Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa Giêsu, Vua Tình yêu
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
08:00 18/11/2011
Chúa Nhật 34: Kitô Vua
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Chúng ta phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào ? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu ?
1.ÔNG VUA TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ, không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng để bày cho đẹp, như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ không có gì cả. Những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua.
Trong lịch sử loài người có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc cũng như về cai trị, nhưng hầu hết các ông vua, vì cha truyển con nối, nên độc tài độc đoán, không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm đến sự lầm than đói khổ của bá tánh. Lịch sử Trung Hoa, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua Lamã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước thì cho là tài sản riêng của mình. Vua thường nói: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Thế rồi khư khư giữ lấy. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc, không chỉ giết một người đó, mà còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, vua của dòng họ này sang triều đại dòng họ khác, thì phải giành giật, phải thoán ngôi. Cứ đọc lịch sử Việt Nam thì thấy, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm, cho đến năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại. Vua này vì sợ Việt Minh Cộng sản giết chết nên mới thoái vị.
2. ÔNG VUA TRONG KINH THÁNH
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước Chúa Giáng sinh, dân Israel đòi có vua cai trị giống như các dân khác, Giavê Thiên Chúa (qua ngôn sứ Samuel), đã cảnh cáo dân rằng:
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavid, và Salomôn.
Về Saul thì Thiên Chúa nói: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15: 10).
Về Đavid, Thiên Chúa nói: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel . . . Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê . . . ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12: 9).
Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11: 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi . . . Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11: 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê. Kinh thánh nói: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12: 6).
3. ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Ngài không bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng không bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Vì thế, ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá.
Các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Chúa đã trả lời với tổng trấn Philatô : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết : Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau : có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và tin tưởng Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Hiện nay trên thế giới khoảng 2,5 tỷ trên 7 tỷ người là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, có lẽ rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời chưa!. Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta?
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Chúng ta phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào ? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu ?
1.ÔNG VUA TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ, không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng để bày cho đẹp, như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ không có gì cả. Những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua.
Trong lịch sử loài người có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc cũng như về cai trị, nhưng hầu hết các ông vua, vì cha truyển con nối, nên độc tài độc đoán, không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm đến sự lầm than đói khổ của bá tánh. Lịch sử Trung Hoa, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua Lamã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước thì cho là tài sản riêng của mình. Vua thường nói: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Thế rồi khư khư giữ lấy. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc, không chỉ giết một người đó, mà còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, vua của dòng họ này sang triều đại dòng họ khác, thì phải giành giật, phải thoán ngôi. Cứ đọc lịch sử Việt Nam thì thấy, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm, cho đến năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại. Vua này vì sợ Việt Minh Cộng sản giết chết nên mới thoái vị.
2. ÔNG VUA TRONG KINH THÁNH
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước Chúa Giáng sinh, dân Israel đòi có vua cai trị giống như các dân khác, Giavê Thiên Chúa (qua ngôn sứ Samuel), đã cảnh cáo dân rằng:
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavid, và Salomôn.
Về Saul thì Thiên Chúa nói: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15: 10).
Về Đavid, Thiên Chúa nói: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel . . . Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê . . . ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12: 9).
Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11: 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi . . . Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11: 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê. Kinh thánh nói: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12: 6).
3. ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Ngài không bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng không bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Vì thế, ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá.
Các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Chúa đã trả lời với tổng trấn Philatô : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết : Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau : có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và tin tưởng Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Hiện nay trên thế giới khoảng 2,5 tỷ trên 7 tỷ người là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, có lẽ rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời chưa!. Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta?
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:21 18/11/2011
THÁI HÀNH SƠN
Có một học trò đọc chữ “thái hành sơn太行山” thành chữ “đại hình sơn代形山”, một học trò khác không cho là như thế, nói: “Phải là “thái hàng泰杭” mới đúng !"
Anh học trò kia rất là hống hách, nói:
- “Tôi tự mình đi đến chân núi, nhìn thấy tấm bia khắc chữ như thế mà !”
Hai học trò cãi nhau không nghỉ. Sau đó một người có ý kiến:
- “Chúng ta đánh cuộc một bữa tiệc. Nơi trường học nọ có nhiều người biết chữ, sao lại không đến đó thử xem !”
Sau khi thầy đồ nghiên cứu xong, hai học trò bèn hỏi cách đọc như thế nào, thầy đồ trả lời mà không cần suy nghĩ:
- “Phải đọc là “đại hình代形” mới đúng”.
Anh học trò thua một bữa tiệc rất tức tối, thầy đồ gàn an ủi anh ta, nói:
- “Mặc dù trò thua một bữa tiệc, nhưng đối phương suốt đời đọc nhầm chữ”.
Suy tư:
Có những người được Chúa ban cho ơn sủng đi an ủi người khác, lời an ủi của họ thường làm dịu vơi sự đau khổ nơi người đau khổ; lời an ủi của họ làm cho người thất vọng nhúm lên sự hy vọng; lời an ủi của họ làm cho người bi quan tìm lại niềm lạc quan; lời an ủi của họ làm cho người nản chí tìm thấy được sự kiên trì trong công việc. Đó là những lời an ủi được xuất phát từ tâm hồn yêu thương chân thật.
Có những lời an ủi nhưng lại làm cho người đau khổ thêm đau khổ, đó là lời nói: nhịn đi, ta tìm cách khác để trả thù; có những lời nói an ủi nhưng lại khơi lên lòng hận thù nơi người khác, đó là lời nói: không sao cả, mình tìm cách đi kiện tụi nó cho nó ở tù rục xương...
Những người an ủi người khác có hiệu quả nhất là những người có uy tín trong Giáo Hội và xã hội với sự khôn ngoan của họ, nhưng khi những người này không mở miệng nói lời an ủi, mà chỉ nói những lời độc địa, nói những lời gây chia rẻ, nói những lời nịnh hót, thì chính họ đã mở đường cho sự dữ thâm nhập vào trong cộng đoàn và dọn đường để người khác đi xuống hỏa ngục nhanh hơn.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có một học trò đọc chữ “thái hành sơn太行山” thành chữ “đại hình sơn代形山”, một học trò khác không cho là như thế, nói: “Phải là “thái hàng泰杭” mới đúng !"
Anh học trò kia rất là hống hách, nói:
- “Tôi tự mình đi đến chân núi, nhìn thấy tấm bia khắc chữ như thế mà !”
Hai học trò cãi nhau không nghỉ. Sau đó một người có ý kiến:
- “Chúng ta đánh cuộc một bữa tiệc. Nơi trường học nọ có nhiều người biết chữ, sao lại không đến đó thử xem !”
Sau khi thầy đồ nghiên cứu xong, hai học trò bèn hỏi cách đọc như thế nào, thầy đồ trả lời mà không cần suy nghĩ:
- “Phải đọc là “đại hình代形” mới đúng”.
Anh học trò thua một bữa tiệc rất tức tối, thầy đồ gàn an ủi anh ta, nói:
- “Mặc dù trò thua một bữa tiệc, nhưng đối phương suốt đời đọc nhầm chữ”.
Suy tư:
Có những người được Chúa ban cho ơn sủng đi an ủi người khác, lời an ủi của họ thường làm dịu vơi sự đau khổ nơi người đau khổ; lời an ủi của họ làm cho người thất vọng nhúm lên sự hy vọng; lời an ủi của họ làm cho người bi quan tìm lại niềm lạc quan; lời an ủi của họ làm cho người nản chí tìm thấy được sự kiên trì trong công việc. Đó là những lời an ủi được xuất phát từ tâm hồn yêu thương chân thật.
Có những lời an ủi nhưng lại làm cho người đau khổ thêm đau khổ, đó là lời nói: nhịn đi, ta tìm cách khác để trả thù; có những lời nói an ủi nhưng lại khơi lên lòng hận thù nơi người khác, đó là lời nói: không sao cả, mình tìm cách đi kiện tụi nó cho nó ở tù rục xương...
Những người an ủi người khác có hiệu quả nhất là những người có uy tín trong Giáo Hội và xã hội với sự khôn ngoan của họ, nhưng khi những người này không mở miệng nói lời an ủi, mà chỉ nói những lời độc địa, nói những lời gây chia rẻ, nói những lời nịnh hót, thì chính họ đã mở đường cho sự dữ thâm nhập vào trong cộng đoàn và dọn đường để người khác đi xuống hỏa ngục nhanh hơn.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (Lễ Chúa Ki-tô Vua)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:30 18/11/2011
LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
(CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN)
Tin mừng: Mt 25, 31-46.
“Con Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ với nhau”.
Anh chị em thân mến,
Năm Phụng Vụ của Giáo Hội được kết thúc bằng việc cử hành trọng thể lễ “Chúa Giê-su Ki-tô vua vũ trụ”, để cho chúng ta thấy rằng: chính Chúa Giê-su là Khởi Đầu và Chung Kết, nên Ngài là vua vũ trụ và là Đấng xét xử loài người; là Đấng hôm qua, hôm nay và ngày mai, nên Ngài là Đấng ngự trị trường tồn, bất diệt.
Chúa Giê-su xét xử như thế nào ?
Ngày phán xét chung, ngày tội lỗi và việc lành của mỗi người sẽ được bày ra ánh sáng và tất cả mọi người từ nguyên tổ A-dong và E-và cho đến người sau cùng trên thế giới sẽ thấy; ngày mà những việc lành chúng ta thực hiện trong âm thầm thì nay sẽ được mọi người biết; ngày mà những tội ác chúng ta thực hành trong bóng đêm thì nay sẽ được bày tỏ giữa ban ngày cho mọi người biết...
Ngày phán xét, Chúa Giê-su không hỏi chúng ta:
-Khi còn ở thế gian con tậu được mấy căn nhà ?
-Khi còn ở thế gian con học hành đến đâu và có bao nhiêu văn bằng tiến sĩ, thạc sĩ...?
-Khi còn ở thế gian con gởi nhà băng (bank) được bao nhiêu triệu đồng ?...
-Khi còn ở thế gian con có địa vị to lớn nào trong xã hội, trong Giáo Hội ?
Nhưng Chúa Giê-su sẽ hỏi chúng ta:
-Con có giúp đỡ tha nhân không ?
-Con có hy sinh cho người khác không ?
-Con có yêu người như mình vậy không ?
-Con có làm tròn bổn phận của con không ?...
Và thật vô phúc cho chúng ta, khi chúng ta không có một liên hệ bác ái nào với tha nhân, và như thế cũng có nghĩa là chúng ta bị tách khỏi những người lành thánh, phải đứng bên tay tả của Chúa Giê-su với những người được gọi là bè lũ của ma quỷ...
Anh chị em thân mến,
Có nhiều lúc chúng ta tuyên xưng Chúa Giê-su là Vua vũ trụ, nhưng chúng ta chưa tuyên bố và chưa tuyên xưng Ngài là Vua trong gia đình, và là Vua đang ngự trong tâm hồn của chúng ta, cho nên danh hiệu “gia đình Ki-tô hữu” chưa hấp dẫn được người khác, và danh hiệu “người Ki-tô hữu” của mình chưa thực sự tỏa sáng cho người khác thấy trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con tuyên xưng Chúa là Vua và là Chúa của chúng con bằng những thánh lễ trọng thể và bằng những cuộc rước kiệu thật náo nhiệt, để biểu dương sức mạnh đức tin của mình và của Giáo Hội. Nhưng khi thánh lễ kết thúc và cuộc rước kiệu đã xong, nhà thờ là nơi ngai vàng hữu hình của Chúa ngự giữa giáo xứ lại trống vắng, lạnh lùng, Chúa là vua ngự trong nhà tạm lại càng cô đơn hơn chẳng một ai đến thờ lạy, kể cả chúng con là những linh mục –công thần của Chúa- đang coi sóc giáo xứ ở sát ngay bên cạnh nhà Chúa.
Chúng con tôn thờ Chúa là vua đang ngự giữa chúng con trong nhà tạm, nhưng hàng ngày chúng con chỉ thích đến viếng các nhà hàng nhậu nhẹt, ôm ấp các kỹ nữ hơn là đến nhà thờ để thờ lạy Chúa; chúng con tuyên nhận Chúa là vua vũ trụ đang ngự trong nhà tạm, nhưng chúng con cảm thấy mất thời giờ khi đến thờ lạy và ca tụng Chúa nơi nhà thờ...
Xin Chúa thương xót chúng con là những người tội lỗi, thường bất trung với Chúa và bất nhẫn với tha nhân trong cuộc sống của mình hôm nay. Amen
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
(CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN)
Tin mừng: Mt 25, 31-46.
“Con Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ với nhau”.
Anh chị em thân mến,
Năm Phụng Vụ của Giáo Hội được kết thúc bằng việc cử hành trọng thể lễ “Chúa Giê-su Ki-tô vua vũ trụ”, để cho chúng ta thấy rằng: chính Chúa Giê-su là Khởi Đầu và Chung Kết, nên Ngài là vua vũ trụ và là Đấng xét xử loài người; là Đấng hôm qua, hôm nay và ngày mai, nên Ngài là Đấng ngự trị trường tồn, bất diệt.
Chúa Giê-su xét xử như thế nào ?
Ngày phán xét chung, ngày tội lỗi và việc lành của mỗi người sẽ được bày ra ánh sáng và tất cả mọi người từ nguyên tổ A-dong và E-và cho đến người sau cùng trên thế giới sẽ thấy; ngày mà những việc lành chúng ta thực hiện trong âm thầm thì nay sẽ được mọi người biết; ngày mà những tội ác chúng ta thực hành trong bóng đêm thì nay sẽ được bày tỏ giữa ban ngày cho mọi người biết...
Ngày phán xét, Chúa Giê-su không hỏi chúng ta:
-Khi còn ở thế gian con tậu được mấy căn nhà ?
-Khi còn ở thế gian con học hành đến đâu và có bao nhiêu văn bằng tiến sĩ, thạc sĩ...?
-Khi còn ở thế gian con gởi nhà băng (bank) được bao nhiêu triệu đồng ?...
-Khi còn ở thế gian con có địa vị to lớn nào trong xã hội, trong Giáo Hội ?
Nhưng Chúa Giê-su sẽ hỏi chúng ta:
-Con có giúp đỡ tha nhân không ?
-Con có hy sinh cho người khác không ?
-Con có yêu người như mình vậy không ?
-Con có làm tròn bổn phận của con không ?...
Và thật vô phúc cho chúng ta, khi chúng ta không có một liên hệ bác ái nào với tha nhân, và như thế cũng có nghĩa là chúng ta bị tách khỏi những người lành thánh, phải đứng bên tay tả của Chúa Giê-su với những người được gọi là bè lũ của ma quỷ...
Anh chị em thân mến,
Có nhiều lúc chúng ta tuyên xưng Chúa Giê-su là Vua vũ trụ, nhưng chúng ta chưa tuyên bố và chưa tuyên xưng Ngài là Vua trong gia đình, và là Vua đang ngự trong tâm hồn của chúng ta, cho nên danh hiệu “gia đình Ki-tô hữu” chưa hấp dẫn được người khác, và danh hiệu “người Ki-tô hữu” của mình chưa thực sự tỏa sáng cho người khác thấy trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con tuyên xưng Chúa là Vua và là Chúa của chúng con bằng những thánh lễ trọng thể và bằng những cuộc rước kiệu thật náo nhiệt, để biểu dương sức mạnh đức tin của mình và của Giáo Hội. Nhưng khi thánh lễ kết thúc và cuộc rước kiệu đã xong, nhà thờ là nơi ngai vàng hữu hình của Chúa ngự giữa giáo xứ lại trống vắng, lạnh lùng, Chúa là vua ngự trong nhà tạm lại càng cô đơn hơn chẳng một ai đến thờ lạy, kể cả chúng con là những linh mục –công thần của Chúa- đang coi sóc giáo xứ ở sát ngay bên cạnh nhà Chúa.
Chúng con tôn thờ Chúa là vua đang ngự giữa chúng con trong nhà tạm, nhưng hàng ngày chúng con chỉ thích đến viếng các nhà hàng nhậu nhẹt, ôm ấp các kỹ nữ hơn là đến nhà thờ để thờ lạy Chúa; chúng con tuyên nhận Chúa là vua vũ trụ đang ngự trong nhà tạm, nhưng chúng con cảm thấy mất thời giờ khi đến thờ lạy và ca tụng Chúa nơi nhà thờ...
Xin Chúa thương xót chúng con là những người tội lỗi, thường bất trung với Chúa và bất nhẫn với tha nhân trong cuộc sống của mình hôm nay. Amen
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:25 18/11/2011
N2T |
17. Linh hồn ơi, khi sống ở đời này ngươi phải nhiệt thành yêu mến và hy vọng ở thiên đàng, phải đau lòng khi chưa được hưởng thiên đàng, phải lo lắng khi ngươi có thể mất đi thiên đàng, phải khử trừ tất cả những gì làm ngươi không thể lên thiên đàng, đối với tất cả những sự vật khác thì ngươi không nên cảm thấy vui vẻ hứng thú.
(Thánh Anselm)Mỗi tuần một ''Chuyện Rất Ngắn''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:27 18/11/2011
KHOE KHOANG
Cha sở khoe với giáo dân ở xứ truyền giáo:
- “Vì hoàn cảnh đất nước nên cha học xong triết học và thần học khi mới mười tám tuổi, rồi vượt biên...”
Giáo dân cười thầm, lẽ nào vừa tốt nghiệp phổ thông lại vừa tốt nghiệp đại chủng viện cùng lúc !
--------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Cha sở khoe với giáo dân ở xứ truyền giáo:
- “Vì hoàn cảnh đất nước nên cha học xong triết học và thần học khi mới mười tám tuổi, rồi vượt biên...”
Giáo dân cười thầm, lẽ nào vừa tốt nghiệp phổ thông lại vừa tốt nghiệp đại chủng viện cùng lúc !
--------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Âm mưu thâm độc của Stalin
Trầm Thiên Thu
07:55 18/11/2011
Dựa trên việc nghiên cứu văn khố của Tòa thánh, một cuốn sách mới cho thấy chi tiết về mưu mô độc ác của Stalin muốn ỏ đói cả Soviet Ukraine tới chết.
Bầu trời u ám và ngày giờ ngắn của tháng 11 nhắc mọi người nhớ rằng đây là tháng cầu nguyện cho những người đã qua đời. Tháng này có vẻ thích hợp để giới thiệu các tài liệu mới về một trong các sự kiện bi thảm nhất — và thực sự chưa được biết — về thời hiện đại, Nạn đói của Ukraina.
Cuốn sách “The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine” (Tòa thánh và Cuộc bỏ đói: Tài liệu từ Văn khố mật của Tòa thánh về Nạn đói năm 1932-1933 tại Ukraina của Soviet) của LM Athanasiô McVay và GS Lubomyr Luciuk đã được giới thiệu ngày 26-10-2011 tại Trung tâm Đại kết Nga (Russian Ecumenical Center) ở Rôma. Cuốn sách này hiện có bản tiếng Anh ở các nhà sách Kashtan Press và Abe Books.
Từ ngữ Holodomor theo nghĩa đen là “giết bằng cách bỏ đói”, xảy ra trong những năm 1932-33 ở vùng đất phì nhiêu Ukraina của Liên xô. Số tử vong không biết chính xác vì thiếu tài liệu, nhưng ước tính có tới 2,4 tới 7,5 triệu người chết. Nạn đói này do con người tạo ra, họ muốn bỏ đói những người yêu nước Ukraina đến chết, đã được coi là tội ác diệt chủng của nhiều nước trên thế giới.
Bầu trời u ám và ngày giờ ngắn của tháng 11 nhắc mọi người nhớ rằng đây là tháng cầu nguyện cho những người đã qua đời. Tháng này có vẻ thích hợp để giới thiệu các tài liệu mới về một trong các sự kiện bi thảm nhất — và thực sự chưa được biết — về thời hiện đại, Nạn đói của Ukraina.
Cuốn sách “The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine” (Tòa thánh và Cuộc bỏ đói: Tài liệu từ Văn khố mật của Tòa thánh về Nạn đói năm 1932-1933 tại Ukraina của Soviet) của LM Athanasiô McVay và GS Lubomyr Luciuk đã được giới thiệu ngày 26-10-2011 tại Trung tâm Đại kết Nga (Russian Ecumenical Center) ở Rôma. Cuốn sách này hiện có bản tiếng Anh ở các nhà sách Kashtan Press và Abe Books.
Từ ngữ Holodomor theo nghĩa đen là “giết bằng cách bỏ đói”, xảy ra trong những năm 1932-33 ở vùng đất phì nhiêu Ukraina của Liên xô. Số tử vong không biết chính xác vì thiếu tài liệu, nhưng ước tính có tới 2,4 tới 7,5 triệu người chết. Nạn đói này do con người tạo ra, họ muốn bỏ đói những người yêu nước Ukraina đến chết, đã được coi là tội ác diệt chủng của nhiều nước trên thế giới.
ĐTC: Niềm vui chiến thắng của Tình yêu
Jos. Tú Nạc, NMS
07:56 18/11/2011
Đức Thánh Cha nói Thánh Vịnh 110 kể cho chúng ta: “Vâng, có rất nhiều tội ác trên thế giới, và tội ác hình như mãnh liệt hơn. Không! Chúa Trời, vương đế và là linh mục chân chính của chúng ta, Đức Ki-tô, mãnh liệt hơn bởi Người chiến đấu bằng uy quyền của Thiên Chúa và cho dù tất cả những điều đó tạo cho chúng ta sự hoài nghi về một hậu quả cho lịch sử. Đức Ki-tô đã chiến thắng lẫy lừng trong vinh quang, tình yêu đã chiến thắng, không phải sự căm thù.”
Sự phản hồi về văn bản tin vào Chúa cứu thế đặc biệt quan trọng này, Đức Thánh Cha đã bao gồm một loạt những bài giáo lý về những Thánh Vịnh, một phần chu kỳ mở rộng hơn về sự giảng dạy cầu nguyện Ki-tô giáo của Ngài.
Hai mươi ngàn khách hành hương và khách thăm viếng tràn ngập Công trường Thánh Phê-rô vào buổi yết kiến hôm thứ Tư 16/ 11. ĐTC bắt đầu bằng việc truy tìm dấu vết của Thánh Vịnh này, một trong những “Thánh Vịnh vương đế” trứ danh, được liên kết nguyên thủy với sự đăng quang của một vương quốc David. Giáo Hội đọc Thánh Vịnh này như một lời tiên tri của Đức Ki-tô, vị vua cứu thế và là linh mục đời đời, sống lại từ cõi chết ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Phê-rô trong diễn từ của mình vào ngày Lễ Hiện Xuống (Acts 2: 32-36), đã ứng dụng lời này trước chiến thắng của Chúa vượt qua cái chết và lời tán tụng của ngài trong vinh quang. Vào thời cổ đại. câu thứ ba đầy huyền nhiệm của Thánh Vịnh đã được làm sáng tỏ như một dẫn chứng tình nghĩa tử thiêng liêng của vị vua này, trong lúc câu thứ tư nói về Người “như một linh mục đời đời, theo lệnh của Melchizedek.” Thư gửi tín hữu Hebrew đặc biệt đã áp dụng hình tượng này cho Đức Ki-tô, Con Một Thiên Chúa và là một vị linh mục cao trọng hoàn hảo của chúng ta, người mà hằng sống để tạo sự trung gian cho tất cả những ai, qua Người, đến với Đức Chúa Cha (Heb. 7: 25). Những câu cuối của Thánh Vịnh phô diễn sự đắc thắng như thực hiện sự phán xét bao trùm mọi dân tộc. Khi chúng ta nguyện Thánh Vịnh này, chúng ta tung hô sự chiến thắng của Chúa chúng ta đã sống lại, trong lúc phấn đấu để sống mãi tràn dấy phẩm cách linh mục và vương đế, nơi mà chúng ta là chi Thể của Người thông qua Phép Rửa.
Lời bình bằng tiếng Ý, ĐTC Benedict lưu ý: “Bằng hình ảnh Chúa Giê-su phục sinh và đăng quang trên trời, nơi mà Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, sấm ngôn của Thánh Vịnh chúng ta đã hoàn thành và thiên chức linh mục của Melchizedek đã trọn vẹn, bởi nó được trở nên tuyệt đối và vĩnh cửu, đã thấy sự thỏa mãn của nó trong Phép Thánh Thể của Chúa Giê-su, người mà tự mình trao bánh và rượu, và đã chiến thắng cái chết, mang sự sống đến mọi tín hữu. Linh mục đời đời, thánh thiện, vô tội, không hoen ố, như khi chúng ta đóc Thánh Thư gửi tín hữu Hebrew, Người có thê cứu với những ai thông qua Người để tiếp cận Thiên Chúa.; Người là sự sống muôn đời để bênh vực họ.
