Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:05 01/11/2014
NGƯỜI CHẠY CUỐI CÙNG
Sau khi cuộc thi chạy marathon kết thúc, tên của ba người chạy về đích đầu tiên đã có và tiếp theo là ban thưởng, quần chúng tham gia xong thì cũng bắt đầu giải tán.
Đột nhiên, bên góc của sân vận động có nhiều tiếng vỗ tay nổi lên ầm ầm, té ra là người chạy về cuối cùng lúc này đang chạy vào trong hội trường, bởi vì khi chạy bị vấp té nhiều lần do đó mà toàn thân chồng chất vết thương, nhưng anh ta vẫn cắn răng chịu đựng và phải chạy hết đoạn đường.
Vị tuyển thủ này khi thì đi bộ rất chậm, khi thì chạy tập tểnh bước một, khi thì chịu đựng cái đau để chạy nước rút, toàn sân vận động tựa hồ như cuồng loạn, mọi người đều đứng lên cổ võ vỗ tay vì sự hăng hái của anh ta, cho đến khi vị tuyển thủ ấy chạy vào trong hội trường thì tiếng vỗ tay mới chấm dứt.
Ngày hôm ấy, tất cả những người trong sân vận động đều học tập được bài học rất là quý giá.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Mỗi một người Ki-tô hữu là một tuyển thủ của Nước Trời ngay trong cuộc sống của mình tại trần gian, mà đối thủ không ai khác hơn là những thói hư tật xấu của mình, tóm lại là tội lỗi và ma quỷ:
- Khi chúng ta cố chạy đến đích, thì chúng nó (thói hư tật xấu, tội lỗi, ma quỷ) giữ chúng ta lại.
- Khi chúng ta cố gắng vươn lên để sống tốt lành, thì chúng nó níu kéo ta lại.
- Khi chúng ta cố gắng sửa đổi những khuyết điểm, thì chúng nó khơi dậy cái tôi của mình lên để biện hộ cho cái khuyết điểm là đúng.
- Khi chúng ta làm việc bác ái, thì chúng nó phân tích cặn kẻ làm việc bác ái này có lợi cho ai ? Và khi mình đói thì sao lại không có ai giúp đỡ ?!.v.v...
Mọi người ai cũng thích và cảm phục người cố gắng, dù họ không được giải nhất, nhưng chính sự cố gắng và ý chí của họ là một bài học cho mọi người.
Không thắng được mình thì sẽ thua tất cả, mà vào Nước Trời thì càng là chuyện quá xa vời đối với những ai không chiến thắng được mình, bởi vì “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11, 12b).
Giành được Nước Trời vào giờ chót cũng là hạnh phúc lắm lắm, nhưng nếu không cố gắng vươn lên thì không bao giờ có giờ chót cả.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Sau khi cuộc thi chạy marathon kết thúc, tên của ba người chạy về đích đầu tiên đã có và tiếp theo là ban thưởng, quần chúng tham gia xong thì cũng bắt đầu giải tán.
Đột nhiên, bên góc của sân vận động có nhiều tiếng vỗ tay nổi lên ầm ầm, té ra là người chạy về cuối cùng lúc này đang chạy vào trong hội trường, bởi vì khi chạy bị vấp té nhiều lần do đó mà toàn thân chồng chất vết thương, nhưng anh ta vẫn cắn răng chịu đựng và phải chạy hết đoạn đường.
Vị tuyển thủ này khi thì đi bộ rất chậm, khi thì chạy tập tểnh bước một, khi thì chịu đựng cái đau để chạy nước rút, toàn sân vận động tựa hồ như cuồng loạn, mọi người đều đứng lên cổ võ vỗ tay vì sự hăng hái của anh ta, cho đến khi vị tuyển thủ ấy chạy vào trong hội trường thì tiếng vỗ tay mới chấm dứt.
Ngày hôm ấy, tất cả những người trong sân vận động đều học tập được bài học rất là quý giá.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Mỗi một người Ki-tô hữu là một tuyển thủ của Nước Trời ngay trong cuộc sống của mình tại trần gian, mà đối thủ không ai khác hơn là những thói hư tật xấu của mình, tóm lại là tội lỗi và ma quỷ:
- Khi chúng ta cố chạy đến đích, thì chúng nó (thói hư tật xấu, tội lỗi, ma quỷ) giữ chúng ta lại.
- Khi chúng ta cố gắng vươn lên để sống tốt lành, thì chúng nó níu kéo ta lại.
- Khi chúng ta cố gắng sửa đổi những khuyết điểm, thì chúng nó khơi dậy cái tôi của mình lên để biện hộ cho cái khuyết điểm là đúng.
- Khi chúng ta làm việc bác ái, thì chúng nó phân tích cặn kẻ làm việc bác ái này có lợi cho ai ? Và khi mình đói thì sao lại không có ai giúp đỡ ?!.v.v...
Mọi người ai cũng thích và cảm phục người cố gắng, dù họ không được giải nhất, nhưng chính sự cố gắng và ý chí của họ là một bài học cho mọi người.
Không thắng được mình thì sẽ thua tất cả, mà vào Nước Trời thì càng là chuyện quá xa vời đối với những ai không chiến thắng được mình, bởi vì “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11, 12b).
Giành được Nước Trời vào giờ chót cũng là hạnh phúc lắm lắm, nhưng nếu không cố gắng vươn lên thì không bao giờ có giờ chót cả.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Lễ Các Đẳng Linh Hồn (02/11)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:08 01/11/2014
LỄ CÁC ĐẲNGLINH HỒN
(Ngày 2 tháng 11)
Anh chị em thân mến,
Hôm qua (01/11) chúng ta đã mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, các ngài là những người tôi trung của Thiên Chúa, hôm nay (02/11) chúng ta dâng lễ cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, các ngài là những người đã sống và tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng chưa trọn vẹn, do đó các ngài phải tạm thời chưa được diện kiến Thiên Chúa, và phải đền tội trong luyện ngục cho đến khi đền tội xong...
Giáo lý Công Giáo dạy chúng ta rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn trong luyện ngục tự mình không thể làm gì được để được Chúa tha tội, ở đó họ chỉ trông mong có một điều là hình phạt mau qua để chóng được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, cần đến những việc lành phúc đức và những hi sinh của chúng ta là những người đang còn sống ở thế gian.
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành hẳn tháng Mười Một trong năm để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, một tháng với biết bao nhiêu là việc lành mà chúng ta làm, với biết bao nhiêu là thánh lễ mà chúng ta tham dự cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà chúng ta đã thực hiện, thì chắc chắn có rất nhiều linh hồn trong luyện ngục được thoát khỏi hình phạt luyện ngục mà về thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Tín điều các thánh thông công của Giáo Hội làm cho chúng ta thấy được rõ nhất trong tháng này, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được hiệp thông với các thánh khải hoàn trên trời, chúng ta góp phần giải thoát các linh hồn đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời kinh nguyện và việc lành của chúng ta, và nhờ bí tích Rửa Tội mà chúng ta –những tín hữu chiến đấu ở trần gian- được hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Đức Chúa Giê-su.
Anh chị em thân mến,
Ai trong chúng ta cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng, thì họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa, nếu họ đang bị giam cầm trong luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc lành của chúng ta làm, thì như những giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những đau khổ và thâu ngắn thời gian đền tội của họ trong luyện ngục.
Tháng Mười Một cũng là tháng báo hiếu của con cái đối với ông bà cha mẹ đã qua đời. Xin lễ cầu nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành phúc đức.v.v... là những cách báo hiếu của chúng ta đối với các ngài vậy.
Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng- Amen.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
(Ngày 2 tháng 11)
N2T |
Anh chị em thân mến,
Hôm qua (01/11) chúng ta đã mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, các ngài là những người tôi trung của Thiên Chúa, hôm nay (02/11) chúng ta dâng lễ cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, các ngài là những người đã sống và tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng chưa trọn vẹn, do đó các ngài phải tạm thời chưa được diện kiến Thiên Chúa, và phải đền tội trong luyện ngục cho đến khi đền tội xong...
Giáo lý Công Giáo dạy chúng ta rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn trong luyện ngục tự mình không thể làm gì được để được Chúa tha tội, ở đó họ chỉ trông mong có một điều là hình phạt mau qua để chóng được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, cần đến những việc lành phúc đức và những hi sinh của chúng ta là những người đang còn sống ở thế gian.
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành hẳn tháng Mười Một trong năm để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, một tháng với biết bao nhiêu là việc lành mà chúng ta làm, với biết bao nhiêu là thánh lễ mà chúng ta tham dự cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà chúng ta đã thực hiện, thì chắc chắn có rất nhiều linh hồn trong luyện ngục được thoát khỏi hình phạt luyện ngục mà về thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Tín điều các thánh thông công của Giáo Hội làm cho chúng ta thấy được rõ nhất trong tháng này, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được hiệp thông với các thánh khải hoàn trên trời, chúng ta góp phần giải thoát các linh hồn đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời kinh nguyện và việc lành của chúng ta, và nhờ bí tích Rửa Tội mà chúng ta –những tín hữu chiến đấu ở trần gian- được hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Đức Chúa Giê-su.
Anh chị em thân mến,
Ai trong chúng ta cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng, thì họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa, nếu họ đang bị giam cầm trong luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc lành của chúng ta làm, thì như những giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những đau khổ và thâu ngắn thời gian đền tội của họ trong luyện ngục.
Tháng Mười Một cũng là tháng báo hiếu của con cái đối với ông bà cha mẹ đã qua đời. Xin lễ cầu nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành phúc đức.v.v... là những cách báo hiếu của chúng ta đối với các ngài vậy.
Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng- Amen.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:11 01/11/2014
N2T |
18. Thiên Chúa là căn nguyên của tình yêu; dù rằng con người xấu xí, thì Ngài vẫn cứ yêu thương nồng nàn.
(Thánh Jutta of Huy)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:22 01/11/2014
THỐNG NHẤT
Giáo dân phản ảnh với cha sở rằng: trong giáo xứ ngoài cha sở ra thì có nhiều cha phụ tá, nhưng khi dâng thánh lễ thì mỗi cha làm mỗi kiểu khác nhau, nào là có cha khi đến phiên mình làm lễ thì cho rước lễ hai hình, có cha thì thích nói nhiều trong thánh lễ (làm dấu Thánh Giá xong thì nói vài phút, giảng Phúc Âm thì dài, trước khi ban phép lành thì giảng khoảng mười phút nữa.v.v...), có cha thì đọc kinh với giáo dân, có cha thì mau mắn ngồi tòa, có cha thì tránh né khi có giáo dân xin xưng tội.v.v...
Trong bữa ăn, cha sở nhắc nhở các cha phụ tá:
- “Giáo xứ chúng ta là giáo xứ lớn và có nhiều thánh lễ, xin các cha chúng ta cùng thống nhất với nhau trong việc phụng vụ và mục vụ, đừng làm theo ý mình, cứ theo quy luật phụng vụ mà làm để giáo dân khỏi thắc mắc cha này làm lễ thì như thế này mà cha kia làm lễ thì khác với cha nọ, rồi chê cha này khen cha nọ, thực không tốt chút nào...”
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Giáo dân phản ảnh với cha sở rằng: trong giáo xứ ngoài cha sở ra thì có nhiều cha phụ tá, nhưng khi dâng thánh lễ thì mỗi cha làm mỗi kiểu khác nhau, nào là có cha khi đến phiên mình làm lễ thì cho rước lễ hai hình, có cha thì thích nói nhiều trong thánh lễ (làm dấu Thánh Giá xong thì nói vài phút, giảng Phúc Âm thì dài, trước khi ban phép lành thì giảng khoảng mười phút nữa.v.v...), có cha thì đọc kinh với giáo dân, có cha thì mau mắn ngồi tòa, có cha thì tránh né khi có giáo dân xin xưng tội.v.v...
Trong bữa ăn, cha sở nhắc nhở các cha phụ tá:
- “Giáo xứ chúng ta là giáo xứ lớn và có nhiều thánh lễ, xin các cha chúng ta cùng thống nhất với nhau trong việc phụng vụ và mục vụ, đừng làm theo ý mình, cứ theo quy luật phụng vụ mà làm để giáo dân khỏi thắc mắc cha này làm lễ thì như thế này mà cha kia làm lễ thì khác với cha nọ, rồi chê cha này khen cha nọ, thực không tốt chút nào...”
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hệ thống ánh sáng mới trong nhà nguyện Sistina làm tăng thêm vẻ đẹp chưa từng có
Lã Thụ Nhân
02:00 01/11/2014
Nhà nguyện Sistina... giờ đây trông khác hẳn trước đây. 450 năm sau cái chết của danh họa Michelangelo, Viện Bảo tàng Vatican đã lắp đạt hệ thống ánh sáng mới cho kiệt tác mang tính biểu tượng nhất của ông.
Marco Frascarolo, người thiết kế ánh sáng cho nhà nguyện Sistina cho biết: "Đó là ánh sáng xung quanh, theo nghĩa nó lan tỏa một cách nhẹ nhàng xung quanh toàn bộ nhà nguyện Sistina. Nó không chỉ chiếu sáng trên bề mặt của những bức bích họa quan trọng nhất, như bức Ngày Chung Thẩm, mà còn lan tỏa trên toàn bộ khu vực. Giờ đây cảm nhận thị giác trước bức danh họa này rất trung thực".
7,000 chiếc đèn LED làm cho mọi sắc màu nổi bật lên trong nhà nguyện. Trên hết, chúng không làm hỏng các bức tranh cũng như không gây nguy hại cho việc bảo tồn các bức tranh này.
Ngoài ra, hệ thống điều hòa không khí mới sẽ điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm.
Cha Rafael García de la Serrana, phụ trách Dịch vụ kỹ thuật của Vatican cho biết: "Thật không may, mức độ ô nhiễm ở Rôma cao. Vì thế, cần phải xử lý không khí, lọc không khí, làm sạch nó, trước khi cho không khí đi vào nhà nguyện Sistina".
Sau ba năm làm việc, nhà nguyện Sistina ra mắt một hệ thống ánh sáng và không khí "có thể được điều chỉnh" hơn.
Kể từ bây giờ, 2,000 du khách chiêm ngưỡng nhà nguyện mỗi giờ sẽ nhìn thấy kiệt tác của Michelangelo như vẻ vốn có của nó.
Việc phục chế nhà nguyện Sistina bắt đầu vào năm 1980 và kết thúc vào năm 1994. Sau khi thực hiện công việc to lớn này, không ai nghĩ rằng kiệt tác của Michelangelo có thể được nhìn thấy rõ ràng hơn bao giờ hết.
Với hệ thống chiếu sáng mới được lắp đặt trong nhà nguyện, du khách có thể chiêm nguỡng các bức tranh trong một ánh sáng hoàn toàn mới. Trước khi lắp đặt, một số chi tiết của bức tranh Chúa dựng nên ông Adong rất khó thấy rõ. Bây giờ chúng có thể được nhìn thấy một cách rõ ràng với màu sắc sống động.
Trước đây, màu xanh của bức Ngày Chung Thẩm chỉ đơn thuần là một phông nền. Giờ đây, sắc thái như thiên đàng làm mạnh thêm quang cảnh được miêu tả sinh động.
Ánh sáng tỏa ra từ bức Chúa Kitô là một ví dụ khác. Nhờ vào 7,000 chiếc đèn LED, tất cả các chi tiết và hình ảnh từ tác phẩm nghệ thuật này tăng thêm sức sống và sự diễn đạt.
Danh họa Michelangelo vẽ nhà nguyện Sistine vào ngày 31/10/1541. Những người đã viếng thăm nhà nguyện hơn 500 năm này có thể nói rằng kiệt tác của ông trông như mới được vẽ xong ngày hôm qua.
Marco Frascarolo, người thiết kế ánh sáng cho nhà nguyện Sistina cho biết: "Đó là ánh sáng xung quanh, theo nghĩa nó lan tỏa một cách nhẹ nhàng xung quanh toàn bộ nhà nguyện Sistina. Nó không chỉ chiếu sáng trên bề mặt của những bức bích họa quan trọng nhất, như bức Ngày Chung Thẩm, mà còn lan tỏa trên toàn bộ khu vực. Giờ đây cảm nhận thị giác trước bức danh họa này rất trung thực".
7,000 chiếc đèn LED làm cho mọi sắc màu nổi bật lên trong nhà nguyện. Trên hết, chúng không làm hỏng các bức tranh cũng như không gây nguy hại cho việc bảo tồn các bức tranh này.
Ngoài ra, hệ thống điều hòa không khí mới sẽ điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm.
Cha Rafael García de la Serrana, phụ trách Dịch vụ kỹ thuật của Vatican cho biết: "Thật không may, mức độ ô nhiễm ở Rôma cao. Vì thế, cần phải xử lý không khí, lọc không khí, làm sạch nó, trước khi cho không khí đi vào nhà nguyện Sistina".
