulucanas trong một năm vào năm 1985, và sau đó là người đứng đầu nhà đào tạo Augustinô và là cha sở của hai nhà thờ ở Trujillo từ năm 1988 đến năm 1999.
Sau đó, ngài trở lại Peru, đầu tiên là giám quản tông tòa của Giáo phận Chiclayo vào năm 2014 và sau đó là giám mục của giáo phận này, từ năm 2015 đến năm 2023, khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô triệu tập ngài đến Rôma để lãnh đạo Bộ Giám mục.
Việc bầu chọn Đức Giáo Hoàng Lêô, với nhiều thập niên kinh nghiệm làm nhà truyền giáo nước ngoài, diễn ra sau nhiều lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người tiền nhiệm của ngài, về một Giáo hội truyền giáo tràn ngập những “môn đệ truyền giáo”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công khai nói về mong muốn trở thành một nhà truyền giáo ở Nhật Bản giống như rất nhiều anh em Dòng Tên trước đây của ngài và đã áp dụng ngôn ngữ truyền giáo ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của mình.
Trong tông huấn đầu tiên của mình, Evangelii Gaudium, được công bố chỉ vài tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng vào năm 2013, Đức Phanxicô đã bắt đầu kêu gọi người Công Giáo trên khắp thế giới trở thành những nhà truyền giáo. Ngài nói: “Nhờ phép rửa tội, tất cả các thành viên của dân Chúa đã trở thành những môn đệ truyền giáo.”
Ngài nói: “Mỗi Kitô hữu đều là một nhà truyền giáo trong phạm vi họ đã gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô: chúng ta không còn nói rằng chúng ta là ‘môn đệ’ và ‘nhà truyền giáo’, mà đúng hơn, chúng ta luôn là ‘môn đệ truyền giáo’”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng Giáo hội phải trở thành “một cộng đồng các môn đệ truyền giáo” đi ra và thực hiện bước đầu tiên trong công cuộc truyền giáo, tham gia và hỗ trợ những người đang gặp khó khăn.
Ngài nói: “Bản thân Giáo hội là một môn đệ truyền giáo; Giáo hội cần phát triển trong việc diễn giải lời mặc khải và trong sự hiểu biết chân lý.”
Ngài nói điều này cũng hàm ý sự đồng hành về mặt tinh thần và mục vụ, và rằng “điều này rõ ràng khác biệt với mọi loại đồng hành xâm nhập hay sự tự thể hiện mình cách biệt lập. Các môn đệ truyền giáo đồng hành với sứ mệnh“Các tông đồ truyền giáo.”
Mặc dù lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc làm tông đồ truyền giáo nhằm mục đích truyền cảm hứng cho người Công Giáo tham gia và trở thành “những nhà truyền giáo” tại địa phương của họ, nhưng đó là động lực để làm như vậy với tinh thần của những nhà truyền giáo đã ra đi và phục vụ.
Lời mời gọi của Đức Leo về việc hỗ trợ các hoạt động truyền giáo ở nước ngoài, xét đến nền tảng truyền giáo của chính ngài, mang một sức nặng khác, và có thể mang lại niềm hứng khởi mới cho cả những đóng góp tài chính của các tín hữu cho các hoạt động truyền giáo ở nước ngoài của Giáo hội, cũng như lời kêu gọi rộng lớn hơn của vị tiền nhiệm về việc làm tông đồ truyền giáo.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi mọi giáo xứ: Hãy tham gia vào Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới
Thanh Quảng sdb
15:40 13/10/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi mọi giáo xứ: 'Hãy tham gia vào Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới'

Coi Video
Trong một thông điệp video, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo hãy tham gia Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới, ngày 19 tháng 10, đồng thời nhắc lại lòng quảng đại của ngày hôm đó đã cụ thể hóa và duy trì các công việc tốt đẹp của các nhà truyền giáo trên toàn thế giới, như ngài đã tận mắt chứng kiến khi phục vụ tại Peru.
(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)
"Tôi kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tham gia Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới", Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh trong thông điệp video nhân dịp Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới.
Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới được tổ chức hàng năm vào Chúa Nhật áp chót của tháng Mười. Năm nay, sự kiện sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 10 với chủ đề "Những nhà truyền giáo mang hy vọng đến cho các dân tộc".
Video mở đầu bằng việc Đức Thánh Cha nhắc lại rằng vào Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới hàng năm, toàn thể Giáo hội cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt cho các nhà truyền giáo và cho công việc tông đồ của họ được thành quả.
"Khi tôi phục vụ với tư cách là một linh mục truyền giáo và Giám mục ở Peru," Đức Giáo Hoàng Lêô minh họa, "tôi đã tận mắt chứng kiến đức tin, lời cầu nguyện và lòng quảng đại được thể hiện trong Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới có thể biến đổi toàn bộ cộng đồng như thế nào."
Vì vậy, ngài đã giao cho tất cả các giáo xứ Công Giáo một số hoạt động cụ thể.
"Tôi kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tham gia Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới," Đức Giáo Hoàng Lêô nói, và nhấn mạnh, "Lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của anh chị em sẽ giúp lan truyền Phúc Âm, cung cấp các chương trình mục vụ và giáo lý, giúp xây dựng các nhà thờ mới và chăm sóc sức khỏe cũng như nhu cầu giáo dục của anh chị em chúng ta trong các vùng truyền giáo."
"Lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của anh chị em sẽ giúp lan truyền Phúc Âm, cung cấp các chương trình mục vụ và giáo lý, giúp xây dựng các nhà thờ mới và chăm sóc sức khỏe cũng như nhu cầu giáo dục của anh chị em chúng ta trong các vùng truyền giáo."
"Ngày 19 tháng 10 này, khi chúng ta cùng nhau suy ngẫm về ơn gọi rửa tội của mình là 'những nhà truyền giáo của hy vọng giữa các dân tộc'," Đức Giáo Hoàng khuyến khích, "chúng ta hãy một lần nữa dấn thân vào nhiệm vụ cao quí và vui tươi là mang Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta đến tận cùng trái đất."
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng lời cảm ơn các giáo xứ trên toàn thế giới vì tất cả những gì họ đã làm để giúp ngài hỗ trợ các nhà truyền giáo trên khắp thế giới và ban Phép Lành Tòa Thánh.

Coi Video
Trong một thông điệp video, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo hãy tham gia Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới, ngày 19 tháng 10, đồng thời nhắc lại lòng quảng đại của ngày hôm đó đã cụ thể hóa và duy trì các công việc tốt đẹp của các nhà truyền giáo trên toàn thế giới, như ngài đã tận mắt chứng kiến khi phục vụ tại Peru.
(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)
"Tôi kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tham gia Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới", Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh trong thông điệp video nhân dịp Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới.
Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới được tổ chức hàng năm vào Chúa Nhật áp chót của tháng Mười. Năm nay, sự kiện sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 10 với chủ đề "Những nhà truyền giáo mang hy vọng đến cho các dân tộc".
Video mở đầu bằng việc Đức Thánh Cha nhắc lại rằng vào Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới hàng năm, toàn thể Giáo hội cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt cho các nhà truyền giáo và cho công việc tông đồ của họ được thành quả.
"Khi tôi phục vụ với tư cách là một linh mục truyền giáo và Giám mục ở Peru," Đức Giáo Hoàng Lêô minh họa, "tôi đã tận mắt chứng kiến đức tin, lời cầu nguyện và lòng quảng đại được thể hiện trong Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới có thể biến đổi toàn bộ cộng đồng như thế nào."
Vì vậy, ngài đã giao cho tất cả các giáo xứ Công Giáo một số hoạt động cụ thể.
"Tôi kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tham gia Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới," Đức Giáo Hoàng Lêô nói, và nhấn mạnh, "Lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của anh chị em sẽ giúp lan truyền Phúc Âm, cung cấp các chương trình mục vụ và giáo lý, giúp xây dựng các nhà thờ mới và chăm sóc sức khỏe cũng như nhu cầu giáo dục của anh chị em chúng ta trong các vùng truyền giáo."
"Lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của anh chị em sẽ giúp lan truyền Phúc Âm, cung cấp các chương trình mục vụ và giáo lý, giúp xây dựng các nhà thờ mới và chăm sóc sức khỏe cũng như nhu cầu giáo dục của anh chị em chúng ta trong các vùng truyền giáo."
"Ngày 19 tháng 10 này, khi chúng ta cùng nhau suy ngẫm về ơn gọi rửa tội của mình là 'những nhà truyền giáo của hy vọng giữa các dân tộc'," Đức Giáo Hoàng khuyến khích, "chúng ta hãy một lần nữa dấn thân vào nhiệm vụ cao quí và vui tươi là mang Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta đến tận cùng trái đất."
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng lời cảm ơn các giáo xứ trên toàn thế giới vì tất cả những gì họ đã làm để giúp ngài hỗ trợ các nhà truyền giáo trên khắp thế giới và ban Phép Lành Tòa Thánh.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hình ảnh Hội Bảo Trợ Ơn Gọi DCCT vùng Dallas-Ft Worth mừng lễ Thánh Gêrađô
Trần Mạnh Trác
15:36 13/10/2025
Xem hình ảnh
Thứ Bảy ngày 11 tháng 10 vừa qua, khoảng 240+ hội viên hội Bảo Trợ Ơn Gọi DCCT đã tề tựu tại Tu Viện Thánh Gioan Neumann, 3912 S Ledbetter Dr, Dallas TX, để tham dự Đại Hội Bảo Trợ Ơn Gọi DCCT Hải Ngoại năm 2025.
Đây là buổi đại hội thứ 1 của 3 buổi đại hội liên tiếp nhau, bắt đầu là ở Dallas như đã nói trên, kế tiếp là ở Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 3417 W. Little York Rd, Houston vào ngày 12 tháng 10 và sẽ kết thúc ở Tu viện Mẹ Hằng Cứu Giúp, 2458 Atlantic Ave, Long Beach, Nam Cali vào ngày 18 tới đây.
Sau buổi họp đại hội lúc 10g là Thánh Lễ kính thánh Giêrado, vị quan thầy của hội, trong thánh lễ có nghi thức làm phép bánh Thánh Giêrado, nổi tiếng là có phép màu giúp cho các bà mẹ đang mang thai được mẹ tròn con vuông, nhưng nhiều người khác có những chứng bệnh hiểm nghèo cũng đã nhận được đặc ân này qua việc dùng bánh thánh của Thánh Nhân.
Và sau Thánh Lễ là một cuộc liên hoan mừng lễ diễn ra tại sân sau của tu viện. Bữa tiệc được các chi hội vùng Dallas-Ft Worth khoản đãi qua các món ăn thơm ngon. Các tiết mục trình diễn qua các tu sinh của nhà dòng, qua các em thiếu nhi và thanh thiếu niên từ các giáo xứ quanh vùng và thêm vào là nhiều đóng góp khác của các nam nữ nghệ sĩ trong vùng.
Đặc biệt năm nay, ngòai cha Bề trên Giám Phụ Tỉnh Đa Minh Nguyễn Phi Long, còn có Cha Joseph Ivel Mendanha, C.Ss.R., General Consultor (Tổng Cố vấn DCCT) từ Roma sang tham dự.
Cũng cần nói thêm là chi hội bào trợ DCCT ở Arlington vừa có thêm một phó tế vĩnh viễn, mới chịu chức vài tuần trước, là thày Nguyễn Thắng. Thày "sáu" Thắng đã giúp lễ và cùng phu nhân là “cô bảy” Ngân duyên dáng, tham dự trọn buổi liên hoan sau đó.
Thứ Bảy ngày 11 tháng 10 vừa qua, khoảng 240+ hội viên hội Bảo Trợ Ơn Gọi DCCT đã tề tựu tại Tu Viện Thánh Gioan Neumann, 3912 S Ledbetter Dr, Dallas TX, để tham dự Đại Hội Bảo Trợ Ơn Gọi DCCT Hải Ngoại năm 2025.
Đây là buổi đại hội thứ 1 của 3 buổi đại hội liên tiếp nhau, bắt đầu là ở Dallas như đã nói trên, kế tiếp là ở Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 3417 W. Little York Rd, Houston vào ngày 12 tháng 10 và sẽ kết thúc ở Tu viện Mẹ Hằng Cứu Giúp, 2458 Atlantic Ave, Long Beach, Nam Cali vào ngày 18 tới đây.
Sau buổi họp đại hội lúc 10g là Thánh Lễ kính thánh Giêrado, vị quan thầy của hội, trong thánh lễ có nghi thức làm phép bánh Thánh Giêrado, nổi tiếng là có phép màu giúp cho các bà mẹ đang mang thai được mẹ tròn con vuông, nhưng nhiều người khác có những chứng bệnh hiểm nghèo cũng đã nhận được đặc ân này qua việc dùng bánh thánh của Thánh Nhân.
Và sau Thánh Lễ là một cuộc liên hoan mừng lễ diễn ra tại sân sau của tu viện. Bữa tiệc được các chi hội vùng Dallas-Ft Worth khoản đãi qua các món ăn thơm ngon. Các tiết mục trình diễn qua các tu sinh của nhà dòng, qua các em thiếu nhi và thanh thiếu niên từ các giáo xứ quanh vùng và thêm vào là nhiều đóng góp khác của các nam nữ nghệ sĩ trong vùng.
Đặc biệt năm nay, ngòai cha Bề trên Giám Phụ Tỉnh Đa Minh Nguyễn Phi Long, còn có Cha Joseph Ivel Mendanha, C.Ss.R., General Consultor (Tổng Cố vấn DCCT) từ Roma sang tham dự.
Cũng cần nói thêm là chi hội bào trợ DCCT ở Arlington vừa có thêm một phó tế vĩnh viễn, mới chịu chức vài tuần trước, là thày Nguyễn Thắng. Thày "sáu" Thắng đã giúp lễ và cùng phu nhân là “cô bảy” Ngân duyên dáng, tham dự trọn buổi liên hoan sau đó.
Đọc Thư Chung năm 2025 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
21:55 13/10/2025
ĐỌC THƯ CHUNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM NĂM 2025
Dưới đây là bản phân tích và gợi ý về Thư Chung 2025 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Và cũng chỉ là nỗ lực suy tư cá nhân. Có thể còn thiếu, có thể có cái nhìn hoàn toàn chủ quan, có thể chưa làm nhiều người "vừa bụng". Nhưng xin được giới thiệu với một thiện chí duy nhất mà thôi: Rất mong bức Thư lần này thực sự có sức vang trong dân Chúa.
I. TÓM TẮT NỘI DUNG:
Thư Chung Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2025 được làm tại Tòa Giám mục Đà Lạt và được công bố ngày 10.10.2025. Ngoài chủ đề chính là Loan báo Tin Mừng, tuy không nhấn mạnh, nhưng như bước đệm, Thư Chung nhắc đến một số khía cạnh bổ sung. Chúng ta hãy cùng đọc và quan sát.
Phần 1:
Lời chào và hiệp thông với đồng bào bị bão lũ: "Chúng tôi nhớ đến những đồng bào Miền Trung và Miền Bắc đã phải chịu thiệt hại nặng nề do các cơn bão vừa qua… Qua Caritas Việt Nam và Caritas các giáo phận, chúng tôi tiếp tục hỗ trợ anh chị em phần nào trong lúc khó khăn".
Nội dung:
• Không thuộc "loan báo Tin Mừng" trực tiếp, mà là mục vụ: bác ái, hiệp thông, xã hội.
• Cho thấy Hội Thánh không chỉ giảng Tin Mừng bằng lời nói, mà bằng hành động liên đới, tình thương cụ thể.
• Đây là điểm cộng lớn, vì nó mở đầu Thư Chung bằng dấu chỉ của lòng thương xót, một loại "loan báo Tin Mừng bằng việc làm".
Phần 2:
Tóm tắt tiến trình Hiệp hành 2022-2025: "Trong ba năm qua, chúng ta đã học hỏi và khai triển chủ đề 'Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ'…".
Nội dung:
• Đây là mối nối giữa mục vụ và tổ chức, đặt truyền giáo trong bối cảnh hiệp hành, nghĩa là không làm đơn độc (chỉ hiệp hành hoặc chỉ truyền giáo).
• Dạy cách sống: lắng nghe, tham gia, phân định cùng nhau.
• Liên kết tốt giữa chương trình Toà Thánh (hiệp hành) và hoàn cảnh Việt Nam (truyền giáo).
Dù vậy, chưa có ví dụ thực tế từ các giáo phận cho người đọc dễ hiểu.
Phần 3:
Kế hoạch mục vụ ba năm 2025-2028. Ba chủ đề:
2025-2026: Mỗi Kitô hữu là môn đệ thừa sai.
2026-2027: Mỗi cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn thừa sai.
2027-2028: Hội Thánh tại Việt Nam lên đường theo lệnh truyền.
Nội dung:
• Đây là hoạch định chiến lược mục vụ, rất rõ ràng, có tính "dài hơi".
• Có tầm nhìn đến mốc 500 năm Tin Mừng tại Việt Nam (2033).
Dẫu sao, cần bổ sung hướng dẫn thực hành cụ thể cho từng cấp (giáo xứ, đoàn thể, gia đình...).
Phần 4:
Trọng tâm 2025-2026: Mỗi Kitô hữu là môn đệ thừa sai: "Anh em là ánh sáng thế gian…" (Mt 5, 14).
Nội dung:
• Đây là linh đạo nền tảng của năm mục vụ 2025-2026.
• Lồng ghép hình ảnh ánh sáng, dễ hiểu, gần gũi và mang tính thiêng liêng cao.
• Nhấn mạnh "đời sống chứng nhân", không tách việc loan báo ra khỏi lối sống đạo đức, liêm chính, yêu thương.
Phần 5:
Làm thế nào để truyền giáo? "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…" (Mt 5, 16).
Nội dung:
• Chuyển trọng tâm từ thần học sang đạo đức hành động: chứng nhân xã hội.
• Nhấn mạnh việc thánh hóa môi trường sống, nghề nghiệp, gia đình, không chỉ là làm việc đạo.
• Đề cao vai trò giáo dân: "Người làm việc trong môi trường mà chỉ nhờ họ, Hội Thánh mới có thể là muối đất".
• Khơi dậy ý thức trách nhiệm cá nhân.
Tuy nhiên, muốn người giáo dân tham gia loan báo Tin Mừng, cần quan tâm những khó khăn thực tế mà họ sẽ phải đối mặt: thách đố văn hóa, niềm tin của giới trẻ hôm nay, kinh tế thị trường cuốn con người lao vao kiếm tiền...
Phần 6:
Nguồn sức sống của truyền giáo: Chúa Kitô: "Mặt trăng không có ánh sáng tự thân… nếu có ánh sáng là do đón nhận từ Chúa Kitô".
Nội dung:
• Chiều sâu thần học và chiêm niệm.
• Giúp người tín hữu hiểu rằng loan báo không phải là "làm cho đông người", mà là phản chiếu Chúa Kitô.
• Đưa chiều kích nội tâm - Thánh Thể - Lời Chúa - kết hợp với Chúa Kitô (đây là điểm cộng lớn nhất).
• Nhấn mạnh Chúa Kitô, Ánh Sáng nguồn: là linh đạo nền cho mọi hoạt động.
Phần 7:
Các việc làm cụ thể. 7 điều cụ thể: cầu nguyện, học hỏi, đọc Kinh Thánh, sống Lời Chúa, nói về Chúa, sử dụng mạng xã hội tốt, hiện diện với tinh thần yêu thương.
Nội dung:
• Phần này là phần thực hành chi tiết nhất của Thư Chung.
• Đưa môi trường kỹ thuật số vào trong đời sống chứng nhân (đây là điểm mới).
• Đây là dấu hiệu của Hội Thánh hội nhập thời đại số.
• Rất phù hợp với giới trẻ, người xa quê, người lao động nơi đô thị.
Tuy nhiên, không phải ai, nơi nào cũng làm được. Nên có một Ban hay Nhóm có khả năng huấn luyện kỹ năng này cho bất cứ ai, hay nơi nào cần.
Phần 8:
Vai trò của linh mục, tu sĩ: "Các linh mục và tu sĩ hãy đồng hành… học hỏi và áp dụng phương pháp 'Đối thoại trong Thánh Thần'".
Nội dung:
• Đây là phần mục vụ hiệp hành - đồng hành bên cạnh việc truyền giáo.
• Lưu ý đến tinh thần tôn trọng - lắng nghe - cộng tác với giáo dân.
Nhưng cũng nên đề cập rõ cơ chế huấn luyện hoặc mô hình sinh hoạt cụ thể.
Phần 9:
Lời nhắc của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: "Có lẽ không thiếu những Kitô hữu nửa mùa…".
Nội dung:
• Phần này có tính ngôn sứ và cảnh tỉnh.
• Là tiếng chuông mời gọi canh tân đời sống thiêng liêng, tránh hình thức.
• Đây là chìa khóa mục vụ nội tâm để chuyển từ đạo "giữ" sang đạo "sống".
Phần 10:
Kết luận: Cầu nguyện cùng Đức Maria: "Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Nữ vương Mân Côi…".
Nội dung:
• Mang tinh thần đức tin, bình an, và khiêm tốn.
• Kết thúc bằng lời cầu nguyện, tạo cảm xúc hiệp nhất và tín thác.
• Phần này gợi lại linh đạo "ở với Mẹ để học yêu Chúa và phục vụ anh em".
Tổng kết:
Thư Chung 2025 có trung tâm là truyền giáo, nhưng đồng thời là:
• Tài liệu định hướng mục vụ - tổ chức (kế hoạch 3 năm).
• Tài liệu linh đạo và huấn giáo (nên thánh - gắn bó với Chúa Kitô).
• Tài liệu truyền thông và xã hội (kỹ thuật số, môi trường, nhân chứng).
• Tài liệu hiệp hành và đồng hành (linh mục, tu sĩ, giáo dân cùng nhau).
• Tài liệu giáo dục lương tâm xã hội (phê bình "Kitô hữu nửa mùa").
II. ĐIỂM MẠNH VÀ ĐIỂM HẠN CHẾ:
Dù trong phần tóm nội dung từng phần của Thư Chung, chúng ta đã nói khái quát những điểm mà Thư Chung đề cập và cũng cho thấy một số ít nội dung còn thiếu. Tuy nhiên, sau khi đọc toàn bộ bức thư, chúng ta cần có một đánh giá tổng quan để giúp phát huy những điều có lợi và trong khi triển khai, nếu cần, tự khắc phục những gì còn chưa đầy đủ.
A. ĐIỂM MẠNH CỦA THƯ CHUNG 2025.
1. Tập trung rõ rệt vào truyền giáo và sứ vụ.
Không chỉ nói lý thuyết, mà đặt truyền giáo là trọng tâm của đời sống Kitô hữu, từ cá nhân đến cộng đoàn.
2. Lý luận kết hợp Kinh Thánh - truyền thống - thực hành.
Việc dẫn lời Chúa (Mt 5, 14-16), hình ảnh mặt trăng và ánh sáng, đồng thời kết hợp lời các Giáo hoàng, làm cho lý luận vừa có chiều sâu thần học, vừa dễ hiểu để áp dụng.
3. Lời mời thực hành cụ thể và đa dạng.
Không để giáo dân "chờ lệnh", thư đưa ra rất nhiều việc làm cụ thể: cầu nguyện, học hỏi, chứng từ, sự hiện diện trên mạng, đối thoại - các lựa chọn này phù hợp với nhiều bối cảnh sống khác nhau.
4. Đề cao đồng hành và lắng nghe.
Mời gọi các linh mục, tu sĩ không làm việc "từ trên xuống" mà "đồng hành, lắng nghe, hướng dẫn". Điều này phù hợp với tinh thần hiệp hành mà chủ đề của Thượng Hội đồng nhấn mạnh.
5. Khẳng định tính phổ quát của sứ vụ truyền giáo.
Thư nhấn mạnh mỗi người đã chịu Phép Rửa đều có quyền tham dự sứ vụ, không dành riêng cho giới "chuyên trách". Điều này mở rộng trách nhiệm và cơ hội cho mọi tín hữu.
B. ĐIỂM HẠN CHẾ.
1. Ngôn ngữ đôi khi vẫn nặng về lý thuyết, dễ xa rời thực tế đời thường.
Với nhiều người giáo dân, những khái niệm như "môn đệ thừa sai", "hiệp hành", "Đối thoại trong Thánh Thần" có thể nghe trừu tượng hoặc khó hiểu, nếu không được giải thích cặn kẽ và cụ thể (concrete) hóa thành hoạt động thực tiễn dễ làm.
2. Khó khăn trong việc thực hiện đồng đều trên khắp các vùng miền.
Ở những vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, việc tiếp cận tài liệu, đào tạo, hỗ trợ mục vụ có thể bị hạn chế. Thư chưa nêu kế hoạch cụ thể để vượt nút thắt này.
3. Rủi ro "áp đặt hoạt động" thay vì kêu gọi tự do, kêu gọi dấn thân theo cách tự ý.
Nếu ban hành như một loạt "phải làm" mà thiếu động lực nội tại, sẽ dễ biến thành những chương trình áp lực, khiến nhiều người cảm thấy nặng nề hoặc miễn cưỡng. Còn nếu không thúc đẩy toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam phải thi hành, thì sẽ là tình trạng "đánh trống bỏ dùi", hoặc chỉ đưa ra cho có, y như mọi kỳ Đại hội mà không có gì mới mẽ, cũng giống như tình trạng "nửa mùa" mà Thư có đề cập.
4. Thiếu chiến lược cụ thể về truyền thông và công nghệ cho từng nhóm tuổi, tầng lớp.
Thư có nhắc đến "môi trường kỹ thuật số" nhưng chưa triển khai chi tiết cách làm sao cho phù hợp với người trẻ, người cao tuổi, người không rành kỹ thuật, người không dùng mạng internet.
5. Chưa rõ cách đo lường hiệu quả hay theo dõi tiến độ.
Thư chung đề ra các việc làm, nhưng không chỉ ra hệ thống giám sát, đánh giá, điều chỉnh... Điều này dễ khiến chương trình bị trôi hoặc không được đánh giá nếu có ai đó thực sự nhiệt tâm lao vào thực hiện truyền giáo đúng như tinh thần của thư.
III. BÀI HỌC VÀ LỢI ÍCH CHO THỜI GIAN TỚI.
1. Tính liên tục và có lộ trình.
Việc phân chia 3 năm với chủ đề rõ ràng giúp Giáo Hội không "nhảy cóc" mà có tiến trình phát triển. Tín hữu hiểu được rằng truyền giáo là hành trình, không phải một hoạt động đơn lẻ.
2. Thúc đẩy sự tự nhận thức của mỗi tín hữu.
Thư mời mỗi người tự hỏi: "Tôi có phải tín hữu nửa mùa?", "Tôi có dấn thân không?". Điều này tạo áp lực lành mạnh để tự cải thiện đời sống đức tin.
3. Thúc đẩy đồng hành và đào tạo.
Việc nhấn mạnh đến đồng hành mục vụ và đối thoại là đáng quý. Nó là cơ sở giúp tránh việc giáo dân bị bỏ rơi hoặc hiểu lầm tín lý. Nhờ đồng hành, giáo dân chắc chắn sẽ lớn lên hơn nữa trong đức tin.
4. Mở ra không gian sứ vụ rộng hơn.
Khi mỗi tín hữu được mời gọi tham gia truyền giáo, nghĩa là Hội Thánh có thể lan tỏa ánh sáng Tin Mừng vào mọi ngõ ngách của xã hội như: trường học, nơi làm việc, mạng xã hội, vùng dân tộc... Đây là cách để Hội Thánh "chạm mạnh" vào đời sống thực của con người.
5. Cải thiện hình ảnh Hội Thánh trong xã hội.
Nếu chương trình được thực thi thiết thực, người ngoài sẽ thấy Hội Thánh không chỉ là nơi thờ phượng mà còn là lực lượng tích cực trong công ích, trong truyền thông, trong đối thoại xã hội... Dần dà có thể khiến họ cảm phục hơn.
6. Tạo động lực mới cho việc truyền giáo vùng khó khăn, các dân tộc thiểu số.
Khi mỗi thành phần được mời gọi làm chứng, thì vùng xa, nơi dân ít biết tới Tin Mừng, cũng có khả năng được Hội Thánh "vươn tới" bằng những sứ vụ nhỏ, linh hoạt, dựa vào người bản địa.
IV. PHƯƠNG PHÁP TỐI ƯU ĐỂ MỌI THÀNH PHẦN dân Chúa CÓ THỂ ÁP DỤNG VÀ SỐNG THƯ CHUNG MỘT CÁCH THIẾT THỰC.
Để thư không chỉ là lời mời nằm trên giấy, mà biến thành hành động cụ thể trong mọi vùng miền, mọi lớp người (giáo dân, tu sĩ, linh mục, người không tin), chúng ta triển khai phương pháp "Ba bậc"; "Ba chiều"; "Ba cách" như sau:
A. Ba bậc (theo mức độ dễ - trung - cao).
Tạo ba mức ứng dụng để mỗi người có thể chọn mức vừa với khả năng của mình:
1. Bậc khởi đầu (nhẹ nhàng, dễ làm):
* Mỗi ngày đọc một đoạn Kinh Thánh ngắn và suy gẫm;
* Mỗi tuần làm một lời cầu nguyện đặc biệt cho truyền giáo;
* Khi nói chuyện với bạn bè, chia sẻ một "câu nói tốt" về Chúa.