Phần cuối của Thánh Vịnh vị vua chiến thắng vinh quang, người mà “được Chúa Trời trợ giúp” xua tan mọi kẻ thù và phán xét mọi dân tộc: “Đế vương được bảo vệ bởi Chúa Trời, phá tan mọi trở lực và tiến hành một cách an toàn tới chiến thắng. Điều đó nói với chúng ta: “Vâng, có rất nhiều tội ác trên thế giới, và tội ác hình như mãnh liệt hơn. Không! Chúa Trời, quyền vương đế và là linh mục chân chính của chúng ta, Đức Ki-tô, mãnh liệt hơn bởi Người chiến đấu bằng uy quyền của Thiên Chúa và cho dù tất cả những điều đó tạo cho chúng ta sự hoài nghi về một hậu quả cho lịch sử. Đức Ki-tô đã chiến thắng lẫy lừng trong vinh quang, tình yêu đã chiến thắng, không phải sự căm thù.”
Và cuối cùng Đức Thánh Cha đã chào tất cả khách hành hương và khách thăm viếng hiện diện bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, bao gồm tiếng Anh: “Tôi gửi lời chào chân thành đến nhiều nhóm sinh viên hiện diện tại buổi Yết Triều hôn nay, lời chào mừng của tôi đến đoàn đại biểu Ủy ban Liên hợp Mỹ Israel. Với tất cả những khách hành hương nói tiếng Anh hiện diện nơi đây, đặc biệt đến từ Anh, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, tôi cầu xin ơn lành bình an, hân hoan trong Thiên Chúa.
(“Những bài giáo lý của Đức Thánh Cha” – News.VA)
Sự phản hồi về văn bản tin vào Chúa cứu thế đặc biệt quan trọng này, Đức Thánh Cha đã bao gồm một loạt những bài giáo lý về những Thánh Vịnh, một phần chu kỳ mở rộng hơn về sự giảng dạy cầu nguyện Ki-tô giáo của Ngài.
Hai mươi ngàn khách hành hương và khách thăm viếng tràn ngập Công trường Thánh Phê-rô vào buổi yết kiến hôm thứ Tư 16/ 11. ĐTC bắt đầu bằng việc truy tìm dấu vết của Thánh Vịnh này, một trong những “Thánh Vịnh vương đế” trứ danh, được liên kết nguyên thủy với sự đăng quang của một vương quốc David. Giáo Hội đọc Thánh Vịnh này như một lời tiên tri của Đức Ki-tô, vị vua cứu thế và là linh mục đời đời, sống lại từ cõi chết ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Phê-rô trong diễn từ của mình vào ngày Lễ Hiện Xuống (Acts 2: 32-36), đã ứng dụng lời này trước chiến thắng của Chúa vượt qua cái chết và lời tán tụng của ngài trong vinh quang. Vào thời cổ đại. câu thứ ba đầy huyền nhiệm của Thánh Vịnh đã được làm sáng tỏ như một dẫn chứng tình nghĩa tử thiêng liêng của vị vua này, trong lúc câu thứ tư nói về Người “như một linh mục đời đời, theo lệnh của Melchizedek.” Thư gửi tín hữu Hebrew đặc biệt đã áp dụng hình tượng này cho Đức Ki-tô, Con Một Thiên Chúa và là một vị linh mục cao trọng hoàn hảo của chúng ta, người mà hằng sống để tạo sự trung gian cho tất cả những ai, qua Người, đến với Đức Chúa Cha (Heb. 7: 25). Những câu cuối của Thánh Vịnh phô diễn sự đắc thắng như thực hiện sự phán xét bao trùm mọi dân tộc. Khi chúng ta nguyện Thánh Vịnh này, chúng ta tung hô sự chiến thắng của Chúa chúng ta đã sống lại, trong lúc phấn đấu để sống mãi tràn dấy phẩm cách linh mục và vương đế, nơi mà chúng ta là chi Thể của Người thông qua Phép Rửa.
Lời bình bằng tiếng Ý, ĐTC Benedict lưu ý: “Bằng hình ảnh Chúa Giê-su phục sinh và đăng quang trên trời, nơi mà Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, sấm ngôn của Thánh Vịnh chúng ta đã hoàn thành và thiên chức linh mục của Melchizedek đã trọn vẹn, bởi nó được trở nên tuyệt đối và vĩnh cửu, đã thấy sự thỏa mãn của nó trong Phép Thánh Thể của Chúa Giê-su, người mà tự mình trao bánh và rượu, và đã chiến thắng cái chết, mang sự sống đến mọi tín hữu. Linh mục đời đời, thánh thiện, vô tội, không hoen ố, như khi chúng ta đóc Thánh Thư gửi tín hữu Hebrew, Người có thê cứu với những ai thông qua Người để tiếp cận Thiên Chúa.; Người là sự sống muôn đời để bênh vực họ.
Phần cuối của Thánh Vịnh vị vua chiến thắng vinh quang, người mà “được Chúa Trời trợ giúp” xua tan mọi kẻ thù và phán xét mọi dân tộc: “Đế vương được bảo vệ bởi Chúa Trời, phá tan mọi trở lực và tiến hành một cách an toàn tới chiến thắng. Điều đó nói với chúng ta: “Vâng, có rất nhiều tội ác trên thế giới, và tội ác hình như mãnh liệt hơn. Không! Chúa Trời, quyền vương đế và là linh mục chân chính của chúng ta, Đức Ki-tô, mãnh liệt hơn bởi Người chiến đấu bằng uy quyền của Thiên Chúa và cho dù tất cả những điều đó tạo cho chúng ta sự hoài nghi về một hậu quả cho lịch sử. Đức Ki-tô đã chiến thắng lẫy lừng trong vinh quang, tình yêu đã chiến thắng, không phải sự căm thù.”
Và cuối cùng Đức Thánh Cha đã chào tất cả khách hành hương và khách thăm viếng hiện diện bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, bao gồm tiếng Anh: “Tôi gửi lời chào chân thành đến nhiều nhóm sinh viên hiện diện tại buổi Yết Triều hôn nay, lời chào mừng của tôi đến đoàn đại biểu Ủy ban Liên hợp Mỹ Israel. Với tất cả những khách hành hương nói tiếng Anh hiện diện nơi đây, đặc biệt đến từ Anh, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, tôi cầu xin ơn lành bình an, hân hoan trong Thiên Chúa.
(“Những bài giáo lý của Đức Thánh Cha” – News.VA)
Thỏa thuận lịch sử giữa Đại học Latêranô và Pakistan
Nguyễn Trọng Đa
09:23 18/11/2011
Thỏa thuận lịch sử giữa Đại học Latêranô và Pakistan
Quốc vụ khanh ‘Bộ hòa hợp liên tôn’ của Pakistan thăm Toà thánh
ROMA - Một nhà thờ mới ở Pakistan và một thỏa thuận với Đại học Giáo Hoàng Latêranô: đó là kết quả rất tích cực của chuyến thăm nước Ý và Toà thánh Vatican của ngài Akram Masih Gill, Quốc vụ khanh của Bộ Liên bang Hoà hợp liên tôn của chính phủ Pakistan, theo hãng tin Fides.
Quốc vụ khanh đã yết kiến ĐTC Biển Đức XVI trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 16-11, tại Quảng trường Thánh Phêrô. Ông đã trình bày với ĐTC các mong đợi và hy vọng của Kitô hữu ở Pakistan, và xin Ngài "cầu nguyện cho các tín hữu Pakistan, những người giữa các khó khăn hàng ngày của họ, biết dựa vào sự hỗ trợ của Ngài”.
Quốc vụ khanh Gill đã gặp Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Latêranô, Đức Giám mục Enrico Dal Covolo, người đã bày tỏ mối quan ngại của mình cho các nhóm thiểu số Kitô giáo ở Pakistan. Quốc vụ khanh và Viện trưởng Đại học Giáo Hoàng Latêranô đã đưa ra một dự án hợp tác - giao cho Giáo sư Mobeen Shahid người Pakistan của trường Đại học – nhằm trao đổi các giáo sư, sinh viên và sách vở, cũng như tổ chức chung các cuộc hội thảo và các hoạt động văn hóa và học thuật, về các chủ đề như sự đối thoại giữa các đức tin và sự hòa hợp tôn giáo.
Hãng tin Fides cũng công bố việc xây dựng một nhà thờ mới trong giáo phận Faisalabad: Dự án đã được đưa ra thông qua việc kết nghĩa của giáo xứ "Lòng Chúa Thương Xót” của giáo phận Roma và làng Chak 54 ở Rahmpur, huyện Okara, tỉnh Punjab.
Thật vậy, một linh mục Pakistan ở Faisalabad, Cha Kamran Taj, đang theo học thần học ở Roma và làm công tác mục vụ trong giáo xứ Roma này. Từ kinh nghiệm ấy, nảy sinh nhu cầu hỗ trợ việc xây dựng một nhà thờ mới, hoàn toàn được tài trợ bởi các khoản hiến tặng của các tín hữu giáo xứ.
Cha Federico Corrubbolo, cha xứ giáo xứ này, nói với hãng tin Fides rằng nhà thờ mới sẽ là nhà thờ đầu tiên ở Pakistan được cung hiến cho "Lòng Chúa Thương Xót”.
Toà nhà đang được xây dựng, có thể được hoàn thành vào lễ Giáng sinh năm nay, và mối quan hệ của nó với Roma sẽ được tượng trưng bởi một ảnh tượng Đức Bà của tình yêu Thiên Chúa, một đền thánh ở ngay cửa vào Roma.
Cha Corrubbolo nhận xét: “Đó không những là một hình thức trợ giúp cho các Kitô hữu địa phương, mà còn là một hình thức truyền giáo, để hình ảnh Chúa là Cha giàu lòng thương xót có thể đạt đến tâm hồn mọi người thiện chí".
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của hãng tin Fides, Quốc vụ khanh Gill cho biết ông đánh giá rất cao dự án và ông ủng hộ dự án, khi ông tuyên bố là "hạnh phúc với sáng kiến này", và tin chắc rằng "các nhóm thiểu số Kitô giáo sẽ được hưởng lợi, và dự án sẽ mang lại hoa trái: ông hy vọng rằng Chúa là Cha giàu lòng thương xót sẽ dẫn đưa Pakistan đến hòa bình và hòa hợp". (ZENIT.org 17-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Quốc vụ khanh ‘Bộ hòa hợp liên tôn’ của Pakistan thăm Toà thánh
Quốc vụ khanh đã yết kiến ĐTC Biển Đức XVI trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 16-11, tại Quảng trường Thánh Phêrô. Ông đã trình bày với ĐTC các mong đợi và hy vọng của Kitô hữu ở Pakistan, và xin Ngài "cầu nguyện cho các tín hữu Pakistan, những người giữa các khó khăn hàng ngày của họ, biết dựa vào sự hỗ trợ của Ngài”.
Quốc vụ khanh Gill đã gặp Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Latêranô, Đức Giám mục Enrico Dal Covolo, người đã bày tỏ mối quan ngại của mình cho các nhóm thiểu số Kitô giáo ở Pakistan. Quốc vụ khanh và Viện trưởng Đại học Giáo Hoàng Latêranô đã đưa ra một dự án hợp tác - giao cho Giáo sư Mobeen Shahid người Pakistan của trường Đại học – nhằm trao đổi các giáo sư, sinh viên và sách vở, cũng như tổ chức chung các cuộc hội thảo và các hoạt động văn hóa và học thuật, về các chủ đề như sự đối thoại giữa các đức tin và sự hòa hợp tôn giáo.
Hãng tin Fides cũng công bố việc xây dựng một nhà thờ mới trong giáo phận Faisalabad: Dự án đã được đưa ra thông qua việc kết nghĩa của giáo xứ "Lòng Chúa Thương Xót” của giáo phận Roma và làng Chak 54 ở Rahmpur, huyện Okara, tỉnh Punjab.
Thật vậy, một linh mục Pakistan ở Faisalabad, Cha Kamran Taj, đang theo học thần học ở Roma và làm công tác mục vụ trong giáo xứ Roma này. Từ kinh nghiệm ấy, nảy sinh nhu cầu hỗ trợ việc xây dựng một nhà thờ mới, hoàn toàn được tài trợ bởi các khoản hiến tặng của các tín hữu giáo xứ.
Cha Federico Corrubbolo, cha xứ giáo xứ này, nói với hãng tin Fides rằng nhà thờ mới sẽ là nhà thờ đầu tiên ở Pakistan được cung hiến cho "Lòng Chúa Thương Xót”.
Toà nhà đang được xây dựng, có thể được hoàn thành vào lễ Giáng sinh năm nay, và mối quan hệ của nó với Roma sẽ được tượng trưng bởi một ảnh tượng Đức Bà của tình yêu Thiên Chúa, một đền thánh ở ngay cửa vào Roma.
Cha Corrubbolo nhận xét: “Đó không những là một hình thức trợ giúp cho các Kitô hữu địa phương, mà còn là một hình thức truyền giáo, để hình ảnh Chúa là Cha giàu lòng thương xót có thể đạt đến tâm hồn mọi người thiện chí".
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của hãng tin Fides, Quốc vụ khanh Gill cho biết ông đánh giá rất cao dự án và ông ủng hộ dự án, khi ông tuyên bố là "hạnh phúc với sáng kiến này", và tin chắc rằng "các nhóm thiểu số Kitô giáo sẽ được hưởng lợi, và dự án sẽ mang lại hoa trái: ông hy vọng rằng Chúa là Cha giàu lòng thương xót sẽ dẫn đưa Pakistan đến hòa bình và hòa hợp". (ZENIT.org 17-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Mỹ: Giám mục Vann giữ vai trò quan trọng trong việc huấn luyện các cựu linh mục Tân giáo
Nguyễn Trọng Đa
09:26 18/11/2011
Mỹ: Giám mục Vann giữ vai trò quan trọng trong việc huấn luyện các cựu linh mục Tân giáo
Baltimore, Maryland - Đức Giám Mục Kevin W. Vann, giáo phận Fort Worth (Mỹ), sẽ phụ trách việc tiếp đón và huấn luyện các cựu linh mục Tân giáo (Episcopal), những người muốn trở thành linh mục Công Giáo trong Giáo hạt tòng nhân (Ordinariate) Anh giáo ở Mỹ sắp được thiết lập.
Việc bổ nhiệm này, được thực hiện bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tòa thánh, đã được Đức Hồng Y Donald W. Wuerl, tổng giáo phận Washington, công bố vào ngày 15-11, tại hội nghị toàn thể mùa thu của Hội đồng Giám mục Mỹ tại Baltimore.
Đức Hồng Y Wuerl cũng thông báo rằng một Giáo hạt tòng nhân Anh giáo sẽ được thành lập tại Mỹ vào ngày 1-1-2012.
Giáo hạt tòng nhân sẽ cho phép các cộng đồng Anh giáo, vốn thuộc về Hội thánh Tân giáo ở Mỹ, gia nhập Giáo Hội Công Giáo, trong khi vẫn giữ một số yếu tố di sản và việc thực hành phụng vụ của họ.
Các linh mục Tân giáo nào gia nhập Giáo Hội Công Giáo, như là một phần của một cộng đồng trong Giáo hạt tòng nhân, có thể theo học một chương trình đào tạo linh mục mới tại Đại Chủng viện Đức Bà ở Houston.
Tuy nhiên, cá nhân giáo sĩ Tân giáo nào chọn gia nhập Giáo Hội Công Giáo có thể trở thành linh mục trong các giáo phận Công Giáo hiện nay, thông qua chương trình Đáp ứng Mục vụ (the pastoral provision).
Tòa Thánh đã thiết lập chương trình Đáp ứng Mục vụ năm 1980. Khoảng 100 người nam đã được truyền chức linh mục, kể từ khi chương trình Đáp ứng Mục vụ được thực hiện.
Khi nắm giữ vai trò mới, Đức Giám mục Vann kế nhiệm Đức Tổng Giám Mục John J. Myers, tổng giáo phận Newark, người đã giữ chức vụ này từ năm 2003.
Là phái viên chương trình Đáp ứng Mục vụ tại Mỹ, Đức Giám mục Vann sẽ làm việc với các cựu giáo sĩ Anh giáo đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và muốn theo đuổi ơn gọi làm linh mục.
Ngài sẽ quản lý các nỗ lực để thu thập và gửi thông tin của mỗi ứng viên cho chức linh mục về Toà Thánh.
Ngài cũng sẽ đảm bảo rằng các ứng viên được đào tạo đầy đủ về thần học, linh đạo và mục vụ, khi họ chuẩn bị nhận lãnh chức Linh mục. Các nỗ lực này sẽ được giám sát bởi một Hội đồng các thần học gia, do Đức Giám mục Vann thành lập, để đánh giá việc học hành và chứng nhận khả năng cho các ứng viên.
Đức Giám mục Vann đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc với chương trình Đáp ứng Mục vụ.
Không bao lâu sau khi Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Fort Worth vào năm 2005, Ngài được cử làm Phó phái viên cho chương trình Đáp ứng Mục vụ tại Mỹ, với trách nhiệm đặc biệt cho vùng Texas.
Trong vai trò này, Ngài đã nhìn thấy cách thức chương trình Đáp ứng Mục vụ giúp củng cố một mối quan hệ anh em mạnh mẽ giữa Giáo Hội Công Giáo và Hội thánh Tân giáo.
Ngài nói: "Cá nhân tôi có thể làm chứng cho các phúc lành, mà chương trình Đáp ứng Mục vụ đã mang lại cho Giáo phận Fort Worth".
Trong tháng 9-2011, 24 tín hữu Tân giáo từ bốn giáo xứ trong khu vực lớn Fort Worth đã gia nhập Giáo Hội Công giáo tại một Thánh Lễ, do Đức Giám mục Vann chủ tế.
Giám mục nói rằng Ngài biết ơn Giáo hội để phục vụ Giáo Hội trong vai trò mới của mình.
Ngài giải thích rằng mặc dù Giáo hạt tòng nhân và chương trình Đáp ứng Mục vụ hoạt động riêng biệt, và làm công việc khác nhau, chúng sẽ bổ sung cho nhau và hợp tác, để hỗ trợ các tín hữu Anh giáo gia nhập Giáo Hội.
Ngài nói, cùng làm việc với nhau, chúng sẽ phấn đấu để đạt được mong muốn của Chúa Kitô là "cho mọi người nên một”. (CNA/EWTN News 17-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Việc bổ nhiệm này, được thực hiện bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tòa thánh, đã được Đức Hồng Y Donald W. Wuerl, tổng giáo phận Washington, công bố vào ngày 15-11, tại hội nghị toàn thể mùa thu của Hội đồng Giám mục Mỹ tại Baltimore.
Đức Hồng Y Wuerl cũng thông báo rằng một Giáo hạt tòng nhân Anh giáo sẽ được thành lập tại Mỹ vào ngày 1-1-2012.
Giáo hạt tòng nhân sẽ cho phép các cộng đồng Anh giáo, vốn thuộc về Hội thánh Tân giáo ở Mỹ, gia nhập Giáo Hội Công Giáo, trong khi vẫn giữ một số yếu tố di sản và việc thực hành phụng vụ của họ.
Các linh mục Tân giáo nào gia nhập Giáo Hội Công Giáo, như là một phần của một cộng đồng trong Giáo hạt tòng nhân, có thể theo học một chương trình đào tạo linh mục mới tại Đại Chủng viện Đức Bà ở Houston.
Tuy nhiên, cá nhân giáo sĩ Tân giáo nào chọn gia nhập Giáo Hội Công Giáo có thể trở thành linh mục trong các giáo phận Công Giáo hiện nay, thông qua chương trình Đáp ứng Mục vụ (the pastoral provision).
Tòa Thánh đã thiết lập chương trình Đáp ứng Mục vụ năm 1980. Khoảng 100 người nam đã được truyền chức linh mục, kể từ khi chương trình Đáp ứng Mục vụ được thực hiện.
Khi nắm giữ vai trò mới, Đức Giám mục Vann kế nhiệm Đức Tổng Giám Mục John J. Myers, tổng giáo phận Newark, người đã giữ chức vụ này từ năm 2003.
Là phái viên chương trình Đáp ứng Mục vụ tại Mỹ, Đức Giám mục Vann sẽ làm việc với các cựu giáo sĩ Anh giáo đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và muốn theo đuổi ơn gọi làm linh mục.
Ngài sẽ quản lý các nỗ lực để thu thập và gửi thông tin của mỗi ứng viên cho chức linh mục về Toà Thánh.
Ngài cũng sẽ đảm bảo rằng các ứng viên được đào tạo đầy đủ về thần học, linh đạo và mục vụ, khi họ chuẩn bị nhận lãnh chức Linh mục. Các nỗ lực này sẽ được giám sát bởi một Hội đồng các thần học gia, do Đức Giám mục Vann thành lập, để đánh giá việc học hành và chứng nhận khả năng cho các ứng viên.
Đức Giám mục Vann đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc với chương trình Đáp ứng Mục vụ.
Không bao lâu sau khi Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Fort Worth vào năm 2005, Ngài được cử làm Phó phái viên cho chương trình Đáp ứng Mục vụ tại Mỹ, với trách nhiệm đặc biệt cho vùng Texas.
Trong vai trò này, Ngài đã nhìn thấy cách thức chương trình Đáp ứng Mục vụ giúp củng cố một mối quan hệ anh em mạnh mẽ giữa Giáo Hội Công Giáo và Hội thánh Tân giáo.
Ngài nói: "Cá nhân tôi có thể làm chứng cho các phúc lành, mà chương trình Đáp ứng Mục vụ đã mang lại cho Giáo phận Fort Worth".
Trong tháng 9-2011, 24 tín hữu Tân giáo từ bốn giáo xứ trong khu vực lớn Fort Worth đã gia nhập Giáo Hội Công giáo tại một Thánh Lễ, do Đức Giám mục Vann chủ tế.
Giám mục nói rằng Ngài biết ơn Giáo hội để phục vụ Giáo Hội trong vai trò mới của mình.
Ngài giải thích rằng mặc dù Giáo hạt tòng nhân và chương trình Đáp ứng Mục vụ hoạt động riêng biệt, và làm công việc khác nhau, chúng sẽ bổ sung cho nhau và hợp tác, để hỗ trợ các tín hữu Anh giáo gia nhập Giáo Hội.
Ngài nói, cùng làm việc với nhau, chúng sẽ phấn đấu để đạt được mong muốn của Chúa Kitô là "cho mọi người nên một”. (CNA/EWTN News 17-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Tượng Mẹ Thiên Chúa lên không gian cùng với các phi hành gia Nga
Phạm Kim An
09:28 18/11/2011
Tượng Mẹ Thiên Chúa lên không gian cùng với các phi hành gia Nga
Mátxcơva - Khi thế giới mừng nhóm phi hành gia mới lên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), trong một cuộc phát sóng truyền hình trực tiếp về các phi hành gia đang nói về các cảm nghiệm của họ, hai hình ảnh được nhìn thấy rõ ràng: ảnh người đầu tiên lên vũ trụ là người Nga Gagarin, và một tượng Đức Mẹ Kazan (xem ảnh).
Tượng Đức Trinh Nữ, một trong những tượng được tôn kính nhất của Chính Thống Giáo Nga, là quà tặng hồi tháng Ba của Đức Thượng Phụ Mátxcơva, Kirill, cho Giám đốc Cơ quan Vũ trụ Nga (Roscosmos) Anatoly Perminov. Ông nói: “Tôi hy vọng là tượng được đưa lên con tàu cho chuyến đi mừng kỷ niệm 50 năm ngày phi hành gia đầu tiên lên vũ trụ" với nhà lãnh đạo tôn giáo. Ông muốn nhắc đến nhiệm vụ của con tàu Soyuz TMA-24, mà ngày 30-3 nó được phóng lên và ráp nối với Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), một nhiệm vụ dành tưởng nhớ phi hành gia Gagarin huyền thoại. Theo Thượng Phụ, các phi hành gia "cũng như các nhiệm vụ phức tạp và quan trọng của họ", cũng sẽ làm "một nhiệm vụ thiêng liêng cách nào đó” với tượng Đức Mẹ.
Đây không phải là lần đầu tiên một tượng Đức Mẹ đi vào không gian: năm 2009, tượng Đức Bà Dấu Hiệu được chuyển lên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) bằng con tàu Soyuz TMA16.
