Phụng Vụ - Mục Vụ
Con Cần Chúa
Lm Vũđình Tường
00:26 23/10/2025
Tuần trước Đức Kitô dậy môn đệ hai điều quan trọng cần thực hành khi cầu nguyện. Thứ nhất là phải có đức kiên trì khi cầu nguyện và thứ hai là cầu nguyện với hết lòng tin tưởng, phó thác. Kiên trì trong cầu nguyện được biết đến như là không để cho thời gian ảnh hưởng đến tâm tình phó thác. Nên nhớ ta là người xin ơn; Thiên Chúa là Đấng ban ơn. Đấng ban ơn có toàn quyền quyết định khi nào Ngài ban ơn, ban cho những ơn gì, ban cho bao nhiêu, ban nhiều ơn cùng một lúc hay ban riêng lẻ, từng ơn một vào các thời điểm khác nhau, là quyền Ngài quyết định. Thứ đến lòng tin tưởng, phó thác đây được hiểu là khi cầu nguyện cần có niềm tin, xác tín làThiên Chúa chắc chắn sẽ đáp lời ta nguyện xin. Điều cần xác tín là Chúa luôn ban cho ta những gì tốt lành nhất, tốt hơn cả điều chúng ta xin. Vì thế rất có thể Chúa không ban đúng điều ta cầu xin, nhưng ban cho ơn khác, tốt hơn, cần thiết hơn, giúp ta sống trung thành với Chúa, làm sáng Danh Ngài, đồng thời sinh ích cho các linh hồn. Tin tưởng, phó thác trong cầu nguyện đi liền với việc sẵn sàng đón nhận bất cứ ơn gì Chúa ban và thầm tín là ơn đó tốt nhất cho ta.
Tuần này Đức Kitô hướng dẫn thêm về tâm tình cầu nguyện. Khi cầu nguyện cần mang tâm tình con cần Chúa. Đây là nhân đức khiêm nhường cần có trong cuộc sống thường ngày và trong đời sống cầu nguyện. Ngoài con tim chân thành, yêu mến, con người không có gì tốt hơn đến với Chúa. Kitô hữu cần đến với Chúa với tất cả tấm lòng khiêm nhu của người môn đệ. Đức Kitô đưa ra dụ ngôn hai cách hành xử, trái ngược cả ngôn từ lẫn tư cách khi họ vào cầu nguyện trong đền thờ. Người thứ nhất với thái độ cao ngạo,trịnh thượng, đứng thẳng, ngửa mặt lên trời, hãnh diện tự cho mình tốt hơn nhiều người trong thiên hạ. Ông mở đầu bằng câu 'Con tạ ơn Chúa'; liền sau đó ông kiêu hãnh tự nhận mình tốt lành, tự sức riêng, đã hoàn thành nhiều điều tốt mà hầu hết thiên hạ thất bại. Người thứ hai, từ đàng xa, đứng dưới cuối đền thờ; cúi mặt gần sát đất, đấm ngực thú nhận mình là người tội lỗi, thất bại trong đời sống đạo đức, thánh thiện. Người này tự nhận tội lỗi, điều xấu, sai trái đã làm. Ông vào đền thờ thống hối, xin ơn thứ tha. Cậy nhờ ơn Chúa ban sức mạnh giúp ông trở về con đường lành, đường công chính, đường lối Chúa. Đức Kitô kết luận. Người thứ hai nhận biết con cần Chúa, được Chúa đoái thương. Chúa nhận lời ông cầu xin. Người thứ nhất tự nhận mình vô tội vì thế không cần Chúa, không cần ơn cứu độ Chúa ban. Vì thế ông ra về trắng tay.
'Con không như bao kẻ khác,: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia' Lk 18:11
Những lời trên cho biết ông không vào đền thờ để cầu xin. Ông đến đền thờ để khoe khoang, liệt kê thành tích, thành đạt. Bởi không nhận biết mình có tội nên không xin tha; cảm thấy không phạm tội nên không cần thống hối; xác định không làm điều sai nên không cần sửa đổi.
'Con không như bao kẻ khác... hoặc như tên thu thuế'
Tự cho mình trong sạch, tốt lành hơn người, thuộc về tội kiêu ngạo. Trong mọi cám dỗ có lẽ cám dỗ kiêu ngạo là nguy hiểm hơn hết thảy bởi nó làm cho con người trở nên mù loà về sự thật; mù mờ trong nhận xét, phán đoán. Người kiêu ngạo thường tự hào về khả năng, tài lực, thông minh, tháo vát, sức riêng cá nhân. Về phương diện tâm linh, kẻ kiêu ngạo không cần chúa nào khác bởi họ tự cho mình là chúa.
Thái độ khôn ngoan, đứng đắn trong cầu nguyện là nhận biết mình tội lỗi, nhận sai trái, nhận biết con cần Chúa. Cầu nguyện chính là đến với Chúa để thú nhận con người yếu đuối, sai trái, tội lỗi. Xin Chúa thứ tha. Sau hết là dâng lời cảm tạ, biết ơn về lượng từ bi Chúa.
Chúng ta xin ơn khiêm nhường với tâm tình, con cần Chúa.
TiengChuong.org
Tuần này Đức Kitô hướng dẫn thêm về tâm tình cầu nguyện. Khi cầu nguyện cần mang tâm tình con cần Chúa. Đây là nhân đức khiêm nhường cần có trong cuộc sống thường ngày và trong đời sống cầu nguyện. Ngoài con tim chân thành, yêu mến, con người không có gì tốt hơn đến với Chúa. Kitô hữu cần đến với Chúa với tất cả tấm lòng khiêm nhu của người môn đệ. Đức Kitô đưa ra dụ ngôn hai cách hành xử, trái ngược cả ngôn từ lẫn tư cách khi họ vào cầu nguyện trong đền thờ. Người thứ nhất với thái độ cao ngạo,trịnh thượng, đứng thẳng, ngửa mặt lên trời, hãnh diện tự cho mình tốt hơn nhiều người trong thiên hạ. Ông mở đầu bằng câu 'Con tạ ơn Chúa'; liền sau đó ông kiêu hãnh tự nhận mình tốt lành, tự sức riêng, đã hoàn thành nhiều điều tốt mà hầu hết thiên hạ thất bại. Người thứ hai, từ đàng xa, đứng dưới cuối đền thờ; cúi mặt gần sát đất, đấm ngực thú nhận mình là người tội lỗi, thất bại trong đời sống đạo đức, thánh thiện. Người này tự nhận tội lỗi, điều xấu, sai trái đã làm. Ông vào đền thờ thống hối, xin ơn thứ tha. Cậy nhờ ơn Chúa ban sức mạnh giúp ông trở về con đường lành, đường công chính, đường lối Chúa. Đức Kitô kết luận. Người thứ hai nhận biết con cần Chúa, được Chúa đoái thương. Chúa nhận lời ông cầu xin. Người thứ nhất tự nhận mình vô tội vì thế không cần Chúa, không cần ơn cứu độ Chúa ban. Vì thế ông ra về trắng tay.
'Con không như bao kẻ khác,: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia' Lk 18:11
Những lời trên cho biết ông không vào đền thờ để cầu xin. Ông đến đền thờ để khoe khoang, liệt kê thành tích, thành đạt. Bởi không nhận biết mình có tội nên không xin tha; cảm thấy không phạm tội nên không cần thống hối; xác định không làm điều sai nên không cần sửa đổi.
'Con không như bao kẻ khác... hoặc như tên thu thuế'
Tự cho mình trong sạch, tốt lành hơn người, thuộc về tội kiêu ngạo. Trong mọi cám dỗ có lẽ cám dỗ kiêu ngạo là nguy hiểm hơn hết thảy bởi nó làm cho con người trở nên mù loà về sự thật; mù mờ trong nhận xét, phán đoán. Người kiêu ngạo thường tự hào về khả năng, tài lực, thông minh, tháo vát, sức riêng cá nhân. Về phương diện tâm linh, kẻ kiêu ngạo không cần chúa nào khác bởi họ tự cho mình là chúa.
Thái độ khôn ngoan, đứng đắn trong cầu nguyện là nhận biết mình tội lỗi, nhận sai trái, nhận biết con cần Chúa. Cầu nguyện chính là đến với Chúa để thú nhận con người yếu đuối, sai trái, tội lỗi. Xin Chúa thứ tha. Sau hết là dâng lời cảm tạ, biết ơn về lượng từ bi Chúa.
Chúng ta xin ơn khiêm nhường với tâm tình, con cần Chúa.
TiengChuong.org
Ngày 24/10: Biết Thế Gian & Biết Chúa – Lm. Giuse Đỗ Tuấn Anh, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
01:58 23/10/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay : ‘Mưa đến nơi rồi’, và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm thổi, các người nói : ‘Trời sẽ oi bức’, và xảy ra đúng như vậy. Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?
“Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải? Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết : anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.”
Đó là Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
04:53 23/10/2025
THIÊN CHÚA YÊU KẺ KHIÊM NHƯỜNG
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN NĂM C
Thiên Chúa, Đấng Toàn năng, Cao cả, lại có một trái tim khiêm hạ. Chúng ta chiêm ngắm trái tim khiêm hạ của Thiên Chúa, Đấng luôn lắng nghe lời cầu xin của kẻ bé mọn và đón nhận người biết nhận mình yếu đuối, tội lỗi.
Đặc biệt, tình yêu tự hạ đến mức vâng phục cho đến chết trên thập giá của Chúa Giêsu, càng là bài học dạy ta phải hiền lành, khiêm nhường trọn hảo.
1. Lời cầu của người khiêm nhường bay lên tới tận trời cao.
Bài đọc I, trích sách Huấn ca, khẳng định: "Thiên Chúa không thiên vị ai… Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọt lên tới các tầng mây". Một hình ảnh thật đẹp: Lời cầu ấy không tan vào hư không, không mất hút trong thinh lặng, mà bay thẳng đến ngai tòa Thiên Chúa.
Huấn ca muốn nói rằng: Thiên Chúa không bị thu hút bởi lời lẽ trau chuốt, mà bởi tấm lòng đơn sơ. Ngài lắng nghe tiếng rên xiết của người góa bụa, nước mắt của người bị bỏ rơi, lời thở than của kẻ bé mọn. Chính nơi đó, công lý và lòng thương xót gặp nhau.
Đối với nhiều người giáo dân chân quê, những người âm thầm sống đạo, lặng lẽ làm lụng, chịu thiệt thòi nhưng vẫn tin tưởng và cầu nguyện, lời này là một niềm an ủi lớn lao.
Không lời kinh nào, không giọt nước mắt nào rơi xuống mà Chúa không thấy, không nghe. Mỗi lời cầu khiêm hạ đều trở thành hương thơm bay lên trời, len vào trái tim Thiên Chúa.
2. Khiêm nhường là con đường mở ra cho ơn cứu độ.
Cao điểm của phụng vụ hôm nay là dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 18, 9-14). Hai con người, hai thái độ, hai kết quả: Người Pharisêu tự hào, kể công, nhìn xuống người khác, để rồi ra về tay trắng. Người thu thuế cúi mình, đấm ngực, chỉ thưa một lời: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". Anh ra về được nên công chính.
Điều làm nên khác biệt không phải ở địa vị hay quá khứ, mà ở tấm lòng khiêm tốn trước Thiên Chúa.
Người Pharisêu cầu nguyện mà không gặp Chúa, vì ông chỉ gặp lại cái "tôi" của mình. Người thu thuế gặp được Chúa, vì ông dám đánh mất chính mình.
Người khiêm nhường không cần chứng minh, không cần khoe khoang, bởi "các loại thuế" họ nộp cho Thiên Chúa chính là tình yêu chân thành, sự tin tưởng phó thác và niềm hy vọng nhỏ bé.
Khiêm nhường không làm yếu đi, nhưng giúp mở lòng đón nhận tình yêu Chúa, để cho ánh sáng Chúa soi rọi vào mọi góc khuất trong tâm hồn. Chính những thứ "thuế yêu thương" ấy làm đẹp lòng Chúa hơn mọi của lễ.
3. Khiêm nhường là lối sống được Thiên Chúa yêu thương.
"THIÊN CHÚA YÊU KẺ KHIÊM NHƯỜNG".
Câu nói ấy không chỉ là một mệnh đề đạo đức, mà là chân lý sống của Kitô giáo. Đó là giáo lý, là đức tin, là cội nguồn của ơn cứu độ. Từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ các Thánh đến Đức Maria - bậc thầy của đời sống khiêm hạ, tất cả đều khẳng định: Chỉ tâm hồn khiêm nhường mới có chỗ cho Thiên Chúa ngự vào.
Khiêm nhường, nơi Đức Mẹ, không làm Đức Mẹ nhỏ lại, nhưng khiến Đức Mẹ vĩ đại trong ánh mắt Thiên Chúa. Cũng thế, người khiêm nhường không tự hạ mình để bị chà đạp, nhưng để cho Thiên Chúa được tôn vinh và để ánh sáng của Ngài rọi chiếu qua đời mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc II cho ta thấy gương sáng của một người khiêm nhường mà mạnh mẽ. Thánh nhân viết: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững đức tin".
Những lời ấy không phải là khoe công, mà là lời tạ ơn. Trong sự khiêm nhường, thánh Phaolô nhìn nhận mọi chiến thắng của mình là do Chúa. Chính Chúa đã ban sức mạnh để ngài chiến đấu, để ngài đứng vững khi mọi người bỏ rơi, và để ngài trung tín cho đến giọt máu cuối cùng.
Sự mạnh mẽ ấy không đến từ tự lực, mà từ sự gắn bó trọn vẹn với Chúa. Người khiêm nhường không dựa vào sức mình, nên không bao giờ tuyệt vọng. Họ biết mình yếu đuối, nhưng "khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12, 10).
Từ đó thánh Phaolô bình thản nhìn cái chết như một "lễ tế", coi đời mình là thánh lễ kéo dài, từ Đamát đến nơi xử trảm. Ngài tin, triều thiên công chính đang chờ đợi, một phần thưởng dành cho người trung tín và khiêm nhường.
4. Sống khiêm nhường là sống tin tưởng, sống trọn vẹn trong tình yêu Chúa.
Ai sống khiêm nhường, người ấy sẽ đạt được tất cả: bình an, ơn Chúa, tình người, và cuối cùng là được chính Chúa. Không phải vì Chúa thiên vị, nhưng vì Chúa chỉ có thể ngự trong tâm hồn trống rỗng của người biết mình cần Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào khoe mẽ, người Kitô hữu được mời gọi đi con đường ngược lại: Nhỏ đi để lớn lên trong Chúa, im lặng để nghe được tiếng Chúa, khiêm nhường để nên thánh.
Giữa một thế giới ồn ào thành tích và so sánh, Chúa Giêsu lại nhìn đến người đứng xa, người chẳng dám ngẩng đầu, chỉ vì nơi đó còn có tấm lòng thật. Chúa không tìm lời cầu nguyện đẹp, nhưng tìm một trái tim biết cúi mình.
Chúng ta hãy học lấy tinh thần của người thu thuế năm xưa: Biết đấm ngực, biết cậy trông, biết để Chúa thương xót mình trước khi xét đoán ai khác. Chính trong sự khiêm nhường và chân thành ấy, ta sẽ được Thiên Chúa tỏ mình.
Chỉ khi ấy, ta mới có thể thực sự yêu Chúa và yêu anh em bằng một tình yêu không giả trá, không kiêu căng, nhưng đầy lòng thương xót và ánh sáng.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN NĂM C
Thiên Chúa, Đấng Toàn năng, Cao cả, lại có một trái tim khiêm hạ. Chúng ta chiêm ngắm trái tim khiêm hạ của Thiên Chúa, Đấng luôn lắng nghe lời cầu xin của kẻ bé mọn và đón nhận người biết nhận mình yếu đuối, tội lỗi.
Đặc biệt, tình yêu tự hạ đến mức vâng phục cho đến chết trên thập giá của Chúa Giêsu, càng là bài học dạy ta phải hiền lành, khiêm nhường trọn hảo.
1. Lời cầu của người khiêm nhường bay lên tới tận trời cao.
Bài đọc I, trích sách Huấn ca, khẳng định: "Thiên Chúa không thiên vị ai… Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọt lên tới các tầng mây". Một hình ảnh thật đẹp: Lời cầu ấy không tan vào hư không, không mất hút trong thinh lặng, mà bay thẳng đến ngai tòa Thiên Chúa.
Huấn ca muốn nói rằng: Thiên Chúa không bị thu hút bởi lời lẽ trau chuốt, mà bởi tấm lòng đơn sơ. Ngài lắng nghe tiếng rên xiết của người góa bụa, nước mắt của người bị bỏ rơi, lời thở than của kẻ bé mọn. Chính nơi đó, công lý và lòng thương xót gặp nhau.
Đối với nhiều người giáo dân chân quê, những người âm thầm sống đạo, lặng lẽ làm lụng, chịu thiệt thòi nhưng vẫn tin tưởng và cầu nguyện, lời này là một niềm an ủi lớn lao.
Không lời kinh nào, không giọt nước mắt nào rơi xuống mà Chúa không thấy, không nghe. Mỗi lời cầu khiêm hạ đều trở thành hương thơm bay lên trời, len vào trái tim Thiên Chúa.
2. Khiêm nhường là con đường mở ra cho ơn cứu độ.
Cao điểm của phụng vụ hôm nay là dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 18, 9-14). Hai con người, hai thái độ, hai kết quả: Người Pharisêu tự hào, kể công, nhìn xuống người khác, để rồi ra về tay trắng. Người thu thuế cúi mình, đấm ngực, chỉ thưa một lời: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". Anh ra về được nên công chính.
Điều làm nên khác biệt không phải ở địa vị hay quá khứ, mà ở tấm lòng khiêm tốn trước Thiên Chúa.
Người Pharisêu cầu nguyện mà không gặp Chúa, vì ông chỉ gặp lại cái "tôi" của mình. Người thu thuế gặp được Chúa, vì ông dám đánh mất chính mình.
Người khiêm nhường không cần chứng minh, không cần khoe khoang, bởi "các loại thuế" họ nộp cho Thiên Chúa chính là tình yêu chân thành, sự tin tưởng phó thác và niềm hy vọng nhỏ bé.
Khiêm nhường không làm yếu đi, nhưng giúp mở lòng đón nhận tình yêu Chúa, để cho ánh sáng Chúa soi rọi vào mọi góc khuất trong tâm hồn. Chính những thứ "thuế yêu thương" ấy làm đẹp lòng Chúa hơn mọi của lễ.
3. Khiêm nhường là lối sống được Thiên Chúa yêu thương.
"THIÊN CHÚA YÊU KẺ KHIÊM NHƯỜNG".
Câu nói ấy không chỉ là một mệnh đề đạo đức, mà là chân lý sống của Kitô giáo. Đó là giáo lý, là đức tin, là cội nguồn của ơn cứu độ. Từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ các Thánh đến Đức Maria - bậc thầy của đời sống khiêm hạ, tất cả đều khẳng định: Chỉ tâm hồn khiêm nhường mới có chỗ cho Thiên Chúa ngự vào.
Khiêm nhường, nơi Đức Mẹ, không làm Đức Mẹ nhỏ lại, nhưng khiến Đức Mẹ vĩ đại trong ánh mắt Thiên Chúa. Cũng thế, người khiêm nhường không tự hạ mình để bị chà đạp, nhưng để cho Thiên Chúa được tôn vinh và để ánh sáng của Ngài rọi chiếu qua đời mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc II cho ta thấy gương sáng của một người khiêm nhường mà mạnh mẽ. Thánh nhân viết: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững đức tin".
Những lời ấy không phải là khoe công, mà là lời tạ ơn. Trong sự khiêm nhường, thánh Phaolô nhìn nhận mọi chiến thắng của mình là do Chúa. Chính Chúa đã ban sức mạnh để ngài chiến đấu, để ngài đứng vững khi mọi người bỏ rơi, và để ngài trung tín cho đến giọt máu cuối cùng.
Sự mạnh mẽ ấy không đến từ tự lực, mà từ sự gắn bó trọn vẹn với Chúa. Người khiêm nhường không dựa vào sức mình, nên không bao giờ tuyệt vọng. Họ biết mình yếu đuối, nhưng "khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12, 10).
Từ đó thánh Phaolô bình thản nhìn cái chết như một "lễ tế", coi đời mình là thánh lễ kéo dài, từ Đamát đến nơi xử trảm. Ngài tin, triều thiên công chính đang chờ đợi, một phần thưởng dành cho người trung tín và khiêm nhường.
4. Sống khiêm nhường là sống tin tưởng, sống trọn vẹn trong tình yêu Chúa.
Ai sống khiêm nhường, người ấy sẽ đạt được tất cả: bình an, ơn Chúa, tình người, và cuối cùng là được chính Chúa. Không phải vì Chúa thiên vị, nhưng vì Chúa chỉ có thể ngự trong tâm hồn trống rỗng của người biết mình cần Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào khoe mẽ, người Kitô hữu được mời gọi đi con đường ngược lại: Nhỏ đi để lớn lên trong Chúa, im lặng để nghe được tiếng Chúa, khiêm nhường để nên thánh.
Giữa một thế giới ồn ào thành tích và so sánh, Chúa Giêsu lại nhìn đến người đứng xa, người chẳng dám ngẩng đầu, chỉ vì nơi đó còn có tấm lòng thật. Chúa không tìm lời cầu nguyện đẹp, nhưng tìm một trái tim biết cúi mình.
Chúng ta hãy học lấy tinh thần của người thu thuế năm xưa: Biết đấm ngực, biết cậy trông, biết để Chúa thương xót mình trước khi xét đoán ai khác. Chính trong sự khiêm nhường và chân thành ấy, ta sẽ được Thiên Chúa tỏ mình.
Chỉ khi ấy, ta mới có thể thực sự yêu Chúa và yêu anh em bằng một tình yêu không giả trá, không kiêu căng, nhưng đầy lòng thương xót và ánh sáng.
Chúa muốn gì?
Lm. Minh Anh
19:24 23/10/2025
CHÚA MUỐN GÌ?
“Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.
Một đêm thu huyền hoặc, chuông các nhà thờ Ba Lan đổ dồn, người ta tràn ra đường với nến, hoa, nước mắt và cả Champagne: một người con Ba Lan làm Giáo Hoàng! Tại Wadowice, cha Zacher mở sổ Rửa Tội, dừng ở Carolus Joseph Wojtyła - cậu bé ngài từng dạy giáo lý. Cạnh đó, những dòng ngày Rước Lễ, Thêm Sức, Linh mục, Giám mục, Hồng Y… và bên lề, ngài run run viết: “16/10/1978, Giáo Hoàng”, rồi thầm hỏi, “Chúa muốn gì?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Gioan Phaolô II đã là dấu chỉ cho thế giới vào buổi giao mùa của hai thiên kỷ, dấu cáo chung của một chủ nghĩa vốn đã sụp đổ hàng loạt năm 1989 khởi từ Đông Âu. Tin Mừng hôm nay cũng nói đến dấu chỉ! Người đương thời không nhận ra ‘một Ai đó’ - giữa họ - “Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.
Với những ai theo Chúa, việc đọc ra các dấu chỉ thật quan trọng! Nghĩa là, làm sao bạn và tôi có thể nhìn thấy và giải thích đúng những gì đang xảy ra trong nền văn hoá, xã hội và thế giới của mình; quan trọng hơn, nhận ra sự hiện diện và bàn tay của Thiên Chúa đang đối nghịch với hoạt động lúc ẩn lúc hiện của Satan, hầu có thể tự hỏi, “Chúa muốn gì?”. Bởi lẽ, ngày nay, xã hội buộc chúng ta phải chọn lựa giữa vô vàn ‘lựa chọn đạo đức’ khi chúng ta bị giằng co giữa muôn vàn chèo kéo; khi trái tim bị phân tâm cách này, cách khác. “Phân định không chỉ là biết điều đúng hay sai, mà là nhận ra cái đúng giữa những điều gần như đúng!” - Charles Spurgeon. Phaolô thú nhận, “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm!” - bài đọc một.
Một trong những thủ đoạn của Satan là gieo dối trá và gây xáo trộn vô vàn cách. Lời lẽ gian giảo của nó có thể qua truyền thông, từ các nhà lãnh đạo chính trị; thậm chí, một số lãnh đạo tôn giáo. Nó yêu thích chia rẽ, phân hoá và rối loạn bất cứ nơi đâu. Vì thế, thật cấp thiết khi chúng ta đọc được các dấu chỉ để nhận ra những sai lầm đạo đức và văn hoá nghịch với Tin Mừng, với Hội Thánh để luôn tự hỏi, “Chúa muốn gì?”. “Ma quỷ không cần khiến ta ghét Thiên Chúa; nó chỉ cần khiến ta yêu thích dối trá!” - Fulton Sheen.
Anh Chị em,
“Chúa muốn gì?”. Như đêm mà chuông các nhà thờ Ba Lan rung lên cho một khởi đầu mới, mỗi biến cố trong đời chúng ta cũng có thể là một hồi chuông của Thiên Chúa. Vấn đề là chúng ta có dừng lại để lắng nghe được Ngài, Đấng vẫn nói giữa những ồn ào, vẫn hành động trong những điều tưởng nhỏ bé nhất. Nhận ra điều ấy - là khởi đầu của khôn ngoan, và là dấu chỉ của một con tim biết mình thuộc về ai. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con!”. “Phân định ý Chúa không phải là đọc trước tương lai, mà là nhận ra sự hiện diện của Ngài trong giây phút hiện tại!” - Thomas Merton.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giữa dòng đời xuôi chảy, xin dạy con biết lội ngược để tìm ý Ngài; vì chỉ khi nghịch dòng với thế gian, con mới thuận chiều với ý Chúa!”, Amen.
( Tgp. Huế)
“Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.
Một đêm thu huyền hoặc, chuông các nhà thờ Ba Lan đổ dồn, người ta tràn ra đường với nến, hoa, nước mắt và cả Champagne: một người con Ba Lan làm Giáo Hoàng! Tại Wadowice, cha Zacher mở sổ Rửa Tội, dừng ở Carolus Joseph Wojtyła - cậu bé ngài từng dạy giáo lý. Cạnh đó, những dòng ngày Rước Lễ, Thêm Sức, Linh mục, Giám mục, Hồng Y… và bên lề, ngài run run viết: “16/10/1978, Giáo Hoàng”, rồi thầm hỏi, “Chúa muốn gì?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Gioan Phaolô II đã là dấu chỉ cho thế giới vào buổi giao mùa của hai thiên kỷ, dấu cáo chung của một chủ nghĩa vốn đã sụp đổ hàng loạt năm 1989 khởi từ Đông Âu. Tin Mừng hôm nay cũng nói đến dấu chỉ! Người đương thời không nhận ra ‘một Ai đó’ - giữa họ - “Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.
Với những ai theo Chúa, việc đọc ra các dấu chỉ thật quan trọng! Nghĩa là, làm sao bạn và tôi có thể nhìn thấy và giải thích đúng những gì đang xảy ra trong nền văn hoá, xã hội và thế giới của mình; quan trọng hơn, nhận ra sự hiện diện và bàn tay của Thiên Chúa đang đối nghịch với hoạt động lúc ẩn lúc hiện của Satan, hầu có thể tự hỏi, “Chúa muốn gì?”. Bởi lẽ, ngày nay, xã hội buộc chúng ta phải chọn lựa giữa vô vàn ‘lựa chọn đạo đức’ khi chúng ta bị giằng co giữa muôn vàn chèo kéo; khi trái tim bị phân tâm cách này, cách khác. “Phân định không chỉ là biết điều đúng hay sai, mà là nhận ra cái đúng giữa những điều gần như đúng!” - Charles Spurgeon. Phaolô thú nhận, “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm!” - bài đọc một.
Một trong những thủ đoạn của Satan là gieo dối trá và gây xáo trộn vô vàn cách. Lời lẽ gian giảo của nó có thể qua truyền thông, từ các nhà lãnh đạo chính trị; thậm chí, một số lãnh đạo tôn giáo. Nó yêu thích chia rẽ, phân hoá và rối loạn bất cứ nơi đâu. Vì thế, thật cấp thiết khi chúng ta đọc được các dấu chỉ để nhận ra những sai lầm đạo đức và văn hoá nghịch với Tin Mừng, với Hội Thánh để luôn tự hỏi, “Chúa muốn gì?”. “Ma quỷ không cần khiến ta ghét Thiên Chúa; nó chỉ cần khiến ta yêu thích dối trá!” - Fulton Sheen.
Anh Chị em,
“Chúa muốn gì?”. Như đêm mà chuông các nhà thờ Ba Lan rung lên cho một khởi đầu mới, mỗi biến cố trong đời chúng ta cũng có thể là một hồi chuông của Thiên Chúa. Vấn đề là chúng ta có dừng lại để lắng nghe được Ngài, Đấng vẫn nói giữa những ồn ào, vẫn hành động trong những điều tưởng nhỏ bé nhất. Nhận ra điều ấy - là khởi đầu của khôn ngoan, và là dấu chỉ của một con tim biết mình thuộc về ai. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con!”. “Phân định ý Chúa không phải là đọc trước tương lai, mà là nhận ra sự hiện diện của Ngài trong giây phút hiện tại!” - Thomas Merton.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giữa dòng đời xuôi chảy, xin dạy con biết lội ngược để tìm ý Ngài; vì chỉ khi nghịch dòng với thế gian, con mới thuận chiều với ý Chúa!”, Amen.
( Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Leo XIV và Vua Charles III tạo nên lịch sử với buổi cầu nguyện chung đầu tiên kể từ thời Cải cách.
Vũ Văn An
14:06 23/10/2025

Courtney Mares, trong bản tin ngày 23 tháng 10 năm 2025 của hãng CNA, cho biết: Lịch sử đã được tạo nên tại Nhà nguyện Sistine vào thứ Năm khi Đức Giáo Hoàng Leo XIV và Vua Charles III cùng nhau cầu nguyện, đánh dấu lần đầu tiên kể từ thời Cải cách Thệ Phản, một quốc vương Anh đương nhiệm và một giáo hoàng cùng nhau cầu nguyện trong một chuyến thăm cấp nhà nước.
Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã chủ trì buổi cầu nguyện giữa trưa của Các Giờ kinh Phụng vụ, đứng dưới bức bích họa "Ngày Phán xét Cuối cùng" của Michelangelo và đứng cạnh là Tổng Giám mục Anh giáo Stephen Cottrell của York, Vua Charles và Hoàng hậu Camilla.
Buổi cầu nguyện đại kết có sự tham gia của Dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistine cùng với các ca đoàn từ Nhà nguyện Thánh George tại Lâu đài Windsor và Nhà nguyện Hoàng gia của Đức Vua.
Các ca đoàn đã hát bài thánh ca “Come, Holy Ghost, Who Ever One” (Hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Hằng Hữu), một bài thánh ca của Thánh Ambrose, được Thánh John Henry Newman dịch sang tiếng Anh. Đức Giáo Hoàng Leo sẽ tuyên bố Đức Hồng Y Newman, vị Hồng Y người Anh thế kỷ 19 và là người trở lại đạo từ Anh giáo, là Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày 1 tháng 11.
Vua Charles đã tham dự lễ phong thánh cho Đức Hồng Y Newman vào năm 2019 và gần đây đã trở thành vị vua Anh đầu tiên đến thăm Nhà nguyện Birmingham, nơi Đức Hồng Y Newman sáng lập năm 1848.
Trong buổi cầu nguyện, các ca đoàn đã hát các câu Thánh Vịnh 8 và 64 bằng tiếng Latinh và tiếng Anh. Một bài đọc trích từ Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma (8:22–27) đã được đọc to trước khi Đức Giáo Hoàng Leo và Cottrell cùng nhau đọc lời cầu nguyện kết thúc bằng tiếng Anh.
Các Hồng Y, Giám mục và đại diện Anh giáo đã tham dự buổi cầu nguyện, điểm nhấn trong chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của Quốc vương tới Tòa thánh kể từ khi lên ngôi vào năm 2022.
Trong khuôn khổ chuyến thăm cấp nhà nước, Đức Giáo Hoàng Leo đã phê chuẩn việc phong tặng danh hiệu mới cho Quốc vương: "Liên huynh Hoàng gia [Royal Confrater]" của Giáo hoàng Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành. Đức Hồng Y James Michael Harvey, linh mục quản nhiệm của Vương cung thánh đường, sẽ chính thức trao tặng danh hiệu này trong buổi lễ đại kết buổi chiều tại lăng mộ Thánh Phaolô.
Đổi lại, Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã được trao tặng danh hiệu "Liên huynh Giáo hoàng [Papal Confrater]" của Nhà nguyện Thánh George ở Lâu đài Windsor, một trao tặng được Đức Giáo Hoàng Leo chấp nhận.
Đại sứ quán Anh tại Tòa thánh cho biết trong một tuyên bố: "Những món quà ‘liên huynh’ chung này là sự công nhận tình bằng hữu thiêng liêng và mang tính biểu tượng sâu sắc cho hành trình mà Giáo hội Anh (mà Quốc vương là Thống đốc Tối cao) và Giáo Hội Công Giáo Rôma đã trải qua trong suốt 500 năm qua".
Trước buổi cầu nguyện, Vua Charles và Hoàng hậu Camilla đã gặp riêng Đức Giáo Hoàng Lêô tại Điện Tông tòa. Nhà vua cũng gặp Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh, và Đức Tổng Giám Mục Paul Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao Vatican. Tòa thánh cho biết các cuộc thảo luận tập trung vào bảo vệ môi trường, chống đói nghèo và thúc đẩy đối thoại đại kết.
Văn phòng Báo chí Tòa thánh cho biết: "Chúng tôi đặc biệt chú trọng đến cam kết chung trong việc thúc đẩy hòa bình và an ninh trước những thách thức hoàn cầu".
Vua Charles cũng đã trao tặng Đức Giáo Hoàng danh hiệu Hiệp sĩ Đại Thập tự của Dòng Bath, trong khi Đức Giáo Hoàng trao tặng Đức Vua danh hiệu Hiệp sĩ Đại Thập tự với Vòng cổ của Dòng Giáo hoàng Pius IX của Vatican và Hoàng hậu Camilla danh hiệu Mệnh Phụ Đại Thập tự của cùng dòng.
Chuyến thăm hoàng gia diễn ra trong bối cảnh Vua Charles đang tiếp tục điều trị ung thư, căn bệnh được chẩn đoán lần đầu vào đầu năm 2024.
Cung điện Buckingham cho biết chuyến thăm cấp nhà nước của nhà vua - đã bị hoãn lại vào đầu năm nay do sức khỏe không tốt của Đức Giáo Hoàng Phanxicô - nhằm kỷ niệm Năm Thánh 2025 của Giáo hội và "công tác đại kết giữa Giáo hội Anh và Giáo Hội Công Giáo, phản ảnh chủ đề của Năm Thánh là cùng nhau bước đi như những 'Người hành hương của Hy vọng'".
Sau buổi lễ tại Nhà nguyện Sistine, Đức Giáo Hoàng Leo và Vua Charles đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và giáo hội tại Sala Regia của Cung điện Tông đồ để thảo luận về tính bền vững của môi trường và việc chăm sóc thiên nhiên.
Sau các cuộc họp tại Vatican, Vua Charles dự kiến sẽ đến thăm Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành, khôi phục mối quan hệ lịch sử giữa Anh và Vương cung thánh đường của Giáo hoàng. Sau khi các tu sĩ truyền giáo Rôma như Thánh Augustinô thành Canterbury và Thánh Paulinô xứ York đến Anh vào thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, các nhà cai trị Saxon bao gồm các vua Offa và Æthelwulf đã đóng góp vào việc bảo trì lăng mộ của các tông đồ ở Rome.
Đến cuối thời Trung Cổ, các vị vua của Anh được công nhận là “người bảo vệ” của Vương cung thánh đường Thánh Phaolô và tu viện, và tấm khiên huy hiệu của nó bao gồm cả huy hiệu của Huân chương Garter. Truyền thống này đã bị gián đoạn bởi cuộc Cải cách và nhiều thế kỷ xa cách sau đó.
Một chiếc ghế mới được đặt mang huy hiệu hoàng gia và cụm từ tiếng Latinh “Ut unum sint” (“Để họ nên một”) đã được lắp đặt tại Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành để Vua Charles và những người kế vị sử dụng trong các chuyến thăm sau này.
Vua Charles đã đến thăm Vatican nhiều lần với tư cách là Hoàng tử xứ Wales, bao gồm cả lễ tang của Đức Gioan Phaolô II và lễ phong thánh cho Newman. Buổi tiếp kiến giáo hoàng cuối cùng của ông là với Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào tháng 4, ngay trước khi Đức Phanxicô qua đời, mặc dù đó không phải là một chuyến thăm chính thức cấp nhà nước.
Nữ hoàng Elizabeth II, mẹ của Charles, đã gặp năm vị giáo hoàng trong suốt 70 năm trị vì của bà nhưng chưa bao giờ tham gia một buổi cầu nguyện công khai nào với bất cứ vị nào trong số các ngài.
‘Mùa xuân thứ hai’ của Thánh John Henry Newman đạt đến đỉnh cao
Vũ Văn An
14:37 23/10/2025

Cha Raymond J. de Souza, trong bản tin của National Catholic Register ngày 22 tháng 10, 2025, cho biết: Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ tuyên bố Thánh John Henry Newman là Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày 1 tháng 11, Lễ Các Thánh, khép lại một vài tuần lễ đáng nhớ đối với người Công Giáo tại quê hương Anh của ngài — những tuần lễ cho thấy vị thế hiện tại của họ đã thay đổi như thế nào kể từ giữa thế kỷ 19. Newman được phong Tiến sĩ vì công trình thần học của ngài, nhưng thời điểm này nhấn mạnh những thay đổi lịch sử mà ngài vừa là người tham gia vừa là người chứng kiến.
Ngày 9 tháng 10 là kỷ niệm 180 năm ngày ngài trở lại Công Giáo vào năm 1845. Vài tuần trước đó, ngày 29 tháng 9 là kỷ niệm 175 năm ngày khôi phục hàng giáo phẩm Anh vào năm 1850, ba thế kỷ sau khi Vua Henry VIII tách khỏi Rome.
Tuần này, Vua Charles III và Hoàng hậu Camilla sẽ có chuyến thăm cấp nhà nước tới Tòa thánh nhân dịp Năm Thánh; Nữ hoàng Elizabeth II quá cố cũng đã làm điều tương tự trong Đại Năm Thánh 2000. Rất nhiều sự kiện lịch sử đã được đề cập trong giai đoạn từ năm 1850 đến năm 2025.
Năm 1845, khi Newman trở thành người Công Giáo, ngài phải rời bỏ cuộc sống học thuật của mình tại Oxford; người Công Giáo không đủ điều kiện để làm giáo sư hoặc sinh viên. Vị tiến sĩ tương lai của Giáo hội không được phép giảng dạy tại một trường đại học Kitô giáo (Anh giáo).
Đó là tàn tích của cuộc đàn áp khốc liệt trước đây, nơi các vị tử đạo đã nhận được sự tôn kính lớn lao — trong số đó có Thánh John Fisher, Thomas More, Edmund Campion, Margaret Clitherow và Oliver Plunkett. Người Công Giáo chính thức bị phân biệt đối xử về mặt pháp lý, ngay cả khi không gặp nguy hiểm đến tính mạng.
Đến năm 1829, thời kỳ đàn áp dữ dội đã qua, và Quốc hội Anh đã thông qua Đạo luật Cứu trợ Công Giáo Rôma. "Sự giải phóng Công Giáo" đã xóa bỏ các rào cản pháp lý đối với người Công Giáo, bao gồm cả lệnh cấm giữ chức vụ công. (Yêu cầu tại các trường đại học Cambridge và Oxford phải tuyên xưng đức tin Anh giáo vẫn còn hiệu lực.)
Trong bối cảnh mới này, Tòa thánh quyết định tái lập cấu trúc đúng đắn của đời sống Công Giáo tại Anh: các giáo phận và giám mục. Từ năm 1688, một giám mục truyền giáo, hay còn gọi là "giám mục đại diện tông tòa", đã giám sát người Công Giáo ở London, vì không có giáo phận Công Giáo nào để một giám mục chủ trì. Có các "phái bộ" nhưng không có giáo xứ cố định.
Năm 1850, vào ngày lễ Thánh Michael, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã "khôi phục hệ thống phẩm trật" ở Anh và xứ Wales. Các giáo phận mới được thành lập và các giám mục mới được bổ nhiệm. Tổng giáo phận Westminster đã kỷ niệm 175 năm thành lập trong năm nay.
Phản ứng của giới lãnh đạo Anh giáo lúc bấy giờ rất dữ dội. Quốc hội đã thông qua các luật chống Công Giáo, mặc dù chúng không được chấp pháp và đã bị bãi bỏ nhiều thập niên sau đó. Những lời tố cáo về "sự xâm lược của Giáo hoàng" lan rộng.
Bản thân Nữ hoàng Victoria được cho là đã bày tỏ sự thất vọng của mình; điều đó sẽ chỉ còn là ký ức mờ nhạt khi Vua Charles đến thăm Đức Giáo Hoàng Leo XIV. Với tư cách là Hoàng tử xứ Wales, ông đã đích thân tham dự lễ phong thánh cho Hồng Y Newman vào năm 2019.