Sau ba năm làm việc, nhà nguyện Sistina ra mắt một hệ thống ánh sáng và không khí "có thể được điều chỉnh" hơn.
Kể từ bây giờ, 2,000 du khách chiêm ngưỡng nhà nguyện mỗi giờ sẽ nhìn thấy kiệt tác của Michelangelo như vẻ vốn có của nó.
Việc phục chế nhà nguyện Sistina bắt đầu vào năm 1980 và kết thúc vào năm 1994. Sau khi thực hiện công việc to lớn này, không ai nghĩ rằng kiệt tác của Michelangelo có thể được nhìn thấy rõ ràng hơn bao giờ hết.
Với hệ thống chiếu sáng mới được lắp đặt trong nhà nguyện, du khách có thể chiêm nguỡng các bức tranh trong một ánh sáng hoàn toàn mới. Trước khi lắp đặt, một số chi tiết của bức tranh Chúa dựng nên ông Adong rất khó thấy rõ. Bây giờ chúng có thể được nhìn thấy một cách rõ ràng với màu sắc sống động.
Trước đây, màu xanh của bức Ngày Chung Thẩm chỉ đơn thuần là một phông nền. Giờ đây, sắc thái như thiên đàng làm mạnh thêm quang cảnh được miêu tả sinh động.
Ánh sáng tỏa ra từ bức Chúa Kitô là một ví dụ khác. Nhờ vào 7,000 chiếc đèn LED, tất cả các chi tiết và hình ảnh từ tác phẩm nghệ thuật này tăng thêm sức sống và sự diễn đạt.
Danh họa Michelangelo vẽ nhà nguyện Sistine vào ngày 31/10/1541. Những người đã viếng thăm nhà nguyện hơn 500 năm này có thể nói rằng kiệt tác của ông trông như mới được vẽ xong ngày hôm qua.
Đức Giáo Hoàng tiếp kiến Chủ tịch Nghị viện châu Âu, trước chuyến thăm của ngài đến Strasbourg
Lã Thụ Nhân
02:02 01/11/2014
Chủ tịch Nghị viện Âu Châu Martin Schulz đã có cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong một cuộc tiếp kiến riêng, chỉ vài tuần trước chuyến thăm sắp tới của ngài đến Strasbourg.
Theo dự kiến, Đức Giáo Hoàng sẽ phát biểu trước các thành viên của Nghị viện Âu Châu vào ngày 25 tháng 11 tới đây. Trong cuộc hội kiến tại Vatican này, hai vị đã hoàn tất các chi tiết cuối cùng.
Tình trạng di dân ồ ạt ở Địa Trung Hải và tỷ lệ thất nghiệp cao trong giới trẻ là một trong những vấn đề Đức Giáo Hoàng sẽ phát biểu.
Chủ tịch Schulz đã giới thiệu các thành viên trong phái đoàn của ông với Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đức Giáo Hoàng đã tặng mỗi người một chuỗi tràng hạt làm quà tặng
Đức Gioan Phaolô là vị Giáo Hoàng cuối cùng nói chuyện trước Nghị viện Âu Châu vào năm 1988. Cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ trùng với kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ.
Theo dự kiến, Đức Giáo Hoàng sẽ phát biểu trước các thành viên của Nghị viện Âu Châu vào ngày 25 tháng 11 tới đây. Trong cuộc hội kiến tại Vatican này, hai vị đã hoàn tất các chi tiết cuối cùng.
Tình trạng di dân ồ ạt ở Địa Trung Hải và tỷ lệ thất nghiệp cao trong giới trẻ là một trong những vấn đề Đức Giáo Hoàng sẽ phát biểu.
Chủ tịch Schulz đã giới thiệu các thành viên trong phái đoàn của ông với Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đức Giáo Hoàng đã tặng mỗi người một chuỗi tràng hạt làm quà tặng
Đức Gioan Phaolô là vị Giáo Hoàng cuối cùng nói chuyện trước Nghị viện Âu Châu vào năm 1988. Cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ trùng với kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ.
Hội nghị của các phong trào bình dân kết thúc với tuyên bố ''Hệ thống kinh tế hiện nay đặt lợi nhuận lên trên con người''
Lã Thụ Nhân
02:13 01/11/2014
Hội nghị quốc tế đầu tiên của các phong trào bình dân do Đức Thánh Cha cổ võ đã kết thúc. 150 vị lãnh đạo đại diện cho các nhóm bị loại trừ trong xã hội từ khắp nơi trên thế giới đã đưa ra tài liệu đúc kết sau ba ngày đối thoại và tranh luận.
Họ lên án "các nền dân chủ bị lũng đoạn" như là các hệ thống "đặt lợi nhuận lên trên con người". Họ cũng nói rằng "những người bị loại trừ, bị áp bức, và nghèo đói" cần phải có một vai trò lớn hơn trong chính trị.
Lấy tông huấn Niềm vui Phúc Âm (Evangelii Gaudium) của Đức Thánh Cha Phanxicô làm nền tảng, các đại diện của các nhóm nghèo nhất thế giới đã cùng nhau làm việc để chống lại nền văn hóa vứt bỏ.
Họ cũng nói về sự xuống cấp của môi trường do khai thác thiên nhiên vô trách nhiệm vì đồng tiền.
João Pedro Stedile, thuộc Phong trào Lao động nông thôn không có đất đai (Brazil) cho hay: "Một phần trăm các chủ đất là các chủ nhân ông của một nửa đất nước. Và phần còn lại, có 4 triệu gia đình không có đất đai, không thể làm việc vì không còn đất đai nào dành cho họ trong một đất nước rộng lớn như thế".
Trong suốt hội nghị, họ cũng phải thảo luận về những vấn đề như hoàn cảnh của các lao động bị trả lương bất công hoặc những người không có hợp đồng, những người vô gia cư và những người bị buộc phải rời bỏ quê hương mình.
José Antonio Vives, thuộc phong trào Plataforma Afectados por la Hipoteca (Tây Ban Nha) cho biết: "Có những trường hợp rất bi thảm, thậm chí đẩy đưa con người gần tới bờ vực tự sát".
Sergio Sanchez, thuộc Liên đoàn tái chế Á Căn Đình thì nói: "Đối với những người làm công việc tái chế như chúng tôi, điều duy nhất tất cả các nước phải làm là chính thức công nhận chúng tôi như những người lao động".
Các tham dự viên bày tỏ cam kết của họ trong việc tạo ra một khu vực thường xuyên đối thoại với Giáo Hội và hứa loan truyền hai sứ điệp: "Lá thư từ người bị loại trừ đến người bị loại trừ" và diễn từ mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày trong hội nghị
Họ lên án "các nền dân chủ bị lũng đoạn" như là các hệ thống "đặt lợi nhuận lên trên con người". Họ cũng nói rằng "những người bị loại trừ, bị áp bức, và nghèo đói" cần phải có một vai trò lớn hơn trong chính trị.
Lấy tông huấn Niềm vui Phúc Âm (Evangelii Gaudium) của Đức Thánh Cha Phanxicô làm nền tảng, các đại diện của các nhóm nghèo nhất thế giới đã cùng nhau làm việc để chống lại nền văn hóa vứt bỏ.
Họ cũng nói về sự xuống cấp của môi trường do khai thác thiên nhiên vô trách nhiệm vì đồng tiền.
João Pedro Stedile, thuộc Phong trào Lao động nông thôn không có đất đai (Brazil) cho hay: "Một phần trăm các chủ đất là các chủ nhân ông của một nửa đất nước. Và phần còn lại, có 4 triệu gia đình không có đất đai, không thể làm việc vì không còn đất đai nào dành cho họ trong một đất nước rộng lớn như thế".
Trong suốt hội nghị, họ cũng phải thảo luận về những vấn đề như hoàn cảnh của các lao động bị trả lương bất công hoặc những người không có hợp đồng, những người vô gia cư và những người bị buộc phải rời bỏ quê hương mình.
José Antonio Vives, thuộc phong trào Plataforma Afectados por la Hipoteca (Tây Ban Nha) cho biết: "Có những trường hợp rất bi thảm, thậm chí đẩy đưa con người gần tới bờ vực tự sát".
Sergio Sanchez, thuộc Liên đoàn tái chế Á Căn Đình thì nói: "Đối với những người làm công việc tái chế như chúng tôi, điều duy nhất tất cả các nước phải làm là chính thức công nhận chúng tôi như những người lao động".
Các tham dự viên bày tỏ cam kết của họ trong việc tạo ra một khu vực thường xuyên đối thoại với Giáo Hội và hứa loan truyền hai sứ điệp: "Lá thư từ người bị loại trừ đến người bị loại trừ" và diễn từ mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày trong hội nghị
Joe Zambon bất chấp khó khăn theo đuổi sự nghiệp ca hát của mình
Lã Thụ Nhân
02:15 01/11/2014
Ba năm trước, Joe Zambon được chẩn đoán bị mắc một dị tật bẩm sinh hiếm gặp trên bàn tay ông. Nhưng sau một số phẫu thuật, ca sĩ Joe Zambon hoàn thành giấc mơ suốt đời ông là học chơi piano.
Sinh ra trong một trang trại ở Ontario, Canada, niềm đam mê của Joe Zambon đối với âm nhạc lớn dần trong suốt những năm đại học. Ông cũng sử dụng âm nhạc để chia sẻ tình yêu của mình dành cho Thiên Chúa qua lời của những bài hát sâu sắc của ông.
Cho đến nay, ông đã cho ra đời bốn album. Album đầu tiên của ông, "Coming Home" được phát hành vào năm 2005. Album thứ tư của ông, "Brothers" vừa được phát hành trong năm nay.
Ông chia sẻ một phần đời sống của mình với bài hát "Tôi chỉ muốn bình an (I Just Want Peace)", một bài riêng lẻ từ album mới nhất của ông.
Phong cách âm nhạc dân gian của Joe Zambon và danh tiếng ngày càng gia tăng đã đưa ông đến các show diễn trên khắp thế giới, chẳng hạn như Canada, Ấn Độ, Australia và Hoa Kỳ.
Sinh ra trong một trang trại ở Ontario, Canada, niềm đam mê của Joe Zambon đối với âm nhạc lớn dần trong suốt những năm đại học. Ông cũng sử dụng âm nhạc để chia sẻ tình yêu của mình dành cho Thiên Chúa qua lời của những bài hát sâu sắc của ông.
Cho đến nay, ông đã cho ra đời bốn album. Album đầu tiên của ông, "Coming Home" được phát hành vào năm 2005. Album thứ tư của ông, "Brothers" vừa được phát hành trong năm nay.
Ông chia sẻ một phần đời sống của mình với bài hát "Tôi chỉ muốn bình an (I Just Want Peace)", một bài riêng lẻ từ album mới nhất của ông.
Phong cách âm nhạc dân gian của Joe Zambon và danh tiếng ngày càng gia tăng đã đưa ông đến các show diễn trên khắp thế giới, chẳng hạn như Canada, Ấn Độ, Australia và Hoa Kỳ.
Đức Giáo Hoàng tiếp kiến Tân Đại sứ Bỉ... và rất nhiều trẻ em
Lã Thụ Nhân
03:16 01/11/2014
Tân Đại sứ Bỉ cạnh Tòa Thánh đã trình quốc thư của ông lên Đức Giáo Hoàng cùng với lời chào:
"Xin dâng lên Đức Thánh Cha những tình cảm trìu mến của bệ hạ chúng tôi, vua Philip và hoàng hậu Matilde".
Tháp tùng cùng ông Bruno Nève de Mévergnies là các thành viên của phái đoàn đại sứ và gia đình ông. Bốn cô con gái của ông, mỗi người tặng cho Đức Giáo Hoàng một hoa hồng trắng. Mặc dù đứa bé nhỏ nhất quá nhỏ phải được dỗ dành một chút. Đức Thánh Cha hỏi bé: "Con sẽ tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng chứ?"
Những đứa trẻ tỏ ra rất ngoan trong suốt cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha và thích nghi với các nghi thức chính thức như khi sắp xếp để chụp ảnh. Chúng là những ngôi sao của cuộc tiếp kiến.
"Xin dâng lên Đức Thánh Cha những tình cảm trìu mến của bệ hạ chúng tôi, vua Philip và hoàng hậu Matilde".
Tháp tùng cùng ông Bruno Nève de Mévergnies là các thành viên của phái đoàn đại sứ và gia đình ông. Bốn cô con gái của ông, mỗi người tặng cho Đức Giáo Hoàng một hoa hồng trắng. Mặc dù đứa bé nhỏ nhất quá nhỏ phải được dỗ dành một chút. Đức Thánh Cha hỏi bé: "Con sẽ tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng chứ?"
Những đứa trẻ tỏ ra rất ngoan trong suốt cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha và thích nghi với các nghi thức chính thức như khi sắp xếp để chụp ảnh. Chúng là những ngôi sao của cuộc tiếp kiến.
Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ Các Thánh Nam Nữ tại nghĩa trang Verano của Rôma
Đặng Tự Do
14:58 01/11/2014
Cũng như năm ngoái, buổi chiều ngày 1 tháng 11, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành lễ Các Thánh Nam Nữ tại nghĩa trang Verano của Rôma
Trong bài giảng ứng khẩu Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày những suy tư rút ra từ bài đọc thứ nhất trích từ sách Khải Huyền. Đức Thánh Cha đã tập trung vào ba hình ảnh. Đầu tiên là hình ảnh bốn vị thiên sứ cảnh báo chống lại sự tàn phá của Trái Đất. Ngài nói rằng có một ngạn ngữ nằm trong trái tim của tất cả chúng ta: "chúng tôi có thể hủy diệt thế giới tàn khốc hơn". Thực vậy, con người có khả năng tàn phá thế giới này hơn các thiên sứ: "tàn phá cuộc sống, văn hóa, các giá trị, và niềm hy vọng".
"Chúng ta cần đến sức mạnh của Chúa biết bao để chúng ta có thể liên kết với tình yêu của Ngài mà ngăn chặn sự phá hủy kỳ công sáng tạo điên rồ này".
Đức Thánh Cha sau đó đề cập đám đông không đếm nổi những con người đề cập đến trong bài đọc. Ngài so sánh các vị với những người bị lãng quên và vứt bỏ trong cuộc sống này. "Có vẻ như những người dân, các trẻ em đói khát và bệnh tật không được tính đến. Họ dường như là những sinh vật khác, không phải loài người. Đám đông cơ man những con người này đứng trước mặt Thiên Chúa ".
Ngài khích lệ chúng ta nghĩ đến các vị thánh chúng ta không biết đến, là "những người đến từ cơn đại nạn ở nhiều nơi trên thế giới, những người đã được Chúa thánh hóa thông qua những hoạn nạn".
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc đến hình ảnh thứ ba là Thiên Chúa: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Nhưng chúng ta hy vọng chúng ta sẽ nên giống như Người. Chúng ta hy vọng Chúa sẽ thương xót dân Người”.
Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu rằng "để hành trình về với Chúa Cha, trong thế giới đầy những tàn phá của chiến tranh, của hoạn nạn, chúng ta phải hành động theo các mối phúc thật. Đó là con đường sẽ cứu chúng ta. Tuy con đường này sẽ dẫn chúng ta đến với những khó khăn và bách hại, nhưng chỉ có con đường này sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.”
"Những người đi tiếp trên con đường của các mối phúc thật sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và nên thánh".
Nghĩa trang rộng lớn Verano được hình thành từ gia đình Verani là một gia đình thế giá trong thời Đế quốc La Mã. Nơi đây đã là một nghĩa trang kể từ thời kỳ này. Kiến trúc sư Ý Giuseppe Valadier đã tạo nên những nét hùng vĩ và đầy ấn tượng của nghĩa trang này.
Nghĩa trang Verano đã được thánh hiến vào năm 1835 và các công trình vẫn được tiếp tục xây dựng nơi đó trong suốt triều đại giáo hoàng Gregôriô thứ 16 và Piô 9 dưới sự giám sát của Virginius, và Ernestus Immanuel là người đã thiết kế một mái che bốn mặt lớn tại lối vào.
Tuy nhiên mái che này đã bị lực lượng Đồng Minh thả bom nhầm vào năm 1943 và công việc phục hồi sau đó đã được thực hiện như ta có thể thấy ngày hôm nay khi vào nghĩa trang này với ba lối vào lớn và bốn bức tượng đá cẩm thạch hùng vĩ mô tả việc chiêm niệm, hy vọng, lòng bác ái và sự im lặng.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc tới vụ đánh bom nghĩa trang Verano và vùng lân cận San Lorenzo của Rôma trong bài giảng của ngài khi lên án sự tàn phá các kỳ công sáng tạo, sự sống và các nền văn hóa đang diễn ra trong thế giới ngày nay và cầu xin Chúa giúp đỡ ngăn chặn cơn sốt điên dại hướng tới sự hủy diệt này.