Nhiệm vụ của con tàu Soyuz TMA22 kết thúc ngày 16-11, là chuyến bay có người đầu tiên kể từ tháng Tám qua, sau vụ một tên lửa của con tàu chở hàng phát nổ và rơi xuống Siberia. Trước khi rời sân bay vũ trụ Baiknour (Kazakhstan), tàu không gian đã được một linh mục Chính thống giáo làm phép. Đây là một thành công rõ ràng cho Soyuz, vốn hiện nay là hình thức bình thường duy nhất để đưa người lên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), kể từ khi Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) không dùng tàu con thoi nữa, và ngành công nghiệp không gian của Nga gần đây có một loạt tai nạn. Hiện nay, phi hành đoàn trên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) gồm có ba phi hành gia Nga, hai phi hành gia Mỹ và một phi hành gia Nhật. (AsiaNews 17-11-2011)
Phạm Kim An
Tượng Đức Trinh Nữ, một trong những tượng được tôn kính nhất của Chính Thống Giáo Nga, là quà tặng hồi tháng Ba của Đức Thượng Phụ Mátxcơva, Kirill, cho Giám đốc Cơ quan Vũ trụ Nga (Roscosmos) Anatoly Perminov. Ông nói: “Tôi hy vọng là tượng được đưa lên con tàu cho chuyến đi mừng kỷ niệm 50 năm ngày phi hành gia đầu tiên lên vũ trụ" với nhà lãnh đạo tôn giáo. Ông muốn nhắc đến nhiệm vụ của con tàu Soyuz TMA-24, mà ngày 30-3 nó được phóng lên và ráp nối với Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), một nhiệm vụ dành tưởng nhớ phi hành gia Gagarin huyền thoại. Theo Thượng Phụ, các phi hành gia "cũng như các nhiệm vụ phức tạp và quan trọng của họ", cũng sẽ làm "một nhiệm vụ thiêng liêng cách nào đó” với tượng Đức Mẹ.
Đây không phải là lần đầu tiên một tượng Đức Mẹ đi vào không gian: năm 2009, tượng Đức Bà Dấu Hiệu được chuyển lên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) bằng con tàu Soyuz TMA16.
Nhiệm vụ của con tàu Soyuz TMA22 kết thúc ngày 16-11, là chuyến bay có người đầu tiên kể từ tháng Tám qua, sau vụ một tên lửa của con tàu chở hàng phát nổ và rơi xuống Siberia. Trước khi rời sân bay vũ trụ Baiknour (Kazakhstan), tàu không gian đã được một linh mục Chính thống giáo làm phép. Đây là một thành công rõ ràng cho Soyuz, vốn hiện nay là hình thức bình thường duy nhất để đưa người lên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), kể từ khi Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) không dùng tàu con thoi nữa, và ngành công nghiệp không gian của Nga gần đây có một loạt tai nạn. Hiện nay, phi hành đoàn trên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) gồm có ba phi hành gia Nga, hai phi hành gia Mỹ và một phi hành gia Nhật. (AsiaNews 17-11-2011)
Phạm Kim An
Nhà thờ Crystal Cathedral được Tòa án phá sản bán cho Giáo phận Orange
LM Trần Công Nghị
22:41 18/11/2011
SANTA ANA, California - Một thẩm phán liên bang hôm thứ Năm (17/11/2011) đã thông qua việc bán nhà thờ rất thời danh của một giáo phái Tin Lành, đó là Nhà thờ pha-lê (Crystal Cathedral), mà người Việt thường gọi là Nhà Thờ Kiếng cho Giáo phận Công giáo Orange để giúp chi trả các khoản tài chánh mà đại giáo đường Crytal Cathedral đang gặp khó khăn đến khi phải phá sản.
Quyết định của Thẩm phán Tòa án Phá sản Hoa Kỳ Robert Kwan đưa ra sau khi một cuộc chiến đấu thầu giữa Giáo phận Orange và Đại học Chapman đều muốn mua khu nhà thờ này với tài sản 40 mẫu cùng kiến thiết kiếng màu rực rỡ. Đang khi đó giáo dân Tin lành thuộc Hiệp hội Crystal Cathedral lo sợ đây là bước kết thúc của nhà thờ của họ.
Giáo phận trả $ 57.5 triệu Mỹ kim để mua Nhà thờ này làm bằng 10.000 tấm kính dùng làm nhà thờ chính tòa cho giáo phận mà từ lâu đã mong ước có ngôi nhà thờ chính tòa giáo phận khang trang. Từ khi xây dựng xong tới nay, Crystal Cathedral mang tính biểu tượng của thành phố Garden Grove.
Sau khi nghe tại tòa án phá sản liên bang quyết định bán nhà thờ cho giáo phận, Đức Giám Mục Tod D. Brown của giáo phận Orange nói với các phóng viên rằng: "ngôi thánh đường này sẽ trở thành một trung tâm thực sự cho cộng đồng Công Giáo tại Orange County".
Quyết định này sẽ cũng kèm theo điều kiện là Hiệp hội Crystal Cathedral sẽ được mướn lại khu này, nhưng sau 3 năm phải tìm nhà thờ mới cho việc thờ phượng của mình. Giáo phận Orange cũng đồng ý nếu muốn có thể nhường lại nhà thờ Công Giáo gần đó. Và có nguồn tin cho biết đó là nhà thờ St. Calistus (chỉ cách nhà thờ Kiếng khoảng chừng gần 1 cây số, và người Việt Nam thường gọi là nhà thờ Tam Biên). Hiện nay nhà thờ Tam Biên có rất nhiều giáo dân Việt nam, và cha chính xứ là LM Nguyễn văn Tuyên.
Giả như sau này Giáo hội Tin Lành Crystal Cathedral đồng ý mua nhà thờ St Calistus của Công giáo thì chắc chắn lúc bấy giờ giáo dân nhà thờ St. Calistus sẽ được đi chuyển đến nhà thờ mới là nhà thờ kính Crystal Cathedral và cũng là Nhà thờ Chính tòa Công giáo trong tương lai. Người giáo dân gốc Việt Nam lại có chỗ sinh hoạt thật rộng rãi và lộng lẫy...
Trong vài hai tuần qua trước khi có cuộc xử xem Tòa án phá sản sẽ bán cho ai, Ban Giám đốc của Crystal Cathedral và đa số giáo dân Tin lành của nhà thờ này thực tế đã quyết định hỗ trợ bán nhà thờ cho Đại học Chapman để khuyếch trương phân khoa sức khoẻ và có thể bắt đầu mở đại học y khoa.
Nhưng rồi hôm thứ Tư, trước ngày ra tòa xử, Hội đồng quản trị đã thay đổi ý kiến và bỏ phiếu muốn bán cho Giáo phận Orange để bảo vệ nhà thờ như là một tổ chức tôn giáo, với lý do là nội quy nhà thờ và ý muốn tôn trọng tinh thần của các nhà tài trợ khi dâng cúng tiền xây lên nhà thờ này là cốt ý thành nơi thờ phượng.
Bà Carol Milner, con gái của người sáng lập mục sư Robert H. Schuller, cho biết sau khi phiên điều trần như sau: "Tôi thực sự hài lòng khi biết rằng khu vực nhà thờ này có khả năng ít nhất là nhiều thập kỷ, nếu không muốn nói là cả thế kỷ, tiếp tục được lưu giữ như là một nơi thờ phượng thiêng liêng".
Có chừng vài chục giáo dân Tin lành của Nhà thờ Crystal theo dõi cuộc điều trần trong suốt 6 giờ đồng hồ, và khi nghe phán quyết nhà phải bán đi, họ xin với chánh án Tòa phá sản là xin duy trì lại nhà thờ yêu qúy này lại cho họ. Có vài người đã không cầm được nước mắt vì đấy chính là nơi họ đã bỏ tâm huyết và cả cuộc đời thờ phượng ơ nơi đây.
Mục sư Schuller bắt đầu mục vụ Crystal Cathedral 50 năm trước đây, lúc đó ông giảng đạo và nhóm họp phụng tự tại một sân chiếu cinê ngoài trời, dùng cho người lái xe đến dự nghi lễ trong khu đất trống trong sân vào những năm 1950 dưới sự bảo trợ của Giáo Hội Cải cách ở Mỹ. Nhiều thập kỷ sau đó, Giáo hội này phát triển thành một đế chế phụng thờ qua truyền hình quốc tế và xây dựng xây dựng tiếng tăm của mình khắp nơi nhờ vào tài hùng biện của mục sư Schuller với mục truyền hình phụng vụ nổi tiếng "Hour of Power" của mình.
Cuối tuần nhà thờ này luôn lôi kéo những tài tử và các nhân vật thời danh đến tham dự cầu kinh và nghe giảng thuyết và thánh ca. Trong các dịp đặc biệt như Lễ Giáng Sinh còn có diễn Đại nhạc hội "Glory of Christmas" với hàng trăm các nghệ sĩ danh tiếng và hoạt cảnh huy hoàng. Cũng nên biết trước đây với "Hour of Power" (Giờ Quyền Lực) là nguồn sinh lợi đến 70% của Giáo hội doanh thu.
Vào thời điểm năm 2008, doanh thu của Nhà thờ giảm mạnh trong bối cảnh sự suy giảm tài trợ và việc bán vé cho các Show diễn không còn ăn khách nữa do suy thoái kinh tế, như các quan chức nhà thờ cho biết. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng nhà thờ không để thu hút các thành viên trẻ, trong khi đó số người có tuổi trước đây vẫn lui tới nhà thờ nay cũng chán nản vì từ khi Mục sư Robert Schuller trao lại nhà thờ cho con trai của mình đứng đầu, là bắt đầu cuộc xung đột cạnh tranh trong gia đình của mục sư Schuller với nhiều cay đắng và những tố cáo công khai việc tiền bạc tham nhũng và xa hoa.
Vì thiếu tài chánh, nên trong vài năm gần đây Nhà thờ Crystal Cathedral phải sa thải nhân viên và cắt giảm tiền lương, nhưng các khoản nợ đã vượt qua $ 43 triệu USD, khiến tổ chức Crystal Cathedral phải tuyên bố phá sản vào năm ngoái.
Giáo phận trả $ 57.5 triệu Mỹ kim để mua Nhà thờ này làm bằng 10.000 tấm kính dùng làm nhà thờ chính tòa cho giáo phận mà từ lâu đã mong ước có ngôi nhà thờ chính tòa giáo phận khang trang. Từ khi xây dựng xong tới nay, Crystal Cathedral mang tính biểu tượng của thành phố Garden Grove.
Sau khi nghe tại tòa án phá sản liên bang quyết định bán nhà thờ cho giáo phận, Đức Giám Mục Tod D. Brown của giáo phận Orange nói với các phóng viên rằng: "ngôi thánh đường này sẽ trở thành một trung tâm thực sự cho cộng đồng Công Giáo tại Orange County".
Quyết định này sẽ cũng kèm theo điều kiện là Hiệp hội Crystal Cathedral sẽ được mướn lại khu này, nhưng sau 3 năm phải tìm nhà thờ mới cho việc thờ phượng của mình. Giáo phận Orange cũng đồng ý nếu muốn có thể nhường lại nhà thờ Công Giáo gần đó. Và có nguồn tin cho biết đó là nhà thờ St. Calistus (chỉ cách nhà thờ Kiếng khoảng chừng gần 1 cây số, và người Việt Nam thường gọi là nhà thờ Tam Biên). Hiện nay nhà thờ Tam Biên có rất nhiều giáo dân Việt nam, và cha chính xứ là LM Nguyễn văn Tuyên.
Nhà thờ St. Calistus (Tam Biên) |
Trong vài hai tuần qua trước khi có cuộc xử xem Tòa án phá sản sẽ bán cho ai, Ban Giám đốc của Crystal Cathedral và đa số giáo dân Tin lành của nhà thờ này thực tế đã quyết định hỗ trợ bán nhà thờ cho Đại học Chapman để khuyếch trương phân khoa sức khoẻ và có thể bắt đầu mở đại học y khoa.
Nhưng rồi hôm thứ Tư, trước ngày ra tòa xử, Hội đồng quản trị đã thay đổi ý kiến và bỏ phiếu muốn bán cho Giáo phận Orange để bảo vệ nhà thờ như là một tổ chức tôn giáo, với lý do là nội quy nhà thờ và ý muốn tôn trọng tinh thần của các nhà tài trợ khi dâng cúng tiền xây lên nhà thờ này là cốt ý thành nơi thờ phượng.
Bà Carol Milner, con gái của người sáng lập mục sư Robert H. Schuller, cho biết sau khi phiên điều trần như sau: "Tôi thực sự hài lòng khi biết rằng khu vực nhà thờ này có khả năng ít nhất là nhiều thập kỷ, nếu không muốn nói là cả thế kỷ, tiếp tục được lưu giữ như là một nơi thờ phượng thiêng liêng".
Có chừng vài chục giáo dân Tin lành của Nhà thờ Crystal theo dõi cuộc điều trần trong suốt 6 giờ đồng hồ, và khi nghe phán quyết nhà phải bán đi, họ xin với chánh án Tòa phá sản là xin duy trì lại nhà thờ yêu qúy này lại cho họ. Có vài người đã không cầm được nước mắt vì đấy chính là nơi họ đã bỏ tâm huyết và cả cuộc đời thờ phượng ơ nơi đây.
Mục sư Robert Schuller |
Cuối tuần nhà thờ này luôn lôi kéo những tài tử và các nhân vật thời danh đến tham dự cầu kinh và nghe giảng thuyết và thánh ca. Trong các dịp đặc biệt như Lễ Giáng Sinh còn có diễn Đại nhạc hội "Glory of Christmas" với hàng trăm các nghệ sĩ danh tiếng và hoạt cảnh huy hoàng. Cũng nên biết trước đây với "Hour of Power" (Giờ Quyền Lực) là nguồn sinh lợi đến 70% của Giáo hội doanh thu.
Vào thời điểm năm 2008, doanh thu của Nhà thờ giảm mạnh trong bối cảnh sự suy giảm tài trợ và việc bán vé cho các Show diễn không còn ăn khách nữa do suy thoái kinh tế, như các quan chức nhà thờ cho biết. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng nhà thờ không để thu hút các thành viên trẻ, trong khi đó số người có tuổi trước đây vẫn lui tới nhà thờ nay cũng chán nản vì từ khi Mục sư Robert Schuller trao lại nhà thờ cho con trai của mình đứng đầu, là bắt đầu cuộc xung đột cạnh tranh trong gia đình của mục sư Schuller với nhiều cay đắng và những tố cáo công khai việc tiền bạc tham nhũng và xa hoa.
Vì thiếu tài chánh, nên trong vài năm gần đây Nhà thờ Crystal Cathedral phải sa thải nhân viên và cắt giảm tiền lương, nhưng các khoản nợ đã vượt qua $ 43 triệu USD, khiến tổ chức Crystal Cathedral phải tuyên bố phá sản vào năm ngoái.
Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng Hòa Benin
LM Trần Đức Anh OP
15:04 18/11/2011
COTONOU - Chiều ngày 18-11-2011, ĐTC Biển Đức 16 đã đến Cotonou, thủ đô kinh tế của Benin, để khởi sự chuyến viếng thăm trong vòng 3 ngày tại đây, với cao điểm là thánh lễ sáng chúa nhật 20-11-2011 và buổi trao Tông Huấn Africae munus, hậu Thượng HĐGM Phi châu, cho các GM thuộc đại lục này.
Một trong những lý do ĐTC chọn nước Benin để viếng thăm trong chuyến tông du thứ 22 tại hải ngoại là vì Giáo Hội tại đây đang mừng kỷ niệm 150 năm truyền giáo, với chủ đề ”Hỡi người thừa kế và xây dựng tương lai, Kitô hữu, hãy tường trình về niềm hy vọng nơi bạn”.
ĐTC đã đáp trực thăng từ Vatican tới phi trường quốc tế Fiumicino của thành Roma. Tại đây, ngài được tân chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Mario Monti, chào đón và tiễn biệt. Ngoài ra có các chức sắc đạo đời của Giáo Hội địa phương.
Trong số 30 vị thuộc đoàn tùy tùng của ĐTC, đặc biệt có 3 vị HY và 1 GM Phi châu tại Tòa Thánh, trong đó có ĐHY Arinze, người Nigeria, nguyên tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, ĐHY Robert Sarah người Guinea Equatoriale, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, và ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; đặc biệt có Đức Cha Barthélémy Adoukounou, người Benin, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, và cũng là một cựu sinh viên của ĐHY Ratzinger, đương kim Giáo Hoàng.
Chiếc máy bay Airbus A330 của hãng Alitalia chở ĐTC và đoàn tùy tùng, cùng với 50 ký giả, cất cánh lúc 9 giờ 15, trực chỉ phi trường Cotonou ở mạn nam.
Vài nét về Cotonou và Benin
Cotonou là thành phố lớn nhất của Benin với 800 ngàn dân cư và là nơi có các trụ sở của chính quyền quốc gia, tuy không phải là thủ đô.
Cộng hòa Benin là một nước nhỏ và nghèo, xưa kia được gọi là nước Dahomey, rộng gần 113 ngàn cây số vuông, bằng một phần ba Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 9 triệu 400 ngàn người, với thủ đô là Porto-Novo, nhưng trụ sở của chính phủ và các tổ chức chính đặt tại Cotonou, thành phố lớn nhất nước.
Benin được độc lập từ năm 1960, và tiếp theo đó là thời kỳ xáo trộn với nhiều vụ đảo chánh, rồi tới chế độ mác xít của Mathieu Kérékou. Cuối thập niên 1980, Kérékou quyết định từ bỏ chế độ mác xít và dân chủ đa đảng. Trong tiến trình này có sự đóng góp quan trọng của Giáo hội Công Giáo.
Danh hiệu ”Benin” được chọn làm tên chính thức của quốc gia này kể từ năm 1975. Tại đây có khoảng 40 bộ tộc khác nhau, trong số này bộ tộc Fon là đông nhất, chiếm 40% dân số toàn quốc. Phần lớn các bộ tộc này có ngôn ngữ riêng, trong khi tiếng Pháp được sử dụng như tiếng chính thức và thường được dân chúng tại các thành phố và vùng phụ cận sử dụng.
Các tín hữu Công Giáo chiếm 34% dân số tức là gần 3 triệu người, Hồi giáo 24%, Tin Lành 5%, trong khi các tôn giáo cổ truyền của Phi châu chiếm 29%. Giáo Hội tại đây được chia làm 10 giáo phận, với 338 giáo xứ, do 810 Linh mục phụ trách, trong số này có 684 linh mục giáo phận. Ngoài ra có 1.250 nữ tu, 500 đại chủng sinh.
Tin mừng được truyền giảng tại Benin cách đây 150 năm, tức là từ ngày 18 tháng 4 năm 1861. Cha Francisco Fernandez người Tây Ban Nha, cùng với cha Francesco Borghero, người Italia, cả hai thuộc dòng Thừa sai Phi châu, quen gọi là các cha dòng Trắng, đổ bộ lên Ouidah. Hai vị được ủy thác nhiệm vụ thành lập giáo hạt đại diện tông tòa Dahomey.
Dịp kỷ niệm này đã được cử hành trọng thể tại thành phố Ouidah, với sự tham dự của đại diện 10 giáo phận toàn quốc, các GM và hơn 400 LM, đông đảo các giáo lý viên và giáo dân dấn thân. Tổng thống Boni Yayi cũng hiện diện tại buổi lễ.
Họp báo trên máy bay
Trên chuyến bay dài 6 tiếng đồng hồ, ĐTC đã gặp gỡ các ký giả tháp tùng và như thường lệ ngài trả lời một số câu hỏi của họ. Cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh đã giới thiệu họ với ĐTC và cho biết có lối 1 ngàn ký giả khác đang hiện diện tại Trung tâm báo chí ở Cotonou để theo dõi và tường thuật về chuyến viếng thăm này.
Trong số 5 câu hỏi được trả lời, có câu: ”đâu là sứ điệp mà ĐTC muốn gửi đến các vị hữu trách chính trị của Phi châu và đâu là sự đóng góp đặc thù mà Giáo Hội có thể mang lại cho sự kiến tạo một nền hòa bình lâu dài tại đại lục này”, ĐTC đáp:
”Sứ điệp đó ở trong Tông huấn mà tôi sẽ trao cho Giáo Hội tại Phi châu: tôi không thể tóm tắt ở đây lúc này trong vài lời. Quả thực là đã có bao nhiêu Hội nghị quốc tế về Phi châu, về tình huynh đệ đại đồng. Người ta nói những điều tốt đẹp, và đôi khi người ta cũng thực hiện những điều thực sự là tốt: chúng ta phải nhìn nhận điều đó. Nhưng chắc chắn là những lời nói lớn thì vẫn nhiều hơn, những ý hướng và ý muốn thì lớn hơn là sự thực hiện, và chúng ta phải tự hỏi tại sao thực tại không đi theo lời nói và ý hướng. Tôi thấy rằng có một yếu tố cơ bản là điều này: sự canh tân, tình huynh đệ đại đồng đòi phải có sự từ bỏ, đòi phải đi xa hơn sự ích kỷ và sống cho người khác nữa. Và điều này nói thì dễ nhưng khó thực hiện. Con người, sau tội nguyên tổ, muốn được chính mình, muốn sở hữu sự sống và không muốn trao ban sự sống. Khi có thì họ muốn giữ lấy. Nhưng với não trạng như thế, với tâm thức không muốn cho đi nhưng chỉ muốn sở hữu, thì dĩ nhiên những ý hướng lớn không thể hữu hiệu. Và chỉ khi nào với tình yêu, với sự nhận biết một Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho chúng ta đạt tới điểm mà chúng ta dám mất mạng sống, dám hiến thân vì chúng ta biết chính nhờ vậy mà chúng ta đạt được chính mình. Vì thế, những chi tiết ở trong Tông Huấn có liên hệ tới lập trường căn bản, theo đó khi yêu Chúa và ở trong tình bạn với Thiên Chúa, thì cả chúng ta cũng có thể dám trao ban, chứ không phải chỉ sở hữu mà thôi, chúng ta có thể từ bỏ, sống cho tha nhân, mất mạng sống mình, với xác tín chắc chắn, chúng ta có thể đạt được chính mình”
Một câu hỏi khác: ”Trong diễn văn khai mạc thượng HĐGM Phi châu ở Roma, ĐTC đã nói về Phi châu như buồng phổi tinh thần lớn của nhân loại đang bị khủng hoảng về đức tin và đức cậy, nhưng khi nghĩ đến các vấn đề lớn của Phi châu, nhận định trên đây của ĐTC thật là điều gây ngỡ ngàng. Vậy theo nghĩa nào ĐGH nghĩ rằng từ Phi châu có thể có niềm tin và đức cậy cho thế giới? ĐGH có nghĩ đến vai trò của Phi châu cả trong việc truyền giảng Tin Mừng cho phần còn lại của thế giới không”?
ĐTC đáp: ”Dĩ nhiên là Phi châu có những vấn đề và khó khăn lớn, toàn thể nhân loại cũng có những khó khăn lớn... Nếu tôi nghĩ lại thời còn trẻ, đó là một thế giới rất khác với thế giới ngày nay, mà đôi khi tôi nghĩ là mình đang sống trong một hành tinh khác, so với thế giới khi tôi còn trẻ. Nhân loại ngày nay ở trong một tiến trình ngày càng tiến triển mau lẹ hơn. Đối với Phi châu tiến trình thay đổi trong 50, 60 năm qua, từ khi được độc lập, thời hậu thực dân, cho đến ngày nay, là một tiến trình cam go, nhiều đòi hỏi, và dĩ nhiên là rất khó khăn, với những vấn đề chưa khắc phục được. Tuy nhiên, với sự tươi mát của cuộc sống ở Phi châu, giới trẻ tại đây đầy nhiệt huyết và hy vọng, đầy tinh thần hài hước vui tươi, điều này chứng tỏ rằng tại đây có một kho dự trữ của con người, vẫn còn một sự tươi mát về cảm thức tôn giáo, hy vọng, vẫn còn một cảm thức về sự tại siêu hình, thực tại về sự toàn diện của Thiên Chúa: tại đây không có sự thu hẹp vào thái độ thực nghiệm, thu hẹp cuộc sống chúng ta khiến cho cuộc sống trở nên khô cằn, và cả niềm hy vọng nữa. Vì thế, tôi muốn nói ở đây là có một chủ thuyết nhân bản tươi mát, nơi tâm hồn trẻ của Phi châu, mặc dù có những vấn đề hiện tại và tương lai. Điều này chứng tỏ rằng ở đây vẫn còn kho dự trữ sự sống và sức sinh động cho tương lai, và chúng ta có thể hy vọng được nơi điều này.