Bản thân Newman là nạn nhân của làn sóng cuồng tín chống Công Giáo đó, bị buộc tội - và bị kết án oan - vì tội phỉ báng một linh mục Công Giáo bị tước chức vì hành vi vô đạo đức khét tiếng trong một phiên tòa do một thẩm phán chống Công Giáo chủ trì. Newman bị buộc phải chi trả chi phí tòa án khoảng 12,000 bảng Anh (tương đương hơn 1 triệu đô la ngày nay).
Tuy nhiên, đến năm 1852, danh tiếng và sự kính trọng của Newman đã lớn đến mức người Công Giáo trên toàn thế giới đã đóng góp để trang trải chi phí — đến nỗi, với số tiền dư, Newman đã có thể mua Rednal, khu nghỉ dưỡng vùng nông thôn của dòng Oratory, nơi ngài được chôn cất.
Đây chính là bối cảnh mà Newman đã thuyết giảng một trong những bài giảng nổi tiếng nhất của ngài.
Năm 1852, Giáo phận Westminster mới thành lập đã tổ chức công đồng tỉnh đầu tiên, và Newman được mời đến thuyết giảng cho các giám mục được triệu tập. Vị tân tòng này đã thuyết giảng tại hầu hết mọi sự kiện Công Giáo quan trọng cho đến khi qua đời vào năm 1890.
Newman đã thuyết giảng một bài giảng có tựa đề "Mùa xuân thứ hai", so sánh việc phục hồi các giáo phận Công Giáo với sự trở lại của sự sống vào mùa xuân sau một mùa đông dài. Bản thân Newman là bông hoa tươi thắm nhất của sự phát triển mới mẻ đó. Việc một ngày nào đó, thành quả công việc của ngài sẽ được đánh giá xứng đáng để sánh vai cùng các thánh Ambrosiô và Augustinô, Chrysostom và Athanasiô với tư cách là các tiến sĩ của Giáo hội là điều không thể tưởng tượng được vào thời điểm đó.
Newman đã trực tiếp đề cập đến sự bùng nổ của chủ nghĩa bài Công Giáo, đánh dấu sự phục hồi phẩm trật Công Giáo, bằng văn xuôi trữ tình đặc trưng của mình.
Ngài hỏi: “Nhưng thưa các Cha, các Anh, điều gì đã xảy ra ở Anh vào lúc này?. Một điều gì đó kỳ lạ đang diễn ra trên vùng đất này… một cuộc xôn xao toàn quốc, gần như chưa từng có, dữ dội hơn những gì đã xảy ra ở đây trong nhiều thế kỷ – ít nhất là trong những phán đoán và ý định của con người, nếu không muốn nói là trong hành động và việc làm. … Mọi đảng phái trong cơ thể chính trị đều chịu ảnh hưởng của nó — từ Nữ hoàng trên ngai vàng, cho đến những đứa trẻ trong trường mẫu giáo hoặc trường học ban ngày.”
Sự xôn xao náo động là Giáo Hội Công Giáo, vốn bị đánh đập và bỏ mặc cho chết, bằng cách nào đó đã hồi sinh.
Newman lớn tiếng rao giảng: “Vậy thì, đây chính là nguyên nhân của sự vận động toàn quốc này, tiếng kêu toàn quốc này, bao trùm chúng ta. Quá khứ đã trở lại, người chết sống lại. Ngai vàng bị lật đổ, và không bao giờ được phục hồi; các quốc hiện hữu rồi diệt vong, và rồi chỉ còn là vấn đề của lịch sử. Babylon vĩ đại, Tyre, Ai Cập, Nineve, và sẽ không bao giờ vĩ đại nữa. Giáo hội Anh đã từng hiện hữu, và Giáo hội Anh đã từng không hiện hữu, và Giáo hội Anh lại một lần nữa hiện hữu. Đây là điềm báo, đáng được kêu gọi. Đó là sự trở lại của Mùa xuân thứ hai; đó là sự phục hồi trong thế giới đạo đức, giống như những gì diễn ra hàng năm trong thế giới vật chất.”
Từ bài giảng năm 1852 về các sự kiện năm 1850 và hậu quả của chúng, Mùa xuân thứ hai đã mở ra một thời kỳ hưng thịnh mới của Công Giáo Anh, một cuộc diễu hành bao gồm Ronald Knox, G.K. Chesterton, J.R.R. Tolkien và những nhân vật vĩ đại khác, dù nhỏ bé hơn, cũng tỏa sáng rực rỡ.
Việc phong thánh và tuyên bố Newman là Tiến sĩ Hội thánh là tia sáng rực rỡ nhất của ánh sáng đó, mặt trời lên đến đỉnh cao trên bầu trời mùa hè, 175 năm sau khi đời sống Công Giáo chính thức trở lại Anh.
Vụ trộm bảo tàng Louvre ở Pháp cướp đi di sản Công Giáo về lòng sùng đạo của Hoàng hậu Eugénie
Đặng Tự Do
16:58 23/10/2025
Bảo tàng Louvre ở Paris đã trở thành hiện trường của một vụ trộm ban ngày được lên kế hoạch tỉ mỉ vào sáng Chúa Nhật, ngày 19 tháng 10. Bốn người đàn ông đội mũ bảo hiểm đã đột nhập vào Galerie d'Apollon - nơi lưu giữ Vương miện Hoàng gia của Pháp - và đánh cắp tám món đồ trang sức được Bộ trưởng Nội vụ Laurent Nuñez mô tả là có “giá trị di sản vô giá”.
Trong số những đồ vật bị đánh cắp có chiếc trâm cài “thánh tích” của Hoàng hậu Eugénie, gợi cho thế giới nhớ đến đức tin Công Giáo nhiệt thành của vợ Napoleon III.
Những tên cướp, đến bằng xe tải trên Quai François Mitterrand — đại lộ ven sông Seine ngay dưới mặt tiền chính của Bảo tàng Louvre ở trung tâm Paris — đã sử dụng thang máy chở đồ đạc để tiếp cận cửa sổ tầng một, đột nhập vào phòng trưng bày và tẩu thoát bằng xe tay ga chỉ trong vài phút. Một món trang sức — vương miện của Hoàng hậu Eugénie — sau đó được tìm thấy bị vỡ gần bảo tàng, trong khi bọn trộm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Được chế tác vào năm 1855 bởi thợ kim hoàn của cung điện Paul Alfred Bapst, chiếc trâm cài này kết hợp vẻ lộng lẫy của hoàng gia với biểu tượng thân mật.
Các chuyên gia tại Bảo tàng Louvre lưu ý rằng thuật ngữ “hộp đựng thánh tích”, gắn liền với chiếc trâm cài áo kể từ khi bộ sưu tập Vương miện Kim cương được bán vào năm 1887 và được khắc trên chốt cài, từ lâu đã khiến các nhà sử học tò mò. Viên ngọc này không có khoang chứa thánh tích nào có thể nhìn thấy được.
Tuy nhiên, vì nó có thể được tháo rời, các nhà quản lý cho rằng nó có thể được thiết kế để cho phép lắp một bộ phận trung gian sau này có thể chứa một bộ phận như vậy. Mặt sau của hộp đựng có một ngăn nhỏ có thể phục vụ mục đích này — một chi tiết phù hợp với lòng sùng kính cá nhân nổi tiếng của Hoàng hậu Eugénie.
Món trang sức được đính 94 viên kim cương, trong đó có ba viên có nguồn gốc đặc biệt. Hai viên — được gọi là Mazarin thứ 17 và 18 — là một phần của bộ 18 viên đá quý huyền thoại được Hồng Y Jules Mazarin di chúc cho Louis XIV vào năm 1661, trong khi viên đá trung tâm — từng là một chiếc cúc áo trên áo chẽn của Vua Mặt Trời và sau này là một chiếc khuyên tai của Marie-Antoinette — gắn kết ba thế kỷ lịch sử nước Pháp.
Nhà sử học Éric Anceau, một chuyên gia về Đế chế thứ hai của Pháp, gọi vụ trộm là “một thảm họa”.
“Một phần di sản của chúng ta được hình thành trong ba thế kỷ đã biến mất”, ông viết.
Hiệp hội di sản Sites et Monuments cũng đồng tình với quan điểm này, mô tả chiếc trâm cài áo là “một bản tóm tắt ngắn gọn về lịch sử nước Pháp” và cảnh báo rằng những món đồ trang sức trên đó “có khả năng bị tháo rời và cắt lại để dễ bán lại”.
Danh tiếng của Hoàng hậu Eugénie như một vị vua thời thượng thường làm lu mờ lòng mộ đạo sâu sắc của bà. Những nhân chứng đương thời mô tả bà là người bác ái và sùng đạo, thậm chí còn sùng đạo quá mức trong mắt những người chỉ trích. Bà cầu nguyện hàng ngày, ủng hộ các dòng tu, và đích thân giám sát các khoản quyên góp của hoàng gia cho bệnh viện, giáo xứ và các quỹ cứu trợ — những nỗ lực đôi khi được gọi là “Bộ Bác ái” của bà.
Đức tin của bà cũng được Giáo hội công nhận. Trong lễ rửa tội cho hoàng tử tại Nhà thờ Đức Bà Paris vào tháng 6 năm 1856, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã gửi tặng bà một Bông hồng Vàng — là huân chương cao quý nhất của Giáo hoàng để tưởng thưởng lòng đạo đức hoặc những đóng góp cho Giáo hội.
Hai năm sau, bà đã can thiệp để mở lại hang động Lộ Đức cho khách hành hương sau khi con trai bà được chữa lành, như Aleteia đã nêu bật, trong đó cũng đề cập rằng trong trận dịch tả năm 1865, bà đã đích thân đến thăm người bệnh, mang lại sự an ủi cho những người đau khổ.
Ngày nay, Quỹ Napoléon lưu giữ một số vật dụng tôn giáo của Hoàng hậu Eugénie, bao gồm một chuỗi tràng hạt do các tu sĩ dòng Xitô Nhặt Phép ở Algeria tặng vào năm 1865 và một cuốn sách cầu nguyện trên đó bà ghi chép bằng tay ngày mất của Napoleon III vào năm 1873.
Trâm cài áo thánh tích thể hiện sự liên tục giữa chế độ quân chủ và đế chế, giữa quyền lực và đức tin. Với những viên kim cương hoàng gia được tái sử dụng và thiết kế bạc mạ vàng cùng họa tiết hoa văn cổ điển, chiếc trâm cài áo phản ánh cả thiên tài nghệ thuật của nước Pháp lẫn di sản Kitô giáo. Sự biến mất của nó do đó đánh dấu sự tan biến của một mối liên kết hữu hình giữa sự hùng vĩ trần thế và tâm hồn của nước Pháp với tư cách là người con gái đầu lòng của Giáo hội.
Chính quyền Pháp đã mở cuộc điều tra về “vụ trộm cắp có tổ chức và âm mưu phạm tội”, do Đội Phòng chống Tội phạm thuộc Cảnh sát Tư pháp Paris chỉ đạo. Hiện có sáu mươi điều tra viên đang được phân công điều tra vụ án.
Theo TF1/LCI, một manh mối đầy hứa hẹn đã xuất hiện vào ngày 21 tháng 10: Chiếc thang nâng đồ nội thất được sử dụng trong vụ đột nhập đã được truy tìm đến một vụ cướp xe ở thị trấn Louvres gần đó, nơi một số người đàn ông đóng giả làm người mua đã đánh cắp chiếc thang sau khi đe dọa một nhân viên chín ngày trước vụ trộm.
Các nhà điều tra sau đó phát hiện ra rằng biển số xe thang máy và các dấu hiệu nhận dạng đã bị thay đổi, bổ sung vào số lượng bằng chứng ngày càng tăng mà bọn trộm để lại - bao gồm hai máy mài góc, một chiếc găng tay, một đèn khò, một chiếc chăn, một máy bộ đàm và một can xăng.
Source:Catholic News Agency
Đức Hồng Y Parolin: Đàn ông và phụ nữ ở khắp mọi nơi đều xứng đáng được tự do trong các vấn đề đức tin
Đặng Tự Do
17:01 23/10/2025
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh, đã suy ngẫm về tầm quan trọng của tự do tôn giáo trong sự kiện của Vatican nhằm ra mắt Báo cáo Tự do Tôn giáo năm 2025 của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, gọi tắt là ACN.
Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Pietro Parolin đã nhấn mạnh “tự do tôn giáo là khía cạnh cơ bản của sự tồn tại con người” trong bài phát biểu quan trọng của mình tại Vatican vào thứ Ba, ngày 21 tháng 10, trong lễ ra mắt Báo cáo Tự do Tôn giáo năm 2025 của Tổ chức Viện trợ các Giáo hội Khó khăn, gọi tắt là ACN.
Đức Hồng Y Parolin cho biết: “Việc hiện thực hóa “quyền tự do do Chúa ban tặng”, gắn liền với bản chất con người, “không nên bị cản trở bởi những rào cản mang tính chất cá nhân, xã hội hoặc chính phủ”, và “nam giới và nữ giới ở khắp mọi nơi đều xứng đáng được tự do khỏi mọi hình thức ép buộc trong các vấn đề đức tin - dù đó là áp lực xã hội tinh vi hay mệnh lệnh công khai của nhà nước”.
Ngài nói tiếp: “Chính phủ và cộng đồng có trách nhiệm kiềm chế không ép buộc bất kỳ ai vi phạm niềm tin sâu sắc của họ hoặc cản trở bất kỳ ai sống đúng với niềm tin đó”.
Đức Hồng Y nói thêm rằng “tự do không phải là sự tán thành hoàn toàn cho sự dối trá hay sự cho phép chấp nhận sai lầm một cách liều lĩnh” mà là “lời mời gọi theo đuổi sự thật một cách siêng năng” và “tất cả mọi người đều được kêu gọi chịu trách nhiệm về mặt đạo đức”.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng báo cáo, năm nay là lần thứ 25, cho thấy “gần hai phần ba dân số thế giới sống ở những quốc gia xảy ra tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”, nghĩa là “khoảng năm tỷ bốn trăm triệu người” bị ảnh hưởng.
Đức Hồng Y cảnh báo rằng “điều đáng lo ngại” là tài liệu năm 2025 “là tài liệu có quy mô lớn nhất kể từ khi thành lập”, đồng thời cho biết thêm rằng đây là “nguồn thông tin và phân tích có giá trị” liên quan đến hiện tượng này.
Đức Hồng Y Parolin đã trích dẫn bài phát biểu gần đây của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV trước phái đoàn ACN để nhấn mạnh tầm quan trọng của báo cáo này và tầm quan trọng của tự do tôn giáo trong việc xây dựng các xã hội hòa bình. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng nguồn tài liệu này là “một công cụ mạnh mẽ” giúp “lên tiếng cho những người không có tiếng nói và phơi bày nỗi đau khổ thầm kín của nhiều người”, Đức Hồng Y Parolin nói.
Đức Giáo Hoàng cũng tuyên bố rằng “tự do tôn giáo không phải là một sự lựa chọn mà là một thành trì thiết yếu”, gắn liền với sự sáng tạo của mỗi người theo hình ảnh của Chúa, do đó trao quyền cho “mỗi tâm hồn theo đuổi chân lý và xây dựng xã hội công bằng”.
Ngài cảnh báo: “Nếu không có sự tự do này, nền tảng đạo đức của xã hội chắc chắn sẽ bị lung lay, dẫn đến chu kỳ nô dịch và xung đột”.
Điều này củng cố việc Giáo Hội Công Giáo bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho tất cả mọi người, quyền này phải được công nhận “trong đời sống pháp lý và thể chế của mọi quốc gia”.
Đức Hồng Y Parolin trích dẫn lời của Đức Giáo Hoàng và nói tiếp rằng tự do tôn giáo “không thể là điều trừu tượng” mà “phải được thực hiện, bảo vệ và thúc đẩy trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân và cộng đồng”.
Trong bài phát biểu, Đức Hồng Y Parolin đã suy ngẫm về hai văn kiện quan trọng nêu bật tầm quan trọng của tự do tôn giáo đối với thế giới. Văn kiện thứ nhất là Tuyên ngôn Dignitatis Humanae của Công đồng Vatican II, năm nay đánh dấu kỷ niệm 60 năm ngày công bố, ngày 7 tháng 12 năm 1965.
Thứ hai là “đối tác bình dân”, vốn là “nền tảng của nền tảng nhân quyền đương đại trong luật pháp quốc tế”, Điều 18 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Sau “những tội ác chưa từng có của Thế chiến II”.
Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cho biết, bài viết này giải thích với “độ chính xác tuyệt đối” về tầm quan trọng của tự do tôn giáo và thể hiện “sự phản đối tập thể đối với các ý thức hệ toàn trị đã dẫn đến thảm họa Holocaust và nhiều tội ác khác, nơi tính thiêng liêng của các tín ngưỡng cá nhân đã bị xóa bỏ một cách có hệ thống”.
Ngài nhấn mạnh: “Tự do tôn giáo không phải là một đặc quyền ngẫu nhiên mà là một quyền bất khả xâm phạm, không thể thiếu để phát huy hết tiềm năng của con người”, đồng thời cho biết thêm rằng báo cáo hiện tại của ACN tiết lộ rằng Điều 18 hiện nay là “một thành trì mong manh giữa vòng xoáy nghịch cảnh đầy biến động”.
Liên quan đến Dignitatis Humanae, Đức Hồng Y Parolin đã nêu rõ rằng tuyên bố này “dệt nên một tấm thảm tự do được tôi luyện bởi trách nhiệm, khuyến khích các xã hội xây dựng cầu nối thay vì dựng lên rào cản trong hành trình theo đuổi chân lý”. Ngài giải thích rằng tầm nhìn này kể từ đó đã “lan tỏa”, truyền cảm hứng cho sự tham gia của Công Giáo vào các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc và “thúc đẩy các phong trào chống đàn áp tôn giáo”.
“Nó đóng vai trò như một lời nhắc nhở rằng, khi được sắp xếp đúng đắn, tự do không chỉ là một quyền; nó còn là con đường dẫn đến Chân lý và sự hiệp thông sâu sắc hơn với Thiên Chúa và tha nhân”.
Đức Hồng Y cho biết thông điệp chính của Dignitatis Humanae là “quyền tự do xã hội và dân sự của cá nhân và cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo”.
“Đức tin phải là sự đáp trả tự do trước lời mời gọi của Thiên Chúa, chứ không phải là sự phục tùng bị ép buộc”, ngài nói, vì đức tin xuất phát từ sự thừa nhận “phẩm giá vốn có của tất cả con người, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.
Như Tuyên bố đã nêu một cách hùng hồn, “sự thật không thể bị áp đặt trừ khi dựa trên chính sự thật của nó”.
Ngài cũng lưu ý rằng “nguyên tắc tự do tôn giáo thấm nhuần mọi khía cạnh tương tác giữa con người, cả cá nhân và tập thể” và do đó nên “được ghi nhận là quyền công dân cơ bản trong hiến pháp, luật pháp trong nước và các hiệp ước quốc tế”.
Tuy nhiên, ngài giải thích, “tự do tôn giáo không nên được coi là một điều tuyệt đối không thể kiểm soát” mà là “một trạng thái cân bằng năng động, được giới hạn bởi trí tuệ và công bằng”.
Vì vậy, ngài nhấn mạnh, “sự thận trọng về mặt chính trị” phải được sử dụng để tạo ra các ranh giới được hình thành bởi các yêu cầu của “lợi ích chung”, và các chính quyền dân sự có “vai trò then chốt” trong việc ban hành luật pháp phù hợp với luật đạo đức bất biến (dựa trên lý trí tự nhiên và sự mặc khải của Chúa).
Ngài nhấn mạnh Dignitatis Humanae đưa ra nhiều lý do hợp lý về “sự cần thiết” của các biện pháp bảo vệ nhằm ngăn chặn vi phạm quyền tự do tôn giáo, bao gồm bảo vệ quyền công dân, nuôi dưỡng hòa bình công cộng và duy trì đạo đức công cộng.
Source:Vatican News
Bài giảng của Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk tại Oslo trong buổi cầu nguyện chung cho hòa bình với các nhà lãnh đạo tôn giáo của Ukraine và Na Uy
Đặng Tự Do
17:02 23/10/2025
«Hãy có cùng một tâm trí như Chúa Giêsu Kitô đã có» (Phi-líp 2:5)
Những lời này của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe vang vọng tiếng nói của Thiên Chúa và tinh thần của Giáo Hội sơ khai. Thánh Phaolô đã viết những lời này gần cuối cuộc đời và cuối chức thánh của ngài, khi đang bị giam cầm tại Rôma. Chắc chắn ngài đã rất cẩn thận khi chọn từ ngữ và hình ảnh khi ngỏ lời với cộng đồng Kitô giáo đầu tiên ở Âu Châu.
Nhiều học giả tin rằng đoạn văn này có thể không phải do chính Phao-lô biên soạn, mà được chèn vào thư của ngài như một trích dẫn hoàn chỉnh — một bài thánh ca ngợi Chúa Kitô mà Hội Thánh tại Phi-líp-phê có lẽ đã quen thuộc và hát trong các buổi lễ phụng vụ. Không phải ngẫu nhiên mà Phao-lô mở đầu bài thánh ca này bằng một lời khuyên mục vụ: «Anh em hãy có cùng một tâm tình như Chúa Giêsu Kitô». Rõ ràng, tư tưởng và thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thịnh hành, được coi là «chủ đạo» tại thành phố đó.
Vào thời điểm bức thư này được viết, Phi-líp-phê là một thuộc địa quân sự quan trọng của Rôma nằm trên một trong những tuyến đường giao thông huyết mạch của thế giới cổ đại—Via Egnatia. Con đường này nối liền Biển Adriatic với Biển Aegean, và sau đó nối liền Rôma với Constantinople. Cư dân của thành phố chủ yếu là binh lính hoặc cựu chiến binh của quân đội Rôma. Thế giới quan của họ phản ánh các giá trị của một xã hội quân sự hóa, trong đó vinh quang và quyền lực đặt một người lên đỉnh cao của kim tự tháp xã hội, nơi các đặc quyền và cấp bậc quân sự được giành được trên chiến trường và được coi—cùng với của cải cướp được—là những quyền bất khả xâm phạm mang lại ý nghĩa và phẩm giá cho cuộc sống của họ. Tâm lý được nuôi dưỡng ở đó đã thúc đẩy mọi người hướng lên, vì chỉ ở đó, theo quan điểm của họ, mới có quyền lực và vinh quang. Chỉ trước những người ở trên đỉnh cao, mọi đầu gối bên dưới mới phải cúi đầu—dù là tự nguyện hay bị ép buộc và sợ hãi.
Với những người Phi-líp-phê này, Tông đồ Phao-lô rao giảng về Chúa Kitô, Đấng “dù vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Ngài đã mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá.” Với những người đang khao khát vươn lên, Phao-lô rao giảng về Đấng đã chọn hạ mình xuống.
Chúa Kitô không xem sự hiện hữu của Ngài trong bản tính thần linh là một «đặc ân bất khả xâm phạm». Khi nói về Ngài, Phao-lô dùng từ harpagmon (ἁρπαγμὸν)—một thuật ngữ gợi lên hình ảnh con mồi của một kẻ săn mồi bị kẹp chặt trong móng vuốt của nó, không muốn thả ra cho kẻ khác. Do đó, sự xuất hiện của Chúa Kitô trong hình hài một người tôi tớ là một chuyển động, một hành động, một quá trình tự nguyện từ bỏ chính mình. Sử dụng từ ekenosen (ἐκένωσεν), Phao-lô thực sự nói về một «sự từ bỏ»—một sự từ bỏ mọi quyền năng và đặc ân phát sinh từ sự bình đẳng về thần tính của Ngài với Đức Chúa Cha.
Mục đích của sự giáng thế này của Con Thiên Chúa là cái chết trên thập tự giá—cái chết đáng xấu hổ và nhục nhã nhất, dành làm hình phạt cho những nô lệ và được gọi là servile supplicium.
Với tín hữu Phi-líp-phê, Phao-lô công bố: “Đức Kitô chịu đóng đinh là điều người Do Thái coi là chướng ngại vật và dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là người Do Thái hay người Hy Lạp, thì Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cô-rin-tô 1:23-24). Vị Tông đồ này chỉ ra một nghịch lý thần thánh: việc đóng đinh trên thập giá—điểm thấp nhất của sự hạ mình trong cuộc giáng thế của Đức Kitô—lại trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên. Điều mà con người cho là xấu hổ lại trở thành giờ phút Chúa Cha tôn vinh Con Ngài, ban cho Ngài “danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe danh Đức Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa.”
Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô! Hôm nay, Ukraine – dân tộc và Giáo hội của chúng ta – đang bước đi trên con đường kenosis được công bố cho chúng ta trong Lời Chúa này. Mỗi sự mất mát người thân, mỗi thành phố và làng mạc bị phá hủy, đều để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống không gì bù đắp được. Cả thế giới đang chứng kiến thảm kịch của Ukraine: một số người kinh ngạc, số khác thờ ơ; một số khác bất lực giơ tay lên và biến nỗi đau và sự thống khổ của chúng ta thành chất liệu cho các cuộc chiến truyền thông và thao túng, lợi dụng điều đó để phân cực xã hội của họ và giành lợi thế chính trị.
Ngày nay, dân tộc chúng ta đang chịu đựng sự đóng đinh của chính mình trước mắt cộng đồng thế giới, và dường như Thánh Phaolô đã nói chính xác về chúng ta khi ngài nói: «Chúng ta đã trở thành trò cười cho thế gian, cho thiên thần và cho loài người» (x. 1 Cr 4:9). Tuy nhiên, quyền năng và vinh quang của Thập Giá Chúa được tỏ lộ trong những đau khổ của chúng ta—và trong lời hy vọng của chúng ta, cho cả Ukraine và từ Ukraine, cho nhân loại đương đại.
Chúng ta đang chảy máu, và một lần nữa chúng ta tự hỏi: Chúa ơi, tại sao? Có lẽ câu hỏi này - Tại sao chúng ta, những người Ukraine, phải bị đóng đinh trước mắt toàn thế giới ngày hôm nay? - đang là tâm điểm suy ngẫm của tất cả những người thiện chí, cả người có đức tin lẫn người không có đức tin. Chúa ơi, tại sao các quốc gia khác được sống, phát triển, hân hoan và thịnh vượng, trong khi chúng ta phải chết đêm này qua đêm khác? Tại sao máu của những đứa trẻ lại chảy trên đất Ukraine? Chúa ơi, tại sao?
Có lẽ câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi này sẽ chỉ được tiết lộ vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng, khi tất cả những điều ẩn giấu sẽ được đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, chìa khóa để hiểu được thảm kịch này nằm ở Thập Giá thánh thiện và ban sự sống của Chúa Kitô.
Một trong những phản ứng sâu sắc nhất đối với điều bí ẩn này đã được nêu ra trong Bữa sáng cầu nguyện tại Kyiv vào Ngày Độc lập, khi mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến cầu nguyện cùng chúng tôi, cùng với các nhà lãnh đạo của chúng tôi, để lắng nghe Lời Chúa và để kỷ niệm Ngày Độc lập của Tổ quốc chúng ta.
Một người đàn ông tên Maksym Kulyk đến từ Kryvyi Rih đã bước lên phía trước - một người chồng, người cha đã trải qua bi kịch tương tự như gia đình Bazylevych ở Lviv. Chỉ trong một đêm, trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga, anh đã mất vợ và ba đứa con. Con gái út của anh, Uliana, mới chỉ hai tháng tuổi.
Người cha ấy hỏi: Lạy Chúa, tại sao chuyện này lại xảy ra với con?
Có người có thể trả lời: Chính vì tội lỗi của anh mà anh phải chịu đau khổ như vậy. Nhưng anh ấy trả lời:
«Không, điều đó không đúng! Những quốc gia khác ngày nay sống trong sự thịnh vượng cũng chẳng tội lỗi hơn hay ít tội lỗi hơn người dân Ukraine.»
«Tôi tin chắc rằng hôm nay Chúa đang tôn vinh và nâng cao Ukraine qua đau khổ, và đặt những vết thương của chúng ta trước mắt toàn thế giới. Ngài đang nói với tất cả những ai muốn đứng về phía lẽ phải của lịch sử: «Đừng ngoảnh mặt làm ngơ trước đau khổ, máu đổ, và nỗi đau của Ukraine.'“
«Chính vì lý do này mà Chúa muốn thế giới ngày nay nhìn thấy người Ukraine—nhìn thấy trái tim tin tưởng sâu sắc của chúng tôi, và nhận ra ở mọi ngóc ngách trên thế giới tâm hồn tin tưởng của Ukraine.»
Trong chúng ta ngày nay, nghịch lý thiêng liêng này một lần nữa lại được ứng nghiệm: sự đóng đinh trên thập tự giá—điểm thấp nhất của sự sỉ nhục trong sự giáng lâm—đã trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên.
Hôm nay, cùng với đại diện Hội đồng các Giáo hội và Tổ chức Tôn giáo toàn Ukraine, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả anh chị em Kitô hữu Na Uy và tất cả những người thiện chí vì tình đoàn kết với Ukraine. Cảm ơn anh chị em đã thể hiện lòng trắc ẩn đối với chúng tôi «cùng một tâm tình như Chúa Kitô Giêsu» (x. Phil. 2:5).
Giữa thảm kịch của cuộc chiến tranh xâm lược này—là một sự báng bổ chống lại Chúa và tội ác chống lại loài người—chúng ta nhớ lại lời của Thủ tướng Bồ Đào Nha, Hầu tước de Pombal, đã nói sau trận động đất làm rung chuyển Âu Châu năm 1755: «Hãy chôn cất người chết và nuôi sống người sống.» Mong rằng điều này sẽ trở thành phương châm cho sứ mệnh chung của chúng ta về lòng thương xót của Chúa Kitô—để chấm dứt chiến tranh và cứu Âu Châu khỏi một thảm họa khác.
Nguyện xin sự đau khổ của chúng ta và chứng tá chung của chúng ta về Phúc Âm của Chúa Kitô phục vụ cho mục đích «khi nghe danh Chúa Giêsu, mọi đầu gối phải quỳ xuống, trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.»
A-men.
Source:UGCC
Trí tuệ nhân tạo [AI] và sự hợp tác công tư
Vũ Văn An
18:00 23/10/2025

Ben Buchanan và Tantum Collins, trên tập san Foreign Affairs số Tháng 11/Tháng 12 năm 2025, đăng ngày 21 tháng 10 năm 2025, cho hay:
Sự dẫn đầu của Hoa Kỳ về trí tuệ nhân tạo dường như không thể lay chuyển. Các công ty Hoa Kỳ—Anthropic, Google, OpenAI và xAI—đang dẫn đầu trong hầu hết các đánh giá về năng lực chung của Kỹ thuật. Các mô hình AI của Mỹ đang vượt trội hơn các nhà khoa học trình độ tiến sĩ trong các vấn đề đầy thách thức về vật lý, hóa học và sinh học. Chỉ một vài công ty AI và chip khổng lồ của Mỹ có giá trị hơn toàn bộ thị trường chứng khoán Trung Quốc, và các nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang đổ ngày càng nhiều nguồn lực vào hệ sinh thái AI của Mỹ.
Sự tiến bộ chóng mặt này, xét trên nhiều phương diện, là minh chứng cho sức mạnh của mô hình phát triển AI của Mỹ đã thống trị trong thập niên qua: để khu vực tư nhân tự vận hành, với sự can thiệp hoặc cung cấp nguồn lực trực tiếp rất ít từ chính phủ. Cách tiếp cận này khá khác biệt so với những cách tiếp cận đã mở ra những Kỹ thuật đột phá trong quá khứ. Vũ khí và năng lượng hạt nhân, du hành vũ trụ, hệ thống tàng hình, máy tính cá nhân và Internet xuất hiện trực tiếp từ những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ hoặc nhờ nguồn tài trợ công đáng kể. AI cũng bắt nguồn từ khoa học do chính phủ tài trợ, bao gồm cả máy tính cá nhân và Internet, và nó được hưởng lợi từ các nghiên cứu đang diễn ra do chính phủ hỗ trợ. Tuy nhiên, việc mở rộng AI về cơ bản là một hoạt động của khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, có lý do để cho rằng cách phát triển AI của Mỹ đang đạt đến giới hạn. Những giới hạn đó có thể sẽ ngày càng rõ ràng hơn trong những tháng và năm tới, và chúng sẽ bắt đầu làm xói mòn - và thậm chí có thể chấm dứt - sự thống trị của Hoa Kỳ. Cuối cùng, chúng sẽ đặt Hoa Kỳ vào thế bất lợi trước Trung Quốc, quốc gia có một cách tiếp cận khác trong cuộc cạnh tranh về AI.
Để tránh kết quả đó, Washington sẽ cần áp dụng những cách thức mới để thúc đẩy phát triển AI, những cách thức đòi hỏi sự hỗ trợ lẫn nhau chặt chẽ hơn nhiều giữa khu vực tư nhân và nhà nước. Tiến bộ hơn nữa hiện nay phụ thuộc vào các nguồn lực và năng lực mà chỉ chính phủ mới có thể cung cấp hoặc tạo điều kiện: năng lượng để vận hành các trung tâm dữ liệu ngày càng lớn, nguồn nhân lực quốc tế dồi dào và khả năng phòng thủ hiệu quả trước các nỗ lực gián điệp tinh vi của nước ngoài. Về phần mình, chính phủ Hoa Kỳ sẽ cần sự hợp tác của khu vực tư nhân để tích hợp AI vào bộ máy an ninh quốc gia và đảm bảo Kỹ thuật này không làm suy yếu nền dân chủ trên toàn thế giới.
Nói cách khác, mô hình AI mới của Mỹ phải dựa trên một thỏa thuận lớn giữa ngành Kỹ thuật và chính phủ. Ngành Kỹ thuật có thể giúp nhà nước hiểu rõ và triển khai AI. Nhà nước có thể giúp ngành Kỹ thuật tiếp tục phát triển theo hướng thúc đẩy lợi ích của mọi người.
TỐI ĐA HÓA
Dễ hiểu tại sao cách tiếp cận nhẹ nhàng của Washington đối với AI nhìn chung lại mang lại lợi ích. Các Kỹ thuật mang tính cách mạng trong quá khứ, chẳng hạn như vũ khí hạt nhân và du hành vũ trụ, chưa có ứng dụng thương mại ngay lập tức. Nhưng tiềm năng kinh doanh của AI hiện đại đã rất hấp dẫn. Các công ty AI đã tìm thấy nhu cầu người dùng khổng lồ, dẫn đến doanh thu tăng vọt, và họ đã hứa hẹn sẽ tự động hóa vô số tác vụ có giá trị, chẳng hạn như lập trình. Kết quả là, thị trường vốn đang tài trợ cho các dự án AI ở quy mô mà trước đây đòi hỏi nguồn lực của chính phủ. Hơn nữa, bản chất tập trung vào tính toán của AI ngày nay đồng nghĩa với việc nó được xây dựng gọn gàng trên cơ sở hạ tầng điện toán đám mây mà khu vực tư nhân, chứ không phải chính phủ, đã nắm vững.
Việc có đủ vốn từ khu vực tư nhân để thúc đẩy sự tiến bộ của AI là điều tuyệt vời đối với người nộp thuế, nhưng những hạn chế của cách tiếp cận này đang trở nên rõ ràng. Để hiểu lý do, hãy xem xét cơ sở hạ tầng. Hàng loạt chip máy tính cần thiết để phát triển và sử dụng AI ngày nay đòi hỏi một lượng năng lượng khổng lồ, vì vậy các công ty Hoa Kỳ sẽ cần nhiều năng lượng hơn để cung cấp năng lượng cho các trung tâm dữ liệu mà họ dự định xây dựng trong những năm tới. Một phân tích của Anthropic ước tính rằng Hoa Kỳ sẽ cần sản xuất 50 gigawatt điện mới chỉ dành cho AI vào năm 2028 - gần tương đương với lượng điện mà toàn bộ đất nước Argentina đang sử dụng hiện nay. (Một trong số chúng tôi, Buchanan, tư vấn cho các công ty AI và an ninh mạng, bao gồm cả Anthropic.) Đến lúc đó, các trung tâm dữ liệu có thể tiêu thụ tới 12% sản lượng điện của Hoa Kỳ. Nếu không có thêm điện, việc phát triển AI sẽ bị đình trệ. Ví dụ, CEO của Amazon, Andy Jassy, đã gọi điện là "rào cản lớn nhất" đối với sự tiến bộ của AI. Và việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới ở mức độ này sẽ cần sự hỗ trợ của chính phủ.
Trong một thời gian dài, Washington đã làm quá ít để bổ sung điện mới vào lưới điện của mình. Từ năm 2005 đến năm 2020, Hoa Kỳ gần như không bổ sung thêm điện mới. Sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhậm chức vào năm 2021 và thông qua luật trợ cấp xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng sạch, đất nước đã bổ sung hơn 100 gigawatt công suất mới. Trong những ngày cuối nhiệm kỳ, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp nhằm mục đích đẩy nhanh hơn nữa việc phát triển AI và năng lượng sạch. Tuy nhiên, mặc dù người kế nhiệm ông, Donald Trump, đã nói những điều đúng đắn về việc xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng mới cho AI, nhưng ông vẫn chưa thực hiện. Ông đã ký một sắc lệnh hành pháp để đẩy nhanh việc cấp phép liên bang cho các trung tâm dữ liệu, nhưng việc triển khai vẫn còn đang ở giai đoạn đầu. Tệ hơn nữa, "Dự luật Lớn Tuyệt Đẹp" mang dấu ấn của ông, được thông qua vào tháng 7, và các hành động hành pháp khác đã phá hủy các phần quan trọng trong nỗ lực mở rộng năng lượng của Biden, chẳng hạn như các dự án truyền tải quan trọng. Một lĩnh vực lẽ ra đã có thể thành công nhờ lưỡng đảng đã trở thành nạn nhân của chính trị và giờ đây đã trở thành mối quan tâm lớn đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và AI.
Có lý do để nghĩ rằng cách phát triển AI của người Mỹ đang đạt đến giới hạn.
Nếu được thực hiện tốt, một sự bùng nổ năng lượng do AI thúc đẩy sẽ mang lại những lợi ích vượt xa bản thân sự phát triển AI. Các công ty AI hàng đầu đang chi hàng trăm tỷ đô la cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo ra cơ hội việc làm. Họ đã cam kết hoạt động không phát thải carbon và thể hiện sự sẵn sàng trả giá cao hơn cho năng lượng sạch. Những khoản đầu tư khổng lồ này có thể thúc đẩy sự phát triển trong nước các nguồn năng lượng tốt hơn, nhiều nguồn trong số đó có sức hấp dẫn lưỡng đảng, chẳng hạn như năng lượng địa nhiệt tiên tiến và các cơ sở hạt nhân thế hệ tiếp theo. Các mô hình AI mạnh mẽ cũng có thể thúc đẩy nghiên cứu liên quan đến khí hậu.
Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ không xây dựng thêm công suất năng lượng, các công ty AI của Mỹ sẽ cảm thấy áp lực phải thuê ngoài việc phát triển các cơ sở quan trọng về mặt chiến lược - có thể là các khu vực giàu dầu mỏ như Vịnh Mexico, nơi sử dụng nhiên liệu bẩn hơn. Đối với Washington, bất cứ triển vọng nào về việc chuyển giao AI ra nước ngoài đều phải gióng lên hồi chuông cảnh báo. Một công ty Mỹ chuyển giao chương trình đào tạo AI tiên tiến sang một quốc gia nước ngoài, đặc biệt là một quốc gia độc tài, sẽ gây ra những rủi ro rất lớn khi AI bắt đầu thúc đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ và đóng một vai trò không thể thiếu trong quốc phòng. Nếu một quốc gia sở tại không hài lòng với hành vi của Hoa Kỳ, họ có thể trừng phạt Washington chỉ bằng một cái búng tay. Việc không xây dựng được năng lực năng lượng trong nước do đó sẽ lặp lại những sai lầm trong việc thuê ngoài của các ngành Kỹ nghệ quan trọng khác trong nhiều thập niên qua, chẳng hạn như chất bán dẫn, mà Hoa Kỳ hiện đang phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài.
Hoa Kỳ có Kỹ thuật và năng lực kỹ nghệ cần thiết để xây dựng các cơ sở năng lượng mới. Tuy nhiên, việc này vẫn bị cản trở bởi một loạt các quy định của chính phủ và các công ty tiện ích, cũng như bởi sự chậm trễ về thủ tục - một số có lý do chính đáng, một số không. Những hạn chế này gây ra sự chậm trễ rất lớn trong việc kết nối (quy trình kết nối nguồn điện hoặc trung tâm dữ liệu mới với lưới điện) và đòi hỏi phải đánh giá tác động môi trường trong nhiều năm. Bên cạnh những rào cản của liên bang và các công ty tiện ích, các chính sách của tiểu bang và địa phương có thể rất phức tạp, đặc biệt là đối với các dự án liên bang, chẳng hạn như đường dây truyền tải. Các công ty - chứ không phải công dân - nên chi trả cho việc xây dựng năng lượng, nhưng các chính sách của chính phủ phải tạo điều kiện cho họ thực hiện các dự án này theo đúng tiến độ.