Điều thú vị là nghĩa trang cũng có một đài tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Trong bài giảng ứng khẩu Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày những suy tư rút ra từ bài đọc thứ nhất trích từ sách Khải Huyền. Đức Thánh Cha đã tập trung vào ba hình ảnh. Đầu tiên là hình ảnh bốn vị thiên sứ cảnh báo chống lại sự tàn phá của Trái Đất. Ngài nói rằng có một ngạn ngữ nằm trong trái tim của tất cả chúng ta: "chúng tôi có thể hủy diệt thế giới tàn khốc hơn". Thực vậy, con người có khả năng tàn phá thế giới này hơn các thiên sứ: "tàn phá cuộc sống, văn hóa, các giá trị, và niềm hy vọng".
"Chúng ta cần đến sức mạnh của Chúa biết bao để chúng ta có thể liên kết với tình yêu của Ngài mà ngăn chặn sự phá hủy kỳ công sáng tạo điên rồ này".
Đức Thánh Cha sau đó đề cập đám đông không đếm nổi những con người đề cập đến trong bài đọc. Ngài so sánh các vị với những người bị lãng quên và vứt bỏ trong cuộc sống này. "Có vẻ như những người dân, các trẻ em đói khát và bệnh tật không được tính đến. Họ dường như là những sinh vật khác, không phải loài người. Đám đông cơ man những con người này đứng trước mặt Thiên Chúa ".
Ngài khích lệ chúng ta nghĩ đến các vị thánh chúng ta không biết đến, là "những người đến từ cơn đại nạn ở nhiều nơi trên thế giới, những người đã được Chúa thánh hóa thông qua những hoạn nạn".
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc đến hình ảnh thứ ba là Thiên Chúa: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Nhưng chúng ta hy vọng chúng ta sẽ nên giống như Người. Chúng ta hy vọng Chúa sẽ thương xót dân Người”.
Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu rằng "để hành trình về với Chúa Cha, trong thế giới đầy những tàn phá của chiến tranh, của hoạn nạn, chúng ta phải hành động theo các mối phúc thật. Đó là con đường sẽ cứu chúng ta. Tuy con đường này sẽ dẫn chúng ta đến với những khó khăn và bách hại, nhưng chỉ có con đường này sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.”
"Những người đi tiếp trên con đường của các mối phúc thật sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và nên thánh".
Nghĩa trang rộng lớn Verano được hình thành từ gia đình Verani là một gia đình thế giá trong thời Đế quốc La Mã. Nơi đây đã là một nghĩa trang kể từ thời kỳ này. Kiến trúc sư Ý Giuseppe Valadier đã tạo nên những nét hùng vĩ và đầy ấn tượng của nghĩa trang này.
Nghĩa trang Verano đã được thánh hiến vào năm 1835 và các công trình vẫn được tiếp tục xây dựng nơi đó trong suốt triều đại giáo hoàng Gregôriô thứ 16 và Piô 9 dưới sự giám sát của Virginius, và Ernestus Immanuel là người đã thiết kế một mái che bốn mặt lớn tại lối vào.
Tuy nhiên mái che này đã bị lực lượng Đồng Minh thả bom nhầm vào năm 1943 và công việc phục hồi sau đó đã được thực hiện như ta có thể thấy ngày hôm nay khi vào nghĩa trang này với ba lối vào lớn và bốn bức tượng đá cẩm thạch hùng vĩ mô tả việc chiêm niệm, hy vọng, lòng bác ái và sự im lặng.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc tới vụ đánh bom nghĩa trang Verano và vùng lân cận San Lorenzo của Rôma trong bài giảng của ngài khi lên án sự tàn phá các kỳ công sáng tạo, sự sống và các nền văn hóa đang diễn ra trong thế giới ngày nay và cầu xin Chúa giúp đỡ ngăn chặn cơn sốt điên dại hướng tới sự hủy diệt này.
Điều thú vị là nghĩa trang cũng có một đài tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Ba lối vào lớn và bốn bức tượng đá cẩm thạch hùng vĩ |
Số người Công Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhưng số linh mục giảm
Đặng Tự Do
00:09 01/11/2014
Trong tám năm qua từ sau chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đến Thổ Nhĩ Kỳ, dân số Công Giáo của quốc gia đã tăng vọt đến 66% , chủ yếu là từ những người tị nạn chạy trốn cuộc chiến đang tàn phá Syria và Iraq.
Bảy giáo xứ đã được mở thêm, dù cho số lượng các linh mục và tu sĩ đã giảm mạnh.
Năm 2006, có 32,000 người Công Giáo trong tổng số 72,070,000 người Thổ Nhĩ Kỳ. Giáo Hội tại đây có 68 linh mục và 86 nam nữ tu sĩ phục vụ trong 47 giáo xứ.
Hôm 29 tháng 10, phòng báo chí Tòa Thánh cho biết hiện nay Giáo Hội Công Giáo tại đây có 53,000 tín hữu trong tổng số 76,140,000 người Thổ Nhĩ Kỳ theo thống kê đưa ra vào tháng 12 năm 2013. Giáo Hội Thổ Nhĩ Kỳ có 58 linh mục và 54 nam nữ tu sĩ phục vụ trong 54 giáo xứ.
Theo dự trù, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thăm Thổ Nhĩ Kỳ trong 3 ngày cuối tháng 11. Ngài sẽ khởi hành từ sân bay Fiumicino ở Rôma vào Thứ Sáu 28 Tháng 11 lúc 9:00 sáng. Ngài sẽ đến Ankara lúc 1:00 trưa và sẽ đến thăm ngôi mộ của Kemal Atatürk, cha đẻ nước Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại.
Lễ đón tiếp sẽ diễn ra tại Phủ tổng thống, nơi Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ với Tổng thống Recep Tayyip Erdogan và Thủ tướng Ahmet Davutoglu. Ngài cũng sẽ gặp gỡ với vị bộ trưởng Tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào ngày thứ Bảy, ngài sẽ đến Istanbul và đó là phần quan trọng nhất trong chuyến đi. Đức Thánh Cha sẽ đến thăm nhà thờ Hagia Sophia, nơi đã từng là một đền thờ của Chính Thống Giáo, sau đó là Vương Cung Thánh Đường Công Giáo, rồi bị Hồi Giáo chiếm làm đền thờ và bây giờ là một viện bảo tàng. Đức Thánh Cha cũng sẽ viếng thăm đền thờ Xanh của Hồi giáo. Sau đó, ngài sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Nhà thờ Chúa Thánh Thần của Công Giáo và tham dự một buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Bartholomew Đệ Nhất.
Vào ngày Chúa Nhật, ngài sẽ tham dự buổi Phụng Vụ tại Tòa Thượng phụ Đại kết nhân lễ Thánh Anrê Tông Đồ.
Cùng ngày hôm đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ khởi hành từ Istanbul vào lúc 5 giờ chiều và về đến Rôma khoảng 7 giờ tối.
Bảy giáo xứ đã được mở thêm, dù cho số lượng các linh mục và tu sĩ đã giảm mạnh.
Năm 2006, có 32,000 người Công Giáo trong tổng số 72,070,000 người Thổ Nhĩ Kỳ. Giáo Hội tại đây có 68 linh mục và 86 nam nữ tu sĩ phục vụ trong 47 giáo xứ.
Hôm 29 tháng 10, phòng báo chí Tòa Thánh cho biết hiện nay Giáo Hội Công Giáo tại đây có 53,000 tín hữu trong tổng số 76,140,000 người Thổ Nhĩ Kỳ theo thống kê đưa ra vào tháng 12 năm 2013. Giáo Hội Thổ Nhĩ Kỳ có 58 linh mục và 54 nam nữ tu sĩ phục vụ trong 54 giáo xứ.
Theo dự trù, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thăm Thổ Nhĩ Kỳ trong 3 ngày cuối tháng 11. Ngài sẽ khởi hành từ sân bay Fiumicino ở Rôma vào Thứ Sáu 28 Tháng 11 lúc 9:00 sáng. Ngài sẽ đến Ankara lúc 1:00 trưa và sẽ đến thăm ngôi mộ của Kemal Atatürk, cha đẻ nước Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại.
Lễ đón tiếp sẽ diễn ra tại Phủ tổng thống, nơi Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ với Tổng thống Recep Tayyip Erdogan và Thủ tướng Ahmet Davutoglu. Ngài cũng sẽ gặp gỡ với vị bộ trưởng Tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào ngày thứ Bảy, ngài sẽ đến Istanbul và đó là phần quan trọng nhất trong chuyến đi. Đức Thánh Cha sẽ đến thăm nhà thờ Hagia Sophia, nơi đã từng là một đền thờ của Chính Thống Giáo, sau đó là Vương Cung Thánh Đường Công Giáo, rồi bị Hồi Giáo chiếm làm đền thờ và bây giờ là một viện bảo tàng. Đức Thánh Cha cũng sẽ viếng thăm đền thờ Xanh của Hồi giáo. Sau đó, ngài sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Nhà thờ Chúa Thánh Thần của Công Giáo và tham dự một buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Bartholomew Đệ Nhất.
Vào ngày Chúa Nhật, ngài sẽ tham dự buổi Phụng Vụ tại Tòa Thượng phụ Đại kết nhân lễ Thánh Anrê Tông Đồ.
Cùng ngày hôm đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ khởi hành từ Istanbul vào lúc 5 giờ chiều và về đến Rôma khoảng 7 giờ tối.
Từ Đức đến Rôma để củng cố các gia đình
Lã Thụ Nhân
01:44 01/11/2014
Tuy tên tuổi chưa được nhiều người biết đến nhưng tổ chức Kolping quốc tế của Đức nổi tiếng với việc giúp đỡ các gia đình từ khắp nơi trên thế giới. Mới đây, một nhóm 25 thành viên đã đến Rôma trong trang phục áo sơ mi màu cam tươi của họ, để tham gia vào buổi triều yết chung của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Quảng trường Thánh Phêrô.
"Chúng tôi đến từ Hiệp hội Gia đình Kolping của Đức. Đó là một tổ chức Công Giáo với nửa triệu thành viên từ khắp nơi trên thế giới và tất cả chúng tôi đến từ một thị trấn và vì thế chúng tôi là một nhóm đến đây để viếng thăm Rôma". "Ý tưởng đầu tiên của chúng tôi, khi chúng tôi đến Rôma, chúng tôi quyết định đến với buổi Triều yết chung".
Họ nói rằng qua chuyến viếng thăm Vatican, họ hy vọng rằng sẽ có thể giúp đỡ và truyền cảm hứng cho hàng ngàn gia đình ở quê hương Đức của họ.
"Chúng tôi đến từ Hiệp hội Gia đình Kolping của Đức. Đó là một tổ chức Công Giáo với nửa triệu thành viên từ khắp nơi trên thế giới và tất cả chúng tôi đến từ một thị trấn và vì thế chúng tôi là một nhóm đến đây để viếng thăm Rôma". "Ý tưởng đầu tiên của chúng tôi, khi chúng tôi đến Rôma, chúng tôi quyết định đến với buổi Triều yết chung".
Họ nói rằng qua chuyến viếng thăm Vatican, họ hy vọng rằng sẽ có thể giúp đỡ và truyền cảm hứng cho hàng ngàn gia đình ở quê hương Đức của họ.
Chiến dịch làm giảm tỷ lệ tử vong của các bà mẹ
Lã Thụ Nhân
01:51 01/11/2014
Có rất nhiều khó khăn đang tác động lên Nam Sudan, một quốc gia trẻ nhất thế giới. Một trong những khó khăn đó là tỷ lệ tử vong quá cao của các bà mẹ.
Cách xa bệnh viện, sự sụp đổ của hệ thống y tế bấp bênh và nội chiến là một số lý do chính cho tình trạng này. Nhiều bà mẹ buộc phải sinh con trong trại tị nạn, với những tài nguyên y tế rất hạn hẹp.
Garang Kur Apiu, Nhân viên y tế và dinh dưỡng của UNICEF cho biết: "Tình hình chung ngay từ đầu là rất xấu, bạn đã thấy những bà mẹ sinh nở như thế mà không có sự trợ giúp, ở đây không có các dịch vụ y tế và rất nhiều điều đau lòng đã xảy ra".
Ở Nam Sudan, cứ 100,000 trẻ được sinh ra thì có đến 2,054 bà mẹ qua đời. Ngoài ra, cứ mỗi 100 trẻ em thì có 10 trẻ chết trước 5 tuổi.
Đất nước này chỉ là một ví dụ về tỷ lệ tử vong cao tác động đến khu vực Phi Châu hạ Sahara. Trong khi ở Âu Châu hoặc Bắc Mỹ cứ 4,700 phụ nữ thì có 1 người tử vong, thì ở Phi Châu, cứ 40 phụ nữ có 1 người tử vong.
Mỗi ngày trên thế giới có 800 trẻ sơ sinh bị mất mẹ sau khi ra đời. Ở Phi Châu có đến 400 phụ nữ tử vong mỗi ngày trong khi sinh nở.
Để chấm dứt những con số thống kê nghiêm trọng này, tổ chức phi chính phủ của các bác sĩ lưu động có tên gọi là Amref Flying Doctors đã đưa ra một chiến dịch "Đừng bao giờ tái diễn việc không có mẹ" với mục tiêu đào tạo y tá để có thể hỗ trợ trong việc sinh nở. Đây là tổ chức y tế quốc tế lớn nhất bắt đầu hoạt động và được điều hành ở Phi Châu.
Với sự chăm sóc y tế đầy đủ, các bà mẹ Phi Châu sẽ có thể sinh nở trong điều kiện an toàn hơn, và giống như các bà mẹ khác trên thế giới, sẽ có thể nhìn thấy con cái của họ trưởng thành.
Cách xa bệnh viện, sự sụp đổ của hệ thống y tế bấp bênh và nội chiến là một số lý do chính cho tình trạng này. Nhiều bà mẹ buộc phải sinh con trong trại tị nạn, với những tài nguyên y tế rất hạn hẹp.
Garang Kur Apiu, Nhân viên y tế và dinh dưỡng của UNICEF cho biết: "Tình hình chung ngay từ đầu là rất xấu, bạn đã thấy những bà mẹ sinh nở như thế mà không có sự trợ giúp, ở đây không có các dịch vụ y tế và rất nhiều điều đau lòng đã xảy ra".
Ở Nam Sudan, cứ 100,000 trẻ được sinh ra thì có đến 2,054 bà mẹ qua đời. Ngoài ra, cứ mỗi 100 trẻ em thì có 10 trẻ chết trước 5 tuổi.
Đất nước này chỉ là một ví dụ về tỷ lệ tử vong cao tác động đến khu vực Phi Châu hạ Sahara. Trong khi ở Âu Châu hoặc Bắc Mỹ cứ 4,700 phụ nữ thì có 1 người tử vong, thì ở Phi Châu, cứ 40 phụ nữ có 1 người tử vong.
Mỗi ngày trên thế giới có 800 trẻ sơ sinh bị mất mẹ sau khi ra đời. Ở Phi Châu có đến 400 phụ nữ tử vong mỗi ngày trong khi sinh nở.
Để chấm dứt những con số thống kê nghiêm trọng này, tổ chức phi chính phủ của các bác sĩ lưu động có tên gọi là Amref Flying Doctors đã đưa ra một chiến dịch "Đừng bao giờ tái diễn việc không có mẹ" với mục tiêu đào tạo y tá để có thể hỗ trợ trong việc sinh nở. Đây là tổ chức y tế quốc tế lớn nhất bắt đầu hoạt động và được điều hành ở Phi Châu.
Với sự chăm sóc y tế đầy đủ, các bà mẹ Phi Châu sẽ có thể sinh nở trong điều kiện an toàn hơn, và giống như các bà mẹ khác trên thế giới, sẽ có thể nhìn thấy con cái của họ trưởng thành.
Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum đến thăm Damascus
Đặng Tự Do
15:44 01/11/2014
Từ 28 đến 31 Tháng Mười, thư ký của Hội đồng Giáo hoàng "Cor Unum" là Đức Ông. Giampietro Dal Toso đã đến thăm Damascus để tham dự cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Syria. Đức Ông Toso cũng đã gặp gỡ với các tổ chức khác nhau, đặc biệt là các tổ chức Công Giáo, hiện đang tham gia vào các hoạt động cứu trợ nhân đạo tại đây.
Trong các cuộc họp này, các tổ chức Syria đã đánh giá cao sự dấn thân của Đức Thánh Cha và Tòa Thánh trong việc hỗ trợ các cộng đồng Kitô giáo và người dân Syria nói chung đang gánh chịu những hậu quả bi thảm của cuộc xung đột đã kéo dài hơn 3 năm qua, và trong việc khuyến khích đối thoại và hòa giải giữa các bên.