Đón tiếp
Sau khi vượt qua gần 4.100 cây số, máy bay chở ĐTC đã đáp xuống phi trường ĐHY Bernardin Gantin ở Cotonou lúc 3 giờ chiều, giờ địa phương. Tại đây ngài đã được tổng thống Thomas Yayi Boni, cùng với Đức TGM Antoine Ganyé, cũng là Chủ tịch HĐGM Benin, tiếp đón. Hiện diện tại sân bay còn có đông đảo các GM và hàng trăm tín hữu, đặc biệt là các trẻ em.
Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống Boni nói đến truyền thống bao dung và sự hòa hợp giữa các tôn giáo tại đất nước Benin. Ông cũng ca ngợi sự đóng góp của Giáo Hội Công Giáo cho sự phát triển đất nước, từ khi các thừa sai đầu tiên đặt chân đến Ouidah cách đây 150 năm. Ông cũng nhắc đến người cha của dân tộc Benin, ĐHY Bernardin Gantin, mặc dù là vị lãnh đạo cấp cao của Tòa Thánh, nhưng người rất khiêm tốn và có tinh thần phục vụ cao độ.
Về phần ĐTC, trong diễn văn đầu tiên, ngài nồng nhiệt cám ơn tổng thống vì những lời chào mừng nồng nhiệt. Ngài cũng bày tỏ lòng quí mến đối với Phi châu và đất nước Benin, đồng thời cho biết 3 lý do cuộc viếng thăm của ngài tại đây: trước tiên vì lời mời thân ái của tổng thống và HĐGM nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Benin và Tòa Thánh, cũng như kỷ niệm 150 năm truyền giảng Tin Mừng.
Lý do thứ hai là để công bố tông huấn Africae munus, Nghĩa vụ của Phi châu, hậu Thượng HĐGM. ĐTC nói: ”Những suy tư trong Tông huấn này sẽ hướng dẫn hoạt động mục vụ của nhiều cộng đoàn Kitô trong những năm tới đây. Văn kiện này có thể được nảy mầm, lớn lên và mang lại hoa trái, khi thì một trăm, khi thì 60, lúc thì 30, như Chúa Giêsu Kitô đã nói” (Mt 13,23).
Sau cùng, ĐTC nhắc đến lý do thứ ba vừa qua có tính chất cá nhân vừa có tính chất tình cảm, đó là tình bạn và lòng quí mến của ngài đối với ĐHY Bernardin Gantin, người con của đất nước này. ”Trong nhiều năm trời, cả hai chúng tôi đã làm việc, mỗi người theo thẩm quyền của mình, phục vụ trong cùng một Vườn nho. Chúng tôi đã hết sức phụ giúp vị tiền nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2, thi hành sứ vụ Phêrô của Người. Chúng tôi đã có rất nhiều dịp gặp gỡ nhau, thảo luận sâu rộng và cầu nguyện chung. ĐHY Gantin đã đạt nhiều người kính mến. Vì thế, tôi thấy thật là điều chính đáng khi đến quê hướng của Đức Cố Hồng Y, cầu nguyện tại mộ của Người và cám ơn nước Béninh đã cống hién cho Giáo Hội người con trổi vượt như vậy”.
Cũng trong diễn văn đầu tiên, ĐTC nhắc đến sự kiện Benin, vốn là nước có nhiều truyền thống kỳ cựu và cao quí, đang tiếp xúc với thời đại tân tiến ngày nay, và ngài nhận định rằng:
”Sự tân tiến không được làm chúng ta sợ hãi, nhưng nó cũng không thể được xây dựng trên sự quên lãng quá khứ. Sự tân tiến phải được tháp tùng một cách khôn ngoan, để mưu ích cho tất cả mọi người, tránh những nguy cơ đang có tại Phi châu và nơi khác, ví dụ tùng phục một cách vô điều kiện những luật lệ thị trường hoặc tài chánh, chủ nghĩa quốc gia hoặc bộ tộc thái quá và không mang lại ích lợi nào, các chủ nghĩa này có thể tạo ra những vụ giết người; cần tránh chính trị hóa tột độ những căng thẳng giữa các tôn giáo, gây hại cho công ích, hoặc làm băng hoại các giá trị nhân bản, văn hóa, luân lý đạo đức và tôn giáo. Tiến trình đi tới sự tân tiến phải được hướng dẫn bằng những tiêu chuẩn chắc chắn, dựa trên các đức tính đã được nhìn nhận, những nhân đức mà khẩu hiệu quốc gia của anh chị em đã liệt kê, và cả những đức tính ăn rễ nơi phẩm giá con người, sự cao cả của gia đình và tôn trọng sự sống. Tất cả các giá trị ấy đều nhắm đến ích chung, là điều duy nhất phải trổi vượt lên, và phải là mối quan tâm chính của mọi vị hữu trách. Thiên Chúa tín nhiệm nơi con người và người mong muốn điều tốt lành cho con người. Chính chúng ta có nghĩa vụ phải thành thực đáp lại sự tín nhiệm ấy của Chúa.
ĐTC cho biết: ”Giáo hội đóng góp phần đặc thù của mình. Qua sự hiện diện, cầu nguyện, và các hoạt động từ thiện bác ái đa diện, nhất là trong lãnh vực giáo dục và y tế, Giáo Hội muốn trao tặng những gì tốt đẹp nhất của mình. Giáo Hội muốn tỏ ra gần gũi những người đang ở trong tình trạng túng thiếu, những người đang tìm kiếm Thiên Chúa. Giáo Hội muốn giúp hiểu rằng Thiên Chúa không phải là điều không hề hiện hữu hoặc là vô ích, như người ta tìm cách tuyên truyền, trái lại Chúa là người bạn của con người. Chính trong tinh thần thân hữu và huynh đệ ấy mà tôi đến đất nước của Anh chị em”.
Viếng thăm nhà thờ chính tòa
Sau bài diễn văn của ĐTC và phần giới thiệu các quan khách và cả các GM lên ĐTC và tổng thống. Ngài cũng tiến đến các đoàn tín hữu, trong đó có đông đảo các phụ nữ mặc y phục cổ truyền, đầu quấn khăn màu xanh, đỏ, vàng, màu cờ của Benin, để chào thăm trong bầu không khí rất tưng bừng, giữa tiếng trống, tiếng kèn và tiếng ca của mọi người.
Rời phi trường, ngài đã về Nhà thờ chính tòa Cotonou để kính viếng. Đây là con tim của tổng giáo phận Cotonou với hơn 680 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số gần 2 triệu 200 ngàn dân cư, tương đương với 31% dân số. Các tín hữu thuộc 53 giáo xứ và được hơn 250 linh mục triều và dòng săn sóc. Ơn gọi ở đây phong phú với 200 đại chủng sinh, 175 tu huynh và 460 nữ tu.
ĐTC đã dùng xe bọc kính để đi 12 cây số từ phi trường về Nhà thờ vì dọc đường có hàng trăm ngàn người đứng hai bên chào đón, nhất là khu vực bên ngoài phi trường và trung tâm thành phố.
Nhà thờ chính tòa Cotonou dâng kính Đức Mẹ Từ Bi, được kiến thiết hồi năm 1901 và có thể chứa được 800 người.
Đến nơi vào lúc 4 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã được cha sở tiếp đón và hướng dẫn vào bên trong. Ngài kính viếng Mình Thánh Chúa và mộ của hai vị TGM tiền nhiệm của vị Giám mục đương kim: đó là Đức Cha Isidore de Souza, qua đời năm 1999, và Đức Cha Christophe Adimou, qua đời năm 1990.
Hiện diện trong thánh đường lúc đó cũng có tất cả các GM thuộc 10 giáo phận toàn nước Benin, cùng với các GM khách, và hằng trăm nữ tu và tín hữu, đặc biệt là ông bà Tổng thống Thomas Yayi Boni.
Ca đoàn và mọi người hát kinh Te Deum để cảm tạ Thiên Chúa vì cuộc viếng thăm của ĐTC tại đây.
Sau lời chào mừng của Đức TGM giáo phận Cotonou, ĐTC đã tặng cho nhà thờ chính tòa một bộ chén lễ quí giá.
Huấn dụ
Ngỏ lời với mọi người, ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì 2 Đức Cố TGM của giáo phận Cotonou là những người thợ tài ba trong Vườn Nho của Chúa và là những vị chủ chăn nhiệt thành và đầu lòng bác ái. Hai vị đã xả thân phục vụ Tin Mừng và Dân Chúa, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất. ”Tất cả anh chị em đều biết rằng Đức Cha De Souza là một người bạn của chân lý và đã giữ một vai trò quyết định trong việc đưa đất nước Benin tiến đến nền dân chủ.”
ĐTC cũng mời gọi mọi người suy tư về lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Ngài nói: ”Lịch sử cứu độ, với tột đỉnh là sự nhập thể của Chúa Giêsu và được viên mãn trong mầu nhiệm Phục Sinh, là một mạc khải sáng ngời về lòng từ bi của Thiên Chúa. Nơi Chúa Con, ”Thiên Chúa Cha từ bi” (2 Cr 1,3) trở nên hữu hình, Ngài là Đấng luôn trung tín với tình phụ tử, ”cúi mình trên người con hoang đàng, về trên mỗi lầm than của con người, nhất là trên mỗi lầm than về luân lý, trên tội lỗi” (GP II, Dives in misericordia, n.6). Lòng từ bi Chúa không phải chỉ hệ tại sự tha thứ tội lỗi chúng ta, nhưng còn hệ tại sự kiện: Thiên Chúa, là Cha chúng ta, dẫn đưa chúng ta trên con đường sự thật và ánh sáng, vì Ngài không muốn chúng ta phải hư mất, (Xc Mt 18,14; Ga 3,16), dù rằng trong tiến trình nhiều khi không phải là không có đau khổ, sầu muộn và sợ hãi từ phía chúng ta. Hai khía cạnh vừa nói về lòng từ bi Chúa cho thấy Thiên Chúa trung tín dường nào với giao ước đã ký kết với mỗi Kitô hữu trong phép rửa tội.”
ĐTC không quên nhấn mạnh lòng từ bi của Đức Trinh Nữ Maria là Đấng đã cảm nghiệm cao độ mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa. Mẹ đã thốt lên trong bài ca Magnificat: ”Lòng từ bi Chúa trải dài từ đời nọ đến đời kia trên những kẻ kính sợ Chúa” (Lc 1,50.
ĐTC nói: ”Qua lời thưa 'Xin Vâng' đối với tiếng gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã góp phần vào việc biểu lộ tình thương của Chúa nơi loài người. Theo nghĩa đó, Người là Mẹ Từ Bi nhờ sự tham dự vào sứ mạng của Chúa Con; Mẹ đã được đặc ân có thể cứu giúp chúng ta mọi nơi và mọi thời. ”Qua sự liên tục chuyển cầu, Mẹ tiếp tục xin cho chúng ta những hồng ân đảm bảo ơn cứu độ đời đời. Tình mẫu tử của Mẹ làm cho Mẹ quan tâm đến những người em của Chúa Con, chưa hoàn tất cuộc lữ hành, hoặc những người đang gặp nguy hiểm và thử thách, cho đến khi họ đạt tới quê hương hạnh phúc” (LG 62). Dưới sự che chở từ bi của Mẹ, những tâm hồn sầu khổ được lành mạnh, những cạm bẫy của ma quỉ bị phá vỡ, và những người thù địch hòa giải với nhau. Nơi Mẹ Maria, không những chúng ta có một gương mẫu hoàn hảo, nhưng còn được trợ giúp để hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta. Mẹ Từ Bi là vị hướng đạo chứng chắn cho các môn đệ của Chúa Con muốn phục vụ công lý, hòa giải và hòa bình. Trong sự đơn sơ và với con tim của Mẹ hiền, Người chỉ cho chúng ta Ánh sáng và Sự Thật duy nhất là Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô dẫn nhân loại đến sự viên mãn trong Chúa Cha. Chúng ta đừng sợ tín thác kêu cầu Đấng không ngừng trao ban Ơn phúc của Chúa cho các con cái của Mẹ.
ĐTC kết thúc bài huấn dụ ngắn của ngài với lời kinh dâng lên Mẹ Từ Bi, xin Mẹ hướng dẫn chúng ta trên con đường thánh thiện, cho những khát vọng cao thượng của người trẻ Phi châu được đáp ứng, cho những tâm hồn khao khát công lý, hòa bình và hòa giải được mãn nguyện, cũng như niềm hy vọng của các trẻ em nạn nhân của nạn đói và chiến tranh được đáp lại”.
Cuộc viếng thăm tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Từ Bi ở Cotonou kết thúc với kinh Lạy Cha, Kinh Lạy Nữ Vương và phép lành của ĐTC, rồi ngài về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 6 cây số. Ngôi nhà này cũng là nơi Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt cư ngụ khi ngài làm Sứ Thần Tòa Thánh tại đây từ tháng giêng năm 2003 đến tháng 8 năm 2005.
Chương trình thứ bẩy, 19-11-2011
Thứ bẩy 19-11, là ngày bận rộn nhất trong 3 ngày viếng thăm của ĐTC tại Benin với 7 sinh hoạt khác nhau:
Ban sáng, ngài gặp chính phủ, đại diện các tổ chức của Nhà Nước, ngoại giao đoàn và đại diện các tôn giáo lớn ở Benin tại phủ tổng thống, chỉ cách tòa Sứ Thần 3 cây số.
Sau cuộc gặp gỡ đó, ĐTC còn khi gặp riêng tổng thống, và chào thăm gia đình ông, trước khi đến thị trấn Ouidah, cách Cotonou 40 cây số, để viếng thăm đại chủng viện thánh Gall và mộ Đức Cố Hồng Y Gantin. Đây là cơ sở đào tạo LM kỳ cựu nhất ở miền Tây Phi châu và hiện có 147 đại chủng sinh người Benin và Togo đang thụ huấn tại đây. Tại nhà nguyện chủng viện vào lúc 11 giờ 15, ĐTC sẽ gặp khoảng 60 người gồm các linh mục và tu sĩ cao niên, các bệnh nhân và một nhóm nhỏ các bệnh nhân phong cùi. Cuối buổi gặp gỡ, vị Chủ tịch Tổ chức ĐHY Bernardin Gantin, được 2 GM thành viên tháp tùng, sẽ trao tặng ĐTC một bản nội qui của tổ chức này. Tiếp đến ngài tiến ra khuôn viên bên ngoài để tặp hàng trăm LM, chủng sinh và tu sĩ nam nữ, cũng như giáo dân tụ tập tại đây.
Rời đại chủng viện, vào ban trưa cùng ngày 19-11, ĐTC sẽ viếng thăm Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Ouidad, cách chủng viện 5 cây số và ngài sẽ ký Tông huấn hậu Thượng HĐGM Phi châu kỳ 2, trước sự hiện diện của các HY, GM thành viên của Công nghị GM Phi châu, cũng như của Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và 800 tín hữu được vào thánh đường.
Trở lại thủ đô Cotonou vào ban chiều, ĐTC viếng thăm Trung tâm ”Hòa bình và Hy vọng” của các Nữ tu thừa sai bác ái ở giáo xứ thánh Rita và gặp gỡ các trẻ em tại đây.
Lúc 7 giờ rưỡi tối, ĐTC sẽ gặp gỡ 11 GM Benin và dùng bữa với các vị tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Cotonou. Vị Sứ Thần hiện nay là Đức TGM Michael August Blumen, người Mỹ, thuộc dòng Ngôi Lời, và nguyên là Phó Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động.
Một trong những lý do ĐTC chọn nước Benin để viếng thăm trong chuyến tông du thứ 22 tại hải ngoại là vì Giáo Hội tại đây đang mừng kỷ niệm 150 năm truyền giáo, với chủ đề ”Hỡi người thừa kế và xây dựng tương lai, Kitô hữu, hãy tường trình về niềm hy vọng nơi bạn”.
ĐTC đã đáp trực thăng từ Vatican tới phi trường quốc tế Fiumicino của thành Roma. Tại đây, ngài được tân chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Mario Monti, chào đón và tiễn biệt. Ngoài ra có các chức sắc đạo đời của Giáo Hội địa phương.
Trong số 30 vị thuộc đoàn tùy tùng của ĐTC, đặc biệt có 3 vị HY và 1 GM Phi châu tại Tòa Thánh, trong đó có ĐHY Arinze, người Nigeria, nguyên tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, ĐHY Robert Sarah người Guinea Equatoriale, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, và ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; đặc biệt có Đức Cha Barthélémy Adoukounou, người Benin, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, và cũng là một cựu sinh viên của ĐHY Ratzinger, đương kim Giáo Hoàng.
Chiếc máy bay Airbus A330 của hãng Alitalia chở ĐTC và đoàn tùy tùng, cùng với 50 ký giả, cất cánh lúc 9 giờ 15, trực chỉ phi trường Cotonou ở mạn nam.
Vài nét về Cotonou và Benin
Cotonou là thành phố lớn nhất của Benin với 800 ngàn dân cư và là nơi có các trụ sở của chính quyền quốc gia, tuy không phải là thủ đô.
Cộng hòa Benin là một nước nhỏ và nghèo, xưa kia được gọi là nước Dahomey, rộng gần 113 ngàn cây số vuông, bằng một phần ba Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 9 triệu 400 ngàn người, với thủ đô là Porto-Novo, nhưng trụ sở của chính phủ và các tổ chức chính đặt tại Cotonou, thành phố lớn nhất nước.
Benin được độc lập từ năm 1960, và tiếp theo đó là thời kỳ xáo trộn với nhiều vụ đảo chánh, rồi tới chế độ mác xít của Mathieu Kérékou. Cuối thập niên 1980, Kérékou quyết định từ bỏ chế độ mác xít và dân chủ đa đảng. Trong tiến trình này có sự đóng góp quan trọng của Giáo hội Công Giáo.
Danh hiệu ”Benin” được chọn làm tên chính thức của quốc gia này kể từ năm 1975. Tại đây có khoảng 40 bộ tộc khác nhau, trong số này bộ tộc Fon là đông nhất, chiếm 40% dân số toàn quốc. Phần lớn các bộ tộc này có ngôn ngữ riêng, trong khi tiếng Pháp được sử dụng như tiếng chính thức và thường được dân chúng tại các thành phố và vùng phụ cận sử dụng.
Các tín hữu Công Giáo chiếm 34% dân số tức là gần 3 triệu người, Hồi giáo 24%, Tin Lành 5%, trong khi các tôn giáo cổ truyền của Phi châu chiếm 29%. Giáo Hội tại đây được chia làm 10 giáo phận, với 338 giáo xứ, do 810 Linh mục phụ trách, trong số này có 684 linh mục giáo phận. Ngoài ra có 1.250 nữ tu, 500 đại chủng sinh.
Tin mừng được truyền giảng tại Benin cách đây 150 năm, tức là từ ngày 18 tháng 4 năm 1861. Cha Francisco Fernandez người Tây Ban Nha, cùng với cha Francesco Borghero, người Italia, cả hai thuộc dòng Thừa sai Phi châu, quen gọi là các cha dòng Trắng, đổ bộ lên Ouidah. Hai vị được ủy thác nhiệm vụ thành lập giáo hạt đại diện tông tòa Dahomey.
Dịp kỷ niệm này đã được cử hành trọng thể tại thành phố Ouidah, với sự tham dự của đại diện 10 giáo phận toàn quốc, các GM và hơn 400 LM, đông đảo các giáo lý viên và giáo dân dấn thân. Tổng thống Boni Yayi cũng hiện diện tại buổi lễ.
Họp báo trên máy bay
Trên chuyến bay dài 6 tiếng đồng hồ, ĐTC đã gặp gỡ các ký giả tháp tùng và như thường lệ ngài trả lời một số câu hỏi của họ. Cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh đã giới thiệu họ với ĐTC và cho biết có lối 1 ngàn ký giả khác đang hiện diện tại Trung tâm báo chí ở Cotonou để theo dõi và tường thuật về chuyến viếng thăm này.
Trong số 5 câu hỏi được trả lời, có câu: ”đâu là sứ điệp mà ĐTC muốn gửi đến các vị hữu trách chính trị của Phi châu và đâu là sự đóng góp đặc thù mà Giáo Hội có thể mang lại cho sự kiến tạo một nền hòa bình lâu dài tại đại lục này”, ĐTC đáp:
”Sứ điệp đó ở trong Tông huấn mà tôi sẽ trao cho Giáo Hội tại Phi châu: tôi không thể tóm tắt ở đây lúc này trong vài lời. Quả thực là đã có bao nhiêu Hội nghị quốc tế về Phi châu, về tình huynh đệ đại đồng. Người ta nói những điều tốt đẹp, và đôi khi người ta cũng thực hiện những điều thực sự là tốt: chúng ta phải nhìn nhận điều đó. Nhưng chắc chắn là những lời nói lớn thì vẫn nhiều hơn, những ý hướng và ý muốn thì lớn hơn là sự thực hiện, và chúng ta phải tự hỏi tại sao thực tại không đi theo lời nói và ý hướng. Tôi thấy rằng có một yếu tố cơ bản là điều này: sự canh tân, tình huynh đệ đại đồng đòi phải có sự từ bỏ, đòi phải đi xa hơn sự ích kỷ và sống cho người khác nữa. Và điều này nói thì dễ nhưng khó thực hiện. Con người, sau tội nguyên tổ, muốn được chính mình, muốn sở hữu sự sống và không muốn trao ban sự sống. Khi có thì họ muốn giữ lấy. Nhưng với não trạng như thế, với tâm thức không muốn cho đi nhưng chỉ muốn sở hữu, thì dĩ nhiên những ý hướng lớn không thể hữu hiệu. Và chỉ khi nào với tình yêu, với sự nhận biết một Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho chúng ta đạt tới điểm mà chúng ta dám mất mạng sống, dám hiến thân vì chúng ta biết chính nhờ vậy mà chúng ta đạt được chính mình. Vì thế, những chi tiết ở trong Tông Huấn có liên hệ tới lập trường căn bản, theo đó khi yêu Chúa và ở trong tình bạn với Thiên Chúa, thì cả chúng ta cũng có thể dám trao ban, chứ không phải chỉ sở hữu mà thôi, chúng ta có thể từ bỏ, sống cho tha nhân, mất mạng sống mình, với xác tín chắc chắn, chúng ta có thể đạt được chính mình”
Một câu hỏi khác: ”Trong diễn văn khai mạc thượng HĐGM Phi châu ở Roma, ĐTC đã nói về Phi châu như buồng phổi tinh thần lớn của nhân loại đang bị khủng hoảng về đức tin và đức cậy, nhưng khi nghĩ đến các vấn đề lớn của Phi châu, nhận định trên đây của ĐTC thật là điều gây ngỡ ngàng. Vậy theo nghĩa nào ĐGH nghĩ rằng từ Phi châu có thể có niềm tin và đức cậy cho thế giới? ĐGH có nghĩ đến vai trò của Phi châu cả trong việc truyền giảng Tin Mừng cho phần còn lại của thế giới không”?
ĐTC đáp: ”Dĩ nhiên là Phi châu có những vấn đề và khó khăn lớn, toàn thể nhân loại cũng có những khó khăn lớn... Nếu tôi nghĩ lại thời còn trẻ, đó là một thế giới rất khác với thế giới ngày nay, mà đôi khi tôi nghĩ là mình đang sống trong một hành tinh khác, so với thế giới khi tôi còn trẻ. Nhân loại ngày nay ở trong một tiến trình ngày càng tiến triển mau lẹ hơn. Đối với Phi châu tiến trình thay đổi trong 50, 60 năm qua, từ khi được độc lập, thời hậu thực dân, cho đến ngày nay, là một tiến trình cam go, nhiều đòi hỏi, và dĩ nhiên là rất khó khăn, với những vấn đề chưa khắc phục được. Tuy nhiên, với sự tươi mát của cuộc sống ở Phi châu, giới trẻ tại đây đầy nhiệt huyết và hy vọng, đầy tinh thần hài hước vui tươi, điều này chứng tỏ rằng tại đây có một kho dự trữ của con người, vẫn còn một sự tươi mát về cảm thức tôn giáo, hy vọng, vẫn còn một cảm thức về sự tại siêu hình, thực tại về sự toàn diện của Thiên Chúa: tại đây không có sự thu hẹp vào thái độ thực nghiệm, thu hẹp cuộc sống chúng ta khiến cho cuộc sống trở nên khô cằn, và cả niềm hy vọng nữa. Vì thế, tôi muốn nói ở đây là có một chủ thuyết nhân bản tươi mát, nơi tâm hồn trẻ của Phi châu, mặc dù có những vấn đề hiện tại và tương lai. Điều này chứng tỏ rằng ở đây vẫn còn kho dự trữ sự sống và sức sinh động cho tương lai, và chúng ta có thể hy vọng được nơi điều này.