Cơ sở hạ tầng không phải là lĩnh vực duy nhất mà các chính sách của Mỹ kìm hãm ngành AI. Sự phát triển của AI phụ thuộc nhiều vào nhân tài cũng như vào Kỹ thuật và sức mạnh tính toán, đó là lý do tại sao chính quyền Biden đã hành động mạnh mẽ để tạo điều kiện cho những người có năng lực kỹ thuật đặc biệt đến Hoa Kỳ từ khắp nơi trên thế giới. Nỗ lực này bao gồm việc nâng tầm AI và các lĩnh vực Kỹ thuật cao khác thành các lĩnh vực ưu tiên cấp thị thực, cũng như cập nhật các tiêu chuẩn đủ điều kiện để chào đón các nhà khoa học hàng đầu.
Về vấn đề này, Trump đôi khi nói đúng nhưng luôn thất bại trong thực hành. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024, ông tuyên bố rằng khi sinh viên nước ngoài tốt nghiệp các trường đại học Hoa Kỳ, họ sẽ "tự động" nhận được thẻ xanh. Thay vào đó, dưới sự lãnh đạo của ông, Hoa Kỳ đã bắt đầu đóng cửa với người lao động và sinh viên nước ngoài, đe dọa ngay cả những người có thị thực và đang cư trú hợp pháp. Vào tháng 9, chính quyền thậm chí còn tuyên bố sẽ áp dụng mức phí 100,000 đô la cho các đơn xin thị thực H1-B - loại thị thực thường được cấp cho người nhập cư có tay nghề cao. Những động thái như vậy đã và đang gây ra những tác động tiêu cực. Ví dụ, nghiên cứu sơ bộ của NAFSA, một hiệp hội phi lợi nhuận của các nhà giáo dục quốc tế, cho thấy vào năm 2025, các trường đại học Mỹ sẽ bị giảm 30 đến 40% lượng tuyển sinh quốc tế.
Nếu Washington cắt đứt quan hệ với các nhà khoa học sinh ra ở nước ngoài hoặc trục xuất họ về nước, hậu quả sẽ rất thảm khốc. Hoa Kỳ dẫn đầu cuộc đua AI phần lớn là nhờ thu hút các chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới. Theo một nghiên cứu của GENghiên cứu của Đại học Georgetown về nghiên cứu AI từ năm 2010 đến năm 2021 cho thấy 70% các nhà nghiên cứu AI hàng đầu tại Hoa Kỳ sinh ra ở nước ngoài. 65% các công ty AI hàng đầu tại Hoa Kỳ, theo xếp hạng của Forbes, có ít nhất một nhà đồng sáng lập là người nhập cư. Trước nhiệm kỳ tổng thống hiện tại của Trump, 70% sinh viên theo học chương trình sau đại học về AI tại Hoa Kỳ đến từ nước ngoài. Trước đây, phần lớn những sinh viên này đã ở lại, thường có những đóng góp quan trọng cho ngành kỹ nghệ và học thuật Hoa Kỳ. Nhưng nhờ các chính sách của Trump, nhiều sinh viên ngày nay có thể sẽ trở về nước. Một số có thể đến Trung Quốc, quốc gia đã nhận thấy cơ hội tuyển dụng các chuyên gia AI - và cũng là thách thức đáng kể nhất đối với lợi ích AI của Hoa Kỳ.
THÁCH THỨC TỪ TRUNG QUỐC
Việc bảo vệ vị thế dẫn đầu về AI của Hoa Kỳ không chỉ là vấn đề tự hào. Nó rất quan trọng đối với an ninh quốc gia và khả năng cạnh tranh kinh tế của Hoa Kỳ. Trung Quốc đã và đang đạt được những bước tiến trong phát triển AI, và mặc dù chưa có công ty nào của nước này có thể sánh ngang với những công ty tốt nhất của Mỹ, nhưng họ không thiếu nhân tài kỹ thuật.
Trung Quốc phải đối diện với một bất lợi nghiêm trọng trong cuộc cạnh tranh này: không có khả năng sản xuất số lượng lớn chip AI tiên tiến, một điểm yếu càng trầm trọng hơn do các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ bắt đầu từ nhiệm kỳ đầu tiên của Trump và sau đó được Biden mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, sau khi ngành kỹ nghệ vận động hành lang mạnh mẽ, chính quyền Trump thứ hai đã bắt đầu phá bỏ lĩnh vực đồng thuận lưỡng đảng này. Ví dụ, vào tháng 7, chính quyền Trump đã đảo ngược quyết định hồi tháng 4 về việc loại Trung Quốc khỏi các chip AI mới hơn, và tổng thống cũng cho biết kế hoạch bãi bỏ các biện pháp kiểm soát khác dưới thời Biden. Những động thái như vậy gần như chắc chắn sẽ thúc đẩy sự phát triển AI của Trung Quốc.
Bắc Kinh đã hành động quyết đoán để đảm bảo rằng, nếu họ tiếp cận được những con chip như vậy, phần còn lại của hệ sinh thái AI của họ sẽ thay thế Hoa Kỳ. Hãy xem xét lĩnh vực năng lượng. Bắc Kinh đã đầu tư mạnh mẽ vào các nhà máy điện, kho lưu trữ năng lượng và truyền tải năng lượng. Kết quả là, Trung Quốc hiện sản xuất lượng điện gấp đôi Hoa Kỳ và vị thế dẫn đầu của họ đang ngày càng được mở rộng. Chỉ trong một số tháng, quốc gia này đã lắp đặt hơn 90 gigawatt công suất năng lượng sạch mới - gần gấp đôi lượng điện mà các công ty AI của Mỹ sẽ cần trong vài năm tới.
Bắc Kinh cũng đã giành được lợi thế bằng cách hợp nhất ngành kỹ nghệ AI với bộ máy an ninh quốc gia. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cho biết các công ty AI lớn của Trung Quốc, chẳng hạn như Tencent, là trụ cột chính trong chiến lược hợp nhất quân sự-dân sự của Trung Quốc. Các hệ thống AI như thế này có nhiều tiện ích cho các cơ quan quân sự và tình báo: chúng có thể hỗ trợ phát triển vũ khí, hoạt động mạng và giám sát trong nước, cùng nhiều nhiệm vụ khác. Đổi lại, chính phủ Trung Quốc đã cung cấp cho các công ty Kỹ thuật sự hỗ trợ chính sách và an ninh toàn diện. Trong lịch sử, sự hỗ trợ này bao gồm các dịch vụ quốc phòng và việc chuyển giao bí mật kỹ nghệ bị đánh cắp từ các doanh nghiệp Mỹ.
Việc mất vị thế dẫn đầu về AI vào tay Trung Quốc cũng sẽ gây ra thiệt hại to lớn trên toàn thế giới. Ngày nay, người tiêu dùng trên toàn thế giới được hưởng lợi từ sự nghiêm ngặt và minh bạch của các quy định và tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, thường được phát triển cùng với các nền dân chủ khác, trong nhiều lĩnh vực Kỹ thuật. Ví dụ, các Kỹ thuật mới như sạc xe điện đòi hỏi sự hợp tác thoàn cầu về tiêu chuẩn. AI sẽ đòi hỏi những mối quan hệ đối tác tương tự, và việc Washington dẫn đầu là vì lợi ích của mình. Nếu không, sẽ có nguy cơ các chế độ độc tài sẽ đơn phương đặt ra các tiêu chuẩn. Nếu Washington không thể thiết lập mối quan hệ tốt đẹp hơn với ngành AI của mình và đảm bảo vị thế dẫn đầu hoàn cầu về AI, bộ máy an ninh quốc gia Trung Quốc có thể định hình các tiêu chuẩn hoàn cầu để tuân thủ các quy tắc kiểm duyệt của Trung Quốc.
ĐIỀU NÀY CHO ĐIỀU NỌ
Hiện tại, mối quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các công ty AI và các cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ còn rất ít và những mối quan hệ này vẫn đang ở giai đoạn đầu. Để giải quyết thiếu sót này, chính phủ sẽ cần hiểu rõ hơn về AI là gì và cách thức hoạt động của nó. Chính phủ có thể hỗ trợ các ngành kỹ nghệ Hoa Kỳ, nhưng chỉ trong những lĩnh vực mà họ am hiểu sâu sắc, và hiện nay AI không nằm trong số đó. Trong thời chúng tôi giữ chính quyền, chúng tôi đã làm việc với một số công chức và sĩ quan quân đội thực sự am hiểu Kỹ thuật, những người đã thúc đẩy việc thay đổi bộ máy hành chính. Chính quyền Biden đã tuyển dụng hàng trăm chuyên gia AI để củng cố đội ngũ của họ. Nhưng nhiều người đã bị sa thải hoặc rời khỏi chính phủ trong những tháng gần đây, bao gồm nhiều nhân viên kỹ thuật hàng đầu. Washington sẽ phải làm tốt hơn nữa việc tìm kiếm nhân tài AI và đảo ngược xu hướng mà Trump đã khởi xướng.
Trong khi đó, các nhà lãnh đạo ngành Kỹ nghệ phải đảm bảo rằng các quan chức Hoa Kỳ hiểu rõ công việc của họ - và họ sẽ phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu của Washington. Các nhà lãnh đạo AI ở Thung lũng Silicon có thể ngần ngại hợp tác chặt chẽ hơn với chính phủ, do sự thiếu hiểu biết về kỹ thuật và sự chậm chạp trong bộ máy bàn giấy, và do họ đã đạt được nhiều thành công khi hoạt động độc lập. Tuy nhiên, các giám đốc điều hành nên nhớ rằng sự hợp tác giữa ngành Kỹ nghệ và Washington thường mang lại kết quả tốt đẹp cho tất cả mọi người. Chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã hợp tác với Công ty Ford Motor trong giai đoạn chuẩn bị cho Thế chiến II để sản xuất máy bay ném bom hạng nặng B-24 Liberator, tạo ra cả doanh thu cho Ford lẫn máy bay rất cần thiết cho quân đội. Dự án Manhattan sẽ không thể thành công nếu không có DuPont, General Electric, Chrysler và các tập đoàn trụ cột khác, tất cả đều được hưởng lợi nhờ sự hỗ trợ. Và việc phát minh và cải tiến radar, vệ tinh, máy bay phản lực, bộ vi xử lý và Internet đều xuất phát từ sự hợp tác giữa doanh nghiệp và chính phủ.
Một lĩnh vực quan trọng mà chính phủ có thể hỗ trợ các công ty là hỗ trợ an ninh. Do AI ngày càng thiết yếu đối với an ninh quốc gia, các cơ quan tình báo nước ngoài đang tăng cường nỗ lực đánh cắp các sáng kiến từ các doanh nghiệp Kỹ thuật Hoa Kỳ. Ví dụ, vào tháng 3 năm 2024, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã truy tố Linwei Ding, một kỹ sư phần mềm của Google, vì cáo buộc chuyển giao thiết kế chip AI của Google cho Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đã nỗ lực hết sức để buôn lậu các sản phẩm Kỹ thuật tiên tiến của Mỹ, chẳng hạn như chính chip AI.
Gián điệp Trung Quốc sẽ moi móc bất kỳ bí mật AI nào có thể từ các doanh nghiệp Mỹ. Nhưng họ có lý do chính đáng để tập trung vào việc đánh cắp trọng số mô hình - những con số mã hóa một mô hình AI đã được đào tạo. Nhờ đó, các công ty Trung Quốc có thể tránh được chi phí đào tạo, cũng như rút ngắn thời gian phát triển mô hình. Ví dụ, các công ty AI đang nỗ lực khám phá các thủ thuật thuật toán cho phép họ sử dụng sức mạnh tính toán hiệu quả hơn. Đối với Trung Quốc, với những hạn chế nghiêm trọng về sức mạnh tính toán, những hệ số nhân như vậy gần như chắc chắn vô cùng giá trị. Những hệ số nhân này có thể được bảo vệ kém hơn nhiều so với những bí mật cốt lõi của các thời đại trước, chẳng hạn như thời đại nguyên tử và vũ trụ, đơn giản vì chính phủ phần lớn không tham gia vào quá trình phát triển chúng.
Nếu Washington cắt đứt quan hệ với các nhà khoa học nước ngoài, hậu quả sẽ rất thảm khốc.
Các công ty AI chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ mạng lưới và tổ chức của họ. Nhưng bất chấp sự mất mát gần đây về chuyên môn, chính phủ Hoa Kỳ có năng lực an ninh mạng mà các doanh nghiệp không thể sánh kịp, và họ nên cung cấp hỗ trợ đáng kể, như hiện nay cho các công ty trong lĩnh vực Kỹ nghệ quốc phòng và cơ sở hạ tầng quan trọng. Sự hỗ trợ đó có thể bao gồm thông tin tình báo về các nỗ lực tấn công mạng của nước ngoài, hỗ trợ thẩm định nhân tài quốc tế và hướng dẫn về các quy trình an ninh. Các công ty làm việc trực tiếp với chính phủ Hoa Kỳ về an ninh quốc gia phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt, tương tự như các tiêu chuẩn áp dụng cho các nhà thầu quốc phòng khác.
Để thực hiện được cam kết của mình, các doanh nghiệp AI nên giúp Hoa Kỳ tích hợp Kỹ thuật của họ vào bộ máy an ninh quốc gia. Sự thiếu tích hợp này là một điểm yếu dai dẳng của Washington. Các công ty Mỹ có thể dẫn đầu thế giới về phát minh AI, nhưng nếu không có sự hợp tác như vậy, quốc gia này sẽ tụt hậu trong việc ứng dụng AI cho mục đích quân sự, điều này có thể gây ra hậu quả thảm khốc trong xung đột. Trong suốt lịch sử quân sự, nhiều quốc gia không tích hợp Kỹ thuật mới vào lực lượng vũ trang của mình đã phải gánh chịu hậu quả. Ví dụ, Pháp và Vương quốc Anh đã phát minh ra xe tăng trong Thế chiến thứ nhất nhưng đã phải trả giá đắt khi Đức là nước đầu tiên làm chủ được việc sử dụng nó, cho phép họ thực hiện các cuộc tấn công chớp nhoáng mạnh mẽ trong Thế chiến thứ hai. Để ngăn chặn hậu quả tương tự, Bộ Quốc phòng và các cơ quan tình báo phải mua sắm và sử dụng các hệ thống AI tiên tiến, và họ sẽ cần sự hướng dẫn thực hành từ các chuyên gia kỹ thuật trong khu vực tư nhân để thực hiện việc này một cách hiệu quả.
Biden đã vạch ra một phác thảo về cách thức hợp tác này có thể hoạt động vào tháng 10 năm 2024, khi ông ký một bản ghi nhớ an ninh quốc gia chỉ đạo chính phủ tăng cường sử dụng AI cho mục đích an ninh quốc gia. Văn bản này bao gồm các quy định nghiêm ngặt để đảm bảo Kỹ thuật này không tạo điều kiện cho vi phạm nhân quyền, giám sát trong nước hoặc các hoạt động phi đạo đức khác - những biện pháp bảo vệ thiết yếu để giành được lòng tin của các nhà phát triển AI trong khu vực tư nhân và công chúng. Không giống như nhiều sắc lệnh hành pháp khác của Biden, Trump vẫn chưa bãi bỏ sắc lệnh này. Tuy nhiên, tổng thống đã đạt được rất ít tiến triển trong nhiều điều khoản quan trọng của sắc lệnh và đã sa thải một số chuyên gia cấp cao phi chính trị, những người đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện sắc lệnh này.
Khi chính phủ và ngành Kỹ nghệ phát triển mối quan hệ đối tác an ninh quốc gia tốt hơn, họ sẽ cần đặc biệt chú ý đến cách AI có thể giải quyết các vấn đề cấp bách trong cuộc cạnh tranh của Washington với Bắc Kinh. Ví dụ, có nhiều cách Hoa Kỳ có thể sử dụng AI trong các hoạt động mạng, như được minh họa bởi Thử thách An ninh Mạng AI do Cơ quan Các Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng thực hiện. Quốc gia nào tích hợp AI vào lĩnh vực mạng nhanh chóng và hiệu quả hơn có thể sẽ chứng tỏ khả năng bảo vệ mạng lưới của mình và xâm nhập vào mạng lưới của các quốc gia khác tốt hơn, mở ra một lợi thế tình báo to lớn. AI cũng có thể cải thiện năng lực của Washington trong các lĩnh vực an ninh khác, chẳng hạn như tình báo không gian địa lý, tình báo tín hiệu, hậu cần và thiết kế vũ khí. Nhưng sẽ chẳng có gì xảy ra nếu không có sự chỉ đạo rõ ràng từ chính phủ và sự tham gia có ý nghĩa của các công ty AI Mỹ.
NGUY HIỂM TỪ NGƯỜI LẠ
Có một lý do cuối cùng tại sao chính phủ Hoa Kỳ và các công ty AI hàng đầu cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn: cùng nhau, họ sẽ phải cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro. Trong thế giới Kỹ thuật, hầu như mọi người đều đồng ý rằng mặc dù AI có thể mang lại những lợi ích to lớn cho nhân loại - chữa khỏi bệnh tật, thúc đẩy Kỹ thuật sạch, loại bỏ lao động chân tay - nhưng nó cũng có thể gây ra những tác hại to lớn. Một số rủi ro này, chẳng hạn như việc các quốc gia độc tài sử dụng AI để định hình lại trật tự Hoàn cầu, có thể tránh được bằng cách duy trì và mở rộng vị thế dẫn đầu của Washington so với các đối thủ cạnh tranh. Nhưng những mối nguy hiểm khác lại khó giảm thiểu hơn. Ví dụ, một số nhà tư tưởng AI hàng đầu tin rằng việc một người dùng độc hại duy nhất có thể khai thác AI mạnh mẽ để tạo ra một mầm bệnh mới gây chết người là điều hoàn toàn có thể, hoặc thậm chí có khả năng xảy ra. Những người khác lo ngại rằng ngay cả trong tay những người có thiện chí, các thuật toán mạnh mẽ vẫn có thể gây ra những tai nạn thảm khốc bằng cách thực hiện những hành động mà người tạo ra chúng không hề mong muốn. Tiếp theo là những hậu quả ít viển vông hơn nhưng vẫn rất thảm khốc, bao gồm thất nghiệp hàng loạt, tập trung quyền lực kinh tế nghiêm trọng và phân biệt đối xử trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe do các mô hình thiên vị và dữ liệu đào tạo.
Từ góc độ chính sách, bất cứ kịch bản nào trong số này cũng sẽ đặt ra một thách thức mang tầm vóc lịch sử và buộc phải đánh đổi khó khăn. Ví dụ, trong một thế giới giả định mà một người dùng AI đơn lẻ có thể gây ra tác hại thảm khốc, chính phủ sẽ phải xem xét các quy định toàn diện về việc phát triển và sử dụng các hệ thống tinh vi, ngay cả khi điều đó làm chậm quá trình đổi mới. Và nếu AI tự động hóa một phần lớn công việc của con người, chính phủ có thể phải chi một khoản tiền lớn để đào tạo lại lực lượng lao động, hoặc có thể phải tạo điều kiện cho một nền kinh tế được tái cấu trúc. Với tốc độ tiến bộ của AI, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những quyết định quan trọng này trong một khoảng thời gian cực kỳ eo hẹp - tất cả đều liên quan đến một Kỹ thuật mà chính phủ không phải là người phát minh ra và hiểu biết về nó rất ít.
Sự hợp tác sâu rộng hơn giữa khu vực công và tư nhân, cũng như với xã hội dân sự, không đảm bảo rằng nhà nước sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, điều này mang lại cho Washington cơ hội chiến thắng để đảm bảo một kết quả tích cực. Với nền tảng kỹ thuật vững chắc hơn, các quan chức có thể hiểu rõ hơn về mức độ đáng tin cậy của các hệ thống AI tuân theo hướng dẫn, cách chúng xử lý các nhiệm vụ nguy hiểm, những lĩnh vực nào chúng có thể thay thế lao động con người và mức độ chúng thiên về tấn công so với phòng thủ trong các lĩnh vực an ninh và an toàn.
Sự ra đời của Trung tâm Tiêu chuẩn và Đổi mới AI tại Bộ Thương mại (được thành lập với tên gọi Viện An toàn AI dưới thời chính quyền Biden) là một bước khởi đầu quý giá để xây dựng sự hợp tác có ý nghĩa. Kể từ khi thành lập, CAISI đã tập hợp các quan chức chính phủ và các công ty để hợp tác về các vấn đề an toàn. CAISI cũng đã hỗ trợ phát triển các cơ chế kiểm tra tiêu chuẩn hóa cho AI. CAISI đã hợp tác với các cơ quan khác có chuyên môn trong từng lĩnh vực để thực hiện các thử nghiệm tự nguyện bổ sung về các chủ đề đặc biệt quan trọng, chẳng hạn như hợp tác với Bộ Năng lượng và công ty AI Anthropic để đánh giá liệu các mô hình AI tiên tiến có chứa kiến thức nguy hiểm về vũ khí hạt nhân hay không. CAISI đóng vai trò nổi bật trong Kế hoạch Hành động AI của Trump, và chính quyền cần trao quyền cho CAISI thực hiện hợp tác tự nguyện với các công ty, thiết lập các tiêu chuẩn và tiến hành thử nghiệm an toàn.
Nhờ nỗ lực của CAISI và các cam kết tự nguyện mà các công ty AI hàng đầu đã đưa ra với Nhà Trắng dưới thời Biden, các công ty AI đã hứa sẽ tiến hành thử nghiệm an toàn độc lập cho các mô hình của họ, thường dựa trên hướng dẫn của CAISI. Trong một số trường hợp, các công ty thậm chí đã đồng ý cấp cho CAISI quyền truy cập vào các hệ thống mới trước khi chúng được phát hành và đã khen ngợi chính phủ về chuyên môn cụ thể về an ninh quốc gia mà CAISI đã cung cấp để đổi lại. Cả hai bên nên tăng cường sự hợp tác này, dành nhiều thời gian và nguồn lực hơn để xây dựng các tiêu chuẩn cao và tiến hành đánh giá nghiêm ngặt các mô hình mới.
TỪ CHÍNH PHỦ, CÓ MẶT ĐỂ GIÚP ĐỠ
Những món hời lớn thường hữu hiệu hơn như những đường nhãn hiệu hơn là chính sách, và việc đạt được một thỏa thuận đúng đắn khi nói đến AI thì nói dễ hơn làm. Xét cho cùng, Kỹ thuật này đang phát triển nhanh chóng theo một con đường không thể đoán trước. Khi AI được cải thiện, nhu cầu về cơ sở hạ tầng, năng lượng và tiền bạc sẽ ngày càng lớn; nhu cầu tăng cường an ninh trước các mối đe dọa tình báo nước ngoài sẽ tăng lên; và tính cấp thiết của việc hợp tác với bộ máy quốc phòng sẽ ngày càng tăng. Rủi ro lạm dụng cũng vậy, dẫn đến những đánh đổi chính sách mới. Sẽ có thêm nhiều công ty khởi nghiệp xuất hiện, và các công ty truyền thống, vốn tưởng chừng như không thể ngăn cản, có thể đang bị bỏ lại phía sau. Mọi người tham gia vào thế giới AI nên chuẩn bị cho việc đàm phán lại và tái cân bằng liên tục. Về phần mình, các quan chức Hoa Kỳ gần như chắc chắn sẽ phải duy trì sự linh hoạt, thử nghiệm các chính sách AI khác nhau theo thời gian.
Nhưng trong bối cảnh bất ổn này, điều bắt buộc là Washington phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc tạo điều kiện và định hình hệ sinh thái AI của Hoa Kỳ. Kỹ thuật này không cần phải phát triển như vũ khí hạt nhân đã từng - dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước - nhưng Washington không thể ngồi yên. Thay vào đó, AI có lẽ nên phát triển như ngành đường sắt Hoa Kỳ đã từng làm vào những năm 1800. Khu vực tư nhân đảm nhiệm hầu hết việc lập kế hoạch và xây dựng, nhưng chính phủ cũng đóng một vai trò quan trọng. Chính phủ đã ban hành luật và giấy phép xây dựng cơ sở hạ tầng. Chính phủ đã thông qua các yêu cầu an toàn của chính phủ được hiệu chỉnh cẩn thận, hợp lý - chẳng hạn như khổ đường ray tiêu chuẩn, quy định sử dụng phanh khí nén và các yêu cầu về khớp nối toa xe - tất cả đều giúp tàu hỏa vừa nhanh hơn vừa an toàn hơn. Sự hợp tác này không hoàn hảo, nhưng nó hữu hiệu: Đường sắt Hoa Kỳ đã trở thành một tài sản quốc gia, tăng cường an ninh và thịnh vượng của Hoa Kỳ. Trí tuệ nhân tạo tiên tiến cũng có thể thúc đẩy sức mạnh và lợi ích của Hoa Kỳ, miễn là nó được phát triển đúng cách và theo đúng cơ chế. Giờ đây, cũng như trước đây, đã đến lúc khu vực công và tư phải sát cánh bên nhau.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nỗi buồn thời sự
Maria Vũ Loan
04:45 23/10/2025
NỖI BUỒN THỜI SỰ
Xem Hình
• Những ngày trăng đã qua, tôi không thể gửi gắm cảm xúc của mình vào nét đặc biệt của trăng – trăng tròn, trăng khuyết, trăng sáng, trăng yêu thương...- mà cảm thấy buồn khi trăng sục sôi theo dòng nước lũ, để lại nỗi buồn sâu thẳm trong lòng nhiều người trên đất Việt. Những ngày tháng mười dù bận việc riêng gia đình, tôi vẫn cảm nhận được nỗi buồn khi thời sự thế giới như bị lạc hướng, trên đường đi đến đích hòa bình. Những nhà lãnh đạo bỗng như những con rối quyền lực bị ma quỷ thao túng tâm lý một cách nghiệt ngã đến đáng thương, tạo kế hoạch cho những cuộc chiến vô nghĩa.
• Từ chiến tranh, kéo theo bao đau thương: những chàng trai trẻ phơi phới tuổi đời ngã xuống; những người phụ nữ ôm con với khuôn mặt đau thương tột cùng; nhiều gia đình bỗng chốc ly tan... chắc chắn là khuôn mặt Thượng Đế sầu buồn, còn những nhà lãnh đạo quốc gia coi đó như một ván cờ!
• Bên cạnh nỗi buồn chiến tranh là thời sự xã hội. Lòng tham - một yếu tố đang làm xáo trộn xã hội, nhấn chìm nhiều cuộc đời trong lao lý – đã khiến nhiều người phải suy nghĩ. Toàn những người trẻ tuổi bị bắt, từ hoa hậu đến giang hồ mà cả những người đã nghỉ hưu phải tra tay vào còng. Ngày trước, bà hàng xóm nói với má tôi: “Ối giời, tiền bạc thì từ quân tử đến kẻ cướp đều thích bà ạ!”. Rồi vừa buồn vừa bật cười khi thấy người ta chen chúc nhau mua vàng. Thế mới biết sự quyến rũ và sức mạnh của đồng tiền! May mà Thiên Chúa đã cho con người “rời khỏi thế gian” mà không mang được gì. Nhiều người cứ bảo: tiền bạc không mua được tình yêu! Cứ ngẫm mà xem, tiền bạc mua được tất cả, nếu mình làm chủ nó: tình yêu xem ra có phần bền vững nếu có tiền; nếu biết chia sẻ cho họ hàng thân thuộc thì tiền “mua được” sự yêu thương chan hòa; tình thân nơi giáo đường hay bè bạn, đồng nghiệp cũng đầy thêm nhờ sự rộng rãi, sẻ chia.
• TGP Sài Gòn vừa triển lãm phép lạ Thánh Thể, tôi buồn khi không thể đến đó rồi ghi nhận cảm xúc của mình vì người thân về thăm quê hương. Cũng vì bận rộn, tôi cũng chỉ hiệp dâng thánh lễ trực tuyến, mà thấy lòng bứt rứt vì “thiếu thốn Thánh Thể”, làm việc gì cũng thiếu khôn ngoan. Uống một ly cà phê, tôi boăn khoăn, mới “xa Chúa” ba tuần mà tôi đã như thế, vậy không hiểu sao những người giữ đạo cầm chừng, bỏ đạo thì tâm hồn họ khô khan, bụi bặm và u tối như thế nào? Có bứt rứt hay không? Giáo Hội có bao giờ “thống kê” những người đã có dấu ấn (rửa tội) của Chúa mà chẳng đến nhà thờ, giữ đạo hời hợt hay không? Rõ ràng các Giáo hội địa phương luôn cần tái truyền giáo cho những người nguội lạnh này. Tôi đang biết có những người như thế, khá nhiều, nên mới nặng lòng suy tư.
• Đầu năm học này, cháu tôi vào trường dòng của quí cha để học cấp ba. Tôi mừng và hồi hộp mong cháu trụ lại được nơi ấy; rồi là một người trưởng thành trong xã hội, có ích cho đời là được; cho dù là một “bố đời” chăm chỉ hay đặc biệt là một linh mục hiền lành. Hằng ngày, theo dõi tin tức, thấy các cháu thanh thiếu niên phạm pháp nhiều quá, tôi buồn. Ước gì, cứ hai giáo phận lại có một “trường dòng học phổ thông hợp pháp” như thế! Hơn 400 em ở trường dòng đó hẳn là niềm vui cho 400 gia đình, yên tâm làm ăn, sinh sống giữa thời điểm xã hội bất ổn này.
• Vừa qua, Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ phong thánh cho bảy chân phước. Ngồi trước màn hình rộng, màu đẹp trong phòng, tôi thấy Đức Thánh Cha thật thân quen. Niềm ao ước có đủ sức khỏe để đến nước Ý dự lễ phong thánh không còn ngấu nghiến tôi nữa. Đôi khi dự thánh lễ trực tuyến do Đức Thánh Cha chủ sự, tôi có được niềm vui thầm lặng khiến tôi ảo tưởng: mấy chục năm sau, một Đức Giáo Hoàng nào đó dâng lễ để tỏ lòng yêu mến những người đã từng yêu thương, chia sẻ trong công việc bác ái xã hội; có 50 vị được gọi là “Những Kitô hữu đáng mến”, rồi tên của tôi được xướng lên ở thứ 36...”, nghĩ đến đây, tôi bật cười về tham vọng của mình! Điều tôi tưởng tượng có xảy ra không khi bây giờ làm công việc bác ái – xã hội khó quá! “Nhiều con sâu” làm rầu nồi canh chứ không phải “một con”! Mạng xã hội lan rộng, phân hóa lòng người, suy nghĩ khác nhau dẫn đến đối nghịch; rồi công nghệ trí tuệ làm cho thật, giả lẫn lộn... Có lẽ không thể ồn ào thêm nữa mà phải cẩn thận, thầm lặng hơn.
• Trong năm nay, tôi được chúc thọ ba lần: đại gia đình mừng tôi đúng ngày sinh nhật; rồi đến Hội Cựu Giáo Chức Quận và Ủy Ban Nhân Dân Phường mới. Tôi vui nhưng cứ chạnh lòng khi nghĩ đến các cụ già không tiền, buồn phiền vì bệnh hoạn, u uất về con cháu...thôi thì xin dâng lên Chúa một lời cầu nguyện chung với niềm hy vọng mọi người được an vui cho dẫu xã hội đang ném vào lòng người những nỗi buồn có khi mênh mang, có khi xéo xắt.
Xem Hình
• Những ngày trăng đã qua, tôi không thể gửi gắm cảm xúc của mình vào nét đặc biệt của trăng – trăng tròn, trăng khuyết, trăng sáng, trăng yêu thương...- mà cảm thấy buồn khi trăng sục sôi theo dòng nước lũ, để lại nỗi buồn sâu thẳm trong lòng nhiều người trên đất Việt. Những ngày tháng mười dù bận việc riêng gia đình, tôi vẫn cảm nhận được nỗi buồn khi thời sự thế giới như bị lạc hướng, trên đường đi đến đích hòa bình. Những nhà lãnh đạo bỗng như những con rối quyền lực bị ma quỷ thao túng tâm lý một cách nghiệt ngã đến đáng thương, tạo kế hoạch cho những cuộc chiến vô nghĩa.
• Từ chiến tranh, kéo theo bao đau thương: những chàng trai trẻ phơi phới tuổi đời ngã xuống; những người phụ nữ ôm con với khuôn mặt đau thương tột cùng; nhiều gia đình bỗng chốc ly tan... chắc chắn là khuôn mặt Thượng Đế sầu buồn, còn những nhà lãnh đạo quốc gia coi đó như một ván cờ!
• Bên cạnh nỗi buồn chiến tranh là thời sự xã hội. Lòng tham - một yếu tố đang làm xáo trộn xã hội, nhấn chìm nhiều cuộc đời trong lao lý – đã khiến nhiều người phải suy nghĩ. Toàn những người trẻ tuổi bị bắt, từ hoa hậu đến giang hồ mà cả những người đã nghỉ hưu phải tra tay vào còng. Ngày trước, bà hàng xóm nói với má tôi: “Ối giời, tiền bạc thì từ quân tử đến kẻ cướp đều thích bà ạ!”. Rồi vừa buồn vừa bật cười khi thấy người ta chen chúc nhau mua vàng. Thế mới biết sự quyến rũ và sức mạnh của đồng tiền! May mà Thiên Chúa đã cho con người “rời khỏi thế gian” mà không mang được gì. Nhiều người cứ bảo: tiền bạc không mua được tình yêu! Cứ ngẫm mà xem, tiền bạc mua được tất cả, nếu mình làm chủ nó: tình yêu xem ra có phần bền vững nếu có tiền; nếu biết chia sẻ cho họ hàng thân thuộc thì tiền “mua được” sự yêu thương chan hòa; tình thân nơi giáo đường hay bè bạn, đồng nghiệp cũng đầy thêm nhờ sự rộng rãi, sẻ chia.
• TGP Sài Gòn vừa triển lãm phép lạ Thánh Thể, tôi buồn khi không thể đến đó rồi ghi nhận cảm xúc của mình vì người thân về thăm quê hương. Cũng vì bận rộn, tôi cũng chỉ hiệp dâng thánh lễ trực tuyến, mà thấy lòng bứt rứt vì “thiếu thốn Thánh Thể”, làm việc gì cũng thiếu khôn ngoan. Uống một ly cà phê, tôi boăn khoăn, mới “xa Chúa” ba tuần mà tôi đã như thế, vậy không hiểu sao những người giữ đạo cầm chừng, bỏ đạo thì tâm hồn họ khô khan, bụi bặm và u tối như thế nào? Có bứt rứt hay không? Giáo Hội có bao giờ “thống kê” những người đã có dấu ấn (rửa tội) của Chúa mà chẳng đến nhà thờ, giữ đạo hời hợt hay không? Rõ ràng các Giáo hội địa phương luôn cần tái truyền giáo cho những người nguội lạnh này. Tôi đang biết có những người như thế, khá nhiều, nên mới nặng lòng suy tư.
• Đầu năm học này, cháu tôi vào trường dòng của quí cha để học cấp ba. Tôi mừng và hồi hộp mong cháu trụ lại được nơi ấy; rồi là một người trưởng thành trong xã hội, có ích cho đời là được; cho dù là một “bố đời” chăm chỉ hay đặc biệt là một linh mục hiền lành. Hằng ngày, theo dõi tin tức, thấy các cháu thanh thiếu niên phạm pháp nhiều quá, tôi buồn. Ước gì, cứ hai giáo phận lại có một “trường dòng học phổ thông hợp pháp” như thế! Hơn 400 em ở trường dòng đó hẳn là niềm vui cho 400 gia đình, yên tâm làm ăn, sinh sống giữa thời điểm xã hội bất ổn này.
• Vừa qua, Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ phong thánh cho bảy chân phước. Ngồi trước màn hình rộng, màu đẹp trong phòng, tôi thấy Đức Thánh Cha thật thân quen. Niềm ao ước có đủ sức khỏe để đến nước Ý dự lễ phong thánh không còn ngấu nghiến tôi nữa. Đôi khi dự thánh lễ trực tuyến do Đức Thánh Cha chủ sự, tôi có được niềm vui thầm lặng khiến tôi ảo tưởng: mấy chục năm sau, một Đức Giáo Hoàng nào đó dâng lễ để tỏ lòng yêu mến những người đã từng yêu thương, chia sẻ trong công việc bác ái xã hội; có 50 vị được gọi là “Những Kitô hữu đáng mến”, rồi tên của tôi được xướng lên ở thứ 36...”, nghĩ đến đây, tôi bật cười về tham vọng của mình! Điều tôi tưởng tượng có xảy ra không khi bây giờ làm công việc bác ái – xã hội khó quá! “Nhiều con sâu” làm rầu nồi canh chứ không phải “một con”! Mạng xã hội lan rộng, phân hóa lòng người, suy nghĩ khác nhau dẫn đến đối nghịch; rồi công nghệ trí tuệ làm cho thật, giả lẫn lộn... Có lẽ không thể ồn ào thêm nữa mà phải cẩn thận, thầm lặng hơn.
• Trong năm nay, tôi được chúc thọ ba lần: đại gia đình mừng tôi đúng ngày sinh nhật; rồi đến Hội Cựu Giáo Chức Quận và Ủy Ban Nhân Dân Phường mới. Tôi vui nhưng cứ chạnh lòng khi nghĩ đến các cụ già không tiền, buồn phiền vì bệnh hoạn, u uất về con cháu...thôi thì xin dâng lên Chúa một lời cầu nguyện chung với niềm hy vọng mọi người được an vui cho dẫu xã hội đang ném vào lòng người những nỗi buồn có khi mênh mang, có khi xéo xắt.
Cung Nghinh Mẹ Lavang - Thánh lễ Khai Mạc. Đức Cha Terry Brady
Khanh Lai
12:47 23/10/2025
Thánh lễ Biệt Kính Đức Mẹ. - Đức Cha Danny Meagher TGP Sydney
Khanh Lai
12:49 23/10/2025
Thánh Lễ Bế Mạc với Ơn Toàn Xá. Đức Cha Tony Percy TGP Sydney
Khanh Lai
12:50 23/10/2025
Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
Đại Hội Tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lm Gioan Nguyễn Vũ Việt
17:31 23/10/2025

Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt Đức Mẹ Maria, người mẹ niềm hy vọng
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
05:24 23/10/2025
Khuôn mặt Đức Mẹ Maria, người mẹ niềm hy vọng
Tập tục đạo đức lần chuỗi mân côi cầu nguyện cùng kính Đức mẹ ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức người tín hữu Công giáo từ hằng bao thế kỷ xưa nay.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi là cách thức suy niệm cùng bày tỏ tâm tình lòng cám ơn của con người, loài thụ tạo, lên Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa, và Chúa Giêsu, Đấng cứu độ con người khỏi tội lỗi.
Khi cầu nguyện đọc kinh mân côi kính Đức Mẹ Maria, ta hướng tâm tình mình về cuộc đời Chúa Giêsu Kitô, khởi đầu từ lúc Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ: Chúa Giêsu xuống thế gian làm người cho đến ngày Chúa Giêsu lên trời trở về bên Đức Chúa Cha.
Mầu nhiệm ngắm Năm Sự Sáng quy chiếu hoàn toàn về cuộc đời Chúa Giêsu trên trần thế: Chúa Giêsu chịu phép Rửa bởi Thánh Gioan tẩy gỉa, Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana làm phép lạ cho nước hóa thánh rượu, Chúa Giêsu rao giảng nước trời, Chúa Giêsu biến hình trên núi, và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi suy niệm ôn nhớ lại xuyên suốt những chặng đường đời sống Chúa Giêsu được thuật lại trong phúc âm.
Khi lần chuỗi đọc kinh mân côi ta không bám với vào khoảng không hư vô. Nhưng vào nơi tay của Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, và hướng tâm nhìn tâm trí lên Chúa Giêsu. Vì thế, người công gíao hằng gìn giữ tràng hạt chuỗi mân côi trong mình, cầm trên tay, nhất là nơi người bệnh, người hấp hối, trong hoàn cảnh khốn khó vướng mắc vào sự lo âu khủng hoảng trong đời sống, như „bàn tay“ nâng đỡ cứu giúp cho đời sống.
Nhà thơ nổi danh người Nga Fjodor M. Dostojewski khi còn sống hằng năm đều du lịch sang thành phố Dresden kính viếng bức ảnh Đức Mẹ trưng bày nơi đó. Ông ngồi suy ngắm bức ảnh có khi hằng giờ. Người ta hỏi Ông tại sao làm như thế. Ông trả lời: „ Tôi phải ít nhất một năm một lần đến ngắm nhìn một con người chân thật, để không còn hồ nghi về chính mình và về người khác nữa“. Với tầm nhìn hướng lòng lên Đức mẹ Maria, Ông Dostojewski đã kín múc được lòng can đảm, cho dù những tai ương khó khăn trong đời sống. Và từ đó ông có được lòng tin vào sự tốt lành.
Theo niềm tin tưởng của ông Dostojewski, Đức Mẹ Maria là niềm an ủi hy vọng trên con đường đời sống của Ông.