2. Bậc trung (có tổ chức, có kế hoạch nhỏ).
* Tham gia nhóm chia sẻ Lời Chúa, nhóm đọc Kinh Thánh theo chủ đề;
* Làm một việc thiện định kỳ (viếng người già, giúp trẻ em khó khăn...).
* Viết một bài nhỏ hay đăng một hình ảnh mang thông điệp Tin Mừng lên mạng xã hội trong những kênh cá nhân (Facebook, Tiktok...)
3. Bậc cao (dấn thân sâu, sáng tạo, sứ vụ cụ thể).
* Phát động chương trình truyền giáo nhỏ trong giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn...
* Hỗ trợ vùng xa, vùng dân tộc, vùng biên giới bằng hoạt động cụ thể (giáo lý, y tế, giáo dục, sinh kế...).
* (Nếu có thể), tổ chức hội thảo "đối thoại đức tin" trong trường học, công sở, khu dân cư...
B. Ba chiều (cá nhân, gia đình, xã hội).
Chiều cá nhân: Tự đào sâu đời sống nội tâm, rèn luyện nhân đức, cầu nguyện, kết hợp với Chúa, để chính mình được biến đổi.
Chiều gia đình: Trong gia đình, xây dựng văn hóa đức tin - lời cầu nguyện chung, chia sẻ Lời Chúa, sống tinh thần yêu thương, phục vụ nhau, không được xem thường các giờ cầu nguyện chung trong chính căn nhà của mình...
Chiều xã hội: Hiện diện trong nơi làm việc, cộng đồng, mạng xã hội, hoạt động xã hội, từ thiện, đối thoại với người ngoài đạo để làm chứng bằng hành vi, lời nói, nhân cách.
C. Ba cách (học - làm - lan tỏa).
1. Học.
* Tổ chức các khóa học ngắn, dễ tiếp cận (trực tiếp và trực tuyến) về chủ đề truyền giáo, sứ vụ, cách đối thoại đức tin;
* Phát triển tài liệu đơn giản (tờ hướng dẫn, infographic, video ngắn) để mọi người, kể cả người ít học, có thể hiểu.
2. Làm.
* Khuyến khích mỗi cá nhân / nhóm nhỏ thực hiện ít nhất một hành động trong mỗi giai đoạn (theo ba bậc);
* Linh hoạt, sáng tạo: Không bắt buộc một "công thức" cố định mà để cho cộng đoàn, giáo xứ, giáo phận, cá nhân có thể chọn cách làm phù hợp địa phương.
3. Lan tỏa.
* Mỗi người chia sẻ kinh nghiệm, chứng từ nhỏ: Người này kể với người kia, đăng lên mạng xã hội, làm video nhỏ, tờ rơi đơn giản...
* Hình thành "các điểm lan tỏa": Nhóm truyền giáo nhỏ trong khu xóm, lớp học, hội đoàn địa phương...
* Hợp tác liên giáo xứ, liên giáo phận để nhân rộng các mô hình hay.
D. Các biện pháp hỗ trợ để bảo đảm thực thi hiệu quả.
Đào tạo và hướng dẫn rõ ràng: Ban mục vụ truyền giáo, các linh mục, tu sĩ cần được tập huấn cách làm cụ thể, cách đồng hành, cách giải thích cho giáo dân.
Tài liệu đa dạng và dễ hiểu: Không chỉ sách giáo lý chuyên sâu, mà tờ gấp, poster, video ngắn, infographic, podcast..., để ai cũng tiếp cận được.
Hỗ trợ kỹ thuật số: Xây dựng nền tảng trực tuyến (web, app) để truyền tải bài học, bài chia sẻ, đề xuất hoạt động, theo dõi tiến độ.
Theo dõi + đánh giá + điều chỉnh: Mỗi giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn nên có bảng kế hoạch và bảng kiểm tra định kỳ (theo ba bậc) để xem ai đã làm gì, gặp khó khăn gì, có thể giúp nhau.
Động viên và chia sẻ chứng từ: Hàng năm chọn những cộng đoàn, cá nhân tiêu biểu để chia sẻ, vinh danh, khích lệ người khác dấn thân.
Tạo cầu nối xã hội: Mời người ngoài đạo, các nhà lãnh đạo cộng đồng, chính quyền địa phương (nếu có thể) tham gia các chương trình văn hóa, từ thiện, đối thoại... qua đó để họ thấy hình ảnh Hội Thánh sống động, tích cực, đáng kính.
V. LÀM SAO ĐỂ THƯ CHUNG GÂY ĐƯỢC CẢM TÌNH VÀ SỰ TÔN TRỌNG TỪ BÊN NGOÀI (người không tin, lãnh đạo xã hội, chính quyền...)?
1. Sống đức tin chân thành và sáng rõ qua hành động cụ thể.
Khi người ngoài thấy giáo dân không chỉ "đến nhà thờ", mà hoạt động trong cộng đồng, giúp người nghèo, giữ đạo đức trong công việc, hỗ trợ người khó khăn, tham gia bảo vệ môi trường…, họ sẽ nhìn thấy Tin Mừng tự nó có sức thu hút.
2. Mở cửa đối thoại - bước ra ngoài vách nhà thờ.
(Nếu có thể), mời người không tín hữu, các nhà lãnh đạo, chính quyền tham dự chương trình văn hóa, hội thảo về đạo đức công dân, về nhân phẩm, về tình người..., chứ không chỉ là sự kiện nội bộ tôn giáo. Qua đó, họ cùng bàn về những vấn đề xã hội với người Công Giáo như bình đẳng, công lý, đoàn kết…
3. Truyền thông thông minh, minh bạch.
Sử dụng mạng xã hội, báo chí, video ngắn để lan tỏa những việc làm đẹp, câu chuyện cảm động, chứng từ sống. Khi Hội Thánh công khai minh bạch các hoạt động bác ái, từ thiện, người ta sẽ cảm phục hơn.
4. Thực hiện sứ vụ truyền giáo vùng dân tộc, vùng sâu, vùng biên giới.
Những nơi khó khăn thường ít người để ý - nếu Giáo Hội dấn thân nơi đó, giúp dân tộc thiểu số về giáo dục, y tế, sinh kế..., qua đó mang Tin Mừng trong hành động yêu thương, thì cả xã hội sẽ nhìn nhận Giáo Hội như lực lượng mang lại lợi ích thiết thực.
5. Hợp tác với tổ chức xã hội, các nhóm phi chính phủ.
(Nếu có thể) Hội Thánh có thể hợp tác trong các lĩnh vực như giáo dục, từ thiện, môi trường, phát triển nông thôn với các tổ chức xã hội, các cấp chính quyền..., để cho thấy đức tin không tách rời trách nhiệm công ích.
6. Tôn trọng và lắng nghe người khác.
Trong mọi tiếp xúc với người ngoài, Hội Thánh (linh mục, giáo dân) nên thể hiện lắng nghe, khiêm nhường, tôn trọng quan điểm của người khác, không áp đặt, không đối đầu để từ đó xây dựng quan hệ tin cậy.
Nếu được áp dụng đúng phương pháp "Ba bậc", "Ba chiều", "Ba cách" cùng hỗ trợ mục vụ tốt, Thư Chung 2025 có thể trở thành khởi điểm cho một thời kỳ mới trong đời sống đức tin của người Công Giáo Việt Nam, nơi mỗi người không chỉ "giữ đạo" mà là môn đệ dấn thân, lan tỏa ánh sáng Tin Mừng đến khắp nơi, kể cả vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, những người chưa biết Chúa...
VI. ĐỂ TRUYỀN GIÁO, KHÔNG THỂ KHÔNG CẬY NHỜ CHÍNH CHÚA.
Lạy Chúa Thánh Thần là Hơi Thở của Hội Thánh, xin thổi bùng trong chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa và say mê loan báo Tin Mừng.
Xin dạy chúng con biết ra đi không vì kết quả, nhưng vì tình yêu, yêu Chúa, yêu Hội Thánh, yêu linh hồn anh chị em.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn đủ để lắng nghe, hiền hòa đủ để đối thoại, và bền bỉ đủ để cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh.
Xin cho mọi thành phần dân Chúa, từ các mục tử đến từng người tín hữu bé nhỏ, biết biến cuộc sống hằng ngày thành sứ vụ: bằng lời nói chân thành, việc làm bác ái, và thái độ chan chứa niềm tin.
Xin giúp chúng con đừng bao giờ quên rằng, người truyền giáo đích thực không phải là người đi nhiều nơi, mà là người ở lại thật sâu trong tình yêu Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian, Chúng con tạ ơn Chúa vì hạt giống Tin Mừng đã được gieo trên quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ qua.
Từ giọt máu các vị tử đạo, từ lời kinh của bao người cha người mẹ đơn sơ, từ dòng nước mắt âm thầm của biết bao linh mục, tu sĩ, và giáo dân trung thành, đức tin đã bén rễ, đâm chồi, và lớn lên trong lòng dân tộc chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Lời hằng sống, xin dạy chúng con biết kết hợp mật thiết với Lời Chúa, biết trung thành với giáo huấn của Hội Thánh, để khi loan báo Tin Mừng, chúng con không nói về mình, nhưng nói về Chúa, Đấng đã sai chúng con đi.
Và khi chúng con mệt mỏi trên hành trình, xin cho chúng con nhớ rằng mọi hạt giống được gieo trong âm thầm đều sẽ nảy mầm trong thời giờ của Chúa.
Xin cho chúng con biết phó thác mọi kết quả trong tay Chúa, và chỉ khát khao duy nhất là Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được nên trọn trong Hội Thánh Việt Nam thân yêu.
Lạy Chúa, xin hãy sai chúng con đi, nhưng trước hết, xin hãy ở lại trong chúng con. Amen.
Dưới đây là bản phân tích và gợi ý về Thư Chung 2025 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Và cũng chỉ là nỗ lực suy tư cá nhân. Có thể còn thiếu, có thể có cái nhìn hoàn toàn chủ quan, có thể chưa làm nhiều người "vừa bụng". Nhưng xin được giới thiệu với một thiện chí duy nhất mà thôi: Rất mong bức Thư lần này thực sự có sức vang trong dân Chúa.
I. TÓM TẮT NỘI DUNG:
Thư Chung Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2025 được làm tại Tòa Giám mục Đà Lạt và được công bố ngày 10.10.2025. Ngoài chủ đề chính là Loan báo Tin Mừng, tuy không nhấn mạnh, nhưng như bước đệm, Thư Chung nhắc đến một số khía cạnh bổ sung. Chúng ta hãy cùng đọc và quan sát.
Phần 1:
Lời chào và hiệp thông với đồng bào bị bão lũ: "Chúng tôi nhớ đến những đồng bào Miền Trung và Miền Bắc đã phải chịu thiệt hại nặng nề do các cơn bão vừa qua… Qua Caritas Việt Nam và Caritas các giáo phận, chúng tôi tiếp tục hỗ trợ anh chị em phần nào trong lúc khó khăn".
Nội dung:
• Không thuộc "loan báo Tin Mừng" trực tiếp, mà là mục vụ: bác ái, hiệp thông, xã hội.
• Cho thấy Hội Thánh không chỉ giảng Tin Mừng bằng lời nói, mà bằng hành động liên đới, tình thương cụ thể.
• Đây là điểm cộng lớn, vì nó mở đầu Thư Chung bằng dấu chỉ của lòng thương xót, một loại "loan báo Tin Mừng bằng việc làm".
Phần 2:
Tóm tắt tiến trình Hiệp hành 2022-2025: "Trong ba năm qua, chúng ta đã học hỏi và khai triển chủ đề 'Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ'…".
Nội dung:
• Đây là mối nối giữa mục vụ và tổ chức, đặt truyền giáo trong bối cảnh hiệp hành, nghĩa là không làm đơn độc (chỉ hiệp hành hoặc chỉ truyền giáo).
• Dạy cách sống: lắng nghe, tham gia, phân định cùng nhau.
• Liên kết tốt giữa chương trình Toà Thánh (hiệp hành) và hoàn cảnh Việt Nam (truyền giáo).
Dù vậy, chưa có ví dụ thực tế từ các giáo phận cho người đọc dễ hiểu.
Phần 3:
Kế hoạch mục vụ ba năm 2025-2028. Ba chủ đề:
2025-2026: Mỗi Kitô hữu là môn đệ thừa sai.
2026-2027: Mỗi cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn thừa sai.
2027-2028: Hội Thánh tại Việt Nam lên đường theo lệnh truyền.
Nội dung:
• Đây là hoạch định chiến lược mục vụ, rất rõ ràng, có tính "dài hơi".
• Có tầm nhìn đến mốc 500 năm Tin Mừng tại Việt Nam (2033).
Dẫu sao, cần bổ sung hướng dẫn thực hành cụ thể cho từng cấp (giáo xứ, đoàn thể, gia đình...).
Phần 4:
Trọng tâm 2025-2026: Mỗi Kitô hữu là môn đệ thừa sai: "Anh em là ánh sáng thế gian…" (Mt 5, 14).
Nội dung:
• Đây là linh đạo nền tảng của năm mục vụ 2025-2026.
• Lồng ghép hình ảnh ánh sáng, dễ hiểu, gần gũi và mang tính thiêng liêng cao.
• Nhấn mạnh "đời sống chứng nhân", không tách việc loan báo ra khỏi lối sống đạo đức, liêm chính, yêu thương.
Phần 5:
Làm thế nào để truyền giáo? "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…" (Mt 5, 16).
Nội dung:
• Chuyển trọng tâm từ thần học sang đạo đức hành động: chứng nhân xã hội.
• Nhấn mạnh việc thánh hóa môi trường sống, nghề nghiệp, gia đình, không chỉ là làm việc đạo.
• Đề cao vai trò giáo dân: "Người làm việc trong môi trường mà chỉ nhờ họ, Hội Thánh mới có thể là muối đất".
• Khơi dậy ý thức trách nhiệm cá nhân.
Tuy nhiên, muốn người giáo dân tham gia loan báo Tin Mừng, cần quan tâm những khó khăn thực tế mà họ sẽ phải đối mặt: thách đố văn hóa, niềm tin của giới trẻ hôm nay, kinh tế thị trường cuốn con người lao vao kiếm tiền...
Phần 6:
Nguồn sức sống của truyền giáo: Chúa Kitô: "Mặt trăng không có ánh sáng tự thân… nếu có ánh sáng là do đón nhận từ Chúa Kitô".
Nội dung:
• Chiều sâu thần học và chiêm niệm.
• Giúp người tín hữu hiểu rằng loan báo không phải là "làm cho đông người", mà là phản chiếu Chúa Kitô.
• Đưa chiều kích nội tâm - Thánh Thể - Lời Chúa - kết hợp với Chúa Kitô (đây là điểm cộng lớn nhất).
• Nhấn mạnh Chúa Kitô, Ánh Sáng nguồn: là linh đạo nền cho mọi hoạt động.
Phần 7:
Các việc làm cụ thể. 7 điều cụ thể: cầu nguyện, học hỏi, đọc Kinh Thánh, sống Lời Chúa, nói về Chúa, sử dụng mạng xã hội tốt, hiện diện với tinh thần yêu thương.
Nội dung:
• Phần này là phần thực hành chi tiết nhất của Thư Chung.
• Đưa môi trường kỹ thuật số vào trong đời sống chứng nhân (đây là điểm mới).
• Đây là dấu hiệu của Hội Thánh hội nhập thời đại số.
• Rất phù hợp với giới trẻ, người xa quê, người lao động nơi đô thị.
Tuy nhiên, không phải ai, nơi nào cũng làm được. Nên có một Ban hay Nhóm có khả năng huấn luyện kỹ năng này cho bất cứ ai, hay nơi nào cần.
Phần 8:
Vai trò của linh mục, tu sĩ: "Các linh mục và tu sĩ hãy đồng hành… học hỏi và áp dụng phương pháp 'Đối thoại trong Thánh Thần'".
Nội dung:
• Đây là phần mục vụ hiệp hành - đồng hành bên cạnh việc truyền giáo.
• Lưu ý đến tinh thần tôn trọng - lắng nghe - cộng tác với giáo dân.
Nhưng cũng nên đề cập rõ cơ chế huấn luyện hoặc mô hình sinh hoạt cụ thể.
Phần 9:
Lời nhắc của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: "Có lẽ không thiếu những Kitô hữu nửa mùa…".
Nội dung:
• Phần này có tính ngôn sứ và cảnh tỉnh.
• Là tiếng chuông mời gọi canh tân đời sống thiêng liêng, tránh hình thức.
• Đây là chìa khóa mục vụ nội tâm để chuyển từ đạo "giữ" sang đạo "sống".
Phần 10:
Kết luận: Cầu nguyện cùng Đức Maria: "Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Nữ vương Mân Côi…".
Nội dung:
• Mang tinh thần đức tin, bình an, và khiêm tốn.
• Kết thúc bằng lời cầu nguyện, tạo cảm xúc hiệp nhất và tín thác.
• Phần này gợi lại linh đạo "ở với Mẹ để học yêu Chúa và phục vụ anh em".
Tổng kết:
Thư Chung 2025 có trung tâm là truyền giáo, nhưng đồng thời là:
• Tài liệu định hướng mục vụ - tổ chức (kế hoạch 3 năm).
• Tài liệu linh đạo và huấn giáo (nên thánh - gắn bó với Chúa Kitô).
• Tài liệu truyền thông và xã hội (kỹ thuật số, môi trường, nhân chứng).
• Tài liệu hiệp hành và đồng hành (linh mục, tu sĩ, giáo dân cùng nhau).
• Tài liệu giáo dục lương tâm xã hội (phê bình "Kitô hữu nửa mùa").
II. ĐIỂM MẠNH VÀ ĐIỂM HẠN CHẾ:
Dù trong phần tóm nội dung từng phần của Thư Chung, chúng ta đã nói khái quát những điểm mà Thư Chung đề cập và cũng cho thấy một số ít nội dung còn thiếu. Tuy nhiên, sau khi đọc toàn bộ bức thư, chúng ta cần có một đánh giá tổng quan để giúp phát huy những điều có lợi và trong khi triển khai, nếu cần, tự khắc phục những gì còn chưa đầy đủ.
A. ĐIỂM MẠNH CỦA THƯ CHUNG 2025.
1. Tập trung rõ rệt vào truyền giáo và sứ vụ.
Không chỉ nói lý thuyết, mà đặt truyền giáo là trọng tâm của đời sống Kitô hữu, từ cá nhân đến cộng đoàn.
2. Lý luận kết hợp Kinh Thánh - truyền thống - thực hành.
Việc dẫn lời Chúa (Mt 5, 14-16), hình ảnh mặt trăng và ánh sáng, đồng thời kết hợp lời các Giáo hoàng, làm cho lý luận vừa có chiều sâu thần học, vừa dễ hiểu để áp dụng.
3. Lời mời thực hành cụ thể và đa dạng.
Không để giáo dân "chờ lệnh", thư đưa ra rất nhiều việc làm cụ thể: cầu nguyện, học hỏi, chứng từ, sự hiện diện trên mạng, đối thoại - các lựa chọn này phù hợp với nhiều bối cảnh sống khác nhau.
4. Đề cao đồng hành và lắng nghe.
Mời gọi các linh mục, tu sĩ không làm việc "từ trên xuống" mà "đồng hành, lắng nghe, hướng dẫn". Điều này phù hợp với tinh thần hiệp hành mà chủ đề của Thượng Hội đồng nhấn mạnh.
5. Khẳng định tính phổ quát của sứ vụ truyền giáo.
Thư nhấn mạnh mỗi người đã chịu Phép Rửa đều có quyền tham dự sứ vụ, không dành riêng cho giới "chuyên trách". Điều này mở rộng trách nhiệm và cơ hội cho mọi tín hữu.
B. ĐIỂM HẠN CHẾ.
1. Ngôn ngữ đôi khi vẫn nặng về lý thuyết, dễ xa rời thực tế đời thường.
Với nhiều người giáo dân, những khái niệm như "môn đệ thừa sai", "hiệp hành", "Đối thoại trong Thánh Thần" có thể nghe trừu tượng hoặc khó hiểu, nếu không được giải thích cặn kẽ và cụ thể (concrete) hóa thành hoạt động thực tiễn dễ làm.
2. Khó khăn trong việc thực hiện đồng đều trên khắp các vùng miền.
Ở những vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, việc tiếp cận tài liệu, đào tạo, hỗ trợ mục vụ có thể bị hạn chế. Thư chưa nêu kế hoạch cụ thể để vượt nút thắt này.
3. Rủi ro "áp đặt hoạt động" thay vì kêu gọi tự do, kêu gọi dấn thân theo cách tự ý.
Nếu ban hành như một loạt "phải làm" mà thiếu động lực nội tại, sẽ dễ biến thành những chương trình áp lực, khiến nhiều người cảm thấy nặng nề hoặc miễn cưỡng. Còn nếu không thúc đẩy toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam phải thi hành, thì sẽ là tình trạng "đánh trống bỏ dùi", hoặc chỉ đưa ra cho có, y như mọi kỳ Đại hội mà không có gì mới mẽ, cũng giống như tình trạng "nửa mùa" mà Thư có đề cập.
4. Thiếu chiến lược cụ thể về truyền thông và công nghệ cho từng nhóm tuổi, tầng lớp.
Thư có nhắc đến "môi trường kỹ thuật số" nhưng chưa triển khai chi tiết cách làm sao cho phù hợp với người trẻ, người cao tuổi, người không rành kỹ thuật, người không dùng mạng internet.
5. Chưa rõ cách đo lường hiệu quả hay theo dõi tiến độ.
Thư chung đề ra các việc làm, nhưng không chỉ ra hệ thống giám sát, đánh giá, điều chỉnh... Điều này dễ khiến chương trình bị trôi hoặc không được đánh giá nếu có ai đó thực sự nhiệt tâm lao vào thực hiện truyền giáo đúng như tinh thần của thư.
III. BÀI HỌC VÀ LỢI ÍCH CHO THỜI GIAN TỚI.
1. Tính liên tục và có lộ trình.
Việc phân chia 3 năm với chủ đề rõ ràng giúp Giáo Hội không "nhảy cóc" mà có tiến trình phát triển. Tín hữu hiểu được rằng truyền giáo là hành trình, không phải một hoạt động đơn lẻ.
2. Thúc đẩy sự tự nhận thức của mỗi tín hữu.
Thư mời mỗi người tự hỏi: "Tôi có phải tín hữu nửa mùa?", "Tôi có dấn thân không?". Điều này tạo áp lực lành mạnh để tự cải thiện đời sống đức tin.
3. Thúc đẩy đồng hành và đào tạo.
Việc nhấn mạnh đến đồng hành mục vụ và đối thoại là đáng quý. Nó là cơ sở giúp tránh việc giáo dân bị bỏ rơi hoặc hiểu lầm tín lý. Nhờ đồng hành, giáo dân chắc chắn sẽ lớn lên hơn nữa trong đức tin.
4. Mở ra không gian sứ vụ rộng hơn.
Khi mỗi tín hữu được mời gọi tham gia truyền giáo, nghĩa là Hội Thánh có thể lan tỏa ánh sáng Tin Mừng vào mọi ngõ ngách của xã hội như: trường học, nơi làm việc, mạng xã hội, vùng dân tộc... Đây là cách để Hội Thánh "chạm mạnh" vào đời sống thực của con người.
5. Cải thiện hình ảnh Hội Thánh trong xã hội.
Nếu chương trình được thực thi thiết thực, người ngoài sẽ thấy Hội Thánh không chỉ là nơi thờ phượng mà còn là lực lượng tích cực trong công ích, trong truyền thông, trong đối thoại xã hội... Dần dà có thể khiến họ cảm phục hơn.
6. Tạo động lực mới cho việc truyền giáo vùng khó khăn, các dân tộc thiểu số.
Khi mỗi thành phần được mời gọi làm chứng, thì vùng xa, nơi dân ít biết tới Tin Mừng, cũng có khả năng được Hội Thánh "vươn tới" bằng những sứ vụ nhỏ, linh hoạt, dựa vào người bản địa.
IV. PHƯƠNG PHÁP TỐI ƯU ĐỂ MỌI THÀNH PHẦN dân Chúa CÓ THỂ ÁP DỤNG VÀ SỐNG THƯ CHUNG MỘT CÁCH THIẾT THỰC.
Để thư không chỉ là lời mời nằm trên giấy, mà biến thành hành động cụ thể trong mọi vùng miền, mọi lớp người (giáo dân, tu sĩ, linh mục, người không tin), chúng ta triển khai phương pháp "Ba bậc"; "Ba chiều"; "Ba cách" như sau:
A. Ba bậc (theo mức độ dễ - trung - cao).
Tạo ba mức ứng dụng để mỗi người có thể chọn mức vừa với khả năng của mình:
1. Bậc khởi đầu (nhẹ nhàng, dễ làm):
* Mỗi ngày đọc một đoạn Kinh Thánh ngắn và suy gẫm;
* Mỗi tuần làm một lời cầu nguyện đặc biệt cho truyền giáo;
* Khi nói chuyện với bạn bè, chia sẻ một "câu nói tốt" về Chúa.
2. Bậc trung (có tổ chức, có kế hoạch nhỏ).
* Tham gia nhóm chia sẻ Lời Chúa, nhóm đọc Kinh Thánh theo chủ đề;
* Làm một việc thiện định kỳ (viếng người già, giúp trẻ em khó khăn...).
* Viết một bài nhỏ hay đăng một hình ảnh mang thông điệp Tin Mừng lên mạng xã hội trong những kênh cá nhân (Facebook, Tiktok...)
3. Bậc cao (dấn thân sâu, sáng tạo, sứ vụ cụ thể).
* Phát động chương trình truyền giáo nhỏ trong giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn...
* Hỗ trợ vùng xa, vùng dân tộc, vùng biên giới bằng hoạt động cụ thể (giáo lý, y tế, giáo dục, sinh kế...).
* (Nếu có thể), tổ chức hội thảo "đối thoại đức tin" trong trường học, công sở, khu dân cư...
B. Ba chiều (cá nhân, gia đình, xã hội).
Chiều cá nhân: Tự đào sâu đời sống nội tâm, rèn luyện nhân đức, cầu nguyện, kết hợp với Chúa, để chính mình được biến đổi.
Chiều gia đình: Trong gia đình, xây dựng văn hóa đức tin - lời cầu nguyện chung, chia sẻ Lời Chúa, sống tinh thần yêu thương, phục vụ nhau, không được xem thường các giờ cầu nguyện chung trong chính căn nhà của mình...
Chiều xã hội: Hiện diện trong nơi làm việc, cộng đồng, mạng xã hội, hoạt động xã hội, từ thiện, đối thoại với người ngoài đạo để làm chứng bằng hành vi, lời nói, nhân cách.
C. Ba cách (học - làm - lan tỏa).
1. Học.
* Tổ chức các khóa học ngắn, dễ tiếp cận (trực tiếp và trực tuyến) về chủ đề truyền giáo, sứ vụ, cách đối thoại đức tin;
* Phát triển tài liệu đơn giản (tờ hướng dẫn, infographic, video ngắn) để mọi người, kể cả người ít học, có thể hiểu.
2. Làm.
* Khuyến khích mỗi cá nhân / nhóm nhỏ thực hiện ít nhất một hành động trong mỗi giai đoạn (theo ba bậc);
* Linh hoạt, sáng tạo: Không bắt buộc một "công thức" cố định mà để cho cộng đoàn, giáo xứ, giáo phận, cá nhân có thể chọn cách làm phù hợp địa phương.
3. Lan tỏa.
* Mỗi người chia sẻ kinh nghiệm, chứng từ nhỏ: Người này kể với người kia, đăng lên mạng xã hội, làm video nhỏ, tờ rơi đơn giản...
* Hình thành "các điểm lan tỏa": Nhóm truyền giáo nhỏ trong khu xóm, lớp học, hội đoàn địa phương...
* Hợp tác liên giáo xứ, liên giáo phận để nhân rộng các mô hình hay.
D. Các biện pháp hỗ trợ để bảo đảm thực thi hiệu quả.
Đào tạo và hướng dẫn rõ ràng: Ban mục vụ truyền giáo, các linh mục, tu sĩ cần được tập huấn cách làm cụ thể, cách đồng hành, cách giải thích cho giáo dân.
Tài liệu đa dạng và dễ hiểu: Không chỉ sách giáo lý chuyên sâu, mà tờ gấp, poster, video ngắn, infographic, podcast..., để ai cũng tiếp cận được.