Đón tiếp
Sau khi vượt qua gần 4.100 cây số, máy bay chở ĐTC đã đáp xuống phi trường ĐHY Bernardin Gantin ở Cotonou lúc 3 giờ chiều, giờ địa phương. Tại đây ngài đã được tổng thống Thomas Yayi Boni, cùng với Đức TGM Antoine Ganyé, cũng là Chủ tịch HĐGM Benin, tiếp đón. Hiện diện tại sân bay còn có đông đảo các GM và hàng trăm tín hữu, đặc biệt là các trẻ em.
Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống Boni nói đến truyền thống bao dung và sự hòa hợp giữa các tôn giáo tại đất nước Benin. Ông cũng ca ngợi sự đóng góp của Giáo Hội Công Giáo cho sự phát triển đất nước, từ khi các thừa sai đầu tiên đặt chân đến Ouidah cách đây 150 năm. Ông cũng nhắc đến người cha của dân tộc Benin, ĐHY Bernardin Gantin, mặc dù là vị lãnh đạo cấp cao của Tòa Thánh, nhưng người rất khiêm tốn và có tinh thần phục vụ cao độ.
Về phần ĐTC, trong diễn văn đầu tiên, ngài nồng nhiệt cám ơn tổng thống vì những lời chào mừng nồng nhiệt. Ngài cũng bày tỏ lòng quí mến đối với Phi châu và đất nước Benin, đồng thời cho biết 3 lý do cuộc viếng thăm của ngài tại đây: trước tiên vì lời mời thân ái của tổng thống và HĐGM nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Benin và Tòa Thánh, cũng như kỷ niệm 150 năm truyền giảng Tin Mừng.
Lý do thứ hai là để công bố tông huấn Africae munus, Nghĩa vụ của Phi châu, hậu Thượng HĐGM. ĐTC nói: ”Những suy tư trong Tông huấn này sẽ hướng dẫn hoạt động mục vụ của nhiều cộng đoàn Kitô trong những năm tới đây. Văn kiện này có thể được nảy mầm, lớn lên và mang lại hoa trái, khi thì một trăm, khi thì 60, lúc thì 30, như Chúa Giêsu Kitô đã nói” (Mt 13,23).
Sau cùng, ĐTC nhắc đến lý do thứ ba vừa qua có tính chất cá nhân vừa có tính chất tình cảm, đó là tình bạn và lòng quí mến của ngài đối với ĐHY Bernardin Gantin, người con của đất nước này. ”Trong nhiều năm trời, cả hai chúng tôi đã làm việc, mỗi người theo thẩm quyền của mình, phục vụ trong cùng một Vườn nho. Chúng tôi đã hết sức phụ giúp vị tiền nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2, thi hành sứ vụ Phêrô của Người. Chúng tôi đã có rất nhiều dịp gặp gỡ nhau, thảo luận sâu rộng và cầu nguyện chung. ĐHY Gantin đã đạt nhiều người kính mến. Vì thế, tôi thấy thật là điều chính đáng khi đến quê hướng của Đức Cố Hồng Y, cầu nguyện tại mộ của Người và cám ơn nước Béninh đã cống hién cho Giáo Hội người con trổi vượt như vậy”.
Cũng trong diễn văn đầu tiên, ĐTC nhắc đến sự kiện Benin, vốn là nước có nhiều truyền thống kỳ cựu và cao quí, đang tiếp xúc với thời đại tân tiến ngày nay, và ngài nhận định rằng:
”Sự tân tiến không được làm chúng ta sợ hãi, nhưng nó cũng không thể được xây dựng trên sự quên lãng quá khứ. Sự tân tiến phải được tháp tùng một cách khôn ngoan, để mưu ích cho tất cả mọi người, tránh những nguy cơ đang có tại Phi châu và nơi khác, ví dụ tùng phục một cách vô điều kiện những luật lệ thị trường hoặc tài chánh, chủ nghĩa quốc gia hoặc bộ tộc thái quá và không mang lại ích lợi nào, các chủ nghĩa này có thể tạo ra những vụ giết người; cần tránh chính trị hóa tột độ những căng thẳng giữa các tôn giáo, gây hại cho công ích, hoặc làm băng hoại các giá trị nhân bản, văn hóa, luân lý đạo đức và tôn giáo. Tiến trình đi tới sự tân tiến phải được hướng dẫn bằng những tiêu chuẩn chắc chắn, dựa trên các đức tính đã được nhìn nhận, những nhân đức mà khẩu hiệu quốc gia của anh chị em đã liệt kê, và cả những đức tính ăn rễ nơi phẩm giá con người, sự cao cả của gia đình và tôn trọng sự sống. Tất cả các giá trị ấy đều nhắm đến ích chung, là điều duy nhất phải trổi vượt lên, và phải là mối quan tâm chính của mọi vị hữu trách. Thiên Chúa tín nhiệm nơi con người và người mong muốn điều tốt lành cho con người. Chính chúng ta có nghĩa vụ phải thành thực đáp lại sự tín nhiệm ấy của Chúa.
ĐTC cho biết: ”Giáo hội đóng góp phần đặc thù của mình. Qua sự hiện diện, cầu nguyện, và các hoạt động từ thiện bác ái đa diện, nhất là trong lãnh vực giáo dục và y tế, Giáo Hội muốn trao tặng những gì tốt đẹp nhất của mình. Giáo Hội muốn tỏ ra gần gũi những người đang ở trong tình trạng túng thiếu, những người đang tìm kiếm Thiên Chúa. Giáo Hội muốn giúp hiểu rằng Thiên Chúa không phải là điều không hề hiện hữu hoặc là vô ích, như người ta tìm cách tuyên truyền, trái lại Chúa là người bạn của con người. Chính trong tinh thần thân hữu và huynh đệ ấy mà tôi đến đất nước của Anh chị em”.
Viếng thăm nhà thờ chính tòa
Sau bài diễn văn của ĐTC và phần giới thiệu các quan khách và cả các GM lên ĐTC và tổng thống. Ngài cũng tiến đến các đoàn tín hữu, trong đó có đông đảo các phụ nữ mặc y phục cổ truyền, đầu quấn khăn màu xanh, đỏ, vàng, màu cờ của Benin, để chào thăm trong bầu không khí rất tưng bừng, giữa tiếng trống, tiếng kèn và tiếng ca của mọi người.
Rời phi trường, ngài đã về Nhà thờ chính tòa Cotonou để kính viếng. Đây là con tim của tổng giáo phận Cotonou với hơn 680 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số gần 2 triệu 200 ngàn dân cư, tương đương với 31% dân số. Các tín hữu thuộc 53 giáo xứ và được hơn 250 linh mục triều và dòng săn sóc. Ơn gọi ở đây phong phú với 200 đại chủng sinh, 175 tu huynh và 460 nữ tu.
ĐTC đã dùng xe bọc kính để đi 12 cây số từ phi trường về Nhà thờ vì dọc đường có hàng trăm ngàn người đứng hai bên chào đón, nhất là khu vực bên ngoài phi trường và trung tâm thành phố.
Nhà thờ chính tòa Cotonou dâng kính Đức Mẹ Từ Bi, được kiến thiết hồi năm 1901 và có thể chứa được 800 người.
Đến nơi vào lúc 4 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã được cha sở tiếp đón và hướng dẫn vào bên trong. Ngài kính viếng Mình Thánh Chúa và mộ của hai vị TGM tiền nhiệm của vị Giám mục đương kim: đó là Đức Cha Isidore de Souza, qua đời năm 1999, và Đức Cha Christophe Adimou, qua đời năm 1990.
Hiện diện trong thánh đường lúc đó cũng có tất cả các GM thuộc 10 giáo phận toàn nước Benin, cùng với các GM khách, và hằng trăm nữ tu và tín hữu, đặc biệt là ông bà Tổng thống Thomas Yayi Boni.
Ca đoàn và mọi người hát kinh Te Deum để cảm tạ Thiên Chúa vì cuộc viếng thăm của ĐTC tại đây.
Sau lời chào mừng của Đức TGM giáo phận Cotonou, ĐTC đã tặng cho nhà thờ chính tòa một bộ chén lễ quí giá.
Huấn dụ
Ngỏ lời với mọi người, ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì 2 Đức Cố TGM của giáo phận Cotonou là những người thợ tài ba trong Vườn Nho của Chúa và là những vị chủ chăn nhiệt thành và đầu lòng bác ái. Hai vị đã xả thân phục vụ Tin Mừng và Dân Chúa, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất. ”Tất cả anh chị em đều biết rằng Đức Cha De Souza là một người bạn của chân lý và đã giữ một vai trò quyết định trong việc đưa đất nước Benin tiến đến nền dân chủ.”
ĐTC cũng mời gọi mọi người suy tư về lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Ngài nói: ”Lịch sử cứu độ, với tột đỉnh là sự nhập thể của Chúa Giêsu và được viên mãn trong mầu nhiệm Phục Sinh, là một mạc khải sáng ngời về lòng từ bi của Thiên Chúa. Nơi Chúa Con, ”Thiên Chúa Cha từ bi” (2 Cr 1,3) trở nên hữu hình, Ngài là Đấng luôn trung tín với tình phụ tử, ”cúi mình trên người con hoang đàng, về trên mỗi lầm than của con người, nhất là trên mỗi lầm than về luân lý, trên tội lỗi” (GP II, Dives in misericordia, n.6). Lòng từ bi Chúa không phải chỉ hệ tại sự tha thứ tội lỗi chúng ta, nhưng còn hệ tại sự kiện: Thiên Chúa, là Cha chúng ta, dẫn đưa chúng ta trên con đường sự thật và ánh sáng, vì Ngài không muốn chúng ta phải hư mất, (Xc Mt 18,14; Ga 3,16), dù rằng trong tiến trình nhiều khi không phải là không có đau khổ, sầu muộn và sợ hãi từ phía chúng ta. Hai khía cạnh vừa nói về lòng từ bi Chúa cho thấy Thiên Chúa trung tín dường nào với giao ước đã ký kết với mỗi Kitô hữu trong phép rửa tội.”
ĐTC không quên nhấn mạnh lòng từ bi của Đức Trinh Nữ Maria là Đấng đã cảm nghiệm cao độ mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa. Mẹ đã thốt lên trong bài ca Magnificat: ”Lòng từ bi Chúa trải dài từ đời nọ đến đời kia trên những kẻ kính sợ Chúa” (Lc 1,50.
ĐTC nói: ”Qua lời thưa 'Xin Vâng' đối với tiếng gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã góp phần vào việc biểu lộ tình thương của Chúa nơi loài người. Theo nghĩa đó, Người là Mẹ Từ Bi nhờ sự tham dự vào sứ mạng của Chúa Con; Mẹ đã được đặc ân có thể cứu giúp chúng ta mọi nơi và mọi thời. ”Qua sự liên tục chuyển cầu, Mẹ tiếp tục xin cho chúng ta những hồng ân đảm bảo ơn cứu độ đời đời. Tình mẫu tử của Mẹ làm cho Mẹ quan tâm đến những người em của Chúa Con, chưa hoàn tất cuộc lữ hành, hoặc những người đang gặp nguy hiểm và thử thách, cho đến khi họ đạt tới quê hương hạnh phúc” (LG 62). Dưới sự che chở từ bi của Mẹ, những tâm hồn sầu khổ được lành mạnh, những cạm bẫy của ma quỉ bị phá vỡ, và những người thù địch hòa giải với nhau. Nơi Mẹ Maria, không những chúng ta có một gương mẫu hoàn hảo, nhưng còn được trợ giúp để hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta. Mẹ Từ Bi là vị hướng đạo chứng chắn cho các môn đệ của Chúa Con muốn phục vụ công lý, hòa giải và hòa bình. Trong sự đơn sơ và với con tim của Mẹ hiền, Người chỉ cho chúng ta Ánh sáng và Sự Thật duy nhất là Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô dẫn nhân loại đến sự viên mãn trong Chúa Cha. Chúng ta đừng sợ tín thác kêu cầu Đấng không ngừng trao ban Ơn phúc của Chúa cho các con cái của Mẹ.
ĐTC kết thúc bài huấn dụ ngắn của ngài với lời kinh dâng lên Mẹ Từ Bi, xin Mẹ hướng dẫn chúng ta trên con đường thánh thiện, cho những khát vọng cao thượng của người trẻ Phi châu được đáp ứng, cho những tâm hồn khao khát công lý, hòa bình và hòa giải được mãn nguyện, cũng như niềm hy vọng của các trẻ em nạn nhân của nạn đói và chiến tranh được đáp lại”.
Cuộc viếng thăm tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Từ Bi ở Cotonou kết thúc với kinh Lạy Cha, Kinh Lạy Nữ Vương và phép lành của ĐTC, rồi ngài về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 6 cây số. Ngôi nhà này cũng là nơi Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt cư ngụ khi ngài làm Sứ Thần Tòa Thánh tại đây từ tháng giêng năm 2003 đến tháng 8 năm 2005.
Chương trình thứ bẩy, 19-11-2011
Thứ bẩy 19-11, là ngày bận rộn nhất trong 3 ngày viếng thăm của ĐTC tại Benin với 7 sinh hoạt khác nhau:
Ban sáng, ngài gặp chính phủ, đại diện các tổ chức của Nhà Nước, ngoại giao đoàn và đại diện các tôn giáo lớn ở Benin tại phủ tổng thống, chỉ cách tòa Sứ Thần 3 cây số.
Sau cuộc gặp gỡ đó, ĐTC còn khi gặp riêng tổng thống, và chào thăm gia đình ông, trước khi đến thị trấn Ouidah, cách Cotonou 40 cây số, để viếng thăm đại chủng viện thánh Gall và mộ Đức Cố Hồng Y Gantin. Đây là cơ sở đào tạo LM kỳ cựu nhất ở miền Tây Phi châu và hiện có 147 đại chủng sinh người Benin và Togo đang thụ huấn tại đây. Tại nhà nguyện chủng viện vào lúc 11 giờ 15, ĐTC sẽ gặp khoảng 60 người gồm các linh mục và tu sĩ cao niên, các bệnh nhân và một nhóm nhỏ các bệnh nhân phong cùi. Cuối buổi gặp gỡ, vị Chủ tịch Tổ chức ĐHY Bernardin Gantin, được 2 GM thành viên tháp tùng, sẽ trao tặng ĐTC một bản nội qui của tổ chức này. Tiếp đến ngài tiến ra khuôn viên bên ngoài để tặp hàng trăm LM, chủng sinh và tu sĩ nam nữ, cũng như giáo dân tụ tập tại đây.
Rời đại chủng viện, vào ban trưa cùng ngày 19-11, ĐTC sẽ viếng thăm Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Ouidad, cách chủng viện 5 cây số và ngài sẽ ký Tông huấn hậu Thượng HĐGM Phi châu kỳ 2, trước sự hiện diện của các HY, GM thành viên của Công nghị GM Phi châu, cũng như của Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và 800 tín hữu được vào thánh đường.
Trở lại thủ đô Cotonou vào ban chiều, ĐTC viếng thăm Trung tâm ”Hòa bình và Hy vọng” của các Nữ tu thừa sai bác ái ở giáo xứ thánh Rita và gặp gỡ các trẻ em tại đây.
Lúc 7 giờ rưỡi tối, ĐTC sẽ gặp gỡ 11 GM Benin và dùng bữa với các vị tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Cotonou. Vị Sứ Thần hiện nay là Đức TGM Michael August Blumen, người Mỹ, thuộc dòng Ngôi Lời, và nguyên là Phó Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động.
Top Stories
Hanoi Catholics take to the streets to demand justice
J.B. An Dang
03:47 18/11/2011
The rally took place after more than 500 riot police and militiamen were deployed at Hanoi Redemptorist Monastery to back the construction of a hospital sewage treatment system on the land of the Monastery despite strong protests of the Redemptorist and their faithful. At 10:30 pm local time on Nov. 16, a large number of heavily armed security personnels moved into the area. Under the protection of their guns, building workers and dozens of bulldozers worked around the clock to install the sewage treatment system right next to the Thai Ha Church.
Two weeks earlier, there was also a violent incident at Hanoi Redemptorist Monastery on Nov. 3rd when a group of about 100 people, who, from nowhere, broke into the courtyard of Thai Ha parish church with two loud speakers in their hands cursing at religious, priests, and parishioners, before physically attacking them. The intruders also insulted and threatened to kill many clergy and parishioners. More outrageously, they even used sledgehammers to smash the church's properties. They only abandoned their act of terror, and withdrew when the bells started tolling and countless people from the neighbouring parishes came to rescue.
Catholics from various parishes in Hanoi Archdiocese gathered in front of the office of People's Committee of Hanoi with a sea of banners. One stated that "Do not trespass on religious land and property", another demanded the government to "return what you borrow". Another denounced the media campaign of the government to repress and sully the will for justice, peace, and truth of Hanoi Catholics. One could read: "We protest Hanoi TV's defamation and distortion of the truth about Thai Ha parish".
A banner from Dong Anh Parish, where their church yard has been seized for decades, wrote "Do not turn a sacred place into a place of dissipation", referring to part of the disputed land was turned into a dancing bar by the authorities, that has disrupted frequently their Masses.
At some points, a large group of plain-clothed and uniformed police officers surrounded a group of protestors photographing and videotaping at a close range in an obvious intimidation tactic.
“I do not fear. We need to lift the veil on the injustices committed in Vietnam,” Peter Tuan Nguyen told Asia-News.
“Why I came here? Well, to protest before the international community the ongoing persecutions we have suffered for almost 7 decades,” said Maria Thanh Tran.
Cattolici in piazza a Hanoi, per chiedere giustizia
Asia-News
06:06 18/11/2011
Hanoi (AsiaNews) – Migliaia di cattolici sono scesi in piazza questa mattina a Hanoi (nella foto), chiedendo giustizia per la parrocchia di Thai Ha e l’annesso monastero dei redentoristi. “Non invadete i nostri terreni religiosi”, “Restituite quello che avete preso”, “Basta con la diffamazione” si legge in alcuni dei cartelli innalzati dai presenti.
All’origine della protesta, l’iniziativa del Comitato del popolo del quartiere di Dong Da che vuole impossessarsi di ciò che resta del terreno della comunità, per costruirvi un impianto per il trattamento delle acque usate dal vicino ospedale. Il terreno è ciò che resta dei 61.455 metri quadrati proprietà dal 1928 dei redentoristi, ridotti, con gli espropri a soli 2.700 mq. La disputa sui terreni ha raggiunto il suo apice fra il 2008 e il 2009, quando migliaia di cattolici hanno manifestato per giorni e conclusa in un processo farsa con la condanna per disturbo dell’ordine pubblico di otto cattolici.
L’attuale vicenda ha avuto inizio l’8 ottobre, quando il parroco, padre Joseph Nguyen Van Phuong, viene convocato nella sede del Comitato popolare del quartiere di Dong Da e informato della decisione di usare il terreno della parrocchia. Alle proteste dei religiosi e dei fedeli fa seguito il 3 novembre, l’attacco da parte di centinaia di poliziotti e militari con cani e picchiatori, seguiti da una troupe della televisione: urla, insulti con i megafoni, lancio di pietre e distruzione del portone. A fermare l’attacco fu l’accorrere di fedeli anche dalle parrocchie vicine, chiamate dalle campane della chiesa.
Il 16 novembre, più di 500 agenti e uomini delle forze di sicurezza hanno scortato decine di bulldozer che hanno dato il via alla realizzazione dell’impianto, a pochi metri dalla chiesa.
Oggi è proprio davanti alla sede del Comitato popolare che si svolge la manifestazione, che le autorità hanno tentato di prevenire, minacciando rappresaglie. E anche oggi, agenti in borghese fotografano e filmano i partecipanti. “Non ho paura”, dice ad AsiaNews Peter Tuan Nguyen. “Voglio - spiega – alzare il velo sulle ingiustizie che si commettono in Vietnam”. “Perché siamo qui? – gli fa eco Maria Thanh Tran – Per protestare di fronte alla comunità internazionale per le crescenti persecuzioni che stiamo sopportando da almeno 70 anni”. Non lontano dalla donna un cartello portato dalla parrocchia di Dong Anh dice “Non trasformate un luogo sacro in un luogo di dissipatezza”, riferendosi alla protesta della chiesa per l’appropriazione di un terreno parrocchiale trasformato in un dancing.
Vatican documents reveal Stalin's forced starvation plan
Elizabeth Lev
07:50 18/11/2011
Book Gives Details of 1932 'Killing by Hunger' in Ukraine
ROME, NOV. 17, 2011 (Zenit.org).- The sober skies and short days of November remind Romans that this is the month to pray for the dead. It seems fitting that this month opened with a presentation of new documents regarding one of the most tragic -- and virtually unacknowledged -- events of the modern age, the Ukrainian Famine.
"The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine" by Father Athanasius McVay and Professor Lubomyr Luciuk was released Oct. 26 with a book launch at the Russian Ecumenical Center in Rome. The book is available in English through Kashtan Press and Abe Books.
The Holodomor (literally "killing by hunger") took place in 1932-33 in the fertile grain-producing region of Ukrainian USSR. While the exact number of deaths is not known due to lack of precise records, an estimated 2.4 to 7.5 million people died. This man-made famine, intended to starve the Ukrainian nationalists out of existence, has been recognized as a genocide by many nations worldwide.
Father Athanasius McVay, a Canadian Greek-Catholic priest of Ukrainian ancestry, was doing doctoral research on diplomatic relations between the papacy and the Ukrainian Greek-Catholic hierarchy during the struggle for Ukrainian independence (1918-1923), when he began to realize how little research was being done on Ukrainian subjects at all.
I had the chance to ask Father McVay a few questions about his book, his research, and the surprisingly little-known Great Famine.
I asked how the Great Famine caught his attention and Father McVay explained that his interest was piqued while "working on a historical biography of the first Ukrainian bishop for Canada, Blessed Nykyta Budka (1877-1949), the centenary of whose appointment we will be celebrating in 2012. In 2008, while researching documents pertaining to Blessed Budka, I accidentally discovered documents concerning the Holodomor."
The Holodomor is better known in Canada than in the United States, it seems. Canada was the first country to declare the famine a genocide and the first to erect a monument in honor of its victims. Father McVay explained that he "had known about the Holodomor since the early 1980s when Ukrainians across Canada organized various conferences and demonstrations to have this humanitarian tragedy officially recognized by the Canadian government."
His home town in Winnipeg erected a monument to Holodomor victims in 1984 directly in front of City Hall.
Accounts describing the Holodomor vary from source to source. I asked Father McVay to give an account of the 1932 events in Ukraine for ZENIT readers. "The Soviet economy was a disaster," he began, "especially due to the ideological economic schemes such as the collective farms. Widespread famine was occurring in Russia and Ukraine at the end of the 1920s and this made the Soviet Union politically weak and fueled the Ukrainian independence movement. Stalin decided to kill two birds with one stone by weakening the Ukrainian ethnic population and also eliminating the prosperous farmer-class known as kulaks."
I had read that the Soviet government passed a law where private ownership of food was made illegal in 1932 and those who suffered the most from this legislation were the Ukrainians. But that was not all. "Grain was confiscated at gunpoint and shipped to Russian parts of the Soviet Union that were also experiencing food shortages," continued Father Mcvay. "The politically motivated famine was directed specifically against Ukrainian ethnics."
I asked if he found anything new while studying the correspondence with the Holy See and the author explained that he discovered not only "many of the details of the famine but especially documents regarding how the Apostolic See sought to intervene to make the tragedy know to the world and to alleviate the people's suffering."
Father McVay found "that the Pope learned about the Holodomor from the French Jesuit, Bishop Michel d'Herbigny, who was the president of the Pro Russia Commission. D'Herbigny was receiving letters from the Soviet Union as well as reports from foreign diplomats who had witnessed the situation first hand. D'Herbigny attempted to move mountains in order to convince Pius XI to launch an aid-mission to the Soviet Union, just as he and his predecessor Benedict XV had done in 1921-1923."
"The emotional Pius XI wept when he received one report," explained Father McVay, "and he insisted that something must be done. Unfortunately churchmen and diplomats all concurred that no aid would ever reach the people because Soviet authorities were officially denying the existence of a famine that Stalin had deliberately orchestrated. In the end, the Pope was only able to authorize a gift of 10,000 Italian lire to be forwarded to starving Catholics via German charitable organizations that had contacts in Ukraine."
A light in the Vatican Archives
Father McVay had the coveted experience of doing his research in the Vatican Archives. While portrayed in Dan Brown novels as a high tech vault where all the dirty Vatican secrets lie, the archives are a very different thing to the scholars who actually work there. The Vatican Archives have made great efforts over the past years to dispel the impression of intrigue by putting much of their holdings on line and organizing exhibits from their fascinating collections. In 2012, the archives will put many more documents on display at the Capitoline Museums in Rome.