Các cuộc họp cũng nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các tổ chức cứu trợ Công Giáo. Thông qua sự đóng góp hào phóng của cộng đồng quốc tế, trước những nhu cầu ngày càng tăng, sự hỗ trợ này phải được tăng cường trong tương lai.
Cuộc chiến tại Syria đã bắt đầu từ tháng Ba năm 2011. Cho đến này đã có 192,000 người thiệt mạng, hơn 3 triệu người phải bỏ chạy ra nước ngoài và 6.4 triệu người phải lánh nạn bên trong Syria.
Trong các cuộc họp này, các tổ chức Syria đã đánh giá cao sự dấn thân của Đức Thánh Cha và Tòa Thánh trong việc hỗ trợ các cộng đồng Kitô giáo và người dân Syria nói chung đang gánh chịu những hậu quả bi thảm của cuộc xung đột đã kéo dài hơn 3 năm qua, và trong việc khuyến khích đối thoại và hòa giải giữa các bên.
Các cuộc họp cũng nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các tổ chức cứu trợ Công Giáo. Thông qua sự đóng góp hào phóng của cộng đồng quốc tế, trước những nhu cầu ngày càng tăng, sự hỗ trợ này phải được tăng cường trong tương lai.
Cuộc chiến tại Syria đã bắt đầu từ tháng Ba năm 2011. Cho đến này đã có 192,000 người thiệt mạng, hơn 3 triệu người phải bỏ chạy ra nước ngoài và 6.4 triệu người phải lánh nạn bên trong Syria.
Tòa Thánh chuẩn y hiến chế mới của Dòng Đạo Binh Chúa Kitô
Đặng Tự Do
16:27 01/11/2014
Tòa Thánh đã phê duyệt hiến chế mới của dòng Đạo Binh Chúa Kitô, được đưa ra trong Tổng Công Nghị kết thúc vào tháng Hai năm nay.
Sau khi nghiên cứu, Tòa Thánh đã yêu cầu một số điều chỉnh chẳng hạn như những đoạn quy chiếu đến để các văn bản của Công Đồng Vatican II. Tòa Thánh cũng yêu cầu việc thêm vào các khoản Giáo Luật sẽ được dùng trong việc giải thích các quy tắc.
Hiến chế mới cũng nêu rõ mối quan hệ giữa dòng Đạo Binh Chúa Kitô và phong trào Regnum Christi , tức “Vương quốc Chúa Kitô”.
Phong trào Đạo Binh Chúa Kitô đã được cha Marcial Maciel Degollado người Mễ Tây Cơ thành lập vào năm 1941 khi ngài mới 21 tuổi. Phong trào đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành một dòng tu. Cha Maciel có thời đã có được một ảnh hưởng rất mạnh mẽ tại Rôma. Tuy nhiên, tháng Năm năm 2006, một số báo chí tại Italia đã cáo buộc cuộc sống hai mặt của ngài.
Sau những cuộc điều tra, ngày 1 tháng 5 năm 2010, Tòa Thánh công bố cha Maciel đã phạm vào những hành vi “nghiêm trọng và vô luân” và bị buộc phải lui về ẩn dật để sám hối tại Hoa Kỳ và sau đó qua đời năm 2008 thọ 87 tuổi.
Tháng 7 năm 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã chỉ định Đức Hồng Y Velasio De Paolis, dòng Scalabrini, giám đốc sở tài chính Tòa Thánh, làm đặc sứ của ngài để giải quyết các vấn đề của Dòng Đạo Binh Chúa Kitô.
Ngoài chức giám đốc Sở tài chính Tòa Thánh Đức Hồng Y De Paolis cũng là thành viên Tòa Thượng Thẩm của Tòa Thánh, cố vấn của 3 cơ quan trung ương. Ngài cũng là chuyên viên giáo luật, đặc biệt trong lãnh vực đời tu
Đức Hồng Y De Paolis kết thúc công việc của mình vào tháng 2 năm 2014, sau cuộc bầu cử vị tổng quyền mới của dòng. Tháng Bảy năm nay, Tòa Thánh cử thêm cha Gianfranco Ghirlanda, chuyên viên giáo luật của Tòa Thánh giúp đỡ trong việc chuẩn bị hiến chế mới của dòng.
Theo thống kê vào cuối tháng 12 năm 2012, dòng hiện có 3 Giám Mục, 953 linh mục, 932 thầy, 954 chủng sinh hoạt động tại 22 quốc gia.
Sau khi nghiên cứu, Tòa Thánh đã yêu cầu một số điều chỉnh chẳng hạn như những đoạn quy chiếu đến để các văn bản của Công Đồng Vatican II. Tòa Thánh cũng yêu cầu việc thêm vào các khoản Giáo Luật sẽ được dùng trong việc giải thích các quy tắc.
Hiến chế mới cũng nêu rõ mối quan hệ giữa dòng Đạo Binh Chúa Kitô và phong trào Regnum Christi , tức “Vương quốc Chúa Kitô”.
Phong trào Đạo Binh Chúa Kitô đã được cha Marcial Maciel Degollado người Mễ Tây Cơ thành lập vào năm 1941 khi ngài mới 21 tuổi. Phong trào đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành một dòng tu. Cha Maciel có thời đã có được một ảnh hưởng rất mạnh mẽ tại Rôma. Tuy nhiên, tháng Năm năm 2006, một số báo chí tại Italia đã cáo buộc cuộc sống hai mặt của ngài.
Sau những cuộc điều tra, ngày 1 tháng 5 năm 2010, Tòa Thánh công bố cha Maciel đã phạm vào những hành vi “nghiêm trọng và vô luân” và bị buộc phải lui về ẩn dật để sám hối tại Hoa Kỳ và sau đó qua đời năm 2008 thọ 87 tuổi.
Tháng 7 năm 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã chỉ định Đức Hồng Y Velasio De Paolis, dòng Scalabrini, giám đốc sở tài chính Tòa Thánh, làm đặc sứ của ngài để giải quyết các vấn đề của Dòng Đạo Binh Chúa Kitô.
Ngoài chức giám đốc Sở tài chính Tòa Thánh Đức Hồng Y De Paolis cũng là thành viên Tòa Thượng Thẩm của Tòa Thánh, cố vấn của 3 cơ quan trung ương. Ngài cũng là chuyên viên giáo luật, đặc biệt trong lãnh vực đời tu
Đức Hồng Y De Paolis kết thúc công việc của mình vào tháng 2 năm 2014, sau cuộc bầu cử vị tổng quyền mới của dòng. Tháng Bảy năm nay, Tòa Thánh cử thêm cha Gianfranco Ghirlanda, chuyên viên giáo luật của Tòa Thánh giúp đỡ trong việc chuẩn bị hiến chế mới của dòng.
Theo thống kê vào cuối tháng 12 năm 2012, dòng hiện có 3 Giám Mục, 953 linh mục, 932 thầy, 954 chủng sinh hoạt động tại 22 quốc gia.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tại Melbourne.
Trần Văn Minh.
09:21 01/11/2014
Lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tại Melbourne.
Melbourne, vào lúc 2.30 chiều Thứ Bảy 1/11/2014. Tại Nhà thờ Our Lady, Maidstone. Thánh lễ đồng tế cầu nguyện cho Linh hồn Gioan Baotaxita Ngô Đình Diệm đã được cử hành trọng thể.
Xem Hình
Thánh lễ đồng tế do Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Melbourne chủ tế cùng Linh mục Phillip Lê Văn Sơn và Linh mục Vũ Hân tới từ Hoa Kỳ đồng tế. Đoàn đồng tế đã tiến lên, sau khi hôn bàn Thánh đã cùng với các thân hào nhân sĩ trong cộng đồng đến trước di ảnh của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm để dâng hương trước khi cử hành lễ giỗ.
Mặc dù ngày cuối tuần, với nhiều bận rộn, trời lại gío và thỉnh thoảng có những cơn mưa. Nhưng với lòng mến và nhớ ơn vị tổng thống của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Đồng bào đủ mọi thành phần từ nam phụ lão ấu đã về hiệp dâng Thánh lễ thật đông. Ca đoàn Nữ Vương thuộc Giáo xứ Our Lady đã phụng vụ thánh ca giúp cho buổi lễ thêm long trọng và sốt sắng hơn.
Trong bài chia sẻ Lời Chúa nhân lễ Các Thánh của Giáo hội Công giáo, qua lời Chúa dậy về 8 mối phúc thật. Vị Tổng Thống đã sống và cống hiến trọn đời mình cho quốc gia, dân tộc, cho sự hưng thịnh của đất nước. Nhưng tiếc rằng ước mơ đó của tổng thống đã không thành, đã đưa đất nước phải bước qua giai đoạn bi thương, viết lên những trang sử đen tối của dân tộc. Với chiều dài lịch sử, sự thật đã thắng những dối trá lừa lọc, và lịch sử cũng vinh danh những đóng góp công sức của vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho đất nước, cho dân tộc. “Phúc cho Ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ.” Xin nhớ tới công ơn và cầu cho Linh hồn Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm được về hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
Sau Thánh lễ, qua lời cám ơn và mời của Tiến Sĩ Lưu, đại diện Ủy ban tinh thần Ngô Đình Diệm, toàn thể cộng đoàn đã lên thắp hương trước di ảnh của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau đó mọi người được mời qua hội trường nhà thờ uống nước và nói chuyện trong tình thân ái.
Được biết sáng nay, cũng tại Đền thờ Quốc tổ của Cộng đồng Người Việt Tự Do Victoria, cũng có buổi tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thật long trọng với sự tham dự đông đủ của tất cả các ban ngành đoàn thể và đồng bào trong cộng đồng.
Melbourne 1/11/2014
Trần Văn Minh.
Melbourne, vào lúc 2.30 chiều Thứ Bảy 1/11/2014. Tại Nhà thờ Our Lady, Maidstone. Thánh lễ đồng tế cầu nguyện cho Linh hồn Gioan Baotaxita Ngô Đình Diệm đã được cử hành trọng thể.
Xem Hình
Thánh lễ đồng tế do Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Melbourne chủ tế cùng Linh mục Phillip Lê Văn Sơn và Linh mục Vũ Hân tới từ Hoa Kỳ đồng tế. Đoàn đồng tế đã tiến lên, sau khi hôn bàn Thánh đã cùng với các thân hào nhân sĩ trong cộng đồng đến trước di ảnh của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm để dâng hương trước khi cử hành lễ giỗ.
Mặc dù ngày cuối tuần, với nhiều bận rộn, trời lại gío và thỉnh thoảng có những cơn mưa. Nhưng với lòng mến và nhớ ơn vị tổng thống của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Đồng bào đủ mọi thành phần từ nam phụ lão ấu đã về hiệp dâng Thánh lễ thật đông. Ca đoàn Nữ Vương thuộc Giáo xứ Our Lady đã phụng vụ thánh ca giúp cho buổi lễ thêm long trọng và sốt sắng hơn.
Trong bài chia sẻ Lời Chúa nhân lễ Các Thánh của Giáo hội Công giáo, qua lời Chúa dậy về 8 mối phúc thật. Vị Tổng Thống đã sống và cống hiến trọn đời mình cho quốc gia, dân tộc, cho sự hưng thịnh của đất nước. Nhưng tiếc rằng ước mơ đó của tổng thống đã không thành, đã đưa đất nước phải bước qua giai đoạn bi thương, viết lên những trang sử đen tối của dân tộc. Với chiều dài lịch sử, sự thật đã thắng những dối trá lừa lọc, và lịch sử cũng vinh danh những đóng góp công sức của vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho đất nước, cho dân tộc. “Phúc cho Ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ.” Xin nhớ tới công ơn và cầu cho Linh hồn Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm được về hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
Sau Thánh lễ, qua lời cám ơn và mời của Tiến Sĩ Lưu, đại diện Ủy ban tinh thần Ngô Đình Diệm, toàn thể cộng đoàn đã lên thắp hương trước di ảnh của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau đó mọi người được mời qua hội trường nhà thờ uống nước và nói chuyện trong tình thân ái.
Được biết sáng nay, cũng tại Đền thờ Quốc tổ của Cộng đồng Người Việt Tự Do Victoria, cũng có buổi tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thật long trọng với sự tham dự đông đủ của tất cả các ban ngành đoàn thể và đồng bào trong cộng đồng.
Melbourne 1/11/2014
Trần Văn Minh.
Giáo xứ chính tòa Phú Cam Huế viếng mộ các tiền nhân
Trương Trí
09:52 01/11/2014
Năm nay, Lễ Cầu cho Các Đẳng Linh hồn được Kính trọng thể vào đúng ngày Chúa Nhật, nên sáng hôm nay 1/11, Lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo xứ Chính toà đã tổ chức viếng phần mộ các bậc tiền nhân.
Xem Hình
Sau Thánh lễ ban sáng, Cha Tổng Đại diện kiêm Quản xứ Chính toà Antôn Dương Quỳnh, quý Cha Phó, quý Thầy giúp xứ, Hội đồng Giáo xứ và cộng đoàn đã dâng hoa, niệm hương và viếng mộ Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê. Phần mộ được tang bên trong Nhà thờ một cách trang trọng, cộng đoàn dâng lời cầu nguyện xin Thiên Chúa sớm dẫn đưa linh hồn Ngài về bên Ngai toà Chúa.
Đúng 8 giờ sáng, Cha Tổng Đại diện dẫn đầu Cộng đoàn đến viếng mộ cụ Micae Ngô Đình Khả, cách Nhà thờ chỉ chừng 200m. Cha Phó Antôn Nguyễn Như Hùng Dũng được phân công ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của Cụ: là một người Tín hữu đạo đức, được đào tạo trong môi trường Chủng viện Penang (Malaisya). Trở về nước Cụ tham gia dạy học tại Đại Chủng viện Phú Xuân Huế. Sau đó Cụ ra làm quan trong triều đình Huế, giữ chức Thượng thư bộ Công. Cụ có nhiều công lao đối với Giáo phận cũng như xã hội. Cụ đã khởi xướng việc thành lập trường Quốc Học Huế và cũng là vị Hiệu trưởng đầu tiên của trường. Cụ đã sản sinh ra những người con ưu tú cho Giáo Hội và cho đất nước, trong đó có vị Cố Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm và Đức Cố Tổng Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế. Người con giá đầu của Cụ là thân mẫu của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, vị Tôi tớ đáng kính của Chúa đang trong tiến trình phong Thánh.
Cộng đoàn tiếp tục viếng mộ Đức Cha Allys, vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận Huế và các phần mộ quý Cha Quản xứ, quý Cha Phó xứ qua các thời kỳ.
Về nơi trảm quyết của Thánh Phaolô Tống Viết Bường, một người con ưu tú của Giáo xứ Chính toà, Ngài làm quan đến chức Thị vệ, đồng thời cũng là ông Trùm của Giáo xứ Phủ Cam. Ngài đã anh dũng chịu chết chứ không chịu bỏ Đạo Chúa. Ngài là tấm gương sáng ngời cho Cộng đoàn Giáo xứ nói chung và Hội đồng Giáo xứ Phủ Cam cũng vinh dự chọn Ngài làm bổn mạng.
Về viếng Từ đường Đức Cố Hồng Y Phanxicô, Cộng đoàn sốt sắng cầu nguyện cho tiến trình phong Thánh của Ngài sớm được trọn vẹn như lòng Chúa mong ước. Cộng đoàn cũng niệm hương trước di ảnh của song thân và gia quyến của Ngài. Tại ngôi Từ đường này, Ngài đã được sinh ra và lướn lên. Ngay cả khi được tấn phong Giám mục, Ngài đã ở tại đây trước khi lãnh sứ vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang.
Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh, Quản xứ Chính toà là một người con Linh hướng ưu tú của Ngài thay mặt trên 100 linh mục và trên 50 Nữ tu là con Linh hướng của Ngài cảm ơn quý Cha Phó, quý Thầy giúp xứ, HĐGX và Cộng đoàn Giáo xứ Phủ Cam đã thường xuyên quan tâm chăm sóc ngôi Từ đường của Đức Cố Hồng Y và đến viếng thăm cầu nguyện trong tháng cầu cho Các Đẳng Linh hồn.
Cuối cùng Cha Tổng Đại diện ban Phép lành cho Cộng đoàn, kết thúc một ngày đi viếng phần mộ các bậc tiền nhân của Giáo xứ.
Trương Trí
Xem Hình
Sau Thánh lễ ban sáng, Cha Tổng Đại diện kiêm Quản xứ Chính toà Antôn Dương Quỳnh, quý Cha Phó, quý Thầy giúp xứ, Hội đồng Giáo xứ và cộng đoàn đã dâng hoa, niệm hương và viếng mộ Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê. Phần mộ được tang bên trong Nhà thờ một cách trang trọng, cộng đoàn dâng lời cầu nguyện xin Thiên Chúa sớm dẫn đưa linh hồn Ngài về bên Ngai toà Chúa.
