Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi : “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” 42 Chúa đáp : “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng : ‘Còn lâu chủ ta mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
47 “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”
Đó là Lời Chúa
9Khi ấy, Đức Giê-su kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác : 10“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ 14Tôi nói cho các ông biết : người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”
CHÍNH NHÂN VÀ TỘI NHÂN
Toàn bộ dụ ngôn Đức Giê-su kể hôm nay dựa trên hai từ đầy ý nghĩa và được nhấn mạnh, vì nằm ở đầu và cuối câu chuyện, theo kiểu đóng khung của văn chương Sê-mít. Khai mào, một kẻ tự tin mình “công chính” (“dikaios” trong tiếng Hy-lạp). Kết thúc, một kẻ “nên công chính” khi trở về nhà (Nguyễn Thế Thuấn : “được giải án tuyên công”, “dédikaiômẻnos” trong tiếng Hy-lạp). Bài học của Tin Mừng nằm trong hai chữ này. Việc chuyển từ thể chủ động sang thể thụ động nói lên nhiều chuyện như ta sẽ thấy dưới đây.
Thứ đến, như nơi dụ ngôn Chúa nhật tuần trước có khuôn mặt góa phụ và quan tòa, trong bức tranh này cũng có hai nhân vật. Một bên là ông Pha-ri-sêu, thành viên của một cộng đồng tôn giáo tuân thủ nghiêm nhặt Lề luật. Học thuyết của họ là trào lưu mang tính tu đức và nhân bản nhất của Do-thái giáo. Vào thời Đức Giê-su, người ta ghi nhận phái Pha-ri-sêu nằm ở mức độ “thu phục quần chúng” cao nhất, như kiểu nói hiện nay trong bao cuộc thăm dò các nhân vật chính trị. Bên kia, trong bóng tối của Đền thờ, là một người thu thuế (kẻ thâu tiền cho công quỹ). Ông ta là khuôn mặt bị ghét bỏ do làm tay sai cho một quyền lực ngoại bang thống trị đáng tởm, quyền lực Rô-ma. Những người thu thuế và các cô gái làng chơi từng bị kể chung như hạng vô đạo đức, đáng khinh bỉ (có hàng chục từ khác nhau trong tiếng Hip-ri để gọi họ !) Rõ ràng Đức Giê-su đang khiêu khích cảm thức tự nhiên của thính giả : Người trình bày một cá nhân bị công luận coi là đáng khinh như một hình mẫu nên noi (cũng hãy nghĩ đến dụ ngôn ông Samari nhân lành), và Người chọn chính xác đại diện của một trong những phong trào tôn giáo được kính trọng nhất như một hình mẫu cần tránh. Lý do : chân dung đích thực của hai nhân vật này hiện lên qua việc nguyện cầu của họ.
1- Tự tin công chính, trở thành tội nhân.
Người Pha-ri-sêu bắt đầu bằng một lời cầu nguyện hoàn hảo về mặt hình thức : nó chứa đựng danh sách những công đức của một cuộc sống đúng đắn, chính trực và đáng trọng. Nhưng gốc rễ của lời cầu nguyện này rõ ràng nằm trong sự công chính của con người. Một kẻ xác tín rằng minh đang cân bằng thanh toán với Thiên Chúa : ông ta đóng thuế thập phân đầy đủ, ăn chay không chỉ mỗi tuần một ngày theo luật định, mà là hai ngày. Tóm lại, ông là hình mẫu đích thực của một kẻ sùng đạo và tuân luật, hoàn hảo và tự tin. Cũng phải thêm rằng một đàng ông chẳng xin gì cùng Thiên Chúa, đàng khác tỏ ra khinh bỉ tên thu thuế tội lỗi vì chẳng “tham lam, bất chính, ngoại tình.”
Rõ ràng người Pha-ri-sêu, gắn bó với các việc làm và lòng kiêu hãnh của mình, đã bị Thiên Chúa từ khước, bất chấp những kiểu bày tỏ lòng "đạo đức" của ông. Sự công chính của ông không được trời cao thừa nhận. Bởi lẽ ơn cứu rỗi đến từ đức tin và từ việc khiêm nhượng lẫn yêu mến tán thành hành động của Thiên Chúa. Hồng ân cứu rỗi lớn hơn công trạng chúng ta nhiều và do đó không bao giờ có thể được coi như một phần thưởng bắt buộc cho những gì con người đã thực hiện. Ở trang này, chúng ta gặp một trong những yếu tố thân thiết nhất đối với Lu-ca và Phao-lô. Để hiểu rõ những lời của Đức Giê-su được Lu-ca tường thuật, chỉ cần đọc lại các câu : "Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi... Các ông, phái Pha-ri-sêu, tỏ ra mình là người công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông, bởi vì điều cao quý đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa... Bấy giờ các người mới nói : 'Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại : 'Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !’” (5,32; 16,15; 13,26).
Đối với Đức Giê-su, cũng như đối với thánh Phao-lô trong Thư Rô-ma, con người đứng trước Thiên Chúa chẳng bao giờ công chính cả, nó chỉ có thể là tội nhân được công chính hóa thôi. Ki-tô hữu chẳng tốt hơn những kẻ khác, người ta đôi khi nói thế, mà cũng đúng thật ! Ki-tô hữu không “dễ thương” hơn những kẻ khác, đương sự biết là mình “đáng thương”... là tội nhân được ân xá, được cứu độ ! Nhìn rộng ra, phải chăng người ta có thể nói thế giới hôm nay hình như đầy rẫy những tay Pha-ri-sêu “tưởng mình công chính”? “Tội lỗi ư? Tôi bất biết !” Công thức này diễn tả một khuynh hướng chung hiện thời : người ta không muốn tự kết tội... họ còn đi đến chỗ tự biện minh : “Tôi có làm chi sai đâu nào !” Thậm chí có những chế độ tội ác lưu danh trong lịch sử nhưng vẫn luôn vỗ ngực tự hào, và chẳng bao giờ mở miệng xin lỗi nhân loại !
2- Tự nhận tội nhân, được nên công chính
Hoàn toàn khác, thậm chí trái ngược, là lời cầu nguyện khẩn xin của tay thu thuế bị ghét bỏ. Nó chỉ chứa đựng một lời thú nhận hoàn toàn sự khốn nạn của ông : " Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." Ở đây, gốc rễ của lời cầu nguyện cũng rất rõ ràng : nó không còn là sự công chính của con người (việc thiếu sót điều này được thừa nhận) mà là ơn công chính hóa cứu rỗi của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, có thể làm mất cân bằng cán cân thanh toán, bởi vì Người chẳng phải là một bạo chúa hay một chủ nợ tham lam, nhưng là một hiền phụ : tất cả những gì Người đòi hỏi ở phàm nhân là lòng hoán cải. Do đó, tay thu thuế không phải là hình mẫu của một kẻ sùng đạo, tuân luật và xác tín mình được rỗi, song là một người có đức tin chờ đợi Thiên Chúa thứ tha và cứu độ.
Thời đó, tất cả dân Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người Pha-ri-sêu, hạng trong sạch, thánh thiện, tích cực, như ta nói hôm nay. Và hết thảy dân cũng từng cho rằng Thiên Chúa kết án những người thu thuế, hạng vô đạo, lạm dụng, bất chính, như hôm nay thiên hạ bảo. Thế nhưng ngược lại, Đức Giê-su từng nói về Thiên Chúa như “cha của những kẻ lạc đường” : Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45), Đấng là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,35)... Vị Cha ấy âu yếm đón nhận đứa con hoang đàng và sa đọa (x. Lc 15)... Đức Vua quảng đại ấy tha món nợ khổng lồ cho tên đầy tớ không thể trả nổi (x. Mt 18,27)... Mục Tử ấy xem ra mến tiếc một con chiên lạc hơn cả bầy cừu (x. Lc 15). Vâng, Thiên Chúa yêu thương kẻ dữ ! Người là “Tạo Hóa Nhân Lành” mà ! Người chẳng đè bẹp nhưng nâng dậy ! Người chẳng phá hủy nhưng chữa lành ! “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12,20). Thay vì kết án, Thiên Chúa thứ tha... thay vì trừng phạt, Thiên Chúa giải cứu. Tóm lại, Thiên Chúa của Đức Giê-su ngỏ lời không phải với các chính nhân nhưng với các tội nhân... vì Người là lòng yêu, là tình mến ! Kẻ Thiên Chúa ưu ái, đó là kẻ cần Người hơn cả. Một kinh nghiệm phổ quát : đứa con đau yếu, tàn tật, đòi hỏi mẹ săn sóc nhiều hơn, chính là đứa khơi dậy tình yêu hơn cả, vì nó không thể sống mà không có tình yêu của mẹ. Thiên Chúa đâu khinh bỉ kẻ tội lỗi, Người đau khổ với y về sự dữ của y.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một câu chuyện Do-thái ngắn về việc cầu nguyện đích thực : nó nắm bắt cách lý tưởng trọng tâm dụ ngôn của Đức Giê-su, đó là lời cầu nguyện phó thác, ngợi khen, tạ ơn và thú tội với Thiên Chúa. Nhân vật chính là Đa-vít sau khi ngoại tình với Bát Sê-va và giết U-ri-gia chồng bà. Ông đứng trước mặt Chúa và chỉ nói : "Lạy Chúa, con đã phạm tội !" (x. 2Sm 12,13). Rồi ông im lặng, im lặng trước sự hiện diện của Người. Tại sao ông im lặng? Người kể chuyện tự hỏi. Bởi vì ông giống như kẻ nghèo khổ, đói khát, quần áo rách bươm, một ngày nọ may mắn được vào triều đình, ra trước dung nhan chói lọi của nhà vua. Khi đến chân bệ ngọc ngai vàng, ông không nói gì, mặc dù các cận thần thúc giục ông cầu xin giúp đỡ. Thật thế, ông không cần lời nào cả. Chính thân thể của ông, sự tồn tại khốn khổ của ông là tiếng kêu mạnh mẽ và thống thiết hơn bất cứ lời nói hay lời cầu nào.
Kết luận : Qua hai con người trong dụ ngôn hôm nay, Đức Giê-su cắm trước mắt chúng ta hai thái độ nhân loại : trong một trường hợp, người ta chẳng cần Thiên Chúa, người ta tự xây dựng với những nỗ lực riêng mình. Trong trường hợp kia, người ta không đạt đến điều đó và cầu xin Thiên Chúa can thiệp : “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Nếu hiểu đúng tư tưởng của Đức Giê-su, ta có thể tóm tắt thế này : hoặc anh muốn tự mình thu xếp cuộc sống, thì anh rốt cục sẽ thất bại… hoặc anh chấp nhận lệ thuộc Thiên Chúa, thì anh được cứu rỗi và thành toàn… Đẹp và thật biết bao công thức mở đầu việc xưng tội : “Lạy Cha, xin Cha làm phúc cho con, vì con là kẻ có tội.” Thiên Chúa đích thực của Đức Giê-su là thế. Vai trò làm phúc này, chúng ta muốn Người thực hiện ra sao?
“Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật bất ngờ, Chúa Giêsu nói đến những ‘khoảnh khắc ân sủng’ qua hình ảnh “trộm viếng đêm khuya”. Ngài muốn nói, ân sủng đến mà không hề báo trước; chỉ ai tỉnh thức mới nhận ra và mở cửa kịp thời.
Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi ăn cưới về giữa đêm, Chúa Giêsu dạy chúng ta luôn sẵn sàng, vì không biết giờ nào Ngài đến. Ngài đã đến với nhân loại lần thứ nhất vào đêm Giáng Sinh, sẽ đến lần sau hết vào ngày thế mạt; nhưng giữa hai lần ấy, Ngài vẫn đến mỗi ngày, qua những ‘khoảnh khắc ân sủng’ - khi chúng ta cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận các Bí tích, qua những biến cố buồn vui, hay qua những cuộc gặp gỡ tha nhân với lòng rộng mở. Mỗi khoảnh khắc ấy là một lần Ngài gõ cửa, ban ơn, tha thứ, chữa lành và sai đi. “Thiên Chúa thường ẩn mình trong những điều bất ngờ, chứ không nằm trong những dự tính của ai!” - Henri Nouwen.
Thư Rôma hôm nay nói đến ‘khoảnh khắc ân sủng’ lớn nhất - Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi - “Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em, vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng!”. “Ân sủng không phải là phần thưởng cho người công chính; đó là quà tặng dành cho người tan vỡ!” - Max Lucado. Ân sủng Giêsu như dòng suối đi tìm con người; suối lượn lờ, gõ nhẹ, va vào tim chúng ta từng ngày. Ngài mong mỏi chúng ta mở cửa để Ngài ùa vào, cùng chúng ta “dùng bữa” trong thân tình. Và lạ thay, chính Ngài lại là người phục vụ, “Chủ sẽ thắt lưng, xếp họ vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ họ”.
Ngày kia, Tổng thống Gerald Ford đến thăm một đại học. Khi ông chuẩn bị điểm tâm với sinh viên, một cô gái vướng phải thảm, ngã nhào vào ông. Cô bối rối xin lỗi, ông chỉ mỉm cười và nói nhỏ, “Đừng sợ! Tôi hoàn toàn hiểu!”. Chúng ta không được định nghĩa bởi lần sa ngã, nhưng bởi bàn tay nâng chúng ta dậy; vì lẽ, nó luôn mạnh hơn tội lỗi, và tình yêu luôn đi trước mọi sám hối. Chính khi được nâng dậy, bạn biết mình thuộc về ai - thuộc về một tình yêu không bao giờ bỏ cuộc. “Ân sủng không xoá đi quá khứ của ta; nó cứu chuộc quá khứ ấy!” - Philip Yancey - biến cả những vết nứt thành nơi ánh sáng có thể lọt vào.
Anh Chị em,
“Đừng sợ! Tôi hoàn toàn hiểu!”. Đó cũng là lời Chúa Giêsu thì thầm với bạn và tôi. Ngài muốn chúng ta thực sự “đâm sầm” vào Ngài, để được Ngài ôm lấy, rửa sạch và nâng lên. Và đôi khi, chính Ngài lại “đâm sầm” vào chúng ta - có khi nhẹ nhàng khiến chúng ta ngây ngất, có khi mạnh mẽ khiến chúng ta tưởng chừng không sống nổi. Nhưng dưới bất cứ hình thức nào, kể cả trong đau khổ hay cái chết, đó vẫn là những ‘khoảnh khắc ân sủng’ - khi Thiên Chúa chạm đến chúng ta để biến đổi và cứu lấy chúng ta - “Ta được phù hộ là nhờ danh thánh Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để biến đổi con, hãy cứ đâm sầm vào con. Cho con mạnh dạn đâm sầm vào Chúa; những cú đâm sầm của ân sủng!”, Amen.
(Tgp. Huế)
30. Khiêm tốn có thể chinh phục được tất cả.
(Thánh John Berchmans)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức ")
--------
http://www.vietcatholic.com
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một thư sinh hủ lậu, nhìn thấy ông quan nọ bị bệnh liền đến thăm, khi sắp chia tay thì để lại một bản thảo, cầm lên coi thì là một bài điếu văn đã viết sẵn.
Một ngày nọ, anh ta lại đi thăm một người bạn bị bệnh, người bạn vội vàng nói:
- “Đừng để hắn ta đi vào !”
Sau khi lục xét, thấy anh ta không đem theo bài điếu văn thì mới cho vào thăm.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 75:
Đi thăm bệnh nhân là đem niềm an ủi đến cho họ, và chia sẻ những đau khổ với hy vọng họ được mau bình phục, bởi vì ai đã từng bị bệnh mới thấy nhu cầu được có người để chia sẻ là điều cần thiết.
Người Ki-tô hữu xác tín rằng, đi thăm bệnh nhân là đi thăm Đức Chúa Giê-su đang đau khổ nơi người bệnh, họ nhìn thấy Đức Chúa Giê-su đang cô đơn, đang thiếu thốn, đang quằn quại nơi người bệnh, cho nên họ cũng hiệp thông với nổi đau buồn ấy như là kết hợp với sự đau khổ của Đức Chúa Giê-su trên thánh giá vậy.
Không ai đi thăm bệnh mà cầu cho họ mau chết, hoặc chết quách cho rồi, chỉ có những người có lòng ghen ghét, thù hận mới làm như thế mà thôi.
Thăm bệnh nhân là thăm Đức Chúa Giê-su.
An ủi bệnh nhân là an ủi Đức Chúa Giê-su.
Người Ki-tô hữu không ai là không biết điều ấy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.com
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info

Tạp chí Aleteia, số ngày 21/10/25, đăng tải các số liệu thống kê mới về Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới:
Báo cáo thường niên của hãng thông tấn Fides về số liệu thống kê Giáo hội (năm nay so sánh năm 2023 với năm 2022) cho thấy cả những xu hướng đáng lo ngại lẫn những dấu hiệu hy vọng trên toàn thế giới.
Năm 2023, Giáo Hội Công Giáo có 1,405,454.000 người Công Giáo, tương đương 17,8% dân số thế giới. Theo số liệu thống kê được công bố vào ngày 17 tháng 10 năm 2025 bởi Fides, một hãng thông tấn trực thuộc Vatican.
Trong khi số lượng linh mục đang giảm ở khắp mọi nơi ngoại trừ Châu Phi và Châu Á, số lượng người Công Giáo ở Châu Âu đang tăng lên, trái ngược với mức giảm được ghi nhận trong năm trước. Giáo Hội Công Giáo cũng có ít chủng sinh hơn, và sự suy giảm đang gia tăng nhanh chóng tại các chủng viện châu Á.
Như thường lệ hàng năm, hãng thông tấn Fides của Vatican, cơ quan thông tấn của Hội Truyền giáo Giáo hoàng, đã công bố số liệu thống kê cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển của Giáo hội, đặc biệt là về số lượng tín hữu, linh mục, chủng sinh và tu sĩ — cho năm 2023 (bạn có thể tìm thấy tệp PDF tại EN - Catholic Church Statistics 2025.pdf).
Sau đây, chúng tôi tóm tắt một số điểm quan trọng nhất của số liệu thống kê này, liên quan đến 1,405,454.000 người Công Giáo đã đăng ký. Cần lưu ý rằng dữ liệu của Fides không phân biệt giữa Nam Mỹ và Bắc Mỹ, được nhóm chung dưới thuật ngữ chung là "Châu Mỹ". Phương pháp này không cho phép xác định các xu hướng liên quan cho các khu vực này, vì hai khu vực địa lý này không có cùng thực tại và thách thức giáo hội.
Có nhiều người Công Giáo hơn trên thế giới, ngay cả ở Châu Âu.
Dân số thế giới tiếp tục tăng, cũng như số lượng người Công Giáo, với gần 16 triệu tín đồ tăng thêm vào năm 2023 so với năm trước. Đây là phát hiện đầu tiên từ dữ liệu thống kê của Fides. Sự gia tăng số lượng người Công Giáo trên toàn thế giới (+0,1% trong một năm) được ghi nhận trên tất cả các châu lục, bao gồm cả Châu Âu.
Đây là sự đảo ngược xu hướng của năm trước, vốn đã giảm vào năm 2022 so với năm 2021. Châu Âu có 286 triệu người Công Giáo, tăng 740,000 người trong một năm, nâng tổng tỷ lệ người Công Giáo lên gần 40% dân số toàn lục địa.
Châu Phi chứng kiến sự gia tăng lớn nhất về số lượng người Công Giáo (+8,309,000 người, đạt tổng số khoảng 281 triệu người, chiếm gần 20% dân số lục địa gần 1.4 tỷ người). Tiếp theo là Châu Mỹ — hãy nhớ rằng, đó là Bắc Mỹ và Nam Mỹ cộng lại — (+5,668,000, hay tổng cộng là 671,877,000, chiếm khoảng 64% trong số hơn 1 tỷ người Mỹ).
Tại Châu Á, số lượng người Công Giáo đã tăng gần một triệu, nhưng tỷ lệ tín hữu trong tổng dân số của lục địa này (155 triệu trên tổng số gần 4.7 tỷ) vẫn không thay đổi và vẫn ở mức 3.3%.
Tại Châu Đại Dương, mặc dù số lượng người Công Giáo tăng lên, nhưng tỷ lệ tín hữu Công Giáo trong tổng dân số thậm chí còn giảm 1%, chỉ còn hơn 11 triệu tín hữu trong tổng dân số gần 44 triệu người.
Giáo hội đang mất dần các linh mục bất chấp sự đóng góp của Châu Phi
Số lượng cư dân trên mỗi linh mục trên toàn thế giới đã tăng nhẹ 236 người, đạt tổng số 15,918 cư dân trên mỗi linh mục. Trong năm năm qua, các cuộc khảo sát cho thấy tổng số linh mục đang giảm dần, xuống còn 406,996 vào năm 2023, giảm 734 linh mục trong một năm. Sự suy giảm này tiếp tục diễn ra ở châu Âu, với 2,486 linh mục (bao gồm cả linh mục dòng và linh mục giáo phận) giảm. Chỉ có châu Phi (+1,451) và châu Á (+1,145) ghi nhận sự gia tăng.
Tuy nhiên, so với thống kê toàn cầu, châu Âu vẫn có nguồn cung linh mục rất tốt. Trung bình, một linh mục châu Âu phục vụ 1,846 tín hữu, trong khi một linh mục châu Phi phục vụ 5,094 tín hữu Công Giáo.
Cầu nguyện cho nhiều linh mục hơn
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Đấng đã giao phó toàn bộ công trình cứu chuộc của Chúa, phúc lợi và ơn cứu độ của thế giới, cho các linh mục đại diện của Chúa, qua bàn tay của Đức Mẹ Maria rất thánh, con dâng lên Chúa ngày hôm nay, tất cả và trọn vẹn, với tất cả những lời cầu nguyện, công việc và hy sinh, niềm vui và nỗi buồn, để thánh hóa các linh mục của Chúa, và cho tất cả những người đang chuẩn bị cho chức linh mục.
Xin ban cho chúng con những linh mục thực sự thánh thiện, được đốt cháy bởi ngọn lửa tình yêu thần linh của Chúa, những người không tìm kiếm gì ngoài vinh quang cao cả hơn của Chúa và ơn cứu rỗi các linh hồn.
Và lạy Mẹ Maria, Mẹ hiền từ của các linh mục, xin che chở tất cả các linh mục khỏi những nguy hiểm cho ơn gọi thánh thiện của họ, và với bàn tay yêu thương của một người mẹ, xin dẫn đưa những linh mục bất hạnh đã lạc lối trở về với Chúa Chiên Lành. Amen.
Những lo ngại về các chủng sinh, đặc biệt ở Châu Á
Về chi tiết, triển vọng về sự phát triển số lượng linh mục là tiêu cực. Châu Phi là lục địa duy nhất có số lượng chủng sinh tăng (+383), nhưng không mạnh bằng năm trước (+726). Người Châu Phi chiếm gần một phần ba số chủng sinh. Số liệu từ châu Á gây lo ngại hơn cho Giáo Hội Công Giáo, khi số lượng chủng sinh tại đây đã giảm 1,331, xuống còn 30,436. Năm trước, chỉ có 375 chủng sinh ít hơn.
Tại châu Âu, các chủng viện tiếp tục vắng người (giảm 661 chủng sinh trong một năm). Số lượng chủng sinh hiện là 12,800.
Trên toàn thế giới, Giáo hội có 106,495 chủng sinh, ít hơn 1,986 ứng viên thụ phong so với năm 2022.
Nữ tu và phó tế vĩnh viễn
Số lượng nữ tu trên toàn thế giới tiếp tục giảm: hiện còn 589,423 (-9,805). Một số ít tăng trưởng một lần nữa diễn ra ở châu Phi (+1,804) và châu Á (+46), trong khi tiếp tục giảm ở châu Âu (-7,338), châu Mỹ (-4,066) và châu Đại Dương (-251).
Điều cần lưu ý là số lượng phó tế vĩnh viễn - tức là nam giới, có thể đã kết hôn, được thụ phong cho một dịch vụ đặc thù trong Giáo hội - tiếp tục tăng trên toàn thế giới, đạt 51,433 (+1,234). Trong khi con số này trì trệ ở Châu Âu (15,678), thì ở Mỹ, con số này đang tăng lên, với 34,322 phó tế vĩnh viễn, tăng 1,257.
Cuối cùng, các số liệu do hãng thông tấn Fides công bố cung cấp một cái nhìn tổng quan về cơ sở hạ tầng giáo dục do Giáo hội quản lý trên toàn thế giới. Giáo hội có gần 75,000 trường mẫu giáo, 102,000 trường tiểu học, 52,000 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, và hàng ngàn trường đại học và cơ sở giáo dục đại học (không xác định cụ thể). Bằng cách này, Giáo hội đóng góp vào việc giáo dục và đào tạo cho gần 72 triệu người.
“Chúng ta không được tạo ra để trở thành những sinh vật ít vận động, dán mắt vào màn hình, vô nghĩa.”

Tạp chí The Pillar ngày 19 tháng 10, 2025 đăng tải bài viết của Jack Figge với nội dung nói về cái tai hại của việc dán mắt vào màn hình. Ông viết:
Isaiah Ballard vui mừng nhìn chiếc iPhone của mình rơi xuống sông Missouri và bắt đầu chìm.
Vào tháng 12 năm 2023, chàng sinh viên năm thứ nhất tại trường Cao đẳng Benedictine ở Atchison, Kansas, đã quá chán ngán với chứng nghiện màn hình đến nỗi anh quyết định ném chiếc iPhone xuống sông, theo lời mời của một giáo sư.
Đó có lẽ là điều giải thoát nhất mà Ballard từng làm.
Ballard chia sẻ với The Pillar: “Tôi khá nghiện trò chơi di động và mạng xã hội; đặc biệt là trong thời kỳ COVID khi điện thoại là phương tiện chính để tôi giao tiếp với mọi người và giải trí”.
Anh nói: “Tôi đã phân tích tất cả những điều tồi tệ mà tôi đã làm trong đời trên điện thoại, và tôi không muốn bất cứ điều gì trong số đó, vì vậy giờ chiếc điện thoại đó đã nằm dưới đáy sông Missouri”.
“Nó thật sự giải phóng và cuộc sống của tôi giờ đây tốt đẹp hơn rất nhiều nhờ nó.”
Ngày nay, gần hai năm sau khi từ bỏ điện thoại thông minh, Ballard sở hữu một chiếc “điện thoại ngu ngốc”. Anh không thể làm được gì nhiều với nó – và anh nói rằng mình hạnh phúc hơn rất nhiều.
Ném một chiếc iPhone xuống sông có thể là một hành động bất thường. Nhưng Ballard không phải là người duy nhất mong muốn cắt đứt mối liên hệ với thiết bị di động và thói quen lướt web vô thức đi kèm với nó.
Có rất nhiều ứng dụng, thiết bị và thậm chí cả các tính năng tích hợp trên điện thoại nhằm mục đích chống lại chứng nghiện màn hình đang lan tràn trong xã hội hiện đại. Nhiều ứng dụng trong số đó bao gồm bộ đếm thời gian theo dõi việc sử dụng điện thoại và sau đó đưa ra cảnh báo khi vượt quá giới hạn thời gian sử dụng nhất định. Một số ứng dụng khác vô hiệu hóa việc sử dụng một số ứng dụng hoặc tính năng nhất định vào những thời điểm cụ thể trong ngày hoặc sau khi đã đạt đến giới hạn sử dụng.
Nhưng đối với Ballard, sự hỗ trợ để duy trì lối sống ít kỹ thuật đến từ một chương trình có cách tiếp cận khác, thay thế kết nối kỹ thuật số bằng kết nối con người đích thực.
Chương trình - mang tên Humanality [Làm Người] - tập trung vào các nhóm nhỏ gặp gỡ thường xuyên, trực tiếp, nhằm thúc đẩy trách nhiệm giải trình, giáo dục và xây dựng các mối quan hệ chân thành.
Người sáng lập Humanality cho biết cách tiếp cận này phản ảnh nền nhân học Công Giáo, và mặc dù bản thân chương trình không mang tính tôn giáo rõ ràng, nhưng nó có thể mở đường cho mọi người gặp gỡ Tin Mừng.
Thách thức Thiết bị
Andrew Laubacher, cựu chủng sinh và người dẫn chương trình thờ phượng, đã khởi động Humanality vào năm 2023 để giải quyết cuộc khủng hoảng ghiền kỹ thuật đang gia tăng.
“Humanality về cơ bản là giúp mọi người sử dụng công nghệ một cách có chủ đích và cai nghiện kỹ thuật số; có thể là từ màn hình, mạng xã hội, trò chơi điện tử, khiêu dâm, bất cứ thứ gì,” Laubacher nói với The Pillar.
“Sứ mệnh của chúng tôi là giúp mọi người sử dụng kỹ thuật như một công cụ và giúp họ lấy lại thời gian và cuộc sống.”
Năm 2018, khi Laubacher đi lưu diễn khắp đất nước cùng ban nhạc thờ phượng của mình, anh đã thấy cách kỹ thuật chi phối cuộc sống của mình — hàng giờ liền lướt mạng xã hội, xem phim khiêu dâm và lo lắng về hình ảnh bản thân.
Anh muốn thay đổi điều đó.
Vì vậy, anh đã xóa hết mạng xã hội, bỏ điện thoại thông minh và chuyển sang dùng điện thoại nắp gập. Bạn bè, quản lý và hãng thu âm đều nghĩ anh ấy bị điên.
Laubacher nói: "Là một nghệ sĩ, việc từ bỏ phương tiện truyền thông là điều tồi tệ nhất bạn có thể làm. Hãng thu âm của tôi đã nói rằng, đây là một ý tưởng thực sự tồi tệ. Tôi chỉ nói, tôi phải làm vậy vì cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng đến tâm hồn tôi. Tôi đã xóa hết mọi thứ. Tôi đã chuyển sang dùng điện thoại nắp gập và rất nhiều thứ trong cuộc sống của tôi đã được cải thiện."
Năm 2022, một người bạn đã mời Laubacher giúp dẫn dắt một sáng kiến mới tại Đại học Steubenville, khuyến khích sinh viên chuyển sang dùng điện thoại cơ bản.
Laubacher đã hoàn toàn đồng ý.
Laubacher nói:: "Họ đã trả tiền học bổng cho 30 sinh viên để họ từ bỏ điện thoại thông minh và chuyển sang dùng điện thoại cơ bản. Tất cả những sinh viên này đã làm như vậy, và tất cả họ đều bắt đầu có những trải nghiệm thay đổi cuộc sống tuyệt vời này. Nó đã nhận được rất nhiều sự chú ý của báo chí, và họ đã thành lập cả một tổ chức."
"Và thế là, Humanality đã ra đời."
Laubacher đảm nhận vai trò giám đốc điều hành. Nhưng trước khi bắt tay vào việc, anh cho biết, anh muốn hiểu rõ hơn về tác động của kỹ thuật đối với cá nhân và xã hội.
Laubacher nói: "Tôi đã xem xét đại dịch cô đơn, đại dịch sức khỏe tâm thần, đại dịch béo phì. Rất nhiều trong số những vấn đề mà chúng ta đang phải vật lộn này có mối liên hệ sâu sắc với kỹ thuật. Có rất nhiều kỹ thuật đang tác động đến cách chúng ta sống và hành xử."
"Chúng ta không được thiết kế để trở thành những sinh vật ít vận động, dán mắt vào màn hình và vô nghĩa."
Khi bắt đầu nghiên cứu về thời gian dành cho màn hình, Laubacher đã tìm thấy một số thống kê đáng kinh ngạc. Ví dụ, anh cho biết, thanh thiếu niên ngày nay trung bình dành 8 giờ 39 phút trực tuyến mỗi ngày. Và ở các cộng đồng thu nhập thấp, con số đó gần 10 giờ mỗi ngày.
Anh nói: "Hiện tại, nếu cộng tổng thời gian mà Thế hệ Z sẽ sử dụng thiết bị, thì đến cuối đời, với tuổi thọ 90 năm, họ sẽ dành khoảng 27 năm để nhìn chằm chằm vào màn hình. Nhiệm vụ thực sự của chúng tôi là giúp mọi người có được thời gian trở lại.”
Laubacher tìm cách thiết kế một chương trình có chủ đích nhằm điều chỉnh mối quan hệ của mỗi cá nhân với kỹ thuật.
Anh không ủng hộ việc mọi người nhất thiết phải từ bỏ điện thoại thông minh hoàn toàn. Nhưng anh muốn họ xem xét lại thói quen của mình và những gì họ cần làm để lấy lại thời gian và sự tự do.
Laubacher nói: "Điện thoại ảnh hưởng đến cách chúng ta tương tác với nhau, việc thiếu hoạt động ngoài trời, thiếu vận động, lượng kích thích quá mức và quá nhiều thông tin, điều này đang ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến cuộc sống của chúng ta".
Giải pháp của anh: Làng Humanality- những nhóm nhỏ cam kết thực hành các hoạt động kỹ thuật lành mạnh, cùng nhau chịu trách nhiệm và tụ họp hàng tuần để tham gia các hoạt động giáo dục, chẳng hạn như xem video thông tin về việc sử dụng kỹ thuật.
Humanality đã xuất bản một cuốn sổ tay hướng dẫn, một loạt video và nhiều bài viết phân tích khoa học và tâm lý học đằng sau việc sử dụng kỹ thuật hiện đại. Chương trình khuyến khích người tham gia tìm một cộng đồng - một ngôi làng - để cùng xem video hàng tuần. Một ngôi làng có thể bao gồm bạn bè hoặc thành viên gia đình, những người cũng cam kết xây dựng thói quen kỹ thuật lành mạnh.
Laubacher nói: "Chúng ta đi sâu vào khoa học, chúng ta đi sâu vào thực tế này là một số trẻ em đang dành nhiều thời gian trong nhà hơn cả những tù nhân an ninh tối đa. Chúng ta tìm hiểu về khoa học ánh sáng xanh, về cách nó ảnh hưởng đến nhịp sinh học của chúng ta. Đó không phải là bài tập về nhà, mà là công việc của con người.”