I asked Father McVay about his time in the archives, and he pointed out that "it is a great privilege to be permitted to perform research in such an important collection of archival funds known collectively as the Vatican Secret Archives." Correcting the most common mistake about the archives he explained that "the official name is a bit of a misnomer. 'Secretum' here would be the equivalent to 'privy' in English. They are the Pope's archives and, as any state archives, are private but not 'secret.'"
The Archivium Secretum Vaticanum was opened for research to scholars by Pope Leo XIII in 1881. It has been the custom for the Roman Pontiffs to de-classify series of documents dating from not less than 80 years after the end of a pontificate of one or more of their predecessors. For Father McVay's research, the necessary documents -- those from the pontificate of Pius XI (1922-1939), were de-classified in 2006 by Benedict XVI.
I asked how many documents he read for his research, and Father McVay explained that for his doctoral dissertation he "sifted through well over 10,000 folios, mainly from two collections: the Archives of the Sacred Congregation for Extraordinary Ecclesiastical Affairs (AES) and those of the Apostolic Nunciature of Warsaw. For this particular project, virtually all of the documents are found in the Pro Russia section of the AES. Pro Russia was a Pontifical Commission created by Pius XI to handle all Catholic affairs in the Soviet Union and the Russian émigrés."
The translating was extensive for the English language book as Father McVay explained that "the lingua franca used in Vatican diplomatic correspondence is Italian. Documents to and from secular diplomatic representatives are invariably in French. Only a very few documents are in Latin, often to or from churchmen who did not speak Italian or French."
The letters coming from Ukraine however, were written in Russian. Father Mcvay told me that "the AES index lists the themes of all the documents contained in that archive, including famine in Russia. Holodomor is a Ukrainian term coined later. I spent about two months on-and-off translating the documents as I had other work to perform on my biography of Bishop Budka."
Best-kept Soviet secret
Despite the extraordinary death toll and horrific conditions of a people starving to death, this story seems to have passed under the radar in most history books. Everyone knows of the Holocaust, but few Americans or others would be able to explain the Holodomor. I asked Father Mcvay how this could have happened. "The Soviet Union and its successor the Russian Federation have denied that the famine was directed against Ukraine" he stated.
"Political and diplomatic pressure has been exerted on other countries not to disseminate information about the Holodomor and especially not to give it any kind of official recognition," he added. "But when I asked him about the question of genocide, Father explained that "the question is complicated. Whatever you want to call the Holodomor, it is vital that it be recognized as a deliberate act directed mainly against the ethnically Ukrainian population of Soviet Ukraine and Russia. Films about the Holodomor have been released. At the time, journalists such as Malcolm Muggeridge and Gareth Jones broke the story after visiting Soviet Ukraine."
But some journalists deliberately covered up the story of the famine, I had read. New York Times Russian bureau chief Walter Duranty published articles claiming that there was no famine in the Ukraine. He even won a Pulitzer prize for his reporting! Father McVay clarified this story:
"After the publication of government documents proving the existence of the Holodomor, the publication of our documents and contemporary news reports by Muggeridge and Jones, it is obvious that the late Walter Duranty's reports were inaccurate. I don't know what was the motivation behind such reports. I understand that some scholars have asked for Duranty's Pulitzer prize to be posthumously revoked."
Asked about what he considered the greatest contributions of this book, Father McVay answered, "The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine is a specific testimony of the Holodomor from primary and international diplomatic sources. It is also a contribution to scholarship on the inner workings of the Roman Curia during the pontificate of Pius XI."
(Elizabeth Lev teaches Christian art and architecture at Duquesne University's Italian campus and University of St. Thomas' Catholic Studies program. Her new book, "The Tigress of Forlì: Renaissance Italy's Most Courageous and Notorious Countess, Caterina Riario Sforza de' Medici" was published by Harcourt, Mifflin Houghton Press this Fall. She can be reached at lizlev@zenit.org)
ROME, NOV. 17, 2011 (Zenit.org).- The sober skies and short days of November remind Romans that this is the month to pray for the dead. It seems fitting that this month opened with a presentation of new documents regarding one of the most tragic -- and virtually unacknowledged -- events of the modern age, the Ukrainian Famine.
"The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine" by Father Athanasius McVay and Professor Lubomyr Luciuk was released Oct. 26 with a book launch at the Russian Ecumenical Center in Rome. The book is available in English through Kashtan Press and Abe Books.
The Holodomor (literally "killing by hunger") took place in 1932-33 in the fertile grain-producing region of Ukrainian USSR. While the exact number of deaths is not known due to lack of precise records, an estimated 2.4 to 7.5 million people died. This man-made famine, intended to starve the Ukrainian nationalists out of existence, has been recognized as a genocide by many nations worldwide.
Father Athanasius McVay, a Canadian Greek-Catholic priest of Ukrainian ancestry, was doing doctoral research on diplomatic relations between the papacy and the Ukrainian Greek-Catholic hierarchy during the struggle for Ukrainian independence (1918-1923), when he began to realize how little research was being done on Ukrainian subjects at all.
I had the chance to ask Father McVay a few questions about his book, his research, and the surprisingly little-known Great Famine.
I asked how the Great Famine caught his attention and Father McVay explained that his interest was piqued while "working on a historical biography of the first Ukrainian bishop for Canada, Blessed Nykyta Budka (1877-1949), the centenary of whose appointment we will be celebrating in 2012. In 2008, while researching documents pertaining to Blessed Budka, I accidentally discovered documents concerning the Holodomor."
The Holodomor is better known in Canada than in the United States, it seems. Canada was the first country to declare the famine a genocide and the first to erect a monument in honor of its victims. Father McVay explained that he "had known about the Holodomor since the early 1980s when Ukrainians across Canada organized various conferences and demonstrations to have this humanitarian tragedy officially recognized by the Canadian government."
His home town in Winnipeg erected a monument to Holodomor victims in 1984 directly in front of City Hall.
Accounts describing the Holodomor vary from source to source. I asked Father McVay to give an account of the 1932 events in Ukraine for ZENIT readers. "The Soviet economy was a disaster," he began, "especially due to the ideological economic schemes such as the collective farms. Widespread famine was occurring in Russia and Ukraine at the end of the 1920s and this made the Soviet Union politically weak and fueled the Ukrainian independence movement. Stalin decided to kill two birds with one stone by weakening the Ukrainian ethnic population and also eliminating the prosperous farmer-class known as kulaks."
I had read that the Soviet government passed a law where private ownership of food was made illegal in 1932 and those who suffered the most from this legislation were the Ukrainians. But that was not all. "Grain was confiscated at gunpoint and shipped to Russian parts of the Soviet Union that were also experiencing food shortages," continued Father Mcvay. "The politically motivated famine was directed specifically against Ukrainian ethnics."
I asked if he found anything new while studying the correspondence with the Holy See and the author explained that he discovered not only "many of the details of the famine but especially documents regarding how the Apostolic See sought to intervene to make the tragedy know to the world and to alleviate the people's suffering."
Father McVay found "that the Pope learned about the Holodomor from the French Jesuit, Bishop Michel d'Herbigny, who was the president of the Pro Russia Commission. D'Herbigny was receiving letters from the Soviet Union as well as reports from foreign diplomats who had witnessed the situation first hand. D'Herbigny attempted to move mountains in order to convince Pius XI to launch an aid-mission to the Soviet Union, just as he and his predecessor Benedict XV had done in 1921-1923."
"The emotional Pius XI wept when he received one report," explained Father McVay, "and he insisted that something must be done. Unfortunately churchmen and diplomats all concurred that no aid would ever reach the people because Soviet authorities were officially denying the existence of a famine that Stalin had deliberately orchestrated. In the end, the Pope was only able to authorize a gift of 10,000 Italian lire to be forwarded to starving Catholics via German charitable organizations that had contacts in Ukraine."
A light in the Vatican Archives
Father McVay had the coveted experience of doing his research in the Vatican Archives. While portrayed in Dan Brown novels as a high tech vault where all the dirty Vatican secrets lie, the archives are a very different thing to the scholars who actually work there. The Vatican Archives have made great efforts over the past years to dispel the impression of intrigue by putting much of their holdings on line and organizing exhibits from their fascinating collections. In 2012, the archives will put many more documents on display at the Capitoline Museums in Rome.
I asked Father McVay about his time in the archives, and he pointed out that "it is a great privilege to be permitted to perform research in such an important collection of archival funds known collectively as the Vatican Secret Archives." Correcting the most common mistake about the archives he explained that "the official name is a bit of a misnomer. 'Secretum' here would be the equivalent to 'privy' in English. They are the Pope's archives and, as any state archives, are private but not 'secret.'"
The Archivium Secretum Vaticanum was opened for research to scholars by Pope Leo XIII in 1881. It has been the custom for the Roman Pontiffs to de-classify series of documents dating from not less than 80 years after the end of a pontificate of one or more of their predecessors. For Father McVay's research, the necessary documents -- those from the pontificate of Pius XI (1922-1939), were de-classified in 2006 by Benedict XVI.
I asked how many documents he read for his research, and Father McVay explained that for his doctoral dissertation he "sifted through well over 10,000 folios, mainly from two collections: the Archives of the Sacred Congregation for Extraordinary Ecclesiastical Affairs (AES) and those of the Apostolic Nunciature of Warsaw. For this particular project, virtually all of the documents are found in the Pro Russia section of the AES. Pro Russia was a Pontifical Commission created by Pius XI to handle all Catholic affairs in the Soviet Union and the Russian émigrés."
The translating was extensive for the English language book as Father McVay explained that "the lingua franca used in Vatican diplomatic correspondence is Italian. Documents to and from secular diplomatic representatives are invariably in French. Only a very few documents are in Latin, often to or from churchmen who did not speak Italian or French."
The letters coming from Ukraine however, were written in Russian. Father Mcvay told me that "the AES index lists the themes of all the documents contained in that archive, including famine in Russia. Holodomor is a Ukrainian term coined later. I spent about two months on-and-off translating the documents as I had other work to perform on my biography of Bishop Budka."
Best-kept Soviet secret
Despite the extraordinary death toll and horrific conditions of a people starving to death, this story seems to have passed under the radar in most history books. Everyone knows of the Holocaust, but few Americans or others would be able to explain the Holodomor. I asked Father Mcvay how this could have happened. "The Soviet Union and its successor the Russian Federation have denied that the famine was directed against Ukraine" he stated.
"Political and diplomatic pressure has been exerted on other countries not to disseminate information about the Holodomor and especially not to give it any kind of official recognition," he added. "But when I asked him about the question of genocide, Father explained that "the question is complicated. Whatever you want to call the Holodomor, it is vital that it be recognized as a deliberate act directed mainly against the ethnically Ukrainian population of Soviet Ukraine and Russia. Films about the Holodomor have been released. At the time, journalists such as Malcolm Muggeridge and Gareth Jones broke the story after visiting Soviet Ukraine."
But some journalists deliberately covered up the story of the famine, I had read. New York Times Russian bureau chief Walter Duranty published articles claiming that there was no famine in the Ukraine. He even won a Pulitzer prize for his reporting! Father McVay clarified this story:
"After the publication of government documents proving the existence of the Holodomor, the publication of our documents and contemporary news reports by Muggeridge and Jones, it is obvious that the late Walter Duranty's reports were inaccurate. I don't know what was the motivation behind such reports. I understand that some scholars have asked for Duranty's Pulitzer prize to be posthumously revoked."
Asked about what he considered the greatest contributions of this book, Father McVay answered, "The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine is a specific testimony of the Holodomor from primary and international diplomatic sources. It is also a contribution to scholarship on the inner workings of the Roman Curia during the pontificate of Pius XI."
(Elizabeth Lev teaches Christian art and architecture at Duquesne University's Italian campus and University of St. Thomas' Catholic Studies program. Her new book, "The Tigress of Forlì: Renaissance Italy's Most Courageous and Notorious Countess, Caterina Riario Sforza de' Medici" was published by Harcourt, Mifflin Houghton Press this Fall. She can be reached at lizlev@zenit.org)
Birmanie / Myanmar: L’Eglise catholique accueille positivement le fait qu’en 2014, la Birmanie présidera l’ASEAN
Eglises d'Asie
10:42 18/11/2011
Selon l’évêque de Pathein, le fait que les membres de l’Association des Nations du Sud-Est asiatique (1) se soient mis d’accord pour accorder à la Birmanie la présidence de leur organisation en 2014, alors qu’en 2006, la même ASEAN avait refusé à la junte birmane l’honneur de cette présidence pour cause de non-respect des droits de l’homme, est le signe que les membres de l’ASEAN souhaitent « encourager notre pays sur la voie de la démocratie ». Le président de la Conférence épiscopale a ajouté que si la Birmanie voulait « mériter réellement » cette présidence, son pays devait encore accomplir de « grands progrès ». L’évêque enfin a précisé que le train de réformes mis en place ces derniers mois avait eu pour effet de diminuer la peur dans laquelle était maintenu le peuple birman jusqu’alors et que, pour autant que les réformes soient poursuivies, les Birmans montreraient combien ils étaient capables de travailler au développement de leur pays.
Dans l’immédiat, bien que les Etats-Unis aient estimé qu’accorder la présidence de l’ASEAN à la Birmanie était un geste prématuré, le président Obama a toutefois annoncé que son secrétaire d’Etat, Hillary Clinton, se rendrait en visite en Birmanie les 1er et 2 décembre prochains, une première depuis un demi-siècle. Le gouvernement birman a remporté une victoire et récolte par cette décision les fruits d’une ouverture politique et économique sans précédent. En l’espace de quelques mois, la junte militaire transformée en gouvernement « civil » a libéré l’opposante Aung San Suu Kyi, entamé un dialogue suivi avec elle, annoncé la création de syndicats libres et rétabli le droit de grève ; la construction – très impopulaire – d’un barrage sur l’Irrawaddy financé par des intérêts chinois a été suspendue et des réformes économiques importantes annoncées ; des prisonniers de conscience ont été libérés.
Dans les médias de la diaspora birmane comme de plus en plus ouvertement en Birmanie, il est souligné que ces réformes ne constituent qu’une première étape et demandent à être approfondies. Dans ce contexte, tous attendaient que le sommet de l’ASEAN à Bali coïncide avec de nouvelles libérations de prisonniers politiques, de grande ampleur cette fois-ci. Or celles-ci n’ont pas eu lieu. Pour autant, à Rangoun, la formation politique d’Aung San Suu Kyi, la Ligue nationale pour la démocratie (LND), officiellement dissoute il y a un an et demi, a décidé de réintégrer la scène politique officielle en choisissant de « s’enregistrer conformément à la loi ». Son objectif déclaré est de participer aux élections partielles qui doivent avoir lieu prochainement et qui verront la désignation de 42 nouveaux députés. Même si ces élections ne peuvent renverser la donne au Parlement (les futurs parlementaires ne représenteront que 10 % des sièges, l’USDP, parti du pouvoir en place, en détenant 80 %), elles n’en constitueront pas moins un test de la popularité de la LND, Aung San Suu Kyi ayant annoncé que son parti présenterait des candidats dans « toutes les circonscriptions ». En 1990, la LND avait largement remporté les élections sans avoir pu prendre le pouvoir.
Dans ce contexte, fait à la fois d’ouverture et d’incertitude, des intellectuels proches de l’Eglise catholique veulent faire le pari que l’équipe au pouvoir à Nyapyidaw est sincère dans sa volonté de réformes. Prudents, ils expliquent aussi que la communauté internationale doit maintenir sa pression sur la Birmanie et que la présidence de l’ASEAN ne dispensera pas le gouvernement de Thein Sein de poursuivre sa politique de démocratisation. « Le gouvernement ne pourra agir à sa guise et il devra se conformer aux bons usages du droit international, en communiquant et entretenant de bonnes relations avec ses voisins », souligne U Kyaw Khin, ancien professeur d’université en Thaïlande revenu vivre à Rangoun.
Pour l’heure, notent encore les observateurs, l’ouverture manifestée par Nyapyidaw et la réintroduction de la LND dans le jeu politique officiel n’ont pas encore permis d’aborder un sujet clef pour l’avenir du pays, à savoir le degré de participation au pouvoir des minorités ethniques, qui pour certaines d’entre elles sont en conflit armé avec le gouvernement birman (2). Les rapports de plusieurs ONG internationales indiquent qu’en pays kachin et shan, les accrochages entre l’armée gouvernementale et les rébellions ethniques se poursuivent, entraînant d’importants déplacements de population (3).
En Birmanie, où le bouddhisme hinayana (petit véhicule) est dominant (89 % de la population), les Eglises chrétiennes rassemblent environ 4 % de la population (dont un quart de catholiques), principalement parmi les minorités ethniques, notamment les Karen, Kachin et Chin.
(1) Thaïlande, Malaisie, Indonésie, Singapour, sultanat de Brunei, Philippines, Cambodge, Laos et Birmanie.
(2) En 1947, la première Constitution du pays avait posé pour les peuples de Birmanie le principe d’une Union fédérale démocratique. Lors de la seconde guerre mondiale, certaines minorités avaient choisi de s’aligner sur le Japon (Birmans, Arakanais bouddhistes notamment), d’autres restant fidèles aux troupes alliées (Karen, Kachin et populations musulmanes). Le général Aung San, héros de la libération du pays (à la fois des colons britanniques et des envahisseurs japonais) et père d’Aung San Suu Kyi, leader de l’actuelle opposition démocratique, avait donc mené des négociations avec la plupart des chefs de groupes ethniques afin de réunifier cette mosaïque de peuples sous une même fédération. Le 12 février 1947, il signait avec 21 représentants de minorités ethniques (dont les Shan, Chin et Kachin, les Karen ayant refusé de traiter), l’accord de Panglong, au terme duquel la majorité des groupes ethniques acceptait de se réunir en une « Union de Birmanie », sous un régime de type fédéral, avec un gouvernement central mais une forte autonomie pour chacun des sept Etats (à majorité ethnique) et des sept Divisions (à majorité birmane). Cet accord, qui n’envisageait aucune sécession, reste encore aujourd’hui le modèle d’union prôné par les principaux groupes ethniques rebelles.
(3) Voir dépêche EDA du 25 octobre 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-sud-est/birmanie-myanmar/les-operations-de-l2019armee-birmane-en-pays-kachin-s2019intensifient-et-n2019epargnent-pas-les-civils
(Source: Eglises d'Asie, 18 novembre 2011)
Vietnam: Des centaines de fidèles et de sympathisants de la paroisse de Thai Ha manifestent dans la capitale
Eglises d'Asie
10:44 18/11/2011
... « Nous protestons contre les calomnies et les contrevérités de la télévision au sujet de la paroisse de Thai Ha ». D’autres banderoles, sous le dessin d’une chapelle transformée en lieu de réjouissances pour cadres du Parti, portait l’inscription : « Ne profanez pas les terrains et les propriétés religieuses ! ». On pouvait lire encore sur l’un des calicots, l’article 70 de la Constitution vietnamienne : « Les terrains des religions sont protégés par la loi ». Tout autour du cortège, de nombreux agents de la Sécurité étaient en faction et des barrières métalliques avaient été installées.
Vers 9h 00, quelques prêtres parmi les manifestants ont été invités à rencontrer les autorités au siège du Comité populaire. La rencontre a duré une trentaine de minutes. Le reste des manifestants s’est dirigé vers le grand lac de Hanoi, passant devant le siège du journal de la capitale, le Ha Nôi Moi, dont les articles sur l’affaire de Thai Ha avaient été fort agressifs. Sur les berges du lac, des prêtres ont été interviewés par les représentants de la presse internationale (1). Vers 10h 00, la manifestation est passée devant la cathédrale et la statue de la Vierge élevée sur le parvis.
Cette manifestation a, semble-t-il, été improvisée pour réagir au coup de force des autorités municipales effectué dans la nuit du 16 au 17 novembre. Le 16 novembre dans la journée, la paroisse avait été avertie de l’éventualité d’une initiative des autorités municipales. Cependant, les responsables n’avaient pas jugé nécessaire de bouleverser le programme de la vie quotidienne de la paroisse et les deux messes prévues avaient été célébrées. Mis au courant, après la célébration des messes, de nombreux fidèles étaient restés sur place, d’autres étaient venus offrir leur aide aux religieux. Une nuit de veille avait commencé.
De fait, dans la nuit du 16 au 17, aux environs de 22h 00, d’importantes forces de l’ordre composées de policiers, d’agents de la Sûreté, de miliciens, et accompagnés de chiens policiers, étaient mobilisées pour protéger les bulldozers et autres véhicules destinés à des travaux de terrassement préalables à la construction de la station d’épuration. Selon le témoignage d’un paroissien recueilli par Radio Free Asia, un grand nombre de personnalités appartenant au Parti communiste vietnamien (section de la municipalité de la capitale) accompagnaient cette opération policière. De leur côté, de nombreux fidèles de Thai Ha, inquiets, continuaient à venir grossir les rangs des défenseurs de la paroisse. Beaucoup, en effet, craignaient de voir, comme le 3 novembre dernier, des hommes de main de la police s’introduire dans le monastère (4).
Pourtant, quelques jours auparavant, la tension entre les deux parties semblait être retombée quelque peu, grâce à une amorce de négociations. Le 10 novembre, une rencontre avait été organisée, dans un cabinet d’avocats, entre un religieux représentant de la paroisse et un responsable de l’hôpital Dông Da, l’établissement dont le projet de construction d’une station d’épuration d’eaux usées sur un terrain appartenant à la paroisse de Thai Ha à l’origine du conflit avec les religieux rédemptoristes (2). Le religieux avait demandé que le dossier de projet de construction de la station d’épuration soit communiqué pour étude à la paroisse et que la chapelle, à l’intérieur de l’hôpital, ne soit pas utilisée comme lieu de divertissement. Ces demandes semblaient avoir été bien accueillies par la partie adverse (3), mais il ne s’agissait là que d’un faux-semblant.
Dans ses différentes déclarations à Radio Free Asia, le religieux responsable de la paroisse s’est montré soucieux d’éviter toute violence inutile.
(1) La manifestation a été couverte par des reporters de Radio Free Asia, ainsi que par d’autres agences indépendantes comme Vietcatholic News, VRNs, etc.
(2) Voir dépêche EDA du 16 novembre 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-sud-est/vietnam/hanoi-nuit-de-veille-a-la-paroisse-de-thai-ha-ou-les-autorites-se-preparent-a-entamer-les-travaux-de-construction-malgre-le-refus-des-pretres-et-les-fideles
(3) Radio Free Asia, 15 novembre 2011.
(4) Voir dépêche EDA du 9 novembre 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-sud-est/vietnam/laffaire-de-la-paroisse-de-thai-ha-prend-un-tour-decisif
(Source: Eglises d'Asie, 18 novembre 2011)
Catholics take to the streets in Hanoi demanding justice
Asia-News
11:32 18/11/2011
Thousands of faithful began demonstrating this morning to defend Thai Ha Parish against the unlawful seizure of what is left of its land. They also protested against the defamation campaign against them by state TV.
Hanoi (AsiaNews) – Thousands of Catholics took to the streets this morning in Hanoi (pictured), demanding justice for Thai Ha Parish and the nearby Redemptorist monastery. They waved banners: one stated, "Do not trespass on religious land and property", another called on the government to "return what you borrow", and a third said, “We protest Hanoi TV's defamation and distortion of the truth about Thai Ha parish”.
The protest was provoked by a decision taken by the Dong Da District People’s Committee to seize the limited land that is left to the local Catholic community in order to build a sewage treatment system for a nearby hospital.
Bought in 1928 by the Redemptorists, the original property covered an area of 61.455 sq m. Now only some 2,700, sq m are left.
The conflict reached its peak in 2008 and 2009 when days of protest by thousands of Catholics ended in the trial and conviction of eight of them for disturbing the public order.
The dispute’s latest round began on 8 October when the local parish priest, Fr Joseph Nguyen Van Phuong, was summoned to appear before the Dong Da District People’s Committee to be informed that they had decided on how to dispose of the parish’s land.
Men and women religious as well as parishioners reacted by staging protests. This was followed on 3 November by an assault carried out by hundreds of police agents and soldiers using dogs and truncheons, taped by a TV crew. Using loudspeakers, the attackers hurled insults and stones at the convent, breaking its main door. Only the quick intervention of faithful from neighbouring parishes brought in by tolling bells stopped the attack.
On Wednesday, 500 riot police and security forces escorted dozens of bulldozers to start building the hospital sewage treatment system, just a few metres from the existing church.
At the same time, despite threats of retaliation by the authorities, people began their protest in front of the People’s Committee headquarters, whilst plainclothes police officers take pictures and videotape the protesters.