Hỗ trợ kỹ thuật số: Xây dựng nền tảng trực tuyến (web, app) để truyền tải bài học, bài chia sẻ, đề xuất hoạt động, theo dõi tiến độ.
Theo dõi + đánh giá + điều chỉnh: Mỗi giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn nên có bảng kế hoạch và bảng kiểm tra định kỳ (theo ba bậc) để xem ai đã làm gì, gặp khó khăn gì, có thể giúp nhau.
Động viên và chia sẻ chứng từ: Hàng năm chọn những cộng đoàn, cá nhân tiêu biểu để chia sẻ, vinh danh, khích lệ người khác dấn thân.
Tạo cầu nối xã hội: Mời người ngoài đạo, các nhà lãnh đạo cộng đồng, chính quyền địa phương (nếu có thể) tham gia các chương trình văn hóa, từ thiện, đối thoại... qua đó để họ thấy hình ảnh Hội Thánh sống động, tích cực, đáng kính.
V. LÀM SAO ĐỂ THƯ CHUNG GÂY ĐƯỢC CẢM TÌNH VÀ SỰ TÔN TRỌNG TỪ BÊN NGOÀI (người không tin, lãnh đạo xã hội, chính quyền...)?
1. Sống đức tin chân thành và sáng rõ qua hành động cụ thể.
Khi người ngoài thấy giáo dân không chỉ "đến nhà thờ", mà hoạt động trong cộng đồng, giúp người nghèo, giữ đạo đức trong công việc, hỗ trợ người khó khăn, tham gia bảo vệ môi trường…, họ sẽ nhìn thấy Tin Mừng tự nó có sức thu hút.
2. Mở cửa đối thoại - bước ra ngoài vách nhà thờ.
(Nếu có thể), mời người không tín hữu, các nhà lãnh đạo, chính quyền tham dự chương trình văn hóa, hội thảo về đạo đức công dân, về nhân phẩm, về tình người..., chứ không chỉ là sự kiện nội bộ tôn giáo. Qua đó, họ cùng bàn về những vấn đề xã hội với người Công Giáo như bình đẳng, công lý, đoàn kết…
3. Truyền thông thông minh, minh bạch.
Sử dụng mạng xã hội, báo chí, video ngắn để lan tỏa những việc làm đẹp, câu chuyện cảm động, chứng từ sống. Khi Hội Thánh công khai minh bạch các hoạt động bác ái, từ thiện, người ta sẽ cảm phục hơn.
4. Thực hiện sứ vụ truyền giáo vùng dân tộc, vùng sâu, vùng biên giới.
Những nơi khó khăn thường ít người để ý - nếu Giáo Hội dấn thân nơi đó, giúp dân tộc thiểu số về giáo dục, y tế, sinh kế..., qua đó mang Tin Mừng trong hành động yêu thương, thì cả xã hội sẽ nhìn nhận Giáo Hội như lực lượng mang lại lợi ích thiết thực.
5. Hợp tác với tổ chức xã hội, các nhóm phi chính phủ.
(Nếu có thể) Hội Thánh có thể hợp tác trong các lĩnh vực như giáo dục, từ thiện, môi trường, phát triển nông thôn với các tổ chức xã hội, các cấp chính quyền..., để cho thấy đức tin không tách rời trách nhiệm công ích.
6. Tôn trọng và lắng nghe người khác.
Trong mọi tiếp xúc với người ngoài, Hội Thánh (linh mục, giáo dân) nên thể hiện lắng nghe, khiêm nhường, tôn trọng quan điểm của người khác, không áp đặt, không đối đầu để từ đó xây dựng quan hệ tin cậy.
Nếu được áp dụng đúng phương pháp "Ba bậc", "Ba chiều", "Ba cách" cùng hỗ trợ mục vụ tốt, Thư Chung 2025 có thể trở thành khởi điểm cho một thời kỳ mới trong đời sống đức tin của người Công Giáo Việt Nam, nơi mỗi người không chỉ "giữ đạo" mà là môn đệ dấn thân, lan tỏa ánh sáng Tin Mừng đến khắp nơi, kể cả vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, những người chưa biết Chúa...
VI. ĐỂ TRUYỀN GIÁO, KHÔNG THỂ KHÔNG CẬY NHỜ CHÍNH CHÚA.
Lạy Chúa Thánh Thần là Hơi Thở của Hội Thánh, xin thổi bùng trong chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa và say mê loan báo Tin Mừng.
Xin dạy chúng con biết ra đi không vì kết quả, nhưng vì tình yêu, yêu Chúa, yêu Hội Thánh, yêu linh hồn anh chị em.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn đủ để lắng nghe, hiền hòa đủ để đối thoại, và bền bỉ đủ để cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh.
Xin cho mọi thành phần dân Chúa, từ các mục tử đến từng người tín hữu bé nhỏ, biết biến cuộc sống hằng ngày thành sứ vụ: bằng lời nói chân thành, việc làm bác ái, và thái độ chan chứa niềm tin.
Xin giúp chúng con đừng bao giờ quên rằng, người truyền giáo đích thực không phải là người đi nhiều nơi, mà là người ở lại thật sâu trong tình yêu Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian, Chúng con tạ ơn Chúa vì hạt giống Tin Mừng đã được gieo trên quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ qua.
Từ giọt máu các vị tử đạo, từ lời kinh của bao người cha người mẹ đơn sơ, từ dòng nước mắt âm thầm của biết bao linh mục, tu sĩ, và giáo dân trung thành, đức tin đã bén rễ, đâm chồi, và lớn lên trong lòng dân tộc chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Lời hằng sống, xin dạy chúng con biết kết hợp mật thiết với Lời Chúa, biết trung thành với giáo huấn của Hội Thánh, để khi loan báo Tin Mừng, chúng con không nói về mình, nhưng nói về Chúa, Đấng đã sai chúng con đi.
Và khi chúng con mệt mỏi trên hành trình, xin cho chúng con nhớ rằng mọi hạt giống được gieo trong âm thầm đều sẽ nảy mầm trong thời giờ của Chúa.
Xin cho chúng con biết phó thác mọi kết quả trong tay Chúa, và chỉ khát khao duy nhất là Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được nên trọn trong Hội Thánh Việt Nam thân yêu.
Lạy Chúa, xin hãy sai chúng con đi, nhưng trước hết, xin hãy ở lại trong chúng con. Amen.
Văn Hóa
CÁC ĐÓNG GÓP Công Giáo TRONG CÁC THẾ KỶ 20 VÀ 21 CHO KHOA CHÚ GIẢI KINH THÁNH, PHẦN MỘT, M1T2
Vũ Văn An
22:02 13/10/2025
Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết Hai: Dẫn nhập vào các sách lịch sử
Chương một: Tổng quan về các sách lịch sử
Peter Dubovský SJ
The Jerome Biblical Commentary for the Twenty-First Century, các trang 361-372
Tài liệu Tham khảo
Brueggemann, Walter. The Bible Makes Sense. Ấn bản tái duyệt. Louisville, KY: Westminster John Knox, 2001.
Furay, Conal and Michael J. Salevouris. The Methods and Skills of History: A Practical Guide. Arlington Heights, IL: H. Davidson, 1988.
Gunkel, Herman. Introduction to Psalms: The Genres of Religious Lyric of Israel. Macon, GA: Mercer University Press, 1998.
Liverani, Mario. Israel’s History and The History of Israel. London and Oakville, CT: Equinox Publishing, 2005.
Römer, Thomas. The So-Called Deuteronomistic History: A Sociological, Historical and Literary Introduction. London and New York: T & T Clark, 2005.
Wiliamson, Hug G.M. 1 and 2 Chronicles. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1982.
(I).Nội dung các sách lịch sử
Các sách lịch sử gồm 13 cuốn có thể chia thành 4 nhóm.
Nhóm thứ nhất gọi là lịch sử đệ nhị luật. Nó bao gồm các sách Giosuê, mô tả việc chinh phục lãnh thổ Israel, sách Thủ Lãnh, trình bầy đời sống các bộ lạc Israel trước chế độ quân chủ, các sách 1-2 Samuen, thuật lại các câu truyện về hai vị vua đầu tiên là Saun và Đavít, và sách các Vua 1-2, kể lại lịch sử từ Vua Salômôn tới việc thất thủ Giêrusalem. Lịch sử đệ nhị luật như thế nói đến lịch sử của Israel cổ thời từ việc chiếm Canaan (khoảng thế kỷ thứ 13 TCN) cho tới việc mất Giuđa (thế kỷ thứ 6 TCN).
Nhóm thứ hai được biết dưới những danh xưng khác nhau như lịch sử biên niên hay hậu lưu đầy. Nó bao gồm các sách Biên niên sử 1-2, Etra, và Nơkhemia. Các chương 1Sử biên 1-9 liệt kê các gia phả tổ tiên Israel bắt đầu với Ađam và xuyên suốt 12 tổ tiên Israel cho tới Vua Saun và Vua Đavít. Từ 1 Sử biên 10, nhà biên niên sử trình bầy lịch sử Giuđa cho đến thời lưu đầy Babylon một phần dựa trên 1-2 Samuen và 1-2 Vua. Các sách Étra và Nơkhemia trình bầy các câu truyện của những người trở về từ lưu đầy, tái thiết Giêrusalem, và tái thiết đền thờ trong các thập niên đầu tiên của thời kỳ Ba Tư. Bốn sách này kể lại lịch sử của Israel từ ngày sáng thế tới ngày tái thiết đền thờ Giêrusalem nghĩa là đến thời Ba Tư (vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN).
Nhóm thứ ba của các sách lịch sử kể lại câu truyện nổi dậy của Macabê. Qui điển Công Giáo chỉ bao gồm 1-2 Macabê, trong khi một số Giáo Hội Chính Thống bao gồm cả 3-4 Macabê nữa. Cốt truyện của 1-2 Macabê được định vị vào cuối thời văn hóa Hy Lạp và bắt đầu thời La Mã (thế kỷ thứ hai TCN). Nó mô tả các cuộc chiến thắng của nhà Macabê và việc thanh tẩy đền thờ.
Bốn trình thuật lịch sử cũng được bao gồm dưới tựa đề Sách Lịch Sử. Sách Rút mô tả số phận đáng buồn của Naomi, người mất chồng ở Môáp và cùng với con dâu Rút trở về Israel. Họ được cứu bởi lòng đại lượng của Bôát, người si tình Rút và cưới nàng làm vợ. Trình thuật được định vị vào thời Thủ Lãnh. Các cốt truyện của Tôbít, Giuđitha và Étte về phương diện lịch sử đươc định vị vào thời lưu đầy. Sách Étte mô tả cuộc âm mưu của Haman muốn tận diệt người Do Thái khỏi vương quốc Ba Tư. Moócđokhai khám phá ra âm mưu và thúc hoàng hậu Étte can thiệp. Nhờ lời cầu nguyện và sức quyến rũ, nàng đã có thể cứu dân Do Thái. Sách Giuđitha thuật lại cuộc kháng chiến anh hùng của người Do Thái chống lại Nabucôđônôxo, Vua Átsua. Tướng Hôlôphécnê của ông ta mở chiến dịch chống Giuđa, nhưng nữ anh hùng xinh đẹp Giuđitha đã chém đầu ông ta tại lều của ông ta và do đó đánh bại đạo quân địch thù áp đảo. Sách Tôbia kể lại câu truyện của gia đình Tôbít đạo hạnh tại nơi lưu đầy.
(II).Bản chất các sách lịch sử
Các sách lịch sử thuật lại toàn bộ lịch sử thế giới trước Chúa Kitô, bắt đầu với Ađam cho tới tận thời La Mã. Như tựa đề của tuyển tập cho thấy, trong nhiều thế kỷ, các sách này là nguồn duy nhất để dựng lại lịch sử Israel cổ thời, các định chế và thực hành tôn giáo của nó. Các học giả và tín hữu Công Giáo cũng như phần lớn các tín hữu và học giả khác, ngoại trừ rất ít, đã chấp nhận giá trị bề mặt của các sách lịch sử này. Theo quan điểm này, bản chất các sách lịch sử chủ yếu liên quan đến lịch sử Israel cổ thời về phương diện chính trị, tôn giáo và xã hội. Cách tiếp cận này kéo dài tới cuối thế kỷ 19, khi bằng chứng khảo cổ, các nghiên cứu về thể và nguồn văn, cũng như các tài liệu ngoài Kinh Thánh khai quật được không những xác nhận mà còn tra vấn các sự kiện được mô tả trong Kinh Thánh. Một đàng, các biên niên sử hoàng gia Ai Cập cho thấy có một nhóm người gọi là Do Thái hiện diện từ thế kỷ 13 tới thế kỷ 12 TCN và đạo thờ YHWH đã loan truyền ở Palestine vào thời kỳ này. Đàng khác, các biên niên sử Át-sua và Babylon cũng xác nhận rằng Xankhêríp từng tấn công và tàn phá Giuđa năm 701 TCN như đã được nói đến ở 2V 18-19 và Nabucôđônôxo quả có chinh phục và cướp phá Giêrusalem năm 598/7 TCN như đã được kể trong 2V24. Đàng khác, việc khai quật tại Giêricô đã nghi vấn cuộc chinh phục thành kiên cố Giêricô một cách lạ lùng của Giosuê (Gs 6) vì không có bức tường được khai quật nào có thể được định niên biểu vào cuối Thời Hậu Đồng. Đàng khác, các nghiên cứu văn chương, cách riêng, trong lịch sử đệ nhị luật (Gs-2V) cho thấy phần lớn các sách này được soạn thảo và biên tập vào những thời kỳ sau đó. Những vấn đề này và các vấn đề khác tạo nghi vấn đối với tính đáng tin lịch sử của các sách lịch sử.
Song song với bản chất lịch sử của các sách lịch sử là việc giải thích thần học về chúng. Các giáo phụ và các nhà thần học từng lý luận rằng các sách lịch sử không chuyên nhất nói đến lịch sử mà mục đích chính của chúng là trình bầy lịch sử cứu rỗi. Theo đường lối giải thích này, đường lối, dưới nhiều tựa mục khác nhau, đã được người Công Giáo tiếp nhận, các sách litch sử được hiểu như tuyển tập các trước tác chuẩn bị cho nhân loại đón nhận việc nhập thể của Chúa Giêsu Kitô. Trong thuật ngữ thần học, các sách lịch sử phác họa lịch sử nhân loại trước Chúa Giêsu. Giải thích thần học của các sách lịch sử giúp các tín hữu giảm nhẹ các hoài nghi liên quan tới tính lịch sử của các sách lịch sử. Người Công Giáo không chỉ giới hạn vào các khía cạnh lịch sử của các sách lịch sử, vì theo lối giải thích này, mục đích chính của những sách này là trình bầy một nền thần học của Israel ngày trước. Tóm lại, bản chất các sách lịch sử không có tính lịch sử mà có tính thần học.
Vấn đề liên quan tới bản chất các sách lịch sử có những hệ luận đối với việc giải thích các sách lịch sử: Các sách này chủ yếu bàn về lịch sử, hay thần học, hay cả hai? Bất chấp rất nhiều mực đã được các nhà thần học và chú giải đã đổ ra nhằm ráng đưa ra câu trả lời cuối cùng cho tính lịch sử của các sách lịch sử, các nghi vấn này vẫn liên tục tái xuất dưới nhiều tựa mục và khung cảnh khác nhau.
(III). Các sách lịch sử có chủ yếu bàn về lịch sử hay không?
Điểm khởi đầu để xác định bản chất các sách lịch sử là định nghĩa về lịch sử và tiếp theo là định nghĩa về các sách lịch sử. L. von Ranke định nghĩa lịch sử như một cố gắng để hiểu nó thực sự là gì. Như thế, lịch sử dựng lại các biến cố như chúng đã diễn ra và một cách khách quan bao nhiêu có thể. Bất chấp các hạn chế của lối định nghĩa này, người ta không thể bác bỏ tầm quan trọng của nó. Để viết một lịch sử cổ thời, nhà viết sử phải nắm vững các sự kiện căn bản như bảng niên đại về các vị vua và các nhà cai trị, bối cảnh sắc tộc học của cách chính thể và bộ lạc, các cuộc chiến và dự án xây dựng của họ, các liên hệ quốc tế giữa các thực thể chính trị, và các điểm xoay chiều trong lịch sử của một vùng nhất định. Để đạt được mục tiêu này, nhà viết sử phải trả lời các câu hỏi đơn giản nhưng chằng chéo: điều gì đã diễn ra? Nó đã xẩy ra khi nào và ở đâu? Ai tạo ra nó? Tại sai nó diễn ra và nó diễn ra cách nào? Câu trả lời cho các câu hỏi này là khởi đầu cho việc hiểu quá khứ. Nhìn cẩn thận hơn vào các sách lịch sử cho ta thấy rằng các sách lịch sử chứa đựng nhiều đoạn quả có mô tả các sự kiện và biến cố (Tl 3:13; 2V 23:7), đồng bộ hóa các triều đại (1V 15:1-2; Er 1:1) và cung cấp các chi tiết địa dư (xem Gs 18:12-13) như các tài liệu lịch sử cổ thời khác đã làm. Hơn nữa, các sách lịch sử cũng liệt kê các gia phả (1Sb 1-90, tường trình các chi tiết về các dự án xây dựng (1V 6-7; 2Sb 3) và về các cải tổ tôn giáo (2V 22-23), mô tả các cơ cấu xã hội (Xem Tl 3-9; 1V 4; Nkm 1) và trình bầy hậu cảnh các mưu đồ trong triều đình (Tl 8-9; 1V 1). Tóm lại, các sách lịch sử cung cấp thông tin trực tiếp và gián tiếp từ đó, các học giả có thể tái dựng lịch sử chính trị, xã hội và tôn giáo của Israel cổ thời. Do đó, liệu ta có thể sử dụng các sách lịch sử như nguồn để tái dựng quá khứ Israel như các giáo phụ và học giả quen làm trong nhiều thế kỷ qua hay không?
Trong phần lớn thế kỷ 20, nền học giả Cựu ước được thống trị bởi trường phái của William Foxwell Albright (1891-1971), người từng cố gắng củng cố giải trình Kinh Thánh bằng khoa khảo cổ và bằng cách so sánh với các nguồn của Cận Đông xưa. Một trong các học trò của Albright, John Bright, đã công bố một lịch sử nổi tiếng về Israel năm 1959, trong đó, ông lập luận rằng không ai có thể nghi vấn điều này: các tổ tiên của Israel từng là nô lệ bên Ai Cập, đã trốn thoát một cách lạ lùng và chinh phục Đất Thánh. Mấy thập niên sau, tình thế đã thay đổi và Thomas L. Thompson đề nghị bác bỏ các nguồn Kinh Thánh vì chúng không đáng tin cậy, và để tái dựng một lịch sử Israel cổ thời, đã sử dụng bằng chứng chuyên nhất của khảo cổ và các tài liệu ngoài Kinh Thánh. Như thế, chỉ trong khoảng vài thập niên, quả lắc đã chuyển dịch từ niềm tin căn bản chắc chắn sang một hoài nghi nền tảng đối với các trình thuật Kinh Thánh như được kể trong các sách lịch sử. Sự chuyển dịch này đi song song với cuộc truy tìm duy nghiệm việc chứng thực cho các thông tin cần thiết trước khi một nhà viết sử có thể bao gồm bất cứ trình thuật cổ xưa nào, kể cả trình thuật Kinh Thánh, để tái dựng hợp lịch sử câu truyện của các xã hội cổ thời.
Việc chuyển dịch trong lối giải thích các sách lịch sử đề ra nhiều câu hỏi mới: Một đàng, nhà viết sử có thể đặt câu hỏi: các sách lịch sử có phải là sản phẩm tưởng tượng hay ý thức hệ của ký lục hay chúng thực sự mô tả điều đã diễn ra? Mặt khác, nhà thần học đặt câu hỏi: liệu lời mặc khải của Thiên Chúa có chứa sai lầm hay không? Liệu các nhà thần học hệ thống có thể xây dựng lập luận của họ trên bản văn Kinh thánh mà về phương diện lịch sử không chính xác hoặc ngay cả sai lầm hay không?
Một tiêu chuẩn được chấp nhận tổng quát và hết sức hứa hẹn cho việc đánh giá tính đáng tin cậy của các đoạn trong các sách lịch sử là việc so sánh các bản văn Kinh thánh với các bằng chứng ngoài Kinh thánh. Bất chấp sự đóng góp không thể chối cãi của các nghiên cứu so sánh, tiêu chuẩn sao sánh giữa các sách lịch sử và các tài liệu ngoài Kinh thánh từng mang lại các kết quả mâu thuẫn nhau. Thí dụ, một đàng, cả Sử biên Babylon 5 lẫn 2V 24 đều kể lại cuộc chinh phục Giêrusalem, trong yếu tính, đã xác nhận trình thuật Kinh thánh. Mặt khác, các nghiên cứu so sánh đã làm dấy lên nhiều vấn đề mới. Thứ nhất, chỉ các thời Tân-Átsua, Văn hoá Hy Lạp, và La Mã cung cấp đủ tư liệu để ngữ cảnh hóa các trình thuật Kinh thánh. Còn đối với các thời kỳ lịch sử khác, tức các thời kỳ được mô tả trong sách Giosuê và Thủ Lãnh, thời kỳ vương quốc thống nhất và bắt đầu chế độ quân chủ chia rẽ, và cả thời kỳ Ba Tư, chúng ta chỉ có rất ít tài liệu viết từ phương đông cổ thời. Thành thử, phần lớn các biến cố được mô tả trong các sách lịch sử không có các đọan song hành trong các tài liệu ngoài Kinh thánh. Thứ hai, các nghiên cứu so sánh cũng cho thấy rằng một số tuyên bố trong các sách lịch sử không đáng tin cậy. Thí dụ, Tôbia 1:15 cho rằng Xankhêríp là con trai của Sanmanexe V, trong khi trên thực tế, ông ta là con trai Sargon II.
Lưu ý đến sự hiếm hoi các nguồn cổ xưa và coi việc so sánh giữa các dữ liệu Kinh thánh và ngoài Kinh thánh như tiêu chuẩn chính để thiết lập tính đáng tin cậy cho các sách lịch sử, các bản văn Kinh thánh có thể chia thành 4 nhóm:
(a) Một biến cố mô tả trong các trình thuật Kinh thánh gần như tương ứng hoàn toàn với các tài liệu ngoài Kinh thánh hay các dữ liệu khảo cổ. Ngoài trường hợp đã nhắc ở trên về việc Babylon chinh phục Giêrusalem năm 598/7 TCN, việc mô tả chiến dịch của Tích-lát Pi-le-xe III chống Israel năm 734-732 TCN được kể lại ở 2V 15:29 tương ứng với trình thuật được tường trình trong biên niên sử hoàng gia Átsua và bằng chứng khảo cổ. Cũng vậy, việc khai quật tại Bết-se-mét xác nhận trận đánh giữa Giô-át và A-mát-gia-hu mô tả trong 2V 14:11-12. Đối với nhóm biến cố này, phương pháp luận do Albright và các đồ đệ của ông thiết lập cho rằng cá dữ liệu khảo cổ và bản văn có thể củng cố tính lịch sử của Kinh thánh hay ngữ cảnh hóa các biến cố vẫn còn là cách tiếp cận có giá trị.
(b) Phần lớn các trình thuật Kinh thánh không có các điểm tham chiếu ngoài Kinh thánh tương ứng. Do đó, từ quan điểm lịch sử, không thể lượng định tính đáng tin cậy của chúng. Như thế, một sử gia không thể chứng minh hay bác bỏ tính lịch sử của một cược săn lùng quân sự của người E-mô-ri và người Mô-áp ở lãnh thổ Israel (Tl 3:8, 12; 4:2), cuộc chinh phục Ê- đôm của Giu-đa (2V 14: 7) v.v… Trong những trường hợp này, thử nghiệm duy nhất các học giả có thể sử dụng là lượng giá xem liệu việc mô tả một biến cố nhất định nào đó có tương đương với khung cảnh văn hóa và xã hội được tái dựng dựa trên các nguồn khác hay không. Vì thế, Sử biên Babylon xác nhận rằng quân đội Ai Cập do Neco II lãnh đạo đã từ Ai Cập tiến qua Syria-Palestine để ngăn chặn Babylon mở rộng giữa năm 610 và 605 TCN, nhưng liệu, trong chiến dịch này, Neco của Ai Cập có thực sự giết Vua Giô-si-gia (+609) hay không thì không thể chứng minh được (2V 23:29). Ngược lại, việc phân tích các nguồn của Ai Cập cho thấy rằng các vua Ai Cập không bao giờ cho các con gái của họ làm vợ các vua nước ngoài. Dĩ nhiên, bằng chứng hàng loạt của các nguồn Ai Cập đặt dấu hỏi đối với việc Sa-lô-môn cưới con gái Pha-ra-ô (1V 3:1).
(c) Một biến cố được tái dựng từ trình thuật kinh thánh mà khác trong một số chi tiết với biến cố được tái dựng từ các dữ kiện ngoài kinh thánh. Việc thất thủ Samaria có thể rơi vào trường hợp này. Theo 2V 17, Vua Átsua San-ma-na-xe V chịu trách nhiệm chinh phục Sa-ma-ria và dẫn độ người Do Thái cũng như đưa người nước ngoài vào Bắc Israel năm 722 TCN. Tuy nhiên, các nguồn Át-sua và Ba-by-lon cung cấp một mô tả có sắc thái hơn cho thấy việc thất thủ Sa-ma-ria liên hệ tới 2 Vua Át-sua: San-ma-na-xe V và Sargon II, và cần tới hơn 20 năm. Trong trường hợp này và những trường hợp khác, vệc so sánh các dữ kiện kinh thánh và ngoài kinh thánh có hiệu quả, vì các nguồn ngoài kinh thánh có thể được bổ túc bằng các dữ kiện kinh thánh và ngược lại.
(d) Nhiều sách lịch sử hiện đại và cổ thời chức các dữ kiện không chính xác và sai lạc. các sách lịch sử không phải là ngoại lệ và chịu đủ thứ bất toàn của bất cứ bản văn chép sử cổ xưa nào. Lý do chính tại sao “các sai lạc” đã được bao gồm là thời gian cách quãng giữa tác giả và biến cố. Thời gian càng trôi qua, tác giả càng ít có thông tin để sử dụng và, do đó, bản văn cuối cùng càng chứa nhiều lỗi lầm hơn nữa. Đó là trường hợp của các sách Tô-bi-a và Giu-đi-tha hay các trình thuật về việc chinh phục Ca-na-an trong sách Gio-su-ê và các chiến thắng của các thủ lãnh được viết vài thế kỷ sau.
Điều quan trọng là bác bỏ điều này: các sách lịch sử là các chứng tá của lịch sử Israel cổ thời, khi xem xét các bất cập mà mọi nguồn cổ thời đều vấp phải. Các thiếu sót và sai lạc đã nhắc có thể được giải thích bởi việc hiếm hoi các nguồn có sẵn cho các người viết sau này. Việc thiếu dữ kiện và thông tin không chính xác đôi khi có thể được bổ túc nhờ các tài liệu ngoài Kinh thánh.
Bất chấp các sự kiện đó, việc sử dụng các bản văn thuộc các nhóm 2 và 4 cho các mục đích sử học gây ra cuộc thảo luận nóng bỏng giữa các học giả kinh thánh được biết dưới tên “duy tối thiểu” (minimalists) ngược với “duy tối đa” (maximalists). Việc dựa vào các bản văn kinh thánh mà không phân biệt chúng thuộc nhóm nào được dán nhãn hiệu đọc theo kiểu duy tối đa các sách lịch sử, ngược với lối đọc duy tối thiểu chỉ sử dụng các bản văn thuộc nhóm 1. Hình thức cực đoan của lối đọc duy tối thiểu loại bỏ bất cứ bản văn kinh thánh nào về việc tái dựng lịch sử Israel và chuyên nhất dựa vào các dữ kiện ngoài kinh thánh.
(IV). Các sách lịch sử có phải chủ yếu nói tới thần học không?