Đúng 8 giờ sáng, Cha Tổng Đại diện dẫn đầu Cộng đoàn đến viếng mộ cụ Micae Ngô Đình Khả, cách Nhà thờ chỉ chừng 200m. Cha Phó Antôn Nguyễn Như Hùng Dũng được phân công ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của Cụ: là một người Tín hữu đạo đức, được đào tạo trong môi trường Chủng viện Penang (Malaisya). Trở về nước Cụ tham gia dạy học tại Đại Chủng viện Phú Xuân Huế. Sau đó Cụ ra làm quan trong triều đình Huế, giữ chức Thượng thư bộ Công. Cụ có nhiều công lao đối với Giáo phận cũng như xã hội. Cụ đã khởi xướng việc thành lập trường Quốc Học Huế và cũng là vị Hiệu trưởng đầu tiên của trường. Cụ đã sản sinh ra những người con ưu tú cho Giáo Hội và cho đất nước, trong đó có vị Cố Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm và Đức Cố Tổng Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế. Người con giá đầu của Cụ là thân mẫu của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, vị Tôi tớ đáng kính của Chúa đang trong tiến trình phong Thánh.
Cộng đoàn tiếp tục viếng mộ Đức Cha Allys, vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận Huế và các phần mộ quý Cha Quản xứ, quý Cha Phó xứ qua các thời kỳ.
Về nơi trảm quyết của Thánh Phaolô Tống Viết Bường, một người con ưu tú của Giáo xứ Chính toà, Ngài làm quan đến chức Thị vệ, đồng thời cũng là ông Trùm của Giáo xứ Phủ Cam. Ngài đã anh dũng chịu chết chứ không chịu bỏ Đạo Chúa. Ngài là tấm gương sáng ngời cho Cộng đoàn Giáo xứ nói chung và Hội đồng Giáo xứ Phủ Cam cũng vinh dự chọn Ngài làm bổn mạng.
Về viếng Từ đường Đức Cố Hồng Y Phanxicô, Cộng đoàn sốt sắng cầu nguyện cho tiến trình phong Thánh của Ngài sớm được trọn vẹn như lòng Chúa mong ước. Cộng đoàn cũng niệm hương trước di ảnh của song thân và gia quyến của Ngài. Tại ngôi Từ đường này, Ngài đã được sinh ra và lướn lên. Ngay cả khi được tấn phong Giám mục, Ngài đã ở tại đây trước khi lãnh sứ vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang.
Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh, Quản xứ Chính toà là một người con Linh hướng ưu tú của Ngài thay mặt trên 100 linh mục và trên 50 Nữ tu là con Linh hướng của Ngài cảm ơn quý Cha Phó, quý Thầy giúp xứ, HĐGX và Cộng đoàn Giáo xứ Phủ Cam đã thường xuyên quan tâm chăm sóc ngôi Từ đường của Đức Cố Hồng Y và đến viếng thăm cầu nguyện trong tháng cầu cho Các Đẳng Linh hồn.
Cuối cùng Cha Tổng Đại diện ban Phép lành cho Cộng đoàn, kết thúc một ngày đi viếng phần mộ các bậc tiền nhân của Giáo xứ.
Trương Trí
Audio: Bài giảng trong Thánh Lễ Cầu Nguyện và Tưởng Nhớ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại Melbourne
+ ĐGM Vincent Nguyễn văn Long
23:29 01/11/2014
Cùng với đồng bào ở nhiều nơi trên quê hương còn dưới ách thống trị của Cộng Sản và trên khắp thế giới tự do, hôm nay chúng ta đến ngôi thánh đường này để tưởng nhớ và cầu nguyện cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người khai sáng nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngày này hơn nửa thế kỷ trước, ông cùng bào đệ Ngô Đình Nhu đã trải qua những giờ phút bi hùng cuối đời tại ngôi thánh đường mang tên Nhà Thờ Cha Tam. Là người sống đức tin Công Giáo mãnh liệt, thiết tưởng ông đã tìm đến ngôi thánh đường trong giờ phút định mệnh như là một nghĩa cử phó thác. Ông không dùng quyền lực, trung thần hay vũ khí để bảo vệ mạng sống mình mà phó thác tất cả cho Đấng Toàn Năng. Cái chết của ông đánh dấu một sự hy sinh hiến mình hoàn toàn cho một mục đích tối hậu, một giấc mơ cao thượng: Đó là một tương lai tươi sáng cho tổ quốc Việt Nam. Có thể nói, ông đã noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu để chết cho người mình thương mến. “Không tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống mình vì người mình thương mến”. Cụ Diệm không có vợ con và gia đình riêng. Người mà cụ thương mến chính là đồng bào và quê hương mà cụ đã cống hiến chính mạng sống mình.
Sự kiện một phong trào tự phát để phục hồi danh dự và phát huy tinh thần ái quốc của cụ Diệm nói lên sức mạnh của công lý và sự thật. Sức mạnh ấy đang như ngọn sóng trào dâng từ lòng dân tộc và có khả năng đánh tan những điều phi nhân gian dối của chế độ Cộng Sản. Quả thế, lịch sử trong chiều dài bất tận của nó luôn trả lại công và tội một cách xứng đáng, bất chấp những nỗ lực thổi phồng hay bóp méo sự thật. Cũng như bộ mặt thật của những kẻ thù ghét ông, kể cả những người núp sau bình phong tôn giáo đang hiện rõ sau những tô điểm giả dối như thế nào, thì con người dũng khí của cụ Diệm cũng đang phục hồi như vậy. Ngay cả những thế hệ trẻ như tôi lớn lên trong những tuyên truyền giả dối về ông, chúng tôi bất kể tôn giáo và xu hướng chính trị, đang đòi lại chỗ đứng trong lịch sử cho ông. Thánh Phaolô đã viết về luật nhân quả là “Gieo giống nào thì gặt giống ấy”. Phải chăng phong trào tự phát để phục hồi danh dự và phát huy tinh thần ái quốc của cụ Diệm là bằng chứng hùng hồn về con người và cuộc đời của một vĩ nhân thời đại?
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hôm nay chúng ta đến đây không phải để hoài niệm một quá khứ hay một thời huy hoàng đã qua. Con người và cuộc đời của cụ Diệm đã vượt qua hàng rào không gian, thời gian, tôn giáo và đảng phái chính trị. Ông không còn chỉ thuộc về người Công Giáo, ông cũng không chỉ còn thuộc về phe đảng hay ngay cả quân cán chính của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, thậm chí ông cũng không chỉ thuộc về những người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản trên khắp thế giới. Vì vai trò, vì sự dấn thân phục vụ và sự hy sinh cho quê hương, cụ Diệm mãi mãi thuộc về mọi người Việt Nam. Cụ đã đi vào lịch sử của đất nước như là một người con ưu tú và là anh hùng của dân tộc.
Việc tưởng nhớ cụ không còn là một sự hoài niệm đầy xót xa và cũng không nằm trong không khí tiếc hận của những người “phò Ngô” hay thất thế xa cơ. Mục đích của chúng ta hôm nay cũng không còn đơn thuần là phục hồi danh dự cho ông hay lột trần những giả dối của những người và những thế lực thù ghét ông. Có những người vì thương mến ông, muốn đưa ông và bào đệ đến một nơi an nghỉ xứng đáng hơn. Thiển nghĩ đó là những điều thứ yếu. Vả lại, với một con người coi nhẹ sự phù vân ở thế gian, ông cũng chẳng màng gì những điều ấy. Việc tưởng nhớ ông chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng ta –những người con dân nước Việt còn trăn trở cho hiện tình đất nước– cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của ông. Giấc mơ đó là gì thưa quý vị và đồng bào? Đó là ngày khải hoàn của công lý, của sự thật, của sự nhân bản, của những giá trị Chân-Thiện-Mỹ trên quê hương. Đó là ngày chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung của chế độ Cộng Sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hôm nay là ngày Đại Lễ mừng Chư Thánh Nam Nữ, những người được ca tụng trong phụng vụ cũng như những vị hy sinh trong âm thầm. Họ là những người sống Tám Mối Phúc Thật noi gương Đức Kitô. Họ là những người dám chấp nhận sự nghèo khổ, sự đau buồn, sự than khóc, mọi sự thiệt thòi khác và nhất là dám hy sinh cuộc đời vì lý tưởng Phúc Âm. Họ đã chẳng màng danh vọng, vinh quang, phú quý hay trường thọ. Chúng ta có thể nhìn gương các thánh nhân qua những người dám hy sinh chính mạng sống để quê hương có ngày tươi sáng. Chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước những gương anh linh của tổ quốc như cụ Diệm. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về mục đích mà chính ông đã làm những viên gạch lót đường: đó là sự sống viên mãn cho tha nhân, sự phục hưng cho dân tộc và sự trường tồn của cơ đồ Tổ Quốc.
Cuộc đời và sự hy sinh của cụ Diệm phản ánh một sự hiến thân hoàn toàn của Đức Kitô. Phải chăng cụ –như Thầy Chí Thánh– là phiến đá mà người thợ xây loại bỏ, để trở nên tảng đá góc tường? Phải chăng như tổ phụ Abraham và Môisen, cụ tranh đấu cho một tương lai tươi sáng mà không mong đợi chính mình phải được đặt chân vào và hưởng hoa quả của đất hứa? Phải chăng tấm gương vị quốc vong thân và ước mơ xây dựng một triều đại chính trực trên quê hương của cụ sẽ mãi mãi làm ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ mai sau?
Tôi thâm tín là thế. Mặc dù “nhân sinh vô thập toàn,” tôi thâm tín là cụ xứng đáng là ngọn đuốc trong đêm đen của đất nước trong lịch sử cận đại. Tinh thần yêu nước của cụ Diệm đang thúc đẩy những người tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ và những giá trị nhân bản tại quê nhà. Người Việt chúng ta hãy từ bỏ những chia rẽ phe nhóm, “phò Ngô” và “chống Ngô” là dư âm của một thời dĩ vãng. Chúng ta hãy cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của ông và cũng là của những nhà ái quốc thuộc muôn thế hệ.
Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta một chân lý là chỉ có tình yêu hiến thân cho lẽ phải, cho công lý và cho triều đại chính trực mới là lẽ sống của người tín hữu. Sứ mạng của Đức Kitô cũng chính là hiến thân để sự sống viên mãn được thể hiện nơi con người. Chúng ta hãy can trường bước theo con đường hiến thân phục vụ, như các thánh nhân cũng như các anh hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta.
Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn mọi nỗ lực tranh đấu của chúng ta cho những giấc mơ của tiền nhân, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta.
+ Vincent Nguyễn văn Long
Giám Mục Phụ Tá Melbourne
Gia đình Giáo Phận Huế viếng đất thánh tại Thiên Thai
Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC.
19:04 01/11/2014
Gia Đình Giáo Phận Huế Viếng Đất Thánh Tại Thiên Thai
Ngày 1.11.2014, hòa cùng với toàn thể Hội Thánh Công Giáo hoàn vũ nói chung và với Giáo Hội Việt Nam nói riêng, Đại Gia đình Giáo Phận Huế đã hiệp nhau tôn vinh các thánh Nam Nữ và Khai Mạc tháng cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn.
Xem Hình
Từ đầu giờ chiều, từng đoàn xe gồm đủ mọi loại phương tiện trên các nẻo đường tiến về nghĩa trang Thiên Thai, nơi mà có hàng Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân trong Giáo Phận Huế đã an nghỉ. Phái đoàn gồm một lượng người rất đông đảo, dó Hai Đức Tổng Giám mục dẫn đầu, cha Tổng Đại Diện, Quý cha, Quý Tu sĩ các Dòng, Quý anh chị em trong các Giáo xứ thuộc thành phố- Huế đã cùng nhau gieo bước hành trình.
Nghĩa trang Thiên Thai nằm ở vị trí phía Đông Nam thành phố Huế, cách Tòa Giám mục khoảng 8km. Trước đây, tất cả công dân của thành phố Huế được an nghỉ tại nơi này. Một vài năm nay, thành phố Huế quy hoạch lại, công dân bình thường không được chôn cất nơi này nữa. Riêng với các Linh mục Giáo Phận Huế, do quỹ đất còn rộng, cho nên nhà nước vẫn cho phép an tang tại đây.
Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng chủ sự buổi kính viếng hôm nay. Người ta nhận thấy có sự hiện diện đặc biệt của Đức nguyên Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, tuy sức khỏe còn yếu, Ngài đã cố gắng hiện diện trong buổi cầu nguyện hôm nay. Quý Cha nhà chung gồm có: cha Tổng Thư Ký, Cha Quản Lý, Cha Đặc trách Chủng sinh Ngoại trú, Cha Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ, cha Tiến sĩ Thần học về Thánh Kinh Giacôbê Nguyễn Xuân Lành mới du học Pháp trở về, và Quý cha Hưu Dưỡng.
Tưởng cũng nên nhắc lại, đây là năm thứ hai Giáo Phận Huế tổ chức quy tụ buổi cầu nguyện chung này, do Đức Tổng Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng đề nghị. Các Hội Dòng và giáo dân trong các Giáo xứ của Giáo Phận, rất hưởng ứng lời kêu mời này của Đức Tổng.
Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên khi chứng kiến từng đoàn các Tu sĩ trong bộ tu phục của Dòng mình, di chuyển trong âm thầm và lặng lẽ nhưng rất đỗi vui tươi. Các Tu sĩ thuộc các Hội Dòng như: Đan viện Thiên An, Dòng Thánh Tâm, Dòng Phaolô, Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng, Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm…
Đúng 3 giờ chiều, ngày 1.11.2014, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng bắt đầu phần nghi thức. Trong lời nhắn nhủ Cộng đoàn, Ngài viện dẫn Lời Chúa trong Thư của thánh Phaolô tông đồ nói: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), để chia sẻ với mọi người tâm tình cần có đối với các thánh Nam Nữ trên Trời và đối với các Linh Hồn đang thanh luyện…
Tiếp sau lời Đức Tổng Giám mục, là phần dâng hương, dâng hoa tưởng niệm. Trước Thánh Giá trung tâm Đất Thánh của Giáo Phận, và trước phần mộ của Đức Cha Eugène-Marie-Joseph Allys, Hai Đức Tổng Giám mục và cha Tổng Đại Diện đã cùng niệm hương, cả Cộng đoàn hiệp ý cúi mình trang nghiêm.
Tiếp đó, cha Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang hướng dẫn Cộng đoàn cùng cầu nguyện và gẫm suy về sự chết. Dưới cái nắng chói chang của tiết trời cuối Thu đầu Đông, cả tất cả mọi người cùng chìm đắm trong bầu khí cầu nguyện linh thiêng. Sau mỗi đoạn suy niệm, cả đoàn người đông đảo vang hát làm khắp một vùng nghã trang Thiên Thai vốn dĩ cô tịch, nay trở nên thánh thiêng tuyệt vời.
Phần Nghi thức kết thúc bằng phép lành long trọng của Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng. Sau đó, các Cộng đoàn Dòng tu quy tụ về phần mộ của Hội Dòng mình để niệm hương và cầu nguyện.
Trên đường trở về, Hai Đức Tổng Giám mục, Quý Cha nhà chung, Quý Tu sĩ đại diện các Dòng đã cùng đến viếng mộ của Thân Phụ và Thân Mẫu của đức nguyên Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể.
Phái đoàn của Hai Đức Tổng Giám mục tiếp tục tiến về nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam, để kính viếng phần mộ Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Anh em Dòng Thánh Tâm tiếp tục hành trình hướng về nghĩa trang Phía Nam, nơi Đất Thánh mà nhà nước mới cấp cho Hội Dòng, để kính viếng Quý Anh ra đi trước.
Rời nghĩa Trang phía nam, Anh Em lại hướng về đất tổ tại Phường Đúc, trong buổi chiều tà. Đến mảnh đất linh thiêng, nơi mà chứng kiến biết bao nhiêu sự kiện của ân sủng, cho dù chúng tôi là thế hệ sau này, nhưng ai ai cũng cảm nhận sự ấm cúng lạ thường nơi đất Mẹ Phường Đúc.
Thăp nén hương cùng cầu nguyện với Quý Anh và cho Quý Anh, tôi cảm thấy có một sự sum họp linh thiêng lạ lùng. Gia đình Thánh Tâm như được hợp đoàn tôn vinh Thiên Chúa trong cùng một tiếng ca, hòa chung một lời nguyện.
Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC.
Ngày 1.11.2014, hòa cùng với toàn thể Hội Thánh Công Giáo hoàn vũ nói chung và với Giáo Hội Việt Nam nói riêng, Đại Gia đình Giáo Phận Huế đã hiệp nhau tôn vinh các thánh Nam Nữ và Khai Mạc tháng cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn.