“I’m not scared,” Peter Tuan Nguyen told AsiaNews. “We need to lift the veil from the injustices committed in Vietnam.”
“Why I came here? Well, to protest before the international community [against] the ongoing persecutions we have suffered for almost seven decades,” said Maria Thanh Tran.
The protest was provoked by a decision taken by the Dong Da District People’s Committee to seize the limited land that is left to the local Catholic community in order to build a sewage treatment system for a nearby hospital.
Bought in 1928 by the Redemptorists, the original property covered an area of 61.455 sq m. Now only some 2,700, sq m are left.
The conflict reached its peak in 2008 and 2009 when days of protest by thousands of Catholics ended in the trial and conviction of eight of them for disturbing the public order.
The dispute’s latest round began on 8 October when the local parish priest, Fr Joseph Nguyen Van Phuong, was summoned to appear before the Dong Da District People’s Committee to be informed that they had decided on how to dispose of the parish’s land.
Men and women religious as well as parishioners reacted by staging protests. This was followed on 3 November by an assault carried out by hundreds of police agents and soldiers using dogs and truncheons, taped by a TV crew. Using loudspeakers, the attackers hurled insults and stones at the convent, breaking its main door. Only the quick intervention of faithful from neighbouring parishes brought in by tolling bells stopped the attack.
On Wednesday, 500 riot police and security forces escorted dozens of bulldozers to start building the hospital sewage treatment system, just a few metres from the existing church.
At the same time, despite threats of retaliation by the authorities, people began their protest in front of the People’s Committee headquarters, whilst plainclothes police officers take pictures and videotape the protesters.
“I’m not scared,” Peter Tuan Nguyen told AsiaNews. “We need to lift the veil from the injustices committed in Vietnam.”
“Why I came here? Well, to protest before the international community [against] the ongoing persecutions we have suffered for almost seven decades,” said Maria Thanh Tran.
Pope's arrival address in Benin: ''God Trusts in Man and Desires His Good''
Vatican Press
14:24 18/11/2011
Mr President,
Your Eminence,
Dear President of the Episcopal Conference of Benin,
Civil, Ecclesiastical and Religious Authorities,
Dear Friends,
I thank you, Mr President, for the warm words of welcome. You know well the affection which I have for your continent and for your country. I was eager to return to Africa, and a threefold motivation has provided the occasion for this Apostolic Journey. First and foremost, Mr President, is your kind invitation to visit your country. Your initiative was received along with that of the Episcopal Conference of Benin. These are auspicious, since they come during the year in which Benin celebrates the fortieth anniversary of the establishment of diplomatic relations with the Holy See, as well the one hundred and fiftieth anniversary of her evangelization. While among you, I will have the occasion to meet many people, and I look forward to it. Each of these experiences will be different, and will culminate in the Eucharist which I will celebrate before I leave.
This Apostolic Journey also fulfils my desire to bring back to African soil the Post-Synodal Apostolic Exhortation Africae Munus. Its reflections will guide the pastoral activities of numerous Christian communities in the coming years. May this document fall into the ground and take root, grow and bear much fruit "in one case a hundredfold, in another sixty, and in another thirty", as Christ himself said (Mt 13:23).
Additionally, there exists a third reason which is more personal and more emotive. I have long held in high esteem a son of this country, His Eminence Cardinal Bernardin Gantin. For many years, we both worked, each according to his proper competence, labouring in the same vineyard. We both happily assisted my predecessor, Blessed John Paul II, in the exercise of his Petrine ministry. We had many occasions to meet, to engage in profound discussions and to pray together. Cardinal Gantin won the respect and the affection of many. So it seemed right that I should come to his country of origin, to pray before his tomb, and to thank Benin for having given the Church such a distinguished son.
Benin is a country of ancient and noble traditions. Her history is significant. I am pleased to take this opportunity to greet the traditional Chiefs. Their contribution is important in the construction of the country’s future. I would like to encourage them to contribute, with their wisdom and understanding of local customs, in the delicate transition currently under way from tradition to modernity.
Modernity need not provoke fear, but neither can it be constructed by neglecting the past. It needs to be accompanied by prudence for the good of all in order to avoid the pitfalls which exist on the African continent and elsewhere, such as unconditional surrender to the law of the market or that of finance, nationalism or exaggerated and sterile tribalism which can become destructive, a politicization of interreligious tensions to the detriment of the common good, or finally the erosion of human, cultural, ethical and religious values. The transition to modernity must be guided by sure criteria based on recognized virtues, which are listed in your national motto, but equally which are firmly rooted in the dignity of the person, the importance of the family and respect for life. All of these values exist in view of the common good which must take first place, and which must constitute the primary concern of all in positions of responsibility. God trusts in man and desires his good. It is our task to respond, in honesty and justice, to his high expectations.
The Church, for her part, offers her own specific contribution. By her presence, her prayer and her various works of mercy, especially in education and health care, she wishes to give her best to everyone. She wants to be close to those who are in need, near to those who search for God. She wants to make it understood that God is neither absent nor irrelevant as some would have us believe but that he is the friend of man. It is in this spirit of friendship and of fraternity that I come to your country, Mr President.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chương trình thắp nến cầu nguyện cho Thái Hà tại Melbourne và Sydney Australia
VietCatholic Network
05:14 18/11/2011
Dưới đây là tóm tắt chương trình các buổi thắp nến cầu nguyện cho Thái Hà, Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam. Xin quý vị độc giả theo dõi thường xuyên và giúp thông báo cho anh chị em chúng ta có thể tham gia đông đủ.
Tại Melbourne:
Thời điểm: Tối thứ Bảy, Ngày 19 Tháng 11 Năm 2011 lúc 7:00 tối.
Địa điểm: Parliament House, góc đường Spring và Bourke Street (Bên cạnh Ga Xe Lửa Parliament).
Diễn giả:
Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long
Đức Cha Hilton Deakin
Các thượng nghị sĩ và dân biểu Victoria – Australia
Đại diện Amnesty International
Đại diện các đoàn thể người Việt, các hội đoàn Công Giáo Úc, Việt
Tại Sydney:
Thời điểm: Tối thứ Bảy, Ngày 26 Tháng 11 Năm 2011 lúc 7:00 tối
Địa điểm: Công viên Paul Keating, Bankstown.
Tại Melbourne:
Thời điểm: Tối thứ Bảy, Ngày 19 Tháng 11 Năm 2011 lúc 7:00 tối.
Địa điểm: Parliament House, góc đường Spring và Bourke Street (Bên cạnh Ga Xe Lửa Parliament).
Diễn giả:
Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long
Đức Cha Hilton Deakin
Các thượng nghị sĩ và dân biểu Victoria – Australia
Đại diện Amnesty International
Đại diện các đoàn thể người Việt, các hội đoàn Công Giáo Úc, Việt
Tại Sydney:
Thời điểm: Tối thứ Bảy, Ngày 26 Tháng 11 Năm 2011 lúc 7:00 tối
Địa điểm: Công viên Paul Keating, Bankstown.
Chương trình Đêm Thắp Nến hiệp thông với Thái Hà tại Sydney
Cộng Đồng CGVN TGP Sydney
03:58 18/11/2011
Bộ mặt thảm hại của nhà nước Việt Nam dưới mắt một dân biểu Australia
SBS Radio Australia
07:42 18/11/2011
Hà Nội: Linh mục, tu sĩ và giáo dân xuống đường biểu tình đòi Công lý
Tin Tổng hợp
08:32 18/11/2011
HÀ NỘI - Sáng nay ngày 18/11, các linh mục cùng rất đông giáo dân Thái Hà đã đi bộ ra UBND Thành Phố Hà Nội ngay cạnh bờ Hồ Hoàn Kiếm để khiếu kiện. Khi đi có băng rôn. Trước những hành động bất công, giáo dân, tu sĩ xuống đường đòi Công lý, theo tường thuật của http://bietkichxaxu.blogspot.com
Thái Hà biểu tình đòi công lý
Những hành động bất chính, vô luân của nhà cầm quyền Hà Nội chà đạp lên pháp luật, lên quyền con người, quyền tự do tôn giáo đã gia tăng ngày càng nặng nề và khốc liệt. Đặc biệt là quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nghiêm trọng. Những ngày qua tại Giáo xứ Thái Hà, nhà cầm quyền Hà Nội đã dùng cả hệ thống chính trị, tuyên truyền nhằm dập tắt tinh thần đấu tranh vì Công lý – Sự thật ở Thái Hà bằng nhiều cách chèn ép, dọa dẫm, khủng bố và nhiều âm mưu bẩn thỉu nhằm tấn công cộng đồng tôn giáo nơi đây.
Đặc biệt Tu viện của Dòng Chúa Cứu thế đã bị nhà nước “mượn” từ lâu để đưa vào đó ổ bệnh tật truyền nhiễm, lăng mạ, xúc phạm nơi Thánh thiêng của Công giáo, nhưng đã hành động bằng bạo lực khi giáo dân đòi lại. Hành động thi công nhằm xóa bỏ dấu tích của Tu viện này đã được tiến hành vào đêm 17/11/2011 đã càng làm giáo dân, tu sĩ, linh mục ở đây căm phẫn. Tu viện của Dòng Chúa Cứu thế hình thành từ năm 1928 đã bị "mượn". Phòng Thánh, nhà nguyện bị biến thành nơi ăn chơi, nhảy múa trụy lạc.
Theo xuandienhannom.blogspot.com ghi lại cuộc xuống đường chi tiết như sau:
Sáng nay khoảng 10 tu sĩ, linh mục thuộc giáo xứ Thái Hà cùng với gần 200 giáo dân đã đến ủy ban nhân dân TP Hà Nội để phản đối việc chính quyền Hà Nội đang đêm xây dựng trái phép trên phần đất thuộc tu viện của giáo xứ Thái Hà.
Trước đó tại trước cổng ủy ban, có một đoàn người dân oan đòi đất đang ngồi trước. Các bà con giáo dân đến sau với biểu ngữ, khẩu hiệu rợp trời. Các linh mục, tu sĩ đến sau giây lát.
Sau đó xe buýt đến chắn trước mặt đoàn người, màn kịch đưa người lên xe buýt không được thực hiện, vì các linh mục, tu sĩ đã hiên ngang đứng trước đoàn người.
Người của ủy ban ra chỉ đưa chỉ cho mọi người sang bên tiếp dân của thành phố ở ngã tư Trần Nguyễn Hãn, Lý Thái Tổ.
Một hồi lâu, bộ phận tiếp dân của thành phố mời đại diện, giáo dân tu sĩ vào để nói chuyện.
Hiện tại, họ đang tập trung tại khu vực UBND TP Hà Nội.
Có rất đông bà con giáo dân Thái Hà và nhân dân Đông Anh tham gia xuống đường.
08h50: lực lượng an ninh Hà Nội đã tiếp cận đoàn biểu tình (khoảng vài trăm người) để mời họ vào Trụ sở tiếp dân của UBND TP, 34 Lý Thái Tổ.
09h03: Trung tá Canh (CA Hoàn Kiếm - người nổi tiếng trong các vụ bắt bớ người biểu tình) đi vào Trụ sở tiếp dân của Thành phố.
09h34: Xe Bus đã được đưa đến để chặn trước cửa trụ sở tiếp dân của UBND TP HN. Những người biểu tình đang đi ra Bờ Hồ từ đường Trần Nguyên Hãn.
09h45: Đoàn người đã đến trước cửa trụ sở Công an Hoàn Kiếm.
Trước đó, một số chức sắc, linh mục ở lại làm việc với đại diện chính quyền HN tại phòng tiếp dân, một số khác dẫn bà con giáo dân đi quanh Bờ Hồ.
09h50: Các chức sắc linh mục làm việc với đại diện chính quyền đã ra khỏi phòng tiếp dân và đang đi ra Bờ Hồ cùng bà con giáo dân.
09h52: Đi ngang qua trụ sở Báo Hà Nội Mới, tờ báo từng đăng bài vu khống người biểu tình yêu nước, đồng thời cũng đăng bài ca ngợi viên tướng Tàu Hứa Thế Hữu.
0955: Đi ngang qua Nhà Thủy Tạ. Nhiều phóng viên các hãng thông tấn quốc tế đang thực hiện phỏng vấn các Linh mục, chức sắc tôn giáo.
0958: Đoàn kéo về Nhà thờ Lớn Hà Nội.
10h05: Bà con giáo dân đi vòng quanh tượng Đức Mẹ, trong sân lớn Nhà thờ Lớn HN.
Thái Hà biểu tình đòi công lý
Những hành động bất chính, vô luân của nhà cầm quyền Hà Nội chà đạp lên pháp luật, lên quyền con người, quyền tự do tôn giáo đã gia tăng ngày càng nặng nề và khốc liệt. Đặc biệt là quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nghiêm trọng. Những ngày qua tại Giáo xứ Thái Hà, nhà cầm quyền Hà Nội đã dùng cả hệ thống chính trị, tuyên truyền nhằm dập tắt tinh thần đấu tranh vì Công lý – Sự thật ở Thái Hà bằng nhiều cách chèn ép, dọa dẫm, khủng bố và nhiều âm mưu bẩn thỉu nhằm tấn công cộng đồng tôn giáo nơi đây.
Đặc biệt Tu viện của Dòng Chúa Cứu thế đã bị nhà nước “mượn” từ lâu để đưa vào đó ổ bệnh tật truyền nhiễm, lăng mạ, xúc phạm nơi Thánh thiêng của Công giáo, nhưng đã hành động bằng bạo lực khi giáo dân đòi lại. Hành động thi công nhằm xóa bỏ dấu tích của Tu viện này đã được tiến hành vào đêm 17/11/2011 đã càng làm giáo dân, tu sĩ, linh mục ở đây căm phẫn. Tu viện của Dòng Chúa Cứu thế hình thành từ năm 1928 đã bị "mượn". Phòng Thánh, nhà nguyện bị biến thành nơi ăn chơi, nhảy múa trụy lạc.
Theo xuandienhannom.blogspot.com ghi lại cuộc xuống đường chi tiết như sau:
Sáng nay khoảng 10 tu sĩ, linh mục thuộc giáo xứ Thái Hà cùng với gần 200 giáo dân đã đến ủy ban nhân dân TP Hà Nội để phản đối việc chính quyền Hà Nội đang đêm xây dựng trái phép trên phần đất thuộc tu viện của giáo xứ Thái Hà.
Trước đó tại trước cổng ủy ban, có một đoàn người dân oan đòi đất đang ngồi trước. Các bà con giáo dân đến sau với biểu ngữ, khẩu hiệu rợp trời. Các linh mục, tu sĩ đến sau giây lát.
Sau đó xe buýt đến chắn trước mặt đoàn người, màn kịch đưa người lên xe buýt không được thực hiện, vì các linh mục, tu sĩ đã hiên ngang đứng trước đoàn người.
Người của ủy ban ra chỉ đưa chỉ cho mọi người sang bên tiếp dân của thành phố ở ngã tư Trần Nguyễn Hãn, Lý Thái Tổ.
Một hồi lâu, bộ phận tiếp dân của thành phố mời đại diện, giáo dân tu sĩ vào để nói chuyện.
Hiện tại, họ đang tập trung tại khu vực UBND TP Hà Nội.
Có rất đông bà con giáo dân Thái Hà và nhân dân Đông Anh tham gia xuống đường.
08h50: lực lượng an ninh Hà Nội đã tiếp cận đoàn biểu tình (khoảng vài trăm người) để mời họ vào Trụ sở tiếp dân của UBND TP, 34 Lý Thái Tổ.
09h03: Trung tá Canh (CA Hoàn Kiếm - người nổi tiếng trong các vụ bắt bớ người biểu tình) đi vào Trụ sở tiếp dân của Thành phố.
09h34: Xe Bus đã được đưa đến để chặn trước cửa trụ sở tiếp dân của UBND TP HN. Những người biểu tình đang đi ra Bờ Hồ từ đường Trần Nguyên Hãn.
09h45: Đoàn người đã đến trước cửa trụ sở Công an Hoàn Kiếm.
Trước đó, một số chức sắc, linh mục ở lại làm việc với đại diện chính quyền HN tại phòng tiếp dân, một số khác dẫn bà con giáo dân đi quanh Bờ Hồ.
09h50: Các chức sắc linh mục làm việc với đại diện chính quyền đã ra khỏi phòng tiếp dân và đang đi ra Bờ Hồ cùng bà con giáo dân.
09h52: Đi ngang qua trụ sở Báo Hà Nội Mới, tờ báo từng đăng bài vu khống người biểu tình yêu nước, đồng thời cũng đăng bài ca ngợi viên tướng Tàu Hứa Thế Hữu.
0955: Đi ngang qua Nhà Thủy Tạ. Nhiều phóng viên các hãng thông tấn quốc tế đang thực hiện phỏng vấn các Linh mục, chức sắc tôn giáo.
0958: Đoàn kéo về Nhà thờ Lớn Hà Nội.
10h05: Bà con giáo dân đi vòng quanh tượng Đức Mẹ, trong sân lớn Nhà thờ Lớn HN.
Tường trình việc đưa đơn của giáo xứ Thái Hà tại 34 Lý Thái Tổ
Người Buôn Gió
08:40 18/11/2011
HÀ NỘI (Nov 18, 2011) Phải mất nửa tiếng đồng hồ, bộ phận tiếp dân của UBND Hà Nội mới sắp đặt được bộ phận tiếp dân. Nguyên nhân bởi vì quá đông cán bộ chính quyền tham dự, tổng cộng đến 19 người. Gồm an ninh, ban tôn giáo, cảnh sát, văn phòng ủy ban, cán bộ quận Đống Đa, truyền hình, báo chí...
Đoàn giáo xứ Thái Hà có 4 giáo dân và 3 linh mục, 1 tu sĩ
Cấp cao nhất có mặt ở phòng tiếp dân là phó chánh văn phòng ủy ban nhân dân.
Mới đầu bên chính quyền có 3 người quay phim, bên giáo xứ Thái Hà có 1 người.
Phó chánh văn phòng UBNDHN đề nghị tắt may quay phim, bên giáo xứ Thái Hà nói phải hai bên cùng tắt. Hai bên ngừng quay phim một lát, khi Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam Phong đứng lên phát biểu thì bên chính quyền giở máy quay ghi hình, bên giáo xứ một vị tu sĩ cũng quay phim. Hai bên không ai nói gì về chuyện quay phim nữa.
Bên tiếp dân UBNDTP giới thiệu thành phần có phó chánh văn phòng, ban tôn giáo, phó chủ tịch quận Đống Đa, đại diện tiếp dân của UB. Tất cả có 4 người được giới thiệu trên tổng số 19 người. Sau đó bên ủy ban đòi đoàn giáo xứ Thái Hà giới thiệu từng người một. Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam phong giới thiệu các Linh Mục đi cùng đoàn và kết thúc là nếu giới thiệu tên hết thì bên các ông chính quyền cũng phải giới thiệu hết.
Lại câu qua, câu lại một lát thì thôi. Bên chính quyền có vẻ không thống nhất được với nhau, người bảo là đại diện chính quyền thi chốc lại bị người bên cạnh ngăn dừng lời nói, hay có lúc lại thúc đứng dậy nói thế này thế kia đi. Quay đi quay lại hỏi ý kiến nhau rất mất thời gian. Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam Phong đứng lên trình bày
- Theo pháp luật thì một dự án mà có đơn kiện, sẽ bị ngừng triển khai để giải quyết. Hiện nay trong khi chúng tôi chờ đợi đơn của chính quyền về chủ quyền khu đất của chúng tôi, thì đang đêm chính quyền cho hàng trăm cảnh sát phong tỏa khu đất và tiến hành xây dựng.
Phía UB họ nói rằng họ là bộ phận tiếp nhận đơn, có hàng ngàn lá đơn như vậy, thậm chí là có đến 9 nghìn lá đơn. Họ chỉ chuyển cho bộ phận liên quan giải quyết, chứ họ không phải là người giải quyết, bày tỏ không muốn nghe.
Một người dân nói rằng
- Chúng tôi lên đây đưa đơn, nếu chính quyền có thêm chút thời gian nghe tâm tư, nguyện vọng của người đưa đơn thì nghe. Còn không thì nhận đơn, chúng tôi đi về.
Cán bộ bên ban tôn giáo thành phố gạt.
- Thôi tâm tư thì có trong đơn rồi, khỏi cần nghe. Nhận đơn là xong.
Ngay trong lúc đó, một người phía chính quyền chạy vào để mảnh giấy lên bàn cho đại diện tiếp dân, tờ giấy chuyển qua hai, ba người cán bộ chính quyền. Cán bộ tiếp dân thái độ không còn trịch thượng, cả phó chánh văn phòng. Họ cùng nhau nói.
- Chúng tôi đã tiếp đón, nhận đơn rồi, các anh bảo những người bên ngoài đừng đi tuần hành, đừng giăng khẩu hiệu, biểu ngữ, đừng hát gì nữa. Giờ mọi người bên ngoài đang đi tuần hành đấy, các anh cử ai ra bảo họ đi.
Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong cười nói.
- Chúng tôi thấy họ đi như vậy chẳng có vấn đề gì.
Bên chính quyền nháo nhác làm gấp tờ tiếp nhận đơn. Sau khi cầm giấy tiếp nhận đơn, đoàn đại diện giáo xứ Thái Hà ra về.
(Nguồn: http://nguoibuongio1972.multiply.com/journal/item/445/445)
Cấp cao nhất có mặt ở phòng tiếp dân là phó chánh văn phòng ủy ban nhân dân.
Mới đầu bên chính quyền có 3 người quay phim, bên giáo xứ Thái Hà có 1 người.
Phó chánh văn phòng UBNDHN đề nghị tắt may quay phim, bên giáo xứ Thái Hà nói phải hai bên cùng tắt. Hai bên ngừng quay phim một lát, khi Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam Phong đứng lên phát biểu thì bên chính quyền giở máy quay ghi hình, bên giáo xứ một vị tu sĩ cũng quay phim. Hai bên không ai nói gì về chuyện quay phim nữa.
Bên tiếp dân UBNDTP giới thiệu thành phần có phó chánh văn phòng, ban tôn giáo, phó chủ tịch quận Đống Đa, đại diện tiếp dân của UB. Tất cả có 4 người được giới thiệu trên tổng số 19 người. Sau đó bên ủy ban đòi đoàn giáo xứ Thái Hà giới thiệu từng người một. Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam phong giới thiệu các Linh Mục đi cùng đoàn và kết thúc là nếu giới thiệu tên hết thì bên các ông chính quyền cũng phải giới thiệu hết.
Lại câu qua, câu lại một lát thì thôi. Bên chính quyền có vẻ không thống nhất được với nhau, người bảo là đại diện chính quyền thi chốc lại bị người bên cạnh ngăn dừng lời nói, hay có lúc lại thúc đứng dậy nói thế này thế kia đi. Quay đi quay lại hỏi ý kiến nhau rất mất thời gian. Linh Mục Nguyễn Ngọc Nam Phong đứng lên trình bày
- Theo pháp luật thì một dự án mà có đơn kiện, sẽ bị ngừng triển khai để giải quyết. Hiện nay trong khi chúng tôi chờ đợi đơn của chính quyền về chủ quyền khu đất của chúng tôi, thì đang đêm chính quyền cho hàng trăm cảnh sát phong tỏa khu đất và tiến hành xây dựng.
Phía UB họ nói rằng họ là bộ phận tiếp nhận đơn, có hàng ngàn lá đơn như vậy, thậm chí là có đến 9 nghìn lá đơn. Họ chỉ chuyển cho bộ phận liên quan giải quyết, chứ họ không phải là người giải quyết, bày tỏ không muốn nghe.
Một người dân nói rằng
- Chúng tôi lên đây đưa đơn, nếu chính quyền có thêm chút thời gian nghe tâm tư, nguyện vọng của người đưa đơn thì nghe. Còn không thì nhận đơn, chúng tôi đi về.
Cán bộ bên ban tôn giáo thành phố gạt.
Hôm nay tình cờ Lái nhảy vào chụp kiểu ảnh |
Ngay trong lúc đó, một người phía chính quyền chạy vào để mảnh giấy lên bàn cho đại diện tiếp dân, tờ giấy chuyển qua hai, ba người cán bộ chính quyền. Cán bộ tiếp dân thái độ không còn trịch thượng, cả phó chánh văn phòng. Họ cùng nhau nói.
- Chúng tôi đã tiếp đón, nhận đơn rồi, các anh bảo những người bên ngoài đừng đi tuần hành, đừng giăng khẩu hiệu, biểu ngữ, đừng hát gì nữa. Giờ mọi người bên ngoài đang đi tuần hành đấy, các anh cử ai ra bảo họ đi.
Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong cười nói.