Năm 1950 tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời cả hồn lẫn xác được công bố đã gây ra sự ngỡ ngàng xa lạ hồ nghi với nhiều người Công gíao. Nhưng nhớ lại thời điểm lúc đó, người ta thấy thật là đúng lúc. Vì tín hiệu của tín điều nầy đã mang đến làn mây niềm hy vọng. Chúng ta nhớ lại chiến tranh thế giới lần thứ hai (1933-1945) ̣đã khiến cho 50 triệu mạng sống con người bị hủy diệt, cuộc cách mạng bên liên bang Sô viết ( 1917) ̣ đã an táng trên dưới 40 triệu người, trên dưới bảy triệu người Do Thái bị giết chết tiêu hủy trong các trại tập trung, hàng triệu người phải di cư tỵ nạn lìa bỏ quê hương cả sau khi chiến tranh đã kết thúc, hay bị làm nhục khinh khi hạ gía trị phẩm gía con người.
Cho nên ngày 15.08. hằng năm, ngày mừng lễ mừng kính Đức mẹ linh hồn và xác về trời là lời phản kháng cảnh báo chống lại sự dữ khinh khi coi thường, làm nhục phẩm gía đời sống con người cả thân xác lẫn tinh thần linh hồn.
Con người với thân xác và tinh thần linh hồn là công trình do Thiên Chúa tạo dựng nên, có phẩm gía cao qúy. Thiên Chúa cứu chuộc con người cả hồn lẫn thân xác.
Đức Mẹ Maria trở nên niềm hy vọng cho tất cả mọi người mẹ, người cha trong cơn sầu khổ đau buồn bên cỗ áo quan của con cái mình, khi thấy con cái mình ngày nay đang còn phải chịu cảnh phi lý phải đói khát, bị lợi dụng.
Đức Mẹ Maria là niềm hy vọng an ủi sau cùng, nhưng Đức Mẹ không phải là người tận cùng. Thiên Chúa qua Đức mẹ tỏ cho con người, một khởi đầu mới nơi chỗ tận cùng.
Thiên Chúa chỉ cho con người trong Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria, bàn tay của Người hằng luôn bao bọc che chở vũ trụ và con người trong mọi hoàn cảnh đời sống.
“ Đức Giáo Hoàng Leo XIV. đã cử hành Thánh lễ vào Chúa Nhật, ngày 12 tháng 10, Năm Thánh Linh đạo Đức Maria, và nói rằng linh đạo Đức Maria mà vô số tín hữu đang sống là một lời mời gọi gặp gỡ và theo đuổi công lý đích thực.
Tháng Mười luôn được đặc biệt dành riêng cho Kinh Mân Côi, một lối cầu nguyện sùng kính đã có từ nhiều thế kỷ được các tín hữu trên khắp thế giới yêu thích, và Năm Thánh cho Linh đạo Đức Mẹ là một phần của các cử hành kéo dài cả năm đánh dấu Năm Thánh Hy Vọng 2025.
Con đường của Đức Maria đi theo con đường của Chúa Giêsu, dẫn chúng ta đến gặp gỡ mọi người, đặc biệt là người nghèo, người bị thương và tội nhân”. (Vietcatholic news, 12.10.2025)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tập tục đạo đức lần chuỗi mân côi cầu nguyện cùng kính Đức mẹ ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức người tín hữu Công giáo từ hằng bao thế kỷ xưa nay.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi là cách thức suy niệm cùng bày tỏ tâm tình lòng cám ơn của con người, loài thụ tạo, lên Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa, và Chúa Giêsu, Đấng cứu độ con người khỏi tội lỗi.
Khi cầu nguyện đọc kinh mân côi kính Đức Mẹ Maria, ta hướng tâm tình mình về cuộc đời Chúa Giêsu Kitô, khởi đầu từ lúc Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ: Chúa Giêsu xuống thế gian làm người cho đến ngày Chúa Giêsu lên trời trở về bên Đức Chúa Cha.
Mầu nhiệm ngắm Năm Sự Sáng quy chiếu hoàn toàn về cuộc đời Chúa Giêsu trên trần thế: Chúa Giêsu chịu phép Rửa bởi Thánh Gioan tẩy gỉa, Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana làm phép lạ cho nước hóa thánh rượu, Chúa Giêsu rao giảng nước trời, Chúa Giêsu biến hình trên núi, và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi suy niệm ôn nhớ lại xuyên suốt những chặng đường đời sống Chúa Giêsu được thuật lại trong phúc âm.
Khi lần chuỗi đọc kinh mân côi ta không bám với vào khoảng không hư vô. Nhưng vào nơi tay của Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, và hướng tâm nhìn tâm trí lên Chúa Giêsu. Vì thế, người công gíao hằng gìn giữ tràng hạt chuỗi mân côi trong mình, cầm trên tay, nhất là nơi người bệnh, người hấp hối, trong hoàn cảnh khốn khó vướng mắc vào sự lo âu khủng hoảng trong đời sống, như „bàn tay“ nâng đỡ cứu giúp cho đời sống.
Nhà thơ nổi danh người Nga Fjodor M. Dostojewski khi còn sống hằng năm đều du lịch sang thành phố Dresden kính viếng bức ảnh Đức Mẹ trưng bày nơi đó. Ông ngồi suy ngắm bức ảnh có khi hằng giờ. Người ta hỏi Ông tại sao làm như thế. Ông trả lời: „ Tôi phải ít nhất một năm một lần đến ngắm nhìn một con người chân thật, để không còn hồ nghi về chính mình và về người khác nữa“. Với tầm nhìn hướng lòng lên Đức mẹ Maria, Ông Dostojewski đã kín múc được lòng can đảm, cho dù những tai ương khó khăn trong đời sống. Và từ đó ông có được lòng tin vào sự tốt lành.
Theo niềm tin tưởng của ông Dostojewski, Đức Mẹ Maria là niềm an ủi hy vọng trên con đường đời sống của Ông.
Năm 1950 tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời cả hồn lẫn xác được công bố đã gây ra sự ngỡ ngàng xa lạ hồ nghi với nhiều người Công gíao. Nhưng nhớ lại thời điểm lúc đó, người ta thấy thật là đúng lúc. Vì tín hiệu của tín điều nầy đã mang đến làn mây niềm hy vọng. Chúng ta nhớ lại chiến tranh thế giới lần thứ hai (1933-1945) ̣đã khiến cho 50 triệu mạng sống con người bị hủy diệt, cuộc cách mạng bên liên bang Sô viết ( 1917) ̣ đã an táng trên dưới 40 triệu người, trên dưới bảy triệu người Do Thái bị giết chết tiêu hủy trong các trại tập trung, hàng triệu người phải di cư tỵ nạn lìa bỏ quê hương cả sau khi chiến tranh đã kết thúc, hay bị làm nhục khinh khi hạ gía trị phẩm gía con người.
Cho nên ngày 15.08. hằng năm, ngày mừng lễ mừng kính Đức mẹ linh hồn và xác về trời là lời phản kháng cảnh báo chống lại sự dữ khinh khi coi thường, làm nhục phẩm gía đời sống con người cả thân xác lẫn tinh thần linh hồn.
Con người với thân xác và tinh thần linh hồn là công trình do Thiên Chúa tạo dựng nên, có phẩm gía cao qúy. Thiên Chúa cứu chuộc con người cả hồn lẫn thân xác.
Đức Mẹ Maria trở nên niềm hy vọng cho tất cả mọi người mẹ, người cha trong cơn sầu khổ đau buồn bên cỗ áo quan của con cái mình, khi thấy con cái mình ngày nay đang còn phải chịu cảnh phi lý phải đói khát, bị lợi dụng.
Đức Mẹ Maria là niềm hy vọng an ủi sau cùng, nhưng Đức Mẹ không phải là người tận cùng. Thiên Chúa qua Đức mẹ tỏ cho con người, một khởi đầu mới nơi chỗ tận cùng.
Thiên Chúa chỉ cho con người trong Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria, bàn tay của Người hằng luôn bao bọc che chở vũ trụ và con người trong mọi hoàn cảnh đời sống.
“ Đức Giáo Hoàng Leo XIV. đã cử hành Thánh lễ vào Chúa Nhật, ngày 12 tháng 10, Năm Thánh Linh đạo Đức Maria, và nói rằng linh đạo Đức Maria mà vô số tín hữu đang sống là một lời mời gọi gặp gỡ và theo đuổi công lý đích thực.
Tháng Mười luôn được đặc biệt dành riêng cho Kinh Mân Côi, một lối cầu nguyện sùng kính đã có từ nhiều thế kỷ được các tín hữu trên khắp thế giới yêu thích, và Năm Thánh cho Linh đạo Đức Mẹ là một phần của các cử hành kéo dài cả năm đánh dấu Năm Thánh Hy Vọng 2025.
Con đường của Đức Maria đi theo con đường của Chúa Giêsu, dẫn chúng ta đến gặp gỡ mọi người, đặc biệt là người nghèo, người bị thương và tội nhân”. (Vietcatholic news, 12.10.2025)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tham luận về những kỳ bí lạ lùng của ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Ephesus, Thổ Nhĩ Kỳ - Bài 3 và hết
Trần Mạnh Trác
08:55 23/10/2025
Xem hình ảnh bài 1
Tìm lại Ephesus và ngôi nhà của Đức Mẹ
Váo năm 1863 viện Bảo Tàng Hoàng Gia Anh khởi đầu một công cuộc tìm kiếm đền thờ Nữ Thần Artemis và nhà khảo cổ John Turtle Wood đã khám phá ra dấu vết của một cái nền mà ông cho là nền của đền thờ vào năm 1869, nhưng sau đó vì không tìm ra dấu tích nào khác nữa cho nên cuộc khào cổ đã bị bỏ dở.
Dù sao từ khám phá đó, một linh mục người Pháp tên là Abbé Julien Gouyet đã đi qua vùng và bất ngờ thấy được một ngôi nhà đá ở trên một đồi vắng (ngày 18 tháng 10 1881) và tin rằng đó là ngôi nhà trong thị kiến của Chân Phước Emmerich, nhưng lúc đó thì không ai dám tin, và vị linh mục cũng không ghi lại bản đồ của nơi chốn để có thể kiểm chứng.
Nhưng cái tin đó đã lọt vào mắt của một vị nữ tu người Pháp tên là Sister Marie de Mandat-Grancey, DC, (dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent De Paul), cho nên10 năm sau đó, khi Sơ đáp lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII kêu gọi các nhà truyền giáo Pháp giúp đỡ người nghèo ở Trung Đông, Sơ đã tình nguyên đi phục vụ và trở thành giám đốc cho bệnh viện Hải Quân Pháp ở Smyrna. Nơi này thuộc địa giới Izmir là vùng bao trùm cổ tích Ephesus, cho nên Sơ đã thỉnh cầu 2 người bạn là những linh mục thừa sai dòng Lazarist đi truyền giáo trong vùng xem xét lại.
Sơ Marie de Mandat-Grancey từng là Công Nương của một giòng họ quí tộc danh giá de Grancey (Bourgone) bên Pháp mà trong gia phả có nhiều vị thánh và có tới 2 vị giáo hoàng, cho nên lời thỉnh cầu của Sơ thì có cân lượng lớn lắm.
Hai linh mục Lazarist là Cha Poulin và Cha Jung đã dựa theo những chỉ dẫn của Chân Phước Emmerich mà đi tìm, nhưng một vị đã không hề có ý định sẽ chứng minh ngôi nhà là có thật, mà chủ ý chỉ là chứng minh câu chuyện là bịa đặt!
Sau hai mùa hè nóng cháy đi loanh quanh khắp chốn hoang vu gọi là Ephesus (lúc bấy giờ chưa được khai quật), cả hai linh mục đã không tìm thấy gì cả. Nhưng vào một ngày (ngày 29 tháng 7 1891) khi họ cạn nước uống và phải nhờ một phụ nữ địa phương chỉ cho chỗ kín nước, thì người phụ nữ đó chỉ lên một đỉnh đồi, tới một chỗ mà bà ta gọi là “tu viện”.
Ở đó họ tìm thấy một mạch nước từ kẽ đá chảy ra (bây giờ là giếng Đức Mẹ), và ẩn hiện trong đám bụi cây rậm rạp, họ nhìn thấy phế tích của một nhà nguyện nhỏ bị xập mái (bây giờ là Nhà Đức Mẹ). Toàn thể địa hình địa vật nhìn từ chỗ này thì giống hệt như lời mô tả của Chân Phước Emmerich.
Những liên hệ với Ngôi Nhà của Đức Mẹ
Họ dò hỏi những người địa phương thì biết rằng cái mà người phụ nữ gọi là “tu viện” ấy, chính là Panaya Kapulu ("Cửa dẫn đường tới Đức Trinh Nữ, Doorway to the Virgin ") mà hằng năm một nhóm thổ dân ở vùng núi Sirine cách đó 17 km vẫn tổ chức hành hương vào ngày 15 tháng 8, những thổ dân này là hậu duệ của các Kitô hữu ở Ephesus ngày xưa.
Nhưng làm sao có thể chứng minh đây là ngôi nhà của Đức Mẹ? cuộc khảo sát tiếp theo đã làm cho mọi người thất vọng bởi vì kết quả thử nghiệm về vật liệu của ngôi nhà thì có niên đại thuộc về thế kỷ thứ 7, mà nhà của Đức Mẹ thì ít nhất phải có một niên đại sớm hơn, là thế kỷ thứ 1.
Những thử nghiệm kế tiếp chú trọng đến phần nền móng của nhà nguyện, lúc đó người ta khám phá ra rằng nhiều chỗ đã cũ hơn nhiều, thuộc về thế kỷ 1, đúng vào thời “Các Thánh Tông Đồ”.
Như vậy thì cái nguyện đường được khám phá ra đây có thể đã được các tín hữu của thế kỷ 7 xây lên để thay thế cho một ngôi nhà cũ bị đổ nát, (vì động đất chăng?)
Và thiết kế của nguyện đường thì bất thường, bên phải nhô ra một cái trái nhỏ, làm cho mặt bằng của ngôi nhà trông giống như hình chữ “L” viết ngược. Cái trái nhô ra đó là gì? Một giải thích cho đó là cái phòng ngủ của Đức Mẹ ngày xưa. Những tín hữu khi xây lại ngôi nhà đổ nát, họ biến “phòng khách” thành nguyện đường, và giữ lại và tôn kính cái “phòng ngủ” của Đức Mẹ ở bên cạnh.
Ngày nay những người hành hương sau khi thăm viếng nguyện đường xong rồi thì thường rón rén đi qua “phòng ngủ”, giống như là một người con hiếu thảo không muốn lay động giấc ngủ của Người Mẹ yêu thương của mình vậy.
Trở lại việc khai quật Ephesus bị bỏ dở của viện bảo tàng Anh Quốc, thì năm 1895 (4 năm sau việc tìm ra Nhà Đức Mẹ) nhà khảo cổ người Đức tên là Otto Benndorf đã bắt đầu một công trình đào bới lâu dài và dần dà khôi phục những cổ tích của Ephesus thành một khu du lịch như ngày nay.
Thành lập trung tâm Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus
Ngay trong năm 1891, Sơ Marie de Mandat-Grancey được trao trách nhiệm làm người thành lập trung tâm hành hương Mary's House, sơ đã dùng của hương hỏa và bề thế ngoại giao của mình mà tạo mãi, sửa chữa, thu mua toàn bộ ngọn núi cho trung tâm.
Sơ Marie mất năm 1915, ngày nay người ta vận động phong Thánh cho Sơ. Ông thị trưởng thành phố Selçuk là một người Hồi Giáo cũng ủng hộ nỗ lực phong thánh này với hy vọng sẽ làm tăng thêm tên tuổi của vùng trên môi trường quốc tế.
Mẫu mực ngoại giao của Sơ Marie là một cái gương sáng cho việc thúc đẩy sự hiểu biết và thông cảm giữa người Hồi Giáo và Công Giáo. Những cáo thỉnh viên cho án phong thánh của Sơ Marie de Mandat-Grancey nói:
“Sơ Marie đã dựng lại một con cầu kết nối giữa người Hồi giáo và Kitô giáo, dựa vào lòng yêu mến Đức Mẹ Maria và cầu xin sự can thiệp và che chở của Mẹ. Chúng ta phải biết cách yêu thương và sống hòa thuận với nhau. Đức Maria đang quy tụ đàn con trở về nhà Mẹ, mọi người đều là con của Mẹ Maria.”
Trung tâm hành hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus, theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là Meryemana Evi, là một trung tâm hành hương Công Giáo tọa lạc trên một đỉnh núi có tên rất đẹp là Bülbüldağı (núi Chim Sơn Ca "Mount Nightingale"), nằm ở phía Nam cổ thành Ephesus, cách thị xã Selçuk 7 cây số (4.3 mi).
Đi từ hải cảng Kuşadası thì mất khoảng nửa giờ xe (21 cây số). Có nhiều tours quảng cáo chở đến đây, cũng có thể dùng xe bus và đi taxi thì dễ dàng nhưng nên thương lượng với tài xế để đi về. Những khi có du thuyền cập bến Kuşadası thì cảnh chen lấn sẽ xảy ra nếu không tìm được một tour đi sớm mà đến.
Ngôi nhà bây giờ đã được sửa chữa lại, có mái che, có tường kín. Mọi tái tạo đều dựa vào mẫu kiến trúc của thế kỷ 7 khi các tín hữu xây lại ngôi nhà, và dùng vật liệu và phương pháp xây cất của thời đó.
Những ân xá khi thực hiện Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus
Giáo Hội Công Giáo chưa công bố tính xác thực của ngôi nhà là Nhà Đức Mẹ vì thiếu bằng chứng khoa học. Tuy nhiên, sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đến thăm vào năm 1896, thì Giáo hội đã có một thái độ tích cực hơn. Đức Giáo Hoàng Piô X đã ban ơn toàn xá cho việc hành hương vào năm 1914 và ban phước lành cho "những người dũng cảm đi tìm mộ Đức Trinh Nữ Maria".
Năm 1951, sau khi công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nâng ngôi nhà lên hàng Thánh Tích, một đặc ân sau đó được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chính thức phê chuẩn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1967), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1979) và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI (2006) cũng đều có đến thăm ngôi nhà.
Đức đương kim Giáo Hoàng Lêô XIV có đến vào dịp Ngài đi thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng này hay không? (27-30 tháng 11 2025) chúng ta hãy chờ xem.
Do hành động của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm 1896 và của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vào năm 1961, Giáo Hội Công Giáo đã thu hồi các ơn toàn xá ban cho Nhà thờ Dormition ở Jerusalem ( Nhà thờ Đức Mẹ Ngủ) và vĩnh viễn ban ơn toàn xá ấy cho những người hành hương đến Nhà Đức Mẹ ở Ephesus.
Người hành hương thường lấy nước từ những vòi nước ở trên con đường phía dưới khu nhà (mà nguồn mạch chảy qua nền của căn phòng Đức Mẹ), giống như việc lấy nước từ suối Lộ Đức vậy.
Một buổi lễ phụng vụ lớn có người Hồi Giáo tham gia vẫn được tổ chức tại đây hàng năm vào ngày 15 tháng 8 để kỷ niệm Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Tìm lại Ephesus và ngôi nhà của Đức Mẹ
Váo năm 1863 viện Bảo Tàng Hoàng Gia Anh khởi đầu một công cuộc tìm kiếm đền thờ Nữ Thần Artemis và nhà khảo cổ John Turtle Wood đã khám phá ra dấu vết của một cái nền mà ông cho là nền của đền thờ vào năm 1869, nhưng sau đó vì không tìm ra dấu tích nào khác nữa cho nên cuộc khào cổ đã bị bỏ dở.
Dù sao từ khám phá đó, một linh mục người Pháp tên là Abbé Julien Gouyet đã đi qua vùng và bất ngờ thấy được một ngôi nhà đá ở trên một đồi vắng (ngày 18 tháng 10 1881) và tin rằng đó là ngôi nhà trong thị kiến của Chân Phước Emmerich, nhưng lúc đó thì không ai dám tin, và vị linh mục cũng không ghi lại bản đồ của nơi chốn để có thể kiểm chứng.
Nhưng cái tin đó đã lọt vào mắt của một vị nữ tu người Pháp tên là Sister Marie de Mandat-Grancey, DC, (dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent De Paul), cho nên10 năm sau đó, khi Sơ đáp lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII kêu gọi các nhà truyền giáo Pháp giúp đỡ người nghèo ở Trung Đông, Sơ đã tình nguyên đi phục vụ và trở thành giám đốc cho bệnh viện Hải Quân Pháp ở Smyrna. Nơi này thuộc địa giới Izmir là vùng bao trùm cổ tích Ephesus, cho nên Sơ đã thỉnh cầu 2 người bạn là những linh mục thừa sai dòng Lazarist đi truyền giáo trong vùng xem xét lại.
Sơ Marie de Mandat-Grancey từng là Công Nương của một giòng họ quí tộc danh giá de Grancey (Bourgone) bên Pháp mà trong gia phả có nhiều vị thánh và có tới 2 vị giáo hoàng, cho nên lời thỉnh cầu của Sơ thì có cân lượng lớn lắm.
Hai linh mục Lazarist là Cha Poulin và Cha Jung đã dựa theo những chỉ dẫn của Chân Phước Emmerich mà đi tìm, nhưng một vị đã không hề có ý định sẽ chứng minh ngôi nhà là có thật, mà chủ ý chỉ là chứng minh câu chuyện là bịa đặt!
Sau hai mùa hè nóng cháy đi loanh quanh khắp chốn hoang vu gọi là Ephesus (lúc bấy giờ chưa được khai quật), cả hai linh mục đã không tìm thấy gì cả. Nhưng vào một ngày (ngày 29 tháng 7 1891) khi họ cạn nước uống và phải nhờ một phụ nữ địa phương chỉ cho chỗ kín nước, thì người phụ nữ đó chỉ lên một đỉnh đồi, tới một chỗ mà bà ta gọi là “tu viện”.
Ở đó họ tìm thấy một mạch nước từ kẽ đá chảy ra (bây giờ là giếng Đức Mẹ), và ẩn hiện trong đám bụi cây rậm rạp, họ nhìn thấy phế tích của một nhà nguyện nhỏ bị xập mái (bây giờ là Nhà Đức Mẹ). Toàn thể địa hình địa vật nhìn từ chỗ này thì giống hệt như lời mô tả của Chân Phước Emmerich.
Những liên hệ với Ngôi Nhà của Đức Mẹ
Họ dò hỏi những người địa phương thì biết rằng cái mà người phụ nữ gọi là “tu viện” ấy, chính là Panaya Kapulu ("Cửa dẫn đường tới Đức Trinh Nữ, Doorway to the Virgin ") mà hằng năm một nhóm thổ dân ở vùng núi Sirine cách đó 17 km vẫn tổ chức hành hương vào ngày 15 tháng 8, những thổ dân này là hậu duệ của các Kitô hữu ở Ephesus ngày xưa.
Nhưng làm sao có thể chứng minh đây là ngôi nhà của Đức Mẹ? cuộc khảo sát tiếp theo đã làm cho mọi người thất vọng bởi vì kết quả thử nghiệm về vật liệu của ngôi nhà thì có niên đại thuộc về thế kỷ thứ 7, mà nhà của Đức Mẹ thì ít nhất phải có một niên đại sớm hơn, là thế kỷ thứ 1.
Những thử nghiệm kế tiếp chú trọng đến phần nền móng của nhà nguyện, lúc đó người ta khám phá ra rằng nhiều chỗ đã cũ hơn nhiều, thuộc về thế kỷ 1, đúng vào thời “Các Thánh Tông Đồ”.
Như vậy thì cái nguyện đường được khám phá ra đây có thể đã được các tín hữu của thế kỷ 7 xây lên để thay thế cho một ngôi nhà cũ bị đổ nát, (vì động đất chăng?)
Và thiết kế của nguyện đường thì bất thường, bên phải nhô ra một cái trái nhỏ, làm cho mặt bằng của ngôi nhà trông giống như hình chữ “L” viết ngược. Cái trái nhô ra đó là gì? Một giải thích cho đó là cái phòng ngủ của Đức Mẹ ngày xưa. Những tín hữu khi xây lại ngôi nhà đổ nát, họ biến “phòng khách” thành nguyện đường, và giữ lại và tôn kính cái “phòng ngủ” của Đức Mẹ ở bên cạnh.
Ngày nay những người hành hương sau khi thăm viếng nguyện đường xong rồi thì thường rón rén đi qua “phòng ngủ”, giống như là một người con hiếu thảo không muốn lay động giấc ngủ của Người Mẹ yêu thương của mình vậy.
Trở lại việc khai quật Ephesus bị bỏ dở của viện bảo tàng Anh Quốc, thì năm 1895 (4 năm sau việc tìm ra Nhà Đức Mẹ) nhà khảo cổ người Đức tên là Otto Benndorf đã bắt đầu một công trình đào bới lâu dài và dần dà khôi phục những cổ tích của Ephesus thành một khu du lịch như ngày nay.
Thành lập trung tâm Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus
Ngay trong năm 1891, Sơ Marie de Mandat-Grancey được trao trách nhiệm làm người thành lập trung tâm hành hương Mary's House, sơ đã dùng của hương hỏa và bề thế ngoại giao của mình mà tạo mãi, sửa chữa, thu mua toàn bộ ngọn núi cho trung tâm.
Sơ Marie mất năm 1915, ngày nay người ta vận động phong Thánh cho Sơ. Ông thị trưởng thành phố Selçuk là một người Hồi Giáo cũng ủng hộ nỗ lực phong thánh này với hy vọng sẽ làm tăng thêm tên tuổi của vùng trên môi trường quốc tế.
Mẫu mực ngoại giao của Sơ Marie là một cái gương sáng cho việc thúc đẩy sự hiểu biết và thông cảm giữa người Hồi Giáo và Công Giáo. Những cáo thỉnh viên cho án phong thánh của Sơ Marie de Mandat-Grancey nói:
“Sơ Marie đã dựng lại một con cầu kết nối giữa người Hồi giáo và Kitô giáo, dựa vào lòng yêu mến Đức Mẹ Maria và cầu xin sự can thiệp và che chở của Mẹ. Chúng ta phải biết cách yêu thương và sống hòa thuận với nhau. Đức Maria đang quy tụ đàn con trở về nhà Mẹ, mọi người đều là con của Mẹ Maria.”
Trung tâm hành hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus, theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là Meryemana Evi, là một trung tâm hành hương Công Giáo tọa lạc trên một đỉnh núi có tên rất đẹp là Bülbüldağı (núi Chim Sơn Ca "Mount Nightingale"), nằm ở phía Nam cổ thành Ephesus, cách thị xã Selçuk 7 cây số (4.3 mi).
Đi từ hải cảng Kuşadası thì mất khoảng nửa giờ xe (21 cây số). Có nhiều tours quảng cáo chở đến đây, cũng có thể dùng xe bus và đi taxi thì dễ dàng nhưng nên thương lượng với tài xế để đi về. Những khi có du thuyền cập bến Kuşadası thì cảnh chen lấn sẽ xảy ra nếu không tìm được một tour đi sớm mà đến.
Ngôi nhà bây giờ đã được sửa chữa lại, có mái che, có tường kín. Mọi tái tạo đều dựa vào mẫu kiến trúc của thế kỷ 7 khi các tín hữu xây lại ngôi nhà, và dùng vật liệu và phương pháp xây cất của thời đó.
Những ân xá khi thực hiện Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus
Giáo Hội Công Giáo chưa công bố tính xác thực của ngôi nhà là Nhà Đức Mẹ vì thiếu bằng chứng khoa học. Tuy nhiên, sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đến thăm vào năm 1896, thì Giáo hội đã có một thái độ tích cực hơn. Đức Giáo Hoàng Piô X đã ban ơn toàn xá cho việc hành hương vào năm 1914 và ban phước lành cho "những người dũng cảm đi tìm mộ Đức Trinh Nữ Maria".
Năm 1951, sau khi công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nâng ngôi nhà lên hàng Thánh Tích, một đặc ân sau đó được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chính thức phê chuẩn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1967), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1979) và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI (2006) cũng đều có đến thăm ngôi nhà.
Đức đương kim Giáo Hoàng Lêô XIV có đến vào dịp Ngài đi thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng này hay không? (27-30 tháng 11 2025) chúng ta hãy chờ xem.
Do hành động của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm 1896 và của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vào năm 1961, Giáo Hội Công Giáo đã thu hồi các ơn toàn xá ban cho Nhà thờ Dormition ở Jerusalem ( Nhà thờ Đức Mẹ Ngủ) và vĩnh viễn ban ơn toàn xá ấy cho những người hành hương đến Nhà Đức Mẹ ở Ephesus.
Người hành hương thường lấy nước từ những vòi nước ở trên con đường phía dưới khu nhà (mà nguồn mạch chảy qua nền của căn phòng Đức Mẹ), giống như việc lấy nước từ suối Lộ Đức vậy.
Một buổi lễ phụng vụ lớn có người Hồi Giáo tham gia vẫn được tổ chức tại đây hàng năm vào ngày 15 tháng 8 để kỷ niệm Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Văn Hóa
CÁC ĐÓNG GÓP Công Giáo TRONG CÁC THẾ KỶ 20 VÀ 21 CHO KHOA CHÚ GIẢI KINH THÁNH, PHẦN MỘT, M1T3C2
Vũ Văn An
21:45 23/10/2025
Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết ba: Dẫn nhập vào văn chương tiên tri
(12) Chương hai: Thơ Do Thái
Aloysius Fitzgerald, F.S.C.
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các trang 201-208
Tài Liệu Tham Khảo
Alonso Schokel, L., Estudios de poetica hebrea (Barcelona, 1963).
Alter, R., The Art of Biblical Narrative [Nghệ thuật thuât tuyện của Kinh Thánh] (NY, 1981); The Art of Biblical Poetry [Nghệ thuật Thi ca của Kinh Thánh] (NY, 1985).
Baker, A., “Parallelism: England’s Contribution to Biblical Studies,” [Tính song đối: Đóng góp của Anh vào Các nghiên cứu Kinh Thánh] CBQ 35 (1973) 429-40.
Berlin, A., The Dynamics of Biblical Parallelism [Tính năng động của tính song đối Kinh Thánh] (Bloomington, 1985).
Budde, C., “Das hebraische Klagelied [Lời than thở Do Thái],” ZAW 2 (1882) 1-52.
Collins, T., Line-Forms in Hebrew Poetry [Các Hình Thức-dòng trong thi ca Do Thái] (Studia Pohl, loạt bài lớn hơn 7; Rome, 1978).
Cross, F. M., “Studies in the Structure of Hebrew Verse: The Prosody of Lamentations 1:1-22 [Nghiên cứu về cấu trúc của thơ Do Thái: Văn vần của Ai Ca 1:1-22]” WLSGF 129-55.
Freedman, D. N., Pottery, Poetry and Prophecy: Studies in Early Hebrew Poetry [Đồ gốm, thi ca và lời tiên tri: Nghiên cứu về thơ Do Thái thời kỳ đầu] (Winona Lake, 1980); “Acrostic Poems in the Hebrew Bible: Alphabetic and Otherwise [Thơ chữ cái đầu trong Kinh thánh Do Thái: Theo thứ tự chữ cái và các cách khác]” CBQ 48 (1986) 408-31.
Geller, S. A., Parallelism in Early Biblical Poetry [Tính song đối trong thi ca Kinh Thánh Buổi đầu] (HSM 20; Missoula, 1979).
Gray, G. B., The Forms of Hebrew Poetry [Các hình thức Thi ca Do Thái] (NY, 1915; ấn bản tái bản Ktav năm 1972 có phần giới thiệu hữu ích của D, N. Freedman).
Hrushovski, B., “Prosody, Hebrew,” [Văn vần, Do Thái] Encjud 13 (1971) 1195-1240.
Kugel, J. L., The Idea of Biblical Poetry [Ý niệm Thi ca Do Thái] (New Haven, 1981).
O’Connor, M. P., Hebrew Verse Structures [Cấu trúc vần thơ Do Thái (Winona Lake, 1980).
Stuart, D. K., Studies in Hebrew Meter [Nghiên cứu Nhịp điệu Thi ca Do Thái] (HSM 13; Missoula, 1976).
Watson, W. G. E., Classical Hebrew Poetry: A Guide to its Techniques [Thi ca cổ điền Do Thái: Hướng dẫn các kỹ thuật của nó] (JSOTSup 26; Sheffield, 1984).
Dẫn nhập
Thơ cho mục đích của bài đánh giá này được hiểu là lời nói được sắp xếp theo các dòng có nhịp điệu.
Sự đối lập được cho là thơ trái ngược với văn xuôi không được đo lường như vậy. Phạm vi của bài đánh giá phù hợp với động lực của các bài đánh giá tương tự về thơ tiếng Do Thái do các nhà nghiên cứu Kinh thánh thực hiện mặc dù các vấn đề khác như thể loại, hình ảnh cụ thể, v.v. có thể được xử lý rộng rãi hơn ở đó. Những bài đánh giá như vậy thường ít chú ý đến một quan điểm khác về thi ca (“lời nói được đóng khung để suy gẫm,” G. M. Hopkins) tạo ra một loại phân tích khác và bao gồm cả thơ và văn xuôi. Ở đây, thơ đối lập với hùng biện (lời nói được sắp xếp để thuyết phục) và văn xuôi (lời nói được sắp xếp để thông tin).
Tất nhiên, có câu hỏi về việc sự phân biệt ba mặt này có thể được duy trì nghiêm ngặt như thế nào đối với hầu hết các văn bản Kinh thánh (và nhiều văn bản khác nữa). Cuộc thảo luận của các nhà nghiên cứu Kinh thánh về thơ Do Thái (thơ và văn xuôi) theo quan điểm này theo truyền thống không được tiến hành ở bình diện đặc biệt tinh vi. Các chuyên khảo của nhà phê bình văn học R. Alter minh họa cho sự thành công mà văn bản Kinh thánh có thể được tiếp cận theo quan điểm này.
LỊCH SỬ CỦA HÌNH THỨC THƠ CỰU ƯỚC
Hình thức thơ CỰU ƯỚC không phải là thứ do các nhà thơ Do Thái phát minh ra. Mà đúng hơn, nó là sự phản ảnh của một hình thức truyền thống phổ biến ở Cận Đông cổ thời, phát minh này đã bị thất lạc trong thời cổ. Ví dụ, có nhiều tài liệu cũ hơn được khuôn đúc tương tự từ Ai Cập, Lưỡng Hà và Ugarit trên vùng ven biển Syria-Palestine. Vào đầu triều đại thứ 12 ở Ai Cập, nhà hiền triết Neferti khuyến khích trái tim mình than khóc về những rắc rối ở Ai Cập do người châu Á gây ra trong thời kỳ trung gian đầu.
Hãy khuấy động, trái tim tôi!
Hãy than khóc cho vùng đất mà bạn đã sinh ra!
Trong phiên bản Gilgamesh của người Babylon cổ thời, Siduri khuyên Gilgamesh:
Gilgamesh, hãy để bụng bạn no nê!
Ngày và đêm hãy vui mừng!
Trong sử thi Keret từ Ugarit (bị phá hủy vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên), Thần El hỏi Keret:
Liệu anh ta có mong muốn ngôi vua của Bull, cha mình không;
hay thẩm quyền như cha của nhân loại?
Các dòng thơ được làm thành nhịp điệu bao gồm các câu ngắn cân bằng như những câu trên (với dấu ba chấm của động từ ở trường hợp cuối) là đặc trưng của thi ca Cận Đông cổ thời và là đặc điểm của thi ca Kinh thánh trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Hình thức với một số nới lỏng nhất định là đặc trưng của bộ sưu tập các bài thánh ca Tạ ơn (IQH) từ Qumran, có lẽ có niên đại từ thời kỳ Maccabê và Hasmonê. Nó được bắt chước bằng tiếng Hy Lạp trong Tân Ước, ví dụ, trong Magnificat:
Hữu thể tôi công bố sự vĩ đại của Chúa,
Tinh thần tôi tìm thấy niềm vui trong Thiên Chúa, Đấng cứu rỗi tôi.
(Lc 1:46-47)
Việc sử dụng liên tục hình thức này rõ ràng muộn nhất là vào đầu thế kỷ thứ hai CN trong 2 Apoc. Bar.:
Lạy Chúa, Ngài triệu tập sự xuất hiện các thời đại,
và chúng đứng trước mặt Ngài. (48:2).
Những nhân chứng tiếp theo sớm nhất của thơ Do Thái là piyyutim (những bài thơ được sáng tác cho nghi lễ; liên quan đến paytan = nhà thơ, từ tiếng Hy Lạp poietes), trong đó hình thức của dòng thơ cũ bị bỏ rơi—ở giai đoạn sau để chuyển sang những hình thức phức tạp và hoàn toàn khác. Tuy nhiên, vẫn có một số phản ảnh nhất định về hình thức cũ do ảnh hưởng sâu rộng của chính Cựu Ước.
Trong suốt thời kỳ Cựu Ước, hình thức cơ bản của dòng thơ vẫn tồn tại và phải cho rằng những người sử dụng nó đã hiểu hình thức đó. Một số bài thơ (Đệ nhị luật 32 và một số thánh vịnh) được viết theo cột đo kích thước [stichometric] tại Qumran. Hầu hết thì không. Điều đó có thể được giải thích là do sự kiện giấy da là một mặt hàng đắt tiền. Tôi cho rằng có sự hiểu biết về hình thức trong thời kỳ đó. Nhưng khi chúng ta có những nỗ lực đầu tiên để mô tả hình thức này trong cả các nguồn Do Thái và Kit-tô giáo (Josephus, Origen, Thánh Giêrônimô), những gì họ nói không có tính khai sáng và đôi khi chỉ đơn giản là sai lạc.
Truyền thống masoretic đã trình bày cho chúng ta textus receptus [văn bản chuẩn nhận]cho thấy một số dấu hiệu nhận thức về sự hiện diện của câu thơ. Sách Gióp, Châm ngôn và Thánh vịnh được cung cấp một bộ dấu nhấn đặc biệt. Những quyển sách này hầu như chỉ toàn là thơ, và các dấu nhấn được gọi là dấu nhấn thơ [poetic accents] (thuật ngữ này tương đối hiện đại). Tuy nhiên, đối với nhiều câu thơ Cựu Ước, các dấu nhấn văn xuôi thông thường được sử dụng. Đệ Nhị Luật 32 tiếp tục được sao chép thành hai cột, mỗi cột chứa một nửa dòng thơ. Sự sắp xếp với một số thành công làm nổi bật các nửa dòng và các dòng. Nhưng truyền thống không hiểu hệ thống dường như đã được chỉ ra. Bắt đầu từ câu 14, nơi có dòng ba phần đầu tiên, bố cục có hệ thống sụp đổ.
Các quy tắc chi phối việc viết thơ Cựu Ước đã bị lãng quên và phải học lại. Hai nhân vật quan trọng trong quá trình này là Rabbi Azariah dei Rossi trong Me’dr ‘enayim [Tôi đang ở đây](1574) và Giám mục Robert Lowth trong Praelectiones de sacra poesi Hebraeorum [Các bài giảng về thơ thánh của người Do Thái] (1753; bản dịch tiếng Anh của G. Gregory, 1787) và nhiều hơn nữa trong phần giới thiệu cho tác phẩm Isaiah, A New Translation with a Preliminary Dissertation [Isaia, Bản dịch mới với một Luận Văn Sơ khởi] (1778) của ông. Lowth (vẫn rất đáng đọc) biết tác phẩm của dei Rossi, được dịch từ và bình luận về tác phẩm đó. Ông đã khám phá lại phép song đối cho nền học thuật hiện đại và trên cơ sở khám phá này đã có một loạt các tác phẩm văn học, một số trong số đó bị hướng dẫn sai, về bản chất của câu thơ Cựu Ước.
Những gì sau đây là một nỗ lực nhằm đưa ra một tuyên bố ngắn gọn về tình trạng hiện tại của vấn đề. Câu hỏi vẫn còn gây tranh cãi về cách đo chính xác các dòng (trọng âm, âm tiết) sẽ được xử lý riêng biệt trong nỗ lực phân biệt các khu vực an toàn với các khu vực gây tranh cãi.
NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA HÌNH THỨC THI CA CỰU ƯỚC
(I).Dòng thơ và các phần của nó. Việc đi tìm cách hiểu biết hệ thống thơ Cựu Ước là việc công nhận rằng các khối xây dựng cơ bản của thơ Do Thái là những câu ngắn. Sự kiện này đơn giản hóa vấn đề một cách đáng kể. Người ta chỉ cần nghĩ đến những khó khăn mà một nhà thơ đến từ hành tinh khác phải đối diện khi giải mã vần điệu của thơ không vần cuối thời Shakespeare không được trình bày thành từng dòng mà thành các đoạn văn xuôi, mà không có dịch vụ của một diễn giả có kinh nghiệm trong cách diễn đạt tiếng Anh truyền thống để trình bày Shakespeare cho họ. Thơ không vần này cho phép các câu tự do chạy từ dòng này sang dòng khác (enjambment). Ngay cả khi du khách đến nơi mà anh ta có thể dịch Shakespeare một cách thành thạo sang ngôn ngữ của riêng mình, anh ta vẫn biết rất ít về vần điệu của nó. Có những trường hợp tương đối hiếm về các câu thơ tiếng Do Thái chạy từ một dòng sang dòng tiếp theo, nhưng ngay cả ở đây, dòng luôn luôn là kết thúc dừng lại; tức là có một cảm thức dừng lại, tương đương với dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy, đánh dấu sự kết thúc của dòng thơ.