“Sau đó, bạn sẽ đối diện với những thử thách này mỗi tuần, chẳng hạn như những bữa ăn không dùng điện thoại, hoặc cho điện thoại đi ngủ bằng kỹ thuật số, hoặc gọi điện cho bạn bè. Tất cả đều là những thói quen lành mạnh mà chúng ta phải tự mình vật lộn. Chúng ta muốn chúng trở thành một phần trong cuộc sống của mọi người.”
Không phải ngẫu nhiên mà Humanality sử dụng các nhóm nhỏ, gặp gỡ trực tiếp, để giúp cai nghiện công nghệ.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mặc dù mạng xã hội và các kỹ thuật tương tự có thể tạo ấn tượng là kết nối mọi người lại với nhau, nhưng thực tế chúng lại tạo ra một hố sâu ngăn cách trong mối quan hệ. Và việc xây dựng lại các mối quan hệ có thể là một phần quan trọng để đánh bại cơn nghiện đó.
Vấn đề lớn nhất của mạng xã hội và việc sử dụng kỹ thuật quá mức khác là sự mất kết nối, theo Tiến sĩ Adriana Stacey, một bác sĩ tâm thần làm việc với thanh thiếu niên và người trẻ tuổi, người đã nghiên cứu về tác động tâm lý của mạng xã hội.
Stacey nói với The Pillar: “Con người được tạo ra để sống trong cộng đồng. Chúng được tạo ra để có mối quan hệ với nhau, để hỗ trợ lẫn nhau, để trở thành những gì chúng ta gọi là hiện thân”.
“Có một quan niệm sai lầm rằng kỹ thuật giúp chúng ta kết nối với nhau, nhưng thực tế thì ngược lại. Kỹ thuật khiến chúng ta ít kết nối hơn với những người chúng ta yêu thương, quan tâm và những người xung quanh.”
Nghiên cứu cho thấy việc tiếp xúc quá mức với kỹ thuật sẽ định hình lại não bộ theo hướng bất lợi, làm giảm khả năng giao tiếp với người khác của một cá nhân. Theo thời gian, não bộ phát triển các đường dẫn thần kinh giữa các tế bào khi được sử dụng. Trong thời kỳ thanh thiếu niên, não bộ sẽ cắt giảm những đường dẫn ít được sử dụng.
Stacey nói: “Điều chúng ta đang thấy là các đường dẫn cho rất nhiều yếu tố thuộc loại trí tuệ cảm xúc – tương tác trực tiếp, kỹ năng xã hội – đang bị cắt giảm vì trẻ em không sử dụng chúng vì chúng quá mải mê với kỹ thuật. Những đường dẫn bị ảnh hưởng tiêu cực bởi màn hình này cũng chịu trách nhiệm cho sự tương cảm, vì vậy chúng ta đang thấy sự suy giảm tương cảm ở những người sử dụng màn hình quá mức.”
Việc quá phụ thuộc vào kỹ thuật cũng kích thích một cách giả tạo mức dopamine của một cá nhân, điều này có thể dẫn đến gia tăng mức độ lo lắng và trầm cảm.
Stacey nói "Việc sử dụng màn hình để giải trí cũng có tác động tương tự như cocaine lên não, vì vậy chúng khiến não giải phóng một lượng lớn dopamine. Điều đó có hại gì chứ, phải không? Cái gì tăng lên thì cũng phải giảm xuống."
"Mức dopamine giảm xuống, nhưng sau đó não cạn kiệt và không thể giải phóng thêm được nữa, và đó là lúc trầm cảm và lo lắng ập đến."
"Điều tiếp theo xảy ra là thứ mà chúng ta gọi là sự thèm muốn, và não chỉ muốn kích thích cụ thể đó vì đó là thứ cho phép lượng dopamine khổng lồ này được giải phóng, đó là lý do tại sao trẻ em nghiện màn hình nhanh chóng như vậy."
Stacey cho biết, trong cuộc chiến chống lại chứng nghiện màn hình, việc nhấn mạnh vào cộng đồng là chìa khóa.
Cô giải thích: "Bạn cần một nhóm người. Bạn cần một nhóm hỗ trợ xung quanh mình, những người cũng đang làm điều tương tự. Giống như khi mọi người cố gắng bỏ rượu, hoặc bỏ thuốc lá, họ lại tìm đến những người cũng đang bỏ những thói quen đó vì việc đó rất khó thực hiện một mình.”
“Chúng tôi thường yêu cầu trẻ em, thanh thiếu niên, sinh viên đại học tập hợp một nhóm người cùng thực hiện, và sau đó họ có thể thực sự hỗ trợ lẫn nhau, và chúng tôi đã rất thành công với mô hình đó.”
Trở lại làm người
Nick Becker, một kỹ sư cơ khí 31 tuổi ở Fontana, California, đã biết đến chương trình Humanality vào mùa xuân năm ngoái. Anh quyết định thử chương trình này vào Mùa Chay và kể từ đó không tải xuống mạng xã hội nữa.
Becker chia sẻ với The Pillar: “Mỗi Mùa Chay, tôi đều từ bỏ mạng xã hội và tôi luôn thấy nó hữu ích, đó là một sự khởi động lại tinh thần tốt. Nhưng Tôi luôn quay lại sau lễ Phục sinh. Năm nay, tôi đã gia hạn thêm ba tháng và bắt đầu không sử dụng màn hình nữa, và thực sự bắt đầu đón nhận chương trình Humanality.”
“Nó mang lại cho tôi cảm giác tự do.”
Trước khi bắt đầu Humanality, Becker thấy mình bị điện thoại điều khiển, sẵn sàng dừng mọi cuộc trò chuyện hoặc bỏ dở bất cứ việc gì đang làm để kiểm tra thông báo.
Anh nói điện thoại đã điều khiển anh.
Becker nói: “Tôi liên tục kiểm tra thông báo và ưu tiên trả lời chúng ngay lập tức. Khi tôi lướt Instagram, tôi làm điều đó như một cách để trốn tránh, tôi đang trì hoãn hoặc làm bản thân xao nhãng, thay vì giải quyết những việc tôi cần giải quyết”.
“Tôi rất trân trọng chiếc điện thoại thông minh của mình. Nó là một công cụ hữu ích, nhưng tôi đã không nắm bắt tốt mối quan hệ của mình với nó như một công cụ. Nó như một thứ gì đó cứ cuốn tôi đi. Nó là một thứ gây xao nhãng, giết thời gian hoặc cho phép tôi trốn thoát.”
Bằng cách tham gia một ngôi làng Humanality và xem các video giáo dục của nhóm, Becker cho biết anh đã học được cách sử dụng điện thoại đúng cách. Và điều này, theo anh, đã tác động tích cực đến thói quen hàng ngày của anh, từ tình bạn đến đời sống tâm linh.
Becker nói: “Tôi sử dụng điện thoại như một công cụ, bao gồm cả việc cầu nguyện thay vì để làm xao nhãng việc cầu nguyện. Giờ đây, tôi cầu nguyện nhiều hơn, tôi cất điện thoại đi như Humanality khuyên. Khi làm vậy, tôi có thể thức dậy và cầu nguyện buổi sáng hoặc đi ngủ và cầu nguyện thay vì nằm trên giường và lướt web.”
Nhưng ngoài lời cầu nguyện và tình bạn, Becker còn tin rằng Humanality đã giải phóng thời gian và sự chú ý của anh để tập trung vào mọi thứ trước mắt - ngay cả những việc tầm thường hay thường nhật trong ngày.
Becker nói: "Nó đã giúp tôi hiện diện và trải nghiệm mọi thứ, mở rộng tầm mắt trước những điều đang diễn ra xung quanh mình hoặc hiện diện với những người khác và có thể đào sâu hơn vào những mối quan hệ đó vì tôi không phải liên tục kiểm tra điện thoại".
Đối với Ballard, Humanality đã thay đổi cách anh nghĩ về kỹ thuật và các mối quan hệ của mình với người khác. Sau khi làm hỏng iPhone, anh đã chuyển sang một chiếc điện thoại cơ bản chỉ có chức năng gọi và nhắn tin.
Giờ đây, anh có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện, giao lưu và làm việc. Tình bạn của anh phong phú hơn, và anh cởi mở hơn với mọi người. Anh cho rằng tất cả những điều này là nhờ Humanality và ngôi làng mà anh đã khám phá ra.
Ballard nói: "Mọi người đang có những cuộc thảo luận cởi mở hơn về các vấn đề của họ như đấu tranh với nội dung khiêu dâm, mạng xã hội hoặc TV. Mọi người đến các buổi họp của Humanality để thảo luận về những điều này và đang tìm kiếm sự giúp đỡ ở đúng nơi."
Trong khi nhiều bạn bè cùng trang lứa vẫn mải mê với kỹ thuật, lo lắng về sự hiện diện và hình ảnh trực tuyến của mình, Ballard lại tách biệt khỏi thế giới kỹ thuật số, điều mà anh cho rằng giúp anh có được trải nghiệm đại học trọn vẹn hơn.
Ballard nói: “Humanality sẽ giúp các trường đại học bớt lo lắng hơn, sinh viên sẽ làm việc hiệu quả hơn, mọi người sẽ cảm thấy tự do hơn khi nhận ra rằng họ không phải là những người duy nhất đang phải đối diện với điều này. Các trường đại học luôn tràn ngập sinh viên đang tìm kiếm sự giúp đỡ để xây dựng các mối quan hệ. Tính nhân văn là một cách để họ có một con đường cụ thể để đi.”
‘Truyền giáo đầy hứng khởi’
Những trải nghiệm của Becker và Ballard thể hiện tinh thần sứ mệnh của Humanality — tổ chức này muốn giúp mọi người kết nối lại với người khác, với chính mình và với Thiên Chúa.
Mặc dù không phải là một tổ chức Công Giáo rõ ràng, Laubacher tin rằng người Công Giáo nên là những người đầu tiên từ bỏ kỹ thuật.
Laubacher nói: “Thời gian là nguồn tài nguyên hữu hạn đáng kinh ngạc mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta, và nếu chúng ta lãng phí trung bình năm tiếng rưỡi mỗi ngày trên những nền tảng này, chúng ta đang lãng phí món quà tuyệt vời này. Hầu hết những tương tác này đều không có lợi, và nếu có, chúng còn gây ra thêm sự phân cực. Không có thêm đối thoại. Không có thêm sự thấu hiểu hay tương cảm. Chúng đang làm suy giảm khả năng nhận thức, sự chú ý và khả năng kết nối với người khác của chúng ta.”
“Người Công Giáo nên quan tâm, vì điều này đang ảnh hưởng đến con người.”
Nhiều người Công Giáo duy trì sự hiện diện trực tuyến dưới danh nghĩa “truyền giáo kỹ thuật số”. Nhưng Laubacher đặt câu hỏi về cách làm này. Anh cho rằng nhược điểm của mạng xã hội lớn hơn ưu điểm, và anh tin rằng việc truyền giáo được thực hiện tốt nhất khi gặp mặt trực tiếp, người gặp người.
Laubacher nói: “Ý tưởng cho rằng chúng ta cần truyền giáo thông qua tất cả các nền tảng này, và luôn có mặt trên tất cả chúng là hoàn toàn sai lầm. Tôi nghĩ đó là một trải nghiệm tiêu cực. Mặc dù bạn có thể thấy Cha Mike Schmitz khi cuộn lên cuộn xuống (scroll), điều này có thể hữu ích, nhưng việc cuộn lên cuộn xuống tiếp theo của bạn lại giống như khiêu dâm, hoặc phụ nữ mặc quần đùi bó sát và bikini.”
Anh nói: “Phương tiện truyền thông chính là thông điệp, và phương tiện truyền thông đã trở nên quá méo mó”.
“Sự thật khó chịu mà không ai thực sự muốn nói đến, mà tôi lại thấy thoải mái khi nói đến, là việc truyền giáo cần được ưu tiên trực tiếp.”
Mặc dù Humanality bắt đầu tại các trường đại học Công Giáo và đã hợp tác với các tổ chức Công Giáo khác, Laubacher đã cố gắng xây dựng nội dung thương hiệu để làm cho nó hấp dẫn đối với nhiều đối tượng khán giả đa dạng, không theo tôn giáo.
Anh đã nhận được yêu cầu từ những người vô thần, Do Thái giáo, Hồi giáo và nhiều người theo đạo Tin Lành khác nhau, đề nghị hợp tác với Humanality để giúp thành lập các làng tại các tổ chức của họ, nhằm giúp cai nghiện Kỹ thuật.
Laubacher coi đây là cơ hội để đặt nền móng cho một cuộc gặp gỡ với Tin Mừng.
Anh nói: “Những cách thức của Humanality bắt nguồn sâu xa từ nhân học Công Giáo, nhưng chúng dễ tiếp cận và áp dụng cho tất cả mọi người bởi vì nếu bạn là con người, bạn cần ngủ đủ giấc, bạn cần các mối quan hệ đúng đắn, bạn cần dinh dưỡng, bạn cần vận động, và có lẽ bạn cần giúp lấy lại thời gian của mình. Điều tôi thực sự yêu thích ở đây là tôi kết nối được với những người vô thần, những người không có điểm chung về thần học, nhưng họ yêu thích những gì chúng tôi đang làm.”
“Đây là một trong những hoạt động truyền giáo thú vị nhất mà tôi từng thực hiện.”
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nói với các thành viên của Hội đồng Chống Cho Vay Nặng Lãi Quốc gia Ý rằng cho vay ăn lời cắt cổ là “một tội nghiêm trọng, đôi khi rất nghiêm trọng”.
Cho vay nặng lãi có thể ảnh hưởng đến “những người phải đối mặt với những thời điểm khó khăn, chẳng hạn như điều trị y tế đặc biệt hoặc những chi phí bất ngờ vượt quá khả năng của họ hoặc gia đình họ”, Đức Giáo Hoàng Lêô đưa ra lập trường trên trong buổi tiếp kiến ngày 18 tháng 10, diễn ra tại Sảnh Clêmentê thuộc Điện Tông Tòa. Ngài nhấn mạnh rằng “điều này thậm chí còn xảy ra ở cấp độ các quốc gia trên khắp thế giới. Thật không may, các hệ thống tài chính cho vay nặng lãi có thể khiến cả dân tộc phải quỳ gối”.
“Khi việc theo đuổi lợi nhuận thắng thế, những người khác không còn là con người, họ không còn khuôn mặt, họ chỉ là những vật thể bị bóc lột; và vì vậy, cuối cùng chúng ta đánh mất chính mình và linh hồn của mình”, Đức Giáo Hoàng nói thêm. “Việc cải đạo những người tham gia cho vay nặng lãi cũng quan trọng như việc gần gũi với những người đang phải chịu đựng nó”.
Nguyên bản tiếng Anh toàn văn diễn từ của ngài có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Chúc bạn bình an!
Anh chị em thân mến, chào buổi sáng và chào mừng!
Tôi xin chào vị Chủ tịch và tất cả quý vị đại diện cho Hội đồng Chống Cho Vay nặng lãi Quốc gia. Tôi xin cùng với những người tiền nhiệm của tôi bày tỏ lòng cảm ơn vì sự tận tâm của quý vị trong suốt ba mươi năm qua trong việc đấu tranh chống lại một vấn đề đang gây ra hậu quả tàn khốc cho cuộc sống của nhiều người và nhiều gia đình.
Hiện tượng cho vay nặng lãi cho thấy sự tha hóa của lòng người. Đây là một câu chuyện đau lòng và cổ xưa, đã được chứng thực trong Kinh Thánh. Thực vậy, các tiên tri đã lên án cho vay ăn lời cắt cổ, cùng với nạn bóc lột và mọi hình thức bất công đối với người nghèo. Tiên tri Isaia, nhân danh Chúa, đã đặt câu hỏi này: “Đây chẳng phải là cách ăn chay mà Ta ưa thích sao: mở xiềng xích gian ác, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” (Is 58:6)? Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với thái độ đàn áp con người đến mức biến họ thành nô lệ! Đó là một tội trọng, đôi khi rất nghiêm trọng, bởi vì nó không thể bị giản lược thành một vấn đề tính toán đơn thuần; cho vay nặng lãi có thể gây ra khủng hoảng cho các gia đình, nó có thể làm suy yếu tâm trí và trái tim đến mức khiến người ta nghĩ đến việc tự tử như là lối thoát duy nhất.
Những tác động tiêu cực của cho vay nặng lãi thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Có một hình thức cho vay nặng lãi dường như muốn giúp đỡ những người gặp khó khăn về tài chính, nhưng lại nhanh chóng bộc lộ bản chất thật sự của nó là một gánh nặng ngột ngạt. Hậu quả đặc biệt đè nặng lên những người yếu đuối, chẳng hạn như nạn nhân của cờ bạc. Tuy nhiên, nó cũng ảnh hưởng đến những người phải đối mặt với những khoảnh khắc khó khăn, chẳng hạn như điều trị y tế đặc biệt hoặc chi phí bất ngờ vượt quá khả năng của họ hoặc gia đình họ. Những gì ban đầu được coi là một bàn tay giúp đỡ, nhưng thực tế về lâu dài lại trở thành một cực hình.
Và điều này thậm chí còn xảy ra ở cấp độ các quốc gia trên khắp thế giới. Đáng tiếc là các hệ thống tài chính cho vay nặng lãi có thể khiến cả dân tộc phải khuất phục. Tương tự, chúng ta không thể bỏ qua “những kẻ mà các giao dịch cho vay nặng lãi và tham lam dẫn đến cảnh đói khát và cái chết của anh em mình trong gia đình nhân loại” (Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2269): trách nhiệm của họ rất nặng nề và họ tiếp tay cho các cấu trúc tội lỗi bất chính.
Những câu hỏi tương tự cứ liên tục quay trở lại với chúng ta. Liệu điều này có nghĩa là những người kém tài năng hơn thì không còn là con người nữa chăng? Hay những người yếu đuối không có cùng phẩm giá như chúng ta? Liệu những người sinh ra với ít cơ hội hơn sẽ có giá trị thấp kém hơn trong tư cách là con người không? Liệu họ có nên chỉ giới hạn bản thân vào việc tồn tại? Giá trị của xã hội ta, và tương lai của chính chúng ta, phụ thuộc vào câu trả lời mà chúng ta đưa ra cho những câu hỏi này. Hoặc chúng ta lấy lại được phẩm giá đạo đức và tinh thần, hoặc chúng ta sẽ rơi vào một hố phân” (Tông huấn Dilexi te, 95).
Đây chính là lý do tại sao hành động của những người, như anh chị em, những người cam kết ngăn chặn nạn cho vay nặng lãi và tìm cách chấm dứt tệ nạn này, lại có giá trị đến vậy. Công việc của anh chị em đặc biệt phù hợp với tinh thần và thực hành của Năm Thánh, và xứng đáng được coi là một trong những dấu chỉ hy vọng đặc trưng của Năm Thánh này.
Nghĩ về nguồn gốc Phúc Âm của buổi lễ này, tôi muốn mời anh chị em suy ngẫm về thái độ của Chúa Giêsu đối với ông Da-kêu, nhà lãnh đạo nhóm thu thuế ở Giê-ri-cô (x. Lc 19,1-10). Ông ta quen với việc ngược đãi, áp bức và bắt nạt. Việc một người như ông ta lợi dụng địa vị để bóc lột người khác và kiếm tiền bằng cách cướp bóc những người yếu thế là điều bình thường. Và Chúa Giêsu đã tìm đến ông Da-kêu: Ngài gọi ông và nói rằng Ngài muốn ở lại nhà ông. Và rồi điều không thể tưởng tượng được đã xảy ra: lòng quảng đại của Chúa Giêsu hoàn toàn khiến ông sửng sốt và dồn ông vào chân tường. Tỉnh ngộ, ông Da-kêu nhận ra mình đã làm sai và quyết định trả lại “có tính lãi”! “Lạy Chúa, này phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Không ai xin ông nhiều đến thế, ngay cả luật Mô-sê. Nhưng sự thật là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô đã biến đổi tâm hồn ông, và rồi mọi thứ đã thay đổi. Chỉ có lòng quảng đại mới hiệu quả đến mức nó hé lộ cho ta thấy ý nghĩa nhân văn của mình. Khi lòng ham muốn lợi nhuận thắng thế, người khác không còn là người nữa, họ không còn diện mạo, họ chỉ là những đối tượng bị bóc lột; và thế là ta đánh mất chính mình và cả linh hồn mình. Việc cải hóa những kẻ cho vay nặng lãi cũng quan trọng như việc gần gũi với những người đang chịu đựng nạn cho vay nặng lãi.
Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục sứ mệnh của mình, điều này càng quý giá hơn vì nó thể hiện sự cam kết cộng đồng, được các mục tử của Giáo hội hỗ trợ. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, phó thác anh chị em cho lời chuyển cầu của Thánh Matthêu Tông đồ, và tôi chân thành chúc lành cho anh chị em. Xin cảm ơn.
Source:Vatican News
Đức Tổng Giám Mục phụ trách Quân đội Timothy Broglio bày tỏ lo ngại về việc Quân đội Hoa Kỳ hủy bỏ một số hợp đồng nhà nguyện, ngài cảnh báo rằng điều này “gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo”.
Trong một lá thư mục vụ cũng được gửi tới tất cả các thành viên của Quốc hội, Broglio viết rằng nhiều người trong Quân đội tham dự Thánh lễ và tham gia vào việc đào tạo đức tin có thể đã nhận thấy “các buổi lễ theo hợp đồng và văn phòng của nhà thầu tối om và không có nhạc trong Thánh lễ” bắt đầu từ ngày 5 tháng 10 năm 2025.
Ngài cho biết đây không phải là kết quả của việc chính phủ đóng cửa trong 16 ngày, mà là do quyết định của Bộ chỉ huy quản lý cơ sở quân đội Hoa Kỳ về việc hủy bỏ mọi hợp đồng nhà nguyện dành cho Điều phối viên giáo dục tôn giáo, gọi tắt là CRE, Điều phối viên đời sống mục vụ Công Giáo, gọi tắt là CPLC và hợp đồng âm nhạc trong quân đội.
Đức Cha Broglio viết rằng những hợp đồng dành cho nhạc sĩ, quản trị viên và nhà giáo dục tôn giáo này “phục vụ cho cộng đồng đức tin tại các nhà nguyện quân đội” và rất cần thiết để hỗ trợ các linh mục tuyên úy Công Giáo trong nhiệm vụ của họ.
Ngài nhấn mạnh rằng Tổng giáo phận quân đội “đặc biệt phụ thuộc vào các kỹ năng chuyên môn và đào tạo thần học của các CRE, những người dưới sự hướng dẫn của linh mục, giám sát các nhu cầu hàng ngày về giáo dục tôn giáo, phối hợp đào tạo chứng chỉ giáo lý viên cho hàng ngàn nam nữ tình nguyện làm giáo lý viên, và bảo đảm rằng các tài liệu phù hợp được chuẩn bị và mua sắm.”
Đức Tổng Giám Mục Broglio nhận định rằng: “Bằng việc hủy bỏ những hợp đồng này, Quân đội đã gây gánh nặng cho các giáo sĩ Công Giáo, gây tổn hại cho cộng đồng nhà nguyện và cản trở sự bảo đảm theo hiến pháp về quyền tự do thực hành tôn giáo, đặc biệt là đối với người Công Giáo”.
“Việc hủy bỏ hợp đồng nhà nguyện có vẻ như là một sự loại bỏ trung lập đối với việc hỗ trợ nhà nguyện, điều này tự nó ảnh hưởng đến quyền tự do thực hành tôn giáo của tất cả binh lính,” ngài nói. “Tuy nhiên, hành động này gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo, thứ nhất, vì mật độ tuyên úy Công Giáo vốn đã rất thấp và nhu cầu lại rất cao, và thứ hai, vì đức tin Công Giáo đòi hỏi việc giáo dục tôn giáo liên tục và chuẩn bị các bí tích, mà chỉ có thể đạt được thông qua sự hỗ trợ có năng lực.”
Đức Tổng Giám Mục Broglio trích dẫn một báo cáo của RAND cho biết, “Cứ 1.000 binh lính Tin lành thì có khoảng sáu tuyên úy Tin lành và cứ 1.000 binh lính Công Giáo thì có khoảng một tuyên úy Công Giáo.”
Source:Catholic News Agency
Larry Chapp nhận bằng Tiến sĩ Thần học tại Đại học Fordham năm 1994, chuyên ngành thần học về Hans Urs von Balthasar. Ông đã dành 20 năm giảng dạy thần học tại Đại học DeSales gần Allentown, Pennsylvania, trước khi nghỉ hưu sớm để cùng vợ là Carmina và người bạn, cũng là cựu học trò của ông, Linh mục John Gribowich, thành lập Nông trại Công nhân Công Giáo Dorothy Day gần Wilkes Barre, Pennsylvania. Ông là tác giả của nhiều bài báo và sách, đồng thời là người sáng lập và tác giả chính của blog Gaudiumetspes22.com.
Việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đang làm dấy lên cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo. Trong bối cảnh đó, ông vừa có bài viết nhan đề “Why Christ Won’t Let His Church Ordain Women”, nghĩa là “Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ”.
Tạp chí tin tức Công Giáo quốc tế The Tablet cho rằng việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đầu tiên trong Giáo hội Anh giáo là cơ hội chín muồi để Giáo Hội Công Giáo xem xét lại vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ.
Trong một bài viết ngắn chủ yếu gồm cuộc phỏng vấn với nhà thần học Dòng Tên người Ái Nhĩ Lan, Cha Gerry O'Hanlon, không giấu sự thất vọng của mình với tình trạng hiện tại của vấn đề này trong Công Giáo và thẳng thắn tuyên bố mong muốn của mình rằng Giáo hội “hãy ngừng vòng vo và tiến hành xem xét lại một cách công bằng và cởi mở giáo lý hiện hành”.
Rõ ràng từ những nhận xét của vị linh mục này, người ta có thể thấy rõ ngài cho rằng giáo huấn hiện tại của Giáo hội dựa trên những nền tảng thần học sai lầm. Điều này dẫn ngài đến kết luận rằng việc từ chối phong chức cho phụ nữ là một điều tai tiếng lớn đối với Giáo hội, cũng tệ hại như việc Giáo hội trước đây đã không lên tiếng phản kháng quyết liệt chế độ nô lệ.
Sau đó, ngài trích dẫn những kết luận thần học của Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 và ý kiến của nhà thần học nổi tiếng Karl Rahner về vấn đề này. Tóm lại, ngài nhấn mạnh việc Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 nhận thấy không có bằng chứng Kinh Thánh nào bảo đảm cho lập trường của Giáo hội về việc loại trừ phụ nữ khỏi chức thánh, lưu ý rằng nhà thần học Karl Rahner, vào cuối những năm 1970, đã lập luận rằng Giáo hội phải có trách nhiệm chứng minh điều này. “Gánh nặng này vẫn chưa được thực hiện”, Cha O'Hanlon nói.
Bản thân bài viết ngắn này không có gì nổi bật và chỉ là một trong số rất nhiều bài viết khác đã xuất hiện trong nhiều năm qua trên các cơ quan truyền thông Công Giáo phần lớn mang tính cấp tiến. Nhưng điều nó cho thấy là, trong suy nghĩ của nhiều người Công Giáo - thậm chí có thể là phần lớn người Công Giáo trong nền văn hóa phương Tây, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ, nếu chúng ta tin vào các số liệu được đưa ra từ các cuộc thăm dò.
Chúa Kitô không trao cho Giáo hội của Ngài thẩm quyền phong chức cho phụ nữ
Nhưng làm sao có thể như vậy được? Chẳng phải Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khép lại vấn đề này, với quyết định dứt khoát rằng Giáo Hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ sao? Thật vậy, vị Giáo Hoàng Ba Lan đã làm như vậy, như ngài đã tuyên bố trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994:
Để xóa tan mọi nghi ngờ liên quan đến một vấn đề vô cùng quan trọng, một vấn đề liên quan đến chính hiến chế thiêng liêng của Giáo hội, nhân danh chức vụ củng cố anh em của tôi (x. Lc 22:32), tôi tuyên bố rằng Giáo hội không có bất kỳ thẩm quyền nào để phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ một cách dứt khoát.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra phán quyết này dựa trên hai yếu tố chính. Thứ nhất, Giáo Hội phải noi gương Chúa, Đấng chỉ chọn nam giới làm tông đồ. Thứ hai, và phù hợp với điều này, truyền thống lâu đời của Giáo Hội là chỉ phong chức linh mục cho nam giới. Ngài lưu ý rằng quyết định này cũng đã được phê chuẩn trong các văn kiện giáo hoàng hiện đại.
Ngài cũng kiên quyết bác bỏ quan niệm cho rằng việc không phong chức cho phụ nữ ngụ ý rằng phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trong chương trình cứu độ. Ngài nhấn mạnh rằng Đức Trinh Nữ Maria, mặc dù không được Con mình chọn làm tông đồ hay linh mục, nhưng vẫn giữ một địa vị cao cả trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa:
Hơn nữa, việc Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, không nhận được sứ mạng riêng của các Tông Đồ cũng như chức tư tế thừa tác, cho thấy rõ ràng rằng việc không cho phụ nữ được thụ phong linh mục không thể có nghĩa là phụ nữ có phẩm giá thấp kém hơn, cũng không thể bị hiểu là kỳ thị họ. Đúng hơn, điều này phải được xem là sự tuân giữ trung thành một kế hoạch được gán cho sự khôn ngoan của Chúa Tể vũ trụ.
Tuy nhiên, chính những lập luận này lại bị những người ủng hộ việc phong chức linh mục cho phụ nữ bác bỏ vì cho là không đủ. Thực vậy, những điều ấy bị coi là sai sót nghiêm trọng đến mức dẫn đến ý tưởng rằng, như Cha O'Hanlon đã nói, khi bám vào chúng, Giáo hội chỉ đang “tránh né”.
Chúa Kitô ban cho Hội Thánh Ngài thẩm quyền giảng dạy
Để đáp lại, tôi xin đưa ra ba điểm. Thứ nhất, điều không được đề cập đến trong những lời bác bỏ như vậy chính những thiếu sót cơ bản về giáo hội học đã thúc đẩy chúng. Rõ ràng, thẩm quyền giáo huấn rất cao của Đức Gioan Phaolô II trong quyết định của ngài đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, nó bị gạt sang một bên như một giáo huấn sai lầm, và do đó không cần phải biện minh cho việc bất đồng quan điểm, bất kể thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng. Vấn đề về tính bất khả xâm phạm của Giáo hội dường như không liên quan đến họ, và tất cả các giáo huấn mà họ cho là không bất khả ngộ đều bị coi là có thể bị tranh luận thần học liên tục.
Thật vậy, và để không lạc đề quá xa, chắc chắn vấn đề phong chức cho phụ nữ chỉ là một trong nhiều vấn đề mà những người Công Giáo có khuynh hướng cấp tiến tin rằng nên được xem xét lại để có thể đảo ngược. Tôi có cần phải trích dẫn danh sách dài những chủ đề như vậy không? Và để minh họa cho điểm này, chúng ta thấy rằng tân Tổng Giám Mục Canterbury, Sarah Mullally, là người “ủng hộ quyền lựa chọn” phá thai và rất cấp tiến trong mọi vấn đề liên quan đến tình dục con người — đó là một sự thật mà Cha O'Hanlon cố tình lờ đi.
Tóm lại, có cả một gói giáo hội học đang được áp dụng ở đây, vượt ra ngoài vấn đề duy nhất về việc phong chức cho phụ nữ.
Những nhà phê bình như Cha O'Hanlon nhanh chóng cáo buộc rằng giáo huấn của Giáo hội dựa trên lý luận thần học hời hợt. Nhưng quan điểm của chính ngài lại thể hiện sự xem xét hời hợt và thiển cận về thẩm quyền giáo huấn. Trong số những người bác bỏ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bất kể địa vị thẩm quyền cao trọng của ngài, chúng ta thường thấy những sự phân biệt đơn giản giữa “một số ít” giáo huấn bất khả ngộ của Giáo hội và nhiều giáo huấn không bất khả ngộ, với những giáo huấn không bất khả ngộ bị coi là đề tài cho những lời chỉ trích không hồi kết.
Đáng buồn thay, điều mà giáo hội học này báo hiệu là một Giáo hội chẳng khác gì một câu lạc bộ tranh luận với những tranh cãi bất tận — hay một tòa án liên tục họp mà chẳng bao giờ đưa ra phán quyết về bất cứ điều gì. Nhưng chính vì vậy mà Chúa Kitô đã thành lập Giáo hội của Người trên thẩm quyền tông đồ, và cũng chính vì vậy mà chúng ta có một huấn quyền uy tín.
Chúa Kitô, chứ không phải Giáo Hội, đã thiết lập chức tư tế chỉ dành cho nam giới
Ngoài ra còn có vấn đề về chính những lập luận của Đức Giáo Hoàng, vốn không hề hời hợt như Cha O'Hanlon ngụ ý. Người ta chỉ đơn giản cho rằng việc Chúa Giêsu chỉ chọn người nam chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng điều này không đúng.
Bị bao quanh bởi các nền văn hóa ngoại giáo thường có các nữ tư tế, quyết định - trước tiên là của Do Thái giáo, và sau đó là của Chúa Kitô - giới hạn chức tư tế cho nam giới là kết quả của một thành kiến văn hóa và gia trưởng, hoặc là sản phẩm của một quyết định thần học dứt khoát có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Khi nào Chúa Giêsu đưa ra những quyết định trong Phúc Âm mà chúng ta có thể nói là những ví dụ rõ ràng cho thấy Ngài đã nhượng bộ trước định kiến văn hóa? Thật vậy, dường như điều ngược lại mới đúng, đặc biệt là liên quan đến địa vị của phụ nữ.