Xem Hình
Từ đầu giờ chiều, từng đoàn xe gồm đủ mọi loại phương tiện trên các nẻo đường tiến về nghĩa trang Thiên Thai, nơi mà có hàng Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân trong Giáo Phận Huế đã an nghỉ. Phái đoàn gồm một lượng người rất đông đảo, dó Hai Đức Tổng Giám mục dẫn đầu, cha Tổng Đại Diện, Quý cha, Quý Tu sĩ các Dòng, Quý anh chị em trong các Giáo xứ thuộc thành phố- Huế đã cùng nhau gieo bước hành trình.
Nghĩa trang Thiên Thai nằm ở vị trí phía Đông Nam thành phố Huế, cách Tòa Giám mục khoảng 8km. Trước đây, tất cả công dân của thành phố Huế được an nghỉ tại nơi này. Một vài năm nay, thành phố Huế quy hoạch lại, công dân bình thường không được chôn cất nơi này nữa. Riêng với các Linh mục Giáo Phận Huế, do quỹ đất còn rộng, cho nên nhà nước vẫn cho phép an tang tại đây.
Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng chủ sự buổi kính viếng hôm nay. Người ta nhận thấy có sự hiện diện đặc biệt của Đức nguyên Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, tuy sức khỏe còn yếu, Ngài đã cố gắng hiện diện trong buổi cầu nguyện hôm nay. Quý Cha nhà chung gồm có: cha Tổng Thư Ký, Cha Quản Lý, Cha Đặc trách Chủng sinh Ngoại trú, Cha Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ, cha Tiến sĩ Thần học về Thánh Kinh Giacôbê Nguyễn Xuân Lành mới du học Pháp trở về, và Quý cha Hưu Dưỡng.
Tưởng cũng nên nhắc lại, đây là năm thứ hai Giáo Phận Huế tổ chức quy tụ buổi cầu nguyện chung này, do Đức Tổng Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng đề nghị. Các Hội Dòng và giáo dân trong các Giáo xứ của Giáo Phận, rất hưởng ứng lời kêu mời này của Đức Tổng.
Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên khi chứng kiến từng đoàn các Tu sĩ trong bộ tu phục của Dòng mình, di chuyển trong âm thầm và lặng lẽ nhưng rất đỗi vui tươi. Các Tu sĩ thuộc các Hội Dòng như: Đan viện Thiên An, Dòng Thánh Tâm, Dòng Phaolô, Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng, Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm…
Đúng 3 giờ chiều, ngày 1.11.2014, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng bắt đầu phần nghi thức. Trong lời nhắn nhủ Cộng đoàn, Ngài viện dẫn Lời Chúa trong Thư của thánh Phaolô tông đồ nói: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), để chia sẻ với mọi người tâm tình cần có đối với các thánh Nam Nữ trên Trời và đối với các Linh Hồn đang thanh luyện…
Tiếp sau lời Đức Tổng Giám mục, là phần dâng hương, dâng hoa tưởng niệm. Trước Thánh Giá trung tâm Đất Thánh của Giáo Phận, và trước phần mộ của Đức Cha Eugène-Marie-Joseph Allys, Hai Đức Tổng Giám mục và cha Tổng Đại Diện đã cùng niệm hương, cả Cộng đoàn hiệp ý cúi mình trang nghiêm.
Tiếp đó, cha Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang hướng dẫn Cộng đoàn cùng cầu nguyện và gẫm suy về sự chết. Dưới cái nắng chói chang của tiết trời cuối Thu đầu Đông, cả tất cả mọi người cùng chìm đắm trong bầu khí cầu nguyện linh thiêng. Sau mỗi đoạn suy niệm, cả đoàn người đông đảo vang hát làm khắp một vùng nghã trang Thiên Thai vốn dĩ cô tịch, nay trở nên thánh thiêng tuyệt vời.
Phần Nghi thức kết thúc bằng phép lành long trọng của Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng. Sau đó, các Cộng đoàn Dòng tu quy tụ về phần mộ của Hội Dòng mình để niệm hương và cầu nguyện.
Trên đường trở về, Hai Đức Tổng Giám mục, Quý Cha nhà chung, Quý Tu sĩ đại diện các Dòng đã cùng đến viếng mộ của Thân Phụ và Thân Mẫu của đức nguyên Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể.
Phái đoàn của Hai Đức Tổng Giám mục tiếp tục tiến về nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam, để kính viếng phần mộ Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Anh em Dòng Thánh Tâm tiếp tục hành trình hướng về nghĩa trang Phía Nam, nơi Đất Thánh mà nhà nước mới cấp cho Hội Dòng, để kính viếng Quý Anh ra đi trước.
Rời nghĩa Trang phía nam, Anh Em lại hướng về đất tổ tại Phường Đúc, trong buổi chiều tà. Đến mảnh đất linh thiêng, nơi mà chứng kiến biết bao nhiêu sự kiện của ân sủng, cho dù chúng tôi là thế hệ sau này, nhưng ai ai cũng cảm nhận sự ấm cúng lạ thường nơi đất Mẹ Phường Đúc.
Thăp nén hương cùng cầu nguyện với Quý Anh và cho Quý Anh, tôi cảm thấy có một sự sum họp linh thiêng lạ lùng. Gia đình Thánh Tâm như được hợp đoàn tôn vinh Thiên Chúa trong cùng một tiếng ca, hòa chung một lời nguyện.
Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC.
Văn nghệ gây quỹ từ thiện của hội Việt-Úc Bác ái
Hội Việt Úc bác ái
10:02 01/11/2014
Đêm Văn Nghệ Gây Quỹ Từ Thiện Của Hội Việt Úc Bác Ái tại Sydney.
Tối thứ Sáu 31/10/2014 khoảng 700 người đã đến nhà hang Crystal Palace vùng Canley Heights Sydney tham dự đêm văn nghệ gây qũy từ thiện của Hội Việt Úc Bác Ái ( Viet Aust Bac Ai Association) với chủ đề Niềm Hy Vọng (Hope)
Xem Hình
Khai mạc buổi văn nghệ Mc Trường Giang, Thùy Trang và Phú Khánh giới thiệu màn hợp ca Xoa Dịu Niềm Đau sau đó Cha Linh hướng Phêrô Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng mọi người đến tham dự buổi văn nghệ gây quỹ từ thiện đồng thời Cha ban phép của ăn.
Phần văn nghệ gồm những tiết mục hợp ca, đơn ca, song ca, vũ và đặc biệt là hoạt cảnh Hòn Vọng Phu rất xúc tích và đặc sắc do các anh chị em ca sĩ tại Sydney trình diễn.
Chị Nguyễn Thị Kim Ngân Cựu Hội Trưởng Hội Việt Úc Bác Ái lên báo cáo về những sinh hoạt từ thiện của Hội hơn một năm qua đã trợ giúp cho Việt Nam, Thái Lan, Phi Luật Tân, Campuchea, Miến Điện và giúp những thiên tai hỏa hoạn, bão lụt tại Úc, trên $45,000.00 Úc kim trong hơn một năm qua. Thay mặt Hội, tôi ghi ơn đến từng nhà bảo trợ, đoàn thể và các ân nhân đã giúp Hội bằng cách này cách khác. Tôi cũng xin cám ơn các thiện nguyện viên và đặc biệt là Cha Linh hướng và các anh chị em trong Ban Chấp Hành đã luôn hăng hái trong công việc bác ái và cùng đồng hành với tôi từ những bước đầu tiên trong giai đoạn chuẩn bị và gia đoạn phát triển Hội…
Sau đó chị Trần Thị Quỳnh Chi Tân Hội Trưởng ngỏ lời cám ơn Cha Linh hướng Dương Thanh Liêm, chị Cựu Hội Trưởng, quý anh chị em Ban Chấp Hành và mọi người đã đến tham dự buổi dạ tiệc gây quỹ hôm nay. Chị trân trọng tuyên bố về đường hướng tương lai của Hội: Sức khoẻ và trợ lý Y Tế - Phát Triển và Nhân Đạo – Chương Trình Hỗ Trợ Người Khuyết Tật. Đặc biệt mục đích của Hội và đường hướng là muốn nâng đỡ tận tình đến những người bất hạnh, mong giúp họ bớt cảnh nghèo túng, thiếu hụt, đau khổ, không người giúp đỡ, bất kể họ thuộc tôn giáo hay văn hóa nào v..v..
Lồng vào phần văn nghệ có xổ số may mắn lầy hên và phần đấu giá gây quỹ rất hào hứng và số tiền đấu giá được $10,200.00 Úc kim và tiền trợ giúp của mọi người được $11,840 Úc kim
Hội Việt Úc Bác Ái.
Tối thứ Sáu 31/10/2014 khoảng 700 người đã đến nhà hang Crystal Palace vùng Canley Heights Sydney tham dự đêm văn nghệ gây qũy từ thiện của Hội Việt Úc Bác Ái ( Viet Aust Bac Ai Association) với chủ đề Niềm Hy Vọng (Hope)
Xem Hình
Khai mạc buổi văn nghệ Mc Trường Giang, Thùy Trang và Phú Khánh giới thiệu màn hợp ca Xoa Dịu Niềm Đau sau đó Cha Linh hướng Phêrô Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng mọi người đến tham dự buổi văn nghệ gây quỹ từ thiện đồng thời Cha ban phép của ăn.
Phần văn nghệ gồm những tiết mục hợp ca, đơn ca, song ca, vũ và đặc biệt là hoạt cảnh Hòn Vọng Phu rất xúc tích và đặc sắc do các anh chị em ca sĩ tại Sydney trình diễn.
Chị Nguyễn Thị Kim Ngân Cựu Hội Trưởng Hội Việt Úc Bác Ái lên báo cáo về những sinh hoạt từ thiện của Hội hơn một năm qua đã trợ giúp cho Việt Nam, Thái Lan, Phi Luật Tân, Campuchea, Miến Điện và giúp những thiên tai hỏa hoạn, bão lụt tại Úc, trên $45,000.00 Úc kim trong hơn một năm qua. Thay mặt Hội, tôi ghi ơn đến từng nhà bảo trợ, đoàn thể và các ân nhân đã giúp Hội bằng cách này cách khác. Tôi cũng xin cám ơn các thiện nguyện viên và đặc biệt là Cha Linh hướng và các anh chị em trong Ban Chấp Hành đã luôn hăng hái trong công việc bác ái và cùng đồng hành với tôi từ những bước đầu tiên trong giai đoạn chuẩn bị và gia đoạn phát triển Hội…
Sau đó chị Trần Thị Quỳnh Chi Tân Hội Trưởng ngỏ lời cám ơn Cha Linh hướng Dương Thanh Liêm, chị Cựu Hội Trưởng, quý anh chị em Ban Chấp Hành và mọi người đã đến tham dự buổi dạ tiệc gây quỹ hôm nay. Chị trân trọng tuyên bố về đường hướng tương lai của Hội: Sức khoẻ và trợ lý Y Tế - Phát Triển và Nhân Đạo – Chương Trình Hỗ Trợ Người Khuyết Tật. Đặc biệt mục đích của Hội và đường hướng là muốn nâng đỡ tận tình đến những người bất hạnh, mong giúp họ bớt cảnh nghèo túng, thiếu hụt, đau khổ, không người giúp đỡ, bất kể họ thuộc tôn giáo hay văn hóa nào v..v..
Lồng vào phần văn nghệ có xổ số may mắn lầy hên và phần đấu giá gây quỹ rất hào hứng và số tiền đấu giá được $10,200.00 Úc kim và tiền trợ giúp của mọi người được $11,840 Úc kim
Hội Việt Úc Bác Ái.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
LS Lê Công Định: Công lao Tổng thống Ngô Đình Diệm cần được tôn vinh
Facebook LS Lê Công Định
10:44 01/11/2014
Bài viết mới nhất chưa có tựa đề của Luật sư Lê Công Định
Lúc thiếu thời đi học, nhắc đến cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đa số thầy cô dưới mái trường XHCN của tôi đều gọi là “thằng Diệm” và “thằng Thiệu”. Về nhà tôi kể lại cho ba mẹ nghe. Ông bà nghiêm nghị cấm tôi không nên bắt chước thầy cô, vì như thế là vô lễ và bất kính đối với các bậc tiền nhân. Sau này, trưởng thành, có dịp đi làm việc ngang vùng Ninh Thuận, một đồng nghiệp lớn hơn tôi vài tuổi hỏi: “Nghe nói vùng này là quê hương của thằng Thiệu?” Tôi cau mày, đáp: “Dù sao ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đáng bậc cha chú của anh mà! Nếu mình đi đến vùng Nghệ An, em nói đây là quê hương của thằng Hồ, anh sẽ cảm thấy thế nào?” Anh ấy chống chế: “Xin lỗi, thói quen thôi mà!” Từ đấy anh ấy xem tôi là “phản động” (!). Tôi hãnh diện về tiếng “phản động” đó, vì nhớ đến lời giáo huấn đạo làm người của cha mẹ tôi.
Ba tôi, một người tham gia phong trào cộng sản, vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ông thường nhận định với tôi rằng dân tộc này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, thậm chí có thể sánh ngang với Nhật Bản ở Á châu, nếu cụ Diệm lèo lái con thuyền đất nước đến được bờ bến mà cụ tâm niệm và tranh đấu cả một đời. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao ông chưa bao giờ bày tỏ sự tôn trọng tối thiểu đối với bất kỳ lãnh tụ cộng sản nào, ba tôi lắc đầu trả lời: “Ba chọn lầm đường!” Và ông luôn căn dặn tôi: “Thế hệ của con không được quyền lạc lối như ba.”
Mỗi sáng mùng một Tết hàng năm lúc tôi còn là học sinh tiểu học và trung học, sau khi sang chúc Tết ông nội về, ba mẹ thường đưa anh em chúng tôi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng mộ dượng sáu tôi là ký giả Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Chủ bút nhật báo Đông Phương ở Sài Gòn trước 1975. Bao giờ cũng vậy, trước khi đến mộ dượng tôi, ba tôi luôn dừng lại thắp hương, còn mẹ tôi (một giáo dân Công Giáo) đọc kinh cầu nguyện trước mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu và bà cụ cố thân sinh của hai ngài. Anh em chúng tôi phải đứng chấp tay, cúi đầu. Điều đó đã trở thành thông lệ của gia đình tôi ngày xưa.
Năm 1998, sang Pháp học, tôi đọc một quyển sách về Tổng thống Ngô Đình Diệm và biết rằng sau khi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi bị giải tỏa năm 1985, hài cốt của ba vị cùng với ông Ngô Đình Cẩn được thân nhân chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu. Tết năm 1999, nhân dịp trở về Việt Nam dự chương trình Orientation dành cho sinh viên nhận học bổng Fulbright du học Hoa Kỳ, tôi chở ba tôi đi Bình Dương tìm nghĩa trang Lái Thiêu, mà ông còn nhớ tên gọi xưa là “Nhị Tì Quảng Đông”. Chúng tôi dò hỏi những người dân gác mộ xung quanh đó, thì được hướng dẫn tận tình và đưa đến tận nơi. Họ còn nhắc nhở chúng tôi viếng nhanh rồi về, vì buổi trưa các du kích xã đi ăn cơm nếu không chúng tôi có thể bị mời về xã đội điều tra lý do viếng mộ ông Ngô Đình Diệm (?).
Theo quyển sách tôi đọc, bia mộ của cố Tổng thống ghi “Giacôbê Đệ”, còn bia mộ của ông Cố vấn ghi “Baotixita Huynh”, do thân nhân lúc cải táng cố tình tráo hai chữ “huynh” và “đệ” để kẻ gian nhầm lẫn. Tôi không rõ thực hư việc này, nhưng quả nhiên thấy rõ những dòng chữ ấy. Giữa mộ hai ngài là mộ của bà cụ cố thân sinh. Cách một quãng xa, ngôi mộ có tấm bia dựng cao ghi chữ “Can” và năm mất 1964, chính là mộ phần của ông Ngô Đình Cẩn. Hai cha con tôi kính cẩn làm lễ, thắp hương, đọc kinh cầu nguyện và chụp ảnh lưu niệm. Suốt đoạn đường về ba tôi trầm ngâm, muộn phiền trước cảnh một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20 mà cuối đời chỉ còn nắm tro tàn vùi chôn tại một nơi và theo một cách thức không tương xứng với tầm vóc và đóng góp của ông. Nỗi buồn của ba lây sang cả tôi.
Trở lại Paris năm đó, tôi tìm đến thăm trường Ecole des Chartres, một trong những trường danh giá nhất của Pháp, nơi ông Ngô Đình Nhu từng theo học. Ngôi trường ấy tọa lạc gần trường luật Panthéon-Assas của tôi. Tôi vẫn nể phục ông Nhu như một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam đương thời. Từ chuyến đi năm 1999 trở về sau, lúc thì vào dịp Tết, lúc nhân ngày giỗ hai ông, tôi âm thầm đến viếng mộ phần của bốn vị đều đặn. Giữa năm 2007, một buổi chiều cuối tuần, đón tiếp luật sư Lê Quốc Quân vào Sài Gòn, tôi đưa anh và hai vợ chồng luật sư đồng nghiệp cùng đến nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ tôn nghiêm dành cho các vị, với nguyện ước một ngày không xa công lao và danh dự của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông.