Trong thơ Cựu Ước không có trường hợp dòng nào chạy qua dòng khác giống như Katherine xứ Aragon chạy qua thục nữ, Kiên nhẫn—đặc biệt dòng năm:
Khi tôi chết, cô gái ngoan.
Hãy để tôi được tôn trọng. Rải tôi
Bằng những bông hoa trinh nữ, để cả thế giới biết
Tôi là một người vợ trong trắng cho đến khi vào mồ.
Hãy ướp xác tôi.
Sau đó, đặt tôi xuống. Mặc dù
không phải là hoàng hậu, nhưng giống như
Một nữ hoàng, và con gái của một vị vua, hãy chôn cất tôi.
(Henry VIII, 1V.2.167-72)
Nói một cách đại khái, có hai loại câu ngắn hơn xuất hiện trong thơ Cựu Ước, ngắn và cực ngắn; và độ dài của hai câu cực ngắn xấp xỉ bằng câu ngắn. "Câu" ở đây được sử dụng một cách lỏng lẻo, nhưng ý định sẽ rõ ràng từ cuộc thảo luận. Điển hình là bảy câu của các dòng đầu tiên (40:1-2) của cảnh mở đầu của Deutero-Isaiah (40:1-8):
1. nahamu, nahamu ammi
2. yomar elohekem
3. dabberu al leb yerusalayim
4. weqiru eleha
5. ki malea sebaah
6. ki nirsa 'awonah
7. ke laqehamiyyad YHWH | kiplayim bekol hattoteha
1. An ủi, an ủi dân ta,
2. Chúa của ngươi phán vậy.
3. Hãy nói với lòng Giê-ru-sa-lem,
4. và công bố cho nó,
5. Sự phục vụ của nó là trọn vẹn,
6. Tội của nó đã được đền chuộc.
7. Thật vậy, nó đã nhận được từ tay Chúa gấp đôi cho mọi tội lỗi của nó.
Các câu được đánh số từ 1-6 ở trên cho mục đích của cuộc thảo luận này là những câu cực ngắn. Câu 1 có động từ được lặp lại. Câu 7 là một câu ngắn. Cần lưu ý rằng các câu 1-2, 3-4, 5-6 khi kết hợp với nhau sẽ có độ dài xấp xỉ bằng câu 7. Hơn nữa, 3-4 và 5-6 được liên kết rất chặt chẽ với nhau. Chúng nói lên ít nhiều cùng một điều. Điều tương tự không đúng với 1-2, nhưng khi chú ý đến câu 4b, người ta bắt đầu nghi ngờ rằng sự kết hợp của hai câu cực ngắn (1-2, 3-4, 5-6) và câu tương đương thô của nó, câu ngắn (7), nên được coi là dòng Cựu Ước. Câu 4b, một dòng hai câu với dấu lược bỏ [ellipsis] động từ ở câu thứ hai, xét theo dấu lược bỏ, chỉ cần đọc như một đơn vị:
Vùng đất gồ ghề sẽ trở thành đồng bằng;
và vùng đất gồ ghề sẽ trở thành thung lũng rộng lớn.
Phân tích theo cách này, ba dòng đầu tiên (1-2, 3-4, 5-6) của Isa 40: 1-2 có cấu trúc nhị phân rõ ràng. Chúng được chia thành hai nửa bằng một điểm dừng mạnh ở cuối câu (dừng câu) và một điểm dừng giữa câu hoặc caesura (dừng câu). Trong trường hợp của dòng một câu cuối cùng (7), điểm dừng cuối câu rõ ràng. Vì đây là dòng một câu, nên không có điểm dừng giữa câu được đánh dấu bằng một điểm dừng câu. Nhưng xét theo phép loại suy của các dòng trước đó, có khả năng là nó có một điểm dừng, một phần là do nhịp điệu của các dòng trước đó. Theo phép chia ký lục [masoretic], tôi đã đặt nó sau "Chúa [Lord]". Hoặc, dựa trên cơ sở phép loại suy với các mẫu câu tiếng Anh đương thời, dòng này chắc chắn có thể được đọc theo cách này.
Hầu hết các dòng đều thuộc loại hai phần này (nửa dòng, giữa dòng; nửa dòng, điểm dừng cuối). Hệ thống này cũng cho phép một dòng ba phần. Điều này được minh họa bằng các câu 3 và 5, các dòng ba câu:
Một tiếng kêu lên:
Trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa!
Hãy làm thẳng đường cái trong vùng đất hoang vu cho Thiên Chúa chúng ta!
*
Bấy giờ, sự vinh hiển của Chúa sẽ được tỏ bày,
và toàn thể nhân loại sẽ cùng nhau nhìn thấy;
vì miệng Chúa đã phán.
Các dòng khác của 40: 1-8 không được đề cập cho đến điểm này được chia thành các dòng hai câu như những dòng được đề cập ở trên. Các dòng hơi lệch nhịp là dòng mở đầu của câu 6, trong đó một câu đóng vai trò như đối tượng của động từ chính trong mỗi nửa dòng:
Một giọng nói phán, "Hãy kêu lên!"
và tôi nói, "Tôi sẽ kêu lên điều gì?"
và hai dòng cuối của bài thơ, các câu 7-8:
Cỏ héo, hoa héo,
vì hơi thở của Chúa đã thổi trên nó.
Cỏ héo, hoa héo,
nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi.
Theo diễn giải ở đây, dấu hai chấm mở đầu (nửa dòng) của mỗi dòng là dấu hai chấm gồm hai câu. Những dấu chấm như vậy xuất hiện ở nơi khác, mặc dù không phải là chuẩn mực. Đây là một ví dụ về việc Dt-Isa thoát khỏi những giới hạn cứng ngắc của mô hình thừa hưởng của ông. Cả hai dòng đều có thể được đọc là tricola (các dòng ba câu). Tôi đã đọc chúng như bicola [các dòng hai câu] vì điều này tạo ra sự cân bằng độ dài tốt hơn giữa cola [các dấu chấm]. Các dòng có thể được đọc theo cách này, vì rõ ràng là sự tạm dừng có trọng số trong mỗi trường hợp là sau khi "wilted [tàn héo]". Vấn đề thực sự không có nhiều ý nghĩa vì cách diễn đạt trong hiệu suất sẽ giống nhau trong mọi trường hợp. Sự sắp xếp trên giấy chỉ là một nỗ lực phân tích hiệu suất. ("Vậy thì, dân sự là cỏ" trong câu 7 được coi là một nước bóng giải thích, một chú thích được đặt trong văn bản vào thời kỳ mà chú thích vẫn chưa được phát minh.)
Yếu tố thiết yếu của cuộc thảo luận cho đến điểm này là phân tích câu của một bài thơ Cựu Ước phát hiện một loạt các câu cực ngắn, xuất hiện theo cặp, có độ dài gần tương đương với các câu ngắn khác, khi chia theo một khoảng dừng nghĩa yếu hơn một điểm dừng câu, sẽ có dạng của những dòng hai câu. Một biến thể của điều này là dòng ba câu. Được trình bày trên trang in bằng tiếng Do Thái hoặc trong bản dịch như Isaia 40:1-2 được trình bày ở trên, chúng rõ ràng gợi ý các dòng được đo lường, nhịp điệu. Việc sử dụng nhất quán các khối xây dựng được đo lường, các câu ngắn, là tiêu chuẩn mà nhờ đó câu thơ Cựu Ước được phân biệt với văn xuôi Cựu Ước.
Cần nói qua về thuật ngữ học. Không có thuật ngữ chuẩn. Trong các cuộc thảo luận về cấu trúc dòng Cựu Ước, các thuật ngữ dòng, câu, câu ngắn, stich (nhịp điệu), dấu hai chấm [colon], v.v. xuất hiện; đôi khi chúng được dùng để chỉ điều được gọi ở đây là nửa dòng; đôi khi, để chỉ toàn bộ dòng. Điều này đôi khi có thể tạo ra ấn tượng sai lầm về các quan điểm khác nhau. Thuật ngữ sẽ được sử dụng trong phần còn lại của cuộc thảo luận như sau: dòng là một dòng đầy đủ; nửa dòng là dấu hai chấm; dòng có hai phần (dòng hai câu và dòng một câu được chia bằng dấu ngắt câu) là một dòng hai chấm. Khi một dòng có thêm phần thứ ba, nó được gọi là dòng ba chấm.
Đến điểm này, người ta đã cố gắng cô lập dòng và các thành phần của nó, cola của dòng hai chấm và dòng ba chấm. Những kết luận đạt được được xác nhận bởi một số bài thơ Cựu Ước, trong đó chính văn bản đánh dấu ranh giới của các dòng, đặc biệt là các câu tục ngữ một dòng, trong đó dòng là bài thơ, và các câu thơ đầu dòng theo thứ tự chữ cái [alphabetic acrostics], trong đó các dòng riêng lẻ mở đầu bằng các chữ cái liên tiếp của bảng chữ cái. Câu thơ này trình bày các dòng, được đánh dấu rõ ràng, chính xác như các dòng đã đề cập đến điểm này. Lưu ý các ví dụ sau đây từ các câu tục ngữ một dòng và Ai ca 3, trong đó mỗi dòng của bài thơ được đánh dấu bằng câu thơ đầu dòng: (a) các dòng hai câu, (b) các dòng hai câu với dấu lược động từ ở dấu hai chấm thứ hai, (c) các dòng một câu với dấu ngắt câu:
(a) Người con khôn ngoan làm cho cha mình vui mừng;
nhưng người con ngu dại là nỗi buồn cho mẹ mình (Châm ngôn 10:1)
Người đã làm mòn thịt và da tôi;
người đã bẻ gãy xương tôi. (Ai Ca 3:4).
(b) Môi chân thật tồn tại mãi mãi;
lưỡi dối trá, chỉ trong chốc lát. (Châm Ngôn 12:19)
Tôi đã trở thành trò cười cho các nước;
họ chế giễu tôi suốt ngày. (Ai Ca 3:14)
(c) Như giấm vào răng và khói vào mắt
kẻ lười biếng đối với những người dùng hắn làm sứ giả. (Châm Ngôn 10:26)
Tôi là người biết đau khổ
từ cây roi thịnh nộ của mình. (Ai Ca 3:1)
Một số vần thơ chữ cái viết tắt sử dụng chữ cái viết tắt không phải trên các dòng mà trên từng cola. Điều này chứng minh rằng khối xây dựng cuối cùng của câu thơ Cựu Ước không phải là dòng mà là dấu hai chấm. Sự kết hợp, chữ cái viết tắt đánh dấu chữ cola và chữ cái viết tắt đánh dấu các dòng, cho thấy các dòng được xây dựng từ các cola kết hợp.
Trong Thánh vịnh 111, các cola riêng rẽ được đánh dấu bằng chữ cái viết tắt. Lưu ý dòng một câu, dòng hai câu và dấu ba chấm ba câu sau đây mà với chúng, nó kết thúc:
Tôi xin hết lòng cảm tạ CHÚA,
trong cộng đoàn chính nhân, giữa lòng đại hội. (Tv 111:1)
Sự nghiệp Chúa oai phong hiển hách,
đức công chính của Người tồn tại thiên thu. (Tv 111:3)
Kính sợ CHÚA là đầu mối khôn ngoan.
Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy.
Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người.
(Thi Thiên 111:10)
Phân tích nhị phân và tam phân về dạng dòng Cựu Ước được trình bày cho đến điểm này chỉ là mô tả bề mặt sơ sài nhất có thể về câu thơ này. Bất cứ ai đã đọc một số thơ Cựu Ước bằng tiếng Do Thái hoặc bản dịch đều biết rằng có nhiều điều liên quan hơn trong câu thơ Do Thái, ngay cả khi nhận thức đó chưa đạt đến mức có thể diễn đạt một cách dễ hiểu những gì được nhận thức. Bây giờ chúng ta sẽ cố gắng diễn đạt nhiều điều hơn nữa. Cuộc thảo luận sẽ chỉ được tiến hành theo thuật ngữ câu hai chấm; nó cũng áp dụng như thế vào câu ba chấm.
(II) Sự cân bằng của các phần. Câu thơ Kinh thánh bao gồm hai cola cân bằng. Sự cân bằng giữa chúng có thể là về nhịp điệu [metrical] (chiều dài gần bằng nhau của cola), cú pháp, hình thái, ngữ âm, ngữ nghĩa và các loại khác quá khác biệt để liệt kê ở đây. Mỗi câu đều có sự cân bằng nhịp điệu gần đúng. Trong tất cả các lĩnh vực khác, sự cân bằng có thể chạy từ không có gì hoặc gần như không có gì, đến vừa phải, đến cực độ. Một số câu thơ phản ảnh sự cân bằng đáng kể hơn của một loại này so với loại khác; và các loại cân bằng khác nhau có thể được kết hợp theo vô số cách khác nhau. Chính xác là ở đây, nhà thơ Cựu Ước có cơ hội thể hiện sự điêu luyện trong giới hạn của hình thức câu thơ cơ bản. Sự cân bằng giữa các cola này có thể và được gọi là tính song đối. Tôi tránh thuật ngữ này ở đây vì nó thường được sử dụng theo nghĩa hạn chế của sự cân bằng ngữ nghĩa, được coi là đặc điểm chính của câu thơ Cựu Ước. Đó là một cách giải thích dữ kiện quá hạn chế. Cũng vì lý do đó mà sự cân bằng ngữ nghĩa được trình bày ở cuối danh sách các loại cân bằng đặc trưng của câu thơ Do Thái nêu trên. Nó thường hiện diện, xuất hiện rõ ràng trong bản dịch, nhưng không phải là yếu tố cần thiết, như được chứng minh bởi các câu thơ không có nó.
Châm ngôn 15:32 sẽ minh họa cho các loại cân bằng đặc trưng khác nhau của câu thơ Cựu Ước như đã mô tả ở trên. Nó minh họa cho mọi loại cân bằng được liệt kê và theo một số cách là một chuyến du ngoạn đầy sức mạnh. Nhìn chung, câu thơ này kết hợp nhiều loại cân bằng khác nhau một cách có chọn lọc hơn và ở các mức độ khác nhau. Điều này luôn đúng trong các bài thơ dài hơn và quan điểm này sẽ được minh họa bằng cách viện dẫn đến cả Châm ngôn 15:32 và Isaia 40: 1-2.
porea' musar mo 'es nap'so we'somea' tokahat qoneh leb
Kẻ nào bác bỏ lời khuyên bảo thì khinh thường linh hồn mình;
nhưng kẻ nào nghe lời khiển trách thì được một tấm lòng (hiểu biết).
(Châm Ngôn 15:32).
Câu này có sự cân bằng về nhịp điệu. Đây là câu có hai câu và mỗi câu (dấu hai chấm) có bốn từ. Câu này có sự cân bằng về cú pháp; mỗi câu tuân theo mẫu: phân từ chủ ngữ + đối tượng + vị ngữ phân từ + đối tượng, biến thể duy nhất là "nhưng" mở đầu dấu hai chấm thứ hai và đại từ có đại từ hậu tố "mình" ở cuối "linh hồn". Câu này có sự cân bằng về mặt hình thái: chủ ngữ phân từ gốc và vị ngữ phân từ gốc lặp lại trong mỗi dấu hai chấm. Đối tượng chiểu danh của chúng có các mẫu khác nhau. Câu này có sự cân bằng về mặt ngữ âm (kết quả tất yếu của sự cân bằng về mặt hình thái nhưng nó còn vượt xa hơn thế). Để đơn giản, tôi chỉ lưu ý các nguyên âm dài /o/ lặp lại trong mỗi dấu hai chấm: ô, ô, ô/ ô, ô, ô //. Câu này có sự cân bằng về mặt ngữ nghĩa: " Kẻ nào bác bỏ " cân bằng ngược lại " kẻ nào nghe lời "; "khuyên bảo" là từ đồng nghĩa với "khiển trách"; "khinh thường" cân bằng với một sự cân bằng nhất định của sự tương phản "được". "Linh hồn" (= hơi thở sự sống, nhân cách, bản thân) cân bằng "tấm lòng (hiểu biết)", có lẽ là toàn thể so với một phần. Nhìn chung, cola được cân bằng bởi sự cân bằng của sự tương phản mô tả tình huống của người ngoan ngoãn và người cứng đầu.
Có một sự cân bằng bổ sung ở đây mà tôi sẽ đưa vào tiêu đề được sử dụng ở trên "của các loại khác quá khác biệt để lập danh mục". Cả hai cola đều sử dụng hình ảnh nghịch hợp [oxymoron]. Người không bao giờ thừa nhận rằng hành động của mình có thể bị chỉ trích thực sự hạ thấp và khinh thường chính mình; người sẵn sàng thừa nhận rằng mình đã phạm sai lầm, đến lượt mình trở nên khôn ngoan. Sự cân bằng trong Châm ngôn 15:32 bao gồm nhiều thứ hơn là sự cân bằng ngữ nghĩa.
Trong những bài thơ dài hơn, sự cân bằng này nhất thiết phải nới lỏng. Điều đó được làm rõ trong Isaia 40: 1-2: dấu hai chấm; nó cũng áp dụng cho dấu ba chấm.
nahamu nahamu 'ammi yo'mar ’elohekem
Hãy an ủi, an ủi dân Ta, Thiên Chúa phán.
Dấu hai chấm có sự cân bằng về nhịp điệu; cũng có sự cân bằng về ngữ âm của các chữ lặp lại /m/: m, m, m / m, m //. Nhìn chung, sự cân bằng khá yếu.
dabberu ‘al leb yeru'salayim weqir’u 'eleha
Hãy nói với trái tim của Giêrusalem, và tuyên bố với cô ấy.
Câu này có sự cân bằng về nhịp điệu; sự cân bằng cú pháp đáng kể: Động từ + liên từ + đối từ + sở hữu cách phụ thuộc (dependent gen). — Động từ + liên từ + đối từ đại danh từ (pron.obj.); một số cân bằng về hình thái, trong đó mỗi dấu hai chấm mở đầu bằng một ứng biến, mặc dù có các cách chia động từ khác nhau.
Sự cân bằng về ngữ âm bao gồm việc lặp lại các nguyên âm dài /u/ và mẫu điệp âm b, r, l, l, b, r, l của dấu hai chấm mở đầu được chọn bởi r, l của dấu hai chấm thứ hai.
Về mặt ngữ nghĩa, "nói" được cân bằng bởi "tuyên bố"; và “với trái tim của Giêrusalem” theo cách viết tắt, bởi “với cô ấy.”
ki male’ah seba'ah ki nirsa 'awonah
Việc phục vụ của cô ấy là trọn vẹn, tội lỗi của cố ấy được đền chuộc.
Câu có sự cân bằng về nhịp điệu; ba từ cân bằng ba từ. Nó có sự cân bằng về cú pháp; câu hai lặp lại mẫu: tiểu từ + động từ + chủ từ + đại từ sở hữu cách [affixed gen.pron.]. Cả hai cola đều mở và đóng bằng cân bằng hình thái: tiểu từ ki + động từ ngôi thứ ba số ít giống cái (chia động từ khác nhau)... + đại từ ngôi thứ ba số ít giống cái. Các chủ ngữ danh từ có các mẫu khác nhau. Sự cân bằng ngữ âm được xử lý rất nặng nề. Ba từ của mỗi câu vần với mẫu lặp lại: i, a, ah. (“phục vụ” là giống đực thì động từ phải là giống đực, male'. Từ giống cái male'a là cần thiết cho vần điệu và được hỗ trợ bởi hậu tố đại từ giống cái, “việc phục vụ của cô ấy”. Ngữ âm có thể ảnh hưởng đến ngữ pháp.) Câu cola cân bằng cho thấy vần cuối; điều này xảy ra không thường xuyên trong câu thơ Cựu ước—lên vần cola và lên vần điệu.
Sự cân bằng ngữ nghĩa rất chặt chẽ, nhưng ở đây có một điểm quan trọng cần nêu ra. Thật khó để thấy nhiều sự khác biệt về ngữ nghĩa trong câu cola cân bằng của câu trước, mặc dù có lẽ có một số điểm nhấn theo nghĩa "công bố" đi kèm với sắc thái "lớn tiếng" không có trong "nói." Ở câu 3, sự lặp lại ngữ nghĩa là điển hình hơn. Dấu hai chấm thứ hai lặp lại nhưng sửa đổi đáng kể dấu hai chấm đầu tiên. Các thuật ngữ cân bằng cho "hoàn thành việc phục vụ của cô ấy là trọn vẹn" là " tội lỗi/hình phạt của cô ấy đã được đền chuộc." Dấu hai chấm thứ hai định nghĩa lại nghĩa vụ lưu đày là hình phạt cho tội lỗi và giải thích lý do tại sao nghĩa vụ đó kết thúc. Chúa đã chấp nhận sự đau khổ của Giêrusalem như một hình phạt đủ rồi. Ngụ ý ở đây là sự kiện chỉ có Chúa mới kiểm soát được số phận của Giêrusalem; người Babylon trong thực tế không đóng vai trò thực sự quan trọng nào trong việc mang lại sự lưu đày hay sự kết thúc của nó. Tương tự như vậy, ngụ ý là việc khôi phục lại mối quan hệ tốt đẹp giữa Chúa và thành phố của Người (lưu ý "dân Ta" ở dòng một). Điều luôn luôn quan trọng là lưu ý đến những điều tinh tế của loại cân bằng ngữ nghĩa mất cân bằng phổ biến này. Đây là chiến lược chính nhờ đó lập luận tiến triển trong câu thơ lặp lại một cách hời hợt. Điều rõ ràng là trong câu thơ được trau chuốt cẩn thận này, nhà thơ đã gần như cạn kiệt mọi khả năng cân bằng trong một câu thơ- rõ ràng hơn nhiều so với hai câu trước. Câu này cũng là tuyệt đỉnh của lập luận cho đến điểm này. Tuyệt đỉnh của lập luận và sự cân bằng trùng khớp và phần sau dùng để làm nổi bật phần trước.
Sau khi đạt đến tuyệt đỉnh, sự cân bằng giảm dần ở câu tiếp theo:
ki laqeha miyyad YHWH| kiplayim bekol hatto'teha
Thật vậy, cô ấy đã nhận được từ bàn tay của Chúa gấp đôi cho mọi tội lỗi của mình.
Dòng này, không giống như ba dòng hai câu vừa được đề cập, là một dòng một câu. Có xu hướng các dòng một câu có sự cân bằng nội tại kém hơn đáng kể so với các dòng hai câu. Điều đó chắc chắn đúng ở đây, mặc dù cần nhớ rằng dòng mở đầu (40: 1), một dòng hai câu, cũng có sự cân bằng hạn chế tương tự. Dòng thứ tư này có sự cân bằng về nhịp điệu từ điểm ngắt giọng (caesura) sau "Chúa". Nó cũng có sự cân bằng về ngữ âm, đáng chú ý là sự lặp lại: k, 1 /k, 1, k, l //. Nó không có sự cân bằng về cú pháp, hình thái và ngữ nghĩa.
(III) Sự cân bằng giữa các dòng. Đặc điểm cân bằng nội tại của dòng Cựu Ước không làm cạn kiệt khả năng cân bằng trong thơ. Nó thường được mở rộng thành các đơn vị lớn hơn (liên dòng khác với cân bằng nội dòng), nhiều dòng hoặc khá phổ biến là hai dòng. Tình huống sau này tạo ra nhiều sự kết hợp của hai dòng có thể kéo dài trong toàn bộ một bài thơ. Tôi gọi sự kết hợp của hai dòng này là một câu đối (couplet, thuật ngữ này đôi khi được dùng cho những gì được gọi là dấu hai chấm ở đây). Tình huống này được minh họa rõ ràng bằng ví dụ minh họa được sử dụng ở đây, Isaia 40: 1-8. Bài thơ gồm 12 dòng được nhóm thành sáu câu đối, tất cả đều thể hiện sự cân bằng giống như sự cân bằng được nghiên cứu cho đến thời điểm này ở bình diện dòng. Sự cân bằng giữa các dòng này được minh họa rõ nhất bằng câu đối kết thúc của tác phẩm, câu 7-8:
Cỏ đã héo, hoa đã héo,
vì hơi thở của Chúa đã thổi vào. Cỏ đã héo, hoa đã héo,
nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi.
Sự cân bằng nổi bật nhất ở đây là sự cân bằng giữa câu mở đầu của mỗi dòng. Sự cân bằng về nhịp điệu, cú pháp, hình thái học, ngữ âm và ngữ nghĩa liên quan đến sự lặp lại chính xác.
Sự cân bằng giữa các dòng thường được kiềm chế hơn. Tôi minh họa ngắn gọn, một lần nữa từ bốn dòng đầu tiên (hai câu đối; 40: 1-2). Vì tất cả các dòng đều có sự cân bằng về nhịp điệu và lặp lại dấu hai chấm (bicola), nên sự cân bằng này không phải là một phần của cuộc thảo luận. Dòng 1 mở đầu bằng một mệnh lệnh kép (an ủi, an ủi). Các mệnh lệnh được lặp lại ở phần mở đầu của dấu hai chấm đầu tiên và thứ hai của dòng thứ hai (nói... công bố). Điều này tạo ra một sự cân bằng cú pháp, hình thái và ngữ âm nhất định. Có một số sự cân bằng ngữ nghĩa giữa "người dân [people]" ở dòng 1 và "Giêrusalem" ở dòng 2. Trong ngụy Isaia [Dt-Isa], họ có mối quan hệ như con cái với mẹ. Quan trọng hơn, sự cân bằng ngữ nghĩa giữa "hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta", "Hãy nói với tâm hồn Giêrusalem" và "công bố với cô ấy" trong ngữ cảnh rất gần nhau. Trên thực tế, các động từ hoạt động cùng nhau như một loại hendiadys [Phép thế đôi] nghĩa là một ý tưởng diễn tả bằng hai từ ngữ, và mỗi cola trong ba cola này đều có nghĩa là "hãy nói những lời an ủi cho dân Ta-cho cả Giêrusalem- cho cả cố ấy nữa".
Sự sắp xếp cú pháp của cola ở dòng mở đầu của cặp câu thứ hai tuân theo mô hình: tiểu từ ki + động từ ngôi thứ ba số ít giống cái + chủ từ. Mô hình này được bắt chước một phần trong dấu hai chấm mở đầu của dòng thứ hai: tiểu từ ki + động từ ngôi thứ ba số ít giống cái. Điều này chắc chắn liên quan đến một số sự cân bằng về mặt hình thái và ngữ âm. Hậu tố đại từ cuối cùng /-ha/ ở cuối dòng thứ tư này có thể vần điệu với hậu tố đại từ /ha/ pron. đóng hai cola của dòng 3. Hậu tố /-ha/ kết thúc câu đối thứ hai cũng vần với hậu tố /-ha/ kết thúc câu đối thứ nhất.
Sự cân bằng ngữ nghĩa của câu đối xoay quanh việc làm sắc nét hơn cách diễn giải về sự phục vụ của người lưu vong. Dấu hai chấm mở đầu của dòng đầu tiên của câu đối trình bày nó như "trọn vẹn/đầy đủ/kết thúc". Dấu hai chấm thứ hai của dòng trình bày "sự phục vụ" đó như "tội lỗi/hình phạt" và nói rằng nó đã được "đền chuộc/chấp nhận." Điều đó ngay lập tức ám chỉ Chúa như lời giải thích cho sự kết thúc của cuộc lưu đày và tội lỗi là lời giải thích cho hành động thù địch của họ đã bắt đầu nó. Dòng thứ hai của câu đối được xây dựng dựa trên điều này. 'Giêrusalem đã nhận... gấp đôi cho mọi tội lỗi của mình." Điều đó nhấn mạnh đến sự trừng phạt to lớn của nó. Ngoài ra, "việc phục vụ" đã đến "từ bàn tay của Chúa." Điều đó làm rõ ràng sự kiện không chỉ kết thúc mà cả khởi đầu của nó là việc làm của Chúa ở bình diện có ý nghĩa nhất mà chỉ mình Người làm. Sự cân bằng ngữ nghĩa giữa các dòng của câu đối khá lệch tâm, nhưng đầy ý nghĩa. Cảm giác cân bằng mà người đọc có được từ các dòng đến từ các loại cân bằng được mô tả ở trên cũng như từ sự cân bằng ngữ nghĩa.
Ngoài việc lặp lại các câu đối, dạng thơ Cựu Ước chuẩn mực duy nhất lớn hơn dòng (ví dụ như khổ thơ Spencer hoặc bài thơ sonnet [bài thơ trữ tình ngắn], là bài thơ chữ cái (acrostic) trong đó theo nhiều cách khác nhau, số lượng dòng được xác định bởi số lượng các chữ cái của bảng chữ cái. Các nhà thơ Do Thái có thể sáng tác những bài thơ được đo lường như vậy ngay cả khi không có chữ cái đầu xuất hiện; Ví dụ, bài thơ 22 dòng, Ai Ca 5. Có thể nói về các đoạn văn ý nghĩa trong thơ như trong văn xuôi. Đôi khi, các đoạn văn ý nghĩa này có thể có độ dài tương đối bằng nhau.
(IV) Vấn đề Nhịp điệu. Bây giờ tôi chuyển sang câu hỏi về nhịp điệu Cựu Ước và chính xác là vấn đề về cách đo các dòng và cola của chúng. Việc thảo luận về vấn đề này đã bị trì hoãn vì hai lý do: (1) Hiện tại, vấn đề không thể được giải quyết theo cách hoàn toàn thỏa đáng và có lẽ sẽ không bao giờ có thể giải quyết được. (2) Kinh nghiệm cố gắng giới thiệu cho sinh viên về bản chất của dòng Cựu Ước đã dạy cho tôi rằng sinh viên mới bắt đầu trở nên quá quan tâm đến vấn đề này đến nỗi họ không thấy được toàn cảnh vì những chi tiết; tức là, có thể nói rất nhiều điều có cơ sở vững chắc trong văn bản về dòng thơ Cựu Ước mà thậm chí không cần đề cập đến các chi tiết cụ thể của vấn đề này.
Gốc rễ của khó khăn là vấn đề nhịp điệu cuối cùng là vấn đề ngữ âm học Do Thái của Cựu Ước, và sách có thể được viết về những gì không được biết về chủ đề này - như cũng đúng với các tử ngữ khác. Vấn đề này còn phức tạp hơn nữa bởi sư kiện khi nó là ngôn ngữ sống, tiếng Do Thái của Cựu Ước về cơ bản được viết mà không có nguyên âm, mặc dù một số phụ âm cuối cùng đã được sử dụng trong chức năng thứ cấp để đánh dấu một số nguyên âm.
Toàn bộ ký hiệu nguyên âm và trọng âm của Kinh thánh masoretic hiện đại cuối cùng là sản phẩm của công trình của các ký lục (masoretes) giữa thế kỷ thứ 6 và thế kỷ thứ 10 CN. cố gắng thiết lập hướng dẫn cho việc tụng kinh thích hợp của văn bản trong buổi lễ tại hội đường Do Thái. Điều này chắc chắn có tác động san bằng đối với ngôn ngữ, một điều giải thích cho những nỗ lực hạn chế trong việc viết ngữ pháp tiếng Do Thái Kinh thánh nhằm phân biệt, ví dụ, Cổ, Trung và Hậu, như đã làm đối với các ngôn ngữ tương đương khác của Cận Đông cổ thời kéo dài cả một thiên niên kỷ (hoặc lâu hơn). Chỉ theo một cách khá hạn chế, những sự phân biệt như vậy mới có thể được rút ra. Tiếng Do Thái Kinh thánh về cơ bản là phương ngữ của các ký lục [masorete] Tiberia. Mặc dù phương ngữ này chắc chắn là sự tiếp nối và là sự mô phỏng gần đúng của các cách phát âm cổ xưa hơn, nhưng có thể nghi ngờ rằng Ngụy Isaia [Dt-lsa] thậm chí có thể hiểu được Isaia 40:1-8 được đọc lại cho ông bởi một ký lục [masorete] thế kỷ thứ 10 CN hoặc trong bất cứ cách phát âm hiện tại nào của văn bản. Vấn đề ở đây không chỉ là các từ riêng lẻ; nó mở rộng đến ngữ điệu [intonation] câu, đây là một cân nhắc quan trọng trong phép đo. Có một câu hỏi nữa là các tác phẩm thơ gốc đã được các ký lục chuyển đổi hoặc hiện đại hóa đến mức nào trong quá trình truyền bá trong thời gian dài.
Hiện nay có ba quan điểm nổi bật về cách đo dòng tiếng Do Thái: (1) các trọng âm [accents] được đếm; (2) các âm tiết [syllables] được đếm; (3) không có phép đo. Tuy nhiên, quan điểm cuối cùng này thừa nhận rằng đặc điểm của dòng là các câu ngắn được đề cập ở trên - ít nhất là một cách mặc nhiên. Quan điểm đầu tiên phổ biến hơn, mặc dù quan điểm thứ hai và thứ ba đã nhận được sự ủng hộ gần đây trong các phương pháp xử lý câu hỏi bằng tiếng Anh.
Quan điểm thứ ba tôi coi là không thể duy trì. Các nhà thơ Cựu Ước đơn giản không tạo ra bicola khi cola cân bằng chứa 25 từ mỗi cola. Khi một loạt bicola được trình bày theo phương pháp đo lường trên trang giấy in, chúng trình bầy sự đồng đều đòi hỏi phải giải thích và quan điểm duy hư vô này không thể giải thích - ngay cả khi sự đồng đều này là một sản phẩm phụ của nhịp điệu được diễn đạt, chứ không phải yếu tính của nó.
Quan điểm thứ hai về cơ bản là quan điểm của hai học giả nổi tiếng của Hoa Kỳ, F. M. Cross và D. N. Freedman, và các giới chịu ảnh hưởng của họ. Cần lưu ý rằng quan điểm của Cross và Freedman không giống nhau. Freedman sử dụng chặt chẽ phép chia âm tiết masoretic (một yếu tố không phải lúc nào cũng rõ ràng như đôi khi vẫn được cho là) để chỉ ra rằng cola cân bằng và các dòng chứa số lượng âm tiết tương đối bằng nhau. Điều này có thể được mong đợi trong mọi trường hợp từ cola và các dòng cân bằng như vậy. Ông không tuyên bố rằng việc đếm âm tiết là cơ sở của hệ thống nhịp điệu.
Cross và những người khác theo ông, với một số cảnh báo và cho phép có chỗ cho việc đếm trọng âm được kiểm soát đi kèm, ít nhất, đó là cơ sở cho hệ thống câu thơ Cựu Ước trong thơ mà họ phân tích theo cách này. Về cơ bản, hình thức phân tích đếm âm tiết này tuyên bố rằng cola cân bằng của bicola có số lượng âm tiết bằng nhau (6 + 6; 8 + 8; 9 + 9; v.v.). Hệ thống cũng nhận ra nhịp qina (→ bên dưới) với việc sử dụng tương đối nhất quán cola không cân bằng (7 + 6; 7 + 5; v.v.).
Không thể trình bày hoặc phê bình một cách công bằng trong một vài câu phân tích này về các nhịp Do Thái, thường được thực hiện với rất nhiều sự tinh vi về ngữ văn và văn bản, nhưng tôi không nghĩ rằng nó sẽ chiếm ưu thế chủ yếu vì những lý do sau, tất cả đều cần được giải thích chi tiết hơn.
Trước hết, các bộ đếm âm tiết không đặt ra câu hỏi nghiêm túc: tại sao 9 + 9 âm tiết trong cola cân bằng được phép, nhưng 35 + 35 âm tiết thì không được phép? Mọi người đều thừa nhận rằng bicola cân bằng có thể chứa số lượng âm tiết cân bằng. Nhưng đó có phải là cơ sở của hệ thống hay là hậu quả từ hệ thống? Tôi nghĩ câu hỏi đầu tiên gợi ý khả thể sau.
Thứ hai, có thể đặt câu hỏi liệu các bộ đếm âm tiết có thể trình bày một văn bản đầy đủ để đếm các âm tiết hay không. Phân tích, mặc dù nó sửa đổi cách phát âm của phương ngữ Tiberia ở một số khía cạnh, nhưng về cơ bản là gắn liền với nó. Nó lưu ý rằng có những phát triển trong tiếng Do Thái Tiberia thực sự muộn (ví dụ, 'ebed, "người hầu"; hai âm tiết; nhưng trong các bản sao Bẩy Mươi trước đó 'abd, một âm tiết). Các danh sách (khó có hệ thống - không có bằng chứng) được lập ra về những phát triển muộn này và một phương ngữ tiếng Do Thái Kinh thánh về cơ bản là đơn âm được rút ra, được cho là đã kéo dài một thiên niên kỷ. Sự đồng đều cơ bản của phương ngữ này, cho các mục đích hiện tại, đặc biệt là trong lĩnh vực âm tiết, gây khó khăn cho độ tin cậy.
Tôi cho rằng có thể nghĩ rằng trong mọi thời kỳ đã hiện hữu nhiều sửa đổi trong lĩnh vực âm tiết hóa các dạng tiền Canaan, các hình thức nguyên Do Thái được giả định, trở thành cơ sở cho phương ngữ được xây dựng này như có thể được lập danh mục trong phương ngữ Tiberia. Tuyên bố rằng các âm tiết có thể được đếm chính xác trong tiếng Do Thái tiền Tiberia dựa trên cơ sở không chắc chắn. Có thể thừa nhận rằng đếm là phép tính gần đúng. Nhưng điều đó không hiệu quả. Phân tích này chỉ đơn giản là yêu cầu đếm chính xác. Đây là lời giải thích cho những tuyên bố kém hơn mà Freedman đưa ra cho số lượng âm tiết của mình.
Người ta cho rằng những người đếm âm tiết đang đặt ra những câu hỏi quá tinh tế để cho phép trả lời nghiêm túc dựa trên bằng chứng thực sự. Nhưng chỉ sửa đổi việc hiện đại hóa biện chứng trong văn bản vẫn không cung cấp cho những người đếm âm tiết số lượng họ cần. Các chiến lược phải được phát triển để cân bằng cola không cân bằng. Những người đếm âm tiết lưu ý rằng các tiểu từ (particles) như 'et (dấu hiệu của đối cách [accusative]), liên từ "và", quan hệ, mạo từ, v.v. được sử dụng nhất quán hơn trong văn xuôi so với thơ. Điều đó đúng. Những điều này có thể được cắt bỏ tự do như các dấu cộng văn xuôi khỏi bất cứ văn bản có nhịp điệu nào để cân bằng số lượng âm tiết. Hầu hết thời gian, điều này không tạo ra nhiều khác biệt, nhưng đôi khi lại có, chẳng hạn như khi "và" bị loại bỏ trước các dạng động từ có ngôi [finite verb] liên quan đến sự thay đổi thì. Một chiến lược khác là cô lập các dòng một cách nhân tạo khi điều này giúp phát hiện ra cola cân bằng về mặt âm tiết. Cả hai chiến lược sẽ được minh họa trong phần thảo luận bên dưới.
Khả thể điều chỉnh số lượng âm tiết được mở rộng hơn nữa thông qua việc phê bình văn bản nghiêm túc. Chắc chắn rằng đã có một văn bản gốc và trong quá trình truyền tải, trong thời kỳ Cựu Ước và sau đó, văn bản đã được sửa đổi theo nhiều cách, một số chính, một số phụ, được phân loại một phần thành các bản sao đôi trong Kinh thánh tiếng Do Thái, bản thảo Qumran và bằng chứng của các phiên bản. Nhưng tôi thực sự nghi ngờ rằng việc chọn lọc giữa các dạng khác nhau của một dòng tiếng Do Thái cụ thể được hướng dẫn bởi giả thuyết về số lượng âm tiết cân bằng trong cola của dấu hai chấm sẽ giúp chúng ta tiến gần hơn đến bản gốc. Đây là một phiên bản mới của các bản sửa lỗi metri causa [do nhịp điệu] của một thời đại trước đó đã bị mất uy tín. Ở trên, người ta lập luận rằng sự hiểu biết về hệ thống câu thơ tiếng Do Thái nên được cho là đúng vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên Ki-tô giáo. Dòng tiếng Do Thái cũ đã được viết; do đó, nó đã được hiểu. Trong giai đoạn này, chúng ta có bằng chứng bản thảo (Qumran) và Bẩy Mươi chứng thực các loại dòng rằng các việc đếm âm tiết chỉnh sửa để cân bằng các âm tiết. Điều này cho thấy rằng số lượng âm tiết cân bằng không phải là yêu cầu đối với dòng thơ tiếng Do Thái.