Bất chấp các cố gắng hòa hợp các nguồn kinh thánh và ngoài kinh thánh, vẫn có rất nhiều đoạn đáng hoài nghi về phương diện lịch sử trong các sách lịch sử. Thí dụ, việc tái dựng triều đại của Xan-khê-ríp dựa trên các biên niên sử của Át-sua và kiến thức về các bành trướng của Át-sua trong giai đoạn 701 tới 681 TCN loại bỏ khả thể cho rằng 185,000 quân lính Át-sua đã chết ở Giu-đa như được mô tả ở 2V 19:35. Tuy nhiên, câu sau đó nhắc tới việc sát hại Xan-khê-ríp (2V 19:36-37) có thể được chứng minh một cách an toàn từ các tài liệu Át-sua; và ngay cả tên của những kẻ giết người cũng đều chính xác, mặc dù bị bóp méo bởi cách chuyển tự (transliteration). Các câu này chứng tỏ trong các bản văn kinh thánh cổ xưa cũng như trong các bản văn cổ xưa khác, các dữ kiện đáng tin về phương diện lịch sử đã bị trộn lẫn với trình thuật đáng hoài nghi về phương diện lịch sử. Sự can thiệp lạ lùng của một thiên thần để tiêu diệt quân đội Átsua có ý nghĩa thần học. Theo 2V, Đế quốc Átsua rõ ràng đã biến mất sau việc phá hủy doanh trại quân sự Átsua. Thực vậy, điều trái ngược mới đúng. Átsua bành trướng sau chiến dịch chống Giu-đa năm 701 TCN và trong ít thập niên đã kiểm soát toàn bộ thế giới được biết đến vào thời ấy. Thực vậy, sức mạnh của Átsua đạt tới tuyệt đỉnh sau chiến dịch này. Hiển nhiên, việc bại trận lạ lùng của quân đội Átsua tại các cổng thành Giêrusalem, đọc dưới ánh sáng bài ca của Isaia ở 2V 19, tập chú sự chú ý của độc giả tới vấn đề tại sao Syria sụp đổ chứ không phải vấn đề khi nào và thế nào. Sự sụp đổ của Átsua là kết quả của sự ngạo mạn và xét cho cùng chính Thiên Chúa đã khiến Átsua sụp đổ.
Lối đọc các sách lịch sử cẩn thận hơn cho thấy không những các biến cố đơn lẻ mâu thuẫn với thực tại mà trọn bộ trình thuật là những giải trình thần học chứ không phải sự kiện. Như thế, ý niệm chinh phục quân sự của Israel như được mô tả trong Sách Gio-suê mâu thuẫn với các dữ kiện khảo cổ và dẫn tới một hậu cảnh phụng vụ cho các trình thuật chinh phục.
Một đàng, các thí dụ này và việc phân chia các sách lịch sử thành 4 nhóm ngăn ngừa việc giản lược các sách lịch sử vào loại giáo khoa lịch sử; đàng khác, cũng không thể giới hạn các sách lịch sử vào loại thần học luật sĩ. Một đánh giá chính xác các sách lịch sử đòi các nghiên cứu so sánh và văn chương nhằm cung cấp một căn bản an toàn để lượng giá xem liệu một phần nhất định nào đó của các sách lịch sử có hoàn toàn hay một phần đáng tin cậy về phương diện lịch sử hay tác giả kinh thánh bắt tính chính xác lịch sử lệ thuộc các ý niệm thần học hay ý thức hệ.
(V). Các sách lịch sử như khoa chép sử cổ thời
Các khuynh hướng nghiên cứu các sách lịch sử từng cố gắng phối hợp chiều kích lịch sử và thần học/ý thức hệ của các sách lịch sử nhằm giải thích đúng các đoạn không đáng tin cậy về phương diện lịch sử của các sách lịch sử. Vì mục đích này, John Van Seters và những người khác đã nói về khoa chép sử cổ thời. Do đó, nhiệm vụ của khoa chú giải lịch sử là vượt quá các biến cố và cho thấy các luật sĩ xưa đã viết các suy tư của họ ra sao về quá khứ.
Các nghiên cứu về khoa chép sử và ý thức hệ của các bản văn kinh thánh xưa và các bản văn xưa khác cho thấy rằng các bản văn kinh thánh có chung không những các mẫu và thể văn với các bản văn Cận Đông khác mà cả các giải thiết tôn giáo và văn hóa, mà xét cho cùng đã tạo nên cách Cận Đông viết lịch sử. “khi bạn nghiên cứu ‘khoa chép sử’, bạn không trực tiếp nghiên cứu các biến cố của quá khứ, mà là các giải thích thay đổi về các biến cố này trong công trình của các sử gia cá thể” (Furay và Salevouris, 1988:223). Thực vậy, một giải thích thay đổi về quá khứ tạo nên tiền đề căn bản của việc nghiên cứu khoa chép sử của Israel. Dưới ánh sáng này, việc nghiên cứu các sách lịch sử không thể bị giản lược vào việc tái dựng các biến cố chính trị và tôn giáo, nhưng nó nên trình bầy rõ các trào lưu văn chương và thần học cuối cùng đã khai sinh ra các suy nghĩ chằng chéo về lịch sử của Israel xưa. Thành thử, các sách lịch sử, ngoài việc cung ứng một số thoáng nhìn vào lịch sử của Israel xưa, còn cho phép độc giả tiếp xúc với môi trường trí thức và tôn giáo vốn xác định dữ kiện nào bị loại bỏ và dữ kiện nào được bao gồm, biến cố nào nên được trình bầy như can thiệp của thần minh, và biến cố nào thuộc lãnh vự nhân bản. Cách tiếp cận các sách lịch sử này đã chuyển vị lưu ý từ lịch sử chính trị qua khoa chép sử, được nhắm như một tái dựng các mẫu và kỹ thuật giải thích mà người thời xưa vốn dùng để soạn tác và viết xuống các giải thích của họ về quá khứ. Trào lưu học giả mới này thúc giục độc giả bỏ các cuộc thảo luận vô bổ về việc liệu Sa-lô-môn có xây các chuồng ngựa và dinh thự tại Megiddo như được nhắc tới ở 1V 9:15 hay liệu Nơ-khe-mia có quả là một viên chức cao cấp trong triều đình Ba Tư hay không. Thế hệ mới các nhà sử học nêu ra một số câu hỏi mới. Đâu là mẫu mực thần học đã khiến các biến cố được trình bầy trong kinh thánh một cách nhất định nào đó?
Một sự so sánh các bản văn của Cận Đông xưa thuộc đệ nhất thiên niên kỷ TCN với các sách lịch sử cho thấy: cả hai bộ cùng có ý niệm tương tự về thần tính và các can thiệp của nó trong lịch sử, cách thông đạt với thần minh qua cử chỉ, mẫu giận phạt của thần minh, ngôn ngữ cường điệu khi mô tả vinh quang của vua chúa, con số không đúng thực tại quân ngũ bị tiêu diệt, cơ cấu tổ phụ của các xã hội v.v... Những tiền đề thần học này lên khuôn việc tổ chức các bản văn lịch sử và việc phải viết các biến cố này ra sao vào cách sách Các Vua nhưng phải khác với các khuôn mẫu tổ chức của sách Thủ Lãnh và các sách Biên niên sử. Trong trường hợp các sách Macabê 1-2 và nhà chép sử thế kỷ thứ nhất CN, Josephus, các trình thuật lịch sử có được một văn phong mới, chịu ảnh hưởng nặng nề của khoa chép sử Hy Lạp và La Mã. Những thí dụ này cho thấy các bình diện thần học và lịch sử đã nối kết một cách nội tại xiết bao trong các sách lịch sử.
(VI). Việc hình thành Các Sách Lịch Sử
Nhiều thế kỷ nghiên cứu cho thấy: các sách lịch sử đã trải qua một diễn trình lâu dài và phức tạp trong việc thu thập các nguồn, soạn thảo và hiệu đính sau đó. Phương thức này đã phát sinh ở Đức được biết đến như là phương pháp phê bình lịchsử (historical-critical method). Dưới tựa đề này, người ta đặt khá nhiều phương pháp luận khác nhau như khoa phê bình nguồn, khoa phê bình hình thức và khoa phê bình bản văn, lịch sử soạn thảo, Literaturkritik [phê bình văn học], überlieferungsgeschichte [lịch sử truyền tải]v.v... Giả định căn bản của các phương pháp luận này là các sách lịch sử không được viết theo cùng một lối như Thần Kịch của Dante hay Hamlet của Shakespeare nghĩa là có một tác giả và viết trong một thời kỳ lịch sử, nhưng là kết quả hàng thế kỷ thu thập và hiệu đính các nguồn và truyền thống khác nhau.
Phương thức phê bình lịch sử đối với các sách lịch sử trở thành phương pháp luận chính ở Phương Tây trong hai thế kỷ nay. Mặc dù lối đọc các sách lịch sử này bị thách thức nghiêm trọng, tuy nhiên, nó đã kháng cự các hoài nghi, nghi ngờ và tấn công và tiếp tục được thực hành. Giá trị của phương pháp luận này đối với các sách lịch sử có thể được chứng minh cách gián tiếp nhờ các bản văn lịch sử khai quật được ở Lưỡng Hà. Nhiều tấm bảng từ thiên niên kỷ thứ nhất TCN mang lại cho chúng ta không những khả thể tái dựng các biến cố lịch sử, mà còn nghiên cứu việc nội dung các trước tác lịch sử đã được thu thập, hiệu đính, tóm tắt v.v... ra sao. Từ việc so sánh các diễn trình soạn thảo ở Israel và Lưỡng Hà, người ta có thể kết luận rằng cả các học giả (scribes) kinh thánh lẫn Lưỡng Hà đều cảm thấy tự do dùng chữ khác, tóm tắt, kéo dài hay phối hợp các bản văn được thừa tự. Tóm lại, việc thu thập và hiệu đính các nguồn khác nhau là một sinh hoạt học giả trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Áp dụng các kết quả của lối nghiên cứu này vào các học giả của các sách lịch sử chứng tỏ rằng không thể nói về một tác giả cho các sách Samuen 1-2, một Sitz im Leben [khung cảnh sống] cho sách Thủ Lãnh, một thể văn cho sách Các Vua 1-2, và một bản văn cuối cùng cho sách Étte. Tóm lại, người ta chỉ có thể thể hiểu trọn vẹn bản văn cuối cùng của các sách lịch sử khi các lớp lang khác nhau được tách biệt và dịnh niên đại một cách thích đáng nghĩa là áp dụng phương pháp phê bình lịch sử.
(VII). Lịch sử đệ nhị luật
So sánh ngôn ngữ, hình thức văn chương, và hậu cảnh xã hội tôn giáo của các Sách Lịch sử, chúng ta có thể tách biệt Lịch sử Đệ nhị luật (Gs-2v) ra khỏi phần còn lại của các Sách Lịch sử (1-2 Sb, Er, Nkm, 1-2 Mcb, Rút, Et, Tl, và Tb). Martin Noth, khi nghiên cứu toàn bộ Đệ nhị luật, đã kết luận rằng Gs-2V đã được soạn thảo bởi một tác giả và trình bầy phần lớn câu truyện xưa hiện còn của quá khứ Israel. Vì những sách này chứa một số phát biểu cũng tìm thấy trong Đệ nhị luật, nên tác giả của Gs-2V được gọi là nhà Đệ nhị luật.
Vì giả thuyết của Noth về một soạn giả đơn nhất chịu trách nhiệm soạn thảo lịch sử đệ nhị luật, nên một vài mô hình có sắc thái hơn đã được đưa ra, trong đó, đáng kể nhất là các mô hình về nguồn gốc, soạn thảo kép và Schichten hay lớp lang (strata).
Lý thuyết nguồn do John Gray đề xuất. Việc ông cẩn thận đọc các bản văn Kinh thánh cho thấy có những bản văn trong các Sách Lịch sử rõ ràng phát xuất từ một tác giả Giu-đê, vì các bản văn này nghiêm khắc chỉ trích Vương quốc Phương Bắc. Các bản văn này rất có thể được rút ra từ văn khố Đền thờ Giêrusalem. Tuy nhiên, cũng có những bản văn ca ngợi các đền thờ phương Bắc ở Bethel và Dan và thậm chí còn gọi các vua phương Bắc là cứu chúa (xem 2V 13-14). Những bản văn này có thể đã không được soạn thảo bởi các tác giả Giu-đê và Gray gợi ý: chúng phát xuất từ văn khố Samaria và Bethel. Các nguồn độc lập phương nam và phương bắc này được gom lại với nhau bởi một người thu thập và sau đó được hiệu đính bởi một người hiệu đính hậu lưu đầy.
Mô hình thứ hai, vì giải thích việc hình thành các Sách Lịch sử, nên được gọi là soạn thảo kép (Đnl 1 và Đnl 2). Frank Moore Cross, Patricia Dutcher-Walls và Gary Knoppers là những người trình bầy quan trọng nhất của lý thuyết này. Nó giả thiết rằng có hai bàn tay chính can dự vào việc viết và hiệu đính các Sách Lịch sử. Đnl 1 được nhận diện ở lời hứa vô điều kiện dành cho quốc gia và dòng dõi Đavít. Cross cho rằng lớp lang này đươc soạn thảo trước khi bị lưu đầy. Sau lưu đầy, các Sách Lịch sử phải được xem lại dưới góc độ tai họa do người Babylon gây ra và các lời hứa mang hình thức có điều kiện: nếu các ngươi (tuân giữ)... các ngươi sẽ...; nếu các ngươi không (tuân giữ)..., các ngươi sẽ... Các lời hứa có điều kiện giúp giải thích sự sụp đổ của Samaria và Giêrusalem. Lớp lang này được gọi là Đnl2. Hai lớp lang này được xét duyệt một phần, và được hiệu đính thêm sau đó.
Mô hình soạn thảo kép cạnh tranh với mô hình soạn thảo 3 lần được biết dưới tên mô hình Schichten (hay Lớp lang), được khai triển bởi Rudolf Smend, Walter Dietrich, và Timo Veijola. Mô hình soạn thảo này đề xuất rằng các Sách Lịch sử được soạn thảo từ ba lớp lang chính (1) ĐnlG (các phần lịch sử) mô tả các biến cố lịch sử, (2) ĐnlP (các phần tiên tri) gồm các trình thuật tiên tri được lưu truyền một cách độc lập tại Israel, và (3) ĐnlN (các phần luật lệ) tập chú vào việc giữ luật và các giới răn. Các lớp lang này có lẽ được phối hợp thời hậu lưu đầy.
Mặc dù các mô hình này bị nghi vấn rộng dài, luận lý nằm dưới chúng vẫ còn giá trị. Các học giả gần đây đả đề xuất các lý thuyết có lưu ý tới những điểm mạnh hơn của 3 nhóm tyrên đây. Các dữ kiện mới phát xuất từ các bản văn ngoài Kinh thánh và các khai quật khảo cổ cũng cung cấp nhiều tư liệu mới cho việc nghiên cứu việc hình thành ra bản văn. Vì thế, các học giả tìm tòi các tham chiếu trực tiếp và gián tiếp trong các biên niên sử và thư từ hoàng gia có thể giúp định niên đại cho các bản văn Kinh thánh, tìm tòi các dữ kiện địa lý có thể có tính đặc trưng cho một thời kỳ lịch sử nhất định hay sử dụng ngôn ngữ lịch sử để thiết lập niên đại tương đối hoặc tuyệt đối và các lớp lang soạn thảo trong các Sách Lịch sử. Trong số các học giả nổi tiếng nhất, người ta có thể nhắc đến David Carr, Norbert Lohfink, Alexander Rofé, Thomas Römer, Konrad Schmid v.v... Các lý thuyết của họ liên kết các lớp lang đệ nhị luật với các thời kỳ lịch sử như, chẳng hạn, Tiền Đnl (các phần tiền đệ nhị luật) ĐnlNa (các phần Đnl Tân-Átsua), ĐnlNB (các phần đệ nhị luật Tân Babylon), ĐnlEP (các phần Đnl Ba tư tiên khởi), ĐnlLP (Các phần Đnl Ba Tư sau này), và Hậu Đnl (các phần hậu Đnl).
Việc phân chia bản văn Đệ nhị luật không những là một thao tác lý thuyết, nó còn tác động lên việc giải thích thần học các Sách Lịch sử. Nếu chúng ta theo các học giả từng gán lớp lang thứ nhất của lịch sử đệ nhị luật cho Giô-si-gia, thì chúng ta có thể giả thiết rằng việc dẹp bỏ các nơi cao và việc tập trung thờ phượng là các biểu thức của thần học/ý thức hệ quốc gia tiền lưu đầy được tạo ra trong một thời gian độc lập ngắn của Giu-đê-a sau sự sụp đổ của Átsua. Tuy nhiên, nếu các đoạn nói tới việc tập trung thờ phượng được định niên đại vào thời hậu lưu đầy, thì độc giả sẽ phải đối đầu với một ý niệm thần học nhằm giải thích sự thất thủ của Giêrusalem vốn rất ít liên hệ tới thực tại.
Điển hình đó minh họa việc, nhờ chọn lọc và phân tích các lớp lang khác nhau của lịch sử đệ nhị luật, các học giả tái dựng được các mẫu mực và nền thần học chép sử thường mâu thuẫn với nhau. Thành thử, chúng ta không có một nền thần học duy nhất của quá khứ Israel, nhưng đúng hơn, một vài nền thần học và thường mâu thuẫn nhau, vốn liên hệ mật thiết với các phong trào chính trị, học giả, và tôn giáo chuyên thúc đẩy nghị trình riêng của họ. Theo ngôn từ thần học, Kinh thánh không có một lịch sử cứu rỗi gắn bó duy nhất, mà có nhiều trào lưu thần học khác nhau.
(VIII). Các sách không có tính đệ nhị luật trong các sách lịch sử
Các nghiên cứu đã nhắc trên đây chủ yếu tập chú vào lịch sử đệ nhị luật được người ta tin là nguồn xưa nhất hiện có để tái dựng Israel xưa. Các học giả cũng từng áp dụng các phương pháp phê bình lịch sử vào các sách còn lại của các Sách Lịch sử. Việc áp dụng các phương pháp này vào các sách Bên niên sử, Étra và Nơ-khe-mia cho ta những kết quả bất ngờ. Vì thế, trong các sách Étra và Nơkhemia, các học giả nhận ra tư liệu trước thời Étra-Nơkhemia, các ký ức của Étra và Nơkhemia, và các can thiệp về tư liệu và soạn thảo sau đó. Tuy nhiên, các phương pháp này có ít giá trị đối với các trình thuật như Rút, Tôbia, Giuđitha và 1-2 Macabê. Thành thử, trong những năm gần đây, chú ý của các học giả đã chuyển qua cách chép sử của biên niên sử hay hậu lưu đầy (1-2 Sb, Er, Nkm). Lịch sử văn hóa Hy Lạp (1-2 Mcb) và các sách đệ nhị luật (Tl và Tôbia). Vì phần lớn các sách này không trải qua một diễn trình hiệu đính phức tạp, các học giả đã áp dụng các phương pháp và ý niệm mới để nghiên cứu các sách này.
Điều hữu ích là phân biệt hai khía cạnh của hạn từ lịch sử:
• Lịch sử - một giải trình trần trụi những gì đã diễn ra (xem Salômôn liên minh qua hôn nhân với Pharaô, vua Ai Cập).
• Geschichte [câu chuyện]– giải trình các biến cố và sự kiện quá khứ được trình bầy bằng ngôn từ của ý nghĩa đương thời của chúng. Mục đích đệ nhất đẳng của trình thuật lịch sử không phải là tái dựng biến cố quá khứ mà là hiện thực hóa nó cho các độc giả đương thời và kích thích đáp ứng, như hoán cải, hy vọng, ăn năn. Như thế, trình thuật về Giarópam (Jeroboam) I (1V 11-14) đã sử dụng các dữ kiện lịch sử một cách tự do để khuyến khích độc giả hậu lưu đầy nâng cao hy vọng giữa cảnh lưu đầy.
• Tiểu thuyết/hư cấu lịch sử - một hư cấu văn chương sử dụng các dữ kiện lịch sử mà không có cao vọng viết một tường trình lịch sử (Rút, Et, Tl, Tb)
Sự chú ý đã chuyển dịch từ các phương pháp phê bình lịch sử qua việc phân tích các kỹ thuật chép sử của học giả.
Việc áp dụng các phạm trù này vào các Sách Lịch sử sau đó làm nẩy sinh điều gọi là các nghiên cứu “Kinh thánh viết lại”. Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ 1-2 Biên niên sử như phiên bản viết lại của St-2V với tập chú vào vương quốc Giuđa. Tác giả Biên niên sử vì sống vào một thời kỳ lịch sử khác, nên cảm thấy nhu cầu phải kể lại lịch sử quốc gia mình theo một quan diểm khác. Thực vậy, ông đã hiện thực hóa các trình thuật trước đó cho một loại thính giả mới (Geschichte). Vì mục tiêu này, ông đã thêm các mẩu thông tin mới vốn không được bao gồm trong các sách Samuen và Các Vua, loại bỏ trọn những đoạn liên quan tới vương quốc phương Bắc và tóm lược tiền sử bằng các gia phả. Hơn nữa, ông còn tái giải thích một số biến cố và anh hùng của lịch sử Giuđa. Điển hình rõ nhất là nhân vật Vua Mơnaxe (Manasseh). Trong 2V 21, Mơnaxe là vị vua tệ nhất trong lịch sử và cuối cùng chịu trách nhiệm làm mất Giêrusalem. Tuy nhiên, trong 2Sb 33, Mơnaxe ăn năn và tác giả Sử biên chuyển trách nhiệm để mất Giêrusalem cho Akhát (Ahaz) (2Sb 28). Được tái giải thích tương tự như thế là vai trò của Đavít và Salômôn trong việc xây đền thờ. Trong khi ở 1V 4-8, Salômôn được kể có công xây dựng đền thờ, trong 1Sb 24-29, Đavít đóng vai trò còn quan trọng hơn thế nhiều.
Một cách hiện thực hóa các câu truyện và biến cố xưa cho lớp thính giả mới có thể thấy nơi các tiểu thuyết lịch sử (Rút, Étra, Tôbia, Thủ lãnh). Các trình thuật này chỉ lỏng lẻo liên kết với các biến cố lịch sử và thường không chính xác. Đúng hơn chúng quan tâm tới các cuộc tranh luận tôn giáo, như bàn về sự mù quáng thể lý và tâm linh và các vấn đề hôn nhân trong Tôbia, sự tinh tuyền của tôn giáo và thờ phượng trong Giuđítha, ngày Lễ Purim trong Étte v.v... Bất chấp chút ít giá trị lịch sử của những soạn tác này, mục đích của chúng là hiện thực hóa quá khứ không phải bằng cách thuật lại niên biểu của vua chúa, mà trình bầy các câu truyện của cuộc sống hàng ngày, tập chú vào những anh hùng hạng hai, truyền bá các giá trị và khuyến khích độc giả đấu tranh cho bản sắc quốc gia.
Khuynh hướng viết lại lịch sử của Israel xưa tiếp diễn vào thời La Mã khi Josephus soạn bộ khổng lồ Antiquities of the Jews (Thời xưa của người Do Thái). Cả 1-2Sb lẫn Antiquities đều sử dụng các nguồn độc lập, cả hai cung cấp lối giải thích mới cho các sách trước đó của Cựu Ước, cả hai dẫn nhập nhiều thay đổi quan trọng, và cả hai đã sửa đổi các giải thích thần học. Tuy nhiên, trong khi Sử biên trở thành phiên bản hợp qui và được bao gồm vào Qui Điển Công Giáo, thì Antiquities, bất chấp giá trị cao về văn chương và lịch sử, chỉ một phần được bao gồm trong Qui điển Chính Thống Ácmênia và Syria, chứ không trong qui điển Công Giáo.
(IX). Các truyền thống bản văn
Giai đoạn cuối cùng của việc hình thành các Sách Lịch sử là việc phiên dịch chúng sang các ngôn ngữ cổ xưa. Nhiều bản chép tay các Sách Lịch sử tiếng Hípri, Aram, Syria và Hy Lạp chứng tỏ rằng bản văn của các Sách Lịch sử không hóa thạch. Các thay đổi thuộc nhiều loại khác nhau. Trong các sách Gio-su-ê và Thủ lãnh, chỉ có một ít thay đổi thần học nhỏ. Thí dụ bản Bẩy Mươi thiếu việc nhắc đến các tư tế trong mô tả cuộc chinh phục Giêricô (Gs.6:3b.4.6b.9a) và các đền thánh tại 6:24; 9:23;24:2. Tuy nhiên, các thay đổi giữa các bản văn Hípri và Hy Lạp thì có thực chất hơn trong 1Sm-2V, Et và Tb.
Các nghiên cứu bản văn mới về các sách 1Sm-2V cho thấy bản Masoretic trẻ hơn bản văn Hy Lạp gọi là Bản Hy Lạp Cổ. Bản Hy Lạp Cổ, được duy trì phần lớn trong phiên bản Antiôkia (một phiên bản được sử dụng tại Antiôkia) và một phần cũng có trong bản Vetus Latina (Bản Latinh cổ), đại diện cho việc dịch sang tiếng Hy Lạp một bản văn Hípri không được duy trì, nhưng hiện hữu trước bản Masoteric, vào thế ký thứ ba hay thứ hai TCN. Như thế, bản Hy Lạp cổ của 1Sm-2V là bản văn cổ xưa nhất mà chúng ta hiện có để sử dụng. Bản này sau đó đã được sửa đổi và hiệu đính nhiều lần cho tới khi đạt được hình thức sau cùng như đã được lưu giữ trong Codex Vaticanus, Codex Alexandria, Codex Leningadensis, v.v… Thí dụ, có một ít thay đổi quan trọng trong trình thuật về Đa-vít và Gô-li-át (1Sm 17), bài ca của bà An-na (1Sm 2) v.v… Trong 1-2V, có một vài thay đổi với nhiều hệ luận thần học như việc giải thích đền thờ và sự Hiện diện của Thiên Chúa trong đó (1V 6:11-13 bị bỏ trong bản Bẩy Mươi; 1V 8:12-13 được hoàn toàn duyệt lại trong bản Bẩy Mươi).
Hiển nhiên, sự hiện hữu của những bản chép tay và ấn bản khác nhau tác động lên hệ luận lịch sử và thần học rút ra từ bản văn. Về hệ luận lịch sử, Bản Hy Lạp Cổ của 1V 5:1 thuật rằng Khiram (Hiram) (Vua Tia [Tyre]), sai các thuộc hạ đi nghinh đón Sa-lô-môn khi ông nghe tin Sa-lô-môn đã được xức dầu phong vương. 3V 5:1 của bản Bẩy Mươi nói rằng Khi-ram sai thuộc hạ đi xức dầu cho Sa-lô-môn. Điều này có nghĩa theo bản Hy Lạp Cổ, Sa-lô-môn là thuộc hạ của Khi-ram trong khi theo bản Masoretic, Sa-lô-môn là đối tác của Khiram. Còn về hệ luận thần học, chúng ta hãy xem 1V 17-19. Bản Masoretic của 1V 17-19 kết thúc với trận mưa và Êlia chạy trước Vua A-kháp (Ahab). Nhà tiên tri được mô tả như người trực tiếp thông đạt với Thiên Cúa và trừng phạt nhà vua thờ ngẫu thần. Nhưng không có quan tâm thực sự nào tới A-kháp. Bản Antiôkia thay thứ tự các chương và chu kỳ Êlia không chấm dứt ở 2V 19, nhưng ở chương 21 (Tình tiết vườn nho Na-vốt [Naboth]) mà trong bản Antiôkia được gắn với chương 19. Như thế, câu truyện tiếp tục ở Gít-rơ-en (Jezreel) và A-kháp cuối cùng nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sau một cuộc đối đầu lâu dài (3V 20, bản Bẩy Mươi). Như thế, bản Hy Lạo cung cấp một quan điểm thần học khác: các can thiệp của Êlia chủ yếu nhắm việc hoán cải, chứ không phải trừng phạt. Một việc tổ chức các chương như thế đã thay đổi thần học của chu kỳ Êlia và thích hợp hơn với các kiều bào Do Thái.
Các khác biệt tương tự cũng có thể tìm thấy trong phiên bản Hy Lạp dài hơn của Sách Étte được soạn thảo sau bản Hípri. Các lời cầu nguyện và thêm thắt mới cho bản Hípri ngắn hơn đã thay đổi không những năng động tính của trình thuật mà cả nền thần học của sách.
(X). Các hình thức văn chương của các Sách Lịch sử
Theo quan điểm thể văn, một số “sai lầm”, bỏ sót, và thêm thắt có tính cố ý, nhằm điều chỉnh các biến cố theo các khuôn mẫu văn chương nối kết với nền thần học cổ xưa hoặc ý thức hệ hoàng gia vốn thay đổi qua các thế kỷ. Các quy ước văn chương tương tự cũng được tìm thấy trong các bản văn Lưỡng Hà. Trong các biên niên sử Átsua, nhà vua luôn thắng trận, mặc dù, trên thực tế, ông bại trận. Tương tự như thế, theo Kinh thánh, Đa-vít và Sa-lô-môn kiểm soát hoàn toàn miền tây Cận Đông, tới tận sông Euphrates. Tuy nhiên, không có vương quốc Cận Đông nào ở thế kỷ thứ mười TCN có thể kiểm soát một lãnh thổ như vậy và việc trình bầy của Kinh thánh như vậy về Sa-lô-môn không tìm được một nâng đỡ nào trong các bằng chứng khảo cổ và ngoài Kinh thánh. Tuy thế, các nói quá tương tự như thế rất quen thuộc trong các bản khắc của hoàng gia Cận Đông và có thể coi như các tuyên truyền của họ. Đáng nghi vấn hơn nữa là các can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Khi Gio-suê tấn công miền Nam Israel, ông gặp sức kháng cự của người E-mô-ri (Amorites). Thiên Chúa muốn giúp Gio-suê nên đã ngưng mặt trời cho đến khi Gio-suê thắng quân E-mô-ri (Gs 10:13). Bất chấp sự ngần ngừ của các học giả hiện đại trong việc chấp nhận các can thiệp của thần linh vào lịch sử, các biên niên sử và các sách lịch sử thời xưa đầy các biến cố thần thoại và phép lạ (vem anh hùng ca của Homer, các biên niên sử Átsua và Ai Cập) và quả không thể nào tưởng tượng được một khoa chép xử thời xưa nào mà lại không có sự can thiệp của thần linh.