Tiếc rằng giờ đây đang trong thời gian quản thúc, ngày mai tôi không thể đến viếng mộ phần của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ba vị tiền nhân như mong ước, hy vọng lời chia sẻ này thay cho nén hương tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng và niềm tiếc thương của tôi dành cho nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam.
Xin mời quý vị xem thêm về Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Tổng Thống Ngô Đình Diệm - YouTube
Lúc thiếu thời đi học, nhắc đến cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đa số thầy cô dưới mái trường XHCN của tôi đều gọi là “thằng Diệm” và “thằng Thiệu”. Về nhà tôi kể lại cho ba mẹ nghe. Ông bà nghiêm nghị cấm tôi không nên bắt chước thầy cô, vì như thế là vô lễ và bất kính đối với các bậc tiền nhân. Sau này, trưởng thành, có dịp đi làm việc ngang vùng Ninh Thuận, một đồng nghiệp lớn hơn tôi vài tuổi hỏi: “Nghe nói vùng này là quê hương của thằng Thiệu?” Tôi cau mày, đáp: “Dù sao ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đáng bậc cha chú của anh mà! Nếu mình đi đến vùng Nghệ An, em nói đây là quê hương của thằng Hồ, anh sẽ cảm thấy thế nào?” Anh ấy chống chế: “Xin lỗi, thói quen thôi mà!” Từ đấy anh ấy xem tôi là “phản động” (!). Tôi hãnh diện về tiếng “phản động” đó, vì nhớ đến lời giáo huấn đạo làm người của cha mẹ tôi.
Ba tôi, một người tham gia phong trào cộng sản, vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ông thường nhận định với tôi rằng dân tộc này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, thậm chí có thể sánh ngang với Nhật Bản ở Á châu, nếu cụ Diệm lèo lái con thuyền đất nước đến được bờ bến mà cụ tâm niệm và tranh đấu cả một đời. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao ông chưa bao giờ bày tỏ sự tôn trọng tối thiểu đối với bất kỳ lãnh tụ cộng sản nào, ba tôi lắc đầu trả lời: “Ba chọn lầm đường!” Và ông luôn căn dặn tôi: “Thế hệ của con không được quyền lạc lối như ba.”
Mỗi sáng mùng một Tết hàng năm lúc tôi còn là học sinh tiểu học và trung học, sau khi sang chúc Tết ông nội về, ba mẹ thường đưa anh em chúng tôi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng mộ dượng sáu tôi là ký giả Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Chủ bút nhật báo Đông Phương ở Sài Gòn trước 1975. Bao giờ cũng vậy, trước khi đến mộ dượng tôi, ba tôi luôn dừng lại thắp hương, còn mẹ tôi (một giáo dân Công Giáo) đọc kinh cầu nguyện trước mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu và bà cụ cố thân sinh của hai ngài. Anh em chúng tôi phải đứng chấp tay, cúi đầu. Điều đó đã trở thành thông lệ của gia đình tôi ngày xưa.
Năm 1998, sang Pháp học, tôi đọc một quyển sách về Tổng thống Ngô Đình Diệm và biết rằng sau khi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi bị giải tỏa năm 1985, hài cốt của ba vị cùng với ông Ngô Đình Cẩn được thân nhân chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu. Tết năm 1999, nhân dịp trở về Việt Nam dự chương trình Orientation dành cho sinh viên nhận học bổng Fulbright du học Hoa Kỳ, tôi chở ba tôi đi Bình Dương tìm nghĩa trang Lái Thiêu, mà ông còn nhớ tên gọi xưa là “Nhị Tì Quảng Đông”. Chúng tôi dò hỏi những người dân gác mộ xung quanh đó, thì được hướng dẫn tận tình và đưa đến tận nơi. Họ còn nhắc nhở chúng tôi viếng nhanh rồi về, vì buổi trưa các du kích xã đi ăn cơm nếu không chúng tôi có thể bị mời về xã đội điều tra lý do viếng mộ ông Ngô Đình Diệm (?).
Theo quyển sách tôi đọc, bia mộ của cố Tổng thống ghi “Giacôbê Đệ”, còn bia mộ của ông Cố vấn ghi “Baotixita Huynh”, do thân nhân lúc cải táng cố tình tráo hai chữ “huynh” và “đệ” để kẻ gian nhầm lẫn. Tôi không rõ thực hư việc này, nhưng quả nhiên thấy rõ những dòng chữ ấy. Giữa mộ hai ngài là mộ của bà cụ cố thân sinh. Cách một quãng xa, ngôi mộ có tấm bia dựng cao ghi chữ “Can” và năm mất 1964, chính là mộ phần của ông Ngô Đình Cẩn. Hai cha con tôi kính cẩn làm lễ, thắp hương, đọc kinh cầu nguyện và chụp ảnh lưu niệm. Suốt đoạn đường về ba tôi trầm ngâm, muộn phiền trước cảnh một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20 mà cuối đời chỉ còn nắm tro tàn vùi chôn tại một nơi và theo một cách thức không tương xứng với tầm vóc và đóng góp của ông. Nỗi buồn của ba lây sang cả tôi.
Trở lại Paris năm đó, tôi tìm đến thăm trường Ecole des Chartres, một trong những trường danh giá nhất của Pháp, nơi ông Ngô Đình Nhu từng theo học. Ngôi trường ấy tọa lạc gần trường luật Panthéon-Assas của tôi. Tôi vẫn nể phục ông Nhu như một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam đương thời. Từ chuyến đi năm 1999 trở về sau, lúc thì vào dịp Tết, lúc nhân ngày giỗ hai ông, tôi âm thầm đến viếng mộ phần của bốn vị đều đặn. Giữa năm 2007, một buổi chiều cuối tuần, đón tiếp luật sư Lê Quốc Quân vào Sài Gòn, tôi đưa anh và hai vợ chồng luật sư đồng nghiệp cùng đến nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ tôn nghiêm dành cho các vị, với nguyện ước một ngày không xa công lao và danh dự của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông.
Tiếc rằng giờ đây đang trong thời gian quản thúc, ngày mai tôi không thể đến viếng mộ phần của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ba vị tiền nhân như mong ước, hy vọng lời chia sẻ này thay cho nén hương tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng và niềm tiếc thương của tôi dành cho nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam.
Xin mời quý vị xem thêm về Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Tổng Thống Ngô Đình Diệm - YouTube
Thông Báo
Thông báo : Chiều thơ nhạc vinh danh đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại San Jose
Ban tổ chức
10:13 01/11/2014
Văn Hóa
50 Năm thờ cúng tổ tiên
Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
10:39 01/11/2014
50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Năm nào, chúng ta cũng cử hành thánh lễ ngày 02-11 cầu cho người quá cố. Riêng năm nay có một nét đặc biệt là cử hành kỷ niệm 50 năm Tòa Thánh chấp thuận cho người Công Giáo Việt Nam áp dụng nghi thức cổ truyền của dân tộc để diễn tả lòng hiếu kính đối với người đã khuất.
Hoàn cảnh truyền giáo thế kỷ XVII có nhiều phức tạp, đã khiến một số nhà truyền giáo ngộ nhận, cho rằng việc thờ cúng Tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo.
1. Nhiều vị tưởng rằng khi cúng lễ gia tiên, gia chủ phải đọc những lời thần bí rất tỉ mỉ. Thật ra, người ta chỉ thì thầm những câu nói tự phát chân thành. Nhiều vị tưởng chữ "lễ" trong lễ gia tiên có cái ý nghĩa nguyên thủy của nó là "các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo". Thật ra, các "lễ" chỉ là những cách ứng xử trong cuộc sống. Chúng nêu rõ cách ứng xử người ta phải có trong nhà, ngoài phố, ở triều đình, ở các lễ hội.
Lý do mạnh nhất khiến Giáo Hội đi đến chỗ không chấp nhận nghi thức thờ cúng Tổ tiên cổ truyền, chính là vì nhiều người tin rằng vong hồn của những người chết ở trong các bài vị, và người ta ghi rõ "đây là nơi ở của hồn (ông A, bà B)", cách riêng là ở trong tấm lụa đặt trước bài vị, được gọi là "hồn bạch", thường là tấm lụa đã phủ trên khuôn mặt người hấp hối và được cho là hồn đã nhập vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai lạc của những người kém hiểu biết. Theo những giải thích chính thống của các nhà nho, các bài vị chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc nhở người sống tưởng nhớ những người đã khuất.
Có những nhà truyền giáo cho rằng việc thờ cúng Ông Bà là một tôn giáo nhưng lại có những nhà truyền giáo khác khẳng định rằng người Việt không bao giờ xem Tổ tiên của họ là "những vị thần", cũng không bao giờ xem cha mẹ họ là "những vị thần tương lai". Đã đành là có bàn thờ dành cho Tổ tiên và Tổ tiên là đối tượng của một sự phụng tự nhưng phụng tự này chẳng là gì khác hơn một phụng tự tưởng nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó họ kết luận ngay rằng sự thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của từ này (Chúng ta vẫn thường được nghe trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo đạo nào cả."). Hơn nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này, người xưa nhắm thiết lập những mối liên hệ xác thực giữa những người sống và những người chết, củng cố sự liên đới giữa các thế hệ và phát huy kỷ luật xã hội, tức là chỉ vì những mục tiêu xã hội và chính trị chứ không hề có ý tưởng tôn giáo nào.
2. Thế nhưng trong thực tế, đối với nhiều người, các nghi lễ dành cho Tổ tiên cũng dần dần mang thêm một ý nghĩa tôn giáo. Người ta đi đến chỗ thờ Tổ tiên như thần thánh, và có khi dành cho Tổ tiên một tâm tình thờ phượng tuyệt đối như thờ phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể nào đi đôi với giáo lý Kitô giáo. Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ bất cứ thụ tạo nào như Thiên Chúa được.
Nghi lễ thờ cúng ông bà ở các thế kỷ trước quả thật có bị lây nhiễm một số tin tưởng sai lạc đáng ngại. Chẳng hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của cúng. Người ta sợ rằng không cúng tế thì hồn người chết sẽ đói khát, không đốt vàng mã thì hồn người chết không có tiền tiêu. Những tin tưởng sai lạc như thế không thể đi đôi với giáo lý Kitô giáo.
Ngoài ra còn có những mê tín khác.
3. Với hoàn cảnh ấy, các nhà truyền giáo đã tranh luận hết sức nghiêm túc qua nhiều năm, một bên cho rằng những sai lạc trên đây có thể điều chỉnh được, một bên cho là khó lòng thay đổi được não trạng của dân chúng. Cuối cùng, để bảo đảm cho niềm tin của tín hữu được tinh ròng, năm 1742, Giáo Hội đã quyết định rằng người Công Giáo Á Đông, bao gồm Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, chỉ được tôn kính Tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo hình thức cổ truyền địa phương. Giáo Hội quyết định như vậy mặc dù biết đó là một chọn lựa phải trả giá đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền giáo. Trước khi có quyết định ấy, số người hưởng ứng Đạo Chúa tại Việt Nam càng lúc càng đông, cả đến trong triều đình vua Lê cũng có nhiều người theo Đạo. Việc cấm thờ cúng Tổ tiên theo lối cũ đã khiến người ta tẩy chay tôn giáo mới, thậm chí đã thành một trong những lý do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn và chiến dịch Văn Thân. Đã hẳn việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ nhận nhưng dù sao nó cũng cho thấy đức tin Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt đến mức nào.
4. Mãi gần 200 năm sau, khi Đạo Hiếu không còn bị ngộ nhận là một tôn giáo và những tin tưởng sai lạc cũng không còn là chuyện chung của quảng đại quần chúng, ngày 8-12-1939, Tòa Thánh đã công bố một huấn thị chấp thuận cho người Công Giáo Trung Quốc được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Rồi 25 năm sau đó, ngày 20-10-1964, huấn thị ấy được áp dụng cho tín hữu Việt Nam, tính đến nay là tròn 50 năm. Với thông cáo của HĐGMVN năm 1965, những chỉ dẫn của huấn thị ấy đã chính thức đi vào cuộc sống của người Việt Công Giáo.
Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp. Chẳng hạn như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...
Đồng thời, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy. Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự của một tôn giáo khác... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật.
Kỷ niệm 50 năm một sự kiện quan trọng của lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, độc giả nào quan tâm muốn tìm hiểu thêm, xin mời đọc quyển sách đính kèm: 50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN. Sách in hiện cũng có bán tại các hiệu sách Công Giáo ở Sài Gòn.
Việc thờ cúng tổ tiên theo lối xưa có thể được tượng trưng bằng ba cây nhang. Nhang là một sáng kiến tài tình của kinh nghiệm tâm linh phương Đông. Giữa nghĩa trang lộng gió, giữ cho ngọn nến khỏi tắt thật khó, nhưng nhang thì khác. Trên cánh đồng mục vụ của Hội thánh Việt Nam hôm nay cũng thế, Gió Thánh Thần đang thổi rất lạ, có thể khiến nến bị tắt nhưng nhang sẽ càng lúc càng hừng lên ánh lửa trầm ấm.
Năm nào, chúng ta cũng cử hành thánh lễ ngày 02-11 cầu cho người quá cố. Riêng năm nay có một nét đặc biệt là cử hành kỷ niệm 50 năm Tòa Thánh chấp thuận cho người Công Giáo Việt Nam áp dụng nghi thức cổ truyền của dân tộc để diễn tả lòng hiếu kính đối với người đã khuất.
Hoàn cảnh truyền giáo thế kỷ XVII có nhiều phức tạp, đã khiến một số nhà truyền giáo ngộ nhận, cho rằng việc thờ cúng Tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo.
1. Nhiều vị tưởng rằng khi cúng lễ gia tiên, gia chủ phải đọc những lời thần bí rất tỉ mỉ. Thật ra, người ta chỉ thì thầm những câu nói tự phát chân thành. Nhiều vị tưởng chữ "lễ" trong lễ gia tiên có cái ý nghĩa nguyên thủy của nó là "các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo". Thật ra, các "lễ" chỉ là những cách ứng xử trong cuộc sống. Chúng nêu rõ cách ứng xử người ta phải có trong nhà, ngoài phố, ở triều đình, ở các lễ hội.
Lý do mạnh nhất khiến Giáo Hội đi đến chỗ không chấp nhận nghi thức thờ cúng Tổ tiên cổ truyền, chính là vì nhiều người tin rằng vong hồn của những người chết ở trong các bài vị, và người ta ghi rõ "đây là nơi ở của hồn (ông A, bà B)", cách riêng là ở trong tấm lụa đặt trước bài vị, được gọi là "hồn bạch", thường là tấm lụa đã phủ trên khuôn mặt người hấp hối và được cho là hồn đã nhập vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai lạc của những người kém hiểu biết. Theo những giải thích chính thống của các nhà nho, các bài vị chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc nhở người sống tưởng nhớ những người đã khuất.
Có những nhà truyền giáo cho rằng việc thờ cúng Ông Bà là một tôn giáo nhưng lại có những nhà truyền giáo khác khẳng định rằng người Việt không bao giờ xem Tổ tiên của họ là "những vị thần", cũng không bao giờ xem cha mẹ họ là "những vị thần tương lai". Đã đành là có bàn thờ dành cho Tổ tiên và Tổ tiên là đối tượng của một sự phụng tự nhưng phụng tự này chẳng là gì khác hơn một phụng tự tưởng nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó họ kết luận ngay rằng sự thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của từ này (Chúng ta vẫn thường được nghe trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo đạo nào cả."). Hơn nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này, người xưa nhắm thiết lập những mối liên hệ xác thực giữa những người sống và những người chết, củng cố sự liên đới giữa các thế hệ và phát huy kỷ luật xã hội, tức là chỉ vì những mục tiêu xã hội và chính trị chứ không hề có ý tưởng tôn giáo nào.
2. Thế nhưng trong thực tế, đối với nhiều người, các nghi lễ dành cho Tổ tiên cũng dần dần mang thêm một ý nghĩa tôn giáo. Người ta đi đến chỗ thờ Tổ tiên như thần thánh, và có khi dành cho Tổ tiên một tâm tình thờ phượng tuyệt đối như thờ phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể nào đi đôi với giáo lý Kitô giáo. Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ bất cứ thụ tạo nào như Thiên Chúa được.
Nghi lễ thờ cúng ông bà ở các thế kỷ trước quả thật có bị lây nhiễm một số tin tưởng sai lạc đáng ngại. Chẳng hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của cúng. Người ta sợ rằng không cúng tế thì hồn người chết sẽ đói khát, không đốt vàng mã thì hồn người chết không có tiền tiêu. Những tin tưởng sai lạc như thế không thể đi đôi với giáo lý Kitô giáo.