Một ví dụ về cách tiếp cận đếm âm tiết đối với một văn bản sẽ hữu ích. Textus receptus [bản văn được chuẩn nhận] của sách Xuất hành 15:1 trình bày cho chúng ta:
Tôi xin hát mừng CHÚA,
Đấng cao cả uy hùng :
Kỵ binh cùng chiến mã,
Người xô xuống đại dương
Tôi muốn đọc phần này dưới dạng một dấu hai chấm đơn thay vì hai dòng hoặc ba chấm ba câu. Hoặc sắp xếp phản ảnh cấu trúc câu tốt hơn và ý nghĩa dừng lại. Dấu hai chấm có lẽ tốt hơn. Dấu dừng bên trong có trọng số nằm sau " cao cả uy hùng [exalted]" và điều đó tạo ra cola có độ dài cân bằng rõ ràng hơn. Vì mục đích của lập luận, tôi bỏ sự sắp xếp, đây là một chiến lược rõ ràng để dễ dàng áp dụng giả thuyết cân bằng âm tiết. Số lượng âm tiết là 6 + 5, 5 + 4. Có thể làm gì để có được sự cân bằng âm tiết? Ở dòng thứ hai, "kỵ binh của nó" được đổi thành "kỵ binh" với bằng chứng phiên bản là 4 + 4 (tôi muốn vì các lý do của nghĩa là "chiến mã [chariots]", 3 + 4). Ở dòng đầu tiên, "tôi xin hát mừng [I will sing]" được đổi thành "I shall sing" với "sing (số nhiều)!" cũng được phép. Điều này tạo ra 5 + 5. Có bằng chứng phiên bản viết "chúng ta hãy hát mừng [let us sing]" (6 + 5). Cần lưu ý rằng tất cả những thay đổi này trong các văn bản không có nguyên âm đều rất nhỏ; và mọi biến thể dòng này đều có ý nghĩa. Tôi coi tất cả các dạng của dòng thơ Do Thái có liên quan là có thể sao chép được và cho rằng chúng ta có nhiều biến thể nhỏ như thế này trong nhiều dòng chính xác vì chúng có thể sao chép được như nhau. Nếu có một hệ thống đếm âm tiết cứng ngắc thì sẽ có ít biến thể hơn nhiều. Các ký lục, những người được cho là có thể hiểu hệ thống này ít nhất là cho đến đầu thời đại, sẽ sử dụng nó để kiểm soát những gì họ sao chép.
Tất nhiên, có thể hình thành giả thuyết cho rằng có một dạng dòng trước đó, sau này bị lãng quên, sử dụng cola cân bằng âm tiết làm cơ sở. Nhưng bằng chứng thực sự cho điều đó là một số lượng lớn bicola được sản xuất với sự khéo léo đáng kể bằng nhiều chiến lược khác nhau. Đối với tôi, ít nhất, điều đó có vẻ làm suy yếu nghiêm trọng giải pháp này cho vấn đề về nhịp điệu do dòng thơ Do Thái đưa ra.
Hệ thống thứ ba để đo các dòng thơ Do Thái là đếm các trọng âm của câu. Đây là một hệ thống có thể có và được sử dụng để đo lường không chỉ thơ Do Thái, với các nguyên âm do các ký lục [masoretes] Tiberia cung cấp, mà còn cả thơ Ai Cập và Ugaritic, trong đó các nguyên âm nói chung không được chỉ ra, và thơ Akkadia, trong đó chúng được chỉ ra. Thơ Akkadia với các nguyên âm được chỉ ra đôi khi có thể tạo ra bicola cân bằng về mặt âm tiết, nhưng đó chắc chắn không phải là hệ thống. Phân tích trọng âm giả định rằng số lượng trọng âm trong dấu hai chấm hoặc dòng được kiểm soát và mối quan hệ giữa số lượng âm tiết không có trọng âm và âm tiết có trọng âm thay đổi theo các mẫu lời nói thông thường của từng ngôn ngữ. Hệ thống này tương tự như hệ thống trong Christabel của Coleridge:
Đã nửa đêm theo đồng hồ của lâu đài, Và những con cú đã đánh thức con gà trống gáy, Tu-whit!-Tu-whoo!
Và lắng nghe lần nữa! con gà trống gáy.
Số lượng trọng âm của câu trong mỗi dòng được kiểm soát cẩn thận, là bốn. Số lượng âm tiết thay đổi từ mười hai đến bốn. Nhịp điệu ở đây là sự bắt chước thơ tiếng Anh đầu tiên và có những song đối trong thơ "nguyên thủy" ở nhiều ngôn ngữ. Trong Christabel, tất nhiên, mọi người đều nhận thức ngay về nhịp điệu, việc tập họp lặp lại các đơn vị gồm bốn âm tiết nổi bật, có trọng âm được thể hiện rõ ràng bằng các điểm dừng.
Đó là vì mọi người nói tiếng Anh đều đã học được từ nhiều năm kinh nghiệm cách nhấn giọng một câu tiếng Anh. Vấn đề khi áp dụng hệ thống phân tích này vào các tử ngữ là chúng ta không biết cách nhấn giọng các câu và người cung cấp thông tin bản ngữ không và sẽ không bao giờ hiện hữu. Các nhà phân tích chỉ phải chẩn đoán. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi những người đếm trọng âm có thể gán số lượng biến thể cho cùng một dòng, ví dụ: 3 + 3 và 3 + 2. Nguyên tắc chung là coi những từ không có trọng âm, nhỏ hoặc tương đối không quan trọng là những từ không có trọng âm. Chúng tạo thành các đơn vị trọng âm của câu với các từ quan trọng, có trọng âm. Chẳng hạn, dòng mở đầu của Christabel:
’Tis the middle / of the night / by the castle / clock.
Ooo’o / ooo’ / ooo’o / o’
Một số gợi ý về quá trình này của nhóm âm tiết không có trọng âm xung quanh những âm tiết có trọng âm trong một câu được đưa ra bởi các dấu tụng kinh của ký lục [masoretic], mặc dù chúng không thể được tuân theo một cách mù quáng. Chúng phục vụ mục đích đánh dấu giai điệu cho việc tụng kinh của hội đường Do Thái. Ví dụ, Đệ nhị luật 32: 1 được cả các ký lục [masorete] và những người đếm trọng âm hiện đại đọc như 3+3:
Hãy lắng nghe, ôi các tầng trời, trong khi tôi nói;
hãy để trái đất lắng nghe những lời của miệng tôi.
Các trọng âm của câu tiếng Anh ở đây là 3 + 4.
Người ta thường cho rằng cola Do Thái riêng lẻ chứa từ hai đến bốn trọng âm của câu và được kết hợp theo nhiều cách khác nhau. Dòng 3 + 3 là phổ biến nhất. Nhưng nhịp điệu hỗn hợp cũng phổ biến. Ví dụ, phép đếm của tôi trong Isaia 40:1-8 là: 3+2, 3+2, 2+2, 3+3, 2+3+4, 2+3, 3 + 2, 3 + 3 + 3, 3 + 3, 2 + 3, 4 + 4( + 3), 4 + 3. Phép thơ khác tạo ra phép đếm đều đặn hơn nhiều, ví dụ, Gióp, trong đó 3 + 3 chiếm ưu thế. Người ta hiểu rằng tất cả các phép đếm đều là phỏng đoán có căn cứ. Thật không may, nhưng quan điểm này đã vượt qua được thử thách của thời gian và vẫn được coi là cách giải thích hợp lý hơn về dữ kiện. Cần lưu ý rằng trong Christabel, các đơn vị nhịp điệu được kết thúc mạnh mẽ. Đó là đặc điểm của loại nhịp này, lặp lại các đơn vị của phép đếm nhấn cân bằng; chính việc kết thúc làm cho các đơn vị trở nên rõ ràng. Điều tương tự cũng đúng với các đơn vị thơ Cựu Ước và thơ Cận Đông cổ thời nói chung. Không khó để suy ra từ điều này rằng việc kết thúc phục vụ cùng một mục đích ở đó.
Có một dạng dòng, 3 + 2 trong ký hiệu trọng âm, được gọi là qina (ai ca) vì nó đặc trưng với một số tính nhất quán cho bốn chương đầu tiên của Ai Ca, mặc dù nó không giới hạn ở các bài ai ca.
Câu hỏi có thể được đặt ra là có bao nhiêu sự khác biệt thực sự giữa ba cách diễn giải dữ kiện được trình bày cho đến điểm này (→ ở trên). Ví dụ, Gióp 3:3:
Hãy diệt vong ngày tôi sinh ra;
và đêm đã nói, "Một bé trai đã được thụ thai!"
Phép đo độ dài của dòng thơ được tất cả mọi người đồng ý. Có thể kết luận rằng dòng này là một câu hai dấu chấm và để yên vấn đề. Cũng có thể cố gắng vượt ra ngoài điều đó và đoán rằng dòng này có 4 + 4 số lượng trọng âm (tương ứng ở đây với các trọng âm ký lục [masoretic]). Giữa quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ ba, sự khác biệt thực sự duy nhất có vẻ là quan điểm thứ ba từ chối suy đoán về yếu tố kiểm soát độ ngắn của các câu ngắn - một vấn đề thực tế nằm ngoài sự kiểm soát đầy đủ.
Những khác biệt thực sự giữa quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai có tỷ lệ tương tự nhau. Cần nhớ rằng những người đếm âm tiết không phủ nhận khả thể độ dài của dòng được đo bằng cách kiểm soát trọng âm. Họ chỉ đơn giản thêm một biện pháp kiểm soát khác, kiểm soát âm tiết. Họ làm như vậy một phần vì việc đếm âm tiết được cho là tạo ra nhiều kết quả có thể xác minh được hơn. Tôi đã cố gắng chứng minh rằng việc đếm âm tiết cũng không phải là không có nguy cơ. Freedman, khi đếm các âm tiết ký lục [masoretic], chấp nhận số lượng âm tiết tương đối cân bằng. Gióp 3:3 có số lượng âm tiết là 7 + 10 âm tiết ký lục [masoretic] (7 + 9 khi điều chỉnh thành phương ngữ tiền Tiberia được giả định). Số lượng nằm trong các thông số mà Freedman đưa ra cho dòng và cola Cựu Ước. Nhưng đây không phải là câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi về nhịp điệu. Nếu thừa nhận mối quan hệ số học thông thường giữa các âm tiết không có trọng âm và các âm tiết có trọng âm trong một ngôn ngữ, thì việc kiểm soát trọng âm của các khối xây dựng của câu thơ sẽ tạo ra loại kiểm soát âm tiết này. Trong Christabel ở trên, các dòng được trích dẫn có từ 8 đến 12 âm tiết, ngoại trừ sự bắt chước bất thường của tiếng cú kêu ở dòng 3, có 4 âm tiết. Những người đếm trọng âm không bất đồng quan điểm với Freedman (và ông cũng không bất đồng quan điểm với họ). Họ chỉ đơn giản đặt ra câu hỏi tiếp theo về yếu tố kiểm soát cuối cùng trong việc đo dòng và dấu hai chấm. Trên cơ sở của những câu thơ như Christabel và thơ Akkadia, trong đó các nguyên âm được đánh dấu và các âm tiết có thể được đếm khá chính xác, họ coi sự kiểm soát cuối cùng là kiểm soát trọng âm.
Cross cũng cho phép kiểm soát trọng âm; nhưng ông cũng nhấn mạnh vào sự cân bằng âm tiết tuyệt đối giữa các cola của một dòng. Các văn bản để chứng minh điều này không hiện hữu và nhiều chiến lược khác nhau phải được phát triển để kéo dài và rút ngắn cola để phù hợp với giả thuyết. Điều này thực sự không khó thực hiện khi hệ thống hoạt động trên cola đã cân bằng sơ bộ. Có thể thực hiện đối với Gióp 3:3. Số lượng âm tiết là 7 + 7, nếu :"and" và "the" bị bỏ qua như văn xuôi trong cột thứ hai trên (chữ "và" cũng có thể được giải thích là dittography [chữ chép lập lại thừa] và "ngày" trong tiếng Do Thái thiếu mạo từ trong dấu hai chấm đầu tiên). Tôi coi cách tiếp cận này đối với Gióp 3:3 là điều chỉnh bằng chứng để bảo vệ một giả thuyết đáng ngờ. Những người đếm trọng âm ở đây có một lợi thế thực sự. Hệ thống phân tích không chính xác của họ có thể giải thích cho tất cả các văn bản.
VietCatholic TV
Lao xe vào Tòa Bạch Ốc. Lữ Đoàn Dù Putin bị tấn công ngay ở Nga. EU đồng thanh bênh vực Ukraine
VietCatholic Media
03:20 23/10/2025
1. Tài xế đâm xe vào cổng an ninh Tòa Bạch Ốc
Theo Cơ quan Mật vụ, một người đã lái xe đâm vào cổng bên ngoài Tòa Bạch Ốc vào đêm thứ Ba.
“Vào khoảng 10:37 tối, một cá nhân đã lái xe đâm vào cổng xe của Cơ quan Mật vụ nằm tại đường số 17 và đường East, NW”, Cơ quan Mật vụ cho biết.
Cơ quan thực thi pháp luật, chịu trách nhiệm bảo vệ tổng thống, cho biết thêm rằng tài xế đã “bị bắt giữ và chiếc xe đã được đánh giá và được coi là an toàn”.
Cơ quan Mật vụ cho biết: “Cuộc điều tra của chúng tôi về nguyên nhân vụ va chạm này vẫn đang được tiến hành”, nhưng không cung cấp thêm thông tin chi tiết về người bị bắt, loại xe hoặc động cơ của người lái xe.
Tổng thống Trump đang ở trong Tòa Bạch Ốc vào thời điểm xảy ra vụ việc, tờ New York Times đưa tin.
[Politico: Driver crashes car into White House security gate]
2. Có báo cáo về vụ nổ gần căn cứ quân sự ở miền nam nước Nga, làm rung chuyển nhà máy đạn dược cách Ukraine 1.700 km
Các phương tiện truyền thông địa phương đưa tin, vụ nổ đã xảy ra gần một căn cứ quân sự ngay bên ngoài thành phố Stavropol, miền nam nước Nga vào cuối ngày 22 tháng 10 và các vụ nổ khác đã làm rung chuyển một nhà máy sản xuất đạn dược ở thành phố Kopeysk, miền trung nước Nga.
Ở Stavropol, một người phụ nữ được tường trình đã thiệt mạng do bị thương do mảnh đạn từ vụ nổ được báo cáo.
Một nguồn tin giấu tên cho biết với truyền thông Nga rằng một xe đẩy trẻ em có giấu thiết bị nổ bên trong đã được đặt gần khu vực quân sự.
Theo truyền thông địa phương, vụ nổ được tường trình xảy ra tại một trạm xe buýt gần Trung đoàn tấn công Dù số 247 của Nga.
Truyền thông Nga đưa tin một nghi phạm đã bị bắt giữ và đưa đến căn cứ quân sự gần đó để thẩm vấn.
Tại Kopeysk, các vụ nổ đã được báo cáo gần nhà máy “Plastmass” và các lực lượng khẩn cấp đã ứng phó với vụ việc, hãng tin độc lập Astra đưa tin.
Theo dữ liệu nguồn mở, nhà máy này sản xuất đạn dược cho quân đội Nga và phải chịu lệnh trừng phạt do các đồng minh của Ukraine áp đặt.
Thống đốc tỉnh Chelyabinsk Alexei Teksler xác nhận một vụ nổ đã xảy ra tại một doanh nghiệp, khiến một số lượng thương vong chưa xác định.
Kopeysk nằm cách biên giới đông bắc của Ukraine với Nga hơn 1.700 km (1.056 dặm).
Quân đội Ukraine thường xuyên tấn công cơ sở hạ tầng quân sự trong các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm và sâu bên trong nước Nga nhằm mục đích làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của Mạc Tư Khoa khi nước này tiếp tục tiến hành cuộc xâm lược Ukraine.
Đêm ngày 22 tháng 10, máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công một nhà máy lọc dầu ở Makhachkala, Dagestan, một nguồn tin trong cơ quan tình báo quân sự Ukraine nói với tờ Kyiv Independent.
Chính quyền địa phương tuyên bố máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tiến hành một “cuộc tấn công trên không lớn” vào hai tỉnh Bryansk và Rostov của Nga vào đêm 21 tháng 10, khiến hai người bị thương và gây ra thiệt hại hạn chế.
[Kyiv Independent: Explosions reported near military base in southern Russia, blasts allegedly rock ammunition plant 1,700 km from Ukraine]
3. Nga đánh bom trường mẫu giáo ở Kharkiv
Theo các quan chức cao cấp của Ukraine, lực lượng Nga đã tấn công một trường mẫu giáo ở Kharkiv bằng máy bay điều khiển từ xa sát thủ vào sáng thứ Tư.
Thị trưởng Kharkiv Ihor Terekhov cho biết trong một tuyên bố: “Một vụ tấn công trực tiếp đã xảy ra tại một trường mẫu giáo tư thục ở quận Kholodnoyarkiy, thành phố Kharkiv. Một đám cháy đã bùng phát”.
Các quan chức sau đó cho biết thêm rằng một người đàn ông trưởng thành đã thiệt mạng trong vụ tấn công trường mẫu giáo, và tất cả 48 trẻ em đều rúng động - mặc dù không ai bị thương - và đã được di tản khỏi địa điểm này.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết bảy người đã bị thương trong cuộc tấn công ở nhà trẻ, gây ra làn sóng giận dữ mới đối với Mạc Tư Khoa.
“Các em đang được chăm sóc y tế. Tất cả trẻ em đã được di tản và đang ở trong các nơi trú ẩn. Theo thông tin sơ bộ, nhiều em bị phản ứng căng thẳng cấp tính”, Tổng thống Zelenskiy nói trên mạng xã hội.
“Không thể có bất kỳ lý do chính đáng nào cho một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào một trường mẫu giáo. Nga đang ngày càng trơ tráo. Những cuộc tấn công này là cú tát của Nga vào bất kỳ ai kiên quyết theo đuổi một giải pháp hòa bình. Bọn cướp và khủng bố chỉ có thể bị trừng phạt bằng vũ lực”, Tổng thống Zelenskiy nói.
[Politico: Russia bombs kindergarten in Kharkiv, Ukraine says]
4. TIẾN HÀNH HẠT NHÂN Khoảnh khắc rùng rợn Putin đích thân phát động các cuộc tập trận chiến tranh hạt nhân đáng sợ trong hành động đầu tiên kể từ khi phớt lờ các cuộc đàm phán hòa bình của Tổng thống Trump
ĐÂY là khoảnh khắc rùng rợn khi Vladimir Putin nhấn nút khởi động cuộc tập trận chiến tranh hạt nhân đáng sợ của Nga – vài giờ sau khi phá hỏng kế hoạch đàm phán hòa bình với Ông Donald Trump.
Putin hôm nay đã phóng những hỏa tiễn đạn đạo và hỏa tiễn mô phỏng khổng lồ trong nỗ lực mới nhất của Điện Cẩm Linh nhằm đe dọa Nato
Phát biểu trước nhóm tướng lĩnh của mình qua màn hình TV, Putin cho biết: “Hôm nay chúng tôi đang tiến hành huấn luyện lực lượng hạt nhân theo kế hoạch, tôi muốn nhấn mạnh là theo kế hoạch.”
Cảnh quay cho thấy một hỏa tiễn mô phỏng khổng lồ đang phóng đi từ bãi phóng vũ trụ trong rừng phía bắc nước Nga.
Quân đội Nga cho biết họ cũng đã cho máy bay ném bom chiến lược bay thử, không kích và phóng hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa giả từ tàu ngầm ở Biển Barents - ngay trước cửa NATO.
Trong khi Putin có thể khẳng định các cuộc tập trận này luôn được ghi trong nhật ký, thì đây có vẻ là một sự trùng hợp đáng chú ý khi NATO cũng đã tiến hành các cuộc thử nghiệm riêng của mình vào tuần trước.
Màn phô trương này diễn ra chỉ vài giờ sau khi cuộc gặp thượng đỉnh trực tiếp giữa Tổng thống Trump và Putin bị hủy bỏ – nơi Tổng thống hy vọng sẽ thu hẹp khoảng cách giữa kỳ vọng của Nga và Ukraine về một thỏa thuận.
Nga đang yêu cầu Ukraine giao nộp toàn bộ khu vực Donbas - nơi Ukraine vẫn đang bám giữ một thành trì - trong khi Tổng thống Trump lại đề xuất đóng băng các tuyến chiến đấu và vẽ ra các biên giới mới tại đó.
Sau cuộc điện đàm “có hiệu quả” vào tuần trước - một ngày trước chuyến đi của Tổng thống Zelenskiy tới Tòa Bạch Ốc - cả Hoa Kỳ và Nga đều thông báo rằng Putin và Tổng thống Trump sẽ sớm gặp nhau tại Hung Gia Lợi.
Nhưng ngày hôm qua, các quan chức Hoa Kỳ đã xác nhận kế hoạch đó đã bị hủy bỏ.
Trong một sự thay đổi giọng điệu rõ rệt so với tuần trước, Tổng thống Trump thậm chí còn chỉ trích Putin – tức giận rằng bất kỳ cuộc họp nào cũng sẽ là “lãng phí thời gian” vì kẻ bạo chúa này không thực sự muốn hòa bình.
Có một số ý kiến cho rằng kế hoạch bắt đầu tan vỡ khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio và Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov nói chuyện qua điện thoại.
Họ dự định sẽ tổ chức một cuộc họp sơ bộ, nhưng các nguồn tin cho rằng sự khác biệt giữa họ là nguyên nhân khiến kế hoạch bị đổ vỡ.
Rubio được biết đến là người đặc biệt hoài nghi về Nga – và có thể thấy việc Nga từ chối nới lỏng các điều kiện hòa bình cứng rắn là không thể chấp nhận được.
Trong những ngày kể từ khi hội nghị thượng đỉnh Putin-Tổng thống Trump lần thứ hai diễn ra, Điện Cẩm Linh đã đưa ra một loạt tuyên bố dập tắt các đề xuất hòa bình.
Bản thân Lavrov đã nói: “Một lệnh ngừng bắn ngay lập tức ở Ukraine chỉ có nghĩa là một điều: phần lớn đất nước này sẽ vẫn nằm dưới sự cai trị của Đức Quốc xã.”
Trong khi đó, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết Mạc Tư Khoa sẽ chỉ ngừng giao tranh theo điều kiện của riêng họ.
Ông cho biết: “Chủ đề này đã được nêu ra nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau trong các cuộc tiếp xúc giữa Nga và Hoa Kỳ.
“Phía Nga đã trả lời mọi lần, câu trả lời này ai cũng biết: lập trường nhất quán của Nga không thay đổi.”
Một nguồn tin thân cận với vấn đề này cho rằng Rubio và Lavrov có kỳ vọng rất khác nhau về cách chấm dứt cuộc xâm lược của Nga trong cuộc trò chuyện này.
Thậm chí Rubio còn được tường trình đã khuyên Tổng thống Trump tránh đồng ý gặp Putin cho đến khi những bất đồng được giải quyết.
Sau đó trong ngày, một quan chức Tòa Bạch Ốc đã xác nhận hội nghị thượng đỉnh Budapest đã được lên kế hoạch sẽ không còn diễn ra nữa.
Họ nói thêm rằng không có kế hoạch nào cho cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và Putin trong tương lai gần.
Hiện tại, khi các cuộc đàm phán hòa bình dường như đã không còn hiệu lực, Tổng thống Trump phải đối mặt với quyết định quan trọng về việc có nên tham gia vào cuộc chiến hay không.
Mối quan hệ giữa Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy dường như cũng không mang lại kết quả gì.
Nhà lãnh đạo Ukraine đã rời khỏi cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc mà không mang theo gì, mặc dù ông đã yêu cầu được trang bị hỏa tiễn tầm xa Tomahawk.
Theo nguồn tin của tờ Financial Times, sau cánh cửa đóng kín, cuộc họp đã trở thành một cuộc cãi vã, khi Tổng thống Trump chửi rủa Tổng thống Zelenskiy và yêu cầu ông chấp nhận các điều khoản hòa bình của Nga.
[The Sun: GOING NUCLEAR Chilling moment Putin personally launches terrifying nuclear war games in first act since snubbing Trump’s peace talks]
5. Vụ nổ xảy ra tại các nhà máy lọc dầu của Rumani và Hung Gia Lợi có liên quan đến Nga
Các vụ nổ xảy ra tại các nhà máy lọc dầu ở Rumani và Hung Gia Lợi vào tối ngày 20 tháng 10, cả hai đều có liên quan đến Nga, truyền thông địa phương đưa tin vào ngày 21 tháng 10.
Dầu mỏ Nga vẫn là nguồn thu chủ chốt cho nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa tại Ukraine. Bất chấp nỗ lực của Liên minh Âu Châu nhằm loại bỏ hoàn toàn nguồn năng lượng từ Nga, một số quốc gia thành viên vẫn tiếp tục nhận được nguồn cung.
Một vụ nổ xảy ra vào buổi trưa tại nhà máy lọc dầu Petrotel-Lukoil ở Ploiesti, miền nam Rumani, vào ngày 20 tháng 10.
Theo tờ báo Vilaggazdasag của Hung Gia Lợi, cơ sở này thuộc sở hữu của một công ty con của Lukoil, một trong những công ty dầu khí tư nhân lớn nhất của Nga, và được tường trình đã ngừng hoạt động kể từ ngày 17 tháng 10 do phải kiểm tra kỹ thuật theo kế hoạch.
Một công nhân 57 tuổi bị thương nghiêm trọng ở đầu và chân và được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt.
Trước các cuộc tấn công gần đây của Ukraine vào cơ sở hạ tầng dầu mỏ của Nga, chính quyền địa phương không loại trừ khả năng vụ việc là một hành động cố ý. Tuy nhiên, theo Vilaggazdasag, các nguyên nhân tiềm ẩn khác, chẳng hạn như lỗi của con người hoặc trục trặc kỹ thuật, cũng đang được xem xét.
Theo hãng truyền thông Telex của Hung Gia Lợi, một vụ nổ cũng xảy ra tại nhà máy lọc dầu lớn nhất Hung Gia Lợi, nằm ở thành phố Szazhalombatta, nơi tiếp nhận dầu thô từ Nga.
Nhà máy lọc dầu Danube, nằm cách Budapest 27 km (khoảng 17 dặm) và thuộc sở hữu của công ty dầu mỏ Hung Gia Lợi MOL, đã bốc cháy vào tối ngày 20 tháng 10 sau vụ nổ. Lực lượng cứu hỏa đã khống chế được đám cháy vào sáng ngày 21 tháng 10.
Không có trường hợp thương tích hoặc tử vong nào được báo cáo.
Nguyên nhân chính xác của vụ việc vẫn đang được điều tra. Nhà máy Szazhalombatta, được coi là nhà máy lọc dầu tiên tiến nhất của Hung Gia Lợi, hiện có thể phải tạm thời đóng cửa.
Nhà máy lọc dầu được cung cấp dầu thô từ Nga thông qua đường ống Druzba.
Theo Reuters, nhà máy lọc dầu Novokuibyshevsk của Nga cũng đã ngừng hoạt động vào ngày 20 tháng 10 sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa.
Nhà máy lọc dầu Novokuibyshevsk, tọa lạc tại Tỉnh Volga, là một phần của nhóm nhà máy lọc dầu Samara của Rosneft, bao gồm các nhà máy Kuibyshevsk và Syzran.
Ukraine chưa bình luận về vụ nổ tại các nhà máy lọc dầu ở Rumani và Hung Gia Lợi, cũng như vụ tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa tại cơ sở Novokuibyshevsk.
[Kyiv Independent: Blasts hit Romanian, Hungarian oil refineries tied to Russia]
6. Trung Quốc nhắm đến máy bay Nga để tiếp nhiên liệu cho máy bay chiến đấu của Không quân
Nếu đúng như vậy, lệnh này có thể nhằm mục đích tăng cường đội máy bay tiếp nhiên liệu trên không nhỏ của Trung Quốc cho đến khi nước này mở rộng quy mô đội máy bay tiếp dầu mới để đáp ứng nhu cầu của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân đang hiện đại hóa nhanh chóng. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đặt mục tiêu đạt được “quân đội đẳng cấp thế giới” vào giữa thế kỷ này.
Số lượng đủ máy bay Ilyushin IL-78 - được đưa vào sử dụng năm 1984 với tư cách là máy bay tiếp nhiên liệu trên không chuyên dụng đầu tiên của Mạc Tư Khoa - có thể giúp duy trì các hoạt động trên không tầm xa hơn, bao gồm cả các điểm nóng tiềm tàng trong khu vực như Biển Đông, Đài Loan do Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền và xa hơn nữa là ở Thái Bình Dương.
Đầu tháng này, nhóm tin tặc có tên “Black Mirror” đã công bố một loạt tập tin đầu tiên, bao gồm hơn 300 tài liệu mà nhóm này cho biết có được từ Rostec, công ty mẹ của nhà sản xuất máy bay Ilyushin của Nga.
Trong số đó có một lá thư được tường trình được viết vào ngày 13 tháng 9 năm 2023, từ một quan chức của Ilyushin gửi đến một bộ phận khác, trong đó người gửi yêu cầu làm rõ về thành phần của các bộ phận dành cho đơn đặt hàng 20 chiếc MK-90A, mẫu máy bay IL-78 mới nhất dành cho “Khách hàng 156”.
Mặc dù Trung Quốc thiếu kinh nghiệm xung đột thực tế như Nga, lực lượng không quân của nước này đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về năng lực và dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng các tài sản trên không và các tài sản chiến lược khác.
Nhà báo hàng không Piotr Butowski, người chia sẻ bức thư bằng tiếng Nga trên X, đã xác định Khách hàng 156 là Trung Quốc.
Butowski cho biết lệnh này có thể cho thấy Trung Quốc “không hài lòng” với đội bay hạn chế gồm YY-20, một loại máy bay tiếp dầu được cải tiến từ máy bay vận tải Y-20, khi nước này tiến hành loại bỏ dần các máy bay tiếp dầu H-6 cũ hơn, có thân máy bay được chuyển đổi từ máy bay ném bom.
[Newsweek: China Eyes Russian Planes To Fuel Air Force Fighter Jets: Reports]
7. Không có kế hoạch cho hội nghị thượng đỉnh Putin-Tổng thống Trump trong ‘tương lai gần’, cuộc họp Lavrov-Rubio cũng bị hoãn lại
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố rằng hiện tại không có kế hoạch nào cho cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Putin trong tương lai gần.
Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio cũng không có kế hoạch gặp mặt trực tiếp trong tương lai gần, mặc dù họ đã có cuộc điện đàm “hiệu quả” vào ngày 20 tháng 10. Một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao cho biết một cuộc họp bổ sung giữa các quan chức là “không cần thiết”.
Tin tức này xuất hiện chỉ vài ngày sau thông báo của Tổng thống Trump vào ngày 16 tháng 10 rằng ông sẽ gặp Putin tại Budapest trong những tuần tới để thảo luận về nỗ lực chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.
Phóng viên Garrett Haake của NBC News cho biết trên X rằng việc lên kế hoạch cho hội nghị thượng đỉnh Budapest hiện đang “bị tạm dừng”, theo một quan chức cao cấp giấu tên của Tòa Bạch Ốc. Thông tin tương tự cũng được BBC và CBS News đưa tin.
Diễn biến bất ngờ này diễn ra chỉ vài giờ sau khi các quan chức Nga cho biết công tác chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh Budapest vẫn đang được tiến hành, mặc dù chưa có ngày cụ thể nào được thống nhất.
Hội nghị thượng đỉnh, do Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban, người có quan hệ thân Mạc Tư Khoa, chủ trì, dự kiến sẽ là cuộc gặp thứ hai giữa Putin và Tổng thống Trump kể từ khi Tổng thống Trump trở lại nắm quyền vào tháng Giêng. Hai nhà lãnh đạo đã gặp nhau tại Alaska vào ngày 15 tháng 8 để thảo luận về con đường chấm dứt chiến tranh ở Ukraine, nhưng không đạt được nhiều tiến triển.
Các cuộc đàm phán cao cấp theo kế hoạch, đã gây bất ngờ tại Kyiv và các thủ đô Âu Châu khác, được tường trình sẽ diễn ra sau các cuộc họp giữa phái đoàn cao cấp của Hoa Kỳ và Nga, do Rubio và Lavrov dẫn đầu.
Sau cuộc điện đàm giữa hai nhà ngoại giao hàng đầu vào đầu tuần này, CNN đưa tin rằng, theo các nguồn tin, cuộc gặp trực tiếp của họ đã bị hoãn lại do quan điểm khác nhau và lập trường “tối đa hóa” của Nga.
Mạc Tư Khoa đã tìm cách hạ thấp tầm quan trọng của bài báo của CNN. Khi được hỏi về câu chuyện này, Lavrov bác bỏ cách diễn đạt của CNN là “đơn giản hóa”, trong khi cấp phó của ông, Sergei Ryabkov, không loại trừ khả năng có một cuộc điện đàm khác với Rubio.
Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov phát biểu vào ngày 21 tháng 10 về cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và Putin, trước khi có thông tin mới nhất về việc cuộc gặp bị gác lại: “Chúng tôi không thể hoãn lại điều gì đó chưa được ấn định”.
“Cần phải có sự chuẩn bị, sự chuẩn bị nghiêm chỉnh”, ông nói thêm, đồng thời lưu ý rằng “công việc phía trước sẽ rất khó khăn”.
Tổng thống Trump công bố kế hoạch tổ chức hội nghị thượng đỉnh với Putin một ngày trước khi gặp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc.
Trong khi Ukraine hy vọng đạt được các thỏa thuận mua vũ khí mới từ Mỹ, đặc biệt là hỏa tiễn Tomahawk, Tổng thống Trump được tường trình đã gây áp lực buộc Tổng thống Zelenskiy chấp nhận yêu cầu lãnh thổ của Nga đối với toàn bộ Tỉnh Donetsk.
Sau đó, Tổng thống Hoa Kỳ đã phủ nhận việc yêu cầu Ukraine nhượng lại các vùng lãnh thổ chưa bị tạm chiếm, thay vào đó đề xuất ngừng bắn dọc theo các tuyến đầu hiện tại.
Kyiv và các đối tác Âu Châu đã ủng hộ đề xuất này, trong khi Mạc Tư Khoa bác bỏ, yêu cầu phải giải quyết những gì họ gọi là “nguyên nhân gốc rễ” của cuộc xung đột.
Sự khác biệt trong quan điểm về các cuộc đàm phán ngừng bắn và nhượng bộ lãnh thổ đã khiến một số nhà quan sát xem xét hội nghị thượng đỉnh đã lên kế hoạch và những kết quả tiềm năng của nó với thái độ hoài nghi.
Trao đổi với tờ Kyiv Independent trước thông tin về việc hội nghị thượng đỉnh Budapest bị hoãn, chuyên gia chính trị quốc tế Elina Beketova cho biết lập trường của tất cả các bên vẫn còn rất khác nhau.
Bà cho biết, sau cuộc gọi với Lavrov, Rubio có thể đã nhận ra rằng “có rất ít khả năng Nga sẽ sẵn sàng thỏa hiệp”.
Beketova cảnh báo: “Mối nguy hiểm thực sự đối với Ukraine là Tổng thống Trump sẽ mệt mỏi vì cuộc chiến qua lại này nhưng lại đổ lỗi cho Kyiv thay vì Mạc Tư Khoa, do đó gây nguy hiểm cho việc chia sẻ thông tin tình báo và các hình thức hỗ trợ khác”.
Sau các báo cáo cho rằng các cuộc đàm phán hòa bình giữa Mỹ và Nga đã bị gác lại, NATO thông báo rằng Tổng thư ký Marc Rutte sẽ đến thăm Tổng thống Trump để đàm phán vào ngày 21-22 tháng 10.
Trong bài phát biểu buổi tối ngày 21 tháng 10, Tổng thống Zelenskiy đã liên hệ việc Nga rút khỏi các cuộc đàm phán hòa bình với việc Ukraine thiếu hỏa tiễn Tomahawk tầm xa.
“ Nga tiếp tục làm mọi cách để thoát khỏi ngoại giao — và ngay khi vấn đề về năng lực tầm xa đối với chúng tôi — đối với Ukraine — trở nên không còn cấp bách nữa, thì mối quan tâm của Nga đối với ngoại giao cũng gần như tự động phai nhạt”.
“Điều này báo hiệu rằng chính vấn đề này — vấn đề về khả năng tấn công sâu của chúng ta — có thể nắm giữ chìa khóa không thể thiếu cho hòa bình.”
[Politico: No plans for Putin-Trump summit in 'immediate future,' Lavrov-Rubio meeting also shelved]
8. Các đồng minh của Ukraine vội vàng ủng hộ Tổng thống Zelenskiy trong bối cảnh lo ngại về thỏa thuận Tổng thống Trump-Putin
Các đồng minh của Ukraine đang chạy đua để củng cố vị thế của Kyiv trước cuộc đàm phán giữa Ông Donald Trump và Putin, trong bối cảnh lo ngại rằng hai nhà lãnh đạo có thể đưa ra một thỏa thuận ngừng bắn tồi tệ có thể làm suy yếu toàn bộ Âu Châu.
Tại hội nghị thượng đỉnh tuần này, các nhà lãnh đạo Âu Châu đặt mục tiêu thống nhất gói hỗ trợ ba mũi nhọn cho Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy để trao cho ông quyền lực mạnh nhất có thể trong các cuộc đàm phán về bất kỳ thỏa thuận ngừng bắn tiềm năng nào.
Theo các nhà ngoại giao và quan chức chuẩn bị cho cuộc họp hôm thứ Năm tại Brussels, cốt lõi trong chiến lược của họ là kế hoạch huy động thêm tiền cho Kyiv từ các tài sản bị đóng băng của Nga, cùng với nhiều vũ khí hơn, và các động thái nhằm vào nền kinh tế Nga bằng các lệnh trừng phạt mới.
Sự cấp bách mới trong các đồng minh của Kyiv xuất hiện sau khi Tổng thống Trump một lần nữa thay đổi lập trường về cuộc chiến, nói rằng ông sẵn sàng đóng băng cuộc xung đột theo các chiến tuyến hiện tại - chưa đầy một tháng sau khi ông đề xuất Ukraine có thể giành lại toàn bộ lãnh thổ. Những phát biểu của ông đã làm dấy lên lo ngại rằng ông có thể buộc Tổng thống Zelenskiy phải trao trả lãnh thổ cho Nga.
Các quan chức Âu Châu cho biết kết quả đó sẽ là một thảm họa, không chỉ đối với Ukraine mà còn đối với cả họ.
“Biên giới quốc tế không được phép thay đổi bằng vũ lực”, Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Anh, Đức, Pháp, Ý, Ba Lan, Na Uy, Phần Lan và Đan Mạch tuyên bố trong một tuyên bố chung hôm thứ Ba. “Chiến thuật trì hoãn của Nga đã nhiều lần cho thấy Ukraine là bên duy nhất nghiêm chỉnh với hòa bình”, tuyên bố này, cũng được Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen và Chủ tịch Hội đồng Âu Châu António Costa ký, nêu rõ.
“Ukraine phải ở vị thế mạnh nhất có thể — trước, trong và sau bất kỳ lệnh ngừng bắn nào,” các nhà lãnh đạo nói. “Chúng tôi đang xây dựng các biện pháp để sử dụng toàn bộ giá trị tài sản quốc gia bị bất động của Nga để Ukraine có được các nguồn lực cần thiết.”
Tổng thống Zelenskiy cho biết các nhà lãnh đạo Âu Châu sẽ yêu cầu Tổng thống Trump cung cấp hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk cho Ukraine, sau khi ông ra về tay trắng sau cuộc gặp với tổng thống Hoa Kỳ vào tuần trước.
Các nhà ngoại giao dự kiến Tổng thống Zelenskiy sẽ phát biểu trước các nhà lãnh đạo tại hội nghị thượng đỉnh hôm thứ Năm, trực tiếp hoặc qua cuộc gọi video, để tập hợp sự ủng hộ của họ. Các đồng minh khác, bao gồm Keir Starmer của Anh, sẽ tham gia một cuộc thảo luận rộng hơn giữa “liên minh những người sẵn sàng” vào cuối tuần này.
Bên cạnh việc cung cấp vũ khí cho Ukraine, các nước Liên Hiệp Âu Châu cũng sắp đạt được thỏa thuận về hai vấn đề quan trọng khác trong cam kết hỗ trợ của họ: vòng trừng phạt kinh tế thứ 19 nhằm vào ngân quỹ chiến tranh của Putin và lập kế hoạch đột kích các tài sản tài chính bị đóng băng của Nga để giải phóng khoảng 140 tỷ euro cho Ukraine.
Các quan chức cho biết Kyiv đang rất cần tiền mặt và tiến độ giải ngân trong tuần này sẽ báo hiệu với Putin rằng Ukraine sẽ có đủ phương tiện để tiếp tục chiến đấu trong ít nhất hai năm tới.
Những nỗ lực của Âu Châu diễn ra vào thời điểm then chốt trong cuộc chiến kéo dài ba năm rưỡi của Ukraine chống lại lực lượng Nga xâm lược. Hội nghị thượng đỉnh Hội đồng Âu Châu hôm thứ Năm sẽ bị lu mờ bởi cuộc gặp dự kiến tại Budapest trong những tuần tới giữa Tổng thống Trump và Putin để thảo luận về các điều khoản của một thỏa thuận ngừng bắn tiềm năng — một sáng kiến tiếp nối những nỗ lực thành công trước đó của Tổng thống Trump trong việc làm trung gian cho một lệnh ngừng bắn ở Gaza.
Nhà lãnh đạo Hung Gia Lợi Viktor Orbán là một đồng minh của Tổng thống Trump, người vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Putin trong suốt cuộc chiến, bất chấp sự phản đối của các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu khác. Ông đã nhiều lần phản đối các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Âu Châu đối với Nga và kêu gọi “hòa bình”, lập luận rằng cuộc chiến ở Ukraine không phải là việc của Âu Châu.