Do đó, quyết định chỉ chọn người nam của ngài - bất chấp sự hiện diện của rất nhiều phụ nữ quan trọng trong chức vụ của ngài - chính là lý do tại sao Giáo hội sơ khai coi tấm gương của ngài là biểu hiện của điều gì đó có ý nghĩa bí tích và ràng buộc.
Hơn nữa, không thể nói rằng Chúa Kitô đã đưa ra quyết định này hoàn toàn dựa trên sự thận trọng, chỉ vì Người biết những nguy hiểm mà phụ nữ sẽ phải đối mặt trong sứ mệnh truyền giáo. Như Thánh Phaolô đã chỉ rõ trong các thư của ngài, phụ nữ đã thực sự truyền giáo, và họ là một phần trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội ra thế giới.
Quyết định của Chúa Kitô phù hợp với bản chất con người của chúng ta
Cuối cùng, cần nhớ rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không ban hành quyết định này – là điều đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô tái khẳng định - trong một khoảng trống thần học. Chính sự phát triển thần học về thân xác của ngài là một sự giải thích sâu sắc về ý nghĩa bí tích sâu sắc của thân xác mang tính giới tính của chúng ta. Chúng ta không phải là những người theo thuyết Ngộ Đạo, và Giáo hội có một truyền thống thần học lâu đời, đặc biệt là trong việc thảo luận về hình ảnh cô dâu dành cho Giáo hội.
Địa vị nam giới của chính Chúa Giêsu mang ý nghĩa biểu tượng và bí tích mà những người ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ coi là không liên quan, nếu không muốn nói là đáng xấu hổ. Đối với họ, nam tính của Chúa Giêsu chỉ đơn thuần là một thực tại thứ cấp không có tác động gì — là phàm nhân thì rõ ràng ai trong chúng ta cũng có một giới tính — và do đó không liên quan gì đến vấn đề đang được bàn luận. Nhưng việc coi nam tính của Chúa Giêsu nhẹ đến mức vô nghĩa này lại là một ví dụ khác về thần học đơn giản và hời hợt mà họ cho là vượt trội hơn so với chính sự suy tư của Giáo hội về chủ đề này.
Tôi xin phép không đồng ý.
Source:National Catholic Register
Đức Hồng Y Arthur Roche, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, khuyến khích các giáo xứ tại Hoa Kỳ làm quen hơn với các hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Thánh lễ và bảo đảm rằng các bài viết của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cung cấp thông tin cho việc đào tạo phụng vụ của giáo sĩ và giáo dân.
Đức Hồng Y Roche, người giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích kể từ năm 2021, đã đưa ra các khuyến nghị tại cuộc họp kéo dài ba ngày của Liên đoàn các Ủy ban Phụng vụ Giáo phận, gọi tắt là FDLC.
Theo thông cáo báo chí của FDLC ngày 15 tháng 10, Đức Hồng Y Roche đã nói với hơn 230 người tham dự cuộc họp rằng: “Đức Giáo Hoàng Phanxicô không có ý định đưa ra phương pháp đào tạo phụng vụ một cách có hệ thống”.
“Điều Chúa muốn làm là nắm tay Giáo hội và dẫn dắt Giáo hội đến trung tâm của mầu nhiệm mà chúng ta cử hành, đến với trái tim Chúa Kitô đang cháy bỏng khát khao mãnh liệt rằng chúng ta nên đến gần, đón nhận Mình và uống Máu Người, thờ phượng Chúa Cha với trái tim và tâm trí được đổi mới nhờ được rửa sạch trong Máu Chiên Con “, ngài nói.
Đức Hồng Y Roche cho biết việc cử hành Thánh lễ phải “dựa trên Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô” và ngài tái khẳng định những bình luận năm 2017 của Đức Phanxicô rằng “cuộc cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II là không thể đảo ngược”. Ngài trích dẫn tông thư Desiderio Desideravi năm 2017 của Đức Phanxicô và cho biết tài liệu này nên “được phổ biến rộng rãi hơn cho các giáo xứ” và cần có nhiều sự trợ giúp hơn để “tổ chức các buổi đọc có hướng dẫn về tài liệu này”.
Trong văn kiện đó, Đức Thánh Cha viết rằng “mọi khía cạnh của việc cử hành phải được chăm chút kỹ lưỡng”, bao gồm không gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, vật dụng, lễ phục, bài hát và âm nhạc. Ngài viết: “Sự quan tâm như vậy sẽ đủ để tránh việc cộng đoàn bị tước đoạt những gì đáng được hưởng; cụ thể là mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành theo nghi thức mà Giáo Hội đã thiết lập.”
Đức Hồng Y Roche cho biết: “Tầm nhìn sâu sắc và rộng lớn về phụng vụ của ngài mang đến cho chúng ta vô số cơ hội để dừng lại suy ngẫm nhằm trân trọng món quà tuyệt vời đã được trao cho chúng ta trong các sách phụng vụ.”
“Tôi không ngần ngại khuyến khích anh chị em hãy mạnh dạn, nhưng luôn luôn bác ái trong việc cổ võ lex orandi hay luật cầu nguyện độc đáo của Nghi lễ Rôma,” ngài nói. “Những bài giảng về phụng vụ mà thiếu tinh thần bác ái thì xuất phát từ một tinh thần khác với tinh thần của Chúa Kitô.”
FDLC được các giám mục Hoa Kỳ thành lập năm 1969 để hỗ trợ thực hiện các cải cách phụng vụ bắt nguồn từ Công đồng Vatican II và tiếp tục đào tạo giáo sĩ và giáo dân. Hội nghị thường niên toàn quốc lần thứ 56 được tổ chức từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 tại Baltimore, Maryland.
Giám đốc Điều hành FDLC, Rita Thiron, nói với CNA rằng tài liệu này là một “văn bản tuyệt vời, rất đẹp” và FDLC cung cấp một hướng dẫn học tập cho các giáo xứ, trong đó có các câu hỏi thảo luận và suy ngẫm về tài liệu. Bà lưu ý rằng tài liệu giải thích cách con người hiện đại đã mất khả năng kết nối với các biểu tượng và nó “khuyến khích chúng ta sử dụng các biểu tượng mang tính nghi lễ hơn”, chẳng hạn như việc có nhiều nước hơn trong các nghi lễ rửa tội.
Bà chỉ ra rằng phụng vụ mang lại sự hình thành tâm linh cho tất cả những người tham dự, và khi giáo sĩ cử hành Thánh lễ đúng cách, “mọi người sẽ hòa hợp tốt hơn với văn bản phong phú và thần học sâu sắc có trong phụng vụ”.
Cha Anthony Ruff, giáo sư thần học tại Trường Thần học và Chủng viện Saint John, người tập trung vào âm nhạc phụng vụ, nói với CNA rằng Roche “đã đưa ra một gợi ý tuyệt vời” và gọi Desiderio Desideravi là “một tài liệu được viết rất hay và đầy cảm hứng”.
Ngài cho biết: “Điều này giúp tất cả chúng ta hiểu được tầm nhìn của Giáo hội về phụng vụ dựa trên Công đồng Vatican II — đặc biệt là cách thức phụng vụ được cải cách có thể là nguồn sống cho toàn bộ đời sống cầu nguyện và tinh thần môn đệ Kitô giáo của chúng ta”.
Thánh lễ La tinh truyền thống không được thảo luận chi tiết
Đức Hồng Y Roche không thảo luận chi tiết về những hạn chế của Đức Phanxicô đối với Thánh lễ La tinh truyền thống, nhưng ngài đã quảng bá các tài liệu đề cập đến những hạn chế đó.
Đức Phanxicô đã viết Desiderio Desideravi một năm sau khi ban hành tự sắc Traditionis custodes năm 2016, trong đó hạn chế việc cử hành Thánh lễ La tinh truyền thống.
Cha Ruff cho biết lá thư thứ hai “tiếp nối một cách tự nhiên” những hạn chế đó “đối với những người vẫn đang đấu tranh để chấp nhận phụng vụ chính thức của Giáo hội khi nó được cải cách sau Công đồng Vatican II”.
Trong Desiderio Desideravi, Đức Phanxicô nói rằng việc không chấp nhận những cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II “làm chúng ta xao lãng nghĩa vụ tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi mà tôi xin nhắc lại: làm thế nào chúng ta có thể phát triển khả năng sống trọn vẹn hoạt động phụng vụ? Làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục để mình kinh ngạc trước những gì diễn ra trong buổi cử hành ngay trước mắt mình?”
Đức Phanxicô viết rằng sẽ là “nhỏ nhặt” nếu coi những căng thẳng về Thánh lễ La tinh Truyền thống “chỉ là sự khác biệt đơn giản giữa các sở thích khác nhau liên quan đến một hình thức nghi lễ cụ thể”. Ngài viết rằng ngài không hiểu làm sao người ta có thể công nhận tính hợp lệ của công đồng “và đồng thời không chấp nhận cải cách phụng vụ”.
Khi được hỏi liệu Đức Hồng Y Roche có bình luận gì về việc liệu Giáo hoàng Lêô XIV có làm theo Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc hạn chế hay thực hiện bất kỳ điều chỉnh nào không, Thiron cho biết: “Ngài ấy không hề nói đến điều đó.”
Thiron cho biết Roche đã ám chỉ đến “vai trò của hội đồng không thể đảo ngược” và Roche “lưu ý rằng Desiderio Desideravi là sự tiếp nối của Traditionis custodes để khuyến khích mọi người hiểu rõ hơn về phụng vụ như hiện tại và như hội đồng mong muốn”.
Source:Catholic News Agency
Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết ba: Dẫn nhập vào văn chương tiên tri
(11) Chương một: Tổng quan về văn chương tiên tri
(tiếp)II. Việc nói tiên tri và các định chế của Israel
Như đã nói trên đây, ít nhất theo nghĩa cổ điển của từ ngữ, việc nói tiên tri là một hiện tượng đặc sủng. Bởi thế, nếu ta muốn hiểu ý nghĩa lịch sử trong tôn giáo của Israel, thì điều có liên hệ là xét mối tương quan của hiện tượng này với các định chế không có tính đặc sủng của Do Thái.
(I) Lề luật và chức tư tế
Bất chấp sự kiện một số tiên tri (như Giêrêmia, Êdêkien) chắc chắn là tư tế, nhưng có thời, đã có xác tín trong các giới phê bình rằng hai chức vụ tiên tri và tư tế phần nào chống chọi nhau, ít nhất trong thời kỳ tiền lưu đầy. (Điều luôn hiển nhiên là việc nói tiên tri thời lưu đầy và thời hậu lưu đầy quan tâm đến các lề luật tế tự và tư tế, nhưng mối quan tâm này được giải thích bởi việc nhấn mạnh tới các định chế này trong Do Thái Giáo thời hậu lưu đầy.) Có đúng không khi nói rằng truyền thống tiên tri tiền lưu đầy là một địch thủ của truyền thống tư tế, một truyền thống đã được qui điển hóa trong luật thành văn của Môsê trong và sau cuộc lưu đầy?
Ở Israel, các chức năng tư tế và tiên tri luôn được thận trọng phân biệt; tuy nhiên, các chức năng này trùng hợp một phần. Gr 18:18 nói đến “luật” (tôrâ) của tư tế, “lời khuyên” (ʼēṣâ) của hiền nhân, và “lời” (dābār) của tiên tri. Dù các chữ này chuyên chở lời giáo huấn của họ bằng các cách khác nhau, tư tế bằng truyền thống định chế, hiền nhân bằng truyền thống nghề nghiệp, và tư tế bằng các soi sáng đặc sủng, chắc chắn họ cảm thấy mỗi người trong số họ đều đang góp phần theo cách của riêng mình vào một mục tiêu chung. Khi các tiên tri lên án chức tư tế, như họ thường làm, thì không phải vì những điều các tư tế giảng dậy mà đúng hơn vì những điều họ không giảng dậy: họ đã từ bỏ kiến thức và làm ngơ lề luật (tôrâ) của Thiên Chúa (Hs 4:6). Cũng trong tinh thần này, các tiên tri “giả” đã bị lên án, không phải vì bác bỏ ý niệm nói tiên tri mà đúng hơn là nhại lại nó.
Sự chống đối giữa hàng tư tế và hàng tiên tri đã bị cường điệu hóa vì một số nhân tố. Một trong các nhân tố này là xác tín, nay đã được điều chỉnh rất nhiều, rằng lề luật là một khai triển tương đối mới có tại Israel, cho thấy sự chiến thắng của tôn giáo chính thức đối với tôn giáo thiêng liêng. Một nhân tố khác là quan điểm bị bóp méo trong đó tôn giáo của các tiên tri bị nhìn trong tương quan với tôn giáo “chính thức” của Israel. Dĩ nhiên, đúng là có sự khác nhau giữa thái độ và quyền lợi của tôn giáo tư tế và tiên tri, nhưng chỉ là các thái độ khác nhau chứ không phải các tôn giáo khác nhau. Xét cho cùng, thì hàng tư tế cũng làm cùng một công việc, hay một phần của cùng một công việc như hàng tiên tri nghĩa là thông truyền ý chí luân lý của Thiên Chúa. Hàng tư tế làm vậy bằng việc truyền lại luật lệ tôn giáo như đã được bảo quản trong các đền thánh; hàng tiên tri thì chu toàn nhiệm vụ của mình bằng cách thông truyền lời hằng sống. Trên nguyên tắc, hàng ngũ sau không có ý chống đối hàng ngũ trước.
Các việc cho là các tiên tri tiền lưu đầy trích dẫn lề luật thường là đáng hoài nghi và, dù sao, cũng rất ít; điều này dĩ nhiên khiến ta nêu lên câu hỏi về qui mô lề luật hiện hữu thời tiền lưu dầy dưới hình thức viết, và về câu hỏi này, ta không thể bàn ở đây. Các vấn đề này cũng dẫn đến vấn đề bản chất của việc nói tiên tri, như ta đã thảo luận, một điều, để có thế giá, phải tùy thuộc chính việc nó truyền thông lời Chúa, chứ không tùy thuộc một thế giá có trước, kể cả thế giá tiên tri. Dù sao, giáo huấn tiên tri luôn nhất quán với lề luật, ngay cả khi nó được phát biểu theo cách riêng của nó và cách nhấn mạnh của nó.
Amốt 3:2 phát biểu ý tưởng tuyển chọn (election) bằng ý tưởng, chứ không bằng lời chính xác, của Đnl 14:2; Amốt mô tả cuộc xuất hành và việc đi lang thang trong sa mạc và ý nghĩa của chúng (2:10; 3:1; 4:10; 5:25;9:7) nhất quán với Xh 20:2, trong đó, Ai Cập được gọi là “nhà nô lệ”. Kiểu nói này cũng được các tiên tri sử dụng (xem Mk 6:4; Gr 34:13), không điều nào trong số này chứng minh Amốt tùy thuộc Đệ Nhị Luật hay Xuất Hành trong tư cách bản văn viết, cũng như việc ngài nhắc đến tôrâ ở 2:4 là nhất thiết tùy thuộc luật tư tế thành văn. Tuy nhiên, nó chứng tỏ Amốt giảng dạy một truyền thống chứa trong lề luật; và, mặc dù có ý nói bóng nói gió và không chính thức, các câu nói của ông giả thiết một trình thuật đã được kể trong Ngũ Kinh mà ông nhất trí cả trong các chi tiết vụn vặt (xem Am 2:9; Ds 13:32). Hôsê 8:1 minh nhiên nối kết lề luật của Giavê với một giao ước, một điều, dĩ nhiên, là chính điều lề luật tuyên xưng mình là; dù Hôsê không nói đó là giao ước Sinai, ông quả nối kết nó với cuộc xuất hành (8:13; 9:3; 11:5; xem Đnl 28:68). Hơn nữa, tôrâ mà Hôsê liên kết với giao ước ở 8:1 thì ở 4:6, nó được coi là tôrâ tư tế hàm nghĩa luân lý xã hội; căn cứ vào 8:13, rõ ràng có một thứ tôrâ thành văn hay tôrôt. Căn cứ vào bối cảnh, xem ra cuối cùng Hôsê có ý nhắc đến các giới luật tế tự.
Cựu Ước đã được thông truyền qua nhiều dòng truyền thống; các truyền thống này ảnh hưởng lẫn nhau, tuy không tan hòa vào nhau. Truyền thống tiên tri không đòi được tôn vinh mà gây thiệt hại, bằng cách tối thiểu hóa các truyền thống khác vốn cũng phục vụ chân lý theo cách riêng của họ, bổ túc chứ không mâu thuẫn các sự thật của hàng tiên tri.
(II) Việc tế tự
Nối dài vấn đề trên, có việc tương quan giữa các tiên tri và việc tế tự tại Do Thái. Một lần nữa, vấn đề này cũng được đặt ra với các tiên tri tiền lưu đầy: không ai nghi vấn sự can dự sâu xa của một Êdêkien, một Dacaria hay một Malaki vào nghi lễ của cộng đồng hậu lưu đầy.
Cũng có thể rất ít cần bàn đến vấn đề này ngày nay, khi người ta có khuynh hướng cường điệu hóa theo hướng ngược lại bằng cách đồng hóa ngay cả các tiên tri cổ điển của Israel vào khuôn mẫu tiên tri thờ cúng của Cận Đông mà chúng ta đã bàn tới. Tuy nhiên, một số nhà phê bình Kinh thánh vẫn chia sẻ nhau ý kiến cho rằng các tiên tri tiền lưu đầy, về nguyên tắc, chống lại tôn giáo tế tự của Israel.
Ta đã thấy có các tiên tri tế tự tại Israel. Các tiên tri cổ điển có thuộc loại này không? Không thể trả lời câu hỏi này với chữ “có” hay “không” dứt khoát được, đơn giản chỉ vì thiếu bằng chứng, nhưng ít nhất, đại đa số họ có lẽ không phải. Có một vài cơ sở cho phép ta xếp Nakhum và Khabacúc của thời tiền lưu đầy và Gioen cùng Dacaria của thời hậu lưu đầy vào loại tiên tri Đền Thờ. Nhưng ngay trong trường hợp này, bằng chứng cũng không nhất thiết có tính cưỡng bách (Dcr 7:1tt); trong phần lớn các trường hợp khác, đơn giản không có khả thể nào ủng hộ giả thuyết “tế tự” cả. Ơn gọi Isaia làm tiên tri gần như chắc chắn diễn ra trong một cử hành tế tự, nhưng không có chứng cớ nào cho thấy Isaia hiện diện trong đền thờ với bất cứ tư cách nào khác hơn là 1 người Do Thái ngoan đạo. Nếu chỉ vì quan tâm tới việc tế tự mà đủ là một tiên tri tế tự thì chắc chắn ta có thể xếp Êdêkien vào loại này. Thế nhưng điều ấy không thể có được, vì không hề có việc tế tự ở Đền Thờ tại Babylonia nơi Êdêkien nói tiên tri, và rõ ràng ông không nói tiên tri ở đâu khác.
Tuy nhiên, dù không phải là các tiên tri tế tự, các tiên tri tiền lưu đầy quả có can dự vào việc tế tự. Họ can dự vào nó như Isaia, như các tiên tri khác coi việc tế tự là phương thế duy nhất để thờ phượng Thiên Chúa, được họ coi là đương nhiên giống như truyền thống Do Thái, một truyền thống họ vẫn nại tới để đồng hóa Giavê với Đấng Thiên Chúa luân lý đã tự mặc khải với họ. Họ coi việc tế tự là việc đương nhiên theo cách ấy, thế nhưng, lẽ dĩ nhiên, họ không coi nó là chuyện đương nhiên chút nào, giống như họ không coi điều gì là đương nhiên cả dưới ánh sáng viễn kiến tiên tri của họ. Đây là một trong các định chế của Israel mà trước đây họ từng được cử nhiệm làm phán quan, và quả họ đóng vai phán quan thật. Tuy nhiên, khi làm thế, họ không loại bỏ nó cũng như không loại bỏ chức tư tế, giao ước, lý thuyết tuyển chọn hay chính việc nói tiên tri, họ làm phán quan cho tất cả các việc này.
Có một số lời quả quyết của các tiên tri tiền lưu đầy vốn được giải thích như đã nói lên việc chống đối chuyện lấy con vật làm hy lễ trên nguyên tắc, như một cách thờ phượng Giavê kém xứng đáng hay đơn giản chỉ là bất xứng, có thể vì nó đã được du nhập từ Canaan, và chắc chắn vì nó là hiện thân của ý niệm hạ cấp về tôn giáo ngược với lời kêu gọi liên lỉ của các tiên tri phải dùng hy lễ thiêng liêng là việc phục vụ và liêm khiết bản thân. Một số đoạn chủ chốt có liên hệ là Am 5:21-27; Hs 6:6; Grm 7:21-23; Is 1:12-17; đây có lẽ là những đoạn mạnh mẽ nhất thuộc loại này, và chúng tiêu biểu cho các đoạn khác.
Khi các đoạn trên được đọc trong bối cảnh chứ không phải như thành phần của một lý thuyết tiên niệm về nguyên lai của tôn giáo Do Thái hay của điều lý tưởng tiên tri về tôn giáo nên là, chúng rất có ý nghĩa và hoàn toàn nhất quán với những gì còn lại trong học lý tiên tri. Các tiên tri đều duy hiện sinh trong cách tiếp cận của họ đối với khía cạnh này của sinh hoạt Do Thái giống như bất cứ sinh hoạt nào khác. Họ không quan tâm tới vấn đề dùng súc vật làm hy lễ hay bất cứ hình thức hy tế bề ngoài nào làm lý tưởng hay làm một ý tưởng trừu tượng. Điều trở thành vấn đề là các hy lễ được tiến hành tại các đền thánh đương thời bởi những người chỉ thực hành chủ nghĩa duy biểu hiệu (sacramentalism) mà không có bất cứ một ý nghĩa nào. Amốt và Giêrêmia đều quả quyết rằng Giavê không truyền lệnh các thứ hy lễ ấy. Hôsê nói rằng tình yêu, chứ không phải hy lễ, là ý muốn của Thiên Chúa; hay như ta có thể phát biểu lại, không thể có hy lễ đích thực nếu không có tình yêu. Những lời tuyệt đối loại này là điều thông thường trong ngôn ngữ Kinh thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (xem Lc 14:26 [nên lưu ý Mt 14:26]; 1Cr 1:17 [nên lưu ý các câu 14-16]; v.v...); thông thường, chúng không tạo nên phiền phức gì, miễn là ta lưu ý tới bối cảnh. Lời tố cáo của Isaia, có lẽ là lời tố cáo mạnh mẽ nhất thuộc loại này, nếu giải thích từ tình trạng hiện sinh của nó, dẫn tới câu kết luận này: Gia vê bác bỏ chính việc cầu nguyện (xem câu 5) cùng với các hy lễ, hương liệu, lễ lạc, và ngày lễ.
Người ta không nên tránh một cực đoan bằng cách lấy một cực đoan khác. Chúng ta có thể thành thực nhận rằng đọc các ngài, một số các tiên tri quả có lưu ý tối thiểu tới phụng vụ Do Thái; điều này không nhất thiết có nghĩa: các ngài không biến thành một vật thần (fetish) việc chống lại các nghi thức mà việc giữ chúng đã trở thành một vật thần đối với những người khác. Giêrêmia năng lui tới Đền Thờ bị ông tố cáo, như Isaia trước ông từng làm. Mặt khác, Êdêkien, người có điều hoàn toàn chắc chắn là đối với ông, việc trùng tu Đền Thờ Giêrusalem là điều cần thiết mà không có nó Giavê sẽ không được thờ phượng cách xứng đáng bởi dân tộc mà Người đã chọn làm của riêng, tuy nhiên ông biết hoàn toàn rõ ràng rằng Giavê mới là đền thánh đích thực, chỉ mình Người mới ban một ý nghĩa nào đó cho Đền Thờ do tay con người xây dựng (xem 11:16). Thái độ tiên tri đối với việc tế tự giống như thái độ tiên tri đối với mọi sự, một thái độ trong đó, các hình thức chỉ là phụ thuộc các thực tại chúng biểu tượng mà thôi. Chỉ khi nào các hình thức không còn biểu tượng cho bất cứ điều gì nữa thì chúng mới cần bị lên án.
(III) Nền quân chủ
Về nền quân chủ, thái độ tiên tri có đặc điểm là quan tâm tới các thực tại thiêng liêng và không lưu ý tới các hình thức của nó. Tương quan giữa hàng tiên tri và nền quân chủ là điều quan trọng vì nhiều lý do, và lý do không hẳn kém quan trọng là ảnh hưởng mà định chế này có đối với học lý tiên tri về đấng được xức dầu. Về mặt thời gian, hàng tiên tri và nền quân chủ gần như y hệt như nhau: thời vua chúa trong lịch sử Do Thái cũng là thời các tiên tri cổ điển. Trong lịch sử cứu rỗi, nguyên sự kiện ấy thôi cũng đủ gợi ý một nối kết còn thân mật hơn nữa giữa hai định chế.
Nền quân chủ một phần được dùng để kích thích hàng tiên tri, vì với nó, ý niệm mới về mối tương quan giữa Israel và Giavê đã đi vào đời sống Israel; một mối tương quan cần được hàng tiên tri không ngừng tái duyệt. Việc dân chúng yêu cầu có một vị vua, theo một nghĩa nào đó, hiểu như việc họ bác bỏ liên hệ giao ước (xem 1Sm 8:4tt) chắc chắn là quan điểm ưu vị nhìn trở lui của tiên tri; nhưng dù sao, không những truyền thống phản ảnh quan điểm phản quân chủ mà cả truyền thống xưa hơn vốn coi Saun như nhà cai trị được trời sai đến để chấm dứt các thống khổ của Israel (1Sm 9:15tt), cả hai đều đồng ý rằng hàng tiên tri quả đã chủ trì việc quá độ qua chế độ vua chúa. Thực thế, chính hàng tiên tri, một mình nó, đã làm cho nền quân chủ trở thành chấp nhận được đối với Israel: hàng ngũ này cung cấp sự bảo đảm đặc sủng mà việc thiếu nó đã khiến cho ngôi vua mệnh yểu của Avimeléc trở thành một sai lầm rất lớn đối với truyền thống Israel (Tl 9) và việc chuyển quyền từ Saun qua Đavít đã thiết lập ra ngôi vua một cách bền vững mà dưới thời Saun không bao giờ có thể có được (1Sm 15:10-11). Bởi thế, điều nghịch lý là, hàng tiên tri đã giúp thiết lập ra một định chế mà với định chế này họ vẫn luôn giữ một thái độ nửa nóng nửa nguội và có lẽ họ muốn nó đừng bao giờ diễn ra.
Tuy nhiên, hàng tiên tri không bao giờ cầm đầu một phong trào ở Israel nhằm thay thế nền quân chủ bằng một hình thức cai trị khác mà có lẽ họ cho là thích hợp hơn. Việc điều này đúng cũng là một điều rất may, vì không hề có dấu chỉ nào cho thấy truyền thống tiên tri thèm khát hay có khả năng làm chính trị. Các can thiệp của họ vào các vấn đề này cho thấy có lúc không thành công vì cố vấn dở có lúc thành công trong các mục đích cao cả của họ. Việc Nathan chấp nhận Salomôn thay vì Ađônigia (1V 1:8) có lẽ là một chúc lành cho diễn trình hợp pháp và dấu chỉ thánh ý Thiên Chúa (1Sb 28:5) đối nghịch với giả thuyết cho rằng người ta đáng được quyền cai trị chỉ vì là con của cha mình; tuy nhiên, theo quan điểm tiên tri, khó có thể chứng tỏ Salomôn là một chọn lựa khôn ngoan. Cũng không phải là chuyện tình cờ khi không thấy ở bất cứ đâu trong truyền thống Kinh thánh ghi việc Salomôn hoặc tìm cố vấn nơi các tiên tri hoặc nhận được một sấm ngôn nào đó. Cuộc phản loạn của Gia-róp-am chống lại triều đại Đavít, cũng thế, đã được hàng tiên tri chúc phúc (1V 11:29-39), nhưng Gia-róp-am sau đó đã bị cùng một tiếng nói tiên tri bác bỏ (1V 14:7-11). Giống trường hợp sự can thiệp của tiên tri đã đem đến việc kết liễu triều đại Omri (2V 9:1tt) vì bị thay thế bởi một triều đại khác, một triều đại hóa ra còn tệ hại hơn nữa (Am 7:9; Hs 1:4-5; 8:4). Thành thử, thành tích tiên tri trong lãnh vực mưu đồ chính trị là một thành tích thất bại nhiều hơn thành công. Điều cũng đáng lưu ý là ngoài một vài ngoại lệ, khi được diễn dịch thành chính sách thực tiễn, phần lớn thái độ tiên tri chỉ là cố gắng sử dụng tốt nhất các định chế hiện có.
Dĩ nhiên, đó là điều nó nên là. Chức năng tiên tri là đào tạo lương tâm người ta, chứ không áp đặt các chính sách trên nó. Nó không nhất thiết mong cho đến ngày có quân chủ, nhưng nó bảo đảm để khi quân chủ đến, định chế này phải phù hợp với ý muốn của Giavê. Và một khi nó đã đến rồi, thì nền quân chủ phải đóng vai trò mà nay định mệnh đã chỉ định cho nó: phải nhấn mạnh tới các giới điều của giao ước cũ vốn bị hạ thấp thành luật tư riêng vì định chế luật lệ của nhà vua. Êlia đã được mô tả trong vai trò này ở 1V 21:17-24, trong đó, tiên tri phải lên án tội ác của A-kháp đã phạm chống lại luật lệ và phong tục Israel bằng cách để cho người vợ Phênixi điều khiển mình; mụ vốn chỉ cho ông phải làm vua thực sự ra sao theo cái hiểu của Cận Đông không phải Do Thái. Trong tình tiết này, cũng như trong hành động của tiên tri Sơ-ma-gia chống lại Rơ-kháp-am (2Sb 12:5-7). Giê-hu chống lại Basa (1V 16:1-4), Isaia chống lại Akhát (Is 7:10tt) hay Khítkigia (2V 20:12tt), và Giêrêmia chống lại các vua cuối cùng của Giuđa (Grm 21:11tt), công khó của hàng tiên tri là phải làm cho ngôi vua của Israel thực sự có tính Do Thái.
Cố gắng trên phần lớn đã thất bại.Thành công chỉ có giới hạn, như các sách lịch sử và một số ghi chép tiên tri đã chứng minh. Nhưng phán đoán của tác giả thuộc hệ đệ nhị luật nơi các sách Vua về lịch sử nền quân chủ DoThái chắc chắn đã tìm được một đồng thuận nào đó về phía đa số các tiên tri cổ điển. Mặc dù dựa vào các tiêu chuẩn chuyên biệt hơn và phần nào khác hơn so với các tiêu chuẩn luôn dùng xưa nay của các tiên tri, phán kết của tác giả này quả là 1 phán quyết có tính tiên tri, đó là: ngoài một số ngoại lệ hiếm hoi, các vị vua đã thất bại theo quan điểm các vấn đề họ coi là quan hệ.
Học lý xức dầu của các tiên tri khá nhất quán với thái độ đã phác họa của họ đối với nền quân chủ. Học thuyết xức dầu quân vương của các tiên tri Giuđa tiền lưu đầy, nhất là Isaia, dựa trên cùng một tiền đề tôn giáo vốn được các tác giả của Thánh Vịnh quân vương chủ trương, tức là: sấm ngôn tiên tri ban cho Nhà Đavít (2Sm 7:4tt; Tv 89: 20-38). Các tiên tri cổ điển chấp nhận truyền thống này như là mặc khải của Thiên Chúa, một mặc khải vốn đã lên khuôn cho yếu tính nền thần học của họ, như chính các tác giả thuộc hệ đệ nhị luật từng chấp nhận, trái với việc từ bản năng họ vốn không thích nền quân chủ (xem G. von Rad, Studies in Deuteronomy [London, 1953] 88-91). Nhưng trong khi các tiên tri cung đình và các tiên tri Đền Thờ chịu trách nhiệm các Thánh Vịnh quân vương toàn tâm toàn trí bước sâu ít nhiều vào cõi huyền học vốn trùm phủ ngôi vua ở Cận Đông, bằng cách chấp nhận Hofstil qua đó, các vị vua được dành cho các tước hiệu có tính thần thiêng và thời kỳ cai trị bất tận, thì trái lại, chúng ta thấy ít có hay không thấy chút nào những điều như thế nơi các tiên tri cổ điển. Điều này không có nghĩa các thánh vịnh quân vương phản ảnh một cách không phê phán lý tưởng quân vương của Cận Đông; lý tưởng này đã được Do Thái Hóa hoàn toàn và trở thành một phần của cánh chung học Do Thái về tính phổ quát của Giavê và sấm ngôn Đavít (xem H. –J. Kraus, Psalmen [rev.ed. Neukirchen, 1978] 1. 147-48). Tuy thế, các tác giả Thánh Vịnh đã biểu lộ một sự hứng khởi nào đó đối với ngôi vua như đã được mô tả nơi vị được Giavê xức dầu và việc này không có đối tác trong các sấm ngôn của các tiên tri cổ điển. Một việc Do Thái Hóa triệt để hơn đã diễn ra trong các sấm ngôn này: một việc tâm linh hóa nhằm làm giảm tầm quan trọng, cho thấy vua cũng chỉ là vua và vua là người được Giavê tuyển lựa.