H. Gunkel là học giả đầu tiên nghiêm túc xem xét không những nội dung mà cả hình thức của các Sách Lịch sử bằng cách du nhập vào việc nghiên cứu Kinh thánh ngành nghiên cứu văn thể và khoa phê bình hình thức. Việc nghiên cứu văn thể đã chuyển tập chú của học giả khỏi tính lịch sử của các Sách Lịch sử sang cấu trúc và khuôn mẫu của các bản văn Kinh thánh. Nó hỏi những câu hỏi như: Đâu là khía cạnh đặc trưng của bản văn này khiến đặt nó bên trong một nhóm đặc thù các bản văn? Nhận ra các thể văn giúp ta nắm được luận lý nằm dưới bản văn và ngăn cản độc giả không quá đọc các bản văn Kinh thánh. Thành thử, không thể mong chờ một trình thuật về một nữ anh hùng như Giu-đi-tha, được lên khuôn trong hình thức trình thuật của văn hóa Hy Lạp, có thể trình bầy quá khứ của Israel cùng một cách như các phần sử biên cả các sách như Các Vua và Sử biên. Tương tự như thế, tính đáng tin lịch sử của các đoạn tiên tri, luật lệ, và thi ca trong các Sách Lịch sử phải được đánh giá theo văn thể của chúng.
Nghiên cứu văn thể và việc áp dụng nó vào các Sách Lịch sử đã kinh qua nhiều thay đổi kể từ Gunkel. Các văn thể của các Sách Lịch sử có thể được chia thành 3 nhóm:
(1) Thuật ngữ Văn thể (Gatung) được áp dụng vào các loại văn chương lớn hơn như niên sử,biên niên sử, địa dư lịch sử,và tiểu thuyết lịch sử. Dựa vào tính phức tạp của các thể văn, ta có thể chia các Sách Lịch sử thành hai nhóm: (A) các bản văn chép sử (Gs, Tl, 1-2Sm, 1-2V, 1-2 Sb, Er, Nkm, và 1-2 Mcb) và (B) các soạn tác văn chương với các chủ đề quán xuyến có tính lịch sử (Rút, Étte, Tb., và Tl.). Nhóm đầu có xu hướng mô tả các biến cố lịch sử và tổ chức chúng theo các tiêu chuẩn thứ tự thời gian. Nhóm sau là những trình thuật hư cấu nhắc đến một số biến cố lịch sử một cách mờ nhạt.
(2) Các Sách Lịch sử cũng chứa một vài tiểu văn thể gọi là các hình thức văn chương, nghĩa là các soạn tác văn chương ngắn hơn bên trong một cuốn sách. Theo quan điểm hình thức văn chương, các Sách Lịch sử là các soạn tác phong phú và bao gồm các hình thức văn chương như danh sách (Er 2), thông tri (1V 9:16), báo cáo (1V 14:25-28), giải trình (1V 15:16-22), ngụ ngôn (Tl 9), truyện nhân gian (2Sm 2:1-11) và diễn từ chia tay (1Mcb 2:49-70). Các phạm trù này trở thành căn bản để hiểu các mô hình thông đạt trong các Sách Lịch sử. Do đó, điều cần là phân biệt các dã sử nhân gian trong chu kỳ Êlia-Êlisa (1V 17-2V13) với các lời cầu nguyện hậu lưu đầy trong Étte 4, với các dã sử chiến tranh trong 1-2 Mcb và với việc đánh giá các vua chúa về luân lý đệ nhị luật (2V 21).
(3) Công thức được định nghĩa như một thể văn ngắn mà nét chính của nó là việc giống nhau về ngữ học. Thí dụ bao gồm lời tiên tri tai họa (2V 22:16), sấm ngôn (Gs 24:2), các tóm lược triều đại lúc bắt đầu và lúc kết thúc trong 1-2V v.v…Các công thức đóng băng có thể trông giống như các bản tường trình đáng tin về phương diện lịch sử, dù chúng không thực sự như thế.
Nhờ việc giải mã các hình thức văn chương, các văn phong, và mẫu mực văn chương của các Sách Lịch sử, nhà giải thích có thể tránh được việc phóng chiếu hoài mong của mình lên bản văn.
Một phạm trù khác của Gunkel vốn gây ảnh hưởng lên việc giải thích các Sách Lịch sử là Sitz im Leben, đặt khung cảnh vào đời thực của người ta. Theo Gunkel, các thể văn có liên hệ mật thiết với đời thực:
“Trong đời thực, các phụ nữ ca bài ca chiến thắng cho các chiến binh chiến thắng trở về. Trong đời thực, một số những người khóc mướn chuyên nghiệp đã sáng chế ra những lời truy điệu đầy xúc động cho những người đã qua đời. Vị tiên tri cất cao giọng nói như sấm sét trên cộng đồng đang tụ tập, có lẽ ở sân ngoài đền thánh... Từ những điển hình này, người ta có thể thấy các thể văn trong các trước tác xưa hẳn đã được dị biệt hóa bởi rất nhiều biến cố đa dạng của đời sống mà từ đó chúng đã được khai triển” (Gunkel, Introduction, 7).
Một khi các nhà giải thích có thể cá tính hóa Sitz im Leben của một đoạn văn nhất định nào đó, họ có thể nối kết nó với bối cảnh của nó và có thể xác định được việc giải thích đoạn văn đó. Trong các Sách Lịch sử, người ta có thể tìm được những khung cảnh như phạm vi gia đình, khung cảnh luật lệ và tư pháp, phạm vi thờ phượng, các định chế chính trị. Như thế, lời ai ca và tán tụng Saun và Benjamin của Đa-vít trong 2Sm 1 có thể dẫn nhập người đọc vào nghi thức tang chế cổ thời dành cho người anh hùng quá vãng. Các phần có tính duy sử biên của 1 và 2 Vua dẫn họ vào triều đình, các trình thuật hư cấu có thể dẫn trở lại các truyền thống gia đình và luật sĩ, và các thư trong Ét-ra và Nơ -Khe-Mia mở ra cho người đọc thế giới luật lệ và ngoại giao của Ba Tư.
(XI). Bản văn sau cùng và kế sách biên tập các Sách Lịch sử
Trong hậu bán thế kỷ 20, quả lắc bác học lại lắc khỏi khoa phê bình lịch sử. Các học giả, mục tử, và nhiều người đọc các Sách Lịch sử bị lạc trong khu rừng văn thể, các tầng lớp bản văn và biên tập và các cách giải thích khoa chép sử mâu thuẫn nhau. Việc phân chia bản văn thành nhiều tầng lớp khác nhau khiến tính thống nhất của sứ điệp Kinh thánh biến mất. Như một kết quả của việc nguyên tử hóa các tầng lớp và khung cảnh lịch sử không chắc chắn của chúng, các Sách Lịch sử không còn là hướng dẫn cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu nữa, hay là nền tảng cho các lập luận thần học, hay lịch sử cứu rỗi nữa.
Thành thử, các Sách Lịch sử được đọc trong hình thức sau cùng của chúng như một sự thống nhất văn chương và được phân tích bằng các phương pháp văn chương đồng đại (synchronic), như phê bình trình thuật, phân tích tu từ học và diễn thoại, nghiên cứu phản ứng người đọc, và phân tích ký hiệu học. Việc thay đồi chú ý này dẫn việc nghiên cứu các Sách Lịch sử vào các tiền đề lý thuyết mới và các phương thức có tính lý thuyết của khoa phê bình văn chương và các triết gia như Bakhtin, Ricoeur và Genette.
Đóng góp chính của các phương thức trên có hai mặt. Trước nhất, một số bất nhất trong các bản văn Kinh thánh từng bị coi như các dấu hiệu có nhiều soạn giả khác nhau được giải thích như các khí cụ trình thuật đặc trưng của thời kỳ đó. Điển hình rõ nhất là việc lặp lại cùng một chủ điểm vốn được coi như dấu mốc hiển nhiên của các nguồn khác nhau. Các nghiên cứu về những câu kép (doublets) và lặp đi lặp lại trong các sách lịch sử và các bản văn ngoài Kinh thánh chứng tỏ rằng các lặp đi lặp lại thường cố ý để nhấn mạnh một chủ đề nào đó, để tạo ra cấu trúc đồng tâm, để khai triển một chủ điểm thành hai hay nhiều hơn các giai đoạn, v.v... (xem 2V 17:24-41).
Hơn nữa, việc chú ý tới bản văn sau cùng cho thấy năng động tính nội tại của các sách lịch sử một cách không phương pháp phê bình lịch sử nào đã từng khám phá ra. Phương pháp quan trọng nhất đối với các sách lịch sử là việc nghiên cứu nghệ thuật trình thuật của Kinh thánh. Các học giả nghiên cứu các anh hùng đệ nhất và đệ nhị đẳng như Sa-un, Đa-vít, Khít-ki-gia (Hezekiah) và Khun-đa (Huldah), đã tập trung vào những từ khóa và ý nghĩa của nó trong đoạn văn, vào tính năng động nội tại của các đoạn văn, vào cấu trúc của chúng v.v... Cách đọc các sách lịch sử này trở thành phổ thông nơi người Công Giáo vì nó làm cho các sách lịch sử trở thành sống động, nó tỏ lộ điều này: các lưỡng nan tôn giáo và chính trị của các anh hùng trong Kinh thánh đều tương tự như các anh hùng của thời hiện đại.
Cuối cùng, khi các bản văn Kinh thánh hiển nhiên được coi như các soạn thảo của nhiều truyền thống bản văn khác nhau, các học giả tự hỏi liệu, bất chấp diễn trình biên tập phức tạp, bản văn sau cùng có được tổ chức như một thể thống nhất có ý nghĩa hay không. Các học giả nhấn mạnh rằng các nhà biên tập sau cùng đã cố gắng hết sức để cột các truyền thống khác nhau lại với nhau. Nhờ thế, trình thuật về Gia-róp-am (Jeroboam) I được nối kết với trình thuật về Giô-si-gia (Josiah) (1V 13:2 và 2V 21-23). Các câu truyện trong Thủ Lãnh được nối kết bằng một mẫu mực thần học: cứu rỗi-tội lỗi-trừng phạt-ăn năn-cứu rỗi (Tl 2-12). Để đạt mục đích này, một từ vựng mới đã được dẫn nhập vào việc nghiên cứu các sách lịch sử, như kỹ sảo soạn tác cố ý, kế sách soạn tác thận trọng bản văn sau cùng, người trình thuật, một độc giả tiềm ẩn v.v...
(XII). Các Sách Lịch sử trong qui điển Công Giáo
Các đóng góp không thể chối cãi của các nghiên cứu dị đại (diachronic) và đồng đại (synchronic) vẩn bỏ ngỏ nhiều câu hỏi, như có chăng sự mạch lạc nào trong trình thuật bao quát toàn bộ quá khứ của Israel chăng? Một vấn đề là trình bầy các dữ kiện và tái cấu trúc các phần của lịch sử và khoa chép sử của Israel; vấn đề khác là nghiên cứu việc các sử gia cổ thời tổ chức ra sao trình thuật tổng quan lịch sử của Israel. Cấu trúc và ý hướng của các trình thuật lịch sử tùy thuộc vào câu trả lời cho các câu hỏi sau đây: lịch sử ấy bắt đầu từ đâu? Nó bắt đầu từ A-đam như trong 1Sb 1, với việc ủy nhiệm cho Gio-suê (Gs 1), với việc ra đời của một thủ lãnh mới trong 1Sm 1, hay với cái chết của Đa-vít trong 1Vua? Nó kết thúc ở đâu? Nó kết thúc với việc cải tổ của Giô-si-gia như trong 2Vua 22-23, với việc trục xuất như trong 2Vua 25, với việc hồi hương từ lưu đầy như trong 2Sb 36, hay với việc chiếm cứ Giu-đa và chiến thắng Ni-ca-no (Nicanor) như trong 2Macabê 15? Các thời kỳ, các vua và các biến cố được tổ chức theo thứ tự nào? Có chăng một sơ đồ vòng tròn như trong Tl 2-12, một cốt chuyện trong đó, câu truyện Vua Sa-un đi song song với câu truyện Vua Đa-vít như trong 1-2Sm, một trình thuật đồng đại như trong 1-2Vua vốn đồng hộ hóa các vua của các vương quốc Bắc và Nam, hay một sơ đồ thẳng đường theo các thăng trầm của Giu-đa như trong 1-2Sb? Cuối cùng, cấu trúc của các lịch sử viết cũng được xác định bởi điều các luật sĩ nghĩ như cỗ máy lịch sử như nền thần học về sự phẫn nộ của Thiên Chúa (Tl 2), việc nên trọn lời tiên tri (các phần nói tiên tri trong 1-2Vua), lòng trung thành giữ giới răn của Thiên Chúa như trong Mcb 1-2 v.v...
Những câu hỏi trên khiến người đọc chú ý tới các đơn vị lớn hơn và trọn bộ gọi là các sách lịch sử. Trong khi các học giả thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau với một số dè dặt đều chia sẻ các phân tích đị đại và đồng đại được trình bầy ở trên, việc đọc các sách lịch sử như một thể thống nhất tùy thuộc qui điển sách thánh và việc giải thích toàn bộ lịch sử có khác nhau trong các truyền thống Do Thái, Thệ Phản, Chính Thống và Công Giáo.
Bên trong truyền thống Công Giáo, có 22 nghi lễ mà một số tuân theo các qui điển khác nhau một phần. Việc tổ chức các sách lịch sử trong Qui điển Công Giáo Rôma có luận lý khác với luận lý của Qui điển Do Thái là qui điển lồng Gio-suê – 2Vua vào các tiên tri, còn Rút, Ét-te, Ét-ra, Nơ-khe-mia và 1-2 Sử Biên lồng vào các Trước Tác. Việc tổ chức các sách lịch sử của Công Giáo Rôma trước nhất phản ảnh ý niệm diễn tiến theo đường thẳng của lịch sử. Lịch sử bắt đầu với Gio-suê và chạy qua thời kỳ các thủ lãnh, các chế độ quân chủ, lưu đầy, hồi hương từ lưu đầy, thời văn hóa Hy lạp thống trị Israel, và kết thúc với pax romana (hòa bình La Mã) (1Mcb 8). Việc tổ chức các sách lịch sử này đọc qua con mắt Kinh thánh Công Giáo (Cựu và Tân Ước)có chiếu kích Kitô học. Các sách lịch sử ngưng ở thời kỳ La Mã và các Tin Mừng lặp lại trình thuật với thời kỳ La Mã. Hơn nữa, Qui điển Công Giáo nối kết các sách lịch sử với Ngũ Thư như được trình bầy ở 1Sb 1-9. Nên việc trình bầy quá khứ của Israel bắt đầu với việc tạo dựng thế giới và kết thúc với thời kỳ La Mã, tức là, thời kỳ khi Chúa Giêsu Kitô sinh ra và tiếp tục cho tới tận cùng thế giới trong sách Khải Huyền. Việc tổ chức các sách Kinh thánh này đi vào một số biên niên sử Kitô giáo bắt đầu với việc tạo dựng thế giới và đi tới kỷ nguyên những người viết ra chúng. Qui điển Công Giáo và các biên niên sử lấy hứng từ chúng trình bầy một khai triển lịch sử diễn tiến, ngược với lối khai triển vòng tròn. Sau cùng, Qui điển Công Giáo cung cấp hai phân chia cho Cựu Ước: Ngũ Kinh và các sách lịch sử, và các sách Khôn ngoan-Tiên tri. Phân chia đầu trình bầy lịch sử đã khai triển ra sao từ A-đam cho tới Giu-đa Ma-ca-bê và các Tin Mừng nối tiếp biên niên sử từ Hoàng đế La Mã Augustus. Phân chia sau trình bầy 2 truyền thống tôn giáo – khôn ngoan và các tiên tri – dẫn người đọc tới việc xuất hiện lần thứ hai của Ê-lia trong Ma-la-khi 3:22-23. Và các Tin Mừng nhắc lại những câu này với nhân vật Gioan Tẩy giả như một Ê-lia mới. Mỗi khối trong Qui điển Công Giáo, theo cách riêng của nó, đã chuẩn bị cho việc xuất hiện kỷ nguyên Kitô giáo, trong khi Qui điển Do Thái kết thúc với 1-2 Sử Biên và chuẩn bị cho việc trở về Đất Hứa.
Có một khía cạnh độc đáo khác cho các sách lịch sử như đã được tổ chức trong Qui điển Công Giáo Rôma, tức việc lồng các trình thuật – Rút, Ét-te, Tôbia, và Giu-đi-tha- vào giữa các thu thập chép sử. Trong Qui điển Do Thái, Rút và Ét-te được đặt cùng với Diễm Ca, Ai Ca và Giảng viên (Qohelet) và do đó, làm thành bộ gọi là Megilloth. Chỗ đặt 5 trình thuật này trong Qui điển Công Giáo được hướng dẫn bởi các ghi chú theo thứ tự thời gian chứa trong các sách. Rút theo câu 1:1 được đặt vào thời các thủ lãnh và đó theo sau Sách Thủ Lãnh; Tôbia (1:15) nhắc tới việc hồi hương từ lưu đầy Ba-by-lon, còn Giu-đi-tha (1:1) được đặt theo thứ tự thời gian vào thời kỳ hậu lưu đầy và, do đó, được lồng vào sau 2 Biên niên sử và trước 1Ma-ca-bê. Các sách lịch sử trình bầy không những lịch sử các vua, như phần lớn khoa chép sử vẫn làm, mà còn lưu ý tới các thành phần bị đẩy qua bên lề các xã hội thời đó. Do đó, sách Rút đã thuật lại chuyện một góa phụ thời các Thủ lãnh lúc đói kém trầm trọng. Hiển nhiên không biên niên sử hoàng gia nào lại muốn kể câu chuyện của một góa phụ vô nghĩa, nhưng trong viễn ảnh Kitô giáo, ngay một góa phụ nghèo nàn cũng thuộc về gia phả Chúa Kitô (Mt 1:5). Các trình thuật khác minh họa các vấn đề của ngoại kiều sống trong triều đình Ba Tư (Sách Ét-te), các bối rối của một gia đình bị trục xuất (sách Tô-bia) và lòng can đảm của nữ anh hùng Do Thái đã lật ngược số phận Israel (sách Giu-đi-tha). Như thế, Qui điển Công Giáo thúc giục người đọc cân bằng lịch sử “cao”, tức lịch sử các vua chúa, anh hùng và các chiến dịch quân sự, với lịch sử “thấp”, tức lịch sử của dân thường, cả người nghèo lẫn người giầu.
(XIII). Sau bản văn và qui điển
Trong nhiều năm, việc giải thích các sách lịch sử qua các sơ đồ của các Giáo Phụ và nền thần học kinh viện đã thành qui phạm đối với người Công Giáo. Khi các phương pháp lịch sử và văn chương nhận được cơ sở trong khoa chú giải Công Giáo, các học giả không còn lưu ý tới việc Thánh Tôma Aquinô giải thích Kinh thánh ra sao và tập chú vào những gì Kinh thánh thực sự nói. Ngày nay, các học giả, một lần nữa, lại lưu ý tới những gì xẩy ra cho Kinh thánh sau khi Qui điển đã được ấn định. Xu hướng bác học này có một số tên như Lịchh sử giải thích, Lịch sử Hậu quả (History of Consequences), và Wirkungsgeschichte (Lịch sử Tác động). Các phương pháp này khảo sát việc các lối giải thích truyền thống đã phát sinh ra sao và tại sao chúng trở thành qui phạm. Thí dụ, Nữ hoàng Sơ-va (Sheba) và Vua Sa-lô-môn trở thành một đề tài quan trọng trong lối giải thích của Ki-tô giáo, chia thành hai luồng: chủ đề quán xuyến thứ nhất lấy hứng từ trình thuật Kinh thánh (1V 10:1-13). Việc đọc các câu này dưới ánh sáng Tv 45 và Công Vụ 8:27 trở thành lối giải thích Ki-tô giáo truyền thống chuyên hiểu nữ hoàng Sơ-va như nguyên mẫu dân ngoại đem các phẩm vật phong phú tới dâng cho Sa-lô-môn. Bà là tiền ảnh của Ba Vua đem lễ vật dâng kính Chúa Giêsu và lối giải thích này trở thành nguồn cảm hứng cho các hoạt động truyền giáo. Chủ đề quán xuyến thứ hai theo truyền thống bình dân và không có cơ sở trong Kinh thánh: nữ hoàng Sơ-va trở thành vợ Vua Sa-lô-môn và được ngự trên ngai cạnh ông. Do đó, nữ hoàng Sơ-va là tiền ảnh của việc phong nữ vương cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Nói một cách tổng quát, các sách lịch sử được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong truyền thống Công Giáo. Thứ nhất, cho các mục đích thần học và tín điều (Nữ hoàng Sơ-va là tiền ảnh của Ba Vua và gián tiếp nói tới Chúa Ki-tô); thứ hai, cho mục đích huấn giáo (Nữ hoàng Sơ-va trở thành biểu tượng nhân đức và chiêm ngưỡng Ngôi Lời Thiên Chúa); thứ ba, cho mục đích chính trị và ý thức hệ (Nữ hoàng Sơ-va đến để nghe sự khôn ngoan của Vua Sa-lô-môn, trong khi người Do Thái từ khước lắng nghe đức khôn ngoan của Chúa Giêsu như đã được bài giảng phản Do Thái của Thánh Ephrem quả quyết); cuối cùng, như một cảm hứng cho óc tưởng tượng nghệ thuật.
(XIV). Có chăng một lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo?
Các lối giải thích các sách lịch sử khác nhau được trình bầy ở trên mời gọi chúng ta xem xét một số mô hình Công Giáo dùng để giải thích các sách lịch sử.
Thứ nhất, người Công Giáo nên coi bản văn nào có tính qui phạm để họ suy tư trong khoa chú giải và thần học đặc biệt trong trường hợp 1Sm-2Vua và Ét-te? Các truyền thống Do Thái và một số truyền thống Thệ Phản chọn bản Masoretic của Do Thái. Tương tư như thế, đối với các nghi lễ Công Giáo Đông Phương, phiên bản qui phạm của Kinh thánh trở thành các bản văn Byzantine, Slavonic, Coptic, Syriac, hay Ethiopic. Nhưng đối với Công Giáo Rôma, tình hình có khó khăn hơn. Thứ nhất, không người Công Giáo Rôma nào có thể bác bỏ giá trị của bản Do Thái và, do đó, các bản chép tay tiếng Do Thái trở thành điểm tham chiếu cho bất cứ nghiên cứu chú giải nào. Thứ hai, các vị viết Tân Ước và các công đồng tiên khởi của Giáo Hội sử dụng bản văn Hy Lạp và các tín điều đầu tiên dựa vào các bản tiếng Hy Lạp và do đó, người Công Giáo không thể nào loại bỏ các bản chép tay bằng tiếng Hy Lạp khỏi giáo huấn và lời cầu nguyện của họ được. Thứ ba, truyền thống kinh viện thời trung cổ làm việc trên bản văn Latinh và, do đó, bản Phổ thông bằng tiếng Latinh đã tạo thành một phần không thể tách biệt của việc người Công Giáo đọc Kinh thánh. Tính đa nguyên về bản văn này cung cấp cho người Công Giáo thuộc nghi lễ Rôma không bị trói buộc vào một truyền thống bản văn duy nhất và vượt quá lời lẽ của Lời.
Thứ hai, lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo loại bỏ hai thái cực: hoặc đọc các sách theo giá trị bề mặt hoặc coi chúng như sản phẩm của suy đoán thần học của luật sĩ mà không có bất cứ cơ sở lịch sử nào. Lối giải thích Công Giáo nào cũng nên bén rễ sâu vào lịch sử, chỉ rõ các phương pháp viết sử nhờ đó, các tác giả hiện thực hóa lịch sử cho các người đọc của họ, và cuối cùng bật mí các phương diện thần học. Lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo không nên tự giới hạn vào lịch sử các tôn giáo, nhưng nhờ nắm vững tinh thần của Quii điển Công Giáo, suy tư về chính dĩ vãng của chúng ta.
Thứ ba, các người đọc Công Giáo không nên giới hạn lối giải thích của họ vào một phương pháp duy nhất, bất kể là đồng đại, dị đại, duy nữ, hay giáo luật, nhưng nên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau tùy loại bản văn. Độc giả Công Giáo nào cũng không nên loại bỏ một số phương pháp luận như phương pháp phê bình lịch sử, vì đôi khi nó mang lại những kết quả lưỡng nghĩa. Việc loại bỏ như thế làm nghèo nàn chiều sâu của các sách lịch sử.
Thứ tư, việc nghiên cứu các thể văn và Sitz im Leben [vị trí trong cuộc sống] và các áp dụng muôn hình vạn trạng của chúng đã trở thành một phần không thể tách biệt của lối đọc các sách lịch sử của Công Giáo. (DV 12). Phương thức này, một đàng, cung cấp cho bất cứ người đọc nào cơ hội giải quyết vấn đề lịch sử tính và, đàng khác, đào xới được các khuôn mẫu tôn giáo và văn hóa và cuối cùng khai quật được các sứ điệp thần học nằm dưới các đoạn văn của các sách lịch sử vừa đáng tin cậy về phương diện lịch sử vừa đáng nghi vấn cũng về phương diện lịch sử. Các nghiên cứu về khoa chép sử, được bổ túc bởi các nghiên cứu các sách lịch sử bên trong Qui điển và truyền thống Công Giáo, đem lại cho người đọc các khí cụ để hiện thực hóa các sách lịch sử cho các cử tọa mới.
VietCatholic TV
Thắng lớn: Ukraine giải phóng thị trấn Mali Shcherbaky. Tomahawk: Moscow cảnh cáo kết thúc bi thảm
VietCatholic Media
03:08 13/10/2025
1. Quân đội Ukraine tuyên bố giải phóng thị trấn ở tỉnh Zaporizhzhia
Quân đội Ukraine đã giải phóng thị trấn Mali Shcherbaky ở tỉnh Zaporizhzhia, Tiểu đoàn tấn công độc lập số 24 “Aidar” của Ukraine cho biết như trên hôm Thứ Hai, 13 Tháng Mười.
Theo tuyên bố, các đơn vị của Tiểu đoàn Aidar, cùng với Trung đoàn tấn công độc lập số 33 đã kéo cờ Ukraine lên Mali Shcherbaky vào hôm Chúa Nhật, 12 Tháng Mười.
“ Thị trấn nằm dưới sự kiểm soát của Lực lượng Phòng vệ Ukraine”, đồng thời công bố đoạn phim được tường trình ghi lại cảnh binh lính Ukraine có mặt trong làng.
Mali Shcherbaky nằm trong khu vực Orikhiv thuộc tỉnh Zaporizhzhia, đông nam Ukraine. Quân đội Nga đã tiến về thị trấn này vào đầu mùa hè. Kể từ đó, nó vẫn nằm trong vùng xám tranh chấp hoặc nằm dưới sự kiểm soát của Nga, theo nhóm giám sát chiến trường nguồn mở DeepState.
Đầu tháng 9, Tổng tư lệnh Oleksandr Syrskyi cho biết lực lượng Nga đã lên kế hoạch phát động một cuộc tấn công lớn theo hướng Zaporizhzhia nhưng quân đội Ukraine đã ngăn chặn hoạt động này.
Hiện nay, Mạc Tư Khoa chiếm khoảng 70% diện tích tỉnh Zaporizhzhia, nhưng thủ phủ của khu vực này, Zaporizhzhia, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ukraine.
Trong tháng qua, lực lượng Ukraine đã đẩy lùi quân đội Nga, những người đã tiến được 15-20 km về phía xa lộ chiến lược Dobropillia–Kramatorsk, gần thành phố đang tranh chấp Pokrovsk.
Trong khi đó, lực lượng Nga vẫn tiếp tục tiến vào tỉnh Dnipropetrovsk lân cận mặc dù Syrskyi gọi sự hiện diện của quân đội Nga ở đó chỉ mang tính “tuyên bố”.