Ngoài ra còn có những mê tín khác.
3. Với hoàn cảnh ấy, các nhà truyền giáo đã tranh luận hết sức nghiêm túc qua nhiều năm, một bên cho rằng những sai lạc trên đây có thể điều chỉnh được, một bên cho là khó lòng thay đổi được não trạng của dân chúng. Cuối cùng, để bảo đảm cho niềm tin của tín hữu được tinh ròng, năm 1742, Giáo Hội đã quyết định rằng người Công Giáo Á Đông, bao gồm Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, chỉ được tôn kính Tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo hình thức cổ truyền địa phương. Giáo Hội quyết định như vậy mặc dù biết đó là một chọn lựa phải trả giá đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền giáo. Trước khi có quyết định ấy, số người hưởng ứng Đạo Chúa tại Việt Nam càng lúc càng đông, cả đến trong triều đình vua Lê cũng có nhiều người theo Đạo. Việc cấm thờ cúng Tổ tiên theo lối cũ đã khiến người ta tẩy chay tôn giáo mới, thậm chí đã thành một trong những lý do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn và chiến dịch Văn Thân. Đã hẳn việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ nhận nhưng dù sao nó cũng cho thấy đức tin Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt đến mức nào.
4. Mãi gần 200 năm sau, khi Đạo Hiếu không còn bị ngộ nhận là một tôn giáo và những tin tưởng sai lạc cũng không còn là chuyện chung của quảng đại quần chúng, ngày 8-12-1939, Tòa Thánh đã công bố một huấn thị chấp thuận cho người Công Giáo Trung Quốc được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Rồi 25 năm sau đó, ngày 20-10-1964, huấn thị ấy được áp dụng cho tín hữu Việt Nam, tính đến nay là tròn 50 năm. Với thông cáo của HĐGMVN năm 1965, những chỉ dẫn của huấn thị ấy đã chính thức đi vào cuộc sống của người Việt Công Giáo.
Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp. Chẳng hạn như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...
Đồng thời, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy. Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự của một tôn giáo khác... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật.
Kỷ niệm 50 năm một sự kiện quan trọng của lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, độc giả nào quan tâm muốn tìm hiểu thêm, xin mời đọc quyển sách đính kèm: 50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN. Sách in hiện cũng có bán tại các hiệu sách Công Giáo ở Sài Gòn.
Việc thờ cúng tổ tiên theo lối xưa có thể được tượng trưng bằng ba cây nhang. Nhang là một sáng kiến tài tình của kinh nghiệm tâm linh phương Đông. Giữa nghĩa trang lộng gió, giữ cho ngọn nến khỏi tắt thật khó, nhưng nhang thì khác. Trên cánh đồng mục vụ của Hội thánh Việt Nam hôm nay cũng thế, Gió Thánh Thần đang thổi rất lạ, có thể khiến nến bị tắt nhưng nhang sẽ càng lúc càng hừng lên ánh lửa trầm ấm.
Tưởng nhớ người đã ra đi
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
15:46 01/11/2014
Tưởng nhớ người đã ra đi
Hằng năm vào ngày 02.11. Hội Thánh Công Giáo mời gọi mọi người tín hữu Công Giáo nhớ đến những người qúa cố đã ra đi về đời sau, theo như tín điều tuyên xưng trong kinh Tin Kính“ Tôi tin các Thánh cùng thông công“ .
Nhưng đâu là ý nghĩa đạo đức thần học cùng nhân bản về sự tưởng nhớ người qúa cố?
Cây cầu tình yêu
Nhà thơ Thornton Wilder có suy tư: “Đây là đất nước của người sống, và kia là đất nước của người đã qua đời. Và chiếc cầu ở giữa họ là tình yêu. Đó là điểm duy nhất còn lưu lại. Và đó cũng là ý nghĩa duy nhất. „
Suy tư này thỉnh thoảng được dùng như lời cáo phó báo tin người đã qua đời đăng trên báo hay trên thiệp tang.
Lời suy tư này vẽ ra hình ảnh một vực thẳm, và một cây cầu bắc ngang qua hai bờ vực thẳm. Bên phía bờ bên này một đoàn người đang đứng. Rồi có người bước qua đi trên cây cầu sang bờ bên kia. Người đi qua cây cầu càng lúc xa người đứng phía bên bờ. Đó cảnh từ gĩa nhau.
Cây cầu không chấm dứt vào khoảng không. Trái lại cây cầu nối liền hai bờ sông, hai bờ vực thẳm ngăn cách lại với nhau. Cầu xây bắc ngang qua con sông, qua vùng thung lũng. Nó xóa khoảng ngăn cách hai bên bờ xa cách nhau lại. Nó giúp cho thông thương đi qua lại hai bên. Cây cầu là hình ảnh dấu chỉ rõ nét về ý nghĩa đời sống con người.
Mỗi khi nhớ tới người đã qúa vãng ra đi về đời sau, hình ảnh cuốn phim đời sống của người qúa cố tuần tự chiếu diễn ra những gì ngày xưa kia đã cùng chung sống trải qua với nhau. Họ cảm thấy hơn khi nào hết sự gắn bó với nhau trong gia đình, trong vòng bạn bè thân thiết quen biết. Người còn sống nhớ lại những gì ngày xưa đã cùng với người thân ruột thịt ngày xưa lúc còn chung sống đã trao tặng nhau, đã nhận lãnh từ nơi nhau. Tâm tình này làm nảy sinh chiếc cầu tinh thần nối kết giữa người còn sống với người đã qúa vãng lại với nhau.
Chúng ta con người có cảm nghiệm sự chết mãnh liệt, và gây ra hậu qủa đau thương buồn thảm cho con người.
Kinh Thánh trong sách Diễm tình ca viết“ Tình yêu mãnh liệt như sự chết.“ - 8,6- . Sự chết phá hủy. Nhưng tình yêu duy trì bảo vệ và mang lại sự gì mới. Tình yêu, như Thornton Wilder nhận xét là „ cái gì duy nhất còn lại“.
Cây cầu đức tin
Phải chăng như thế là đủ cho chúng ta nói đến “ Cây cầu tinh thần, sự tưởng nhớ, trong thâm tâm còn lại về sự gắn bó với người thân yêu đã qúa vãng?
Thân nhân gia đình luôn cảm thẩy sự mất mát người cha, người mẹ, chồng hay vợ, anh chị em, con cháu… đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian, mà người còn sống lúc này đây không thể theo được.
Người qua đời đã bước qua cây cầu đi sang miền đất mới. Phải, cây cầu mang ý nghĩa cho đời sống. Chúng ta con người với tâm tình trí óc tưởng tượng trí nhớ, cảm nghiệm suy nghĩ với người qúa cố làm thành như cây nối kết lại với nhau. Nhưng phải chăng cây cầu này cũng không có thể đứng về phía sự chết?
Một thế giới mới của Thiên Chúa, trong đó người đã qua đời sống luôn mãi. Chúng ta người còn sống trên trần gian chỉ có thể gặp được họ ngang qua chiếc cầu này thôi. Chúng ta mỗi người rồi sẽ chính mình một lần đi trên con đường này,
Sự tưởng nhớ tới người đã qúa cố là cây cầu cần thiết, để hình ảnh người chết không bị biến mất khỏi tâm hồn người thân còn đang sống trên trần gian. Chúng ta người còn sống không chỉ nhìn ngược trở lại qúa khứ. Chúng ta nhìn trong tâm tình lòng biết ơn và niềm hy vọng vượt qua sang bên kia miền đất của người sống.
Văn hào Kitô giáo Tertuliano hồi thế kỷ thứ ba sau Chúa giáng sinh, khi được hỏi về đức tin Kitô giáo có gì đặc biệt. Ông đã trả lời: „Đức tin của người Kitô giáo là tin vào sự sống lại.“.
Ngày nay chúng ta có thể với niềm xác tin sâu xa nói được như thế không? Có còn suy nghĩ hay tin được như thế về sự sống lại sau khi chết trong bối cảnh khó khăn ngày hôm nay, vì khoa học tiến bộ đã cùng đang tìm cách lý giải đưa ra ánh sáng những bí nhiệm cả trong lãnh vực đức tin nữa không?
Ngày xưa các Thánh Tông đề sống sát bên cạnh Chúa Giêsu, được nghe chính Thầy mình giảng giải về sự chết của ngài và ngài sẽ sống lại. Nhưng các ông cũng không thể nào tin nổi. Khi các người phụ nữ ra thăm mộ Chúa Giêsu, về báo tin ngôi mộ chôn Chúa Giêsu trống không, Chúa đã sống lại, các Ông cũng không tin. Mãi trải qua con đường dài cùng nhiều chông gai thử thách họ mới có thể tin, và thoát ra khỏi cơn đau buồn tìm về đời sống trở lại.
Đức tin vào Chúa phục sinh đã làm cho các Tông đồ trở nên con người mới. Họ trở thành những người làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã bị đóng đinh chết và đã sống lại.
Đức tin là một con đường. Con đường này không phải lúc nào cũng bằng phẳng thẳng tắp. Trái lại có nhiều khúc đoạn lên xuống ghồ ghề quanh co uốn khúc. Trên con đường đức tin, dù chúng ta tin, nhưng nhiều khi chúng ta dậm chân đứng yên tại chỗ, hay có khi hồ nghi bối rối quay ngược trở lại không sao đi tiếp được nữa.
Đức tin chúng ta không thể tự mình biến chế, sản xuất làm ra được. Đức tin do Thiên Chúa ban cho. Ngài giúp ta đứng vững trong đời sống và cả khi chết nữa.
Theo đức tin đạo Công Giáo chết là „ sự sống không mất, nhưng chỉ đổi thay.“. Tâm tình lòng tưởng nhớ là cây cầu liên kết giữa người còn sống và người đã qua đời bước đi vào một đời sống đổi thay khác.
Lễ các tưởng nhớ các Linh Hồn 02.11.2014
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 02.11. Hội Thánh Công Giáo mời gọi mọi người tín hữu Công Giáo nhớ đến những người qúa cố đã ra đi về đời sau, theo như tín điều tuyên xưng trong kinh Tin Kính“ Tôi tin các Thánh cùng thông công“ .
Nhưng đâu là ý nghĩa đạo đức thần học cùng nhân bản về sự tưởng nhớ người qúa cố?
Cây cầu tình yêu
Nhà thơ Thornton Wilder có suy tư: “Đây là đất nước của người sống, và kia là đất nước của người đã qua đời. Và chiếc cầu ở giữa họ là tình yêu. Đó là điểm duy nhất còn lưu lại. Và đó cũng là ý nghĩa duy nhất. „
Suy tư này thỉnh thoảng được dùng như lời cáo phó báo tin người đã qua đời đăng trên báo hay trên thiệp tang.
Lời suy tư này vẽ ra hình ảnh một vực thẳm, và một cây cầu bắc ngang qua hai bờ vực thẳm. Bên phía bờ bên này một đoàn người đang đứng. Rồi có người bước qua đi trên cây cầu sang bờ bên kia. Người đi qua cây cầu càng lúc xa người đứng phía bên bờ. Đó cảnh từ gĩa nhau.
Cây cầu không chấm dứt vào khoảng không. Trái lại cây cầu nối liền hai bờ sông, hai bờ vực thẳm ngăn cách lại với nhau. Cầu xây bắc ngang qua con sông, qua vùng thung lũng. Nó xóa khoảng ngăn cách hai bên bờ xa cách nhau lại. Nó giúp cho thông thương đi qua lại hai bên. Cây cầu là hình ảnh dấu chỉ rõ nét về ý nghĩa đời sống con người.
Mỗi khi nhớ tới người đã qúa vãng ra đi về đời sau, hình ảnh cuốn phim đời sống của người qúa cố tuần tự chiếu diễn ra những gì ngày xưa kia đã cùng chung sống trải qua với nhau. Họ cảm thấy hơn khi nào hết sự gắn bó với nhau trong gia đình, trong vòng bạn bè thân thiết quen biết. Người còn sống nhớ lại những gì ngày xưa đã cùng với người thân ruột thịt ngày xưa lúc còn chung sống đã trao tặng nhau, đã nhận lãnh từ nơi nhau. Tâm tình này làm nảy sinh chiếc cầu tinh thần nối kết giữa người còn sống với người đã qúa vãng lại với nhau.
Chúng ta con người có cảm nghiệm sự chết mãnh liệt, và gây ra hậu qủa đau thương buồn thảm cho con người.
Kinh Thánh trong sách Diễm tình ca viết“ Tình yêu mãnh liệt như sự chết.“ - 8,6- . Sự chết phá hủy. Nhưng tình yêu duy trì bảo vệ và mang lại sự gì mới. Tình yêu, như Thornton Wilder nhận xét là „ cái gì duy nhất còn lại“.
Cây cầu đức tin
Phải chăng như thế là đủ cho chúng ta nói đến “ Cây cầu tinh thần, sự tưởng nhớ, trong thâm tâm còn lại về sự gắn bó với người thân yêu đã qúa vãng?
Thân nhân gia đình luôn cảm thẩy sự mất mát người cha, người mẹ, chồng hay vợ, anh chị em, con cháu… đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian, mà người còn sống lúc này đây không thể theo được.
Người qua đời đã bước qua cây cầu đi sang miền đất mới. Phải, cây cầu mang ý nghĩa cho đời sống. Chúng ta con người với tâm tình trí óc tưởng tượng trí nhớ, cảm nghiệm suy nghĩ với người qúa cố làm thành như cây nối kết lại với nhau. Nhưng phải chăng cây cầu này cũng không có thể đứng về phía sự chết?
Một thế giới mới của Thiên Chúa, trong đó người đã qua đời sống luôn mãi. Chúng ta người còn sống trên trần gian chỉ có thể gặp được họ ngang qua chiếc cầu này thôi. Chúng ta mỗi người rồi sẽ chính mình một lần đi trên con đường này,
Sự tưởng nhớ tới người đã qúa cố là cây cầu cần thiết, để hình ảnh người chết không bị biến mất khỏi tâm hồn người thân còn đang sống trên trần gian. Chúng ta người còn sống không chỉ nhìn ngược trở lại qúa khứ. Chúng ta nhìn trong tâm tình lòng biết ơn và niềm hy vọng vượt qua sang bên kia miền đất của người sống.
Văn hào Kitô giáo Tertuliano hồi thế kỷ thứ ba sau Chúa giáng sinh, khi được hỏi về đức tin Kitô giáo có gì đặc biệt. Ông đã trả lời: „Đức tin của người Kitô giáo là tin vào sự sống lại.“.
Ngày nay chúng ta có thể với niềm xác tin sâu xa nói được như thế không? Có còn suy nghĩ hay tin được như thế về sự sống lại sau khi chết trong bối cảnh khó khăn ngày hôm nay, vì khoa học tiến bộ đã cùng đang tìm cách lý giải đưa ra ánh sáng những bí nhiệm cả trong lãnh vực đức tin nữa không?
Ngày xưa các Thánh Tông đề sống sát bên cạnh Chúa Giêsu, được nghe chính Thầy mình giảng giải về sự chết của ngài và ngài sẽ sống lại. Nhưng các ông cũng không thể nào tin nổi. Khi các người phụ nữ ra thăm mộ Chúa Giêsu, về báo tin ngôi mộ chôn Chúa Giêsu trống không, Chúa đã sống lại, các Ông cũng không tin. Mãi trải qua con đường dài cùng nhiều chông gai thử thách họ mới có thể tin, và thoát ra khỏi cơn đau buồn tìm về đời sống trở lại.
Đức tin vào Chúa phục sinh đã làm cho các Tông đồ trở nên con người mới. Họ trở thành những người làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã bị đóng đinh chết và đã sống lại.
Đức tin là một con đường. Con đường này không phải lúc nào cũng bằng phẳng thẳng tắp. Trái lại có nhiều khúc đoạn lên xuống ghồ ghề quanh co uốn khúc. Trên con đường đức tin, dù chúng ta tin, nhưng nhiều khi chúng ta dậm chân đứng yên tại chỗ, hay có khi hồ nghi bối rối quay ngược trở lại không sao đi tiếp được nữa.
Đức tin chúng ta không thể tự mình biến chế, sản xuất làm ra được. Đức tin do Thiên Chúa ban cho. Ngài giúp ta đứng vững trong đời sống và cả khi chết nữa.
Theo đức tin đạo Công Giáo chết là „ sự sống không mất, nhưng chỉ đổi thay.“. Tâm tình lòng tưởng nhớ là cây cầu liên kết giữa người còn sống và người đã qua đời bước đi vào một đời sống đổi thay khác.
Lễ các tưởng nhớ các Linh Hồn 02.11.2014
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long