Isaia có lẽ gần nhất với ngôn ngữ Thánh Vịnh quân vương trong các lời tiên tri của ông về vương quyền Đavít (xem 7:13-17; 9:5-6; 11:1-5), ấy thế nhưng, chỉ cần suy nghĩ vắn tắt cũng đủ thấy các suy nghĩ của ông khá khác xa đối với họ. Chẳng hạn, ông không bao giờ sử dụng tước hiệu quân vương, dù hiển nhiên ông nói đến một vị vua dòng Đavít. Các tước hiệu đáng sợ đã được sử dụng, nhưng các tước hiệu này nhằm tôn vinh các hành động đặc sủng của Giavê chứ không phải của những người lãnh nhận chúng. So với các đoạn tương tự cùng loại, ta thấy ở đây không phải chỉ là hoàn cảnh mà là một chính sách có nghiên cứu. Mikha 5:1-4, cũng lệ thuộc sấm ngôn xưa của Nathan cho thấy những nét tương tự. Tất cả các lời tiên tri này xác nhận những điều vinh hiển của vị cai trị được xức dầu này nhưng việc nhấn mạnh của họ hoàn toàn lưu ý tới quyền năng của Giavê hành động qua vị được xức dầu này. Đặc điểm tiên tri đạt tới một thứ cực điểm trong lời tiên tri của Êdêkien. Vị tiên tri này bác bỏ tước hiệu vua cho vị hoàng tử nhà Đavít sẽ ngự trị một Israel được phục hồi (37:25), và trong cái nhìn có tính hạn chế gắt gao mà ông vốn đặt lên hoạt động của vị hoàng tử này, chúng ta khó có thể biện phân được điều gì khác hơn việc mờ mờ nhắc đến ý niệm xức dầu vương giả này (xem 44:3; 45:7-8; 46: 16-18).
Nếu đúng thật Giêrêmia nói đến một chồi Đavít sẽ trị vì như một vị vua công chính của Gia Vê (23:5-6), thì điều cũng đúng là có lẽ đây là lần duy nhất, tiên tri nhắc đến việc này trong tất cả các chất liệu được lưu truyền tới ta (30:9; 33:14tt rõ ràng là những phần thêm vào sau này). Nói chung, lời tiên tri thời lưu đầy không hề đặt bất cứ nhấn mạnh nào lên chủ thuyết xức dầu quân vương: theo Đệ Nhị Isaia (xem 41:2; 44:28; 45:1), “đấng được xức dầu” của Giavê không phải là 1 vị vua dòng Đavít, mà Kyrô, vua Ba Tư! Đối với vị tiên tri này, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của Israel là Giavê (41:14). Thời hậu lưu đầy, chủ thuyết xức dầu thuộc dòng Đavít lại trở thành thịnh hành đối với các tiên tri trong một thời gian. Thời Dơrúpbaven, tiên tri Khácgai và Dacaria trở về với truyền thống xưa trong 1 thời gian ngắn, nhưng hoài vọng của các ông cũng vắn vỏi như bản văn đã sửa đổi của Dacaria (Coi Dcr 6: 9- 15) đã chứng tỏ. Chắc chắn trong cùng thời kỳ này, các soạn giả tiên tri tự ý thêm vào những lời tiên tri có trước đó với việc nhắc tới nhà cai trị dòng Đavít y hệt như vậy.
Dĩ nhiên, ta phải nhấn mạnh điều này: không một tiên tri nào đã bác bỏ tính liên hệ của chủ thuyết xức dầu dòng Đavít với nhiệm cục Thiên Chúa. Chỉ có chuyện đó chưa bao giờ là một trong các ý niệm quan trọng hơn hết của họ mà thôi; họ thừa nhận nó đóng một vai trò trong kế hoạch cứu rỗi của Giavê đến mức họ được phép quan niệm; nhưng vị thế của nó vẫn ở hậu trường các suy nghĩ của họ. Amốt và Hôsê, những người nói tiên tri ở miền bắc Israel, nơi có một truyền thống khác, không quân vương thuộc dòng Đavít, đã có đặc điểm không nói gì về chủ thuyết xức dầu quân vương cả. Theo thiên hướng, các tiên tri không bảo hoàng, nhưng họ phải nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã nói qua các tiên tri xưa liên quan tới dòng Đavít. Chính vì để tôn trọng lời tiên tri này nên các ngài đã mong chờ một vị vua đến để lật ngược thành tích đáng buồn của phần lớn các vị vua của Israel và Giuđa bằng cách là con thực sự của Giavê như Người đã được tuyên xưng. Trong tất cả chuyện này, các tiên tri đã dự ứng đến một mức tuyệt vời thái độ mà Chúa Giêsu sẽ tiếp nhận đối với chủ thuyết xức dầu quân vương khi Người tới làm trọn các chờ mong của Cựu Ước. Đối cả với Chúa Giêsu, chủ thuyết xức dầu quân vương là một chi tiết chỉ có trong nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa mà thôi. Tuy không bác bỏ nó như là bất liên quan với nhiệm cục ấy, Người vẫn thích tự đồng hóa Người với các khuôn dung khác có thể xác định một cách rõ ràng hơn sự thể hiện Người mang đến cho niềm hy vọng cậy trông của Israel.
(IV) Tôn giáo của Israel
Trong xem xét cuối cùng của ta về các nối kết giữa việc nói tiên tri và các định chế của Israel, ta sẽ trình bầy sơ lược một số quan tâm chủ yếu trong giáo huấn tiên tri nhìn dưới ánh sáng của tôn giáo bình dân thuộc thời đại các ngài. Từ quan điểm này, ta có thể có cơ hội nhiều hơn để thấy cả tính độc đáo của tiên tri, một điều không nên bao giờ bị tối thiểu hóa, lẫn sự phù hợp của các ngài với đức tin truyền thống của tổ tiên.
(A) Cánh chung luận
Chủ thuyết xức dầu là một khía cạnh của cánh chung luận (eschatology); do đó, ta đã ghi nhận một sự nhấn mạnh của các tiên tri qua đó, các tiên tri vừa nối kết với, vừa tách biệt khỏi, các người Do Thái khác. Qua cánh chung luận trong bối cảnh này, ta muốn nói người Do Thái xác tín rằng họ là dân tộc được tuyển chọn, họ đóng 1 vai trò trong việc phán xử và thi hành quyền năng của Thiên Chúa trên vũ trụ. Còn về việc liệu việc phán xét này có được coi như một việc liên tục, kéo dài tận tương lai lịch sử hay chỉ là việc phán xét cuối cùng, thuộc một thời gian bên kia lịch sử, thì là điều phụ thuộc mà ta không cần đi vào. Vì mục đích thực tiễn, cánh chung luận của các tiên tri Do Thái, thực sự, có tính lịch sử mặc dù ý tưởng phán xét cuối cùng kia là ý tưởng đặc trưng của Do Thái Giáo về sau. Tuy nhiên, việc phân bệt này có lẽ không bao giờ có nghĩa nhiều lắm đối với dân Cựu Ước như là đối với chúng ta ngày nay, những người thấy sự qua đi của một Israel như được biết đến trong Cựu Ước và đã tiấp nhận được một giải thích khá khác biệt về cánh chung học như đã được Tân Ước mặc khải.
Tuy nhiên, điều quan trọng là việc nhìn nhận bản chất lịch sử của cánh chung luận tiên tri theo nghĩa khác, tức là: theo quan điểm ý niệm Kinh thánh về thời gian, một quan điểm đôi khi được gọi là “trực tuyến” (linear) đối chọi với quan điểm “chu kỳ” (cyclic) về thời gian giả thiết là có liên hệ với các cách suy nghĩ khác. Có lẽ người ta đã quá nhấn mạnh tới sự phân biệt này và rõ ràng đã có nhiều cường điệu hóa trong các kết luận rút ra từ đó. Tuy nhiên, điều xem ra đúng sự kiện, hiển nhiên đối với những người quen thuộc với Kinh thánh, là ngoài một số ngoại lệ hiếm hoi, các soạn giả Kinh thánh không bao giờ quan niệm thời gian theo mẫu duy định mệnh mà coi nó như một loạt những khoảnh khắc đầy những biến cố được ý chí quyết định rõ rệt. Nhìn nhận sự kiện này là loại bỏ kiểu giải thích kỳ khôi về lời nói tiên tri, tức kiểu giải thích gán cho các tiên tri khả năng nhìn như chụp hình tương lai gần hoặc xa có liên quan tới những người các ngài được sai đến để mặc khải lời lẽ của Thiên Chúa. “Tiên tri không thấy lịch sử trải ra trước mặt ngài như 1 tấm bản đồ mà nhờ đó, ngài nắm được các biến cố cá thể trong tương lai. Việc thấy trước như thế không phải là đặc sủng của Tiên Tri. Đúng hơn, ngài thấy các biến cố diễn tiến theo hướng nào. Đó mới là phạm vi của việc nói tiên tri. Ý niệm Hípri về thời gian loại bỏ bất cứ giải thích nào khác về nó” (C. Tresmontant, A Study of Hebrew Thought [NY, 1960] 27).
Dù giải thích ra sao, sự kiện kiểm chứng được vẫn là bản chất của việc nói tiên tri trong Kinh thánh không phải là thấy tương lai như chụp hình. Thực vậy, việc tiên đoán thường là một phần của sứ điệp tiên tri, nhưng việc tiên đoán được ban cho vị tiên tri theo những bất ngờ ngài biết và những người nghe ngài có thể hiểu được. Lời tiên tri của Isaia về cuộc xâm lăng của Xankhêríp (1o:27-34) là một thí dụ cổ điển: lời tiên tri đã nên trọn, nhưng dưới những hoàn cảnh không được tiên tri thấy trước. Cùng những đặc tính này đã được thấy nơi thị kiến của các tiên tri về cánh chung luận của Israel (xem J. van der Ploeg, Studia Catholica 28 [1953] 81-93).
Xem ra thừa thãi khi phải nhấn mạnh rằng các tiên tri chia sẻ xác tín của Israel về tư cách được Thiên Chúa tuyển chọn. Tuy nhiên, có lúc, người ta tin rằng không hẳn thế, và Amốt 3:2, chẳng hạn, đã bị coi là không xác thực vì đã mâu thuẫn với Amốt 9:7. Có lẽ phần lớn người ta đồng ý rằng việc dễ dàng nhìn nhận “những mâu thuẫn” như thế, trên thực tế, đã để lỡ cơ hội nắm được giáo huấn tiên tri. Các tiên tri quả tin vào việc Israel được tuyển chọn; đại đa số các phát biểu của các ngài quả sẽ mất hết ý nghĩa nếu hoàn cảnh đời thực của họ không xây dựng trên niềm tin này. Việc được tuyển chọn là một phần trong hiến pháp nền tảng của Israel, và các tiên tri rất sẵn sàng, dù các người đồng thời của các ngài không sẵn sàng, chấp nhận mọi hậu quả từ vị thế dân riêng Thiên Chúa của Israel (xem Am 3:9-12).
Các tiên tri thiêng liêng hóa và luân lý hóa niềm tin trên. Có lẽ sẽ chính xác hơn khi cho rằng các ngài tái luân lý hóa nó, vì các ngài làm thế nhưng không tự cho là canh tân. Chính ý tưởng được tuyển chọn mang theo nó một số nguy hiểm như bị cám dỗ tự mãn với các hậu quả của nó hay mù mờ đối với các cơ sở của nó. Nhiều người Do Thái sa vào các cơn cám dỗ này. Israel không được tuyển chọn vì chính họ, các tiên tri đã phải nhấn mạnh như thế, mà vì Thiên Chúa; họ không được chọn vì các đức hạnh của họ, mà vì nhờ được gần gũi Thiên Chúa, họ có thể tìm được đường tiến tới đức hạnh. Khi Amốt đồng ý rằng Giavê đã tuyển chọn Israel thì là để nhắc nhở họ rằng ngay trong sự kiện đó có hàm chứa quyền của Người được tiêu diệt họ khi họ phạm tội ác: “do đó, Ta sẽ trừng phạt các ngươi” (3:2).
Truyền thống Israel đã diễn tả quan niệm tuyển chọn dưới nhiều ẩn dụ và loại suy đa dạng, một trong những ẩn dụ và loại suy quan trọng nhất này là giao ước. Cả ý niệm này cũng đã tìm thấy nơi các tiên tri, mặc dù với nhiều dè dặt của các ngài. Hạn từ này không bao gờ xuất hiện nơi Amốt, người có lẽ không tài nào hòa giải nó với những lạm dụng về nó. Tuy nhiên, phần lớn các tiên tri khác không cho thấy sự ngần ngại nào trong việc dùng nó, nhưng họ dùng nó như Amốt dùng ý niệm tuyển chọn - đối với các ngài, giao ước là việc thuộc ơn thánh của Giavê và là nền tảng của nghĩa vụ luân lý. Hình ảnh Giavê triệu dân Người ra trước vành công lý, một hình ảnh rất thông thường nơi các tiên tri (xem các thuật ngữ rîb, “kiện tụng” ở Hs 4:1; Mk 6:2 và các từ tương đương ở chỗ khác) là hình ảnh, nay ta biết, mượn từ ngữ vựng giao ước nguyên thủy. Các tiên tri cũng thường hay nhấn mạnh tới truyền thống giao ước Môsê hay giao ước Đavít. Trong giao ước Môsê, đặc tính luân lý của việc tuyển chọn là rõ ràng nhất. Không thông thường chút nào khi các tiên tri tiền lưu đầy dừng lại ở các truyền thống tổ phụ dù các truyền thống này năng được nhắc đến trong các lời tiên tri thời lưu đầy và hậu lưu đầy.
Một ý niệm giúp các tiên tri thiêng liêng hóa ý niệm tuyển chọn là ý niệm “số còn lại” (remnant). Được liên kết một cách đặc biệt với Isaia, ý niệm này xem ra đã được ghi đậm trong các truyền thống tốt đẹp nhất của Israel, lâu đời hơn các tiên tri có văn bản. Nếu Amốt khó có thể coi đây như một khả thể có giá trị (5:15) và thậm chí còn chế giễu mô tả số còn sót lại không hề còn sót lại chút nào (3:12), nhưng ông vẫn tôn trọng niềm tin này theo cách riêng của ông. Amốt vốn là người quá xác tín về việc diệt vong của Israel đến độ không chịu phí thì giờ để suy đoán về các hậu quả của ăn năn thống hối, nhưng các tiên tri khác thì không đến nỗi quá bi quan như thế. Trong lời rao giảng của Hôsê, Isaia và Giêrêmia, ý niệm số còn lại được cứu rỗi, sống thoát sự phán xét của Giavê và trở thành Israel phục hồi, đã đem lại cho ý niệm số còn lại một sự sâu sắc thần học trong đó, các kế sách của Thiên Chúa nhân hậu được hiểu tốt hơn và đặt cơ sở cho việc nói tiên tri thời hậu lưu đầy.
Chính sự phán xét cũng là một ý niệm cánh chung được thiêng liêng hóa một cách sâu đậm trong giáo huấn tiên tri. “Ngày của Giavê” mà Amốt từng nhắc đến như một điều được người cùng thời với ông coi là đương nhiên (5:18-20) đã được nhiều người giải thích khác nhau; dù sao, ông cũng đã có trong tâm trí một số biến cố có thể cử hành chiến thắng của Giavê đối với các địch thù. Ý nghĩa việc Amốt dùng kiểu nói này là việc ông nhận diện kẻ thù không như những người ngoại đạo bất tín mà như chính Israel. Một tiên tri tiền lưu đầy khác cũng đã tiếp nối chủ đề này khi đồng ý với ý niệm truyền thống cho rằng ngày này là ngày kết liễu các dân tộc chống đối dân Thiên Chúa (Xp 2:1-15) nhưng cũng đồng ý với Amốt rằng Israel cũng phải được bao gồm trong các dân tộc này (Xp 1:1-18). Dường như chắc chắn là nền cánh chung luận bình dân có cái nhìn hướng tới 1 tương lai trong đó, Giavê sẽ tính sổ với các kẻ thù của Người và từ cuộc tính sổ này, dân của Người sẽ là người chiến thắng. Vượt ra ngoài các xem xét có tính duy quốc gia và chỉ dưới ánh sáng luật luân lý, hàng tiên tri chấp nhận nền cánh chung luận này nhưng muốn làm người ta hiểu rõ dân này là ai. Nó không phải là thứ Israel trong xương thịt, mà là thứ Israel trong tinh thần, số còn lại, thực sự được tuyển chọn. Lối giải thích tiên tri này tiếp diễn tới thời tiên tri hậu lưu đầy, khi nó còn trở nên rõ ràng hơn nữa rằng sự phán xét của Giavê không hệ ở việc là Israel hay không là Israel mà hệ ở việc là công chính hay không là công chính (xem Mk 3:13-21).
(B) Giáo huấn tiên tri về xã hội và luân lý
Việc nhấn mạnh tới nền luân lý xã hội khá rõ nơi các tiên tri cổ điển tiền lưu đầy khiến các ngài được tước hiệu “tiên tri xã hội”. Từ những điều đã nói ở trên, hiển nhiên không phải vì công trạng của các tiên tri mà chúng ta nhấn mạnh tới khía cạnh này trong sứ điệp của các ngài như thể các ngài đã lưu ý tới nó một cách bất cân xứng. Không như có lần đã được gọi, các tiên tri chắc chắn không phải là “những nhà viết sách tuyên truyền cực đoan” (radical pamphleteers) (E. Renan, Histoire du peuple d’Israel [Paris, 1893] 2, 425) hay “những người nổi dậy” (L.Wallis, Sociological Study of the Bible [Chicago, 1912] 168 v.v…) Sứ điệp xã hội chắc chắn là nhấn mạnh chính, nhưng việc giải thích nó phải được tìm nơi chức năng của 1 tiên tri Israel: các ngài phục vụ như lương tâm của dân tộc chỉ trong các vấn đề cần đến lương tâm mà thôi. Trước tấm phông của lịch sử Israel, học thuyết xã hội tiên tri rất thích ứng với chỗ đứng riêng của nó và không có gì là quá khuôn khổ cả. Chính các tiên tri hẳn phải ngỡ ngàng vì tước hiệu “xã hội” của mình. Các ngài chỉ nhấn mạnh tới các nhân đức vốn cố hữu nơi các học lý tuyển chọn và giao ước, các nhân đức đã bị vi phạm trắng trợn ở một Israel từng từ bỏ gần hết các lý tưởng cổ xưa bằng cách hòa nhập vào các lối sống ngoại đạo. Cho là trong tôn giáo tôn thờ Giavê vốn đã có đặc tính xã hội, các tiên tri không đề xuất điều gì mới mà chỉ gợi lại nền luân lý ai cũng biết, mặc dù phần lớn làm ngơ.
Tuy nhiên, từ sự nhấn mạnh của tiên tri này, ta thấy xuất hiện một chủ đề trong Cựu Ước, một chủ đề sẽ trở thành khẳng định chính và trải dài tới học lý của Tân Ước về Nước Thiên Chúa (xem Mt 5:3). Chủ đề này là chủ đề người nghèo của Giavê (ʽănāwîm), nghĩa là, người bị áp bức về phương diện xã hội mà việc phục hồi họ chỉ có thể xuất phát từ Giavê mà thôi, và, do đó, họ gần như đồng nghĩa với người công chính, những người trung thành còn sót lại, với quyền được kêu thấu tới Chúa. Trong chủ đề này, giáo huấn tiên tri cũng duy trì được tính quân bằng của nó. Cảnh nghèo không bao giờ bị các tiên tri Israel xúc cảm hóa; phù hợp với phần lớn Cựu Ước, các ngài coi đó là điều không đáng ước mong. Người nghèo không phải chỉ vì là nghèo, mà sự kiện hiện sinh không nên bị bỏ quên là cảnh nghèo và sự bóc lột bất công thường đi đôi với nhau. Chính lòng ác độc của người khác đã tạo ra trạng huống này, và toàn bộ cố gắng tiên tri hướng vào việc chống lại lòng ác độ này.
Chúng ta không có ý tối thiểu hóa sự đóng góp của các tiên tri khi quả quyết rằng các ngài cố gắng ghi khắc vào tâm khảm dân Chúa một nền luân lý đã có. Các ngài quả có thêm vào cho các truyền thống xưa tính tức khắc của lời Chúa ở thời các ngài, rút từ chính kinh nghiệm của các ngài về vị Thiên Chúa của lịch sử Israel. Lời rao giảng của các ngài về các mệnh lệnh xã hội và luân lý mà ta phải tìm nơi các biến cố qua đó Thiên Chúa thiết lập ra Israel đã đem lại cho Cựu Ước căn bản có thế giá nhất của nó để giải thích lịch sử như bao gồm các hành động cứu rỗi của Thiên Chúa và coi Chúa Giêsu Kitô như là nhân vật chính trong việc cứu chuộc (heilgeschichte).
(C) Độc thần đạo đức học
“Độc thần đạo đức học” (ethical monotheism) được dùng để mô tả điều được coi là quan trọng nhất trong mọi khám phá tiên tri, nghĩa là, Thiên Chúa của Israel có một ý chí luân lý và chỉ bằng một đời sống luân lý, Người mới được thờ phượng đúng theo ý chí này. Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng việc “khám phá” này của các tiên tri không có chi mới cả. Tuy nhiên, sức nặng trong sứ điệp của các ngài đối với dân Israel thì chắc chắn có mới. Các ngài khám phá ra nguyên lý ở nơi nó luôn luôn sẵn có đó cho mọi người, đó là truyền thống thánh.
Chủ thuyết độc thần lý thuyết xuất hiện tương đối mãi sau này trong lịch sử Israel. Chủ thuyết độc thần của các tiên tri tiền lưu đầy vốn được gọi là chủ thuyết độc thần “thực tiễn” hay “năng động” nghĩa là một thứ độc thần hiện sinh, hình thức độc thần duy nhất có thể có trong bối cảnh lịch sử của nó, và tuy nhiên là một hình thức độc thần không có tính lý thuyết. Hình thức này cũng tìm thấy trong các truyền thống cổ xưa nhất của Israel, phát khởi từ các trình thuật về tổ phụ. Xét theo điều chúng ta phải kết luận về việc lưu truyền lời lẽ của các tiên tri cổ điển, điều không thể tin được là giáo huấn tiên tri có thể xa rời các luồng tư duy chính dòng của Israel như một số nhà phê bình chủ trương. Việc lưu truyền các trước tác tiên tri chỉ có nghĩa khi ta nhìn nhận sự kiện hiển nhiên này: để tiếp tục tồn tại, chúng tùy thuộc việc dân chấp nhận chúng, nhìn nhận trong chúng chính lời lẽ của một vị Thiên Chúa cũng là Thiên Chúa của đức tin họ, bất chấp họ có thể ngần ngừ ra sao trong việc hành động theo lời đã được lưu truyền đến họ. Các trước tác của các tiên tri cổ điển là gia bảo của tôn giáo Israel, tôn giáo của Akháp, của Êlia, của Xítkigiahu cũng như của Mikhagiơhu, của Hanania (Khananihu?) và của Giêrêmia. Bất cứ giải thích nào khác cũng làm lịch sử trở thành vô nghĩa.
Đã đành, việc các tiên tri nối tôn giáo vào luân lý là một điều độc đáo. Nếu họ thấy căn bản cho việc nối kết này trong truyền thống chung họ cùng có với người đương thời, thì điều vẫn đúng là nhờ thừa tác vụ của họ mà việc nối kết này đã được củng cố để không bao giờ bị phân rẽ nữa. Sự kiện này vốn được duy trì như một trách cứ đối với hàng tiên tri theo nghĩa giải đáp của các ngài đối với các vấn đề xã hội và luân lý luôn có tính tôn giáo chứ không thực tiễn. Như đã ghi nhận ở trên, các tiên tri không cổ vũ chính sách nào nhằm thay thế các định chế lỗi thời bằng các định chế tốt hơn. Một đàng, nếu họ không bao giờ đề nghị phải phản động trở về với quá khứ như nhà Rê-kháp (xem Gr 35), thì họ cũng không bao giờ gợi ý bất cứ kế hoạch hành động nào qua đó, đời sống hiện hữu của người Do Thái nên hòa hợp với bất cứ điều gì được họ coi là các lý tưởng cổ xưa của Israel. Với các chính trị gia gìa nua hom hem của Israel và Giuđa cố gắng đem lại cho quê hương nhỏ xíu của họ một phương thế để sống còn giữa đại dương quyền lực chính trị trong đó chính sách trung lập không được dung thứ, rõ ràng các tiên tri sẽ không thể mang lại chút hy vọng nào trong việc họ liên tiếp kết án mọi liên minh chính trị coi như phản bội lại giao ước của Thiên Chúa Israel. Nếu Giêrêmia có thể bị hiểu lầm bởi những người vô cảm có tinh thần bè phái thuộc một lãnh thổ bại trận mà bản năng chỉ có tính tự sát, thì ông cũng có thể bị hiểu lầm bởi những người ái quốc trung thực có lòng đạo cũng thành thực, nếu không hiểu biết, như ông. “Hãy làm điều tốt… hãy thực thi công lý… hãy xa lánh sự ác…”là những huấn lệnh tuyệt vời, nhưng chúng không tạo nên một phác thảo nào để điều hành việc nước, thậm chí để điều hành sinh hoạt nghề nghiệp tư riêng. Há không phải vì những phản đối liên tục chống lại các nhà duy luân lý nên các tiên tri tự bằng lòng với các cách ngôn và từ khước cầm bắt các thực tại hắc búa của cuộc sống thực tiễn?
Ta nên đối diện với vai trò nói tiên tri, nhưng không nên bôi lọ nó. Các tiên tri không phải là các nhà dạy đời, chính khách, hay chính trị gia; họ là các tiên tri. Chức năng của họ là mặc khải tâm trí Thiên Chúa, một tâm trí họ biết mà người khác không biết. Trong chức năng này, họ tìm được raison d’être (lý do hiện hữu) của họ, và chức năng của người khác là diễn dịch lời lẽ tiên tri thành các kế hoạch hành động cả cho sinh hoạt tư lẫn sinh hoạt công. Thảm kịch của Israel không phải họ đã nhận được từ hàng tiên tri bất cứ điều gì kém hơn điều các tiên tri giả thiết phải đem lại, mà là, họ có hàng tư tế không biết Thiên Chúa và lề luật của Người, những nhà cai trị tạo luật riêng tách biệt khỏi Thiên Chúa, và một dân tộc không lưu ý gì tới lời lẽ tiên tri.
III. Văn chương tiên tri
Các điều nói trên đây là những dẫn nhập sơ khởi để chúng ta khảo sát nền văn chương tiên tri của Cựu Ước. Chỉ dưới ánh sáng này, ta mới có thể hiểu nền văn chương này có nghĩa gì, ai sản xuất ra nó, và nhằm mục đích gì. Dĩ nhiên, chúng ta quan tâm đến nền văn chương tiên tri như đã được định nghĩa, nghĩa là, một nền văn chương do các tiên tri cổ điển có văn bản sản xuất ra. Qui điển Do Thái có tính bao gồm hơn khi kể là “các tiên tri sơ khởi” những gì chúng ta vẫn coi là các sách lịch sử (tức các sách đệ nhị luật). Chúng ta cũng không quan tâm tới các loại văn chương khác mà vì các lý do khác nhau người ta vốn kể có tính tiên tri, được đại diện bởi Ai Ca, Barúc, Đanien và Giôna.
(I) Các tiên tri có văn bản và các tiên tri không có văn bản
Theo một nghĩa, sự phân biệt giữa các tiên tri có văn bản và các tiên tri không có văn bản dựa trên một quan niệm sai lầm về lịch sử các tiên tri có văn bản, và dù sao, cũng có tính cách ngẫu nhiên. Vì phần lớn là nhờ các môn đệ của các tiên tri lớn mà ta có được các văn bản của các vị tiên tri lớn này.
Đàng khác, văn chương tiên tri không bao gồm các sách viết bởi các tác giả có văn bản cùng một cách như sách Rút, chẳng hạn, là sách được viết bởi một tác giả nhất định, hay cả như Sách Tin Mừng Gioan. Tên tuổi xuất hiện ở đầu các sách tiên tri quả đồng nhất một cách có thực chất với lời lẽ của một tiên tri riêng biệt. Tuy nhiên, các lời tiên tri này, phần lớn, là những lời đáng ghi nhớ được thu thập và hiệu đính từ các tiên tri, chứ không phải là các trước tác văn bản của chính các tiên tri. Chúng là kết quả của việc nối kết có tính biên tập những sưu tập nhỏ hơn gồm các lời tiên tri được nối với nhau nhờ các khẩu hiệu, sự giống nhau trong chủ đề, các thể văn hay sự tương tự về một khía cạnh nào đó.
Các sưu tập trên có thể do chính các tiên tri thực hiện không? Có thể lắm, nhưng không chắc chắn, như việc khảo sát từng “sách” tiên tri cá thể đã cho thấy. Trong nhiều điển hình, các nhà sưu tập các lời tiên tri kia hiển nhiên thiếu các tín liệu chỉ có các tác giả mới có thể có được. Một điều nữa là tư liệu về tiểu sử ở ngôi thứ ba đã tạo nên phần chủ yếu của nhiều sách tiên tri. Cả ở đây nữa, các tiên tri rất có thể viết về mình ở ngôi thứ ba; tuy nhiên, sẽ hợp lý hơn nhiều khi cho rằng tư liệu này phát xuất từ cùng một nguồn có trách nhiệm đối với sưu tập, tức các môn đệ của các tiên tri. Chúng ta đã được minh nhiên cho hay về sự hiện hữu của các môn đệ này và về vai trò của họ trong việc duy trì và thông truyền lời lẽ của thầy mình – thí dụ Is 8:16-20, Giêrêmia 36 cũng là một nguồn thông tin qúy giá, miêu tả giai đoạn đầu trong việc thu thập Sách Giêrêmia khi một số các lời tiên tri của Giêrêmia đã được viết xuống bởi lời ông đọc cho môn đệ Barúc. Tương tự như thế, nhiều lời tiên tri trong các sách tiên tri khác cho thấy các dấu hiệu chúng đã được đọc để được viết xuống. Ngay đối với Sách Amốt cũng thế: vị này vốn được coi như một tiên tri thuộc loại riêng biệt, nhưng trong Sách này, ta thấy không những có các tư liệu thuộc ngôi thứ ba (7:10-17) mà cả các trình thuật ở ngôi thứ nhất nhưng giả thiết có sự hiện diện của những thính giả thân hữu có nhiệm vụ ghi nhớ và ghi chép (xem 7: 1,4,7: 8:1-2). Cũng chính trong vòng các môn đệ mà khởi nguyên các tư liệu riêng, như “các lời thú tội” của Giêrêmia (12:1-6; 15:15-21…) đã được duy trì và được thầy tiết lộ cho trò và thoạt đầu không có ý định phổ biến cho công chúng.
Khả thể trên nêu lên câu hỏi về ipsissima verba (chính lời lẽ) của các tiên tri. Đến mức nào các lời tiên tri của Amốt, Hôsê, Isaia và các tiên tri khác xem ra y hệt như đã nói ra ngay từ đầu? Câu trả lời cho câu hỏi này không hề đơn giản, mà một câu trả lời đơn độc cũng không đủ cho mọi trường hợp.
Nói chung, chúng ta có đủ lý do để nghĩ rằng trong phần lớn các bản văn thi ca quan trọng hàng đầu đối với một sách tiên tri nhất định, chúng ta có sự chép lại theo thực chất chính lời lẽ nguyên thủy của vị tiên tri. Ta có thể nghĩ rằng trong một vài điển hình, những lời lẽ này đã được chính vị tiên tri ghi lại, trên các vỏ hào (ostraca) hay các phương tiện ghi chép quen thuộc khác. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết, xét vì cấu trúc thi ca có bản chất làm dễ dàng việc nhớ và lưu truyền chính xác. Thực vậy, từ các tư liệu thi ca này thấy xuất hiện nhiều văn phong và hằng số khác biệt, để có thể nói đến một đặc điểm Amốt hay Isaia để dễ dàng tách biệt tư liệu của Giêrêmia khỏi tư liệu của Barúc v.v…
Các tư liệu văn xuôi cho ta nhiều khó khăn phụ trội. Dĩ nhiên, một tiên tri có thể sản xuất ra cả thi ca lẫn văn xuôi và có nhiều liều lượng văn xuôi trong các sách tiên tri chắc chắn có hoàn cảnh đời thực chân chính trong thừa tác vụ của các tiên tri cá thể. Tuy nhiên, những gì chúng ta biết được về diễn trình nói tiên tri thông thường khuyến khích ta nghĩ rằng hình thức thông thường của nó là việc nói ra những câu quả quyết tương đối ngắn bằng thi ca. Các phần văn xuôi trong văn chương tiên tri thường có dáng dấp sản phẩm văn chương hơn là các lời nói với cử tọa. Do đó, chúng thường là những câu dẫn giải hay tóm tắt các lời tiên tri chứ không hẳn là chính các lời tiên tri. Các lời dẫn giải này cũng có thể là công trình của vị tiên tri, giống như Thánh Gioan Thánh Giá viết những câu văn xuôi giải thích các kinh nghiệm thi ca của ngài; nhưng thông thường hơn, chúng là các lời nhắc lại ý nghĩa lời tiên tri, đôi khi duy trì được các trích đoạn ngắn chính các lời lẽ nguyên thủy như truyền thống đã truyền lại. Giả thuyết này xem ra được đặc biệt xác nhận trong trường hợp Giêrêmia; nhiều lời tiên tri của sách này hiển nhiên đã được truyền tụng trong các giới chịu ảnh hưởng nặng nể của văn phong và ngữ vựng đệ nhị luật.