[Kyiv Independent: Ukraine liberates village in Zaporizhzhia Oblast, military claims]
2. Tổng thống Donald Trump bay tới Israel và tuyên bố: ‘Chiến tranh đã kết thúc’
Tổng thống Trump đã tới Israel và Ai Cập để giám sát việc trao đổi con tin khi Giai đoạn một của thỏa thuận hòa bình với Hamas sắp hoàn tất.
Phát biểu với các phóng viên trên chuyên cơ Không lực Một, Tổng thống Trump nói: “Chiến tranh đã kết thúc, các bạn hiểu điều đó mà.”
Tổng thống cũng đã nói chuyện với các phóng viên trước khi lên máy bay, nói với họ rằng “mọi người đều rất hào hứng về khoảnh khắc này” và gọi đây là “một sự kiện rất đặc biệt”.
“Và các nước Hồi giáo và Ả Rập cũng đang reo hò - tất cả mọi người đều reo hò cùng một lúc, điều này chưa từng xảy ra trước đây. Thông thường, nếu có một nước reo hò thì nước kia lại không”, Tổng thống Trump nói, đồng thời cho biết thêm rằng “được tham gia là một vinh dự”.
“Đây sẽ là điều chưa từng xảy ra trước đây”, Tổng thống Trump nói.
[Newsweek: Donald Trump Flies to Israel and States: ‘The War Is Over’]
3. Don Bacon của Đảng Cộng hòa cho biết Hegseth đang ngăn cản Tổng thống Trump tấn công Nga tầm xa
Dân biểu Đảng Cộng hòa Nebraska Don Bacon cáo buộc Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth “thường xuyên” ngăn chặn việc Tổng thống Trump cho phép Ukraine tấn công tầm xa vào Nga.
Ukraine đã tìm kiếm sự cho phép của Tổng thống Trump để sử dụng vũ khí tầm xa của Mỹ nhằm tấn công các mục tiêu sâu bên trong nước Nga, chẳng hạn như các căn cứ không quân và nhà máy đang hỗ trợ cuộc xâm lược của Mạc Tư Khoa, nhằm gây áp lực lớn hơn lên Điện Cẩm Linh để đạt được hòa bình.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn thận trọng khi cho phép Ukraine sử dụng vũ khí tầm xa chống lại Nga, vì lo ngại điều này có thể khiến xung đột leo thang ngoài tầm kiểm soát và có nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh trực tiếp giữa Nga và NATO.
Tổng thống Trump đã cố gắng chấm dứt chiến tranh ở Ukraine nhưng ông ngày càng thất vọng với việc Putin tiếp tục và gia tăng căng thẳng xung đột, ngay cả sau khi hai nhà lãnh đạo gặp nhau tại Alaska vào ngày 15 tháng 8. Trong một sự thay đổi đáng kể so với lập trường trước đó, Tổng thống Trump đã viết trên nền tảng Truth Social của mình vào ngày 23 tháng 9 rằng ông nghĩ Ukraine, với sự giúp đỡ của các đồng minh NATO ở Âu Châu, có thể giành lại lãnh thổ bị Nga chiếm giữ.
“Tòa Bạch Ốc đã cho phép Ukraine tấn công tầm xa vào Nga. Nhưng Ngũ Giác Đài thường xuyên ngăn chặn”, Bacon, một chuẩn tướng Không quân đã nghỉ hưu và là thành viên của Ủy ban Quân vụ Hạ viện, đã đăng trên X.
“Ai là Tổng Tư lệnh? Đảng Cộng hòa chỉ trích Tổng thống Biden vì đã ngăn chặn các cuộc tấn công tầm xa của Ukraine. Vậy mà… Bộ trưởng Quốc phòng Hegseth cũng đang làm điều tương tự. Chúng tôi muốn tự do chiến thắng.”
Bacon đã chia sẻ một đoạn clip về Đặc phái viên của Tổng thống Trump về Ukraine, Tướng Keith Kellogg, nói rằng “mọi người nên làm theo những gì tổng thống nói” vì ông ấy đã được bầu và là “Tổng tư lệnh, theo Hiến pháp, và mọi người đều phải tuân theo”.
Kellogg, người xuất hiện trên chương trình “The Sunday Briefing” của Fox News, được người dẫn chương trình Jacqui Heinrich yêu cầu làm rõ liệu Tổng thống Trump có cho phép Ukraine sử dụng vũ khí tầm xa chống lại Nga hay không.
“Tôi nghĩ rằng sau khi đọc những gì ông ấy đã nói, và đọc những gì Phó Tổng thống Vance đã nói, cũng như Ngoại trưởng Rubio, câu trả lời là có. Hãy tận dụng khả năng đánh sâu. Không có nơi nào gọi là nơi trú ẩn cả,” Kellogg nói.
Ukraine từ lâu đã kháng cáo lệnh hạn chế sử dụng vũ khí tầm xa của Hoa Kỳ.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy hôm thứ Hai đã nhắc lại lời kêu gọi gây thêm áp lực lên Nga để chấm dứt chiến tranh.
“Trong những tuần này, trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đang diễn ra, Nga thực sự đã tận dụng từng ngày, từng giờ để tấn công Ukraine,” Tổng thống Zelenskiy phát biểu trên X. “Họ đã bác bỏ mọi đề xuất hòa bình chân chính và xứng đáng chịu áp lực thực sự mạnh mẽ.”
[Newsweek: GOP’s Don Bacon Says Hegseth Blocking Trump on Long-Range Russia Strikes]
4. Hoa Kỳ giúp Ukraine tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga, Financial Times đưa tin
Tờ Financial Times, đưa tin vào ngày 12 tháng 10, trích dẫn lời các quan chức Ukraine và Mỹ giấu tên, rằng Hoa Kỳ đã hỗ trợ Ukraine tiến hành các cuộc tấn công vào các địa điểm năng lượng của Nga trong nhiều tháng.
Các cuộc tấn công của Ukraine vào các cơ sở dầu mỏ của Nga đã tăng cường đáng kể vào mùa hè này, làm gián đoạn hoạt động và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu nhiên liệu trên toàn quốc.
Theo tờ báo, tình báo Hoa Kỳ đã cung cấp cho Kyiv dữ liệu tấn công vào các nhà máy lọc dầu lớn và cơ sở hạ tầng của Nga nằm xa tiền tuyến.
Sự hỗ trợ của Mỹ được tường trình bao gồm việc giúp lập kế hoạch tuyến bay, thời gian, độ cao và chiến thuật cho máy bay điều khiển từ xa của Ukraine, cho phép chúng trốn tránh hệ thống phòng không của Nga.
Các nguồn tin nói với Financial Times rằng Hoa Kỳ tham gia vào mọi giai đoạn lập kế hoạch tác chiến, mặc dù Kyiv vẫn kiểm soát việc lựa chọn mục tiêu, với việc Washington tư vấn về các điểm yếu của mục tiêu.
Theo nguồn tin của Financial Times, động thái này cũng là một phần trong nỗ lực phối hợp nhằm làm suy yếu nền kinh tế của Putin và gây áp lực buộc ông phải ngồi vào bàn đàm phán.
Theo tờ Financial Times, máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công ít nhất 16 trong số 38 nhà máy lọc dầu của Nga kể từ tháng 8 năm 2025, khiến kim ngạch xuất khẩu dầu diesel xuống mức thấp nhất kể từ năm 2020.
Kyiv đã thúc giục các đối tác phương Tây thắt chặt lệnh trừng phạt đối với ngành năng lượng của Nga, với lý do rằng việc cắt giảm doanh thu từ dầu mỏ của Mạc Tư Khoa sẽ làm suy yếu thêm khả năng tài trợ cho cuộc xâm lược Ukraine.
Cả Hoa Kỳ và Ukraine đều chưa chính thức bình luận về những báo cáo này.
Vào cuối tháng 9, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ủng hộ các cuộc tấn công của Ukraine vào các cơ sở năng lượng của Nga, trong khi Mạc Tư Khoa tiếp tục các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine và tiếp tục tấn công các khu vực dân sự.
Một số cơ quan truyền thông đưa tin vào tháng 7 rằng Tổng thống Trump đã hỏi Tổng thống Zelenskiy một tháng trước đó liệu Kyiv có thể tấn công Mạc Tư Khoa hoặc St. Petersburg nếu được cung cấp vũ khí tầm xa của Mỹ hay không. Tổng thống Zelenskiy được tường trình đã trả lời rằng một cuộc tấn công như vậy có thể thực hiện được nếu Mỹ cung cấp vũ khí cần thiết.
Tin tức này xuất hiện khi Tổng thống Trump dường như đang cân nhắc việc chuyển hỏa tiễn hành trình Tomahawk cho Ukraine, điều này sẽ tăng cường khả năng tấn công các mục tiêu quân sự của Nga của Kyiv.
[Kyiv Independent: US helps Ukraine target Russian energy infrastructure, FT reports]
5. Tổng thống Trump kêu gọi Quốc hội điều tra vụ luận tội “lừa đảo” năm 2019 về Ukraine
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói vào ngày 12 tháng 10 kêu gọi khôi phục cuộc điều tra về thủ tục luận tội năm 2019 đối với ông.
“ Vụ lừa đảo luận tội (của tôi!) ở Ukraine là một trò lừa bịp bất hợp pháp lớn hơn nhiều so với Watergate,” Tổng thống Trump nói.
Tổng thống Trump đã cáo buộc Dân biểu Adam Schiff, khi đó là phó chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện, về tội tham nhũng và gian dối trong quá trình điều tra, và ông kêu gọi Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền khác mở lại vụ án.
Adam 'Schiffty' Schiff thật là bất lương và tham nhũng. Quá nhiều luật lệ và nghi thức đã bị vi phạm, và đơn giản là bị phá vỡ!!!”
Phiên tòa luận tội tập trung vào cuộc điện thoại giữa Tổng thống Trump và Tổng thống Volodymyr Zelenskiy vào năm 2019, trong đó Tổng thống Trump bị cáo buộc giữ lại viện trợ quân sự nhằm gây áp lực buộc Tổng thống Zelenskiy điều tra Hunter Tổng thống Biden, con trai của Tổng thống Joe Biden.
Vào thời điểm đó, Tổng thống Zelenskiy cho biết cuộc gọi điện thoại là “bình thường”. Sau đó, khi cuộc điều tra đang diễn ra, Tổng thống Zelenskiy nói, “Tôi xin lỗi, nhưng tôi không muốn dính líu” đến cuộc bầu cử Hoa Kỳ.
Tổng thống Trump đã từng cảm ơn Tổng thống Zelenskiy vì giữ khoảng cách với cuộc điều tra luận tội.
Tổng thống Trump phủ nhận các cáo buộc, mô tả chúng là có động cơ chính trị. Thượng viện cuối cùng đã tha bổng ông, cho phép ông tiếp tục tại vị.
[Kyiv Independent: Trump calls on Congress to investigate 2019 “hoax” impeachment over Ukraine]
6. ‘Khoảnh khắc rất bi thảm’ - Mạc Tư Khoa lo ngại về khả năng cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine
Khả năng cung cấp hỏa tiễn Tomahawk của Hoa Kỳ cho Ukraine đã làm dấy lên “mối quan ngại cực độ” tại Điện Cẩm Linh, nơi cảnh báo rằng cuộc chiến đã đạt đến “thời điểm rất kịch tính” với căng thẳng leo thang từ mọi phía.
Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết: “Chủ đề về Tomahawk là vấn đề cực kỳ đáng quan ngại” và nói thêm rằng “Đây thực sự là thời điểm rất kịch tính khi căng thẳng đang leo thang từ mọi phía”.
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đề cập đến vấn đề này vào ngày 6 tháng 10, nói rằng ông cần biết mục đích sử dụng hỏa tiễn của Ukraine trước khi đồng ý cung cấp, vì ông không muốn leo thang chiến tranh. Tuy nhiên, ông cũng cho biết ông đã “đại khái đưa ra quyết định” về vấn đề này.
Tomahawk là hỏa tiễn hành trình tầm xa, cận âm, được thiết kế cho các cuộc tấn công chính xác. Với tầm bắn từ 1.600 đến 2.500 km, nó sẽ cho phép Kyiv tấn công các mục tiêu xa tới tận Siberia.
Trong khi đó, Peskov nhấn mạnh những gì ông gọi là tác động nghiêm trọng của tầm bắn này, lưu ý rằng một số phiên bản cũ hơn của hỏa tiễn này có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, theo Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Hoa Kỳ.
“Hãy tưởng tượng: một hỏa tiễn tầm xa được phóng đi và đang bay, và chúng ta biết rằng nó có thể mang đầu đạn hạt nhân. Liên bang Nga nên nghĩ gì? Nga nên phản ứng thế nào? Các chuyên gia quân sự ở nước ngoài nên hiểu điều này”, ông Peskov nói.
Putin trước đây đã cảnh báo rằng việc cung cấp những hỏa tiễn này sẽ là “một giai đoạn leo thang mới về phẩm chất”, khẳng định rằng chúng không thể được sử dụng nếu không có sự tham gia trực tiếp của quân nhân Hoa Kỳ.
Cuộc đối đầu leo thang này là cuộc xung đột đẫm máu nhất ở Âu Châu kể từ Thế chiến thứ hai, khi các quan chức Nga coi đây là một cuộc xung đột “nóng” với phương Tây. Putin coi cuộc chiến này là một điểm then chốt bắt nguồn từ những gì ông mô tả là sự sỉ nhục của phương Tây đối với Nga sau năm 1991, trong khi Ukraine và các đồng minh lên án đó là một hành động chiếm đoạt đất đai theo kiểu đế quốc.
[Kyiv Independent: 'Very dramatic moment' — Moscow concerned over possible Tomahawk missiles supplies to Ukraine]
7. Tổng thống Zelenskiy và Tổng thống Trump gọi điện lần thứ hai trong 2 ngày, thảo luận về khả năng phòng không và tầm xa của Ukraine
Hôm Thứ Hai, 13 Tháng Mười, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 12 tháng 10 ông đã nói chuyện với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump lần thứ hai trong hai ngày.
Tổng thống Zelenskiy mô tả cuộc điện đàm gần đây là “rất hiệu quả”. Theo ông, hai nhà lãnh đạo đã thảo luận về hỗ trợ phòng không và các cuộc tấn công tầm xa, trong bối cảnh Nga tăng cường các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine.
“Tổng thống Trump nắm rõ mọi thông tin đang diễn ra”, Tổng thống Zelenskiy nói.
Cuộc gọi trước đó giữa Tổng thống Zelenskiy và Tổng thống Trump diễn ra vào ngày 11 tháng 10. Hai bên đã thảo luận về các cuộc tấn công của Nga vào lưới điện của Ukraine, các thỏa thuận tăng cường phòng không của Ukraine và nỗ lực hòa bình của Hoa Kỳ ở Trung Đông.
Tổng thống Zelenskiy cho biết cuộc gọi thứ hai tập trung vào các vấn đề cụ thể đã được lên kế hoạch trong cuộc gọi trước đó và hai nhà lãnh đạo đã “xem xét mọi khía cạnh của tình hình”.
Tin tức này xuất hiện trong bối cảnh có báo cáo rằng Hoa Kỳ đã giúp Ukraine tấn công cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga trong nhiều tháng bằng cách cung cấp dữ liệu mục tiêu cho Kyiv.
Cuộc gọi giữa Tổng thống Zelenskiy và Tổng thống Trump ngày 11 tháng 10 cũng liên quan đến khả năng cung cấp hỏa tiễn hành trình Tomahawk cho Ukraine, điều này sẽ tăng cường khả năng tấn công các mục tiêu quân sự của Nga của Kyiv, theo Axios.
Tổng thống Zelenskiy phát biểu trong bài phát biểu buổi tối ngày 12 tháng 10 rằng: “Chúng tôi thấy và nghe rằng Nga lo ngại người Mỹ có thể cung cấp cho chúng tôi hỏa tiễn Tomahawk, điều này báo hiệu rằng loại áp lực này có thể có hiệu quả trong việc đạt được hòa bình”.
Vẫn chưa rõ liệu có quyết định nào được đưa ra về vấn đề này trong các cuộc thảo luận hay không.
Vào ngày 6 tháng 10, Tổng thống Trump cho biết ông đã “đưa ra quyết định” về việc có cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine hay không, nhưng muốn “tìm hiểu xem họ đang làm gì với chúng”.
[Kyiv Independent: Zelensky, Trump hold second phone call in 2 days, discuss Ukraine's air defense, long-range capabilities]
8. Lindsey Graham nói rằng ‘chủ quyền của Palestine’ là điều có thể
Giữa cuộc chiến Israel-Hamas, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham, một đảng viên Cộng hòa đến từ Nam Carolina, đã chỉ ra rằng hòa bình ở Trung Đông có thể đạt được trong cuộc phỏng vấn trên chương trình Meet the Press của NBC News với Kristen Welker vào Chúa Nhật.
“Lệnh ngừng bắn đang đến gần. Một cơn bão hòa hoàn hảo cho hòa bình đang hình thành ở Trung Đông. Nhưng liệu Hamas có giải giáp vũ khí hay không, liệu có thể kiểm soát được Gaza sau lệnh ngừng bắn mà tất cả chúng ta đều có thể chấp nhận hay không vẫn là một câu hỏi rất lớn”, ông Graham nói, đồng thời lưu ý rằng mặc dù có thể có một con đường cho một Palestine độc lập, có chủ quyền, nhưng điều đó đòi hỏi phải đáp ứng các điều kiện then chốt.
Tuy nhiên, vị thượng nghị sĩ cũng nhấn mạnh rằng ông “không tin tưởng Hamas nhiều hơn mức tôi có thể tin tưởng họ”.
Tổng thống Trump hôm thứ Năm tuyên bố Hamas, một nhóm chiến binh Palestine, và Israel đã đồng ý về giai đoạn đầu tiên trong kế hoạch hòa bình 20 điểm của ông với một thỏa thuận ngừng bắn cho Gaza, làm dấy lên hy vọng về một kết thúc lâu dài hơn cho hai năm chiến tranh tàn khốc bắt đầu khi Hamas tấn công Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, khiến 1.200 người thiệt mạng và 251 người khác bị bắt làm con tin. Trong khi đó, theo Bộ Y tế Gaza, hơn 67.000 người Palestine đã thiệt mạng trong cuộc tấn công của Israel.
Quân đội Israel cho biết lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào trưa giờ địa phương hôm thứ Sáu, khi các lực lượng rút lui để kiểm soát khoảng một nửa lãnh thổ và người Palestine di tản đã trở về những gì còn sót lại của nhà cửa. Việc thực thi lệnh ngừng bắn đánh dấu sự khởi đầu của một khoảng thời gian đếm ngược 72 giờ, trong đó Hamas phải trả lại 20 con tin mà Israel tin là vẫn còn sống. Israel dự kiến sẽ thả 250 tù nhân Palestine và 1.700 người Gaza bị giam giữ sau vụ tấn công ngày 7 tháng 10.
Bình luận của Graham phản ánh cuộc tranh luận đang diễn ra về khả năng giải quyết vấn đề hai nhà nước và các yêu cầu về an ninh của Israel cũng như quyền tự quyết của người Palestine.
Trong buổi phỏng vấn trên chương trình Meet the Press, Welker nói với thượng nghị sĩ rằng “Kế hoạch 20 điểm của Tổng thống Trump mở ra cánh cửa cho nhà nước Palestine, nhưng Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã nói, 'Chúng tôi kiên quyết phản đối nhà nước Palestine' ngay cả sau khi ký kế hoạch”, và sau đó hỏi, “Liệu Israel có cần chấp nhận giải pháp hai nhà nước để bất kỳ nền hòa bình nào có thể tồn tại lâu dài không?”
[Newsweek: Lindsey Graham Says ‘Sovereign Palestine’ Possible]
9. ‘Qatar là bước ngoặt’: Cuộc ném bom Doha của Israel đã châm ngòi cho tiến trình hòa bình như thế nào
Chuyến đi Trung Đông sắp tới của Tổng thống Trump là đỉnh cao của năm tuần ngoại giao đang diễn ra sôi nổi vào thời điểm triển vọng hòa bình dường như đã bị phá vỡ.
Sau khi Israel ném bom Doha vào đầu tháng 9, Qatar, những bên trung gian hàng đầu giữa Israel và Hamas, đã muốn rút khỏi tiến trình hòa bình, một quan chức cao cấp của Tòa Bạch Ốc giấu tên cho biết để mô tả những nỗ lực ngoại giao.
Tổng thống Trump, người có mối quan hệ lâu dài với Qatar, đã đưa ra lời chỉ trích gay gắt đến bất ngờ về cuộc tấn công của Israel và sẽ sớm đưa ra lời bảo đảm an ninh chưa từng có để chứng minh cho lời hứa của mình rằng sẽ không có chuyện tương tự xảy ra nữa.
Tổng thống Trump đã dang rộng cành ô liu công khai của mình song song với hoạt động tiếp cận riêng tư của chính quyền ông tới Qatar và các nước Ả Rập khác.
Trong các cuộc thảo luận đó, các quan chức Hoa Kỳ đã đưa ra lập luận rằng vụ tấn công Doha là cơ hội để gây thêm áp lực lên Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu.
“Tổng thống đã trở nên thẳng thắn và rõ ràng hơn nhiều, và nhu cầu về một thỏa thuận hòa bình trở nên cấp thiết hơn sau vụ tấn công Doha”, một quan chức cao cấp của Tòa Bạch Ốc cho biết. “Điều này cho phép tổng thống gây áp lực tối đa lên Israel, và ông ấy đã làm được. Và nó thực sự đã buộc Israel phải chấp nhận hòa bình.”
Việc Tổng thống Trump gia tăng áp lực lên Israel trong năm tuần qua -- bao gồm cả việc thúc giục Netanyahu gọi điện xin lỗi Qatar từ Phòng Bầu dục -- cho thấy rõ vị tổng thống đã thay đổi lập trường về cuộc chiến ở Gaza kể từ khi nhậm chức. Chỉ trong vài tháng, ông đã chuyển từ việc đề xuất giải tỏa Gaza để nhường chỗ cho bất động sản giá cao và bật đèn xanh cho Israel san phẳng lãnh thổ này, sang yêu cầu Lực lượng Phòng vệ Israel rút quân và thả hàng ngàn tù nhân Palestine để đổi lấy 20 con tin Israel.
“Cuộc tấn công bất thành của Israel vào Qatar chính là bước ngoặt”, một nguồn tin thân cận với Tòa Bạch Ốc giấu tên cho biết. “Tổng thống Trump đã tận dụng điều này làm đòn bẩy, không chỉ khiến Bibi xin lỗi Thủ tướng Qatar mà còn gây áp lực buộc ông ta phải chấm dứt chiến tranh.”
Kế hoạch hòa bình 20 điểm vẫn giúp Israel đạt được nhiều mục tiêu của mình. Các con tin còn lại sẽ được trở về nhà và kế hoạch bao gồm một nhiệm vụ là phi cực đoan hóa Gaza và cho phép một chính quyền không có Hamas cai trị - hai yếu tố quan trọng trong yêu cầu của Israel. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng ân xá cho các phần tử khủng bố Hamas và Israel sẽ không còn quyền kiểm soát Dải Gaza.
Vào cuối tháng, Tổng thống Trump đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Ả Rập và Hồi giáo bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và hứa rằng ông sẽ không để Israel sáp nhập Bờ Tây.
Một quan chức cao cấp của Tòa Bạch Ốc cho biết: “Đó là một khoảnh khắc thực sự quan trọng khác trong căn phòng khi diễn ra các cuộc thảo luận chính đáng về chi tiết của một kế hoạch hòa bình”.
Tổng thống Trump đã nói rằng một “nền hòa bình vĩnh cửu” có thể sắp đạt được nhưng tâm trạng bên trong Tòa Bạch Ốc lại ôn hòa hơn khi các quan chức chủ chốt thừa nhận rằng bất kỳ thỏa thuận ngừng bắn nào cũng mong manh.
Tổng thống không có ý định có mặt khi các con tin Israel được thả, một khoảnh khắc chắc chắn sẽ rất xúc động. Tình trạng của các con tin có thể làm bùng phát căng thẳng trong thỏa thuận hòa bình vốn đã mong manh, nhưng hai năm bị giam cầm đã giúp một số người có cái nhìn tỉnh táo hơn về thực tế những gì sắp xảy ra.
“Thỏa thuận này đã được hoàn tất cách đây 10 ngày,” một cựu quan chức Bộ Ngoại giao từng phục vụ trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Trump và được giấu tên để thảo luận về thỏa thuận hòa bình cho biết. “Mười ngày là không đủ thời gian để biến những con người bên bờ vực chết đói, bị giam cầm dưới lòng đất suốt hai năm, thành những con người khỏe mạnh.”
Tổng thống Trump dự kiến sẽ phát biểu trước Quốc hội Israel vào thứ Hai sau chuyến dừng chân ngắn ngủi tại Ai Cập. Chuyến thăm của ông diễn ra trong bối cảnh cả những người chỉ trích lẫn ủng hộ ở Israel đều ca ngợi nỗ lực của ông trong việc đưa các con tin trở về nhà và chấm dứt cuộc chiến kéo dài hai năm, nhưng chính quyền và các đồng minh của Tổng thống Trump nhấn mạnh rằng vẫn còn nhiều điều có thể xảy ra sai sót.
“Con tin là hình ảnh tức thời duy nhất về cơ hội chính trị đáng hài lòng ở đây”, Jonathan Conricus, cựu phát ngôn viên của Lực lượng Phòng vệ Israel, gọi tắt là IDF và là thành viên cao cấp tại Quỹ Bảo vệ Dân chủ, cho biết. “Sau đó, sẽ là một thời gian dài đàm phán, hoạt động quân sự, những vòng vo và nhiều thứ tẻ nhạt, chi tiết, mà tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng tổng thống muốn tham gia. Và việc xây dựng quốc gia là một công việc hỗn loạn và tốn kém tài nguyên.”
[Politico: 'Qatar was the turning point': How Israel's bombing of Doha ignited a peace process]
10. Tư lệnh Hải quân cho biết Hòa Lan sẽ bàn giao tàu săn mìn cho Ukraine
Hòa Lan gần đây đã chuyển giao một tàu săn mìn lớp Alkmaar cho Ukraine, Tư lệnh Hải quân Oleksii Neizhpapa thông báo vào ngày 12 tháng 10.
Theo Neizhpapa, tàu thứ hai cùng loại dự kiến sẽ được bàn giao vào cuối năm 2025, trong khi quá trình đào tạo thủy thủ đoàn đã được tiến hành.
Tàu Alkmaar là tàu dò mìn thiết kế ba bên do Hòa Lan, Pháp và Bỉ cùng phát triển. Nó được sử dụng để phát hiện và rà phá mìn biển bằng sonar và các phương tiện điều khiển từ xa.
Việc chuyển giao diễn ra trong bối cảnh thủy lôi vẫn là mối đe dọa lớn ở Hắc Hải. Kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022, hàng trăm quả thủy lôi đã được thả xuống, gây nguy hiểm cho cả tàu dân sự và tàu quân sự.
Các tàu săn mìn là đóng góp quan trọng cho an ninh Hắc Hải và đóng vai trò chủ chốt trong việc bảo vệ các tuyến đường thương mại quan trọng và xuất khẩu nông sản từ các cảng của Ukraine vẫn đang bị đe dọa bởi các cuộc tấn công của Nga vào hoạt động vận chuyển thương mại.
Nhiều quốc gia cũng đã đóng góp vào nỗ lực rà phá bom mìn của Ukraine thông qua việc cung cấp thiết bị và đào tạo.
[Kyiv Independent: Netherlands delivers minehunter ship to Ukraine, Navy commander says]
11. NATO hạ thấp mối đe dọa từ Nga sau khi đóng cửa đường biên giới
Chính phủ Estonia cho biết các báo cáo về căng thẳng gia tăng ở biên giới với Nga là “phóng đại”, sau khi chính quyền nước này đóng cửa một con đường đi qua lãnh thổ Nga trong thời gian ngắn.
Estonia, giống như các quốc gia NATO khác nằm ở sườn phía đông của liên minh, lo ngại về mối đe dọa mà Điện Cẩm Linh có thể gây ra hơn nhiều so với các quốc gia xa Nga về mặt địa lý. Tháng trước, Tallinn cho biết ba máy bay chiến đấu của Nga, có khả năng mang hỏa tiễn hạt nhân tiên tiến, đã xâm phạm không phận Estonia trong 12 phút. Mạc Tư Khoa phủ nhận việc máy bay MiG-31 xâm phạm không phận NATO khi đang trên đường đến vùng lãnh thổ Kaliningrad của Nga.
Vụ việc xảy ra ngay sau khi ước tính có khoảng 20 máy bay điều khiển từ xa của Nga xâm nhập vào lãnh thổ Ba Lan, một thành viên NATO. Cả Warsaw và Tallinn đều kích hoạt Điều 4 của NATO, trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau thảo luận “bất cứ khi nào, theo ý kiến của bất kỳ bên nào, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị hoặc an ninh của bất kỳ bên nào bị đe dọa”.