Một số nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu sẽ vận động hành lang để tham dự cuộc gặp Tổng thống Trump-Putin cũng như bảo đảm Tổng thống Zelenskiy có một ghế trong bất kỳ cuộc đàm phán nào, theo một nhà ngoại giao am hiểu vấn đề này, người này cũng như những người khác được trích dẫn ở đây đã được giấu tên để phát biểu thẳng thắn. Hôm thứ Hai, Tổng thống Zelenskiy cho biết ông sẵn sàng đến Budapest nếu được mời.
Đối với người Âu Châu, nỗi lo sợ lớn nhất là Tổng thống Trump sẽ lại đứng về phía Putin trong việc quyết định hòa bình sẽ như thế nào và sẽ gây áp lực buộc Tổng thống Zelenskiy chấp nhận các điều khoản của Nga - có khả năng nhượng lại một phần lãnh thổ ở phía đông đất nước. Họ lo ngại rằng cuộc gọi kéo dài hai giờ giữa Putin và Tổng thống Trump đã khiến tổng thống Mỹ ít sẵn lòng giúp Tổng thống Zelenskiy hơn khi họ gặp nhau tại Washington tuần trước.
Cũng có sự hoài nghi rộng rãi trong giới ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu rằng Putin thực sự nghiêm chỉnh về việc tham gia đàm phán hòa bình. Nhiều người coi lời đề nghị gặp lại Tổng thống Trump của ông là một chiến thuật câu giờ khác trong khi ông tiếp tục tấn công Ukraine bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa.
Sáng kiến quan trọng mà các nhà lãnh đạo sẽ thảo luận trong tuần này là kế hoạch khai thác 140 tỷ euro tài sản bị đóng băng của Nga tại Âu Châu, để cung cấp cái mà các quan chức gọi là “khoản vay bồi thường” cho Ukraine. Khoản tiền này sẽ chỉ được hoàn trả cho Mạc Tư Khoa trong trường hợp Nga bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Ukraine trong tương lai, theo các đề xuất phác thảo mà các quan chức Âu Châu đã chuẩn bị.
Bỉ, nơi nắm giữ phần lớn các tài sản này, đã lo ngại về thiệt hại tiềm tàng về danh tiếng mà đất nước có thể phải gánh chịu trong lĩnh vực tài chính nếu các khoản tiền gửi bằng tiền mặt bị cướp.
Các quốc gia khác đã lên tiếng bày tỏ lo ngại về rủi ro tiềm ẩn đối với uy tín quốc tế của đồng euro và muốn Hoa Kỳ và Nhật Bản, cùng các quốc gia khác, áp dụng các chính sách tương tự.
Vào thứ Năm, các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu dự kiến sẽ quyết định liệu họ có nên chính thức yêu cầu Ủy ban Âu Châu soạn thảo toàn bộ các đề xuất pháp lý chi tiết để tạo ra khoản vay bồi thường hay không. Các quan chức đang chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh tin rằng Thủ tướng Bỉ Bart De Wever sẽ đồng ý để Ủy ban, cơ quan hành pháp của Liên Hiệp Âu Châu, tiếp tục soạn thảo kế hoạch pháp lý. Ông vẫn có thể ngăn chặn kế hoạch này vào một thời điểm sau đó.
Một quan chức chính phủ Đức cho biết: “Chúng tôi hy vọng Hội đồng Âu Châu sẽ đưa ra quyết định chính trị để sử dụng các tài sản bị đóng băng của Nga và yêu cầu Ủy ban đệ trình các đề xuất lập pháp phù hợp”.
Tuy nhiên, việc kế hoạch này đang tiến triển sẽ một lần nữa gây áp lực lên Putin và mang lại cho Ukraine hy vọng rằng Liên Hiệp Âu Châu sẽ có thể đáp ứng nhu cầu tài chính của mình trong hai hoặc ba năm nữa, các nhà ngoại giao cho biết. “Nếu chúng ta gửi đi thông điệp rằng chúng ta sẵn sàng và có khả năng hỗ trợ Ukraine trong hai hoặc ba năm tới, điều đó sẽ được họ tính đến khi thảo luận về hòa bình”, một nhà ngoại giao nói thêm.
Trong khi đó, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên Hiệp Âu Châu, Kaja Kallas, đề xuất các nhà lãnh đạo sẽ ký vào gói trừng phạt thứ 19 của khối trong tuần này, được thiết kế để đánh vào các ngân hàng nước ngoài và tiền điện tử mà Nga sử dụng để trốn tránh lệnh trừng phạt.
Nhà lãnh đạo Slovakia Robert Fico đã trì hoãn các lệnh trừng phạt để phản đối những nỗ lực cắt đứt nguồn cung cấp khí đốt của Nga, nguồn năng lượng mà đất nước ông vẫn đang phụ thuộc. Các nhà ngoại giao tham gia đàm phán cho biết một thỏa thuận hiện đang gần đạt được để bảo đảm sự ủng hộ của ông Fico.
Nỗi lo lắng cơ bản hơn của các chính phủ Liên Hiệp Âu Châu là Tổng thống Trump có thể bị Putin thuyết phục gây áp lực buộc Kyiv phải từ bỏ đất đai ở miền Đông Ukraine. Tổng thống Trump đề xuất nên đóng băng chiến tranh trên các đường biên giới lãnh thổ hiện tại, với cái mà ông nói là “78%” vùng Donbass nằm trong tay Nga.
Tổng thống Trump nói: “Cứ để nguyên như hiện tại, họ có thể đàm phán lại sau”.
Tuy nhiên, nhà ngoại giao được trích dẫn trước đó đã cảnh báo rằng nếu Putin giành được đất đai, các quốc gia Baltic thuộc Liên Hiệp Âu Châu gồm Estonia, Latvia và Lithuania, cùng nhiều nước khác, sẽ “hoảng loạn” và lo ngại rằng Nga sẽ “giải quyết” họ tiếp theo. Hậu quả sẽ là “một cuộc tái vũ trang quy mô lớn” ở nhiều nước Âu Châu, làm đảo lộn chính trị nội bộ của họ, nhà ngoại giao này nói.
Kallas của Liên Hiệp Âu Châu đã bác bỏ ý tưởng về bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào buộc Ukraine phải từ bỏ vùng đất bị Nga tạm chiếm.
“Mọi người đều nói toàn vẹn lãnh thổ là một giá trị quan trọng mà chúng ta theo đuổi,” Kallas nói. “Chúng ta phải giữ vững điều đó, bởi vì nếu chúng ta cứ trao trả lãnh thổ, điều này sẽ gửi đi thông điệp đến tất cả mọi người rằng bạn có thể dùng vũ lực chống lại hàng xóm và đạt được điều mình muốn.”
[Politico: Ukraine’s allies rush to bolster Zelenskyy amid fears over Trump-Putin deal]
9. Ukraine và Âu Châu ủng hộ lời kêu gọi của Tổng thống Trump về việc chấm dứt thù địch dọc theo tiền tuyến hiện tại
Vào ngày 21 tháng 10, Kyiv và các đối tác Âu Châu đã ủng hộ đề xuất của Washington về việc chấm dứt các hoạt động thù địch dọc theo các tuyến đầu hiện tại ở Ukraine, một kế hoạch bị Nga phản đối.
“Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ lập trường của Tổng thống Trump rằng giao tranh phải chấm dứt ngay lập tức và chiến tuyến hiện tại phải là điểm khởi đầu của các cuộc đàm phán”, tuyên bố chung của Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Anh, Đức, Pháp, Ý, Ba Lan, Liên Hiệp Âu Châu, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha và Thụy Điển nêu rõ.
Sau chuyến thăm được tường trình căng thẳng của Tổng thống Zelenskiy tới Washington, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đề nghị lực lượng Nga và Ukraine nên ngừng các hành động thù địch dựa trên giới tuyến hiện tại của họ.
Tổng thống Trump gọi lãnh thổ Ukraine là “tài sản” mà Mạc Tư Khoa đã “giành được” trong cuộc chiến, nhưng phủ nhận thông tin trước đó rằng ông đã gây áp lực buộc Tổng thống Zelenskiy nhượng lại toàn bộ Tỉnh Donetsk của Ukraine cho Nga - bao gồm cả các khu vực do Ukraine kiểm soát.
Tổng thống Zelenskiy xác nhận vào ngày 19 tháng 10 rằng đặc phái viên của Tổng thống Trump về Nga, Steve Witkoff, đã “chuyển tải” yêu cầu của Mạc Tư Khoa về việc Ukraine rút toàn bộ quân khỏi các tỉnh Donetsk và Luhansk.
Kyiv đã nhiều lần loại trừ khả năng nhượng lại bất kỳ vùng lãnh thổ chưa bị tạm chiếm nào, thay vào đó kêu gọi ngừng bắn hoàn toàn như điều kiện đầu tiên cho bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào tiếp theo.
Ngược lại, Mạc Tư Khoa đã nhiều lần bác bỏ việc ngừng giao tranh dọc theo tuyến đầu hiện tại. Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov phát biểu vào ngày 20 tháng 10 rằng lập trường này không thay đổi.
Tuyên bố ngày 21 tháng 10 của các nhà lãnh đạo Âu Châu có đoạn: “Chiến thuật trì hoãn của Nga đã nhiều lần chứng minh rằng Ukraine là bên duy nhất nghiêm chỉnh về hòa bình”.
“Chúng ta đều có thể thấy rằng Putin vẫn tiếp tục lựa chọn bạo lực và hủy diệt.”
Các nhà lãnh đạo Âu Châu cũng kêu gọi tăng cường áp lực lên Mạc Tư Khoa, ngay cả khi chính quyền Tổng thống Trump vẫn còn ngần ngại trang bị hỏa tiễn Tomahawk tầm xa cho Ukraine hoặc ủng hộ các kế hoạch của Âu Châu nhằm mở rộng việc sử dụng tài sản của Nga để tài trợ cho Kyiv.
Trong khi lập trường của Tổng thống Trump dường như đã thay đổi theo hướng có lợi cho Ukraine trong những tháng gần đây, cuộc điện đàm giữa Putin với tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 10 lại dẫn đến một sự thay đổi bất ngờ khác.
Hai nhà lãnh đạo tuyên bố sẽ gặp nhau tại Budapest trong những tuần tới để thảo luận về các nỗ lực hòa bình ở Ukraine, mặc dù chưa có ngày cụ thể nào được ấn định. Tổng thống Trump cũng rút lại tuyên bố hồi tháng 9 rằng Ukraine có khả năng giành lại toàn bộ lãnh thổ bị tạm chiếm.
Hiện vẫn chưa rõ liệu Ukraine hay các đối tác Âu Châu có được mời đến Budapest hay không, mặc dù Tổng thống Zelenskiy đã bày tỏ sự sẵn sàng nếu được mời. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cảnh báo rằng bất kỳ cuộc thảo luận nào về an ninh Ukraine và Âu Châu đều không thể diễn ra nếu không có sự hiện diện của tất cả các bên liên quan.
Âu Châu đã nhanh chóng công khai ủng hộ Ukraine trước hội nghị thượng đỉnh, với việc Tổng thống Zelenskiy dự kiến gặp các nhà lãnh đạo của “Liên minh những người tự nguyện” tại Luân Đôn vào ngày 24 tháng 10.
[Politico: Ukraine, Europe back Trump's call to cease hostilities along current front line]
10. Ba Lan hy vọng Ukraine phá hủy đường ống Druzhba — Sikorski chế giễu Hung Gia Lợi
Ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski ngày 22 tháng 10 bày tỏ hy vọng lực lượng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine sẽ thành công trong việc vô hiệu hóa đường ống dẫn dầu của Nga tới Hung Gia Lợi, trong bối cảnh căng thẳng giữa Warsaw và Budapest đang gia tăng.
Ngoại trưởng Sikorski nói với Ngoại trưởng Hung Gia Lợi Peter Szijjarto rằng: “Tôi hy vọng người đồng hương dũng cảm của ngài, Thiếu tá Magyar, cuối cùng sẽ thành công trong việc phá hủy đường ống dẫn dầu cung cấp cho cỗ máy chiến tranh của Putin và ngài sẽ nhận được dầu qua Croatia”.
Bộ trưởng Ba Lan đang nhắc đến Robert Brovdi, một sĩ quan quân đội Ukraine gốc Hung Gia Lợi và là chỉ huy Lực lượng Hệ thống Điều khiển từ xa của Ukraine được gọi bằng mật danh “Magyar”.
Hung Gia Lợi đã cấm Brovdi nhập cảnh vào nước này vì các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine vào các cơ sở của Nga có liên quan đến Druzhba, một hệ thống đường ống khổng lồ vận chuyển dầu của Nga đến quốc gia Trung Âu này.
Hầu hết các nước Liên Hiệp Âu Châu đã ngừng mua dầu của Nga sau khi cuộc chiến toàn diện nổ ra vào năm 2022. Tính đến năm 2025, chỉ có Slovakia và Hung Gia Lợi - những nước có lãnh đạo được biết đến với sự đồng cảm với Mạc Tư Khoa - vẫn tiếp tục sử dụng đường ống Druzhba.
Lời chỉ trích của Sikorski được đưa ra trong bối cảnh có tranh cãi công khai với Szijjarto về quyết định của tòa án Ba Lan không dẫn độ một công dân Ukraine bị tình nghi phá hoại đường ống Nord Stream vào năm 2022.
Hai nhà ngoại giao hàng đầu thường xuyên chỉ trích nhau trên mạng xã hội, làm nổi bật mối quan hệ căng thẳng giữa hai quốc gia.
Tòa án Ba Lan ngày 16 tháng 10 đã từ chối dẫn độ công dân Ukraine Volodymyr Z. sang Đức, nơi ông bị truy nã theo lệnh truy nã quốc tế. Sau đó, ông đã được trả tự do.
Sau khi Szijjarto gọi nghi phạm người Ukraine là “kẻ khủng bố”, Sikorski trả lời rằng ông “tự hào về tòa án Ba Lan, nơi đã phán quyết rằng việc phá hoại kẻ xâm lược không phải là tội ác”.
Ba Lan từ lâu đã chỉ trích đường ống dẫn khí đốt tự nhiên Nord Stream 1 và 2, được xây dựng để vận chuyển khí đốt từ Nga đến Đức qua Biển Baltic.
Đường ống Nord Stream 2 chỉ được hoàn thành vài tháng trước khi cuộc xâm lược toàn diện nổ ra và chưa bao giờ đi vào hoạt động.
Chính quyền Đức cáo buộc Volodymyr Z. đã giúp đặt chất nổ lên đường ống như một phần của hoạt động bí mật được thực hiện từ một du thuyền buồm thuê khởi hành từ cảng Rostock.
Việc Ba Lan từ chối diễn ra sau động thái tương tự của Tòa án Tối cao Ý, khi vào ngày 15 tháng 10, Tòa án này đã hủy bỏ lệnh dẫn độ một công dân Ukraine khác là Serhii Kuznetsov, người bị Đức truy nã vì những cáo buộc liên quan.
Kyiv, nơi cũng chỉ trích gay gắt đường ống Nord Stream, đã phủ nhận mọi sự liên quan đến vụ nổ.
[Kyiv Independent: Poland hopes Ukraine knocks out Druzhba pipeline — Sikorski taunts Hungary]
Lính Dù giải phóng Kucheriv Yar, bắt sống 50 lính Nga. Ukraine sẽ nhận 150 chiến đấu cơ Gripen
VietCatholic Media
16:20 23/10/2025
1. ‘Lệnh trừng phạt của Budanov’ — HUR xác nhận cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine vào nhà máy lọc dầu Dagestan
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Năm, 23 Tháng Mười, phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công một nhà máy lọc dầu ở Makhachkala, Dagestan vào đêm 22 tháng 10.
Nguồn tin cho biết: “Vào ngày 22 tháng 10, đơn vị Sargas... đã gây náo loạn tại một nhà máy lọc dầu ở Makhachkala, Cộng hòa Dagestan, Nga”.
“Ít nhất một máy bay điều khiển từ xa đã tấn công thành công và vô hiệu hóa đơn vị giải quyết dầu thô AVT. Sau vụ nổ, một đám cháy lớn đã bùng phát tại nhà máy.”
Ở một nơi khác, một nhà máy cơ khí ở Saransk, Mordovia, cũng đã bị tấn công vào ngày 22 tháng 10, kênh Astra Telegram đưa tin, trích dẫn lời người dân địa phương.
Theo Bộ Quốc phòng Nga, lực lượng phòng không Nga đã đánh chặn 44 máy bay điều khiển từ xa của Ukraine trong đêm và sáng ngày 22 tháng 10, bao gồm tám máy bay trên bầu trời Dagestan. Không có máy bay điều khiển từ xa nào bị bắn hạ trên bầu trời Mordovia.
Trong khi đó, máy bay điều khiển từ xa đã được phát hiện trên bầu trời Saransk, thành phố lớn nhất Mordovia. Artyom Zdunov, nhà lãnh đạo nước cộng hòa, xác nhận khu vực này đã bị tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn, gây thiệt hại cho một doanh nghiệp địa phương.
Theo thông tin tình báo nguồn mở do Astra phân tích, ít nhất một máy bay điều khiển từ xa đã tấn công Nhà máy cơ khí Saransk, một cơ sở được biết đến là nơi sản xuất thuốc nổ.
Nhà máy cơ khí Saransk là một phần của Tập đoàn Rostec do nhà nước sở hữu và sản xuất thiết bị và phụ tùng cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau, tập trung chủ yếu vào kỹ thuật cơ khí và lĩnh vực quốc phòng.
Theo tờ báo kinh doanh Kommersant của Nga, năm 2020, nhà máy đã tạm thời đóng cửa trong 90 ngày do vi phạm an toàn liên quan đến sản xuất thuốc nổ.
Theo Astra, tại Makhachkala, máy bay điều khiển từ xa đã tấn công vào nhà máy lọc dầu Dagnotech. Sergey Melikov, nhà lãnh đạo Cộng hòa Dagestan, xác nhận khu vực này đã bị máy bay điều khiển từ xa tấn công vào đêm qua, trong đó một doanh nghiệp địa phương đã bị tấn công.
Thị trưởng Makhachkala Dzhambulat Salavov ban đầu đăng trên kênh Telegram của mình rằng cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa đã gây thiệt hại cho một số cơ sở thương mại và hai phương tiện trong thành phố. Tuy nhiên, ông đã xóa bài đăng sau 12 phút. Một bức ảnh kèm theo bài đăng cho thấy không chỉ các tòa nhà bị hư hại mà cả xe quân sự cũng bị hư hại.
Lực lượng Ukraine đã tấn công Nhà máy Hóa chất Bryansk bằng hỏa tiễn Storm Shadow do Anh cung cấp một ngày trước đó. Chiến dịch này được Không quân Ukraine phối hợp với Hải quân, Lục quân và các đơn vị quân sự khác thực hiện.
Trước đây, Ukraine đã sử dụng Storm Shadows để tấn công các mục tiêu ở tỉnh Bryansk và Kursk của Nga, cũng như ở Crimea bị Nga tạm chiếm.
Các cuộc tấn công vào các cơ sở của Nga hỗ trợ nỗ lực chiến tranh ở Ukraine diễn ra trong bối cảnh các cuộc đàm phán đang diễn ra giữa Kyiv và Washington về khả năng cung cấp hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy bày tỏ hy vọng rằng việc tăng cường năng lực tấn công tầm xa của Ukraine có thể tăng áp lực buộc Nga phải tìm kiếm giải pháp ngoại giao cho cuộc chiến toàn diện.
[Kyiv Independent: 'Budanov's sanctions' — HUR confirms Ukrainian drone strike on Dagestan oil refinery]
2. Lực lượng Ukraine giải phóng Kucheriv Yar ở tỉnh Donetsk khi công cuộc dọn dẹp đột phá Dobropillia vẫn tiếp tục
Quân đội Ukraine thông báo vào ngày 22 tháng 10 rằng thị trấn nhỏ Kucheriv Yar ở tỉnh Donetsk đã không còn quân đội Nga.
Một đoạn video do Lực lượng Dù của Ukraine đăng tải được tường trình cho thấy cảnh những người lính của Tiểu đoàn trinh sát độc lập số 132 đang kéo cờ Ukraine tại thị trấn bị tàn phá nặng nề.
Kucheriv Yar là một trong số nhiều thị trấn bị lực lượng Nga tràn vào trong cuộc xâm nhập mạnh mẽ vào phòng tuyến của Ukraine vào tháng 8 gần thành phố khai thác mỏ Dobropillia.
Với nguy cơ vi phạm sẽ gây tổn hại đến khả năng phòng thủ của toàn bộ khu vực nếu để tình hình phát triển, Ukraine đã điều động lại lực lượng tinh nhuệ để ứng phó, bao gồm Bộ tư lệnh Quân đoàn Azov số 1, Lữ đoàn cơ giới số 93, cũng như một số đơn vị tấn công và lính dù.
Trong những tháng tiếp theo, phần lớn lãnh thổ bị tạm chiếm trong cuộc tấn công đã được giải phóng, theo các dự án lập bản đồ nguồn mở, với Kucheriv Yar — về cơ bản đã bị bao vây — là một trong số ít nơi còn sót lại của Nga.
Theo Lực lượng Dù, 50 binh sĩ Nga đã bị bắt làm tù binh trong chiến dịch này.
[Kyiv Independent: Ukrainian forces liberate Kucheriv Yar in Donetsk Oblast as clean-up of Dobropillia breakthrough continues]
3. Tướng hàng đầu của Pháp dự đoán sẽ có ‘cú sốc’ với Nga trong 3-4 năm tới
Tổng tham mưu trưởng quốc phòng mới được bổ nhiệm của Pháp đang chuẩn bị cho quân đội của nước này sẵn sàng cho một “cú sốc, một dạng thử thách” từ Nga.
Tướng Fabien Mandon phát biểu với các nhà lập pháp trong ủy ban quốc phòng của Quốc hội vào thứ Tư rằng: “Nga là quốc gia có thể bị cám dỗ tiếp tục chiến tranh trên lục địa của chúng ta”.
“ Mục tiêu đầu tiên tôi giao cho quân đội là chuẩn bị sẵn sàng trong ba hoặc bốn năm tới cho một cú sốc, một dạng thử nghiệm”, ông nói thêm. “Thử nghiệm này đã tồn tại dưới nhiều hình thức, nhưng nó có thể trở nên dữ dội hơn.”
Các tướng lĩnh và chính trị gia hàng đầu từ các nước Liên Hiệp Âu Châu và NATO đã cảnh báo rằng Mạc Tư Khoa có thể tấn công liên minh này trong những năm tới, với mốc thời gian khác nhau từ năm 2027 đến năm 2030. Tuần trước, Ủy ban Âu Châu đã trình bày lộ trình giúp các thủ đô chuẩn bị cho chiến tranh vào năm 2030.
Theo truyền thống, các sĩ quan quân đội Pháp thường ngần ngại hơn một số đồng nghiệp Âu Châu trong việc cung cấp mốc thời gian và công khai nói về một cuộc tấn công của Nga vào NATO. Tuy nhiên, trong những tháng gần đây, những lời lẽ của Pháp về Mạc Tư Khoa đã trở nên gay gắt hơn, khi Tổng thống Emmanuel Macron tuyên bố rằng Âu Châu đang “đối đầu với Nga”.
“Việc cho rằng cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 là cuộc tấn công cuối cùng và nó sẽ không xảy ra nữa trên lục địa của chúng ta là phớt lờ rủi ro mà xã hội ta đang phải đối mặt”, Mandon nói với các nhà lập pháp. “Người Nga đang tái tổ chức với một mục tiêu duy nhất: đối đầu với NATO.”
Tuy nhiên, vị tướng Pháp nói thêm: “Âu Châu là nơi phù hợp để giải quyết những thách thức của chúng ta”.
Ông giải thích, việc Pháp đẩy mạnh tái vũ trang đã là một tín hiệu răn đe Nga: “Nếu các đối thủ của chúng tôi nhận thấy chúng tôi đang nỗ lực, họ có thể sẽ từ bỏ. Nếu họ cảm thấy chúng tôi không sẵn sàng tự vệ, tôi không thấy điều gì có thể ngăn cản họ.”
[Politico: France’s top general expects ‘shock’ with Russia in 3-4 years]
4. Nga cập nhật thông tin về Hội nghị thượng đỉnh Tổng thống Trump-Putin tại Budapest
Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ryabkov cho biết ông không thấy có trở ngại nào đối với cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Putin và các công tác chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh dự kiến tại Budapest vẫn đang được tiếp tục bất chấp các thông tin ngược lại từ Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov.
Hãng thông tấn nhà nước Nga RIA Novosti đưa tin về bình luận của Ryabkov, được đưa ra sau khi Tòa Bạch Ốc hoãn hội nghị thượng đỉnh với Putin mà ban đầu Tổng thống Trump nói sẽ diễn ra trong vòng vài tuần.
Việc hoãn lại diễn ra sau cuộc điện đàm giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio và Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov.
“Chúng tôi khẳng định rằng công tác chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh đang được tiến hành. Chúng có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau”, ông Ryabkov cho biết như trên theo RIA.
Ông nói tiếp: “Chúng tôi tin rằng cần phải tập trung vào khía cạnh thực chất và tập trung nỗ lực vào đó—đó là những gì chúng tôi đang làm theo đúng hướng dẫn đã nhận được.
“Những vấn đề về lịch trình, định dạng và trình tự các bước nhìn chung chỉ là thứ yếu so với nội dung chính. Do đó, chúng tôi vẫn đang tiếp tục công tác chuẩn bị.”
Tổng thống Trump đang cố gắng làm trung gian chấm dứt cuộc xâm lược Ukraine của Nga, nhưng những nỗ lực ngoại giao của ông cho đến nay vẫn chưa đạt được nhiều tiến triển.
Sau cuộc gọi với Putin tuần trước, Tổng thống Trump đã kêu gọi chấm dứt giao tranh ngay lập tức dọc theo tuyến đầu hiện tại.
Nhưng Điện Cẩm Linh đã bác bỏ lời kêu gọi ngừng bắn và không rút lại những yêu cầu tối đa của mình.
Ukraine và các đồng minh Âu Châu cho rằng điều này cho thấy Tổng thống Trump phải gây áp lực lớn hơn lên Putin để buộc ông phải ký kết hòa bình vì nếu không, Putin sẽ không làm như vậy.
Đặc biệt, họ muốn Nga và các đối tác chiến lược như Trung Quốc phải đối mặt với các lệnh trừng phạt cứng rắn hơn và các mức thuế quan thứ cấp mang tính trừng phạt, đồng thời họ cũng muốn Hoa Kỳ cung cấp cho Ukraine hỏa lực mạnh hơn trong chiến tranh, chẳng hạn như hỏa tiễn hành trình Tomahawk.
Tổng thống Trump đã tuyên bố ông sẽ noi gương Âu Châu về các biện pháp trừng phạt và thuế quan, thúc giục họ hành động trước. Tổng thống Mỹ cho biết ông phản đối việc bán hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine vì không muốn leo thang cuộc chiến mà ông đang cố gắng chấm dứt.
Nga đang tìm kiếm sự công nhận chủ quyền của mình đối với lãnh thổ Ukraine mà nước này đã chiếm giữ kể từ khi sáp nhập Crimea vào năm 2014, trước khi tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022.
Mạc Tư Khoa cũng yêu cầu Ukraine bàn giao lãnh thổ hiện không có lực lượng Nga xâm lược.
Điện Cẩm Linh đã vạch ra ranh giới đỏ cho cấu trúc an ninh tương lai của Ukraine, bác bỏ kế hoạch của các đồng minh của Kyiv về việc điều động quân gìn giữ hòa bình từ các quốc gia NATO khi chiến tranh kết thúc.
Ryabkov cho biết về hội nghị thượng đỉnh Tổng thống Trump-Putin tiếp theo sau cuộc họp vào tháng 8 tại Anchorage, Alaska: “Tôi không thấy có trở ngại đáng kể nào”.
“Vấn đề là phải bảo đảm rằng các thông số do các tổng thống ở Anchorage đặt ra—những khuôn khổ đó—đầy đủ nội dung cụ thể. Phải thừa nhận rằng đây là một quá trình khó khăn. Nhưng đó chính xác là lý do các nhà ngoại giao tồn tại—để giải quyết những vấn đề như vậy,” ông nói tiếp.
Vào thứ Ba, Tổng thống Trump xác nhận rằng cuộc gặp với Putin hiện đã bị hủy bỏ.
“Tôi không muốn có một cuộc họp lãng phí”, Tổng thống Trump nói. “Tôi không muốn lãng phí thời gian, vậy nên chúng ta hãy chờ xem điều gì sẽ xảy ra”.
[Newsweek: Russia Gives Update on Trump-Putin Budapest Summit]
5. Ukraine, Thụy Điển ký biên bản ghi nhớ về thỏa thuận dài hạn mua máy bay phản lực của Thụy Điển lên đến 150 máy bay chiến đấu Gripen
Thụy Điển và Ukraine đã ký một lá thư bày tỏ ý định về một thỏa thuận tiềm năng mua tới 150 máy bay chiến đấu Gripen trong những năm tới.
Saab JAS 39 Gripen là máy bay chiến đấu hạng nhẹ thế hệ 4.5, có thể được sử dụng cho cả nhiệm vụ phòng thủ và tấn công. Kyiv và Stockholm đã nhiều lần thảo luận về khả năng cung cấp máy bay này cho Không quân Ukraine, vốn đang vận hành các máy bay phương Tây như Mirage 2000 và F-16.
Sau đó trong ngày, Tổng thống Zelenskiy và Thủ tướng Thụy Điển Ulf Kristersson đã ký một bức thư bày tỏ ý định về hợp tác quốc phòng lâu dài giữa hai nước.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã đến thăm Na Uy và Thụy Điển vào ngày 22 tháng 10 để thảo luận về việc hỗ trợ Ukraine với các nhà lãnh đạo của các nước này.
Tổng thống Ukraine và Đệ nhất phu nhân Olena Zelenska trước tiên đã đến Oslo để gặp Thủ tướng Na Uy Jonas Gahr Stoere, phát ngôn nhân của tổng thống Serhii Nykyforov xác nhận với đài truyền hình Suspilne.
Tổng thống Zelenskiy cho biết Na Uy cam kết cung cấp cho Ukraine khoảng 150 triệu đô la để mua khí đốt cho mùa đông, trong bối cảnh Nga gia tăng các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine.
[Kyiv Independent: Up to 150 Gripens — Ukraine, Sweden sign memorandum on long-term deal for Swedish jets]
6. BÂY GIỜ THÌ SAO, VLADIMIR? Putin kiêu ngạo và lãng phí thời gian đã phá hỏng hội nghị thượng đỉnh Tổng thống Trump lần thứ hai như thế nào - và tại sao nó có thể là động lực lớn cho Ukraine
Việc VLADIMIR Putin liên tục từ chối chấp nhận một thỏa thuận hòa bình công bằng về cuộc chiến với Ukraine giờ đây có thể chứng tỏ là sự sụp đổ của tên bạo chúa này.
Ukraine có thể trở thành người hưởng lợi cuối cùng từ chiêu trò ngạo mạn mới nhất của Điện Cẩm Linh khi Putin và các quan chức cao cấp của ông phá hỏng hội nghị thượng đỉnh hòa bình lần thứ hai với Ông Donald Trump.
Tổng thống Hoa Kỳ đã chỉ trích Putin vào hôm Thứ Tư, 22 Tháng Mười, khi ông nói rằng cuộc gặp với nhà độc tài này sẽ là một “sự lãng phí thời gian” hoàn toàn vì Putin không nghiêm chỉnh trong việc mong muốn hòa bình.
Tuần trước, Tổng thống Trump và Putin đã có cuộc điện đàm “rất hiệu quả” khi cả hai dường như cùng chung quan điểm về việc chấm dứt chiến tranh.
Cả hai người đàn ông thậm chí còn cho biết họ đã đồng ý gặp nhau ở Hung Gia Lợi ngay sau cuộc trò chuyện.
Ngoại trưởng Sergey Lavrov phát biểu: “Một lệnh ngừng bắn ngay lập tức ở Ukraine chỉ có nghĩa là một điều: phần lớn đất nước này sẽ vẫn nằm dưới sự cai trị của Đức Quốc xã.”
Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết thêm rằng Mạc Tư Khoa sẽ chỉ ngừng chiến đấu theo điều kiện của riêng họ.
Ông cho biết: “Chủ đề này đã được nêu ra nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau trong các cuộc tiếp xúc giữa Nga và Hoa Kỳ.
“Phía Nga đã trả lời mọi lần, câu trả lời này ai cũng biết: lập trường nhất quán của Nga không thay đổi.”
Lời lẽ hùng biện này nhanh chóng thu hút sự chú ý của Tổng thống Trump và các quan chức cao cấp khác.
Trong vòng 24 giờ đầy biến động, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio đã hủy cuộc gặp với Lavrov.
Lời giải thích chính thức về lý do tại sao Lavrov và Rubio không tổ chức cuộc họp quan trọng đầu tiên trong số nhiều cuộc họp quan trọng giữa Mỹ và Nga vẫn chưa được tiết lộ.
Nhưng họ đã gọi điện thoại cho nhau vào đầu ngày.
Do sự tương tác này, nhiều người cho rằng nó có thể gây ra sự đổ vỡ nghiêm trọng trong giao tiếp giữa hai quốc gia.
Một nguồn tin thân cận với vấn đề này cho rằng Rubio và Lavrov có kỳ vọng rất khác nhau về cách chấm dứt cuộc xâm lược của Nga trong cuộc trò chuyện này.
Thậm chí Rubio còn được tường trình đã khuyên Tổng thống Trump tránh đồng ý gặp Putin cho đến khi những bất đồng được giải quyết.
Sau đó trong ngày, một quan chức Tòa Bạch Ốc đã xác nhận hội nghị thượng đỉnh Budapest đã được lên kế hoạch sẽ không còn diễn ra nữa.
Họ nói thêm rằng không có kế hoạch nào cho cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và Putin trong tương lai gần.
Hiện tại, khi các cuộc đàm phán hòa bình dường như đã không còn hiệu lực, Tổng thống Trump phải đối mặt với quyết định quan trọng về việc có nên tham gia vào cuộc chiến hay không.
Trong nhiều tuần qua, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã cầu xin Tổng thống Trump cung cấp cho Kyiv hỏa tiễn tầm xa Tomahawk có thể được sử dụng để chống lại Nga.
Tổng thống Trump vẫn chưa đồng ý với bất kỳ thỏa thuận nào như vậy vì nhiều người cho rằng ông muốn nói chuyện với Putin.
Khi Tổng thống Zelenskiy đến Tòa Bạch Ốc vào tuần trước, Tổng thống Trump đã nói với ông rằng ông hy vọng cuộc chiến có thể được giải quyết “mà không cần nghĩ đến Tomahawk”.
Nhưng với mối quan hệ liên lạc giữa Mạc Tư Khoa và Washington hiện đang bên bờ vực thẳm, điều này có thể cho phép Kyiv tiếp tục sử dụng hỏa tiễn Tomahawk – đặc biệt là nếu giao tranh vẫn tiếp diễn.
Việc thiếu trao đổi thư từ giữa Mạc Tư Khoa và Washington cũng có thể giúp thúc đẩy các cuộc đối thoại giữa các đồng minh của Hoa Kỳ.
Các quốc gia Âu Châu hiện được tường trình đang hợp tác với Ukraine về một đề xuất mới cho lệnh ngừng bắn với các điều khoản tương tự như trong kế hoạch ban đầu của Tổng thống Trump.
Kế hoạch này cũng bám sát kế hoạch 20 điểm do Tổng thống Trump đưa ra và được Israel cùng Hamas chấp nhận ở Trung Đông.
Lệnh ngừng bắn sẽ được thực hiện trước khi các tiền tuyến hiện tại trên khắp Ukraine bị đóng băng để giúp định hình lại biên giới, nghĩa là cả hai bên đều có thể giữ được vùng đất mà họ đang kiểm soát.
Theo bốn nhà ngoại giao Âu Châu, ý tưởng đằng sau đề xuất hòa bình mới này là giữ Hoa Kỳ ở vai trò trung tâm.
Một nhà ngoại giao cao cấp thậm chí còn cho rằng một nhiệm kỳ Tổng thống Trump có thể lãnh đạo một “ủy ban hòa bình” để giải quyết mọi tranh chấp trong những tháng sau lệnh ngừng bắn.
Khoảng 35 đồng minh của Ukraine hiện đang chuẩn bị họp vào thứ sáu tại Luân Đôn để tham dự hội nghị thượng đỉnh hòa bình.
Tất cả những người tham dự đều cho biết họ sẵn sàng hỗ trợ lâu dài cho Kyiv.
Thủ tướng Anh Keir Starmer sẽ chủ trì cuộc họp cùng với Tổng thống Zelenskiy.
Cặp đôi này đã chỉ trích Nga trong những ngày gần đây vì nước này liên tục “trì hoãn” các cuộc đàm phán hòa bình.
Một tuyên bố từ Phố Downing hôm thứ Ba có đoạn: “Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ lập trường của Tổng thống Trump rằng giao tranh phải chấm dứt ngay lập tức và chiến tuyến hiện tại phải là điểm khởi đầu của các cuộc đàm phán.
“Chúng tôi vẫn cam kết với nguyên tắc rằng biên giới quốc tế không được thay đổi bằng vũ lực.
“Chiến thuật trì hoãn của Nga đã nhiều lần chứng minh rằng Ukraine là bên duy nhất nghiêm chỉnh về hòa bình.
“Chúng ta đều có thể thấy Putin vẫn tiếp tục lựa chọn bạo lực và hủy diệt.”
[The Sun: WHAT NOW, VLAD? How arrogant & timewasting Putin torpedoed second Trump summit – and why it could be major boost for Ukraine]
7. Cuộc gọi bị chặn cho thấy chỉ huy Nga đã ra lệnh cho quân đội bắn dân thường gần Pokrovsk, HUR cho biết
Một thông tin liên lạc vô tuyến bị chặn do cơ quan tình báo quân sự Ukraine, gọi tắt là HUR công bố cho thấy một chỉ huy người Nga đã ra lệnh cho binh lính của mình bắn vào dân thường gần thành phố Pokrovsk đang xảy ra xung đột.
Một chỉ huy người Nga đã nói trong đoạn ghi âm được HUR công bố vào ngày 22 tháng 10 rằng: “Đừng để bất kỳ ai đi qua trên đường, bất kỳ ai mang theo túi lớn của dân thường, hãy đập tan chúng”.
Theo HUR, lệnh giết hại dân thường được đưa ra bởi chỉ huy chiến trường của Lữ đoàn Bộ binh Cơ giới Độc lập số 30 của Nga, một phần của Tập đoàn quân Vũ trang Hợp nhất số 2 thuộc Quân khu Trung tâm. Tờ Kyiv Independent không thể tự mình xác minh nội dung của cuộc truyền tin vô tuyến bị chặn.
Cuộc trò chuyện trên radio được tường trình có liên quan đến một video do Quân đoàn 7 thuộc Lực lượng Dù Ukraine công bố vào ngày 20 tháng 10. Theo quân đội Ukraine, video này cho thấy hậu quả của một vụ việc mà trong đó một nhóm tấn công của Nga, sau khi xâm nhập vào phía sau phòng tuyến của Ukraine, đã bắn và giết chết một số thường dân không vũ trang ở Pokrovsk.
Ngoài việc là một trường hợp nữa về việc binh lính Nga bắn chết thường dân Ukraine ngay trước mắt, vụ việc còn mang đến tin tức đáng ngại cho nỗ lực phòng thủ của Ukraine tại thành phố quan trọng Donetsk, khi binh lính Nga liên quan đã thành công trong việc tiến xa hơn vài km qua phòng tuyến của Ukraine trước khi bị phát hiện và tấn công.
[Kyiv Independent: Intercepted radio suggests Russian commander ordered troops to shoot civilians near Pokrovsk, HUR says]
8. Khi Tổng thống Zelenskiy chuẩn bị hạ cánh xuống Brussels, Liên Hiệp Âu Châu vội vã ngăn chặn áp lực của Tổng thống Trump lên Ukraine
Trong thời gian ngắn, cuộc họp sắp tới của Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu sẽ trở thành cuộc tranh luận để kiềm chế và chống lại áp lực mới của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đối với Ukraine.
Kể từ đầu tuần, các nhà ngoại giao Âu Châu đã tìm kiếm một phản ứng phối hợp trước thông điệp mới của Tổng thống Trump, trong đó lặp lại yêu cầu của Vladimir Putin về việc Ukraine phải đầu hàng và bàn giao lãnh thổ ở Donbas, miền đông Ukraine.
Các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu, họp tại Brussels vào ngày 23 tháng 10, dự kiến sẽ cân nhắc một loạt các biện pháp hỗ trợ Ukraine — bao gồm cả việc có nên mở khóa tài sản bị đóng băng của Ngân hàng Trung ương Nga cho Kyiv hay không.
Tại hội nghị thượng đỉnh trực tiếp vào thứ năm với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy, các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu hy vọng cuối cùng sẽ đạt được một đường lối thống nhất.