(II) Các hình thức văn chương tiên tri
Tư liệu đặc biệt có tính tiên tri hơn cả tìm thấy trong các sách tiên tri là sấm ngôn, nghĩa là mặc khải của Thiên Chúa. Như chúng ta đã chỉ ra trên đây, sấm ngôn thường là một câu thơ ngắn, mặc dù, trong văn chương tiên tri, các sấm ngôn thuộc loại tương tự thường được nối kết với nhau để trở thành một đơn vị lớn hơn, đôi khi do chính vị tiên tri, nhưng thường là do một người hiệu đính. Để làm nổi bật nguồn gốc thần linh của sấm ngôn, tiên tri thường có lời phi lộ, lời kết luận hay xen vào đó những nhắc nhở thích hợp: “Giavê phán thế”; “Giavê nói” v.v… Tuy nhiên, tiên tri cũng có thể nói nhân danh mình như là phát ngôn viên của Thiên Chúa.
Các tác giả có thói quen phân biệt nhiều loại sấm ngôn khác nhau tùy thuộc bản chất chính xác của lời Chúa đang được thông truyền. Nó có thể được phân biệt thành lời tiên tri bất hạnh hay lời tiên tri hạnh phước, cho biết sự ác sắp đến hay việc tốt sắp xẩy ra. Lời tiên tri tiền lưu đầy chủ yếu thuộc loại bất hạnh (xem Grm 28:8), điều này không nhất thiết có nghĩa mọi hay phần lớn các lời tiên tri hạnh phước trong các sách của các tiên tri tiền lưu đầy phát xuất từ các bổ túc về sau của các tiên tri hậu lưu đầy; ngay Amốt, người bi quan hơn cả trong các tiên tri tiền lưu đầy cũng đã có thể đưa ra nhiều lời tiên tri có giá trị về cứu rỗi (5:15). Tuy nhiên, đúng là lời tiên tri cứu rỗi có đặc điểm hậu lưu đầy rõ rệt, y như lời tiên tri bất hạnh có đặc điểm tiền lưu đầy 1 cách rõ ràng. Các lời tiên tri bất hạnh dành cho các dân tộc ngoại giáo chống lại sự thống trị của Giavê là đặc điểm của cả lời tiên tri tiền lẫn hậu lưu đầy.
Sự tối tăm thường là đặc tính của việc nói tiên tri: sự mơ hồ trong sấm ngôn Delphic đã thành thành ngữ thời cổ điển xưa. Tuy nhiên, chính hoạt động soạn thảo thường đã làm tối ý nghĩa đối với chúng ta (bất kể đối với người đương thời của soạn giả có rõ ràng đến đâu), thí dụ như khi ta phải phân biệt đâu là họa đâu là phúc trong một bản văn như Is 7:13tt.
Lời Thiên Chúa qua trung gian việc nói tiên tri không hoàn toàn hay không chủ yếu có tính có thể tiên đoán. Một sấm ngôn tiên tri về họa có thể và thường là việc Thiên Chúa kết án tội lỗi (xem Is 1:2-3; 3:12-15…) hay là lời kêu gọi thống hối (xem Am 5:4-5a; Xp 2:3) mà giản lược có thể coi như nhau. Chính trong các lời tiên tri như thế, ta tìm thấy nguồn chính của học lý xã hội và luân lý được mặc khải qua các tiên tri. Như thế, rõ ràng, một sấm ngôn, cùng một lúc, có thể là lời kết án, lời khuyên bảo, và một lời tiên tri về họa hay phúc.
Hoàn cảnh chính xác trong đó các tiên tri nói ra phần lớn các sấm ngôn trên không được mô tả cho ta, nên chúng ta chỉ có thể đưa ra giả thuyết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tiên tri thuật lại kinh nghiệm nói tiên tri của mình, phát biểu lại sấm ngôn như là một phần của trình thuật; nhờ các miêu tả này, ta có được một ý tưởng tốt hơn về diễn trình nói tiên tri. Do đó, Amốt miêu tả các thị kiến khác nhau trong đó lời Thiên Chúa đã được mặc khải cho ông (7:1-9; 8:1-3; 9:1tt) cũng như Giêrêmia (13:1-11) và các tiên tri khác. Trong Êdêkien, những miêu tả này thường khá chi tiết (thí dụ 8:3tt; 37:1-14) và, như thế, trở thành mẫu mực để bắt chước trong hàng tiên tri hậu lưu đầy và khải huyền trong đó thị kiến là thực chất chứ không phải chỉ là dịp của lời tiên tri. Một số thị kiến của Êdêkien đọc nghe như trải nghiệm xuất thần; tuy nhiên, các miêu tả tiên tri trước đó dường như chỉ là những biến cố tầm thường qua đó tiên tri được ban cho sự thông sáng đặc biệt nhờ việc tiếp xúc của ông với Thiên Chúa.
Sự viết lại lời tiên tri bởi chính vị tiên tri có nhiều hình thức khác hơn trình thuật thị kiến. Amốt 1:3-2:8 đã sử dụng hình thức thi ca cổ xưa thấy có cả trong một số văn chương khôn ngoan (xem Châm Ngôn 30:15tt). Edk 19:2-14, 27:3-9 v.v… và nhiều đoạn tiên tri khác đã được soạn thảo dưới hình thức “truy điệu ca” (qînâ) trong khi Is 5:1-7 khởi đầu bằng 1 bài tình ca được những người hát rong ở đường phố đô thị hát. Chúng ta đã nhắc tới “vụ kiện giao ước”, 1 hình thức mượn của nghi thức giao ước xưa rất nổi tiếng. Một hình thức mở rộng của nó trong Mk 6:1-8 xem ra khá được mô phỏng theo phụng vụ Đền Thờ mà chúng ta từng được thấy một số điển hình trong các Thánh Vịnh. Nhiều đoạn tiên tri khác rất thông thường trong văn chương tiên tri là các bài giảng tiên tri (tôrâ), cả bằng văn xuôi lẫn thi ca, tức lời giáo huấn tương ứng với tôrâ tư tế trong các đền thánh. Chính từ các điển hình tôrâ trình bầy trong các các sách tiên tri khác nhau đó mà ta rút ra được học lý và cách nói có tính tiên tri một cách đặc trưng, vì đến thời đến lúc, bài giảng loại này đã tạo ra một truyền thống văn chương riêng y hệt như tôrâ tư tế.
Điều ta gọi là các hành vi tượng trưng của các tiên tri cũng có thể được xếp vào các hình thức văn chương khác nhau, vì các hành vi này cũng là những lời tiên tri. Hành vi tượng trưng được năng tìm thấy nơi tiên tri Êdêkien nhiều hơn nơi bất cứ tiên tri nào khác, tuy nhiên không phải chỉ một mình ông mới có. Cuộc hôn nhân của Hôsê (Hs 1-3), việc ở trần của Isaia (20:1-6), Tên Sơ-a Gia-súp ông đặt cho con trai (7:3), việc ở độc thân của Giêrêmia (16:1-4) và việc ông mua thửa vườn của Khanaên (32: 6tt) đều là các hành vi tượng trưng. Ta gọi chúng là tượng trưng vì ta nghĩ chúng là các dấu chỉ của một thực tại khác. Tuy nhiên, đối với tâm trí Cựu Ước, tự chúng, chúng là các thực tại, là lời tiên tri được biến thành hữu hình. Khi Êdêkien vẽ ra những con đường dẫn ra khỏi Babylon (21:23tt), không phải ông chỉ nghĩ ra một biến cố để theo; mà theo một nghĩa nào đó, ông đang đem biến cố này vào hiện hữu. Cuộc sống và các việc làm của vị tiên tri đều tràn ngập các lời tiên tri giống như lời nói của các ngài vậy, vì tâm trí Kinh thánh không hề phân biệt giữa hai điều này.
(III) Hình thành các sách tiên tri
Không có chỗ và cũng không phải là chỗ để ta đi vào lịch sử soạn thảo của từng sách tiên tri ở đây. Lịch sử này khá phức tạp và khác nhau từ sách này qua sách nọ; việc xem xét cẩn trọng hơn đối với sách này hay sách nọ sẽ được tìm thấy ở phần chú giải của từng sách liên hệ. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận các chi tiết lịch sử nào áp dụng cho việc hình thành nền văn chương tiên tri nói chung mà thôi.
Các đồ đệ của các vị tiên tri chắc chắn có trách nhiệm thực hiện công việc đầu tiên là thu thập và viết xuống các sấm ngôn, các bài giảng, và các tư liệu văn xuôi cũng như thi ca khác, mà một số được duy trì trong chính lời nói của vị tiên tri và một số do các môn đệ nhớ được và dẫn giải. Thêm vào đó, các môn đệ còn lồng vào các ký ức về tiểu sử và đôi khi cả các tư liệu khác có liên quan nữa (thí dụ ca khúc sáng thế được dùng để tạo nên các bài tụng ca trong Amốt 4:13; 5:8-9; 9:5-6). Toàn bộ sưu tập đã được thu thập như thế sẽ được sắp xếp theo một trật tự nào đó theo chủ đề hay theo thứ tự thời gian, hoặc cả hai. Đôi khi các đơn vị nguyên thủy được duy trì (thí dụ, có lẽ Am 1: 3-2:8), nhưng nói chung, các đơn vị hoàn thành đều là công trình của các môn đệ vì tư liệu tiên tri thường được tạo ra từng chút một suốt trong các thừa tác vụ tiên tri lâu dài. Do đó, đoạn có tính tiểu sử của Am 7:10-17 đã được đặt sau trình thuật của chính Amốt về cuộc thị kiến của ông ở 7:7-9 vì ở đấy có nhắc đến nhà Gia-róp-am. Tương tự như thế, đọan tiểu sử ở Hs 1, các sấm ngôn ở Hs 2, và đoạn tự thuật ở Hs 3 đã được thống nhất vì sự đồng nhất của chủ đề. Rất có thể một môn đệ hiệu đính viên đã đặt Am 1:2, phát xuất bất cứ lúc nào trong sự nghiệp của tiên tri, ở đầu sách, nơi nay được dùng như lời dẫn nhập vào toàn sưu tập.
Việc hiệu đính do các môn đệ của tiên tri thực hiện chắc chắn bao gồm cả việc tu sửa có tính soạn thảo lẫn việc thu thập lời lẽ của ngài. Một việc tu sửa nữa diễn ra sau khi sưu tập tiên tri đã được đem ra sử dụng nơi công chúng. Các lời nhắc đến Giuđa trong bản văn Hípri hiện thời của Amốt 6:1; Hs 6:4 có lẽ, và phần chắc trong trường hợp Hs 12:3, là kết quả của việc thay đổi từ “Israel” nguyên thủy. Sau khi vương quốc phía bắc sụp đổ, các lời tiên tri của Amốt và Hôsê được lưu truyền ở phía nam,và các thích ứng này được thực hiện để chứng tỏ khả thể áp dụng chúng một cách liên tục. Các tu sửa tương tự như thế đã thích ứng các lời tiên tri khác vào tình thế hậu lưu đầy.
Việc hiệu đính các sưu tập tiên tri hiện nay phần lớn xem ra đều thuộc thời hậu lưu đầy. Chính vào thời gian này, các tước hiệu và định mức thời gian đã được thêm vào đầu sách. Các định mức thời gian đều chỉ về Giuđa, dù là với các công trình như Amốt và Hôsê, là những công trình nguyên thủy chỉ quan tâm tới Israel. Hơn nữa, các định mức này không luôn luôn ăn ý với nội dung tiên tri.
Các hiệu đính viên hậu lưu đầy, những người được chứng kiến sự nên trọn của lời tiên tri bất hạnh tiền lưu đầy và vẫn còn trải nghiệm thời lưu đầy và hậu lưu đầy, đã theo một phác thảo khá có tính tiêu chuẩn trong việc phân phối các sưu tập tiên tri. Họ có xu hướng tập trung các sấm ngôn bất hạnh ở đầu sách và các sấm ngôn hạnh phước (cứu rỗi) ở cuối sách; ở giữa, họ đặt các sấm ngôn chống lại Dân Ngoại. Mục đích của lối sắp xếp này là để nói lên niềm tin của họ vào việc phục hồi một Israel được cứu chuộc qua việc bại trận của các kẻ thù Thiên Chúa và dân của Người. Đồng thời, họ muốn lợi dụng cơ hội này để đặc biệt bổ túc cho các đoạn 2 và 3 của các phần này bằng các đoạn tiên tri tương tự khác, cập nhật hóa các sấm ngôn chống lại các Dân Ngoại (thí dụ, bằng cách lồng vào các sấm ngôn chống lại Babylon ở Is 13:1-14:23) và bao gồm các chủ đề cứu rỗi mới như việc tái thống nhất Israel và Giuđa rút từ Giêrêmia và Êdêkien. Mọi loại tư liệu bổ sung đều được thêm vào để mở rộng các sách tiên tri. Ngay những sách tiên tri hoàn toàn nói đến đại họa như sách Amốt cũng nhận được lời bạt nói tới cứu rỗi (9:8b-15), và có man vàn các đoạn thêm vào thuộc loại này (xem Hs 1:7; 3:5b; Mk 3:24b; v.v…). Vì nhiều lý do khác, các loại thêm vào này đã được thực hiện, như tư liệu giầu tính lịch sử liên quan tới nhiều tiên tri quan trọng như Isaia (các chương 36-39, xem 2V 18:13-20:19) và Giêrêmia (chương 52; xem 2V 24:18-25:30).
Có thể bản văn của một số văn chương tiên tri vẫn còn tương đối có thể thay đổi được cho tới khi nó được lồng vào qui điển (như Giêrêmia chẳng hạn). Dĩ nhiên, còn có những thêm thắt và sửa đổi nữa, kết quả của chú thích hay tự ý thêm vào không hề có nghĩa Kinh thánh.
IV. Lời tiên tri
Quan tâm của chúng ta đối với nền văn chương tiên tri, khỏi cần nói, không phải chỉ vì chúng ta lưu ý tới một hiện tương tôn giáo cổ xưa. Lời tiên tri không những là, mà vẫn còn là lời của Thiên Chúa. Nếu trọn bộ Sách Thánh là lời Thiên Chúa, thì điều đó càng đúng một cách siêu việt đối với lời tiên tri trong đó Thiên Chúa đã quyết định nói trực tiếp với dân của Người. Hơn nữa, nó không phải là một ghi chép văn khố mà là lời hằng sống của một Thiên Chúa hằng sống.
Ý tưởng đó, ít nhất, là quan điểm của Kinh thánh. Chúng ta từng quả quyết rằng các hành vi tượng trưng của các tiên tri không phải chỉ là dấu hiệu mà là những công trình hữu hiệu. Điều này dĩ nhiên càng đúng đối với các phát biểu của các ngài. Lời trách móc của Êlia ngỏ với A-Kháp “ngươi là kẻ gây rối của Israel” (1V 18:17) và lời khiếu nại của Vua Israel về việc Mikhagiơhu không nói tiên tri điều tốt cho ông ta (1V 22:8) không phải là lời hờn dỗi phi lý lúc thoạt mới nghe. Đúng hơn, chúng thừa nhận rằng lời tiên tri là quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa và vị tiên tri là dụng cụ qua đó quyền năng kia được chuyển thông. Lời tiên tri có sự sống riêng của nó một khi nó thoát ra từ cửa miệng tiên tri và vị tiên tri đồng nhất với lời ngài nói ra.
Nếu chúng ta chia sẻ quan điểm Kinh thánh này, thì chúng ta phải nhìn nhận hai điều. Thứ nhất, lời tiên tri lớn lao hơn chính vị tiên tri, điều mà chính các tiên tri là những người đầu tiên thừa nhận. Ta biết đến sự lớn lao này nhờ việc nên trọn trong Tân Ước, một điều, ngược lại, không phải là việc xẩy ra của một quá khứ chết nhưng là của một thực tại sống động và không ngừng phát triển. Thứ hai, lời tiên tri là lời của Isaia, hay Amốt, hay Giêrêmia, hay có lẽ của một người ta không biết tên, một người, dù sao, đích thân can dự vào lời này, sống cho nó và sẵn sàng chết vì nó. Nếu chúng ta muốn tiếp nhận sứ điệp này như Thiên Chúa đã tỏ bày cho ta, ta phải tiếp nhận nó như nó đã đến qua miệng các tiên tri của Israel. Bất cứ điều gì kém thế đều không phải là lời tiên tri.
1. Giải pháp của Tổng thống Trump cho Ukraine: Nga nắm giữ ‘78 phần trăm’ Donbas, cứ để như vậy
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết vào cuối ngày Chúa Nhật rằng cuộc chiến ở Ukraine nên được đóng băng tại các tiền tuyến hiện tại, vài ngày sau cuộc họp được tường trình căng thẳng với người đồng cấp Ukraine Tổng thống Volodymyr Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc.
Phát biểu với các phóng viên, Tổng thống Trump cho biết ông và Tổng thống Zelenskiy “chưa bao giờ thảo luận” về việc nhượng lại hoàn toàn khu vực Donbas ở phía đông Ukraine cho Nga, đồng thời phủ nhận các báo cáo của giới truyền thông về cuộc gặp.
“Chúng tôi nghĩ rằng điều họ nên làm là dừng lại ở ranh giới hiện tại, ranh giới chiến đấu”, Tổng thống Trump nói.
Trong khi các bản đồ nguồn mở về cuộc xung đột cho thấy lực lượng Nga đã xâm lược hầu hết Donbas, quân đội Ukraine vẫn duy trì hệ thống phòng thủ kiên cố, vững chắc ở phần còn lại của khu vực, mà Kyiv không muốn từ bỏ vì lo ngại điều này sẽ mở đường cho Vladimir Putin xâm lược đất nước.
“Cứ để nó như vậy, nó đã bị chia cắt ngay bây giờ rồi,” Tổng thống Trump nói thêm về Donbas. “Tôi nghĩ 78% diện tích đất đã bị Nga chiếm rồi. Cứ để nguyên như vậy, họ có thể đàm phán sau.”
Trong các cuộc đàm phán với Tổng thống Zelenskiy tại Washington, một người hiểu rõ vấn đề này đã nói với POLITICO rằng ban đầu Tổng thống Trump đề nghị Kyiv nên nhượng lại lãnh thổ cho Mạc Tư Khoa để chấm dứt chiến tranh, đồng thời nói thêm rằng “người Mỹ nói rằng Putin muốn tiếp tục chiến đấu và ông ta có một cỗ máy chiến tranh mạnh mẽ”.
Nhưng cuối cùng Tổng thống Trump đã kết thúc cuộc họp bằng câu nói: 'Được rồi, chúng ta hãy cố gắng kết thúc vấn đề này theo hướng hiện tại'“, người này cho biết.
Hội nghị thượng đỉnh Tổng thống Trump-Tổng thống Zelenskiy hôm thứ Sáu diễn ra một ngày sau khi tổng thống Mỹ tuyên bố đã điện đàm với Putin và hai bên đã đồng ý tái khởi động các cuộc đàm phán hòa bình bằng một cuộc gặp tại Budapest. Điều này làm dấy lên lo ngại trong giới chức Ukraine và Âu Châu rằng nhà lãnh đạo Mỹ một lần nữa bị ảnh hưởng bởi các luận điệu của Điện Cẩm Linh.
Một tường thuật khác về cuộc gặp với Tổng thống Zelenskiy vào thứ Sáu, được đăng trên tờ Financial Times, đưa tin rằng Tổng thống Trump đã nói với người Ukraine rằng ông có thể chấp nhận các điều khoản hòa bình của Putin - và cuộc trò chuyện đã trở thành một cuộc cãi vã.
[Politico: Trump’s Ukraine solution: Russia has ’78 percent’ of the Donbas, leave it like that]
2. ‘Ông ấy sẽ lấy được thứ gì đó’ - Tổng thống Trump nói Putin đã ‘chiến thắng’ lãnh thổ ở Ukraine
Putin đã “giành được một số tài sản nhất định” trong cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine và dự kiến sẽ chiếm lãnh thổ Ukraine như một phần của thỏa thuận hòa bình, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Fox News phát sóng ngày 19 tháng 10.
Cuộc phỏng vấn được ghi hình vài ngày trước đó, ngay sau cuộc điện đàm của ông với Putin vào ngày 16 tháng 10. Cuộc gọi diễn ra trước cuộc gặp tại Tòa Bạch Ốc của Tổng thống Trump với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy — các cuộc đàm phán kết thúc trong sự thất vọng của phái đoàn Ukraine, không có lời hứa nào về hỏa tiễn Tomahawk.
Trước cuộc gọi với Putin, Tổng thống Trump đã có giọng điệu gay gắt hơn với Nga trong các bình luận công khai. Tuy nhiên, trong bình luận với người dẫn chương trình Maria Bartiromo của Fox News, khi được hỏi liệu Putin có chấp nhận một thỏa thuận hòa bình mà không có nhượng bộ về lãnh thổ hay không, Tổng thống Trump tỏ ra khá thờ ơ về việc mất lãnh thổ Ukraine.
“Chà, ông ấy sẽ lấy đi một thứ gì đó,” Tổng thống Trump nói. “Ý tôi là, họ đã chiến đấu và ừm, ông ấy có rất nhiều tài sản. Ý tôi là, anh biết đấy, ông ấy đã giành được một số tài sản nhất định, nếu anh nói vậy, thì ông ấy đã giành được một số tài sản nhất định.”
Tổng thống Trump không đề cập đến chủ quyền của Ukraine hay luật pháp quốc tế, coi đó là điều hiển nhiên rằng một lực lượng xâm lược có quyền đối với “tài sản” mà họ chiếm được bằng sức mạnh vũ trang.
“Chúng ta là quốc gia duy nhất tham chiến, thắng trận rồi rút lui,” ông nói. “Như chúng ta đã làm dưới thời Tổng thống Bush ở Trung Đông. Chúng ta tham chiến, chúng ta cho nổ tung tất cả, phá hủy nơi này, rồi lại rút lui.... Bạn biết đấy, điều đó thật vô lý. Chưa bao giờ vô lý cả.”
Sau cuộc gặp với Tổng thống Zelenskiy, Tổng thống Trump đã lặp lại những quan điểm này trên mạng xã hội, viết rằng Ukraine và Nga nên đạt được một thỏa thuận hòa bình “với ranh giới tài sản được xác định bằng chiến tranh và lòng can đảm”.
Trong một cuộc phỏng vấn với NBC sau cuộc hội đàm với Tổng thống Trump, Tổng thống Zelenskiy cho biết ông hiểu điều này có nghĩa là Ukraine và Nga có thể đóng băng chiến tranh dọc theo giới tuyến hiện tại, nhưng Kyiv không muốn nhượng lại “thêm” lãnh thổ cho Putin.
“Chúng tôi sẽ không đưa bất cứ thứ gì cho kẻ xâm lược”, Tổng thống Zelenskiy sau đó phát biểu trong bài phát biểu đêm 19 tháng 10.
Tuy nhiên, Nga được tường trình đang tìm cách kiểm soát hoàn toàn Tỉnh Donetsk như một phần của thỏa thuận chấm dứt chiến tranh.
Putin đã nói với Tổng thống Trump rằng ông sẵn sàng từ bỏ một phần tỉnh Zaporizhzhia và Kherson của Ukraine, cả hai đều do lực lượng Nga xâm lược một phần, để đổi lấy toàn bộ Donetsk, tờ Washington Post đưa tin vào ngày 18 tháng 10, trích dẫn lời hai quan chức cao cấp của Hoa Kỳ.
Tờ Financial Times sau đó đưa tin rằng Tổng thống Trump đã thúc ép Tổng thống Zelenskiy chấp nhận những điều khoản này trong cuộc gặp của họ.
Trong một cuộc trò chuyện đôi khi trở thành cuộc cãi vã, Tổng thống Trump nói với Tổng thống Zelenskiy rằng Nga đang thắng thế trong cuộc chiến và sẽ phá hủy Ukraine nếu Kyiv không đạt được thỏa thuận, một quan chức Âu Châu có hiểu biết về cuộc họp nói với Financial Times.
“Nếu Putin muốn, ông ấy sẽ tiêu diệt ông”, Tổng thống Trump được tường trình đã nói với Tổng thống Zelenskiy.
Vị quan chức Âu Châu này cho biết Tổng thống Mỹ đã nhắc lại một số luận điểm tuyên truyền của Điện Cẩm Linh trong cuộc gặp. Tổng thống Trump cho biết Putin đã nói với ông rằng cuộc xâm lược Ukraine là một “chiến dịch đặc biệt, thậm chí không phải là chiến tranh”. Tổng thống Trump cũng nói rằng nền kinh tế Nga “đang phát triển tốt”.
Theo quan chức này, Tổng thống Trump cũng cảm thấy thất vọng với bản đồ chiến trường của Ukraine và vứt nó sang một bên, nói rằng ông “phát ngán” khi nhìn thấy những bản đồ này.
“Lằn ranh đỏ này, tôi thậm chí còn không biết nó ở đâu. Tôi chưa bao giờ đến đó”, Tổng thống Trump được tường trình đã nói như vậy.
Đề xuất mới nhất của Putin đánh dấu sự thay đổi so với lập trường trước đó của ông vào tháng 4, khi ông khẳng định rằng bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào cũng phải trao cho Nga quyền kiểm soát hoàn toàn Crimea cùng với bốn khu vực hiện đang bị tạm chiếm một phần: Donetsk, Luhansk, Zaporizhzhia và Kherson.
Mặc dù là một nhượng bộ nhỏ, nhưng điều này sẽ yêu cầu Ukraine phải bàn giao lãnh thổ mà Nga vẫn chưa chiếm được sau nhiều năm giao tranh mặc dù có lợi thế đáng kể về nhân lực và trang thiết bị quân sự.
Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk phát biểu vào ngày 19 tháng 10 rằng Ukraine không nên bị gây áp lực để từ bỏ lãnh thổ của mình.
Tusk nói rằng: “Không ai trong chúng ta nên gây áp lực lên Tổng thống Zelenskiy khi nói đến việc nhượng bộ lãnh thổ”.
“Tất cả chúng ta nên gây áp lực buộc Nga phải chấm dứt hành động xâm lược. Nhân nhượng chưa bao giờ là con đường dẫn đến một nền hòa bình công bằng và lâu dài.”
[Politico: 'He's going to take something' — Trump says Putin has 'won' territory in Ukraine]
3. Ukraine và Hoa Kỳ chuẩn bị hợp đồng mua 25 hệ thống Patriot
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết Ukraine và Hoa Kỳ đang chuẩn bị hợp đồng mua 25 hệ thống phòng không Patriot.
Patriot là một trong những hệ thống phòng thủ hiệu quả nhất chống lại hỏa tiễn đạn đạo của Nga nhắm vào hệ thống năng lượng của Ukraine. Tuy nhiên, sẽ mất nhiều năm để có được chúng, vì Kyiv sẽ phải xếp hàng sau các khách hàng khác, Tổng thống Zelenskiy nói trong cuộc họp với các nhà báo hôm Chúa Nhật.
“Khó khăn nằm ở hàng đợi sản xuất — một loạt các quốc gia đã ký hợp đồng liên quan. Chúng tôi sẽ nhận được 25 hệ thống này trong những năm tới, với số lượng khác nhau mỗi năm”, Tổng thống Zelenskiy nói và cho biết thêm: “Tòa Bạch Ốc có thể thay đổi hàng đợi nếu có ý chí chính trị.”
Ông cho biết một số nước Âu Châu có thể ưu tiên chuyển giao Patriot cho Ukraine hơn là cho chính họ, hoặc gửi các hệ thống mà họ hiện có cho Ukraine.
Tổng thống Zelenskiy cho biết: “Nếu mọi người cùng nhau hợp tác và có thiện chí, Tòa Bạch Ốc có thể hỗ trợ chúng tôi cụ thể với các hệ thống của Mỹ hiện có ở các quốc gia Âu Châu đó — để chúng tôi có thể tiếp nhận chúng”.
Mỗi hệ thống tốn khoảng 1 tỷ đô la, và tình hình tài chính của Ukraine đang rất eo hẹp. Kyiv hy vọng sẽ nhận được tiền từ khoản vay bồi thường trị giá 140 tỷ euro, được tài trợ bằng tài sản bị đóng băng của Nga, đang được các nước Liên Hiệp Âu Châu xem xét. Tuy nhiên, thỏa thuận này vẫn chưa được thực hiện.
“Tất nhiên, chúng ta cũng cần phải tìm kiếm các nguồn tài chính khác. Hiện tại, chúng ta có 28 thỏa thuận an ninh song phương với nhiều quốc gia. Nhiệm vụ là bảo đảm nguồn vốn và thanh toán trước, và trong khuôn khổ các thỏa thuận này, điều đó hoàn toàn có thể thực hiện được”, Tổng thống Zelenskiy nói thêm.
Cách thứ ba là Danh sách Yêu cầu Ưu tiên cho Ukraine, một sáng kiến của NATO nhằm khuyến khích các đồng minh mua vũ khí từ Hoa Kỳ để chuyển giao cho Ukraine. Dưới thời Ông Donald Trump, các khoản viện trợ quân sự mới của Hoa Kỳ đã chậm lại đến mức nhỏ giọt.
“Sáng kiến này rất quan trọng vì nó cho phép chúng tôi mua các loại vũ khí cần thiết của Mỹ, đặc biệt là hỏa tiễn cho hệ thống Patriot và một số thứ khác, đồng thời cũng giúp cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ nói chung”, Tổng thống Zelenskiy cho biết.
[Politico: Ukraine and US prepare a contract for 25 Patriot systems]
4. Bộ trưởng Quốc phòng Đức thúc đẩy quân dịch như một lời cảnh báo tới Mạc Tư Khoa
Đức đang cân nhắc việc khôi phục chế độ quân dịch, một động thái mà Bộ trưởng Quốc phòng Boris Pistorius cho biết có thể đóng vai trò răn đe Nga trong bối cảnh lo ngại về an ninh ngày càng gia tăng ở Âu Châu.
“Nếu chúng ta một lần nữa triệu tập tất cả nam giới trong cùng một năm và thu thập dữ liệu về tất cả những người đủ điều kiện nhập ngũ, điều này sẽ được ghi nhận ở Nga. Nói cách khác: đây cũng là một biện pháp răn đe”, chính trị gia SPD nói với tờ Bild.
Chế độ quân dịch bắt buộc ở Đức đã bị đình chỉ vào năm 2011, nhưng Luật cơ bản cho phép khôi phục ngay lập tức nếu xảy ra tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Pistorius cho biết các quan chức cần biết ai đã sẵn sàng điều động trong tình huống như vậy. Anh cũng chỉ trích việc đóng cửa các văn phòng tuyển quân cấp quận, gọi đó là một sai lầm nghiêm trọng. Các cơ cấu tuyển quân hiện đại đang được xây dựng lại và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào giữa năm 2027.
Chính phủ liên minh đã đệ trình kế hoạch cải cách quân dịch trong tuần này. Tuy nhiên, vẫn còn bất đồng giữa các nhà lập pháp CDU, CSU và SPD, đặc biệt là về cách bổ sung quân số nếu số lượng tình nguyện viên không đủ.
Pistorius cho biết Quốc hội phải quyết định xem có nên áp dụng hệ thống xổ số hay không nhưng nhấn mạnh rằng nghĩa vụ tình nguyện vẫn phải là ưu tiên hàng đầu.
Bộ trưởng bày tỏ sự tin tưởng rằng Đạo luật quân dịch có thể có hiệu lực vào đầu năm 2026. Ông cho biết: “Mọi người trong Bundestag đều biết: đây là vấn đề an ninh của nước Đức”.
Tuần này, Pistorius sẽ có chuyến công du chính trị - quân sự tới Iceland, Canada và Vương quốc Anh. Theo Bộ Quốc phòng, anh sẽ thảo luận về hợp tác an ninh, hợp tác với NATO và quan hệ đối tác trong ngành công nghiệp quốc phòng với các quan chức của ba nước.
Cựu quan chức NATO nói với tờ Kyiv Post rằng Putin đã thành công trong việc thuyết phục Tổng thống Trump trì hoãn trong khi bác bỏ lời đề nghị của Kyiv về việc đổi hỏa tiễn tầm xa lấy công nghệ máy bay điều khiển từ xa hàng đầu thế giới của nước này.
Việc Đức tập trung trở lại vào chế độ quân dịch diễn ra trong bối cảnh cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine đã bước sang năm thứ tư, làm gia tăng mối lo ngại về an ninh ở Âu Châu và căng thẳng quân sự gia tăng trên khắp lục địa.
[Kyiv Post: German Defense Minister Pushes Draft as Warning to Moscow]
5. Ukraine không nên trao đất đai chưa xâm lược cho ‘kẻ khủng bố’ Putin, Tổng thống Zelenskiy nói với NBC
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy trả lời phỏng vấn trong chương trình “Meet the Press” của đài NBC phát sóng ngày 19 tháng 10 rằng Ukraine không có kế hoạch giao nộp bất kỳ vùng lãnh thổ chưa bị tạm chiếm nào cho Nga như một phần của thỏa thuận hòa bình nhằm chấm dứt chiến tranh toàn diện.
Những bình luận này được đưa ra ngay sau cuộc họp mới nhất của Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, người đã kêu gọi Nga và Ukraine chấm dứt chiến tranh ngay lập tức “tại chiến tuyến”.
“Tôi hiểu rằng chúng ta phải kết thúc cuộc chiến này... từ nơi binh lính trú ngụ, từ chiến tuyến, như tôi đã hiểu đúng”, Tổng thống Zelenskiy nói với Kristen Welker của NBC, cùng ngày diễn ra cuộc gặp của ông với Tổng thống Trump.
“Nếu chúng ta muốn chấm dứt cuộc chiến này và đi đến các cuộc đàm phán hòa bình, một cách khẩn cấp và bằng con đường ngoại giao, chúng ta cần phải giữ nguyên hiện trạng, chứ không phải trao thêm điều gì đó cho (Tổng thống Nga Vladimir) Putin chỉ vì ông ta muốn —vì ông ta là một kẻ khủng bố.”