“Những báo cáo cho rằng tình hình ở biên giới Estonia-Nga đang trở nên căng thẳng là bị phóng đại”, Ngoại trưởng Tallinn, Margus Tsahkna, cho biết trong một tuyên bố đăng trên mạng xã hội hôm Chúa Nhật. Ông nói rằng Nga “đang hành động quyết đoán và rõ ràng hơn trước, nhưng tình hình vẫn trong tầm kiểm soát”.
Bộ trưởng Tsahkna cho biết các quan chức Estonia hôm thứ Sáu đã phát hiện “bảy quân nhân Nga có vũ trang” ở phía Nga trên một con đường ở đông nam Estonia, nơi đang di chuyển vào lãnh thổ Nga. Chính quyền Estonia đã tạm thời dừng giao thông trên đường để tránh “mọi sự việc tiềm ẩn”, Bộ trưởng cho biết.
Mảnh đất nhỏ hình nêm của Nga, nhô ra khỏi Estonia, được gọi là Saatse Boot, và con đường dài khoảng 800 mét cắt vào lãnh thổ Nga. Du khách có thể lái xe qua Saatse Boot mà không cần dừng lại, nhưng không được phép đi chệch khỏi đường, đi bộ hoặc dừng lại trên lãnh thổ Nga.
Cảnh sát và biên phòng Estonia cho biết họ đã đóng cửa khẩu Saatse Boot vào thứ Sáu sau khi lính biên phòng phát hiện một “đơn vị quân nhân Nga đông hơn bình thường”. Hình ảnh và clip ngắn về một nhóm binh sĩ Nga có vũ trang, hầu hết đều đeo khẩu trang, đã được lan truyền rộng rãi trên mạng.
Bộ trưởng Nội vụ Estonia Igor Taro trả lời tờ Postimees hôm thứ Bảy rằng quân đội Nga dường như đã rời khỏi khu vực. Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga qua email để xin bình luận.
Tuyến đường này là một “dị thường lịch sử”, Tsahkna nói. Ông cho biết con đường sẽ đóng cửa trong tương lai và một tuyến đường mới đang được xây dựng.
[Newsweek: NATO State Plays Down Russia Threat After Closing Border Road]
12. Đài Loan ra mắt ‘Vòm’ phòng thủ hỏa tiễn chống lại Trung Quốc
Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức hôm thứ sáu đã công bố một mạng lưới phòng không nhiều lớp mới, được gọi là “T-Dome”, khi chính phủ của ông đẩy nhanh quá trình phát triển các hệ thống phòng thủ nội địa trong bối cảnh áp lực quân sự ngày càng tăng từ Trung Quốc.
Trung Quốc tuyên bố Đài Loan là lãnh thổ của mình và đã tăng mạnh hoạt động quân sự quanh hòn đảo này, bao gồm bảy cuộc tập trận quy mô lớn trong năm năm qua, nhằm gây áp lực lên chính quyền Đảng Dân tiến của Lai.
Để đáp lại, Đài Bắc đã kéo dài thời gian quân dịch bắt buộc từ bốn tháng lên một năm, tăng cường mua vũ khí từ nhà cung cấp hàng đầu là Hoa Kỳ và tăng nhẹ chi tiêu quốc phòng - những biện pháp đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nhà lập pháp đối lập.
Newsweek đã liên hệ với Bộ ngoại giao Đài Loan và Trung Quốc qua email để yêu cầu bình luận.
Trong bài phát biểu nhân dịp Quốc khánh Đài Loan, Tổng thống Lại Thanh Đức cho biết: “Chúng tôi sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng T-Dome, thiết lập hệ thống phòng không vững chắc với nhiều lớp phòng thủ, khả năng phát hiện cao cấp và đánh chặn hiệu quả, đồng thời tạo ra mạng lưới an toàn để bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân”.
Ông nói thêm rằng sáng kiến này sẽ kết hợp trí tuệ nhân tạo và các công nghệ tiên tiến khác để xây dựng một “hệ thống chiến đấu phòng thủ thông minh”, được thiết kế để tăng cường khả năng răn đe theo chiến lược chiến tranh bất đối xứng của Đài Loan - chiến lược tập trung vào việc phòng thủ chống lại kẻ thù lớn hơn bằng độ chính xác và khả năng cơ động thay vì sự ngang bằng về quân sự.
Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, đã tự trị kể từ năm 1949 sau khi đại lục bị lực lượng cộng sản xâm lược. Ngày nay, Đài Loan hoạt động như một quốc gia có chủ quyền trên thực tế với quân đội, chính phủ dân cử và quan hệ đối ngoại riêng, mặc dù Bắc Kinh khẳng định Đài Loan vẫn là một phần của Trung Quốc.
Tổng thống Lại Thanh Đức cho biết chi tiêu quốc phòng của Đài Loan hiện ở mức khoảng 2,5% GDP nhưng sẽ vượt quá 3% vào năm tới và đạt 5% vào năm 2030. Một số quan chức chính quyền Tổng thống Trump đã thúc giục Đài Bắc phân bổ tới 10% GDP cho quốc phòng, một đề xuất mà Đài Loan đã phản đối.
Bất chấp những khoản đầu tư gần đây, khoảng cách quân sự với Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng khi Bắc Kinh tiếp tục mở rộng kho vũ khí hỏa tiễn khổng lồ và tiến hành các cuộc xâm nhập gần như hàng ngày qua Eo biển Đài Loan - trước đây là ranh giới trên thực tế được cả quân đội Đài Loan và Trung Quốc tôn trọng.
Bài phát biểu của Tổng thống Lại Thanh Đức được đưa ra một ngày sau khi Bộ Quốc phòng Đài Loan công bố Báo cáo Quốc phòng Quốc gia năm 2025, trong đó cho biết năm nay chứng kiến tần suất và thời gian hoạt động của các chuyến bay quân sự Trung Quốc tại Eo biển Đài Loan cao nhất. Từ tháng 2 đến tháng 8, tổng số phi vụ của PLA đã vượt quá 495, một con số chưa từng có trong cùng kỳ năm 2023 hoặc 2024.
Trong bảy tháng đó, số chuyến bay qua đường trung tuyến eo biển Đài Loan dao động từ 278 đến 325 chuyến mỗi tháng. Năm 2024, chỉ có tháng 7 và tháng 8 đạt mức tương tự; năm 2023, không có tháng nào có mức độ hoạt động như vậy.
Bộ trưởng Quốc phòng Khưu Quốc Chính (Chiu Kuo-cheng, 邱国正) được trích dẫn trong báo cáo rằng: “Quân đội phải duy trì tinh thần 'sẵn sàng chiến đấu mọi lúc, chiến đấu khi cần thiết', tập trung vào việc xây dựng năng lực chiến tranh bất đối xứng và tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu chung”.
[Newsweek: Taiwan Unveils Missile Defense ‘Dome’ Against China]
Biệt kích Ukraine phá hoại hệ thống hỏa xa Nga ở Rostov. Mỹ có thể gây áp lực buộc Putin ngừng chiến
VietCatholic Media
15:38 13/10/2025
1. Những người ủng hộ Ukraine phá hoại cơ sở hạ tầng hỏa xa ở tỉnh Rostov của Nga, nhóm này tuyên bố
Những người ủng hộ Ukraine phá hoại cơ sở hạ tầng hỏa xa ở tỉnh Rostov của Nga, nhóm này tuyên bố
Ảnh chụp màn hình đám cháy bùng phát sau một hoạt động phá hoại được tường trình do các thành viên của phong trào du kích Atesh thực hiện tại tỉnh Rostov, Nga.
Nhóm du kích Atesh đã phá hoại cơ sở hạ tầng hỏa xa ở Tỉnh Rostov của Nga, làm gián đoạn hoạt động hậu cần của Nga, nhóm này tuyên bố trong bài đăng trên Telegram vào ngày 12 tháng 10.
Atesh cho biết các đặc vụ của nhóm này đã phá hủy một tủ điều khiển giao thông trên tuyến hỏa xa gần thị trấn Novocherkassk. Quân đội Nga được tường trình sử dụng tuyến hỏa xa này để vận chuyển quân nhân và thiết bị.
Nhóm này cho biết hoạt động phá hoại đã làm gián đoạn các tuyến tiếp tế của Nga, tạo ra “phản ứng dây chuyền chậm trễ” trong việc vận chuyển tới tiền tuyến phía nam.
Phong trào Atesh thường xuyên thực hiện các cuộc tấn công phá hoại trên lãnh thổ Nga và các khu vực bị Nga tạm chiếm ở Ukraine.
Các du kích quân đã báo cáo một vụ tấn công tương tự vào tuyến hỏa xa dẫn đến một nhà máy hàng không vũ trụ ở thành phố Smolensk của Nga vào tháng 9. Vài ngày trước đó, một tháp thông tin liên lạc tại một nhà máy phòng không ở thành phố Tula của Nga đã bị phá hủy, Atesh tuyên bố vào ngày 11 tháng 9.
Tỉnh Rostov của Nga nằm dọc biên giới Ukraine-Nga và giáp với các tỉnh Luhansk và Donetsk bị Nga tạm chiếm. Do nằm gần tiền tuyến, khu vực này thường xuyên là mục tiêu tấn công của Ukraine.
[Kyiv Independent: Pro-Ukrainian partisans sabotage railway infrastructure in Russia's Rostov Oblast, group claims]
2. Hơn 135.000 binh sĩ Nga thiệt mạng ở Ukraine được xác định qua cuộc điều tra của truyền thông
Hãng truyền thông độc lập của Nga Mediazona, phối hợp với BBC tiếng Nga, đã xác nhận danh tính của 135.100 quân nhân Nga thiệt mạng ở Ukraine.
Báo cáo mới nhất của cơ quan truyền thông này bao gồm giai đoạn từ ngày 24 tháng 2 năm 2022 đến ngày 9 tháng 10 năm 2025. Kể từ lần cập nhật cuối cùng vào cuối tháng 9, đã có thêm 2.485 quân nhân Nga được xác nhận là đã thiệt mạng.
Các nhà báo lưu ý rằng con số thực tế có thể cao hơn đáng kể vì thông tin đã được xác minh của họ đến từ các nguồn công khai như cáo phó, bài đăng của người thân, hoạt động trồng cây tưởng niệm cộng đồng, báo cáo của phương tiện truyền thông khu vực, tuyên bố từ chính quyền địa phương, thông báo của các nhà thờ, cùng nhiều nguồn khác.
Theo các phương tiện truyền thông, số người chết được báo cáo hiện bao gồm 38.200 tình nguyện viên, 18.450 tù nhân được tuyển mộ và 15.200 binh sĩ được huy động. Hơn 5.800 sĩ quan cũng được xác nhận đã thiệt mạng.
Vào tháng 8, Mediazona, hợp tác với kênh truyền thông độc lập Meduza của Nga, đã công bố một báo cáo ước tính rằng có khoảng 220.000 người Nga đã thiệt mạng trong cuộc chiến giữa nước này với Ukraine — mặc dù con số đó đã tăng lên kể từ đó.
Độ tuổi trung bình của những người lính tử trận là 35.
Mạc Tư Khoa và Kyiv hiếm khi chính thức báo cáo tổn thất của mình. Ukraine ước tính tổng số thương vong của Nga trong cuộc chiến toàn diện đã vượt quá 1 triệu người.
Trong cuộc họp báo với các phóng viên vào ngày 12 tháng 8, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy tuyên bố rằng tổn thất của Nga lớn hơn khoảng ba lần so với Ukraine, nhưng không nêu rõ tổng số tổn thất.
Bất chấp tổn thất nặng nề, Nga vẫn có thể tiến quân ở tỉnh Donetsk, miền đông Ukraine, nhờ bù đắp được thương vong bằng lính hợp đồng mới. Đổi lại, Kyiv đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là ở các đơn vị bộ binh trấn giữ tiền tuyến.
Tính đến ngày 11 tháng 10, Bộ Tổng tham mưu Ukraine ước tính Nga đã mất 1.121.570 quân tại Ukraine kể từ khi chiến tranh bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 2022. Những con số này phần lớn phù hợp với ước tính của các cơ quan tình báo phương Tây.
Tạp chí này đã công bố danh sách đầy đủ các thương vong được xác định lần đầu tiên vào tháng 2, đánh dấu ba năm kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine. Theo cơ quan truyền thông, các tình nguyện viên đã nhập và xác minh thủ công từng hồ sơ để tránh việc nhập trùng lặp vào cơ sở dữ liệu.
[Kyiv Independent: Over 135,000 Russian soldiers killed in Ukraine identified by media investigation]
3. Tổng thống Zelenskiy nói Tổng thống Trump có thể ‘gây áp lực buộc Putin ngừng chiến’ sau thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết ông hy vọng Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump có thể sử dụng chiến thuật gây áp lực tương tự như ông đã áp dụng khi làm trung gian cho lệnh ngừng bắn giữa Israel và Hamas để thúc đẩy Nga hướng tới hòa bình ở Ukraine.
“Tôi chúc mừng ông ấy vì tôi nghĩ đây là một thành công lớn của Hoa Kỳ và thành công lớn của ông ấy, của Tổng thống Trump, sự tham gia của chính ông ấy vào tiến trình này,” Tổng thống Zelenskiy nói với Fox News vào ngày 12 tháng 10. “Nó gửi tín hiệu cho chúng tôi và hy vọng rằng với áp lực như vậy mà Tổng thống Trump đã sử dụng ở Trung Đông để tạo ra hòa bình, tôi hy vọng rằng ông ấy sẽ sử dụng những công cụ tương tự nhiều hơn nữa để gây áp lực buộc Putin phải chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.”
Tổng thống Zelenskiy cho biết ông đã nói chuyện qua điện thoại với Tổng thống Trump, trong đó nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thừa nhận cuộc chiến ở Ukraine “khó khăn hơn” do quy mô của nó và tầm ảnh hưởng của Nga. Tổng thống Ukraine nhấn mạnh rằng Kyiv rất cần “phòng không thực sự” và khả năng tấn công tầm xa. “Chúng tôi biết ơn các đối tác nhưng chừng đó là chưa đủ... chúng tôi đã nói về Tomahawk và những thứ khác”, ông nói.
Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thắt chặt các biện pháp trừng phạt đối với nền kinh tế Nga để cắt đứt nguồn tài chính cho nỗ lực chiến tranh. “Đầu tiên là trừng phạt và thuế quan”, Tổng thống Zelenskiy nói. “Nếu Hoa Kỳ áp đặt tất cả các biện pháp trừng phạt lên Nga, trước hết là lĩnh vực năng lượng, và dĩ nhiên là lĩnh vực ngân hàng, thì họ sẽ không có cơ hội lách lệnh trừng phạt.”
Nhà lãnh đạo Ukraine hoan nghênh sự tham gia của Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump trong nỗ lực bảo đảm trẻ em Ukraine bị trục xuất về Nga được hồi hương. Ông cho biết khoảng 19.000 trẻ em đã được đưa về, nhưng cho đến nay mới chỉ có khoảng 1.600 trẻ được đưa trở về. “Đây là bước tiến lớn đầu tiên”, Tổng thống Zelenskiy nói và cho biết thêm rằng Ukraine rất biết ơn sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các nước khác.
Khi được hỏi liệu ông có cân nhắc đề cử Tổng thống Trump cho Giải Nobel Hòa bình hay không, Tổng thống Zelenskiy trả lời: “Nếu ông ấy gây áp lực và ngăn cản Putin, nếu ông ấy đưa Putin vào bàn đối thoại... tất nhiên, chúng tôi sẽ đề cử ông ấy và chúng tôi sẽ tự hào chúc mừng ông ấy.”
Trên chiến trường, Tổng thống Zelenskiy cho biết Nga đã không đạt được những bước tiến đáng kể và thay vào đó đang dùng đến “khủng bố năng lượng”. Ông cũng cảnh báo rằng các cuộc xâm nhập gần đây của máy bay điều khiển từ xa và máy bay phản lực Nga vào không phận NATO dường như là những cuộc thử nghiệm có chủ đích. “Tôi nghĩ đây là những bước đi thành công của Putin, cách gây áp lực lên Âu Châu”, ông nói. “Đó là một cuộc thử nghiệm... và điều này rất nguy hiểm cho Ba Lan, các nước Baltic và các nước khác.”
[Kyiv Independent: Zelensky says Trump could 'pressure Putin to stop war' following Gaza ceasefire agreement]
4. Nga đã phóng hơn 3.100 máy bay điều khiển từ xa, 92 hỏa tiễn, gần 1.360 quả bom trên không vào Ukraine trong một tuần, Tổng thống Zelenskiy nói
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 12 tháng 10 rằng quân đội Nga đã phóng hơn 3.100 máy bay điều khiển từ xa, khoảng 1.360 quả bom lượn và 92 hỏa tiễn các loại vào Ukraine trong tuần qua.
Trong nỗ lực mới nhằm phá vỡ mạng lưới năng lượng của Ukraine trước mùa đông, Nga đã thực hiện một số cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn vào các cơ sở năng lượng và khí đốt trong tuần này.
Một cuộc tấn công đêm 10/10 đã gây ra tình trạng mất điện trên quy mô lớn ở nhiều khu vực. Cơ sở hạ tầng dân sự cũng bị ảnh hưởng, gây ra thương vong ở các tỉnh Kyiv, Zaporizhzhia và Dnipropetrovsk.
Tổng thống Zelenskiy cho biết Nga đang tăng cường các cuộc tấn công khi sự chú ý của toàn cầu chuyển sang Trung Đông, nơi Israel và Hamas tuần này đã đồng ý về giai đoạn đầu tiên của kế hoạch hòa bình do Hoa Kỳ làm trung gian.
“Đó chính xác là lý do tại sao không thể cho phép giảm bớt áp lực”, tổng thống nói. “Các biện pháp trừng phạt, thuế quan và hành động chung chống lại những người mua dầu của Nga - những người tài trợ cho cuộc chiến này - đều phải được đặt lên bàn thảo luận.”
Đầu tuần này, Tổng thống Zelenskiy đã cảnh báo rằng công dân Nga sẽ phải chịu cảnh mất điện nếu Mạc Tư Khoa cố gắng gây ra tình trạng này cho Ukraine.
Một cuộc tấn công của Ukraine đã gây thiệt hại cho các cơ sở năng lượng tại thành phố Belgorod của Nga vào ngày 5 tháng 10, khiến gần 40.000 cư dân không có điện.
Theo Financial Times, Ukraine cũng đã tăng cường các cuộc tấn công vào các nhà máy lọc dầu của Nga, tấn công ít nhất 16 trong số 38 cơ sở của Nga kể từ tháng 8 năm 2025. Các cuộc tấn công đã đẩy xuất khẩu dầu diesel xuống mức thấp nhất kể từ năm 2020.
[Kyiv Independent: Russia launched over 3,100 drones, 92 missiles, nearly 1,360 aerial bombs against Ukraine in a week, Zelensky says]
5. Lecornu bổ nhiệm chính phủ Pháp mới sau khi tái bổ nhiệm
Thủ tướng Pháp Sébastien Lecornu đã công bố chính phủ tiếp theo của mình vào tối Chúa Nhật, chỉ hai ngày sau khi được tái bổ nhiệm.
Nội các mới bao gồm cả công chức và chính trị gia, bao gồm một số người được bổ nhiệm trong nỗ lực thành lập chính phủ đầu tiên của Lecornu tuần trước. Sự phẫn nộ về thành phần của chính quyền đó đã thúc đẩy vị thủ tướng 39 tuổi này đệ đơn từ chức chỉ sau 14 giờ, đẩy nước Pháp vào khủng hoảng.
Trong số những người được giữ lại có Bộ trưởng Tư pháp Gérald Darmanin, Bộ trưởng Ngân sách Amélie de Montchalin và Ngoại trưởng Jean-Noël Barrot, là những người theo đường lối trung dung đã giữ chức vụ từ đầu năm nay. Roland Lescure, một đồng minh của Tổng thống Emmanuel Macron, người từng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính trong chính phủ thất bại của Lecornu, cũng sẽ tiếp tục tại vị.
Ông Lescure đang đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là thông qua ngân sách cho năm tới trong khi vẫn phải cắt giảm thâm hụt chi tiêu công khổng lồ của Pháp, điều đang gây lo ngại cho thị trường tài chính và các tổ chức quốc tế. Ông Lecornu dự kiến sẽ công bố kế hoạch ngân sách cho năm tới vào thứ Hai, và sẽ trình bày các ưu tiên chính sách của mình trong bài phát biểu trước Quốc hội Pháp trong những ngày tới.
Catherine Vautrin, ứng cử viên Đảng Bảo thủ, từng giữ chức Bộ trưởng Y tế và Lao động dưới thời cựu Thủ tướng François Bayrou, sẽ là tân Bộ trưởng Quân đội. Hai ứng cử viên Đảng Bảo thủ Annie Genevard và Rachida Dati - người sẽ tranh cử thị trưởng Paris vào năm tới - sẽ tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Nông nghiệp và Bộ trưởng Văn hóa. Đảng này cho biết trong một tuyên bố vào tối Chúa Nhật rằng việc họ tham gia chính phủ đồng nghĩa với việc cả ba không còn có thể tuyên bố mình là thành viên của Đảng Cộng hòa bảo thủ. Tuyên bố cho biết ban lãnh đạo đảng đã bỏ phiếu phản đối việc tham gia chính phủ Pháp tiếp theo vào thứ Sáu tuần trước.
Cảnh sát trưởng Paris Laurent Nuñez sẽ đảm nhiệm chức Bộ trưởng Nội vụ, vị trí trước đây do lãnh đạo đảng Bảo thủ Bruno Retailleau, người không có tên trong chính phủ mới, đảm nhiệm. Cựu giám đốc công ty hỏa xa quốc doanh SNCF của Pháp, Jean-Pierre Farandou, sẽ đảm nhiệm chức Bộ trưởng Lao động.
“Một chính phủ hoạt động theo sứ mệnh đã được bổ nhiệm để lập ngân sách cho nước Pháp trước cuối năm nay. Tôi muốn cảm ơn những người phụ nữ và nam giới đã tự nguyện cam kết với chính phủ này, gạt bỏ lợi ích cá nhân và đảng phái của họ sang một bên “, Lecornu viết trong một bài đăng trên X. “Chỉ có một điều quan trọng: lợi ích của đất nước.”
Chính phủ này sẽ tồn tại được bao lâu vẫn còn phải chờ xem.
Đảng cực hữu Tập hợp Quốc gia và đảng cực tả Nước Pháp Bất khuất đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ bỏ phiếu bác bỏ chính phủ. Cả hai đảng này cùng nhau nắm giữ hơn một phần ba số ghế trong Quốc hội Pháp, cơ quan quyền lực hơn trong Hạ viện.
Đảng Xã hội, với sự ủng hộ ngầm sẽ là chìa khóa cho sự tồn tại của chính phủ Lecornu, đã chỉ ra rằng họ sẽ quyết định có nên lật đổ chính phủ mới hay không dựa trên các đề xuất cụ thể của Lecornu, đặc biệt là về khả năng đình chỉ cải cách lương hưu gây tranh cãi do Macron thông qua.
[Politico: Lecornu names new French government after reappointment]
6. Đe dọa áp thuế 100% của Tổng thống Trump khiến Bắc Kinh phản đối
Chính phủ Trung Quốc đã có động thái đáp trả mạnh mẽ lời đe dọa của Tổng thống Trump hôm thứ Sáu về việc áp thuế 100% lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nhằm đáp trả lệnh hạn chế xuất khẩu đất hiếm mới của Bắc Kinh. Trong phản ứng chính thức đầu tiên trước lời cảnh báo này, hôm Chúa Nhật, Bắc Kinh đã ra tín hiệu sẽ trả đũa bất kỳ mức thuế mới nào mà chính quyền Tổng thống Trump có thể áp đặt lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Bắc Kinh bác bỏ những lo ngại của Tổng thống Trump về các hạn chế mà họ công bố tuần trước - sẽ chặn xuất khẩu ngay cả những mặt hàng có chứa một lượng nhỏ đất hiếm của Trung Quốc vốn rất cần thiết cho các nhà sản xuất Hoa Kỳ - là “một trường hợp điển hình của 'tiêu chuẩn kép'“. Bắc Kinh cũng cho biết lệnh cấm xuất khẩu là một phản ứng chính đáng đối với những gì họ mô tả là các hạn chế thương mại “phân biệt đối xử” của chính quyền Tổng thống Trump đối với các mặt hàng bao gồm cả chất bán dẫn cao cấp.
“Việc đe dọa áp đặt thuế quan cao bất cứ lúc nào không phải là cách đúng đắn để hợp tác với Trung Quốc”, phát ngôn nhân Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết trong một tuyên bố hôm Chúa Nhật. “Lập trường của Trung Quốc về các cuộc chiến thuế quan vẫn nhất quán: chúng tôi không muốn chiến đấu, nhưng chúng tôi không sợ chiến đấu”. Phát ngôn nhân cho biết Bắc Kinh sẵn sàng đáp trả bằng “các biện pháp tương ứng” chưa được nêu rõ nếu Tổng thống Trump thực hiện lời đe dọa của mình.
Tổng thống Trump đã công bố mức thuế 100% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc - một mức tăng đáng kể so với mức thuế trung bình hiện tại là 55% đối với những mặt hàng này - trong một bài đăng gay gắt trên Truth Social vào thứ Sáu, trong đó ông chỉ trích động thái hạn chế xuất khẩu đất hiếm và các công nghệ liên quan của Bắc Kinh là “hoàn toàn chưa từng có trong Thương mại Quốc tế và là một sự ô nhục về mặt đạo đức trong quan hệ với các quốc gia khác”. Tổng thống Trump cho biết mức tăng thuế sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 cùng với các hạn chế xuất khẩu mới chưa được nêu rõ đối với “bất kỳ và tất cả các nhu liệu quan trọng”.
Trong một bài đăng trước đó trên Truth Social cùng ngày, Tổng thống Trump đã lên án các hạn chế thương mại của Trung Quốc là “nham hiểm và thù địch”, đồng thời chỉ trích Bắc Kinh vì đã làm đảo lộn mối quan hệ Mỹ-Trung mà ông từng tuyên bố là “rất tốt” trong sáu tháng qua. Ông cũng ám chỉ động thái của Bắc Kinh sẽ làm hỏng cuộc gặp được mong đợi từ lâu với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nam Hàn vào cuối tháng này, một lời đe dọa mà ông đã rút lại trong cuộc họp báo sau đó cùng ngày.
Lời lẽ của Tổng thống Trump phản ánh mối quan ngại của chính quyền về quyền lực mà Bắc Kinh nắm giữ thông qua sự thống trị toàn cầu của mình đối với chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng, từ khai thác đến chế biến.
Những vật liệu này — thường được gọi là nam châm đất hiếm — là thành phần chủ chốt trong sản xuất mọi thứ, từ xe điện đến thiết bị quét y tế. Sự thống trị của Bắc Kinh trong chuỗi cung ứng đất hiếm đặc biệt gây lo ngại cho ngành công nghiệp quốc phòng Hoa Kỳ, vốn cần khoáng sản do Trung Quốc cung cấp để sản xuất mọi thứ, từ đạn dược, vũ khí chính xác đến thiết bị nhìn đêm quân sự. Truyền thông nhà nước Trung Quốc đã đề cập đến điểm yếu này bằng cách tuyên bố tuần trước rằng các hạn chế xuất khẩu nhằm mục đích ngăn chặn “người dùng quân sự ở nước ngoài” tiếp cận công nghệ đất hiếm của nước này.
Bắc Kinh khẳng định biện pháp kiểm soát xuất khẩu đất hiếm là phản ứng hợp lý trước những động thái gần đây của chính quyền Tổng thống Trump nhằm gây tổn hại đến nền kinh tế Trung Quốc.
“Chỉ trong hơn 20 ngày, Hoa Kỳ đã liên tục áp dụng một loạt các biện pháp hạn chế mới đối với Trung Quốc”, phát ngôn nhân Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết. “Các hành động của Hoa Kỳ đã gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của Trung Quốc và làm suy yếu nghiêm trọng bầu không khí cho các cuộc đàm phán kinh tế và thương mại song phương.”
Diễn biến mới nhất trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung mà Tổng thống Trump đã khơi mào vào tháng 2 với việc áp đặt thuế quan liên quan đến vai trò của Trung Quốc trong nạn lạm dụng thuốc opioid ở Mỹ đã làm tổn hại đến mối quan hệ thương mại song phương vốn đã căng thẳng vài tuần trước thời hạn chót là ngày 10 tháng 11 cho một thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm khôi phục khả năng dự đoán cho các mối liên kết đó.