Hội nghị thượng đỉnh Tổng thống Trump-Putin khó có thể xảy ra tại Budapest - hiện tại dường như đã bị hoãn lại - đã khiến các thủ đô Âu Châu vô cùng lo ngại: không chỉ Putin, người đang bị truy nã theo lệnh bắt giữ quốc tế, sẽ họp trên lãnh thổ Liên Hiệp Âu Châu, mà các cuộc đàm phán sẽ không có sự tham gia của cả Tổng thống Zelenskiy và Liên Hiệp Âu Châu.
Các quan chức Âu Châu đã phẫn nộ trước sự đón tiếp nồng hậu của Tổng thống Trump dành cho Putin tại Alaska vào giữa tháng 8. Mối lo ngại phần nào được xoa dịu bởi cuộc gặp sau đó giữa Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy cùng một số nhà lãnh đạo Âu Châu tại Washington, sau đó ông dường như đã giữ khoảng cách với Putin. Cho đến khi hai nhà lãnh đạo - Tổng thống Trump và Putin - lại điện đàm vào tuần trước và lại xích lại gần nhau. Và một lần nữa Tổng thống Trump lại hô hào các khẩu hiệu của tên độc tài Nga.
Khi được hỏi về những tín hiệu liên tục thay đổi, một nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu cho biết cảm giác giống như “bắt đầu lại từ con số 0”.
Marta Prochwicz, thành viên chính sách tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Âu Châu, gọi tắt là ECFR cho biết: “Việc không ngăn chặn được cuộc gặp Tổng thống Trump-Putin diễn ra trên lãnh thổ Liên Hiệp Âu Châu sẽ cho thấy cả sự không sẵn lòng đối đầu với Tổng thống Trump của Liên Hiệp Âu Châu và sự thất bại kéo dài nhiều năm trong việc trừng phạt Hung Gia Lợi của Orban vì liên kết với Điện Cẩm Linh”.
Bà nói thêm rằng cần phải có nhận thức rộng rãi hơn rằng ngay cả khi tiền tuyến bị đóng băng cũng có nghĩa là Putin “sẽ tập hợp lại và tấn công lại”, đòi hỏi sự ủng hộ lâu dài và có cấu trúc của Liên Hiệp Âu Châu: hỗ trợ an ninh, hội nhập chặt chẽ hơn vào Liên Hiệp Âu Châu và tăng cường khả năng phục hồi nội bộ của Ukraine.
Để củng cố các cam kết hiện có và ngăn chặn áp lực nhượng bộ, các quan chức Âu Châu đang làm việc với Kyiv về một kế hoạch “điểm mấu chốt” gồm 12 điểm - được Bloomberg đưa tin đầu tiên - nhằm chốt các điều khoản dựa trên chiến tuyến hiện tại thay vì đầu hàng lãnh thổ.
Đề xuất này, hiện vẫn đang trong giai đoạn đầu, phần lớn sẽ kết hợp các hỗ trợ hiện có dành cho Ukraine. Điều này sẽ bao gồm lệnh ngừng bắn, bảo đảm an ninh, trả lại trẻ em Ukraine bị bắt cóc, nới lỏng các biện pháp trừng phạt theo từng giai đoạn gắn với việc tuân thủ trên thực địa, và giữ tài sản của Nga bị đóng băng cho đến khi Mạc Tư Khoa trả tiền bồi thường.
Theo một số nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu, mục đích chính là phản đối những yêu cầu mới của Putin đối với Washington về việc Kyiv phải giao lại lãnh thổ chưa bị tạm chiếm để đổi lấy một thỏa thuận hòa bình, và thay vào đó là khóa chặt chiến tuyến hiện tại làm điểm khởi đầu cho các cuộc đàm phán.
Tuyên bố này được đưa ra sau tuyên bố của Washington+ do Kyiv và các đối tác Âu Châu đưa ra hồi đầu tuần, nhằm mục đích nêu rõ quan điểm mà Tổng thống Trump đã nêu rõ.
Theo những người hiểu biết về các cuộc đàm phán, chiến lược này phản ánh khuôn khổ nhiều bước gần đây về Gaza, với ý tưởng trao cho Tổng thống Trump vai trò là chủ tịch của một hội đồng hòa bình quốc tế để bảo đảm sự đồng thuận của ông.
Những người hiểu rõ các cuộc đàm phán cho biết, suy nghĩ sâu hơn từ phía Âu Châu là một đề xuất như vậy sẽ bao gồm một kế hoạch nhiều bước tương tự, giống như thỏa thuận hòa bình gần đây ở Gaza, để trình bày với Tổng thống Trump và bảo đảm ông đồng ý với các lập trường của Âu Châu, đồng thời đưa ông lên làm chủ tịch của một hội đồng hòa bình có chức năng giám sát việc thực hiện.
Tổng thống Zelenskiy sẽ thông báo tóm tắt cho các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu về cuộc hội đàm của ông với Tổng thống Trump vào ngày 24 tháng 10 trước khi bay tới Luân Đôn để tham dự cuộc họp “Liên minh những người sẵn sàng” liên tiếp nhằm thống nhất thêm chi tiết.
[Kyiv Independent: As Zelensky set to land in Brussels, EU rushes to offset Trump's pressure on Ukraine]
9. Ngoại trưởng Tiệp chỉ trích người chiến thắng bầu cử Babiš là “con rối” của Orbán
Jan Lipavský chia sẻ với tờ POLITICO rằng ông lo ngại vị thế của Cộng hòa Tiệp sẽ bị suy yếu trên trường thế giới dưới thời thủ tướng mới Andrej Babiš.
Ngoại trưởng Tiệp Jan Lipavský cho biết, thủ tướng tiếp theo của Tiệp, Andrej Babiš, có thể sẽ đóng vai trò là “con rối” của nhà lãnh đạo Hung Gia Lợi Viktor Orbán tại bàn đàm phán của các nhà lãnh đạo Âu Châu, gây tổn hại đến vị thế của đất nước trên trường thế giới.
Babiš, một ông trùm dân túy đã tái đắc cử vào đầu tháng này nhưng vẫn chưa thành lập được chính phủ, đã tuyên bố sau chiến thắng của mình rằng ông sẽ không tìm cách đối đầu với Liên minh Âu Châu.
Nhưng đối với Lipavský, một thành viên của chính phủ sắp mãn nhiệm của Cộng hòa Tiệp, thủ tướng mới có khả năng sẽ đi theo bước chân của đồng minh chính trị Orbán, người bất đồng quan điểm với Brussels và Liên Hiệp Âu Châu về mọi mặt, từ pháp quyền đến việc ủng hộ Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga.
Babiš “sẽ không hành xử như một nhân vật của Orbán”, Lipavský nói trong một cuộc phỏng vấn với POLITICO trước thềm cuộc họp của các nhà lãnh đạo Âu Châu vào thứ Năm. “Ông ấy sẽ hành xử như một con rối của Orbán. Đó là một sự khác biệt lớn. Hành xử như Orbán và trở thành con rối của ai đó. Và ông ấy sẽ chỉ là một con rối.”
Babiš sẽ không tham dự cuộc họp của Hội đồng Âu Châu, nơi đại diện cho Cộng hòa Tiệp là Thủ tướng sắp mãn nhiệm Petr Fiala. Babiš đang đàm phán với hai đảng cánh hữu để thành lập chính phủ và, theo một nguồn tin thân cận, ông dự định sẽ ra mắt tại hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Âu Châu sắp tới vào tháng 12.
Lipavský cảnh báo rằng khi Babiš trở về, ông có thể chịu ảnh hưởng của hai đảng cực hữu trong nước - mà ông mô tả là “phong cách MAGA” và giống với đảng cực hữu Alternative for Germany - và có khả năng sẽ hành động cùng với Orbán như một phần của liên minh “Visegrad”.
“Tôi cảm thấy Andrej Babiš… đang sống trong giấc mơ về một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, đập giày vào bàn đàm phán, nói không, phủ quyết mọi việc và giả vờ mang lại một số lợi ích từ Âu Châu cho Tiệp. Nhưng nền chính trị thực sự của Âu Châu lại không vận hành theo cách này”, Lipavský nói trong cuộc phỏng vấn diễn ra bên lề một cuộc họp của các Ngoại trưởng tại Luxembourg.
Trong vài năm qua, Tiệp là một trong những nước ủng hộ Ukraine mạnh mẽ nhất trên trường quốc tế, khởi động một chương trình đạn dược huy động nguồn lực từ khắp khối để chuyển hơn 3 triệu quả đạn pháo đến Kyiv. Praha cũng đã thực hiện một số biện pháp cứng rắn nhất Âu Châu nhằm hạn chế việc di chuyển của các nhà ngoại giao Nga ra vào Ukraine.
Nhưng theo Lipavský, lập trường này có thể sẽ thay đổi dưới thời Babis theo cách ảnh hưởng tiêu cực đến danh tiếng của Cộng hòa Tiệp trong số các quốc gia phản đối Nga.
“Tôi rất bi quan về khả năng Tiệp sẽ giữ được vị thế trên trường quốc tế về mặt hỗ trợ cho Ukraine, bởi vì ông ấy [Babiš] đang chỉ trích sáng kiến đạn dược”, Ngoại trưởng nói. “Ông ấy nói rằng sẽ không cung cấp thêm bất kỳ khoản tiền nào cho Ukraine”, ông nói thêm.
Ông nói tiếp: “Thật khó để nói cương lĩnh cuối cùng của chính phủ mới sẽ như thế nào, nhưng tôi e rằng nó sẽ hủy hoại danh tiếng quốc tế của chúng ta vì những tuyên bố chống lại Ukraine”.
Phong cách chính trị dân túy của Babiš khiến ông được so sánh với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Đồng minh của ông, Orbán, thường lấy mối quan hệ đặc biệt với Hoa Kỳ làm bằng chứng cho thấy chính sách “tự thân vận động” của Hung Gia Lợi đối với Âu Châu đang phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên, đối với Lipavský, cơ hội xích lại gần nhau giữa Cộng hòa Tiệp và Washington dưới thời Babiš là rất mong manh do ông miễn cưỡng chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng - một yêu cầu quan trọng của Tổng thống Trump đối với các đồng minh NATO ở Âu Châu.
“Ví dụ, Babiš công kích việc mua sắm máy bay F-35 [do Mỹ sản xuất], loại máy bay tốt nhất thế giới. Chúng tôi đang mua nó, vậy mà ông ta lại muốn cho không”, Lipavský nói.
“Ông ấy đã hứa hẹn rất nhiều thứ với người dân, chẳng hạn như phúc lợi xã hội. Và nguồn duy nhất là nợ hoặc tiền, mà chính phủ chúng ta đã dùng để tăng chi tiêu quân sự,” ông nói tiếp.
“Ông Donald Trump đang nói: 'Hãy chi nhiều tiền hơn cho quốc phòng.' Andrej Babiš sẽ làm gì? Nhiều khả năng sẽ chi ít tiền hơn cho quốc phòng.”
“Tôi không thấy điều đó sẽ giúp ích gì cho mối quan hệ với Hoa Kỳ. Nó sẽ gây ra hậu quả ngược lại. Có lẽ chúng ta sẽ bị nhìn nhận giống như Tây Ban Nha theo cách đó.”
[Politico: Czech foreign minister Jan Lipavsky seen during the party]
10. Cuộc tấn công hàng loạt của Nga sát hại dân thường ở Kyiv, mất điện bắt đầu khi lưới điện bị hư hại
Theo các nhà chức trách, một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn vào cơ sở hạ tầng năng lượng trên khắp Ukraine đã khiến sáu người thiệt mạng và ít nhất 36 người bị thương vào đêm 22 tháng 10.
Tại Kyiv, hai người thiệt mạng và 21 người bị thương, trong khi bốn người thiệt mạng tại quận Brovarsky thuộc tỉnh Kyiv, theo chính quyền địa phương. Tại tỉnh Zaporizhzhia, ít nhất 15 thường dân bị thương, theo Thống đốc Ivan Fedorov.
Các cuộc tấn công diễn ra trên quy mô lớn – Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 22 tháng 10 rằng Nga cũng đã tấn công các địa điểm ở Odesa, Chernihiv, Dnipropetrovsk, Kirovohrad, Poltava, Vinnytsia, Cherkasy và Sumy.
Công ty năng lượng tư nhân lớn nhất Ukraine, DTEK, cho biết tình trạng mất điện khẩn cấp đã xảy ra ở Kyiv, Tỉnh Dnipropetrovsk, và báo cáo “thiệt hại đáng kể” đối với cơ sở hạ tầng năng lượng ở Tỉnh Odesa.
“Tôi đang ngồi ở hành lang, chờ cuộc tấn công kết thúc thì nghe thấy một tiếng nổ lớn”, Halyna Ivanivna Sharii, cư dân của một tòa nhà ở Quận Dniprovskiy, nằm ở bờ trái thủ đô, chia sẻ với tờ Kyiv Independent.
“Có lúc tôi cứ tưởng tòa nhà nhà mình sắp sập, hóa ra là tòa nhà bên cạnh. Thật kinh hoàng. Nhưng biết làm sao được? Đây không phải lần đầu tòa nhà tôi rung lắc như thế này.
“Chúng ta phải chịu đựng thôi. Chiến tranh mà.”
[Kyiv Independent: Russian mass attack kills civilians in Kyiv, blackouts begin as energy grid damaged]
11. Vučić của Serbia lên án ‘vụ tấn công khủng bố’ sau vụ nổ súng bên ngoài tòa nhà quốc hội
Vụ xả súng xảy ra hôm thứ Tư bên ngoài tòa nhà quốc hội Serbia ở Belgrade khiến một người bị thương là một “vụ tấn công khủng bố”, Tổng thống Aleksandar Vučić cho biết.
“Ông ta đã thực hiện — đây là đánh giá chính trị của tôi, và với tư cách là một luật sư — một vụ tấn công khủng bố khủng khiếp nhắm vào người khác và tài sản của người khác; ông ta đã gây ra nguy hiểm chung. Văn phòng công tố có thẩm quyền sẽ đưa ra kết luận pháp lý cuối cùng về hành vi này”, Vučić phát biểu tại một cuộc họp báo ngay sau vụ nổ súng.
Trong một video được chia sẻ trên nền tảng xã hội X, tiếng súng vang lên và khói đen bốc lên từ đám cháy tại một khu lều trại bên ngoài tòa nhà quốc hội. Theo truyền thông địa phương, người đàn ông bị thương đang trong tình trạng nguy kịch và sẽ được phẫu thuật.
Lều trại được những người ủng hộ Vučić dựng lên trước tòa nhà quốc hội trong cuộc biểu tình chống chính phủ do sinh viên lãnh đạo, đã trở thành cuộc biểu tình lớn nhất trên khắp cả nước kể từ khi Slobodan Milošević bị lật đổ vào năm 2000.
Vučić, người nhiều lần cáo buộc những người biểu tình bạo lực, cho biết: “Chỉ là vấn đề thời gian trước khi điều này xảy ra... Đã có vô số lời kêu gọi như vậy”.
Vučić cho biết nghi phạm là một người về hưu ở Belgrade, đã bị bắt giữ.
Các sinh viên, những người đang lên kế hoạch cho một cuộc biểu tình lớn khác vào ngày 31 tháng 10, cho biết trong một bài đăng trên X rằng chiến lược của họ “chưa bao giờ là con đường bạo lực”.
Các cuộc biểu tình bắt đầu vào tháng 11 năm ngoái sau khi mái che nhà ga xe lửa ở Novi Sad bị sập, khiến 16 người thiệt mạng, trong đó có hai trẻ nhỏ, và khiến nhiều người khác bị thương nặng.
Chính phủ phủ nhận mọi cáo buộc mặc dù có những lời cáo buộc liên hệ thảm kịch này với một dự án cải tạo do nhà nước điều hành, vốn bị ảnh hưởng bởi tình trạng xây dựng kém phẩm chất và thiếu giám sát.
[Politico: Serbia’s Vučić denounces ‘terrorist attack’ after shooting outside parliament]
Vụ trộm táo bạo bảo tàng Louvre cướp đi di sản Công Giáo về lòng sùng đạo của Hoàng hậu Eugénie
VietCatholic Media
16:52 23/10/2025
1. Vụ trộm bảo tàng Louvre cướp đi di sản Công Giáo về lòng sùng đạo của Hoàng hậu Eugénie ở Pháp
Bảo tàng Louvre ở Paris đã trở thành hiện trường của một vụ trộm ban ngày được lên kế hoạch tỉ mỉ vào sáng Chúa Nhật, ngày 19 tháng 10. Bốn người đàn ông đội mũ bảo hiểm đã đột nhập vào Galerie d'Apollon - nơi lưu giữ Vương miện Hoàng gia của Pháp - và đánh cắp tám món đồ trang sức được Bộ trưởng Nội vụ Laurent Nuñez mô tả là có “giá trị di sản vô giá”.
Trong số những đồ vật bị đánh cắp có chiếc trâm cài “thánh tích” của Hoàng hậu Eugénie, gợi cho thế giới nhớ đến đức tin Công Giáo nhiệt thành của vợ Napoleon III.
Những tên cướp, đến bằng xe tải trên Quai François Mitterrand — đại lộ ven sông Seine ngay dưới mặt tiền chính của Bảo tàng Louvre ở trung tâm Paris — đã sử dụng thang máy chở đồ đạc để tiếp cận cửa sổ tầng một, đột nhập vào phòng trưng bày và tẩu thoát bằng xe tay ga chỉ trong vài phút. Một món trang sức — vương miện của Hoàng hậu Eugénie — sau đó được tìm thấy bị vỡ gần bảo tàng, trong khi bọn trộm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Được chế tác vào năm 1855 bởi thợ kim hoàn của cung điện Paul Alfred Bapst, chiếc trâm cài này kết hợp vẻ lộng lẫy của hoàng gia với biểu tượng thân mật.
Các chuyên gia tại Bảo tàng Louvre lưu ý rằng thuật ngữ “hộp đựng thánh tích”, gắn liền với chiếc trâm cài áo kể từ khi bộ sưu tập Vương miện Kim cương được bán vào năm 1887 và được khắc trên chốt cài, từ lâu đã khiến các nhà sử học tò mò. Viên ngọc này không có khoang chứa thánh tích nào có thể nhìn thấy được.
Tuy nhiên, vì nó có thể được tháo rời, các nhà quản lý cho rằng nó có thể được thiết kế để cho phép lắp một bộ phận trung gian sau này có thể chứa một bộ phận như vậy. Mặt sau của hộp đựng có một ngăn nhỏ có thể phục vụ mục đích này — một chi tiết phù hợp với lòng sùng kính cá nhân nổi tiếng của Hoàng hậu Eugénie.
Món trang sức được đính 94 viên kim cương, trong đó có ba viên có nguồn gốc đặc biệt. Hai viên — được gọi là Mazarin thứ 17 và 18 — là một phần của bộ 18 viên đá quý huyền thoại được Hồng Y Jules Mazarin di chúc cho Louis XIV vào năm 1661, trong khi viên đá trung tâm — từng là một chiếc cúc áo trên áo chẽn của Vua Mặt Trời và sau này là một chiếc khuyên tai của Marie-Antoinette — gắn kết ba thế kỷ lịch sử nước Pháp.
Nhà sử học Éric Anceau, một chuyên gia về Đế chế thứ hai của Pháp, gọi vụ trộm là “một thảm họa”.
“Một phần di sản của chúng ta được hình thành trong ba thế kỷ đã biến mất”, ông viết.
Hiệp hội di sản Sites et Monuments cũng đồng tình với quan điểm này, mô tả chiếc trâm cài áo là “một bản tóm tắt ngắn gọn về lịch sử nước Pháp” và cảnh báo rằng những món đồ trang sức trên đó “có khả năng bị tháo rời và cắt lại để dễ bán lại”.
Danh tiếng của Hoàng hậu Eugénie như một vị vua thời thượng thường làm lu mờ lòng mộ đạo sâu sắc của bà. Những nhân chứng đương thời mô tả bà là người bác ái và sùng đạo, thậm chí còn sùng đạo quá mức trong mắt những người chỉ trích. Bà cầu nguyện hàng ngày, ủng hộ các dòng tu, và đích thân giám sát các khoản quyên góp của hoàng gia cho bệnh viện, giáo xứ và các quỹ cứu trợ — những nỗ lực đôi khi được gọi là “Bộ Bác ái” của bà.
Đức tin của bà cũng được Giáo hội công nhận. Trong lễ rửa tội cho hoàng tử tại Nhà thờ Đức Bà Paris vào tháng 6 năm 1856, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã gửi tặng bà một Bông hồng Vàng — là huân chương cao quý nhất của Giáo hoàng để tưởng thưởng lòng đạo đức hoặc những đóng góp cho Giáo hội.
Hai năm sau, bà đã can thiệp để mở lại hang động Lộ Đức cho khách hành hương sau khi con trai bà được chữa lành, như Aleteia đã nêu bật, trong đó cũng đề cập rằng trong trận dịch tả năm 1865, bà đã đích thân đến thăm người bệnh, mang lại sự an ủi cho những người đau khổ.
Ngày nay, Quỹ Napoléon lưu giữ một số vật dụng tôn giáo của Hoàng hậu Eugénie, bao gồm một chuỗi tràng hạt do các tu sĩ dòng Xitô Nhặt Phép ở Algeria tặng vào năm 1865 và một cuốn sách cầu nguyện trên đó bà ghi chép bằng tay ngày mất của Napoleon III vào năm 1873.
Trâm cài áo thánh tích thể hiện sự liên tục giữa chế độ quân chủ và đế chế, giữa quyền lực và đức tin. Với những viên kim cương hoàng gia được tái sử dụng và thiết kế bạc mạ vàng cùng họa tiết hoa văn cổ điển, chiếc trâm cài áo phản ánh cả thiên tài nghệ thuật của nước Pháp lẫn di sản Kitô giáo. Sự biến mất của nó do đó đánh dấu sự tan biến của một mối liên kết hữu hình giữa sự hùng vĩ trần thế và tâm hồn của nước Pháp với tư cách là người con gái đầu lòng của Giáo hội.
Chính quyền Pháp đã mở cuộc điều tra về “vụ trộm cắp có tổ chức và âm mưu phạm tội”, do Đội Phòng chống Tội phạm thuộc Cảnh sát Tư pháp Paris chỉ đạo. Hiện có sáu mươi điều tra viên đang được phân công điều tra vụ án.
Theo TF1/LCI, một manh mối đầy hứa hẹn đã xuất hiện vào ngày 21 tháng 10: Chiếc thang nâng đồ nội thất được sử dụng trong vụ đột nhập đã được truy tìm đến một vụ cướp xe ở thị trấn Louvres gần đó, nơi một số người đàn ông đóng giả làm người mua đã đánh cắp chiếc thang sau khi đe dọa một nhân viên chín ngày trước vụ trộm.
Các nhà điều tra sau đó phát hiện ra rằng biển số xe thang máy và các dấu hiệu nhận dạng đã bị thay đổi, bổ sung vào số lượng bằng chứng ngày càng tăng mà bọn trộm để lại - bao gồm hai máy mài góc, một chiếc găng tay, một đèn khò, một chiếc chăn, một máy bộ đàm và một can xăng.
Source:Catholic News Agency
2. Đức Hồng Y Parolin: Đàn ông và phụ nữ ở khắp mọi nơi đều xứng đáng được tự do trong các vấn đề đức tin
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh, đã suy ngẫm về tầm quan trọng của tự do tôn giáo trong sự kiện của Vatican nhằm ra mắt Báo cáo Tự do Tôn giáo năm 2025 của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, gọi tắt là ACN.
Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Pietro Parolin đã nhấn mạnh “tự do tôn giáo là khía cạnh cơ bản của sự tồn tại con người” trong bài phát biểu quan trọng của mình tại Vatican vào thứ Ba, ngày 21 tháng 10, trong lễ ra mắt Báo cáo Tự do Tôn giáo năm 2025 của Tổ chức Viện trợ các Giáo hội Khó khăn, gọi tắt là ACN.
Đức Hồng Y Parolin cho biết: “Việc hiện thực hóa “quyền tự do do Chúa ban tặng”, gắn liền với bản chất con người, “không nên bị cản trở bởi những rào cản mang tính chất cá nhân, xã hội hoặc chính phủ”, và “nam giới và nữ giới ở khắp mọi nơi đều xứng đáng được tự do khỏi mọi hình thức ép buộc trong các vấn đề đức tin - dù đó là áp lực xã hội tinh vi hay mệnh lệnh công khai của nhà nước”.
Ngài nói tiếp: “Chính phủ và cộng đồng có trách nhiệm kiềm chế không ép buộc bất kỳ ai vi phạm niềm tin sâu sắc của họ hoặc cản trở bất kỳ ai sống đúng với niềm tin đó”.
Đức Hồng Y nói thêm rằng “tự do không phải là sự tán thành hoàn toàn cho sự dối trá hay sự cho phép chấp nhận sai lầm một cách liều lĩnh” mà là “lời mời gọi theo đuổi sự thật một cách siêng năng” và “tất cả mọi người đều được kêu gọi chịu trách nhiệm về mặt đạo đức”.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng báo cáo, năm nay là lần thứ 25, cho thấy “gần hai phần ba dân số thế giới sống ở những quốc gia xảy ra tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”, nghĩa là “khoảng năm tỷ bốn trăm triệu người” bị ảnh hưởng.
Đức Hồng Y cảnh báo rằng “điều đáng lo ngại” là tài liệu năm 2025 “là tài liệu có quy mô lớn nhất kể từ khi thành lập”, đồng thời cho biết thêm rằng đây là “nguồn thông tin và phân tích có giá trị” liên quan đến hiện tượng này.
Đức Hồng Y Parolin đã trích dẫn bài phát biểu gần đây của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV trước phái đoàn ACN để nhấn mạnh tầm quan trọng của báo cáo này và tầm quan trọng của tự do tôn giáo trong việc xây dựng các xã hội hòa bình. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng nguồn tài liệu này là “một công cụ mạnh mẽ” giúp “lên tiếng cho những người không có tiếng nói và phơi bày nỗi đau khổ thầm kín của nhiều người”, Đức Hồng Y Parolin nói.
Đức Giáo Hoàng cũng tuyên bố rằng “tự do tôn giáo không phải là một sự lựa chọn mà là một thành trì thiết yếu”, gắn liền với sự sáng tạo của mỗi người theo hình ảnh của Chúa, do đó trao quyền cho “mỗi tâm hồn theo đuổi chân lý và xây dựng xã hội công bằng”.
Ngài cảnh báo: “Nếu không có sự tự do này, nền tảng đạo đức của xã hội chắc chắn sẽ bị lung lay, dẫn đến chu kỳ nô dịch và xung đột”.
Điều này củng cố việc Giáo Hội Công Giáo bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho tất cả mọi người, quyền này phải được công nhận “trong đời sống pháp lý và thể chế của mọi quốc gia”.
Đức Hồng Y Parolin trích dẫn lời của Đức Giáo Hoàng và nói tiếp rằng tự do tôn giáo “không thể là điều trừu tượng” mà “phải được thực hiện, bảo vệ và thúc đẩy trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân và cộng đồng”.
Trong bài phát biểu, Đức Hồng Y Parolin đã suy ngẫm về hai văn kiện quan trọng nêu bật tầm quan trọng của tự do tôn giáo đối với thế giới. Văn kiện thứ nhất là Tuyên ngôn Dignitatis Humanae của Công đồng Vatican II, năm nay đánh dấu kỷ niệm 60 năm ngày công bố, ngày 7 tháng 12 năm 1965.
Thứ hai là “đối tác bình dân”, vốn là “nền tảng của nền tảng nhân quyền đương đại trong luật pháp quốc tế”, Điều 18 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Sau “những tội ác chưa từng có của Thế chiến II”.
Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cho biết, bài viết này giải thích với “độ chính xác tuyệt đối” về tầm quan trọng của tự do tôn giáo và thể hiện “sự phản đối tập thể đối với các ý thức hệ toàn trị đã dẫn đến thảm họa Holocaust và nhiều tội ác khác, nơi tính thiêng liêng của các tín ngưỡng cá nhân đã bị xóa bỏ một cách có hệ thống”.
Ngài nhấn mạnh: “Tự do tôn giáo không phải là một đặc quyền ngẫu nhiên mà là một quyền bất khả xâm phạm, không thể thiếu để phát huy hết tiềm năng của con người”, đồng thời cho biết thêm rằng báo cáo hiện tại của ACN tiết lộ rằng Điều 18 hiện nay là “một thành trì mong manh giữa vòng xoáy nghịch cảnh đầy biến động”.
Liên quan đến Dignitatis Humanae, Đức Hồng Y Parolin đã nêu rõ rằng tuyên bố này “dệt nên một tấm thảm tự do được tôi luyện bởi trách nhiệm, khuyến khích các xã hội xây dựng cầu nối thay vì dựng lên rào cản trong hành trình theo đuổi chân lý”. Ngài giải thích rằng tầm nhìn này kể từ đó đã “lan tỏa”, truyền cảm hứng cho sự tham gia của Công Giáo vào các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc và “thúc đẩy các phong trào chống đàn áp tôn giáo”.
“Nó đóng vai trò như một lời nhắc nhở rằng, khi được sắp xếp đúng đắn, tự do không chỉ là một quyền; nó còn là con đường dẫn đến Chân lý và sự hiệp thông sâu sắc hơn với Thiên Chúa và tha nhân”.
Đức Hồng Y cho biết thông điệp chính của Dignitatis Humanae là “quyền tự do xã hội và dân sự của cá nhân và cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo”.
“Đức tin phải là sự đáp trả tự do trước lời mời gọi của Thiên Chúa, chứ không phải là sự phục tùng bị ép buộc”, ngài nói, vì đức tin xuất phát từ sự thừa nhận “phẩm giá vốn có của tất cả con người, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.
Như Tuyên bố đã nêu một cách hùng hồn, “sự thật không thể bị áp đặt trừ khi dựa trên chính sự thật của nó”.
Ngài cũng lưu ý rằng “nguyên tắc tự do tôn giáo thấm nhuần mọi khía cạnh tương tác giữa con người, cả cá nhân và tập thể” và do đó nên “được ghi nhận là quyền công dân cơ bản trong hiến pháp, luật pháp trong nước và các hiệp ước quốc tế”.
Tuy nhiên, ngài giải thích, “tự do tôn giáo không nên được coi là một điều tuyệt đối không thể kiểm soát” mà là “một trạng thái cân bằng năng động, được giới hạn bởi trí tuệ và công bằng”.
Vì vậy, ngài nhấn mạnh, “sự thận trọng về mặt chính trị” phải được sử dụng để tạo ra các ranh giới được hình thành bởi các yêu cầu của “lợi ích chung”, và các chính quyền dân sự có “vai trò then chốt” trong việc ban hành luật pháp phù hợp với luật đạo đức bất biến (dựa trên lý trí tự nhiên và sự mặc khải của Chúa).
Ngài nhấn mạnh Dignitatis Humanae đưa ra nhiều lý do hợp lý về “sự cần thiết” của các biện pháp bảo vệ nhằm ngăn chặn vi phạm quyền tự do tôn giáo, bao gồm bảo vệ quyền công dân, nuôi dưỡng hòa bình công cộng và duy trì đạo đức công cộng.
Source:Vatican News
3. Bài giảng của Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk tại Oslo trong buổi cầu nguyện chung cho hòa bình với các nhà lãnh đạo tôn giáo của Ukraine và Na Uy
«Hãy có cùng một tâm trí như Chúa Giêsu Kitô đã có» (Phi-líp 2:5)
Những lời này của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe vang vọng tiếng nói của Thiên Chúa và tinh thần của Giáo Hội sơ khai. Thánh Phaolô đã viết những lời này gần cuối cuộc đời và cuối chức thánh của ngài, khi đang bị giam cầm tại Rôma. Chắc chắn ngài đã rất cẩn thận khi chọn từ ngữ và hình ảnh khi ngỏ lời với cộng đồng Kitô giáo đầu tiên ở Âu Châu.
Nhiều học giả tin rằng đoạn văn này có thể không phải do chính Phao-lô biên soạn, mà được chèn vào thư của ngài như một trích dẫn hoàn chỉnh — một bài thánh ca ngợi Chúa Kitô mà Hội Thánh tại Phi-líp-phê có lẽ đã quen thuộc và hát trong các buổi lễ phụng vụ. Không phải ngẫu nhiên mà Phao-lô mở đầu bài thánh ca này bằng một lời khuyên mục vụ: «Anh em hãy có cùng một tâm tình như Chúa Giêsu Kitô». Rõ ràng, tư tưởng và thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thịnh hành, được coi là «chủ đạo» tại thành phố đó.
Vào thời điểm bức thư này được viết, Phi-líp-phê là một thuộc địa quân sự quan trọng của Rôma nằm trên một trong những tuyến đường giao thông huyết mạch của thế giới cổ đại—Via Egnatia. Con đường này nối liền Biển Adriatic với Biển Aegean, và sau đó nối liền Rôma với Constantinople. Cư dân của thành phố chủ yếu là binh lính hoặc cựu chiến binh của quân đội Rôma. Thế giới quan của họ phản ánh các giá trị của một xã hội quân sự hóa, trong đó vinh quang và quyền lực đặt một người lên đỉnh cao của kim tự tháp xã hội, nơi các đặc quyền và cấp bậc quân sự được giành được trên chiến trường và được coi—cùng với của cải cướp được—là những quyền bất khả xâm phạm mang lại ý nghĩa và phẩm giá cho cuộc sống của họ. Tâm lý được nuôi dưỡng ở đó đã thúc đẩy mọi người hướng lên, vì chỉ ở đó, theo quan điểm của họ, mới có quyền lực và vinh quang. Chỉ trước những người ở trên đỉnh cao, mọi đầu gối bên dưới mới phải cúi đầu—dù là tự nguyện hay bị ép buộc và sợ hãi.
Với những người Phi-líp-phê này, Tông đồ Phao-lô rao giảng về Chúa Kitô, Đấng “dù vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Ngài đã mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá.” Với những người đang khao khát vươn lên, Phao-lô rao giảng về Đấng đã chọn hạ mình xuống.
Chúa Kitô không xem sự hiện hữu của Ngài trong bản tính thần linh là một «đặc ân bất khả xâm phạm». Khi nói về Ngài, Phao-lô dùng từ harpagmon (ἁρπαγμὸν)—một thuật ngữ gợi lên hình ảnh con mồi của một kẻ săn mồi bị kẹp chặt trong móng vuốt của nó, không muốn thả ra cho kẻ khác. Do đó, sự xuất hiện của Chúa Kitô trong hình hài một người tôi tớ là một chuyển động, một hành động, một quá trình tự nguyện từ bỏ chính mình. Sử dụng từ ekenosen (ἐκένωσεν), Phao-lô thực sự nói về một «sự từ bỏ»—một sự từ bỏ mọi quyền năng và đặc ân phát sinh từ sự bình đẳng về thần tính của Ngài với Đức Chúa Cha.
Mục đích của sự giáng thế này của Con Thiên Chúa là cái chết trên thập tự giá—cái chết đáng xấu hổ và nhục nhã nhất, dành làm hình phạt cho những nô lệ và được gọi là servile supplicium.
Với tín hữu Phi-líp-phê, Phao-lô công bố: “Đức Kitô chịu đóng đinh là điều người Do Thái coi là chướng ngại vật và dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là người Do Thái hay người Hy Lạp, thì Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cô-rin-tô 1:23-24). Vị Tông đồ này chỉ ra một nghịch lý thần thánh: việc đóng đinh trên thập giá—điểm thấp nhất của sự hạ mình trong cuộc giáng thế của Đức Kitô—lại trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên. Điều mà con người cho là xấu hổ lại trở thành giờ phút Chúa Cha tôn vinh Con Ngài, ban cho Ngài “danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe danh Đức Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa.”
Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô! Hôm nay, Ukraine – dân tộc và Giáo hội của chúng ta – đang bước đi trên con đường kenosis được công bố cho chúng ta trong Lời Chúa này. Mỗi sự mất mát người thân, mỗi thành phố và làng mạc bị phá hủy, đều để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống không gì bù đắp được. Cả thế giới đang chứng kiến thảm kịch của Ukraine: một số người kinh ngạc, số khác thờ ơ; một số khác bất lực giơ tay lên và biến nỗi đau và sự thống khổ của chúng ta thành chất liệu cho các cuộc chiến truyền thông và thao túng, lợi dụng điều đó để phân cực xã hội của họ và giành lợi thế chính trị.
Ngày nay, dân tộc chúng ta đang chịu đựng sự đóng đinh của chính mình trước mắt cộng đồng thế giới, và dường như Thánh Phaolô đã nói chính xác về chúng ta khi ngài nói: «Chúng ta đã trở thành trò cười cho thế gian, cho thiên thần và cho loài người» (x. 1 Cr 4:9). Tuy nhiên, quyền năng và vinh quang của Thập Giá Chúa được tỏ lộ trong những đau khổ của chúng ta—và trong lời hy vọng của chúng ta, cho cả Ukraine và từ Ukraine, cho nhân loại đương đại.
Chúng ta đang chảy máu, và một lần nữa chúng ta tự hỏi: Chúa ơi, tại sao? Có lẽ câu hỏi này - Tại sao chúng ta, những người Ukraine, phải bị đóng đinh trước mắt toàn thế giới ngày hôm nay? - đang là tâm điểm suy ngẫm của tất cả những người thiện chí, cả người có đức tin lẫn người không có đức tin. Chúa ơi, tại sao các quốc gia khác được sống, phát triển, hân hoan và thịnh vượng, trong khi chúng ta phải chết đêm này qua đêm khác? Tại sao máu của những đứa trẻ lại chảy trên đất Ukraine? Chúa ơi, tại sao?
Có lẽ câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi này sẽ chỉ được tiết lộ vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng, khi tất cả những điều ẩn giấu sẽ được đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, chìa khóa để hiểu được thảm kịch này nằm ở Thập Giá thánh thiện và ban sự sống của Chúa Kitô.
Một trong những phản ứng sâu sắc nhất đối với điều bí ẩn này đã được nêu ra trong Bữa sáng cầu nguyện tại Kyiv vào Ngày Độc lập, khi mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến cầu nguyện cùng chúng tôi, cùng với các nhà lãnh đạo của chúng tôi, để lắng nghe Lời Chúa và để kỷ niệm Ngày Độc lập của Tổ quốc chúng ta.
Một người đàn ông tên Maksym Kulyk đến từ Kryvyi Rih đã bước lên phía trước - một người chồng, người cha đã trải qua bi kịch tương tự như gia đình Bazylevych ở Lviv. Chỉ trong một đêm, trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga, anh đã mất vợ và ba đứa con. Con gái út của anh, Uliana, mới chỉ hai tháng tuổi.
Người cha ấy hỏi: Lạy Chúa, tại sao chuyện này lại xảy ra với con?
Có người có thể trả lời: Chính vì tội lỗi của anh mà anh phải chịu đau khổ như vậy. Nhưng anh ấy trả lời:
«Không, điều đó không đúng! Những quốc gia khác ngày nay sống trong sự thịnh vượng cũng chẳng tội lỗi hơn hay ít tội lỗi hơn người dân Ukraine.»
«Tôi tin chắc rằng hôm nay Chúa đang tôn vinh và nâng cao Ukraine qua đau khổ, và đặt những vết thương của chúng ta trước mắt toàn thế giới. Ngài đang nói với tất cả những ai muốn đứng về phía lẽ phải của lịch sử: «Đừng ngoảnh mặt làm ngơ trước đau khổ, máu đổ, và nỗi đau của Ukraine.'“
«Chính vì lý do này mà Chúa muốn thế giới ngày nay nhìn thấy người Ukraine—nhìn thấy trái tim tin tưởng sâu sắc của chúng tôi, và nhận ra ở mọi ngóc ngách trên thế giới tâm hồn tin tưởng của Ukraine.»
Trong chúng ta ngày nay, nghịch lý thiêng liêng này một lần nữa lại được ứng nghiệm: sự đóng đinh trên thập tự giá—điểm thấp nhất của sự sỉ nhục trong sự giáng lâm—đã trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên.
Hôm nay, cùng với đại diện Hội đồng các Giáo hội và Tổ chức Tôn giáo toàn Ukraine, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả anh chị em Kitô hữu Na Uy và tất cả những người thiện chí vì tình đoàn kết với Ukraine. Cảm ơn anh chị em đã thể hiện lòng trắc ẩn đối với chúng tôi «cùng một tâm tình như Chúa Kitô Giêsu» (x. Phil. 2:5).
Giữa thảm kịch của cuộc chiến tranh xâm lược này—là một sự báng bổ chống lại Chúa và tội ác chống lại loài người—chúng ta nhớ lại lời của Thủ tướng Bồ Đào Nha, Hầu tước de Pombal, đã nói sau trận động đất làm rung chuyển Âu Châu năm 1755: «Hãy chôn cất người chết và nuôi sống người sống.» Mong rằng điều này sẽ trở thành phương châm cho sứ mệnh chung của chúng ta về lòng thương xót của Chúa Kitô—để chấm dứt chiến tranh và cứu Âu Châu khỏi một thảm họa khác.
Nguyện xin sự đau khổ của chúng ta và chứng tá chung của chúng ta về Phúc Âm của Chúa Kitô phục vụ cho mục đích «khi nghe danh Chúa Giêsu, mọi đầu gối phải quỳ xuống, trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.»
A-men.
Source:UGCC