Trong bài đăng trên Truth Social được đăng ngay sau cuộc trò chuyện với Tổng thống Zelenskiy, Tổng thống Trump viết rằng Kyiv và Mạc Tư Khoa nên đạt được thỏa thuận “với ranh giới tài sản được xác định bằng chiến tranh và lòng can đảm”.
Tờ Washington Post sau đó đưa tin, trích dẫn lời hai quan chức cao cấp của Hoa Kỳ, rằng Putin đã yêu cầu Ukraine trao trả toàn bộ quyền kiểm soát Tỉnh Donetsk cho Nga như một điều kiện để chấm dứt chiến tranh.
Tổng thống Zelenskiy cũng cho biết bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào cũng phải diễn ra trong thời gian ngừng bắn.
“Không phải dưới hỏa tiễn, không phải dưới máy bay điều khiển từ xa”, ông nói.
Nga đã tăng cường đáng kể các cuộc tấn công trên không quy mô lớn vào các thành phố của Ukraine vào năm 2025. Sự gia tăng các cuộc tấn công hàng loạt trùng với thời điểm Tổng thống Trump trở lại nắm quyền, nhưng Tổng thống Zelenskiy cho rằng sự gia tăng này là do năng lực sản xuất mở rộng của Nga và sự hỗ trợ từ các đồng minh như Bắc Hàn, Trung Quốc và Iran, chứ không phải do những thay đổi ở Tòa Bạch Ốc.
Tổng thống Zelenskiy cho biết các chiến dịch trên không leo thang cũng là phản ứng trước những tổn thất trên chiến trường của Nga.
Tổng thống Zelenskiy cho biết: “Trên chiến trường, (Putin) không giành chiến thắng, đó là lý do tại sao ông ấy thực sự leo thang các cuộc không kích”, đồng thời nói thêm rằng Điện Cẩm Linh hy vọng sẽ gây ra một “thảm họa năng lượng” ở Ukraine bằng cách nhắm vào cơ sở hạ tầng quan trọng trước mùa đông.
Tổng thống Zelenskiy cho biết việc Nga phụ thuộc vào các cuộc tấn công kết hợp bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa cho thấy nhu cầu của Ukraine về vũ khí tầm xa và hệ thống phòng không mạnh mẽ hơn. Trong khi Nga tấn công Ukraine bằng hỏa tiễn tầm xa, bao gồm cả một số hỏa tiễn do Bắc Hàn cung cấp, thì Ukraine lại dựa vào máy bay điều khiển từ xa sản xuất trong nước để tấn công các mục tiêu quân sự của Nga.
Tổng thống Zelenskiy cho biết hỏa tiễn Tomahawk do Mỹ sản xuất sẽ giúp Ukraine cân bằng thế trận.
Tổng thống Trump đã không bật đèn xanh cho việc sử dụng Tomahawk ở Kyiv trong cuộc họp ngày 17 tháng 10, điều mà Tổng thống Zelenskiy gọi là “sự thất vọng”.
“Thật tốt khi Tổng thống Trump không nói “không” - nhưng hôm nay ông ấy lại không nói “có”“, Tổng thống Zelenskiy nói. Ông nói thêm rằng ông “kỳ vọng vào việc tiếp tục cuộc đối thoại này” với Tổng thống Trump.
Tổng thống Trump dự kiến sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh song phương với Putin tại Budapest trong những tuần tới. Tổng thống Zelenskiy chưa được mời tham gia các cuộc đàm phán. Phát biểu với NBC, Tổng thống Zelenskiy cho biết ông “sẵn sàng” cho bất kỳ hình thức đàm phán hòa bình nào với Putin và Tổng thống Trump.
[Kyiv Independent: Ukraine should give no unoccupied lands to 'terrorist' Putin, Zelensky tells NBC]
6. “Những thiên thần” đã liều lĩnh đưa họ về nhà — Những người lính Ukraine trốn thoát khỏi cảnh lao động cưỡng bức của Nga ở Luhansk bị tạm chiếm
Đơn vị tình báo đặc biệt của Hải quân Ukraine “Angels” đã báo cáo rằng họ đã đưa một chiến binh 29 tuổi và một binh sĩ Vệ binh Quốc gia 34 tuổi trở về nhà thành công dưới sự điều phối của thanh tra quân sự. Họ không thể tự mình trốn thoát do bị lực lượng Nga kiểm soát chặt chẽ.
Tính đến năm 2024, theo Interfax, Nga ước tính đang giam giữ khoảng 8.000 binh sĩ Ukraine. Ngoài ra, khoảng 60.000 người Ukraine được coi là mất tích, nhiều người trong số họ có thể đang bị giam giữ trong các nhà tù Nga.
Cả hai đều được coi là mất tích trong hơn ba năm nhưng thực tế đã bị giam cầm và lao động cưỡng bức cho quân xâm lược Nga ở các vùng lãnh thổ tạm thời bị tạm chiếm.
Một hoạt động như vậy chứng tỏ rằng Ukraine tiến hành các hoạt động đặc biệt có rủi ro cao ngoài các cuộc trao đổi chính thức, giải cứu những người lính đã bị giam cầm trong nhiều năm và phải chịu đau khổ.
Mẹ của cựu chiến binh, cũng đang phục vụ trong Quân đội, đã liên hệ với Thanh tra Quân đội sau khi biết con trai mình bị tra tấn dã man ở Luhansk bị tạm chiếm. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng một binh sĩ Vệ binh Quốc gia cũng đang bị giam giữ gần đó trong điều kiện tương tự.
“Chúng tôi đã trao trả binh sĩ Vệ binh Quốc gia và chiến binh sau khi gia đình họ yêu cầu giúp đỡ. Họ không thể tự mình trốn thoát do bị các cơ quan đặc nhiệm của đối phương kiểm soát chặt chẽ”, Thanh tra Quân sự Olha Reshetylova cho biết.
Sĩ quan đơn vị Artem Dyblenko giải thích rằng đơn vị “Thiên thần” đã nhanh chóng xác định được vị trí của cả hai người lính và lập ra một chiến dịch di tản phức tạp.
“Đó là một nhiệm vụ khó khăn và rủi ro cao, về cơ bản là hai hoạt động song song—các binh sĩ được rút lui riêng biệt. Họ không biết kế hoạch và hoàn toàn tin tưởng chúng tôi”, Dyblenko nói thêm.
Chuẩn tướng Valentyn Ostrizhnyi nhấn mạnh rằng những nỗ lực phối hợp của các cơ quan đặc biệt Ukraine không chỉ cho phép giải cứu tù nhân chiến tranh mà còn cả những người dân từ các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm.
“Câu chuyện này nên được đưa vào sách giáo khoa lịch sử hiện đại của chúng ta. Bất chấp những rủi ro và nguy hiểm, tính chuyên nghiệp của lực lượng đặc nhiệm chúng ta vẫn có thể cứu người thông qua những nỗ lực chung”, Ostrizhnyi nói.
Trước đó, Ukraine đã giải cứu cho hơn 200 quân nhân và thường dân khỏi nơi giam giữ của Nga, bao gồm cả binh lính từ Mariupol và các tỉnh khác, nhiều người trong số họ đã bị giam giữ từ năm 2022.
Người trẻ nhất được giải thoát là 26 tuổi, và người lớn tuổi nhất là 59 tuổi.
[Europe Maidan: “Angels” risked everything to bring them home — Ukrainian soldiers escape from Russian forced labor in occupied Luhansk]
7. Nga mở cuộc tấn công ồ ạt vào mỏ than Ukraine, gần 200 thợ mỏ phải di tản
Công ty năng lượng DTEK của Ukraine đưa tin, Nga đã phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào một mỏ than ở tỉnh Dnipropetrovsk vào ngày 19 tháng 10, khiến 192 công nhân bị mắc kẹt dưới lòng đất.
Công ty cho biết cuộc tấn công này đánh dấu vụ tấn công quy mô lớn thứ tư vào các doanh nghiệp khai thác than của DTEK trong vòng hai tháng qua.
DTEK cho biết vào thời điểm xảy ra cuộc tấn công, có 192 thợ mỏ đang làm việc dưới lòng đất tại doanh nghiệp. Một cuộc di tản đã được thực hiện để đưa công nhân lên mặt đất.
Sau đó, công ty thông báo rằng tất cả 192 nhân viên đã được đưa trở lại mặt đất an toàn. Không có thợ mỏ nào bị thương.
DTEK là công ty năng lượng tư nhân lớn nhất Ukraine. Các cơ sở của công ty đã bị tấn công nhiều lần bởi Nga, khiến hoạt động sản xuất bị gián đoạn và nguồn cung cấp nhiệt sưởi ấm dân dụng bị gián đoạn.
Nga đã tăng cường các cuộc tấn công vào hệ thống năng lượng của Ukraine khi bước vào mùa lạnh, gây ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng quan trọng và khiến hàng trăm ngàn gia cư mất điện. Người dân Ukraine đang chuẩn bị cho một mùa đông mất điện nữa khi Nga muốn áp đặt điều mà Tổng thống Volodymyr Zelenskiy mô tả là “thảm họa năng lượng” trên toàn quốc.
[Kyiv Independent: Russia launches mass attack on Ukrainian coal mine, nearly 200 miners evacuated]
8. Chuyến thăm sắp tới của Putin khiến Liên Hiệp Âu Châu và Kyiv tức giận. Budapest ư? Hãy thử đến The Hague xem sao.
Một trong những nhà ngoại giao hàng đầu Âu Châu cảnh báo rằng nên ngăn chặn nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin tham gia vào các cuộc đàm phán quan trọng nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump chào đón Hung Gia Lợi là quốc gia chủ nhà.
Trước cuộc họp của các nước thành viên Liên Hiệp Âu Châu tại Luxembourg vào thứ Hai, Ngoại trưởng Lithuania Kęstutis Budrys đã chỉ trích kế hoạch tổ chức các cuộc đàm phán tại Hung Gia Lợi, đánh dấu chuyến đi đầu tiên của Putin tới một quốc gia Liên Hiệp Âu Châu kể từ khi ông phát động cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022. “Tôi không thể tưởng tượng được việc ông ta băng qua không phận của chúng ta”, Budrys nói.
“Không có chỗ cho tội phạm chiến tranh ở Âu Châu”, ông nói. “Nơi duy nhất dành cho Putin ở Âu Châu là ở The Hague, trước tòa án, chứ không phải ở bất kỳ thủ đô nào của chúng ta.”
Khi được hỏi liệu việc từ chối ủng hộ hội nghị thượng đỉnh tiềm năng do Tòa Bạch Ốc làm trung gian có khiến Tổng thống Trump tức giận hay không, Budrys chỉ nói rằng “vẫn còn nhiều cách khác nếu ông ấy muốn đạt được điều đó, nhưng tôi cũng sẽ tìm kiếm các phương án thay thế.”
Vào Chúa Nhật, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy phát biểu với các phóng viên rằng mặc dù Kyiv “sẵn sàng cho một cuộc họp ở bất kỳ hình thức nào có hiệu quả”, nhưng ông “không coi Budapest là địa điểm tốt nhất cho một cuộc họp như vậy”.
Nhắc đến nhà lãnh đạo Hung Gia Lợi Viktor Orbán, Tổng thống Zelenskiy nói: “Tôi không tin rằng một thủ tướng cản trở Ukraine ở mọi nơi có thể làm được điều gì tích cực cho người dân Ukraine.”
Orbán đã cẩn thận vun đắp mối quan hệ với cả Putin và Tổng thống Trump, và đã nhiệt tình ủng hộ kế hoạch để đất nước mình đăng cai hội nghị thượng đỉnh. Tổng thống Zelenskiy cho biết “có rất nhiều lựa chọn xứng đáng khác” cho địa điểm tổ chức, bao gồm Thụy Sĩ, Áo, Vatican, Ả Rập Xê Út, Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ.
Hôm thứ Hai, nhà lãnh đạo bộ phận đối ngoại của Liên Hiệp Âu Châu, Kaja Kallas, cho biết kế hoạch đưa Putin - người đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã về tội ác chiến tranh - đến Budapest là “không dễ chịu chút nào”.
Tuy nhiên, bà tiếp tục, “Mỹ có rất nhiều sức mạnh để gây áp lực buộc Nga phải ngồi vào bàn đàm phán; nếu họ sử dụng sức mạnh đó, [thì] tất nhiên, điều này là tốt.”
Ngoại trưởng Pháp Jean-Noël Barrot cho biết thêm rằng các cuộc đàm phán có thể có ý nghĩa, nhưng chỉ khi chúng dẫn đến “lệnh ngừng bắn ngay lập tức”.
Ủy ban Âu Châu đã ám chỉ rằng các hạn chế về không phận ngăn cản các nhà ngoại giao Nga đi đến nhiều nơi trong lục địa này có thể được nới lỏng để cho phép Putin tham gia các cuộc đàm phán.
POLITICO đưa tin hôm thứ Hai rằng Tổng thống Trump đã nói với Tổng thống Zelenskiy rằng ông sẽ “cố gắng chấm dứt [cuộc chiến] này theo đường ranh giới” liên lạc quân sự hiện tại, thay vì thúc ép Kyiv từ bỏ lãnh thổ ở Donbas mà lực lượng của Mạc Tư Khoa không thể chinh phục trên chiến trường.
[Politico: Putin’s looming visit riles EU and Kyiv. Budapest? Try The Hague instead.]
9. Lộ trình quốc phòng của Liên Hiệp Âu Châu được công bố
Trước mối đe dọa từ Nga, Liên minh Âu Châu đang thực hiện các bước để cải thiện tình hình an ninh: Lộ trình Sẵn sàng Quốc phòng 2030, một kế hoạch chi tiết nhằm phối hợp các biện pháp như phòng không, máy bay điều khiển từ xa và khả năng cơ động quân sự giữa các quốc gia thành viên, đã được công bố tại Brussels hôm thứ Năm. Theo Đại diện Đối ngoại Kaja Kallas, kế hoạch này sẽ được điều động với sự hợp tác chặt chẽ với NATO. Vấn đề này hiện đang có nhiều ý kiến trái chiều.
Cuối cùng, một kế hoạch phù hợp, TVNet của Latvia hoan nghênh dự án:
Định hướng chung đã rõ ràng: Âu Châu đang hướng tới một sự hội nhập quân sự chặt chẽ hơn, điều cho đến nay vẫn bị cản trở bởi những nhận thức khác nhau về những gì gây ra mối đe dọa, lợi ích nội địa và chắc chắn là sự ngờ vực lẫn nhau. Lần đầu tiên, lộ trình này đưa ra những thời hạn cụ thể, cơ chế ngân sách và sự phân công lao động có thể biến những ý tưởng lâu đời thành hiện thực. Lộ trình sẽ được trình lên Hội đồng Âu Châu để phê duyệt vào tuần tới, nhưng Brussels đã nói về một bước ngoặt trong chính sách an ninh Âu Châu - một động thái có thể biến Liên Hiệp Âu Châu thành một thế lực địa chính trị mạnh mẽ hơn, thực sự thống nhất, chứ không chỉ là một khối kinh tế.
Tuyên ngôn Il Manifesto của Ý chỉ trích việc quân sự hóa Liên Hiệp Âu Châu:
Không chỉ là một bóng ma ám ảnh Âu Châu, mà là một thế lực khổng lồ đang thế chấp tương lai của nó. Đó là sự quân sự hóa các cuộc tranh luận chính trị và nền kinh tế. Điều này giờ đây đang bắt đầu quyết định các quyết định dài hạn, được chuẩn bị và làm cho “hiển nhiên” bằng những luận điệu mạnh mẽ biến nỗi sợ hãi thành sự đồng thuận, và biến ngành công nghiệp quốc phòng thành tương lai không thể tránh khỏi.... Đây là một quyết định chính trị tàn bạo và nguy hiểm, gây tổn hại đến người dân Âu Châu. Chúng ta đang đối mặt với một cuộc tái vũ trang được lên kế hoạch một cách có hệ thống, chứ không chỉ là một giai đoạn tạm thời được đặc trưng bởi sự gia tăng chi tiêu quân sự.
[Kyiv Post: EU Defense Roadmap Unveiled]
10. Tổng thống Zelenskiy tuyên bố Mỹ ‘sẵn sàng’ thay thế nguồn cung cấp dầu khí của Nga cho Âu Châu
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy tuyên bố trong bài phát biểu tối ngày 19 tháng 10 rằng Hoa Kỳ sẵn sàng cung cấp cho các nước Âu Châu “nhiều khí đốt và dầu mỏ tùy theo nhu cầu” để thay thế sự phụ thuộc của Âu Châu vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ Nga.
Tổng thống Zelenskiy cho biết: “Sẽ không có nguồn năng lượng nào của Nga ở Âu Châu, và tín hiệu từ Mỹ hiện rất rõ ràng - họ sẵn sàng cung cấp cho Âu Châu lượng khí đốt và dầu cần thiết để thay thế nguồn cung cấp của Nga”.
Bình luận của Tổng thống Zelenskiy được đưa ra trong bối cảnh các đồng minh Âu Châu, trong những tháng gần đây, bắt đầu thúc đẩy các biện pháp nghiêm ngặt hơn đối với ngành năng lượng của Nga, đặc biệt là sau khi cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tuyên bố vào ngày 13 tháng 9 rằng Washington sẽ áp đặt lệnh trừng phạt đối với Nga nếu tất cả các thành viên NATO ngừng nhập khẩu dầu của Nga.
Trong khi cả Tổng thống Trump và Tòa Bạch Ốc đều không công khai bình luận về bất kỳ chi tiết nào liên quan đến việc cung cấp thêm dầu và khí đốt cho Âu Châu, tổng thống Hoa Kỳ đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Âu Châu bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9 nhằm cố gắng thuyết phục họ ngừng mua dầu và khí đốt của Nga.
Vào ngày 8 tháng 10, các đại sứ Liên Hiệp Âu Châu đã đồng ý về kế hoạch loại bỏ dần khí đốt và dầu mỏ của Nga vào năm 2028, bất chấp sự phản đối của Hung Gia Lợi và Slovakia, những nước vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ Nga. Dự thảo luật ban đầu dự kiến sẽ được đưa ra bỏ phiếu trong cuộc họp dự kiến diễn ra vào ngày 20 tháng 10.
Tổng thống Zelenskiy cho biết: “Trong khu vực của chúng tôi có cơ sở hạ tầng cần thiết, có tiềm năng cần thiết có thể giúp Âu Châu độc lập hơn nhiều về năng lượng”, đồng thời nói thêm rằng Kyiv đã đưa ra đề xuất với Hoa Kỳ về việc phát triển cơ sở hạ tầng khí đốt, sản xuất điện hạt nhân và các “dự án” khác.
Tổng thống Zelenskiy không đưa ra thông tin cụ thể về các dự án được đề xuất và chính quyền Tổng thống Trump cũng không chia sẻ bất kỳ thông tin chi tiết nào về các cuộc trò chuyện đang được tổ chức.
Những bình luận từ tổng thống Ukraine được đưa ra chỉ vài ngày sau cuộc gặp thứ sáu của Tổng thống Zelenskiy với Tổng thống Trump tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 17 tháng 10.
Slovakia và Hung Gia Lợi trước đây đã tuyên bố họ sẽ không khuất phục trước áp lực từ Tổng thống Trump nhằm giảm lượng dầu và khí đốt nhập khẩu từ Nga trừ khi Liên minh Âu Châu bảo đảm được nguồn cung cấp năng lượng thay thế đầy đủ.
[Kyiv Independent: US 'ready' to replace Russian oil, gas supplies to Europe, Zelensky claims]
11. Con quái vật chống máy bay điều khiển từ xa này đã chết nhanh chóng gần Pokrovsk—nhưng kế hoạch của Nga vẫn đang hiệu quả
Khi Lữ đoàn súng trường cơ giới số 5 của quân đội Nga điều động 18 xe thiết giáp - một xe tăng Porcupine và 17 xe chiến đấu bộ binh - về phía thành phố pháo đài Pokrovsk ở miền đông Ukraine vào hôm Chúa Nhật, 19 Tháng Mười, họ đã mang theo ít nhất một xe chiến đấu bộ binh rất kỳ lạ.
Mặc dù kỳ lạ và xấu xí, nhưng phương tiện này vẫn là một phần của phương pháp tiếp cận có hiệu quả.
Đúng vậy, quân Nga đang mất rất nhiều quân và xe cộ trong làn sóng tấn công cơ giới mới nhắm vào các vị trí của Ukraine xung quanh Pokrovsk, một trong những cứ điểm đô thị cuối cùng giữa nhiều đội quân dã chiến của Nga và hai thành phố Kramatorsk và Sloviansk.
Máy bay điều khiển từ xa và pháo binh từ Lữ đoàn Dù 79 của Ukraine đã phá hủy xe tăng của Lữ đoàn Súng trường Cơ giới số 5 và 12 xe chiến đấu bộ binh tấn công ngay phía đông Myrnohrad, tiêu diệt “khoảng một trăm quân xâm lược. Tàn quân đối phương đã rút lui, chịu tổn thất đáng kể.”
Việc điều động xe tăng và xe chiến đấu bộ binh, gọi tắt là IFV với số lượng lớn lần đầu tiên sau nhiều tháng - thay vì dựa vào bộ binh và xe hơi - khiến Nga có nguy cơ tiêu hao lực lượng xe thiết giáp dự trữ lớn cuối cùng của mình. Tuy nhiên, họ cũng có thể tiến quân theo nhiều hướng ở miền Đông Ukraine.
Đó là vì các phương tiện này có thể chở bộ binh qua vùng đất rộng lớn do máy bay điều khiển từ xa tuần tra, an toàn đưa ít nhất một số quân đến các vị trí mới trước khi máy bay điều khiển từ xa của Ukraine áp đảo các phương tiện này và nhiều bộ binh—nhưng đôi khi không phải tất cả.
Chỉ cần một vài bộ binh Nga ẩn núp trong một chiến hào đã chiếm được hoặc tầng hầm của một tòa nhà đổ nát là người Nga có khả năng thành công.
Jack Watling và Nick Reynolds đã viết trong một nghiên cứu vào tháng 2 cho Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia ở Luân Đôn rằng: “Quân đội Nga tiến vào nơi ẩn náu thường ẩn mình và chờ đợi các đợt tấn công tiếp theo cho đến khi một lực lượng quân đội đủ lớn đã vào vị trí phòng thủ, lúc đó họ sẽ lao đến bên phòng tuyến của Ukraine”.
Người điều khiển máy bay điều khiển từ xa người Ukraine Kriegsforscher lưu ý rằng các cuộc tấn công bằng xe cộ “chắc chắn đang diễn ra nhanh hơn về mặt tiến công và chiếm giữ lãnh thổ” khi ông và các người điều khiển khác thực hiện nhiều phi vụ để tiêu diệt các phương tiện của Nga đang tiến đến.
Hiện vẫn chưa rõ chính xác chiếc xe thiết giáp của Lữ đoàn Súng trường Cơ giới số 5 là gì. Một máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất của Ukraine đã chụp được hình ảnh chiếc xe kỳ lạ này ngay trước khi đâm vào nó. Các nhà phân tích đã xem xét kỹ lưỡng hình ảnh trong một nỗ lực vô ích nhằm xác định chiếc xe với lớp giáp chống máy bay điều khiển từ xa bổ sung.
“Nó thực sự không phải là xe thiết giáp chở quân, nhưng cũng không phải là xe tăng”, nhà phân tích Moklasen kết luận. “Nó là một thứ gì đó dựa trên khung gầm xe tăng T-55.”
Chiếc T-55, như bạn có thể nhớ, đã 70 năm tuổi: khó có thể được coi là hiện đại. Có lẽ chiếc xe bí ẩn này được chế tạo dựa trên thân xe BTS-4 hoặc xe công binh IMR-1. Cũng có thể nó là một “bản tùy chỉnh”.
Những bản tùy chỉnh này đã trở nên phổ biến hơn nhiều ở cả hai phía trong cuộc chiến tranh rộng lớn hơn của Nga với Ukraine khi sự tiêu hao ngày càng tăng và lượng xe thiết giáp chuyên dụng cạn kiệt.
Điều đó chẳng quan trọng. Bất kỳ sự bảo vệ nào khỏi máy bay điều khiển từ xa, dù thô sơ đến đâu, vẫn tốt hơn là không có gì bảo vệ—và nó có thể giúp quân đội Nga chiếm thêm vài km đất Ukraine mỗi ngày.
[Europe Maidan: This anti-drone monster died fast near Pokrovsk—but Russia’s plan is working anyway]
1. Tổng thống Trump nói với Tổng thống Zelenskiy rằng ông sẽ cố gắng chấm dứt chiến tranh ‘trên đường ranh giới hiện tại’ trong cuộc họp khó khăn tại Tòa Bạch Ốc
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã quay lại thảo luận về việc Kyiv nhượng bộ lãnh thổ cho Nga trong cuộc họp hôm thứ Sáu với người đồng cấp Ukraine Tổng thống Volodymyr Zelenskiy nhưng cuối cùng đã đồng ý “cố gắng chấm dứt vấn đề này theo đường lối hiện tại”, theo một người hiểu biết về vấn đề này.
Tổng thống Zelenskiy đã đến Tòa Bạch Ốc với hy vọng thuyết phục Tổng thống Trump đồng ý cung cấp cho Ukraine hỏa tiễn Tomahawk để chống lại cuộc xâm lược của Nga, nhưng đã ra về với tâm trạng không hài lòng với kết quả của hội nghị thượng đỉnh, theo một người thứ hai biết về cuộc họp và được giấu tên để thảo luận về vấn đề này.
Tổng thống Trump, người đã nói chuyện với Putin trong hai giờ vào thứ năm, phát biểu sau cuộc gặp với Tổng thống Zelenskiy vào thứ sáu: “Tôi nghĩ Tổng thống Putin muốn chấm dứt chiến tranh.”
Nhưng trong các cuộc đàm phán với Tổng thống Zelenskiy, theo người nắm rõ vấn đề được trích dẫn ở trên, “người Mỹ nói rằng Putin muốn tiếp tục chiến đấu và ông ấy có một cỗ máy chiến tranh mạnh mẽ”.
“Sau đó, [đặc phái viên Hoa Kỳ Steve] Witkoff tham gia cuộc trò chuyện và nói rằng người Nga có mục tiêu chiếm toàn bộ Donbas [khu vực ở miền đông Ukraine]… Và có một cảm giác trong phòng rằng người Mỹ đang thử thách người Ukraine và những gì họ [sẽ] đồng ý”, người này cho biết.
Việc từ bỏ vùng Donbas được phòng thủ vững chắc là điều không thể đối với Ukraine, vì họ lo ngại rằng làm như vậy sẽ mở đường cho Nga dễ dàng chiếm thêm lãnh thổ. Đây không phải lần đầu tiên chính quyền Tổng thống Trump đề xuất trao đổi đất đai có thể có lợi cho các mục tiêu chiến lược của Nga, mặc dù gần đây tổng thống Mỹ đã nói nhiều hơn về triển vọng của Kyiv trong cuộc chiến.
“Tổng thống Zelenskiy không đồng ý rằng Ukraine phải từ bỏ vùng đất mà Nga không xâm lược được. Cuối cùng, Tổng thống Trump kết thúc cuộc họp bằng câu nói: 'Được rồi, chúng ta hãy cố gắng chấm dứt tình hình theo đường ranh giới hiện tại'“, người được trích dẫn ở trên cho biết.
Sự cả tin dường như mới đây của tổng thống Hoa Kỳ liên quan đến quan điểm của Putin về cuộc chiến sẽ khiến các nhà lãnh đạo Âu Châu thất vọng, những người đang nỗ lực thuyết phục Tổng thống Trump rằng tuyên bố công khai của Nga về ý định chấm dứt cuộc xung đột mà họ khơi mào chỉ là trò hề.
Một người thứ hai am hiểu về các cuộc đàm phán chia sẻ với Brussels Playbook của POLITICO rằng: “Chỉ bằng một cuộc điện thoại, Putin dường như đã một lần nữa thay đổi được suy nghĩ của Tổng thống Trump về Ukraine”.
“Bốn ngày trước, chúng tôi còn thảo luận về hỏa tiễn Tomahawk; giờ đây, trọng tâm là việc Ukraine nhượng bộ về lãnh thổ,” họ nói thêm. “Âu Châu phải bảo đảm rằng sự thay đổi lập trường tiếp theo của Tổng thống Trump sẽ có lợi cho Ukraine.”
Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk là người đi đầu trong vấn đề này, nói hôm Chúa Nhật rằng: “Không ai trong chúng ta nên gây áp lực lên Tổng thống Zelenskiy về vấn đề nhượng bộ lãnh thổ. Tất cả chúng ta nên gây áp lực lên Nga để chấm dứt hành vi xâm lược của họ. Nhân nhượng chưa bao giờ là con đường dẫn đến một nền hòa bình công bằng và lâu dài.”
Thông điệp của ông được đưa ra ngay sau khi tờ Financial Times, trích dẫn một số nguồn tin, đưa tin rằng cuộc gặp giữa Tổng thống Zelenskiy và Tổng thống Trump đã có lúc trở thành một cuộc đấu khẩu gợi nhớ đến cuộc gặp gay gắt của họ vào tháng 2 tại Tòa Bạch Ốc, với việc Tổng thống Trump “liên tục chửi thề” và có lúc ném bản đồ tiền tuyến sang một bên và yêu cầu Tổng thống Zelenskiy giao toàn bộ khu vực Donbas cho Nga.
Người đầu tiên được trích dẫn ở trên, người quen thuộc với cuộc họp, nói với POLITICO rằng “Tổng thống Trump không vứt bỏ bất kỳ bản đồ chiến tranh nào. Ông ấy chỉ nói rằng ông ấy đã chán ngấy những bản đồ khác nhau.”
Một nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu phát biểu với Playbook rằng cuộc họp “không ảm đạm như những gì đã đưa tin”.
Hai chuyên gia chính sách đối ngoại của Đảng Cộng hòa am hiểu trực tiếp về cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc cho biết Tổng thống Trump không hề chửi thề. “Cuộc họp là một sự thất bại đối với người Ukraine chứ không phải là một thảm họa”, một người nói.
Người kia nói: “Đó không phải là một cuộc họp tồi, chỉ là nạn nhân của thời điểm không thích hợp và kỳ vọng quá cao.” Các đồng minh Cộng hòa của Ukraine đã thúc giục Tổng thống Zelenskiy hủy chuyến đi, lập luận rằng thời điểm không thích hợp vì Washington đang bận rộn với việc đóng cửa chính phủ và Tòa Bạch Ốc đang tập trung vào Trung Đông, họ nói thêm.
Nhóm của Tổng thống Zelenskiy cũng được khuyên không nên ưu tiên hỏa tiễn Tomahawk, đặc biệt là sau cuộc điện đàm giữa Tổng thống Trump và Putin một ngày trước cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc với tổng thống Ukraine.
Phát biểu với các phóng viên sau cuộc họp, Tổng thống Zelenskiy cho biết thông điệp của Tổng thống Trump có phần “lẫn lộn”. Khi được hỏi liệu ông có tự tin về việc có được hỏa tiễn Tomahawk hay không, ông trả lời với một nụ cười gượng gạo: “Tôi thực tế”, ông nói, đồng thời nói thêm rằng sự miễn cưỡng của Tổng thống Trump chỉ là lập trường của Hoa Kỳ “hiện tại”.
[Politico: Trump told Zelenskyy he’d try to end the war ‘on the current line’ in difficult White House meeting]
2. HUR tấn công hệ thống radar thế hệ mới của Nga ở Crimea bằng máy bay điều khiển từ xa tầm xa
Vào ngày 20 tháng 10, Tổng cục Tình báo Ukraine, gọi tắt là HUR đã công bố một đoạn video về cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào một trong những hệ thống radar chống UAV hàng đầu của Nga bảo vệ Crimea bị Nga tạm chiếm.
HUR xác định bối cảnh, được quay bằng công nghệ tầm nhìn nhiệt, là phi trường ở Jankoy. Video cho thấy những khoảnh khắc cuối cùng của máy bay điều khiển từ xa trước khi được tường trình bay vào cái mà họ gọi là “hệ thống định vị vô tuyến đắt đỏ trá hình kiểu Muscovite”.
“Quá trình phi quân sự hóa Crimea vẫn tiếp tục!” HUR viết.
[Kyiv Independent: HUR strikes next-gen Russian radar system in Crimea with long-range drones]
3. Quân đội Ukraine cho biết đơn vị ‘phá hoại’ của Nga sát hại dân thường ở Pokrovsk sau đó đã bị tiêu diệt
Một nhóm tấn công của Nga đã bắn chết một số thường dân không vũ trang bên trong thành phố Pokrovsk đang bị bao vây sau khi xâm nhập vào phía sau phòng tuyến của Ukraine, Quân đoàn 7 thuộc Lực lượng Dù Ukraine đưa tin vào ngày 20 tháng 10.
Tội ác chiến tranh bị cáo buộc tại điểm nóng tiền tuyến ở Tỉnh Donetsk ban đầu được báo cáo vào ngày 19 tháng 10 bởi tình nguyện viên người Ukraine Denys Khrystov, người di tản dân thường khỏi các thị trấn tiền tuyến và ghi lại công việc của mình trên mạng xã hội.
Theo Quân đoàn 7, những người lính Nga tham gia vào vụ nổ súng vào dân thường đã bị tiêu diệt khi đang ẩn náu trong tòa nhà nhà ga xe lửa, mặc dù tình hình vẫn còn “căng thẳng”.
[Kyiv Independent: Russian ‘sabotage’ unit that killed civilians in Pokrovsk later eliminated, Ukrainian military says]
4. Động thái không đúng lúc của Ukraine tại Washington
Tuần trước, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy hy vọng có thể tận dụng mối quan hệ nồng ấm với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump để bảo đảm nguồn cung cấp hỏa tiễn hành trình Tomahawk của Hoa Kỳ - loại vũ khí mà Kyiv tin rằng có thể thay đổi cục diện và giáng một đòn quyết định vào nền kinh tế chiến tranh của Điện Cẩm Linh.