Đầu năm nay, hai nước đã đồng ý giảm thuế suất lên tới hơn ba chữ số, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục từ chối cho Trung Quốc tiếp cận các chip máy tính tinh vi nhất do lo ngại chúng có thể mang lại lợi ích cho tổ hợp công nghiệp-quân sự của Bắc Kinh. Trung Quốc đã đáp trả bằng một loạt các biện pháp trả đũa thương mại phi thuế quan và cắt giảm mua đậu nành Mỹ để củng cố vị thế đàm phán của mình trong các cuộc đàm phán thương mại đang diễn ra. Những căng thẳng này đã lan sang lĩnh vực vận tải biển khi Bắc Kinh tuyên bố hôm thứ Sáu rằng họ sẽ đáp trả kế hoạch tăng phí cảng đối với các tàu chở hàng do Trung Quốc sở hữu và vận hành của chính quyền Tổng thống Trump, có hiệu lực từ thứ Ba.
Mối đe dọa về việc nối lại các biện pháp thuế quan trả đũa và các biện pháp khác có thể gây tổn hại đến thương mại Mỹ-Trung sẽ khiến các nhà vận chuyển và bán lẻ lo ngại trước thềm mùa mua sắm lễ hội và làm dấy lên lo ngại về một đợt tăng lạm phát mới do thuế quan tăng cao. Điều này cũng đặt ra nghi ngờ về tính hữu ích của bốn cuộc họp cao cấp kể từ tháng 5 giữa Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent và Phó Thủ tướng Trung Quốc He Lifeng nhằm khôi phục sự ổn định cho mối quan hệ Mỹ-Trung.
Tổng thống Trump dường như đã giải quyết những lo ngại đó — khiến S&P giảm hơn 2% vào thứ Sáu, ngày tồi tệ nhất kể từ tháng Tư — trong một bài đăng trên Truth Social hôm Chúa Nhật. “Đừng lo lắng về Trung Quốc, mọi chuyện sẽ ổn thôi! Chủ tịch Tập Cận Bình đáng kính vừa trải qua một khoảnh khắc tồi tệ”, Tổng thống Trump nói. “Hoa Kỳ muốn giúp Trung Quốc, chứ không phải làm hại họ!!!”
Lời bảo đảm đó có thể sẽ không được Bắc Kinh chấp nhận.
“Thỏa thuận đình chiến thuế quan đã chính thức kết thúc, nhường chỗ cho một động lực mới của sự gián đoạn chắc chắn lẫn nhau”, Craig Singleton, nghiên cứu viên cao cấp về Trung Quốc tại tổ chức nghiên cứu Quỹ Bảo vệ Dân chủ, gọi tắt là FDD có quan điểm cứng rắn ở Washington, nhận định. “Mỗi bên sẽ tiếp tục thử nghiệm xem họ có thể vũ khí hóa sự phụ thuộc kinh tế đến mức nào mà không gây ra hậu quả không thể kiểm soát.”
[Politico: Trump’s 100% tariff threat sparks defiance from Beijing]
7. Nga cắt điện nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia khỏi lưới điện Ukraine để thử nghiệm đường truyền của Nga khi tình trạng mất điện kéo dài gần 3 tuần, Kyiv cho biết
Trong một động thái chưa từng có, Nga đã cố tình cắt đứt kết nối giữa Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, gọi tắt là ZNPP bị tạm chiếm và lưới điện Ukraine để thử nghiệm khả năng tích hợp vào mạng lưới của Nga, Ngoại trưởng Andrii Sybiha cho biết vào ngày 12 tháng 10.
Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Âu Châu, đã phải ngừng hoạt động trong gần ba tuần kể từ cuối tháng 9, gây ra mối đe dọa đối với an toàn hạt nhân.
Quân đội Nga được tường trình đã tấn công đường dây điện vào ngày 23 tháng 9, cắt đứt kết nối của nhà máy với lưới điện Ukraine. Hậu quả là nhà máy buộc phải sử dụng máy phát điện diesel dự phòng để duy trì các chức năng an toàn quan trọng và cung cấp điện.
“Đây không chỉ là hành vi cố ý đánh cắp một cơ sở hạt nhân hòa bình của Ukraine. Các hành động trái phép của Rosatom (tập đoàn năng lượng hạt nhân nhà nước) của Nga còn vi phạm các giao thức an toàn hạt nhân được quốc tế công nhận, trái với giấy phép của Ukraine và trực tiếp đe dọa một sự việc hạt nhân”, Sybiha phát biểu trên X.
Bộ trưởng cho biết Nga phải dừng các cuộc tấn công vào nhà máy và cho phép sửa chữa đường dây điện để chấm dứt tình trạng mất điện. Ông cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận hành động của Mạc Tư Khoa là bất hợp pháp và “cực kỳ nguy hiểm”, đồng thời thúc giục Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, gọi tắt là IAEA gây áp lực lên Nga.
Khi lo ngại về một cuộc khủng hoảng tiềm tàng tại nhà máy gia tăng, IAEA cho biết vào ngày 6 tháng 10 rằng nhóm của họ đã nghe thấy “một số loạt pháo kích đến và đi từ gần địa điểm này”.
Sau khi truyền thông nhà nước Nga đổ lỗi cho Quân đội Ukraine về các cuộc tấn công, Bộ Ngoại giao Ukraine đã tuyên bố vào ngày 6 tháng 10 rằng đây là “một hành động khiêu khích có chủ đích của Nga”.
Nhà máy Zaporizhzhia đã nằm dưới sự xâm lược của Nga kể từ tháng 3 năm 2022. Sáu lò phản ứng của nhà máy đã ngừng hoạt động một tháng sau khi Mạc Tư Khoa xâm lược, nhưng cơ sở này vẫn cần điện để duy trì làm mát và ngăn ngừa sự việc hạt nhân.
Ukraine tiếp tục yêu cầu Nga rút quân khỏi nhà máy và thiết lập khu vực phi quân sự xung quanh cơ sở này, một đề xuất mà Nga đã nhiều lần bác bỏ.
[Kyiv Independent: Russia cuts Zaporizhzhia nuclear plant from Ukrainian grid to test Russian link as blackout nears 3 weeks, Kyiv says]
8. Putin nới lỏng các quy định trợ cấp nhiên liệu khi các cuộc tấn công của Ukraine tấn công các nhà máy lọc dầu của Nga
Putin đã ký sắc lệnh nới lỏng các hạn chế về trợ cấp nhiên liệu cho các nhà máy lọc dầu trong nước, bảo đảm sự hỗ trợ liên tục của nhà nước trong bối cảnh các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn của Ukraine làm gián đoạn ngành công nghiệp dầu mỏ của nước này.
Những thay đổi, được công bố vào ngày 12 tháng 10, cho phép các nhà máy lọc dầu tiếp tục nhận được khoản thanh toán của chính phủ ngay cả khi giá bán buôn xăng và dầu diesel vượt quá ngưỡng quy định theo các quy định hiện hành. Biện pháp này sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 đến ngày 1 tháng 5 năm 2026.
Trợ cấp nhiên liệu nhằm mục đích duy trì nguồn cung xăng và dầu diesel cho thị trường nội địa Nga khi xuất khẩu có lợi nhuận cao hơn. Cho đến nay, các khoản trợ cấp của nhà nước bị giới hạn khi giá bán buôn tăng hơn 10% so với giá ngưỡng đối với xăng hoặc 20% đối với dầu diesel.
Theo số liệu chính thức, Nga đã giải ngân 1,8 ngàn tỷ rúp (22 tỷ đô la) tiền trợ cấp nhiên liệu vào năm 2024, nhưng số tiền chi trả đã giảm xuống còn 716 tỷ rúp (8 tỷ đô la) trong chín tháng đầu năm 2025.
Sự suy giảm này trùng hợp với các cuộc tấn công dữ dội của Ukraine kể từ tháng 8, gây thiệt hại cho nhiều nhà máy lọc dầu, một nguồn thu quan trọng duy trì nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa, cắt giảm hoạt động chế biến dầu thô và gây ra tình trạng tăng giá nhiên liệu trong nước.
Vào ngày 11 tháng 10, máy bay điều khiển từ xa do Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU điều hành đã tấn công một nhà máy lọc dầu ở Cộng hòa Bashkortostan của Nga, gây ra vụ nổ và hỏa hoạn, một nguồn tin trong cơ quan này cho biết với tờ Kyiv Independent.
Theo nguồn tin, cuộc tấn công nhằm vào nhà máy Bashnafta-UNPZ ở Ufa, một trong những trung tâm lọc dầu lớn nhất của Nga, cung cấp nhiên liệu và chất bôi trơn cho Quân đội Nga.
Cuộc tấn công vào cơ sở này, nằm cách tiền tuyến ở Ukraine khoảng 1.400 km, đánh dấu cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa thứ ba của SBU vào Bashkortostan trong tháng qua.
[Kyiv Independent: Putin eases fuel subsidy rules as Ukrainian strikes hit Russian refineries]
9. Nga đã tấn công cơ sở hạ tầng hỏa xa của Ukraine 300 lần kể từ tháng 8, một quan chức cho biết
Phó Thủ tướng phụ trách Tái thiết Oleksii Kuleba cho biết vào ngày 12 tháng 10 rằng lực lượng Nga đã thực hiện gần 300 cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng Hỏa xa Ukraine (Ukrzaliznytsia) kể từ đầu tháng 8.
Nga đã tăng cường các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng hỏa xa của Ukraine khi mùa thu đến, dẫn đến tình trạng chậm trễ và hủy chuyến tàu ngày càng tăng.
Kuleba cho biết: “Mỗi ngày, tuyến hỏa xa đều khôi phục được cơ sở hạ tầng trong vòng trung bình bốn giờ sau một cuộc tấn công — và tiếp tục hoạt động ngay trong ngày hôm đó”.
Các quan chức cho biết kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu, 221 công nhân hỏa xa đã bị thương và 37 người khác thiệt mạng khi đang làm nhiệm vụ.
Cũng có một số trường hợp Nga tấn công vào các chuyến tàu chở khách, gây thương vong cho dân thường. Một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa hai lần của Nga vào một nhà ga hỏa xa ở tỉnh Sumy vào ngày 4 tháng 10 đã khiến một người thiệt mạng và ít nhất 30 người khác bị thương, bao gồm ba trẻ em.
Dmytro Zhmailo, một chuyên gia quân sự và giám đốc điều hành Trung tâm An ninh và Hợp tác Ukraine, cho rằng sự gia tăng các cuộc tấn công vào hệ thống hỏa xa của Ukraine có thể liên quan đến các thỏa thuận cung cấp vũ khí gần đây với các đối tác phương Tây.
Sự gia tăng các cuộc tấn công của Nga trùng hợp với việc phê duyệt các lô hàng vũ khí đầu tiên theo Danh sách yêu cầu ưu tiên của Ukraine, gọi tắt là PURL, một cơ chế cho phép các thành viên NATO khác tài trợ cho các chuyến hàng vũ khí của Hoa Kỳ tới Ukraine.
[Kyiv Independent: Russia has pounded Ukraine's rail infrastructure 300 times since August, official says]
Cảnh sát: Kẻ tấn công Thánh Lễ Đỏ cố ý nhắm vào người Công Giáo. Điều gì chờ đợi Đức Lêô tại Li Băng
VietCatholic Media
17:18 13/10/2025
1. Cảnh sát cho biết: Kẻ tấn công sự kiện Thánh Lễ Đỏ tại Washington D.C cố ý nhắm vào người Công Giáo
Cảnh sát cho biết người đàn ông bị bắt bên ngoài một nhà thờ ở Washington, D.C., vào ngày 5 tháng 10 đã mang theo hàng trăm chất nổ và giấy tờ cho thấy anh ta có kế hoạch nhắm vào người Công Giáo và các thẩm phán Tòa án Tối cao.
Louis Geri đã bị bắt bên ngoài Nhà thờ Thánh Matthêu Tông đồ trước buổi lễ “Thánh Lễ Đỏ” thường niên chào đón các thẩm phán và nhà lập pháp Tòa án Tối cao. Cảnh sát cho biết Geri có chất nổ tiềm ẩn trên người và trong lều dựng gần lối vào nhà thờ.
Khi cảnh sát tiếp cận anh ta trong lều, anh ta nói với cảnh sát: “Các anh nên lùi lại và gọi cảnh sát liên bang, tôi có chất nổ/bom”, tài liệu tòa án cho thấy.
Cảnh sát và đội giải quyết bom đã tiến hành khám xét thêm và cho biết họ phát hiện Geri có giấy tờ “thể hiện sự thù địch đáng kể của anh ta đối với Giáo Hội Công Giáo, các thành viên Do Thái giáo, các thành viên của SCOTUS và các cơ sở của ICE/ICE”. Cuộc khám xét cũng “phát hiện ra một kho lớn các thiết bị phá hoại tự chế được thu hồi từ lều của [anh ta]”, cảnh sát cho biết.
Geri còn đe dọa ném chất nổ xuống đường và nói rằng anh ta có “hơn một trăm thiết bị như vậy”, cảnh sát cho biết.
Các giấy tờ được tìm thấy trong lều của Geri có tiêu đề: “Các cuộc đàm phán bằng văn bản để tránh phá hủy tài sản bằng cách kích nổ chất nổ”, cảnh sát cho biết. Nghi phạm đã xác nhận với cảnh sát rằng đó là giấy tờ của anh ta.
Một quản lý kinh doanh của Nhà thờ St. Matthew đã cung cấp cho cảnh sát giấy tờ chứng minh Sở Cảnh sát Thủ đô đã cấm anh ta vào địa điểm đó và Geri trước đó đã có mặt tại nhà thờ vào ngày 26 tháng 9 khi anh ta dựng lều trên bậc thềm và từ chối rời đi.
Cảnh sát cho biết Geri đã nói với họ: “Một số người của các người sẽ chết vì một trong những thứ này”, ám chỉ đến chất nổ.
Geri bị buộc tội xâm nhập trái phép; sản xuất, chuyển nhượng, sử dụng, sở hữu hoặc vận chuyển bom xăng hoặc các chất nổ khác cho mục đích bất hợp pháp; đe dọa bắt cóc hoặc làm bị thương người khác; tấn công cảnh sát; tàng trữ thiết bị hủy diệt; chế tạo hoặc tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt (tội ác thù hận); và chống đối việc bắt giữ. Anh ta đang bị giam giữ không được bảo lãnh.
Source:Catholic News Agency
2. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tưởng niệm ngày 7 tháng 10: Hai năm rất đau thương
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV thương tiếc các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố và chiến tranh: “Chúng ta phải suy nghĩ về mức độ thù hận đang hiện hữu trên thế giới và bắt đầu tự hỏi mình có thể làm gì.”
Hôm thứ Ba, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã suy gẫm về ngày kỷ niệm vụ tấn công khủng bố ngày 7 tháng 10 tại Israel và sự khởi đầu của cuộc chiến tranh ở Gaza, đồng thời nói với các phóng viên rằng cần phải tăng cường đối thoại để giải quyết xung đột.
“Đây là hai năm rất đau thương,” Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát biểu với các phóng viên bên ngoài Castel Gandolfo.
Cuộc trao đổi ngắn ngủi này đã trở thành thông lệ vào thứ Ba, khi Đức Thánh Cha dành cả ngày tại dinh thự mùa hè của Giáo hoàng, và các phóng viên đã dừng lại để đặt câu hỏi khi ngài rời đi để trở về Vatican.
Ngài nói: “Hai năm trước, 1,200 người đã thiệt mạng trong một vụ tấn công khủng bố. Chúng ta phải suy nghĩ về mức độ thù hận đang tồn tại trên thế giới và bắt đầu tự hỏi mình có thể làm gì. Trong hai năm, khoảng 67,000 người Palestine đã thiệt mạng. Chúng ta phải giảm bớt hận thù, chúng ta phải tìm lại khả năng đối thoại, tìm kiếm các giải pháp hòa bình.”
Đức Giáo Hoàng Lêô đã lên án cả chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa bài Do Thái trong bài phát biểu với các phóng viên, nói rằng phẩm giá của mỗi người cần được tôn trọng.
Ngài nói: “Chúng ta không thể chấp nhận các nhóm tham gia vào chủ nghĩa khủng bố,” điều này “phải luôn bị bác bỏ.”
Ngài nói tiếp: “Đồng thời, sự tồn tại của chủ nghĩa bài Do Thái, dù có gia tăng hay không, cũng rất đáng lo ngại. Chúng ta phải luôn tuyên bố hòa bình và tôn trọng phẩm giá của mỗi người. Đây là thông điệp của Giáo hội.”
Đức Giáo Hoàng kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình
Trong tháng Mười, “Giáo hội kêu gọi mọi người cầu nguyện cho hòa bình,” Đức Giáo Hoàng Lêô nói và nói thêm rằng “chúng ta cũng sẽ tìm cách, bằng những cách thức sẵn có của Giáo hội, để thúc đẩy đối thoại mọi lúc.”
Đức Thánh Cha đang đề cập đến lời kêu gọi đặc biệt mà ngài đã đưa ra vào cuối tháng Chín, kêu gọi các tín hữu hãy đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày trong tháng dành riêng cho Kinh Mân Côi này, với ý cầu nguyện cho hòa bình.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cũng được hỏi về bình luận của Đại sứ quán Israel tại Tòa Thánh liên quan đến cuộc phỏng vấn hôm thứ Hai của Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Pietro Parolin, với báo L'Osservatore Romano và Vatican News.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV ủng hộ Đức Hồng Y Parolin và nói rằng: “Đức Hồng Y đã bày tỏ rất rõ ràng lập trường của Tòa Thánh về vấn đề này.”
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Parolin cho biết Israel đã không đáp trả cuộc tấn công của Hamas một cách kiềm chế tương xứng. Ngài cũng nhắc lại lời kêu gọi mà Tòa Thánh đã đưa ra trong nhiều năm: một giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Israel/Palestine.
Một thông cáo báo chí từ Đại sứ quán Israel cho biết bình luận của Đức Hồng Y Parolin “có nguy cơ làm suy yếu những nỗ lực nhằm chấm dứt chiến tranh ở Gaza và chống lại chủ nghĩa bài Do Thái đang gia tăng”, mặc dù những bình luận này “chắc chắn có thiện chí.”
Thông cáo cho biết: “Điều đáng lo ngại nhất là việc sử dụng khái niệm tương đương về mặt đạo đức một cách có vấn đề ở những nơi không phù hợp. Ví dụ, việc áp dụng thuật ngữ 'thảm sát' cho cả cuộc tấn công diệt chủng ngày 7 tháng 10 của Hamas và quyền tự vệ chính đáng của Israel. Không có sự tương đương về mặt đạo đức giữa một quốc gia dân chủ bảo vệ công dân của mình và một tổ chức khủng bố có ý định giết hại họ.”
Đây không phải là lần đầu tiên Đại sứ quán Israel chỉ trích những bình luận của Vatican về cuộc chiến.
Ví dụ, khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát biểu vào cuối năm 2024 rằng cần phải điều tra xem những gì đang xảy ra ở Gaza có thể được coi là một cuộc diệt chủng hay không, Đại sứ quán cũng đã phản đối lời phát biểu của ngài. Tháng trước, Ủy ban Điều tra Quốc tế Độc lập của Liên Hiệp Quốc về Lãnh thổ Palestine bị tạm chiếm, bao gồm Đông Giêrusalem, và Israel đã phát hiện ra rằng “Israel đã phạm tội diệt chủng đối với người Palestine ở Dải Gaza.”
3. Hiến chương mới về Đại kết của Âu châu sẽ được ký tại Roma vào ngày 05 tháng Mười Một
Hiến chương mới về Đại kết các Giáo hội Kitô Âu châu sẽ được ký kết tại Roma, vào ngày 05 tháng Mười Một tới đây.
Hãng tin Công Giáo Áo Kathpress cho biết như trên hôm mùng 02 tháng Mười vừa qua, trích thuật bản tin của Hội đồng các Giáo hội Kitô Âu châu, gọi tắt là KEK, và quy tụ khoảng 125 Giáo hội Kitô không Công Giáo tại đại lục này.
Lẽ ra, Hiến chương mới đã được ký kết ngày 04 tháng Tư năm nay, tại Vilnius, thủ đô Lituani, nhưng bị hoãn lại vì tình trạng sức khỏe của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và ngài qua đời sau đó.
Theo chương trình buổi ký kết Hiến chương tới đây cũng có buổi tiếp kiến Đức Giáo Hoàng Lêô XIV.
“Hiến chương Đại kết” lần đầu được Hội đồng các Giáo hội Kitô Âu châu và Liên Hội đồng Giám mục Âu Châu, gọi tắt là CCEE, ký năm 2001, và từ hơn 20 năm nay đã là nền tảng hợp tác đại kết tại Âu Châu. Văn kiện này đưa ra các định hướng nhằm tăng cường hợp tác về mặt Giáo hội, xã hội, sinh thái và nhân quyền. Động lực ban đầu xuất phát từ Đại hội Đại kết Âu Châu lần thứ hai tại Graz bên Áo năm 1997.
Bản cập nhật mới nhằm đáp ứng các thách thức hiện nay, thích nghi với bối cảnh xã hội và Kitô giáo Âu Châu đang thay đổi. Nhóm công tác chung của hai khối Giáo hội Tin lành và Công Giáo (KEK và CCEE) đã bắt tay vào việc từ năm 2022. Để bảo đảm văn bản phù hợp nhu cầu đại kết hôm nay, các ý kiến phản hồi từ Giáo hội và các tổ chức đại kết khắp Âu Châu cũng như ngoài Âu Châu đã được tham khảo. Văn kiện mới được kỳ vọng sẽ thúc đẩy “hiệp nhất, hòa bình và hành động chung giữa các Giáo hội Kitô tại Âu Châu”, theo Hội đồng các Giáo hội Kitô Âu châu.
4. Điều gì đang chờ đợi Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tại Li Băng
Việc kêu gọi hòa bình ở Li Băng, chứ chưa nói đến 'sự trung lập tích cực và chủ động', là một tín hiệu rõ ràng phản đối trục chiến tranh và cách mạng dai dẳng.
Đó là lời bình luận của Alberto M. Fernandez, trên trang mạng National Catholic Register ngày 7 tháng 10 năm 2025.
Việc Đức Giáo Hoàng Lêô bổ sung Li Băng vào chuyến tông du quốc tế đầu tiên của mình là một tín hiệu cho thấy tầm quan trọng và tình hình khủng hoảng của quốc gia này.
Li Băng có thể không quá quan trọng trên trường quốc tế. Nhưng điều khiến nó có sức nặng tại Vatican là việc nó thực sự là một thành trì của Kitô giáo Đông phương, đặc biệt là Kitô giáo Công Giáo. Với tỷ lệ Kitô giáo “chỉ” chiếm 37% dân số, Li Băng có một khối lượng lớn Kitô giáo có ảnh hưởng lớn trong tổng dân số, điều chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào khác tại Trung Đông. Và ở một khu vực không nhỏ của Li Băng — từ Bsharre ở phía bắc đến Đông Beirut ở phía nam, từ bờ biển đến Zahleh — người Kitô hữu vẫn chiếm đa số áp đảo trong dân số, điều này thể hiện rõ qua các cửa hàng, biển hiệu đường phố, các đền thờ trên vỉa hè và vô số nhà thờ trong khu vực này.
Nhưng vấn đề lớn hay cuộc khủng hoảng ở Li Băng không phải là mối quan hệ Hồi giáo-Kitô giáo. Những mối quan hệ đó vẫn tồn tại và phần lớn có xu hướng thân thiện. Vấn đề của Li Băng chỉ mang tính giáo phái ở mức độ nó phản ảnh những chia rẽ chính trị nghiêm trọng hơn nhiều trong nước.
Một bên là những người Li Băng muốn thấy đất nước mình phát triển như một quốc gia bình thường, hòa bình với chính mình và trung lập trước những xung đột bạo lực đã tàn phá khu vực trong nhiều thập niên. Đức Thượng phụ Công Giáo Maronite Bechara Rai của Li Băng, giáo sĩ có ảnh hưởng nhất của đất nước, đã kêu gọi “một lập trường trung lập tích cực và chủ động”. Đức Hồng Y Rai giải thích rằng “trung lập tích cực là một học thuyết chính trị tránh liên kết với các khối khu vực hoặc quốc tế xung đột, đồng thời vẫn cam kết với các mục tiêu chính đáng trên toàn cầu, chẳng hạn như quyền độc lập của các dân tộc.” Nói thẳng thắn hơn, Đức Thượng phụ chúc người dân Palestine mọi thành công. Nhưng ngài không muốn thấy Li Băng bị hy sinh trên bàn thờ của chiến tranh và hỗn loạn triền miên vì các lý do nước ngoài, dù là dưới ngọn cờ Palestine, Iran hay bất cứ ai khác.
Đối lập hoàn toàn với trục trung lập tích cực này, được thể hiện bởi Đức Thượng phụ và nhiều người Li Băng, Kitô giáo và Hồi giáo khác, là một trục khác mà người ta có thể gọi là trục cách mạng triền miên, đại diện bởi nhóm khủng bố Hezbollah do Iran hậu thuẫn và các đồng minh chính trị và vũ trang của nhóm này ở Li Băng, bao gồm cả người Hồi giáo và một số người Kitô giáo. Trục cách mạng triền miên này là sự lặp lại mới nhất của một tai họa giáng xuống Li Băng — thường được một số người Li Băng thực sự chấp thuận — trong hơn 50 năm. Đầu tiên, Li Băng là một bệ phóng cho cuộc cách mạng trong thế giới Ả Rập và cuộc chiến chống lại Israel. Beirut được gọi là Hà Nội hay Stalingrad của người Ả Rập. Li-băng — hay phần đáng kể đất nước không do người Kitô giáo Li-băng kiểm soát — đã trở thành con tin của chủ nghĩa dân tộc Palestine, rồi sau đó trở thành con tin của tham vọng chế độ Assad của Syria và cuối cùng trở thành con tin của tham vọng khu vực của Iran. Arafat, Assad, thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah có những tầm nhìn khác nhau, nhưng tác động lên Li-băng là như nhau: biến đất nước thành công cụ cho kẻ khác, cho chính sách đối ngoại và bạo lực của họ.
Kêu gọi hòa bình ở Li-băng, chứ chưa nói đến “trung lập tích cực và chủ động” là thể hiện sự phản đối rõ ràng đối với trục chiến tranh và cách mạng dai dẳng. Đó là sự chia rẽ lớn ở Li-băng, chứ không nhất thiết là tôn giáo. Đã có những người Kitô giáo, vì niềm tin hoặc sự hoài nghi sâu xa và lợi ích cá nhân, ủng hộ trục do Hezbollah lãnh đạo, chẳng hạn như cựu Tổng thống Michel Aoun và đảng của ông. Và cũng có những người Kitô giáo chưa bao giờ làm như vậy.
Một số người Kitô giáo, như cựu bộ trưởng và nghị sĩ Pierre Amine Gemayel, đã phải trả giá đắt nhất bằng vụ ám sát vì sự phản đối của họ đối với đảng chiến tranh. Nhưng Mohammad Chatah, cựu bộ trưởng và là người Hồi giáo Sunni, và Lokman Selim, một nhà hoạt động chính trị và nhà xuất bản Hồi giáo Shiite, cũng đã bị ám sát vì sự phản đối dũng cảm của họ đối với đảng chiến tranh liên miên do Hezbollah và các đồng minh của ông ta lãnh đạo.
Vì vậy, giữa hàng loạt nghi thức ngoại giao, các cuộc họp chính thức và các sự kiện tôn giáo liên quan đến chuyến thăm của Giáo hoàng, Đức Thánh Cha sẽ phải đối diện với thách thức truyền đạt rõ ràng và ủng hộ hai mục tiêu: đoàn kết và hỗ trợ cộng đồng Kitô giáo lịch sử của Li Băng và ủng hộ hòa bình, yên bình và trung lập cho tất cả người dân Li Băng. Hai mục tiêu này chồng chéo lên nhau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế của Li Băng, khiến một lượng lớn thanh niên Kitô giáo di cư để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, có liên hệ mật thiết với cuộc khủng hoảng chính trị, vốn liên quan trực tiếp đến những biến dạng do đảng chiến tranh gây ra ở đất nước này.
Tất cả những vấn đề khác của Li Băng - nhu cầu về một IsraelViệc rút quân, tái thiết miền Nam, cuộc chiến chống tham nhũng, công bằng xã hội, khoan dung tôn giáo — được cải thiện nhờ việc sắp xếp lại hiện trạng và thoát khỏi vòng xoáy chiến tranh triền miên cùng nạn tham nhũng kinh tế chính trị xuất phát từ việc Hezbollah tự coi mình là một đội quân riêng biệt và một nhà nước trong một nhà nước. Thông điệp của Đức Giáo Hoàng kêu gọi loại thay đổi này không chỉ phù hợp với chính sách đối ngoại của phương Tây đối với Li Băng, mà còn phù hợp với chính sách của hầu hết các quốc gia Hồi giáo Ả Rập, và hy vọng của hầu hết người Li Băng, cả Kitô giáo lẫn Hồi giáo.