Sau khi thành công trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza, chắc chắn Tổng thống Trump sẽ muốn trao cho Ukraine những gì họ cần để buộc Putin phải nghiêm chỉnh đàm phán.
Nhưng sự việc không diễn ra như vậy.
Cuộc gặp của Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc diễn ra hoàn toàn thân thiện — chính Tổng thống Trump đã dùng từ này để mô tả cuộc gặp gỡ giữa họ. Không hề có sự lạnh nhạt, và cũng không có sự quay trở lại của cuộc ẩu đả tai tiếng tại Phòng Bầu dục hồi tháng Hai năm ngoái. Tổng thống Zelenskiy đã rút ra bài học sâu sắc về điều đó và giờ đây hiểu rằng sự tôn trọng là điều bắt buộc khi tiếp cận Tổng thống Trump.
Tuy nhiên, cuộc họp đã không diễn ra suôn sẻ, chủ yếu là vì Ukraine quá vội vã.
“Đó không phải là một cuộc gặp tồi, chỉ là nạn nhân của việc chọn sai thời điểm và kỳ vọng quá mức”, một người trong ngành đối ngoại của Đảng Cộng hòa giấu tên chia sẻ thẳng thắn. Nhưng mọi chuyện đã có thể hiệu quả hơn nhiều nếu Tổng thống Zelenskiy điều chỉnh lại tư duy và sắp xếp lại chương trình nghị sự sau cuộc điện đàm dài dòng giữa Tổng thống Trump và Putin hôm trước.
Trong cuộc gọi kéo dài hai tiếng rưỡi đó, Tổng thống Trump đã trêu Putin về khả năng cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine: “Tôi thực sự đã nói, liệu ông có phiền nếu tôi cung cấp vài ngàn hỏa tiễn Tomahawk cho phe đối lập của ông không? Tôi đã nói thế rồi”, Tổng thống Mỹ nói với các phóng viên. “Ông ấy không thích ý tưởng này”. Và kết quả là một thỏa thuận gặp nhau tại một hội nghị thượng đỉnh khác — lần này là ở Budapest — với Tổng thống Trump một lần nữa dường như tin chắc rằng Putin có thể đã sẵn sàng chấm dứt chiến tranh.
Nhà lãnh đạo Ukraine không tin rằng “Putin đã sẵn sàng kết thúc cuộc chiến này”, như ông đã nói với chương trình “Meet the Press” của NBC trong một cuộc phỏng vấn hôm Chúa Nhật. Tuy nhiên, lời kêu gọi của Putin lẽ ra phải thúc đẩy Tổng thống Zelenskiy và đội ngũ của ông điều chỉnh lại, giảm bớt kỳ vọng và trên hết là hạ thấp nỗ lực thúc đẩy hỏa tiễn hành trình, theo nguồn tin nội bộ. “Không đời nào Tổng thống Trump lại đồng ý mua Tomahawk trước cuộc gặp với Putin ở Budapest.”
Nhưng Ukraine đã phớt lờ lời khuyên của những người bạn Cộng hòa ở Washington — nhiều người trong số họ hoài nghi Tổng thống Trump sẽ đồng ý cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine trong bất kỳ trường hợp nào, vì lo ngại leo thang và kéo Mỹ lún sâu hơn vào cuộc chiến. Đó là chưa kể đến những lo ngại của Ngũ Giác Đài về kho dự trữ hỏa tiễn của Mỹ, điều mà chính Tổng thống Trump đã đề cập với các phóng viên hôm thứ Sáu.
Việc không từ bỏ yêu cầu mua hỏa tiễn Tomahawk đã khiến Ukraine bỏ lỡ cơ hội tập trung vào một loạt các mặt hàng quan trọng khác — trong số đó, quan trọng nhất là hỏa tiễn không đối không cho máy bay chiến đấu F-16 và MiG, cũng như hỏa tiễn đánh chặn đất đối không cho hệ thống phòng không Patriot. Cả hai đều cần thiết để bắn hạ máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn đạn đạo, và Ukraine đang thiếu hụt trầm trọng những vũ khí này do các cuộc không kích kỷ lục mà Nga đang tiến hành.
Việc tập trung vào Tomahawk cũng làm sao lãng các vấn đề quan trọng khác, chẳng hạn như việc xin sự chấp thuận của Tổng thống Trump cho việc sử dụng tài sản có chủ quyền của Nga để tài trợ cho quốc phòng của Ukraine.
Về phần mình, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Scott Bessent ủng hộ đề xuất này. Hoa Kỳ chỉ nắm giữ 7 tỷ đô la tài sản của Nga, nhưng ba nước lớn của Liên Hiệp Âu Châu trong G7 — Đức, Pháp và Ý — muốn Nhật Bản và Mỹ tích cực tham gia, vì họ lo ngại rằng việc khai thác 140 tỷ euro tài sản của Nga tại Âu Châu có thể làm suy yếu uy tín toàn cầu của đồng euro. Nếu Washington và Tokyo thực hiện hành động tương tự, nỗi lo ngại của họ sẽ được xoa dịu.
Các cuộc thảo luận về việc Ukraine nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng, gọi tắt là LNG từ Mỹ cũng chỉ đạt được tiến triển hạn chế, do các cuộc không kích của Nga vào cơ sở hạ tầng khí đốt của Ukraine đã gia tăng cả về cường độ lẫn tần suất. Cho đến nay, công ty dầu khí nhà nước Naftogaz của Ukraine đã mua khoảng 0,5 tỷ mét khối LNG của Mỹ, nhưng sẽ cần nhiều hơn nữa nếu nước này muốn vượt qua mùa đông. Đầu tháng này, Bộ trưởng Năng lượng Ukraine Svitlana Hrynchuk cho biết Kyiv đang đặt mục tiêu tăng tổng lượng khí đốt nhập khẩu lên 30%.
Theo hướng này, Bộ trưởng Kinh tế Oleksii Sobolev tuần trước đã lưu ý rằng Ukraine đang “xem xét các cơ chế tài trợ cho việc mua khí đốt tự nhiên hóa lỏng, gọi tắt là LNG và thiết bị nén khí của Mỹ”. Tuy nhiên, theo một quan chức từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu, cơ quan tín dụng xuất khẩu của Mỹ, người yêu cầu giấu tên vì không được phép phát biểu với giới truyền thông, các cuộc thảo luận này hiện đang bế tắc vì Ukraine phản đối các điều khoản vay khá hạn chế được đưa ra. Và ngân hàng này chỉ có rất ít biện pháp pháp lý để sửa đổi các điều khoản.
Trên thực tế, phái đoàn lớn gồm các bộ trưởng và quan chức Ukraine - bao gồm Chánh văn phòng quyền lực của Tổng thống Zelenskiy là Andriy Yermak và Thủ tướng Yulia Svyrydenko - được cử tới Washington trước cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu đã thất bại trên mọi phương diện, không thể hoàn tất một số thỏa thuận quan trọng liên quan đến cả chính phủ Hoa Kỳ và khu vực tư nhân.
“Ý tưởng là sẽ có những việc lớn được chuẩn bị, bao gồm một số thỏa thuận với các công ty quốc phòng và năng lượng lớn của Mỹ, tất cả sẽ được ký kết trong cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc”, nguồn tin nội bộ của Đảng Cộng hòa cho biết. Nhưng cuối cùng, chẳng có gì được chuẩn bị sẵn sàng.
“Thật không may, không có thỏa thuận cụ thể nào được đưa ra trong suốt cả tuần”, một cố vấn chính sách đối ngoại khác của Đảng Cộng hòa đồng tình. Ông cũng cho biết việc tập trung sai lệch vào hỏa tiễn Tomahawk chỉ là một phần của vấn đề — vấn đề còn lại là thời điểm chuyến thăm của Tổng thống Zelenskiy và nỗ lực vận động hành lang chung của Ukraine tại Washington.
“Chúng tôi đã thúc giục họ trì hoãn”, ông nói. Việc Svyrydenko và các quan chức kinh tế có mặt tại Washington là rất quan trọng vì có các cuộc họp thường niên của IMF và Ngân hàng Thế giới, nhưng phần còn lại của nỗ lực vận động hành lang lẽ ra nên được hoãn lại khoảng một tuần. Và chắc chắn, lời đề nghị đổi công nghệ máy bay điều khiển từ xa Ukraine lấy hỏa tiễn Tomahawk của Tổng thống Zelenskiy là quá sớm.
Thứ nhất, chính quyền Tổng thống Trump vẫn còn rất tập trung vào Trung Đông. Thêm vào đó, với việc chính phủ đóng cửa và cuộc chiến đổ lỗi về ngân sách giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Ukraine không còn đủ sức.
Để bảo vệ họ, vị cố vấn nói thêm, Kyiv đang ngày càng lo ngại về việc Ukraine sẽ vượt qua mùa đông này như thế nào — có thể là mùa đông tồi tệ nhất của cuộc chiến cho đến nay. Tổng thống Zelenskiy đã ám chỉ điều này vào Chúa Nhật, nói với NBC rằng vì Nga không giành chiến thắng trên chiến trường, nên họ đang gia tăng các cuộc không kích vào cơ sở hạ tầng. “Ông ta đang sử dụng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa nhắm vào — ông ta muốn gây ra thảm họa — thảm họa năng lượng của chúng ta trong mùa đông này bằng cách tấn công chúng ta, mỗi ngày [bằng] 500 máy bay điều khiển từ xa của Iran và 20-30 hỏa tiễn”, ông nói.
Và cố vấn của đảng Cộng hòa đồng ý: “Có một mối nguy hiểm thực sự là Ukraine đang hướng tới một thảm họa năng lượng nếu các cuộc tấn công của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng vẫn tiếp diễn.”
[Politico: Ukraine’s poorly timed heave in Washington]
5. Tài liệu cho thấy Liên Hiệp Âu Châu tìm cách tăng cường quyền hạn để tiếp cận các tàu của hạm đội bóng tối Nga
Theo một tài liệu được chuẩn bị cho cuộc họp của các Ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu vào thứ Hai và được POLITICO xem, Liên Hiệp Âu Châu đang tìm cách tăng cường quyền hạn của khối này trong việc tiếp cận các tàu trong hạm đội ngầm của Nga để kiểm tra.
Vấn đề tàu chở dầu của Nga treo cờ khác nhau để trốn tránh lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Âu Châu có tác động sâu rộng đến khối này vì những tàu này không chỉ giúp thúc đẩy nền kinh tế thời chiến của Mạc Tư Khoa mà còn “gây ra mối đe dọa đối với môi trường và an toàn hàng hải”, theo tài liệu dài năm trang do Cơ quan Hành động Đối ngoại Âu Châu, cơ quan ngoại giao của Liên Hiệp Âu Châu, chuẩn bị.
Tài liệu nêu rõ các tàu chiến của hạm đội ngầm này cũng là mối đe dọa đối với cơ sở hạ tầng quan trọng và “có thể được sử dụng làm nền tảng cho các cuộc tấn công hỗn hợp nhằm vào lãnh thổ Liên Hiệp Âu Châu”. Trong một số trường hợp, các tàu này bị nghi ngờ là bệ phóng cho máy bay điều khiển từ xa của Nga, được sử dụng để do thám các địa điểm quan trọng của phương Tây và phá hoại các phi trường dân sự.
Theo tài liệu của EEAS, tháng này, EEAS đã khởi xướng một cuộc thảo luận ở cấp độ kỹ thuật dựa trên dự thảo tuyên bố của Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia thành viên về việc củng cố khuôn khổ Luật Biển Quốc tế. Nỗ lực này “sẽ cung cấp thêm một công cụ cho các quốc gia thành viên để tăng cường hiệu quả của các hành động thực thi, bao gồm cả việc cung cấp cơ sở để lên tàu của các hạm đội ngầm”, tài liệu cho biết.
Bản dự thảo tuyên bố đề xuất “các thỏa thuận song phương có thể có giữa các quốc gia treo cờ và Liên Hiệp Âu Châu về việc cho phép lên tàu để kiểm tra trước”, EEAS viết trong tài liệu.
Mục tiêu là hoàn thiện dự thảo tuyên bố vào cuối tháng 11 và thông qua tại cuộc họp tiếp theo của các Ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu.
Theo tài liệu, sau khi tuyên bố được các quốc gia thành viên ủng hộ, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên Hiệp Âu Châu Kaja Kallas sẽ “tìm kiếm sự cho phép của Hội đồng để mở các cuộc đàm phán về các thỏa thuận song phương với các quốc gia có cờ đã được xác định”.
Theo tài liệu, các quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu “ngày càng thể hiện động lực mới cho các hành động thực thi mạnh mẽ hơn nhằm giải quyết hạm đội ngầm”, trong đó nêu ví dụ về những binh lính Pháp đã lên tàu chở dầu Boracay vào đầu tháng, được tường trình một phần của hạm đội ngầm của Nga, đang ở ngoài khơi Đan Mạch khi các máy bay điều khiển từ xa không xác định buộc phải đóng cửa tạm thời một số phi trường và cũng neo đậu ngoài khơi miền tây nước Pháp trong vài ngày.
Tài liệu nêu rõ: “Liên Hiệp Âu Châu “có thể hỗ trợ các quốc gia thành viên trong nỗ lực của họ nếu họ đồng ý cấp cho Liên Hiệp Âu Châu quyền đàm phán các thỏa thuận thay mặt họ về việc lên tàu được ủy quyền trước để kiểm tra”.
Theo tài liệu của EEAS, Liên Hiệp Âu Châu hiện đang tiếp cận các quốc gia có tàu treo cờ và các quốc gia ven biển ưu tiên cung cấp hoặc cho phép hỗ trợ hậu cần và dịch vụ tiếp nhiên liệu cho đội tàu ngầm và trong số các hành động khác, Liên Hiệp Âu Châu cũng “nhằm mục tiêu huy động nhiều công cụ khác nhau để cung cấp hỗ trợ và khuyến khích các quốc gia có tàu treo cờ hủy ghi danh các tàu bị trừng phạt”.
Panama, cơ quan ghi danh tàu lớn nhất, “đã đồng ý hủy ghi danh các tàu bị Liên Hiệp Âu Châu trừng phạt và gần đây đã quyết định ngừng ghi danh các tàu có tuổi đời trên 15 năm”, EEAS cho biết trong tài liệu.
Về các lệnh trừng phạt tiếp theo, tài liệu nêu rõ Liên Hiệp Âu Châu “sẽ tiếp tục đề xuất thêm danh sách các tàu thuyền và các nhà điều hành hệ sinh thái đội tàu ngầm như công ty bảo hiểm và cơ quan ghi danh cờ”, dựa trên các biện pháp đã được áp dụng trong các gói trừng phạt hiện tại.
Và “các biện pháp bổ sung có thể bao gồm việc tấn công cung cấp hỗ trợ hậu cần cho các tàu của hạm đội bóng tối, chẳng hạn như tiếp nhiên liệu dầu”, tài liệu cho biết.
[Politico: EU seeks to boost powers to board Russian shadow fleet vessels, document shows]
6. Tại sao Nga muốn Donbas? Những điều cần biết về khu vực mà Ukraine đang bị ép phải từ bỏ
Putin một lần nữa đang cố gắng giành lại những gì ông đã không thể giành được bằng vũ lực thông qua kênh chính trị.
Theo tờ Financial Times, gọi tắt là FT, Putin một lần nữa đang cố gắng dụ dỗ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump gây áp lực buộc Ukraine phải giao nộp khu vực Donbas phía đông - một vùng lãnh thổ mà Mạc Tư Khoa đã chiến đấu để xâm lược trong hơn một thập niên.
Tờ báo đưa tin rằng trong cuộc gặp gần đây nhất, Tổng thống Trump đã thúc giục Tổng thống Volodymyr Zelenskiy trao cho Putin toàn bộ Donbas, một khu vực bao gồm hai vùng của Ukraine - Donetsk và Luhansk - bao gồm cả những khu vực vẫn do Ukraine kiểm soát.
Đặc phái viên Hoa Kỳ Steve Witkoff, người trung gian chính của Tổng thống Trump với Điện Cẩm Linh, được tường trình đã nói với phái đoàn Ukraine rằng Donbas nên được đầu hàng vì nơi đây “chủ yếu nói tiếng Nga” - lặp lại một trong những câu tuyên truyền lâu đời nhất của Điện Cẩm Linh.
Vậy Donbas là gì? Và tại sao Nga lại ám ảnh về nó đến vậy?
Donbas ở đâu?
Donbas là một khu vực lịch sử ở miền đông Ukraine. Thuật ngữ “Donbas” là viết tắt của “Vũng than Donets”, được đặt theo tên con sông Siverskyi Donets chảy qua khu vực này.
Từ này đã được sử dụng từ thế kỷ 19 và không chỉ dùng để chỉ các tỉnh Donetsk và Luhansk hiện đại mà còn dùng để chỉ một số vùng của tỉnh Dnipropetrovsk thuộc Ukraine và thậm chí cả các vùng ở miền nam nước Nga, nơi có sông Siverskyi Donets chảy qua.
Khu vực này nổi tiếng nhất là trung tâm công nghiệp và khai thác than của Ukraine — một biểu tượng của ngành công nghiệp nặng của đất nước. Tuy nhiên, một số vùng của Donbas cũng là nông nghiệp, với những vùng đất nông nghiệp rộng lớn bao quanh các trung tâm công nghiệp.
Donetsk và Luhansk, hai tỉnh tạo nên trung tâm của Donbas, từ lâu đã là những trung tâm kinh tế mạnh mẽ dựa trên than, thép và máy móc.
7. Anh trao cho quân đội nhiều quyền hơn để bắn hạ máy bay điều khiển từ xa không xác định
Bộ trưởng Quốc phòng Anh sẽ công bố vào thứ Hai rằng quân đội Anh sẽ được trao thêm quyền hạn để bắn hạ các máy bay điều khiển từ xa đáng ngờ trên các địa điểm quân sự, trong bối cảnh xảy ra hàng loạt vụ xâm nhập trên không trên khắp Âu Châu.
Theo Bộ Quốc phòng, John Healey sẽ có bài phát biểu trước các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tại Mansion House vào thứ Hai để cảnh báo rằng nước Anh đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng tăng từ hoạt động máy bay điều khiển từ xa do nhà nước tài trợ.
“Vương quốc Anh không miễn nhiễm với những mối đe dọa này,” Healey sẽ nói, theo trích đoạn bài phát biểu được đăng tải trước đó. “Chúng tôi tiếp tục tự vệ hàng ngày trước những mối nguy hiểm từ đáy biển đến không gian mạng.”
“ Chúng tôi sẽ luôn làm những gì cần thiết để bảo đảm an toàn cho người dân Anh và ngay lúc này, chúng tôi đang phát triển các quyền hạn mới để bắn hạ các máy bay điều khiển từ xa không xác định trên các địa điểm quân sự của Anh.”
Bộ trưởng Quốc phòng sẽ nhấn mạnh việc Nga tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng quan trọng của Ukraine trước mùa đông, trong khi Ba Lan và Estonia cũng chứng kiến các vụ xâm nhập vào không phận của họ được tường trình do Mạc Tư Khoa thực hiện.
Các biện pháp này sẽ được đưa vào Dự luật Quân đội sắp tới của Vương quốc Anh.
Động thái này diễn ra sau một loạt động thái của Anh nhằm củng cố sườn phía đông của NATO, bao gồm việc ra lệnh tuần tra phòng không bằng máy bay phản lực Typhoon của Không quân Hoàng gia Anh trên không phận Ba Lan và điều động các chuyên gia chống máy bay điều khiển từ xa tới Đan Mạch sau khi phát hiện hoạt động trên không đáng ngờ trong không phận nước này.
Trong khi đó, Liên Hiệp Âu Châu đang theo đuổi kế hoạch do Ursula von der Leyen dẫn đầu về “bức tường máy bay điều khiển từ xa” để chống lại sự xâm nhập, bất chấp sự lo ngại của một số quốc gia thành viên.
[Politico: UK gives troops more power to shoot down unidentified drones]
8. Cuộc chiến của Nga bắt đầu ở Donbas
Cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine không bắt đầu vào năm 2022 mà là vào năm 2014 — với việc sáp nhập Crimea và cuộc xâm lược Donbas. Đó là lý do tại sao người Ukraine thường gọi năm 2022 là khởi đầu của giai đoạn toàn diện của một cuộc chiến đã diễn ra trong nhiều năm.
Ngay từ đầu, Mạc Tư Khoa đã cố gắng che giấu hành vi xâm lược của mình.
Trong khi khoe khoang về việc sáp nhập Crimea, nước này phủ nhận sự liên quan đến cuộc chiến ở Donbas, đồng thời đưa ra lời tường thuật sai sự thật rằng những “phần tử ly khai” địa phương chịu trách nhiệm về cuộc giao tranh.
Trên thực tế, không hề có phong trào ly khai thực sự nào cả. Các nước cộng hòa ủy nhiệm là sản phẩm của Điện Cẩm Linh — được trang bị vũ khí, tài trợ và chỉ đạo từ Mạc Tư Khoa như một phần của chiến dịch rộng lớn hơn nhằm gây bất ổn cho Ukraine.
Những người ly khai được Nga hậu thuẫn đã chiếm giữ tòa nhà hành chính chính của thành phố, với lá cờ của Cộng hòa Donetsk và lá cờ Nga tại Donetsk, Ukraine vào ngày 7 tháng 4 năm 2014.
Trong phần lớn lịch sử hiện đại của Ukraine, Donbas là động lực kinh tế của nước này.
Trước cuộc xâm lược của Nga, các tỉnh Donetsk và Luhansk là nơi có hàng trăm nhà máy luyện kim, than và hóa chất xuất khẩu ra toàn cầu.
Theo Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh có trụ sở tại Luân Đôn, khu vực này chiếm khoảng 15,7% GDP và 14,7% dân số của Ukraine trước năm 2014.
Chiến tranh Nga đã thay đổi mọi thứ. Hoạt động của nhiều doanh nghiệp này bị đình trệ khi các cuộc tấn công của Nga gây thiệt hại cho cơ sở công nghiệp, hàng triệu người dân địa phương phải chạy trốn khỏi chiến sự, và các cuộc phong tỏa giữa Ukraine và các vùng lãnh thổ bị Nga tạm chiếm đã làm tê liệt hoạt động thương mại.
Cuộc xâm lược cũng dẫn tới sự sụt giảm trong xuất khẩu quốc tế và đầu tư nước ngoài của Ukraine.
Từ năm 2014 đến năm 2021, trung tâm nghiên cứu này ước tính Ukraine đã mất 102 tỷ đô la do cuộc chiến ở Donbas - khoảng 8% GDP trước chiến tranh mỗi năm.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động, bất chấp việc tuyến đầu đã được mở rộng sau năm 2022.
Tuy nhiên, đầu năm nay, một mỏ than quan trọng ở Donbas đã buộc phải đóng cửa do Nga tiến vào khu vực này. Đây là mỏ than cốc cuối cùng còn hoạt động của Ukraine, gây ra một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế Ukraine.
Ngành thép Ukraine hướng ra nước ngoài sau khi mất mỏ than quan trọng Donbas
[Kyiv Independent: Why does Russia want Donbas? Things to know about the region Ukraine is being pressured to give up]
9. Thủ tướng Đức Merz từ chối hợp tác với phe cực hữu, cho biết AfD muốn “phá hủy” phe bảo thủ của ông
Thủ tướng Đức Friedrich Merz đã loại trừ khả năng hợp tác với đảng Sự lựa chọn thay thế cho nước Đức (AfD) sau cuộc tranh luận trong Liên minh Dân chủ Kitô Giáo của ông về khả năng hợp tác trong tương lai với lực lượng cực hữu đang nổi lên.
“Đảng này [AfD] đã tuyên bố ý định phá hoại CDU,” Merz, đồng thời là lãnh đạo CDU, phát biểu với các phóng viên tại Berlin hôm thứ Hai. “Chúng tôi chấp nhận thách thức này. Giờ đây, chúng tôi sẽ làm rõ lập trường của AfD về mặt nội dung. Chúng tôi sẽ tách biệt mình một cách rõ ràng và dứt khoát với họ. Và trên hết, điều quan trọng là chúng ta phải đối phó với điều này bằng một chính phủ thành công.”
Phe bảo thủ của Merz từ lâu đã chật vật tìm ra đường lối đúng đắn với AfD, đảng đã chứng kiến sự ủng hộ tăng vọt kể từ cuộc bầu cử tháng Hai của đất nước. Ngay trước thềm cuộc bỏ phiếu đó, Merz đã cố gắng thúc đẩy một dự luật nhập cư gây tranh cãi được phe cực hữu ủng hộ thông qua quốc hội Đức. Động thái này đã vấp phải sự chỉ trích nặng nề, kể cả từ chính hàng ngũ của ông.
Khi đó, Merz bảo vệ quan điểm của mình, nhưng cam kết duy trì bức tường lửa trong chính trường Đức, vốn được thiết lập để ngăn chặn sự hợp tác với phe cực hữu. Tuy nhiên, khi AfD ngày càng giành được nhiều sự ủng hộ, các thành viên trong phe bảo thủ của Merz - đặc biệt là từ các bang miền Đông nước Đức - đã lập luận rằng bức tường lửa không còn đủ để ngăn chặn sự trỗi dậy của phe cực hữu.
AfD hiện là đảng đối lập lớn nhất tại Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đảng cực hữu này đã thành công khi tự nhận mình là lực lượng chống nhập cư thực sự duy nhất ở Đức, pha trộn với luận điệu phản chiến, hoài nghi về sự ủng hộ liên tục của Đức dành cho Ukraine và nỗ lực của Berlin nhằm biến Bundeswehr thành quân đội mạnh nhất Âu Châu.
Bình luận của Merz được đưa ra trong bối cảnh diễn ra cuộc thảo luận vào tuần trước trong đảng trung hữu của ông về cách giải quyết AfD trước một loạt cuộc bầu cử cấp bang vào năm tới, bao gồm hai cuộc bầu cử ở các bang miền đông nước Đức, nơi AfD giành được khoảng 40% số phiếu, bỏ xa tất cả các đảng khác.
Merz phát biểu sau cuộc họp kéo dài bảy tiếng rưỡi với ban lãnh đạo đảng vào Chúa Nhật, tập trung vào việc phát triển chiến lược cho năm bầu cử sắp tới: “Chúng tôi muốn và có thể giành chiến thắng trong tất cả các cuộc bầu cử này, và chúng tôi có thể vẫn là lực lượng chính trị mạnh nhất ở Đức”.
Tổng thư ký đảng CDU, Carsten Linnemann, đã đưa ra phương án ba mũi nhọn để chống lại AfD.
Thứ nhất, sự hiện diện của CDU sẽ được tăng cường tại hai bang miền Đông nước Đức, nơi AfD đang dẫn đầu trong các cuộc thăm dò, nhằm đối phó với sự thống trị của đảng này ở cấp địa phương. Thứ hai, các ủy ban chuyên gia sẽ được thành lập để phát triển các ý tưởng định hình chương trình nghị sự chính trị, từ đó hướng đến mục tiêu thứ ba, đó là tạo dựng hình ảnh tích cực về CDU như một đảng luôn tìm kiếm giải pháp, trái ngược với AfD, vốn chỉ tập trung vào các vấn đề.
Suy nghĩ lại về tường lửa
Các lực lượng chính trị chính thống của Đức đã thiết lập Brandmauer, hay tường lửa, kể từ khi Thế chiến thứ II kết thúc để ngăn chặn sự hợp tác với các đảng cực hữu.
Kế hoạch của Merz hồi đầu năm nay nhằm chấp nhận sự ủng hộ của AfD để thông qua dự luật nhập cư là một phần trong nỗ lực trước bầu cử nhằm giành lại phiếu bầu của những cử tri đã chuyển sang cánh hữu. Chiến thuật này đã vấp phải sự chỉ trích nặng nề từ các đối thủ cánh tả của Merz, những người cáo buộc ông đã phá vỡ sự cô lập của nước Đức đối với cánh hữu sau chiến tranh và lãng quên những bài học lịch sử của đất nước.
Với tư cách là thủ tướng, Merz chỉ ra nhu cầu phân biệt rõ ràng đảng bảo thủ của ông với đảng AfD.
“Nhận thức của công chúng ngày càng củng cố rằng chúng ta có thể cùng nhau đạt được nhiều thành tựu to lớn nếu chúng ta thực sự muốn. Không, thưa quý vị, điều đó không đúng,” ông phát biểu hôm thứ Hai. “Đảng AfD đang đặt câu hỏi về những quyết định cơ bản mà Cộng hòa Liên bang Đức đã đưa ra kể từ năm 1949. Nó đang đặt câu hỏi về tất cả những quyết định cơ bản mà chính chúng ta đã góp phần định hình. Và đó là lý do tại sao bàn tay mà AfD cứ chìa ra, thực chất, là bàn tay muốn hủy diệt chúng ta.”
Tuy nhiên, ông nói thêm: “Cả tôi và Tổng thư ký đều không dùng từ “tường lửa”. Đó không phải là cách chúng ta đang nói chuyện.”
[Politico: Germany’s Merz rejects working with far right, says AfD wants to ‘destroy’ his conservatives]
10. Phó Thủ tướng cho biết nỗ lực gia nhập Liên Hiệp Âu Châu của Ukraine sẽ có bước đột phá vào tháng 12
Phó Thủ tướng Ukraine Taras Kachka phát biểu với tờ POLITICO rằng Ukraine dự kiến nỗ lực gia nhập Liên Hiệp Âu Châu của mình sẽ tiến triển trước cuối năm nay nhờ “các giải pháp sáng tạo” nhằm vượt qua sự phản đối của Hung Gia Lợi.
Ông cho biết các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu có thể ký vào việc mở tới sáu “nhóm” đàm phán - các bước pháp lý trên con đường trở thành thành viên của khối - vào tháng 12 khi “động lực chính trị” tăng lên và Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng để xóa bỏ quyền phủ quyết của mình.
Kachka cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Bạn có thể hoàn tất việc chuẩn bị mở cửa trở lại tất cả các cụm và nếu có động lực chính trị, thì tất cả các cụm có thể hoạt động trở lại vào cuối năm nay”.
Ông nói thêm: “Quan điểm của Hung Gia Lợi ngày càng trở nên vô lý.”
Nhà lãnh đạo Hung Gia Lợi đã đặt sự phản đối tư cách thành viên Liên Hiệp Âu Châu của Ukraine vào trọng tâm trong nỗ lực tái tranh cử vào năm tới, với lập luận rằng một thành viên mới lớn như vậy sẽ gây bất ổn cho khối.
Nhưng Kachka lập luận trong một lần dừng chân tại Brussels rằng sự phản đối “đau đớn” của Hung Gia Lợi đối với tư cách thành viên của Ukraine không phải là không thể vượt qua và giải pháp nhiều khả năng sẽ được tìm ra trong cuộc họp của các nhà lãnh đạo Âu Châu vào tháng 12.
“Tôi tin rằng các quốc gia thành viên sẽ tìm ra giải pháp vào tháng 12”, ông phát biểu sau khi chia sẻ ghi chú về các cải cách nội bộ của Ukraine với các đại diện quốc gia Liên Hiệp Âu Châu.
Kachka nói thêm rằng một cuộc gặp trực tiếp giữa Orbán và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy có thể giải quyết được vấn đề thành viên, mặc dù ông không thể nói “khi nào và ở đâu cuộc gặp sẽ diễn ra”.
Ukraine đã được bật đèn xanh chính trị để bắt đầu các cuộc đàm phán gia nhập vào năm 2023 và đã đàm phán trong nhiều tháng để gia nhập khối. Tuy nhiên, nếu không có sự chấp thuận hợp pháp từ tất cả 27 nước thành viên Liên Hiệp Âu Châu, Kyiv sẽ chưa chính thức bắt đầu quá trình gia nhập - một vấn đề ngày càng gây bức xúc cho hàng triệu người dân Ukraine.
“Điều khó giải thích trong xã hội [Ukraine] là chúng ta cần phải chờ đợi. … Chờ đợi không phải là một lựa chọn,” Kachka nói về nỗ lực xin gia nhập Liên Hiệp Âu Châu của Kyiv. “Chúng ta cần có một giải pháp ngay tại đây và ngay bây giờ. Điều này quan trọng đối với Ukraine cũng như Liên minh Âu Châu.”
Việc chính thức bật đèn xanh cho việc gia nhập Liên Hiệp Âu Châu sẽ đánh dấu một thắng lợi lớn cho Tổng thống Zelenskiy, người gần đây đã ra về tay trắng sau cuộc gặp với Tổng thống Donald Trump tại Washington. Tổng thống Trump đã bác bỏ những nỗ lực của Kyiv nhằm gia nhập NATO, trong khi Hung Gia Lợi là rào cản chính cho tư cách thành viên Liên Hiệp Âu Châu của nước này.
Kachka hoan nghênh sáng kiến của Chủ tịch Hội đồng Âu Châu Antonio Costa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Âu Châu, cho biết chính trị gia người Bồ Đào Nha này đã “ủng hộ mạnh mẽ” việc xóa bỏ các rào cản. “Antonio Costa thực sự rất mạnh mẽ trong trường hợp này. Và tôi rất mong chờ xem sáng kiến của ông ấy có thành công hay không”, Kachka nói.
Sáng kiến của Costa đã bị bác bỏ tại một cuộc họp không chính thức của các nhà lãnh đạo ở Copenhagen, nhưng các nước ủng hộ việc mở rộng đã đưa ra một đề xuất mới để vượt qua sự phản đối không chỉ từ Hung Gia Lợi mà còn từ các quốc gia hoài nghi khác như Bulgaria và Hy Lạp.
Theo đề xuất mới này, được POLITICO đưa tin lần đầu và hiện đang được nghiên cứu tại Brussels, các thành viên mới gia nhập Liên Hiệp Âu Châu sẽ không có quyền phủ quyết các quyết định chính sách của toàn khối. Điều này sẽ đồng nghĩa với việc chỉ là thành viên hạng hai trong khối, nhưng có thể xoa dịu nỗi lo sợ sâu sắc về việc chương trình nghị sự của Liên Hiệp Âu Châu bị các thành viên mới, có thể bao gồm Ukraine, Moldova và các nước Tây Balkan như Montenegro, nắm giữ.
Kachka không bình luận cụ thể về đề xuất mới nhưng ca ngợi những gì ông gọi là “giải pháp sáng tạo” để giải quyết sự phản đối từ Hung Gia Lợi và các chính phủ Liên Hiệp Âu Châu khác.
Ba Lan là một trong những quốc gia mà nỗi lo sợ bị tràn ngập nông sản giá rẻ từ Ukraine đã dẫn đến những lo ngại về tư cách thành viên của Kyiv, nhưng Warsaw không phải là trường hợp duy nhất. Mới đây, vào tháng 7, Thủ tướng Đức Friedrich Merz đã nói rằng ông không kỳ vọng Ukraine sẽ gia nhập Liên Hiệp Âu Châu sớm nhất là trước năm 2034.
“Tôi hiểu Ba Lan khá rõ,” Kachka nói. “Đó là lý do tại sao tôi hiểu rằng… nông dân là một yếu tố thiết yếu trong cấu trúc xã hội [của Ba Lan]. Tôi nghĩ rằng có những giải pháp để chúng ta có thể tinh chỉnh Chính sách Nông nghiệp Chung theo hướng cho phép nâng cao hiệu quả hơn trong hệ thống lương thực toàn Liên Hiệp Âu Châu,” ông nói.
Bất chấp áp lực từ các quốc gia ứng cử viên nhiệt thành và các quan chức cao cấp của Liên Hiệp Âu Châu, các nhà lãnh đạo Âu Châu dường như không vội vàng gỡ bỏ rào cản này. Bản dự thảo kết luận mới nhất của Hội đồng mà POLITICO thu thập được không hề đề cập đến việc mở rộng.
[Politico: Ukraine’s EU membership bid set for breakthrough in December, says deputy PM]
NewsUKMor22Oct2025
1. Đức Tổng Giám Mục Broglio than thở về việc hủy bỏ hợp đồng xây dựng nhà nguyện của Quân đội Hoa Kỳ
Đức Tổng Giám Mục phụ trách Quân đội Timothy Broglio bày tỏ lo ngại về việc Quân đội Hoa Kỳ hủy bỏ một số hợp đồng nhà nguyện, ngài cảnh báo rằng điều này “gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo”.
Trong một lá thư mục vụ cũng được gửi tới tất cả các thành viên của Quốc hội, Broglio viết rằng nhiều người trong Quân đội tham dự Thánh lễ và tham gia vào việc đào tạo đức tin có thể đã nhận thấy “các buổi lễ theo hợp đồng và văn phòng của nhà thầu tối om và không có nhạc trong Thánh lễ” bắt đầu từ ngày 5 tháng 10 năm 2025.
Ngài cho biết đây không phải là kết quả của việc chính phủ đóng cửa trong 16 ngày, mà là do quyết định của Bộ chỉ huy quản lý cơ sở quân đội Hoa Kỳ về việc hủy bỏ mọi hợp đồng nhà nguyện dành cho Điều phối viên giáo dục tôn giáo, gọi tắt là CRE, Điều phối viên đời sống mục vụ Công Giáo, gọi tắt là CPLC và hợp đồng âm nhạc trong quân đội.
Đức Cha Broglio viết rằng những hợp đồng dành cho nhạc sĩ, quản trị viên và nhà giáo dục tôn giáo này “phục vụ cho cộng đồng đức tin tại các nhà nguyện quân đội” và rất cần thiết để hỗ trợ các linh mục tuyên úy Công Giáo trong nhiệm vụ của họ.
Ngài nhấn mạnh rằng Tổng giáo phận quân đội “đặc biệt phụ thuộc vào các kỹ năng chuyên môn và đào tạo thần học của các CRE, những người dưới sự hướng dẫn của linh mục, giám sát các nhu cầu hàng ngày về giáo dục tôn giáo, phối hợp đào tạo chứng chỉ giáo lý viên cho hàng ngàn nam nữ tình nguyện làm giáo lý viên, và bảo đảm rằng các tài liệu phù hợp được chuẩn bị và mua sắm.”
Đức Tổng Giám Mục Broglio nhận định rằng: “Bằng việc hủy bỏ những hợp đồng này, Quân đội đã gây gánh nặng cho các giáo sĩ Công Giáo, gây tổn hại cho cộng đồng nhà nguyện và cản trở sự bảo đảm theo hiến pháp về quyền tự do thực hành tôn giáo, đặc biệt là đối với người Công Giáo”.
“Việc hủy bỏ hợp đồng nhà nguyện có vẻ như là một sự loại bỏ trung lập đối với việc hỗ trợ nhà nguyện, điều này tự nó ảnh hưởng đến quyền tự do thực hành tôn giáo của tất cả binh lính,” ngài nói. “Tuy nhiên, hành động này gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo, thứ nhất, vì mật độ tuyên úy Công Giáo vốn đã rất thấp và nhu cầu lại rất cao, và thứ hai, vì đức tin Công Giáo đòi hỏi việc giáo dục tôn giáo liên tục và chuẩn bị các bí tích, mà chỉ có thể đạt được thông qua sự hỗ trợ có năng lực.”
Đức Tổng Giám Mục Broglio trích dẫn một báo cáo của RAND cho biết, “Cứ 1.000 binh lính Tin lành thì có khoảng sáu tuyên úy Tin lành và cứ 1.000 binh lính Công Giáo thì có khoảng một tuyên úy Công Giáo.”
Source:Catholic News Agency
2. Bài Giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ tôn phong hiển thánh cho 7 vị
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa nhật, ngày 19 tháng Mười năm 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự của khoảng bảy mươi ngàn tín hữu, cùng với hơn bốn mươi Hồng Y, giám mục và sáu trăm linh mục đồng tế.
Ngoài ra, có sự hiện diện phái đoàn chính thức các nước có các vị thánh mới, trong đó có Tổng thống Sergio Mattarella và ông Fontana Chủ tịch Hạ viện Ý. Phái đoàn Tổng thống Liban và các phái đoàn chính thức.
Đây là lễ phong hiển thánh thứ hai Đức Thánh Cha Lêô chủ sự, sau lễ phong hai thánh trẻ Pier Giorgio Frassati và Carlo Acutis, hôm Chúa nhật ngày 07 tháng Chín vừa qua.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy bắt đầu bài suy niệm bằng câu hỏi kết thúc Tin Mừng vừa được công bố: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy đức tin trên mặt đất này nữa không?” (Lc 18:8). Câu hỏi này cho chúng ta thấy điều quý giá nhất trong mắt Chúa: đức tin, tức là mối dây liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Hôm nay, chúng ta có bảy chứng nhân, những vị Thánh mới, những người, nhờ ơn Chúa, đã giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng. Thật vậy, chính các ngài đã trở thành những ngọn đèn có khả năng lan tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.
Khi chúng ta chiêm ngưỡng những kho tàng vật chất, văn hóa, khoa học và nghệ thuật vĩ đại, đức tin tỏa sáng không phải vì những của cải này bị đánh giá thấp, mà vì nếu không có đức tin, chúng sẽ mất đi ý nghĩa. Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa là vô cùng quan trọng, bởi vì từ thuở ban đầu, Người đã tạo dựng muôn vật từ hư vô, và đến tận thế, Người sẽ cứu vớt những sinh linh phàm trần khỏi hư vô. Như thế, một thế giới không có đức tin sẽ tràn ngập những đứa con sống không có Cha, tức là những tạo vật không có ơn cứu độ.
Vì lý do này, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đặt câu hỏi về đức tin: nếu đức tin biến mất khỏi thế gian, điều gì sẽ xảy ra? Trời đất vẫn như xưa, nhưng niềm hy vọng trong lòng chúng ta sẽ không còn nữa; tự do của mỗi người sẽ bị cái chết đánh bại; khát vọng sống của chúng ta sẽ tan thành hư vô. Không có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta không thể hy vọng vào ơn cứu độ. Câu hỏi của Chúa Giêsu có thể làm chúng ta bối rối, nhưng chỉ khi chúng ta quên rằng chính Chúa Giêsu là người đặt ra câu hỏi đó. Thật vậy, lời Chúa luôn là “Tin Mừng”, lời loan báo đầy hân hoan về ơn cứu độ. Ơn cứu độ này là món quà sự sống đời đời mà chúng ta nhận được từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Các bạn thân mến, chính vì lý do này mà Chúa Kitô nói với các môn đệ của Người về “sự cần thiết phải cầu nguyện luôn, và đừng nản lòng” (Lc 18:1). Cũng như chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi thở, chúng ta cũng đừng bao giờ mệt mỏi khi cầu nguyện! Cũng như hơi thở duy trì sự sống của thân xác, lời cầu nguyện cũng duy trì sự sống của linh hồn: đức tin, thực sự, được thể hiện trong lời cầu nguyện, và lời cầu nguyện đích thực sống nhờ đức tin.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mối liên hệ này bằng một dụ ngôn: một vị thẩm phán vẫn điếc trước những lời khẩn cầu khẩn thiết của một góa phụ, nhưng cuối cùng sự kiên trì của bà đã dẫn ông đến hành động. Thoạt nhìn, sự kiên trì đó trở thành một ví dụ tuyệt đẹp về hy vọng, đặc biệt là trong những lúc thử thách và đau khổ. Tuy nhiên, sự kiên trì của người phụ nữ và vị thẩm phán, người hành động miễn cưỡng, đã mở đường cho một câu hỏi đầy khiêu khích từ Chúa Giêsu: Chẳng lẽ Thiên Chúa, Cha nhân lành, lại không “xét xử công minh cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao?” (Lc 18:7).
Chúng ta hãy để những lời này vang vọng trong lòng mình: Chúa đang hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Thiên Chúa là vị thẩm phán công minh đối với tất cả mọi người hay không. Chúa Con hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Chúa Cha luôn muốn điều tốt lành cho chúng ta và ơn cứu rỗi cho mọi người hay không. Về điểm này, có hai cám dỗ thử thách đức tin của chúng ta: cám dỗ thứ nhất lấy sức mạnh từ sự ô nhục của sự dữ, khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa không lắng nghe tiếng kêu than của những người bị áp bức và không thương xót những người vô tội đang đau khổ. Cám dỗ thứ hai là lời khẳng định rằng Thiên Chúa phải hành động theo ý muốn của chúng ta: lời cầu nguyện sau đó nhường chỗ cho một mệnh lệnh với Thiên Chúa, dạy Người cách sống công bằng và hiệu quả.
Chúa Giêsu, chứng nhân hoàn hảo của lòng tin tưởng con thảo, giải thoát chúng ta khỏi cả hai cám dỗ. Chính Người là Đấng vô tội, đặc biệt trong Cuộc Khổ Nạn, đã cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện” (x. Lc 22:42). Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những lời này trong Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy nhớ rằng bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta, Chúa Giêsu đã phó thác chính mình như Chúa Con cho Chúa Cha. Vì vậy, chúng ta là anh chị em trong danh Người, để chúng ta có thể tuyên xưng: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, thật là chính đáng, là bổn phận và là ơn cứu độ của chúng ta, luôn luôn và mọi nơi, chúng ta tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Kinh Nguyện Thánh Thể II, Lời Tiền Tụng).
Lời cầu nguyện của Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa ban công lý cho tất cả mọi người, hiến mạng sống mình cho tất cả. Vì vậy, khi chúng ta kêu lên Chúa: “Chúa ở đâu?”, chúng ta hãy biến lời kêu cầu này thành một lời cầu nguyện, và khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa hiện diện nơi những người vô tội đang đau khổ. Thập giá của Chúa Kitô mặc khải công lý của Thiên Chúa, và công lý của Thiên Chúa là sự tha thứ. Người nhìn thấy sự dữ và cứu chuộc nó bằng cách gánh lấy nó trên mình. Khi chúng ta bị “đóng đinh” bởi đau khổ và bạo lực, bởi hận thù và chiến tranh, Chúa Kitô đã ở đó, trên thập giá vì chúng ta và với chúng ta. Không có tiếng kêu nào mà Thiên Chúa không an ủi; không có giọt nước mắt nào xa rời trái tim Người. Chúa lắng nghe chúng ta, ôm lấy chúng ta như chúng ta là, và biến đổi chúng ta như Người là. Tuy nhiên, những ai chối bỏ lòng thương xót của Thiên Chúa thì cũng không có khả năng thương xót tha nhân. Những ai không đón nhận hòa bình như một món quà sẽ không biết cách trao ban hòa bình.
Các bạn thân mến, giờ đây chúng ta hiểu rằng những câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi mạnh mẽ hướng đến hy vọng và hành động: khi Con Người đến, liệu Người có tìm thấy đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa không? Thật vậy, chính đức tin này nâng đỡ cam kết của chúng ta đối với công lý, chính bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã cứu thế giới bằng tình yêu, giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa định mệnh. Khi nghe tiếng kêu của những người đang gặp khó khăn, chúng ta hãy tự hỏi: liệu chúng ta có phải là chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, như Chúa Kitô đã làm cho tất cả mọi người? Ngài là Đấng khiêm nhường kêu gọi những kẻ kiêu ngạo hoán cải, là Đấng công chính làm cho chúng ta nên công chính. Chúng ta thấy tất cả điều này trong cuộc đời của các vị Thánh mới: họ không phải là anh hùng hay nhà vô địch của một lý tưởng nào đó, mà là những con người đích thực.
Những người bạn trung thành này của Chúa Kitô là những vị tử đạo vì đức tin, như Đức Cha Ignazio Choukrallah Maloyan và giáo lý viên Peter To Rot; họ là những nhà truyền giáo và thừa sai, như Sơ Maria Troncatti; họ là những nhà sáng lập đầy sức lôi cuốn, như Sơ Vincenza Maria Poloni và Sơ Maria del Monte Carmelo Rendiles Martínez; với trái tim cháy bỏng lòng sùng kính, họ là những ân nhân của nhân loại, như Bartolo Longo và José Gregorio Hernández Cisneros. Nguyện xin lời chuyển cầu của các ngài nâng đỡ chúng ta trong những thử thách và gương sáng của các ngài soi sáng chúng ta trong ơn gọi nên thánh chung. Trên hành trình hướng đến mục tiêu này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng, và tiếp tục những gì chúng ta đã học và vững tin (x. 2 Tim 3:14). Đức tin trên trần gian này nâng đỡ niềm hy vọng vào thiên đàng.
3. Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ
Larry Chapp nhận bằng Tiến sĩ Thần học tại Đại học Fordham năm 1994, chuyên ngành thần học về Hans Urs von Balthasar. Ông đã dành 20 năm giảng dạy thần học tại Đại học DeSales gần Allentown, Pennsylvania, trước khi nghỉ hưu sớm để cùng vợ là Carmina và người bạn, cũng là cựu học trò của ông, Linh mục John Gribowich, thành lập Nông trại Công nhân Công Giáo Dorothy Day gần Wilkes Barre, Pennsylvania. Ông là tác giả của nhiều bài báo và sách, đồng thời là người sáng lập và tác giả chính của blog Gaudiumetspes22.com.
Việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đang làm dấy lên cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo. Trong bối cảnh đó, ông vừa có bài viết nhan đề “Why Christ Won’t Let His Church Ordain Women”, nghĩa là “Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ”.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Tạp chí tin tức Công Giáo quốc tế The Tablet cho rằng việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đầu tiên trong Giáo hội Anh giáo là cơ hội chín muồi để Giáo Hội Công Giáo xem xét lại vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ.
Trong một bài viết ngắn chủ yếu gồm cuộc phỏng vấn với nhà thần học Dòng Tên người Ái Nhĩ Lan, Cha Gerry O'Hanlon, không giấu sự thất vọng của mình với tình trạng hiện tại của vấn đề này trong Công Giáo và thẳng thắn tuyên bố mong muốn của mình rằng Giáo hội “hãy ngừng vòng vo và tiến hành xem xét lại một cách công bằng và cởi mở giáo lý hiện hành”.
Rõ ràng từ những nhận xét của vị linh mục này, người ta có thể thấy rõ ngài cho rằng giáo huấn hiện tại của Giáo hội dựa trên những nền tảng thần học sai lầm. Điều này dẫn ngài đến kết luận rằng việc từ chối phong chức cho phụ nữ là một điều tai tiếng lớn đối với Giáo hội, cũng tệ hại như việc Giáo hội trước đây đã không lên tiếng phản kháng quyết liệt chế độ nô lệ.
Sau đó, ngài trích dẫn những kết luận thần học của Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 và ý kiến của nhà thần học nổi tiếng Karl Rahner về vấn đề này. Tóm lại, ngài nhấn mạnh việc Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 nhận thấy không có bằng chứng Kinh Thánh nào bảo đảm cho lập trường của Giáo hội về việc loại trừ phụ nữ khỏi chức thánh, lưu ý rằng nhà thần học Karl Rahner, vào cuối những năm 1970, đã lập luận rằng Giáo hội phải có trách nhiệm chứng minh điều này. “Gánh nặng này vẫn chưa được thực hiện”, Cha O'Hanlon nói.
Bản thân bài viết ngắn này không có gì nổi bật và chỉ là một trong số rất nhiều bài viết khác đã xuất hiện trong nhiều năm qua trên các cơ quan truyền thông Công Giáo phần lớn mang tính cấp tiến. Nhưng điều nó cho thấy là, trong suy nghĩ của nhiều người Công Giáo - thậm chí có thể là phần lớn người Công Giáo trong nền văn hóa phương Tây, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ, nếu chúng ta tin vào các số liệu được đưa ra từ các cuộc thăm dò.
Chúa Kitô không trao cho Giáo hội của Ngài thẩm quyền phong chức cho phụ nữ
Nhưng làm sao có thể như vậy được? Chẳng phải Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khép lại vấn đề này, với quyết định dứt khoát rằng Giáo Hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ sao? Thật vậy, vị Giáo Hoàng Ba Lan đã làm như vậy, như ngài đã tuyên bố trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994:
Để xóa tan mọi nghi ngờ liên quan đến một vấn đề vô cùng quan trọng, một vấn đề liên quan đến chính hiến chế thiêng liêng của Giáo hội, nhân danh chức vụ củng cố anh em của tôi (x. Lc 22:32), tôi tuyên bố rằng Giáo hội không có bất kỳ thẩm quyền nào để phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ một cách dứt khoát.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra phán quyết này dựa trên hai yếu tố chính. Thứ nhất, Giáo Hội phải noi gương Chúa, Đấng chỉ chọn nam giới làm tông đồ. Thứ hai, và phù hợp với điều này, truyền thống lâu đời của Giáo Hội là chỉ phong chức linh mục cho nam giới. Ngài lưu ý rằng quyết định này cũng đã được phê chuẩn trong các văn kiện giáo hoàng hiện đại.
Ngài cũng kiên quyết bác bỏ quan niệm cho rằng việc không phong chức cho phụ nữ ngụ ý rằng phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trong chương trình cứu độ. Ngài nhấn mạnh rằng Đức Trinh Nữ Maria, mặc dù không được Con mình chọn làm tông đồ hay linh mục, nhưng vẫn giữ một địa vị cao cả trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa:
Hơn nữa, việc Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, không nhận được sứ mạng riêng của các Tông Đồ cũng như chức tư tế thừa tác, cho thấy rõ ràng rằng việc không cho phụ nữ được thụ phong linh mục không thể có nghĩa là phụ nữ có phẩm giá thấp kém hơn, cũng không thể bị hiểu là kỳ thị họ. Đúng hơn, điều này phải được xem là sự tuân giữ trung thành một kế hoạch được gán cho sự khôn ngoan của Chúa Tể vũ trụ.
Tuy nhiên, chính những lập luận này lại bị những người ủng hộ việc phong chức linh mục cho phụ nữ bác bỏ vì cho là không đủ. Thực vậy, những điều ấy bị coi là sai sót nghiêm trọng đến mức dẫn đến ý tưởng rằng, như Cha O'Hanlon đã nói, khi bám vào chúng, Giáo hội chỉ đang “tránh né”.
Chúa Kitô ban cho Hội Thánh Ngài thẩm quyền giảng dạy
Để đáp lại, tôi xin đưa ra ba điểm. Thứ nhất, điều không được đề cập đến trong những lời bác bỏ như vậy chính những thiếu sót cơ bản về giáo hội học đã thúc đẩy chúng. Rõ ràng, thẩm quyền giáo huấn rất cao của Đức Gioan Phaolô II trong quyết định của ngài đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, nó bị gạt sang một bên như một giáo huấn sai lầm, và do đó không cần phải biện minh cho việc bất đồng quan điểm, bất kể thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng. Vấn đề về tính bất khả xâm phạm của Giáo hội dường như không liên quan đến họ, và tất cả các giáo huấn mà họ cho là không bất khả ngộ đều bị coi là có thể bị tranh luận thần học liên tục.
Thật vậy, và để không lạc đề quá xa, chắc chắn vấn đề phong chức cho phụ nữ chỉ là một trong nhiều vấn đề mà những người Công Giáo có khuynh hướng cấp tiến tin rằng nên được xem xét lại để có thể đảo ngược. Tôi có cần phải trích dẫn danh sách dài những chủ đề như vậy không? Và để minh họa cho điểm này, chúng ta thấy rằng tân Tổng Giám Mục Canterbury, Sarah Mullally, là người “ủng hộ quyền lựa chọn” phá thai và rất cấp tiến trong mọi vấn đề liên quan đến tình dục con người — đó là một sự thật mà Cha O'Hanlon cố tình lờ đi.
Tóm lại, có cả một gói giáo hội học đang được áp dụng ở đây, vượt ra ngoài vấn đề duy nhất về việc phong chức cho phụ nữ.
Những nhà phê bình như Cha O'Hanlon nhanh chóng cáo buộc rằng giáo huấn của Giáo hội dựa trên lý luận thần học hời hợt. Nhưng quan điểm của chính ngài lại thể hiện sự xem xét hời hợt và thiển cận về thẩm quyền giáo huấn. Trong số những người bác bỏ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bất kể địa vị thẩm quyền cao trọng của ngài, chúng ta thường thấy những sự phân biệt đơn giản giữa “một số ít” giáo huấn bất khả ngộ của Giáo hội và nhiều giáo huấn không bất khả ngộ, với những giáo huấn không bất khả ngộ bị coi là đề tài cho những lời chỉ trích không hồi kết.
Đáng buồn thay, điều mà giáo hội học này báo hiệu là một Giáo hội chẳng khác gì một câu lạc bộ tranh luận với những tranh cãi bất tận — hay một tòa án liên tục họp mà chẳng bao giờ đưa ra phán quyết về bất cứ điều gì. Nhưng chính vì vậy mà Chúa Kitô đã thành lập Giáo hội của Người trên thẩm quyền tông đồ, và cũng chính vì vậy mà chúng ta có một huấn quyền uy tín.
Chúa Kitô, chứ không phải Giáo Hội, đã thiết lập chức tư tế chỉ dành cho nam giới
Ngoài ra còn có vấn đề về chính những lập luận của Đức Giáo Hoàng, vốn không hề hời hợt như Cha O'Hanlon ngụ ý. Người ta chỉ đơn giản cho rằng việc Chúa Giêsu chỉ chọn người nam chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng điều này không đúng.
Bị bao quanh bởi các nền văn hóa ngoại giáo thường có các nữ tư tế, quyết định - trước tiên là của Do Thái giáo, và sau đó là của Chúa Kitô - giới hạn chức tư tế cho nam giới là kết quả của một thành kiến văn hóa và gia trưởng, hoặc là sản phẩm của một quyết định thần học dứt khoát có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Khi nào Chúa Giêsu đưa ra những quyết định trong Phúc Âm mà chúng ta có thể nói là những ví dụ rõ ràng cho thấy Ngài đã nhượng bộ trước định kiến văn hóa? Thật vậy, dường như điều ngược lại mới đúng, đặc biệt là liên quan đến địa vị của phụ nữ.
Do đó, quyết định chỉ chọn người nam của ngài - bất chấp sự hiện diện của rất nhiều phụ nữ quan trọng trong chức vụ của ngài - chính là lý do tại sao Giáo hội sơ khai coi tấm gương của ngài là biểu hiện của điều gì đó có ý nghĩa bí tích và ràng buộc.
Hơn nữa, không thể nói rằng Chúa Kitô đã đưa ra quyết định này hoàn toàn dựa trên sự thận trọng, chỉ vì Người biết những nguy hiểm mà phụ nữ sẽ phải đối mặt trong sứ mệnh truyền giáo. Như Thánh Phaolô đã chỉ rõ trong các thư của ngài, phụ nữ đã thực sự truyền giáo, và họ là một phần trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội ra thế giới.
Quyết định của Chúa Kitô phù hợp với bản chất con người của chúng ta
Cuối cùng, cần nhớ rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không ban hành quyết định này – là điều đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô tái khẳng định - trong một khoảng trống thần học. Chính sự phát triển thần học về thân xác của ngài là một sự giải thích sâu sắc về ý nghĩa bí tích sâu sắc của thân xác mang tính giới tính của chúng ta. Chúng ta không phải là những người theo thuyết Ngộ Đạo, và Giáo hội có một truyền thống thần học lâu đời, đặc biệt là trong việc thảo luận về hình ảnh cô dâu dành cho Giáo hội.
Địa vị nam giới của chính Chúa Giêsu mang ý nghĩa biểu tượng và bí tích mà những người ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ coi là không liên quan, nếu không muốn nói là đáng xấu hổ. Đối với họ, nam tính của Chúa Giêsu chỉ đơn thuần là một thực tại thứ cấp không có tác động gì — là phàm nhân thì rõ ràng ai trong chúng ta cũng có một giới tính — và do đó không liên quan gì đến vấn đề đang được bàn luận. Nhưng việc coi nam tính của Chúa Giêsu nhẹ đến mức vô nghĩa này lại là một ví dụ khác về thần học đơn giản và hời hợt mà họ cho là vượt trội hơn so với chính sự suy tư của Giáo hội về chủ đề này.
Tôi xin phép không đồng ý.
Source:National Catholic Register
4. Nhà phụng vụ Vatican kêu gọi Giáo hội Hoa Kỳ tuân theo hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Thánh lễ
Đức Hồng Y Arthur Roche, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, khuyến khích các giáo xứ tại Hoa Kỳ làm quen hơn với các hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Thánh lễ và bảo đảm rằng các bài viết của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cung cấp thông tin cho việc đào tạo phụng vụ của giáo sĩ và giáo dân.
Đức Hồng Y Roche, người giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích kể từ năm 2021, đã đưa ra các khuyến nghị tại cuộc họp kéo dài ba ngày của Liên đoàn các Ủy ban Phụng vụ Giáo phận, gọi tắt là FDLC.
Theo thông cáo báo chí của FDLC ngày 15 tháng 10, Đức Hồng Y Roche đã nói với hơn 230 người tham dự cuộc họp rằng: “Đức Giáo Hoàng Phanxicô không có ý định đưa ra phương pháp đào tạo phụng vụ một cách có hệ thống”.
“Điều Chúa muốn làm là nắm tay Giáo hội và dẫn dắt Giáo hội đến trung tâm của mầu nhiệm mà chúng ta cử hành, đến với trái tim Chúa Kitô đang cháy bỏng khát khao mãnh liệt rằng chúng ta nên đến gần, đón nhận Mình và uống Máu Người, thờ phượng Chúa Cha với trái tim và tâm trí được đổi mới nhờ được rửa sạch trong Máu Chiên Con “, ngài nói.
Đức Hồng Y Roche cho biết việc cử hành Thánh lễ phải “dựa trên Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô” và ngài tái khẳng định những bình luận năm 2017 của Đức Phanxicô rằng “cuộc cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II là không thể đảo ngược”. Ngài trích dẫn tông thư Desiderio Desideravi năm 2017 của Đức Phanxicô và cho biết tài liệu này nên “được phổ biến rộng rãi hơn cho các giáo xứ” và cần có nhiều sự trợ giúp hơn để “tổ chức các buổi đọc có hướng dẫn về tài liệu này”.
Trong văn kiện đó, Đức Thánh Cha viết rằng “mọi khía cạnh của việc cử hành phải được chăm chút kỹ lưỡng”, bao gồm không gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, vật dụng, lễ phục, bài hát và âm nhạc. Ngài viết: “Sự quan tâm như vậy sẽ đủ để tránh việc cộng đoàn bị tước đoạt những gì đáng được hưởng; cụ thể là mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành theo nghi thức mà Giáo Hội đã thiết lập.”
Đức Hồng Y Roche cho biết: “Tầm nhìn sâu sắc và rộng lớn về phụng vụ của ngài mang đến cho chúng ta vô số cơ hội để dừng lại suy ngẫm nhằm trân trọng món quà tuyệt vời đã được trao cho chúng ta trong các sách phụng vụ.”
“Tôi không ngần ngại khuyến khích anh chị em hãy mạnh dạn, nhưng luôn luôn bác ái trong việc cổ võ lex orandi hay luật cầu nguyện độc đáo của Nghi lễ Rôma,” ngài nói. “Những bài giảng về phụng vụ mà thiếu tinh thần bác ái thì xuất phát từ một tinh thần khác với tinh thần của Chúa Kitô.”
FDLC được các giám mục Hoa Kỳ thành lập năm 1969 để hỗ trợ thực hiện các cải cách phụng vụ bắt nguồn từ Công đồng Vatican II và tiếp tục đào tạo giáo sĩ và giáo dân. Hội nghị thường niên toàn quốc lần thứ 56 được tổ chức từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 tại Baltimore, Maryland.
Giám đốc Điều hành FDLC, Rita Thiron, nói với CNA rằng tài liệu này là một “văn bản tuyệt vời, rất đẹp” và FDLC cung cấp một hướng dẫn học tập cho các giáo xứ, trong đó có các câu hỏi thảo luận và suy ngẫm về tài liệu. Bà lưu ý rằng tài liệu giải thích cách con người hiện đại đã mất khả năng kết nối với các biểu tượng và nó “khuyến khích chúng ta sử dụng các biểu tượng mang tính nghi lễ hơn”, chẳng hạn như việc có nhiều nước hơn trong các nghi lễ rửa tội.
Bà chỉ ra rằng phụng vụ mang lại sự hình thành tâm linh cho tất cả những người tham dự, và khi giáo sĩ cử hành Thánh lễ đúng cách, “mọi người sẽ hòa hợp tốt hơn với văn bản phong phú và thần học sâu sắc có trong phụng vụ”.
Cha Anthony Ruff, giáo sư thần học tại Trường Thần học và Chủng viện Saint John, người tập trung vào âm nhạc phụng vụ, nói với CNA rằng Roche “đã đưa ra một gợi ý tuyệt vời” và gọi Desiderio Desideravi là “một tài liệu được viết rất hay và đầy cảm hứng”.
Ngài cho biết: “Điều này giúp tất cả chúng ta hiểu được tầm nhìn của Giáo hội về phụng vụ dựa trên Công đồng Vatican II — đặc biệt là cách thức phụng vụ được cải cách có thể là nguồn sống cho toàn bộ đời sống cầu nguyện và tinh thần môn đệ Kitô giáo của chúng ta”.
Thánh lễ La tinh truyền thống không được thảo luận chi tiết
Đức Hồng Y Roche không thảo luận chi tiết về những hạn chế của Đức Phanxicô đối với Thánh lễ La tinh truyền thống, nhưng ngài đã quảng bá các tài liệu đề cập đến những hạn chế đó.
Đức Phanxicô đã viết Desiderio Desideravi một năm sau khi ban hành tự sắc Traditionis custodes năm 2016, trong đó hạn chế việc cử hành Thánh lễ La tinh truyền thống.
Cha Ruff cho biết lá thư thứ hai “tiếp nối một cách tự nhiên” những hạn chế đó “đối với những người vẫn đang đấu tranh để chấp nhận phụng vụ chính thức của Giáo hội khi nó được cải cách sau Công đồng Vatican II”.
Trong Desiderio Desideravi, Đức Phanxicô nói rằng việc không chấp nhận những cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II “làm chúng ta xao lãng nghĩa vụ tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi mà tôi xin nhắc lại: làm thế nào chúng ta có thể phát triển khả năng sống trọn vẹn hoạt động phụng vụ? Làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục để mình kinh ngạc trước những gì diễn ra trong buổi cử hành ngay trước mắt mình?”
Đức Phanxicô viết rằng sẽ là “nhỏ nhặt” nếu coi những căng thẳng về Thánh lễ La tinh Truyền thống “chỉ là sự khác biệt đơn giản giữa các sở thích khác nhau liên quan đến một hình thức nghi lễ cụ thể”. Ngài viết rằng ngài không hiểu làm sao người ta có thể công nhận tính hợp lệ của công đồng “và đồng thời không chấp nhận cải cách phụng vụ”.
Khi được hỏi liệu Đức Hồng Y Roche có bình luận gì về việc liệu Giáo hoàng Lêô XIV có làm theo Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc hạn chế hay thực hiện bất kỳ điều chỉnh nào không, Thiron cho biết: “Ngài ấy không hề nói đến điều đó.”
Thiron cho biết Roche đã ám chỉ đến “vai trò của hội đồng không thể đảo ngược” và Roche “lưu ý rằng Desiderio Desideravi là sự tiếp nối của Traditionis custodes để khuyến khích mọi người hiểu rõ hơn về phụng vụ như hiện tại và như hội đồng mong muốn”.
Source:Catholic News Agency