- Chúng tôi thấy họ đi như vậy chẳng có vấn đề gì.
Bên chính quyền nháo nhác làm gấp tờ tiếp nhận đơn. Sau khi cầm giấy tiếp nhận đơn, đoàn đại diện giáo xứ Thái Hà ra về.
(Nguồn: http://nguoibuongio1972.multiply.com/journal/item/445/445)
Nghị Quyết 23/2003/QH11 đ/v tài sản tôn giáo có là ‘lá chắn thép’?
Alf Hoàng Gia Bảo
09:10 18/11/2011
Chuyện nhà nước “mượn” tu viện của DCCT làm bệnh viện Đống Đa chuyện tưởng đã quá rõ. Việc xác định chủ quyền không cần thiết và quan trọng bằng chọn cách đấu tranh sao đem lại hiệu quả.
Nghị Quyết 23/2003/QH11
Như chúng ta đều đã biết, sở dĩ mọi cuộc khiếu kiện trước nay liên quan đến nhà cửa đất đai không chỉ của giáo hội mà còn rất nhiều nạn nhân là dân lành khắp nơi đều chẳng đi đến đâu, chẳng ai đòi lại được tài sản mồ hôi nước mắt của cha ông mình, vì hầu hết đều bị va đầu vào ‘bức tường’ pháp lý do nhà nước CHXHCN-VN dựng lên, mang tên “NGHỊ QUYẾT VỀ NHÀ ĐẤT DO NHÀ NƯỚC ĐÃ QUẢN LÝ, BỐ TRÍ SỬ DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT VÀ CHÍNH SÁCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 1991” được quốc hội dưới thời ông Nguyễn Văn An ‘nhắm mắt’ thông qua vào ngày 23/11/2003. Ngay tại điều 1 mở màn bản NQ này đã đưa ra hai câu khẳng định hết sức ‘lạnh lùng’, đó là từ nay về sau nhà nước CH-XHCN-VN không xem xét và cũng chẳng bao giờ thừa nhận việc đòi đất của bất cứ ai, nguyên văn của đêìu 1 này như sau:
“+ Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.
+ Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất.“
Sự vội khẳng định như vậy trong một văn bản pháp lý quan trọng mà chẳng cần nêu lý do ‘xét thấy, xét vì’ đất nước lâm nguy hay hoàn cảnh cấp bách này nọ v.v… buộc người dân phải tự hỏi, phải chăng mục đích tối thượng của Nghị Quyết này (nay đã trở thành luật) không gì hơn nhằm bảo đảm những chính sách sai trái của nhà nước về đất đai trước đây được ‘hạ cánh’ an toàn, còn nạn nhân thì… chuyện đã ‘lỡ rồi’ ráng mà chịu!?
“Mượn” có là ‘CHÍNH SÁCH’?
Đ/v trường hợp tu viện DCCT Hà Nội, để có thể bị liệt vào diện QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT VÀ CHÍNH SÁCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA như NQ nêu trên, đồng thời để một chính sách được thi hành một cách đúng đắn, ít nhất chính quyền Hà Nội đã phải làm hai việc sau:
- Một là, đưa tên tuổi tu viện DCCT vào danh sách những tài sản cần phải ‘quản lý và cải tạo’ trên địa bàn Hà Nội, căn cứ trên các chính sách x, y nào đó của chính phủ ban hành thời ấy.
- Và hai là, phải gởi thông báo hay quyết định trưng thu tiếp quản đến cho DCCT, vì là nơi sẽ phải chịu sự thi hành các chính sách ‘quản lý và cải tạo’ này.
Vậy câu hỏi cần nêu lên lúc này là liệu đã từng có các văn bản như vậy không? Nếu có thì chúng đang ở đâu? Xin nhà nước trưng ra làm bằng chứng. Đồng thời cũng cần nêu luôn các cha DCCT Hà Nội cũng đã từng nhận được các thông báo, quyết định tiếp quản tài sản này trước kia.
Nếu không, thì câu trả lời cho vấn đề tranh chấp bệnh viện Đống Đa không còn gì bàn cãi. Rằng tu viện DCCT Hà Nội chưa từng bị đưa vào diện trưng thu cải tạo, mà chỉ có chuyện địa phương Đống Đa tự ý chiếm dụng trái phép dưới danh nghĩa “mượn” mà thôi. Và vì thế tu viện này không nằm trong số những đối tượng chịu tác động bởi NQ23/2003/QH11.
Đơn giản chỉ vì “mượn” thì không thể thuộc về “chính sách”. Một em sinh viên luật năm thứ I cũng thừa biết như thế. Mà đã “mượn” ắt phải có lúc trả, vì đó là qui luật của tự nhiên, của lẽ phải.
Quan trọng hơn nữa, “mưọn” kiểu này không chỉ là chuyện riêng của Thái Hà mà là của hầu hết các nhà thờ dòng tu khác trên cả nước.
Do vậy, nhân những ‘rắc rối’ mà Thái Hà đang gặp phải HĐGM-VN có nên chăng một lần đặt vấn đề rõ ràng với chính quyền, nhằm xác định việc “mượn” tài sản tôn giáo ở nhiều giáo phận trước đây có nằm trong chính sách nào đó của chính phủ không? Nếu có, thì chính sách ấy là những chính sách nào, nội dung ra sao? Còn không thì ngược lại, Nghị quyết 23/2003/QH11 hoàn toàn không có giá trị với chúng. Nhà nước không nên tiếp tục vin vào nghị quyết này để khước từ việc giải quyết trả lại tài sản cho giáo hội, thậm chí còn qui kết việc đòi lại tài sản này như Thái Hà đang làm là ‘vi phạm pháp luật’.
Sàigòn, 18/11/2011
(tìm hiểu thêm về NQ23/2003/QH11 tại đây http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Van-ban-phap-luat/2005/03/1DFB46C9/ )
Nghị Quyết 23/2003/QH11
Như chúng ta đều đã biết, sở dĩ mọi cuộc khiếu kiện trước nay liên quan đến nhà cửa đất đai không chỉ của giáo hội mà còn rất nhiều nạn nhân là dân lành khắp nơi đều chẳng đi đến đâu, chẳng ai đòi lại được tài sản mồ hôi nước mắt của cha ông mình, vì hầu hết đều bị va đầu vào ‘bức tường’ pháp lý do nhà nước CHXHCN-VN dựng lên, mang tên “NGHỊ QUYẾT VỀ NHÀ ĐẤT DO NHÀ NƯỚC ĐÃ QUẢN LÝ, BỐ TRÍ SỬ DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT VÀ CHÍNH SÁCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 1991” được quốc hội dưới thời ông Nguyễn Văn An ‘nhắm mắt’ thông qua vào ngày 23/11/2003. Ngay tại điều 1 mở màn bản NQ này đã đưa ra hai câu khẳng định hết sức ‘lạnh lùng’, đó là từ nay về sau nhà nước CH-XHCN-VN không xem xét và cũng chẳng bao giờ thừa nhận việc đòi đất của bất cứ ai, nguyên văn của đêìu 1 này như sau:
“+ Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.
+ Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất.“
Sự vội khẳng định như vậy trong một văn bản pháp lý quan trọng mà chẳng cần nêu lý do ‘xét thấy, xét vì’ đất nước lâm nguy hay hoàn cảnh cấp bách này nọ v.v… buộc người dân phải tự hỏi, phải chăng mục đích tối thượng của Nghị Quyết này (nay đã trở thành luật) không gì hơn nhằm bảo đảm những chính sách sai trái của nhà nước về đất đai trước đây được ‘hạ cánh’ an toàn, còn nạn nhân thì… chuyện đã ‘lỡ rồi’ ráng mà chịu!?
“Mượn” có là ‘CHÍNH SÁCH’?
Đ/v trường hợp tu viện DCCT Hà Nội, để có thể bị liệt vào diện QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT VÀ CHÍNH SÁCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA như NQ nêu trên, đồng thời để một chính sách được thi hành một cách đúng đắn, ít nhất chính quyền Hà Nội đã phải làm hai việc sau:
- Một là, đưa tên tuổi tu viện DCCT vào danh sách những tài sản cần phải ‘quản lý và cải tạo’ trên địa bàn Hà Nội, căn cứ trên các chính sách x, y nào đó của chính phủ ban hành thời ấy.
- Và hai là, phải gởi thông báo hay quyết định trưng thu tiếp quản đến cho DCCT, vì là nơi sẽ phải chịu sự thi hành các chính sách ‘quản lý và cải tạo’ này.
Vậy câu hỏi cần nêu lên lúc này là liệu đã từng có các văn bản như vậy không? Nếu có thì chúng đang ở đâu? Xin nhà nước trưng ra làm bằng chứng. Đồng thời cũng cần nêu luôn các cha DCCT Hà Nội cũng đã từng nhận được các thông báo, quyết định tiếp quản tài sản này trước kia.
Nếu không, thì câu trả lời cho vấn đề tranh chấp bệnh viện Đống Đa không còn gì bàn cãi. Rằng tu viện DCCT Hà Nội chưa từng bị đưa vào diện trưng thu cải tạo, mà chỉ có chuyện địa phương Đống Đa tự ý chiếm dụng trái phép dưới danh nghĩa “mượn” mà thôi. Và vì thế tu viện này không nằm trong số những đối tượng chịu tác động bởi NQ23/2003/QH11.
Đơn giản chỉ vì “mượn” thì không thể thuộc về “chính sách”. Một em sinh viên luật năm thứ I cũng thừa biết như thế. Mà đã “mượn” ắt phải có lúc trả, vì đó là qui luật của tự nhiên, của lẽ phải.
Quan trọng hơn nữa, “mưọn” kiểu này không chỉ là chuyện riêng của Thái Hà mà là của hầu hết các nhà thờ dòng tu khác trên cả nước.
Do vậy, nhân những ‘rắc rối’ mà Thái Hà đang gặp phải HĐGM-VN có nên chăng một lần đặt vấn đề rõ ràng với chính quyền, nhằm xác định việc “mượn” tài sản tôn giáo ở nhiều giáo phận trước đây có nằm trong chính sách nào đó của chính phủ không? Nếu có, thì chính sách ấy là những chính sách nào, nội dung ra sao? Còn không thì ngược lại, Nghị quyết 23/2003/QH11 hoàn toàn không có giá trị với chúng. Nhà nước không nên tiếp tục vin vào nghị quyết này để khước từ việc giải quyết trả lại tài sản cho giáo hội, thậm chí còn qui kết việc đòi lại tài sản này như Thái Hà đang làm là ‘vi phạm pháp luật’.
Sàigòn, 18/11/2011
(tìm hiểu thêm về NQ23/2003/QH11 tại đây http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Van-ban-phap-luat/2005/03/1DFB46C9/ )
Nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm.
Nguyễn An Quý
09:36 18/11/2011
Nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm.
Theo dõi đêm canh thức của Thái Hà, tức đêm 16 tháng 11 năm 2011, đêm mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã ngoan cố tìm mọi cách để chiếm đoạt luôn nơi đã mượn của Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà qua cái gọi là “công trình xây dựng trạm xử lý nước thải “. Nhìn những hình ảnh trên mạng của cái đêm kinh hoàng này, tôi lại liên tưởng đến cái thời xa xưa, đó là thời hoạt động của Việt Minh. Người dân các tỉnh miền Trung như Thừa Thiên Huế và có lẻ là cả nước cũng thế, nhất là những người sống trong vùng Việt Minh hoạt động. Thời Việt Minh (VM) thì tại các điạ phương mà VM hoạt động, họ đều thành lập 2 đội nòng cốt, đó là đội ám sát và đội phá hoại. Đội ám sát lo chuyện tìm người để giết và đội phá hoại thì chuyên đi dập phá nhà cửa của dân chúng, thông thường là những nhà xây tường gạch, hay đình, chùa, am miếu, nhà thờ với luận điệu là không để cho Tây chiếm đóng làm đồn bót. Ban đêm hễ nghe tiếng chó sủa thì mọi người đều nơm nớp lo sợ cho chính mình, cho bà con lối xóm của mình. Quả thật, đêm nào hễ có tiếng chó sủa là thế nào cũng có chuyện chẳng lành xẩy ra ngay trong đia phương. Thông thường, khi những con chó trong thôn xóm biết có người đi ban đêm, nhất là lúc về khuya, và dĩ nhiên chỉ có những anh chàng thuộc đội ám sát của Việt Minh mới đi ban đêm để đi tìm người mà giết với cái khẩu hiệu: “giết lầm hơn bỏ sót”. Đội ám sát này, muốn giết ai thì chỉ việc đêm đến vào nhà túm cổ người đó dẫn đi ra vườn, ra ruộng và chặt đầu là xong ngay. Hồi tôi còn nhỏ, nhưng mãi đến nay vẫn không sao quên chuyện một ông làm xâu trong làng bị Việt Minh kết án là làm Việt gian. Lúc bấy giờ vào một đêm trời mưa, đội ám sát đến bắt ông ta đem ra trước sân nhà của ông và chặt đầu rồi dùng một thanh tre vọt nhọn đâm vào cái đầu của ông ta đoạn cắm dựng lên và có ghi bản án : “đây là tên Việt gian”.
Tưởng cũng nên nhắc lại, những tên đầu sỏ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thường hay dùng cụm từ : “chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một “. Đúng vậy, cái đảng và nhà nước gian ác này thì trước sau như một vẫn là một tập đoàn gian ác, một đảng cướp.
Nhớ lại những chuyện kinh hoàng của thời kỳ xa xưa khi mà đảng cộng sản Việt Nam do ông Hồ lãnh đạo đã du nhập vào Việt Nam và bắt đầu hoạt động tại Việt nam vào thập niên 40, hôm nay liên tưởng đến chuyện Thái Hà trong thời gian qua, thì quả đúng nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm.
Thật vậy, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trước sau như một luôn luôn chủ trương cai trị đất nước bằng đường lối của kẻ tà quyền, cho nên họ thường dùng các thủ đoạn gian manh trong việc điều hành quốc gia. Bởi vậy họ thường làm những chuyện động trời như vụ xây Vườn Hoa tại Toà Khâm Sứ và Thái Hà trước đây cũng làm ban đêm, nay cũng với xảo thuật đó, nhà cầm quyền quận Đống Đa lại thấy cái hay hay của bóng đêm nên họ cũng đã giở thủ thuật thực hiện cái gọi là công trình xây dựng trạm xử lý nước thải vào ban đêm để chiếm đoạt luôn đất đai mà nhà nước đã mượn của Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà mà hiện nay Tu Viện và giáo dân đang đòi lại.
Mặc cho thế giới lên án về vụ cướp đoạt đất đai của Tu Viện DCCTT Thái Hà. Mặc cho những đòi hỏi hợp lý và qua ý chí sắt đá của Giáo Dân Thái Hà trong việc đòi nhà nước phải trả lại cho Tu Viện nơi đã mượn. Qua bao đe doạ như ngày 3 tháng 11 nhà cầm quyền Hà Nội đã dùng lực lượng côn đồ đến tấn công, hăm doạ dân Chúa tại Thái Hà. Đây là lối hành xử mang tính văn minh của tập đoàn con cháu ông Hồ. Cái tập thể quần chúng tự phát chắc chắn đã thường xuyên trao dồi và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh nên họ đã đến Tu viện, nơi tôn nghiêm để phun ra những lời lẻ thô tục, nhằm mục đích tạo sự bất bình của giáo dân, theo kế hoạch, nếu giáo dân phản ứng vì tức giận và chịu không nổi thì có ngay bản cáo trạng “ gây rối trật tự công cộng “ để có lý bắt bớ. Nhưng họ đã thất bại trước sự bình tĩnh của giáo dân. Kế hoạch từ xử phạt hành chánh đến cách dùng lực lượng quần chúng tự phát không xong, nên cuối cùng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam Hà Nội đã dùng bóng đêm để thực hiện mộng ăn cướp.
Quả thật, đêm 16 tháng 11 nhà cầm quyền Hà Nội đã huy động một lực lượng hùng hậu đầy đủ các thành phần gồm các loại xe cơ giới, xe bồn, dân phòng, công an, tin cho hay nhà cầm quyền Hà Nội đã điều động đến hơn 500 bạn dân đến với đủ sắc phục để lo hổ trợ cho công tác khẩn cấp xây trạm xử lý nước thải cho bằng được, chắc đã cùng nhau hạ quyết làm xong nội đêm 16 tháng 11? .Theo dõi tin tức từ các trang mạng Chúa Cứu Thế, Nữ Vương Công Lý, Vietcatholicnews và nhiều trang điện tử khác, mọi người đều nhận ra niềm đau của Thái Hà giữa đêm khuya đang bị bóng đêm đè bẹp. Bóng đêm này không phải là bóng tối của đêm về mà bóng đêm của nhà nước tà quyền.
Nhìn qua hình ảnh đêm 16 tháng 11 tại Thái Hà trong khuôn viên Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế, ai mà chẳng đau lòng, xót xa trước hiện tượng vô cùng xảo quyệt của nhà nước bóng đêm qua hành động mà họ đang ra sức chiếm đoạt tài sản của Giáo Hội một cách cấp bách. Trong một khuôn viên của Tu viện lại diễn ra rõ rệt 2 cảnh tượng khác nhau :
- bên bóng đêm đang ra sức hì hục, đào xới để thực hiện mộng chiếm đoạt đất đai của Tu Viện càng nhanh càng tốt
- bên phía ánh sáng thì trên toà nhà cao bảng đèn điện tử đang hiên ngang chạy với nội dung khẳng khái: “Yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội trả lại Tu viện đang mượn làm bệnh viện Đống Đa cho Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và trả lại Hồ Ba Giang cho Giáo xứ Thái Hà” cộng với lực lượng đông đảo giáo dân cũng như các linh mục, tu sĩ Thái Hà canh thức cầu nguyện để giữ tài sản của Giáo xứ cũng như đề phòng đám côn đồ do nhà cầm quyền sai tới tấn công họ.
Xin bấm vào link dưới dể đọc tin tức của đêm 16-11:
http://www.chuacuuthe.com/comment/h%c6%a1n-500-cong-an-cac-lo%e1%ba%a1i-d%e1%bb%91i-pho-v%e1%bb%9bi-thai-ha-dem-16-17-11-2011/
Tóm lại, qua hiện tượng của cái gọi là công trình xây dựng trạm xử lý nước thải mà về phía truyền thông của nhà nước bóng đêm thì họ đã bày ra trò bịp bợm qua những lần tiếp xúc với các đại diện với Thái Hà qua cái gọi là “đối thoại “ nhưng lòng tham của những tên nắm quyền lực đã quyết tâm chiếm đoạt đất đai của Tu viện. Việc xây dựng này nhiều người cho rằng như là một hành động xóa dấu tích của Tu Viện để ăn cướp trọn gói, nên họ đã hì hục đến làm công trình xây dựng giữa đêm đen.
Qua đó, chuyện gọi nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm thì chẳng sai chút nào.
Nguyện xin Chúa gìn giữ dân Chúa tại Thái Hà kiên vững trong cuộc đấu tranh đòi công lý và sự thật. Xin cho mọi người cùng sát cánh với Thái Hà trong giờ phút quan trọng của lịch sử đòi công lý.
Seattle đêm 17 tháng Các Đẳng Linh Hồn.
Nguyễn An Quý
Theo dõi đêm canh thức của Thái Hà, tức đêm 16 tháng 11 năm 2011, đêm mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã ngoan cố tìm mọi cách để chiếm đoạt luôn nơi đã mượn của Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà qua cái gọi là “công trình xây dựng trạm xử lý nước thải “. Nhìn những hình ảnh trên mạng của cái đêm kinh hoàng này, tôi lại liên tưởng đến cái thời xa xưa, đó là thời hoạt động của Việt Minh. Người dân các tỉnh miền Trung như Thừa Thiên Huế và có lẻ là cả nước cũng thế, nhất là những người sống trong vùng Việt Minh hoạt động. Thời Việt Minh (VM) thì tại các điạ phương mà VM hoạt động, họ đều thành lập 2 đội nòng cốt, đó là đội ám sát và đội phá hoại. Đội ám sát lo chuyện tìm người để giết và đội phá hoại thì chuyên đi dập phá nhà cửa của dân chúng, thông thường là những nhà xây tường gạch, hay đình, chùa, am miếu, nhà thờ với luận điệu là không để cho Tây chiếm đóng làm đồn bót. Ban đêm hễ nghe tiếng chó sủa thì mọi người đều nơm nớp lo sợ cho chính mình, cho bà con lối xóm của mình. Quả thật, đêm nào hễ có tiếng chó sủa là thế nào cũng có chuyện chẳng lành xẩy ra ngay trong đia phương. Thông thường, khi những con chó trong thôn xóm biết có người đi ban đêm, nhất là lúc về khuya, và dĩ nhiên chỉ có những anh chàng thuộc đội ám sát của Việt Minh mới đi ban đêm để đi tìm người mà giết với cái khẩu hiệu: “giết lầm hơn bỏ sót”. Đội ám sát này, muốn giết ai thì chỉ việc đêm đến vào nhà túm cổ người đó dẫn đi ra vườn, ra ruộng và chặt đầu là xong ngay. Hồi tôi còn nhỏ, nhưng mãi đến nay vẫn không sao quên chuyện một ông làm xâu trong làng bị Việt Minh kết án là làm Việt gian. Lúc bấy giờ vào một đêm trời mưa, đội ám sát đến bắt ông ta đem ra trước sân nhà của ông và chặt đầu rồi dùng một thanh tre vọt nhọn đâm vào cái đầu của ông ta đoạn cắm dựng lên và có ghi bản án : “đây là tên Việt gian”.
Tưởng cũng nên nhắc lại, những tên đầu sỏ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thường hay dùng cụm từ : “chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một “. Đúng vậy, cái đảng và nhà nước gian ác này thì trước sau như một vẫn là một tập đoàn gian ác, một đảng cướp.
Nhớ lại những chuyện kinh hoàng của thời kỳ xa xưa khi mà đảng cộng sản Việt Nam do ông Hồ lãnh đạo đã du nhập vào Việt Nam và bắt đầu hoạt động tại Việt nam vào thập niên 40, hôm nay liên tưởng đến chuyện Thái Hà trong thời gian qua, thì quả đúng nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm.
Thật vậy, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trước sau như một luôn luôn chủ trương cai trị đất nước bằng đường lối của kẻ tà quyền, cho nên họ thường dùng các thủ đoạn gian manh trong việc điều hành quốc gia. Bởi vậy họ thường làm những chuyện động trời như vụ xây Vườn Hoa tại Toà Khâm Sứ và Thái Hà trước đây cũng làm ban đêm, nay cũng với xảo thuật đó, nhà cầm quyền quận Đống Đa lại thấy cái hay hay của bóng đêm nên họ cũng đã giở thủ thuật thực hiện cái gọi là công trình xây dựng trạm xử lý nước thải vào ban đêm để chiếm đoạt luôn đất đai mà nhà nước đã mượn của Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà mà hiện nay Tu Viện và giáo dân đang đòi lại.
Mặc cho thế giới lên án về vụ cướp đoạt đất đai của Tu Viện DCCTT Thái Hà. Mặc cho những đòi hỏi hợp lý và qua ý chí sắt đá của Giáo Dân Thái Hà trong việc đòi nhà nước phải trả lại cho Tu Viện nơi đã mượn. Qua bao đe doạ như ngày 3 tháng 11 nhà cầm quyền Hà Nội đã dùng lực lượng côn đồ đến tấn công, hăm doạ dân Chúa tại Thái Hà. Đây là lối hành xử mang tính văn minh của tập đoàn con cháu ông Hồ. Cái tập thể quần chúng tự phát chắc chắn đã thường xuyên trao dồi và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh nên họ đã đến Tu viện, nơi tôn nghiêm để phun ra những lời lẻ thô tục, nhằm mục đích tạo sự bất bình của giáo dân, theo kế hoạch, nếu giáo dân phản ứng vì tức giận và chịu không nổi thì có ngay bản cáo trạng “ gây rối trật tự công cộng “ để có lý bắt bớ. Nhưng họ đã thất bại trước sự bình tĩnh của giáo dân. Kế hoạch từ xử phạt hành chánh đến cách dùng lực lượng quần chúng tự phát không xong, nên cuối cùng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam Hà Nội đã dùng bóng đêm để thực hiện mộng ăn cướp.
Quả thật, đêm 16 tháng 11 nhà cầm quyền Hà Nội đã huy động một lực lượng hùng hậu đầy đủ các thành phần gồm các loại xe cơ giới, xe bồn, dân phòng, công an, tin cho hay nhà cầm quyền Hà Nội đã điều động đến hơn 500 bạn dân đến với đủ sắc phục để lo hổ trợ cho công tác khẩn cấp xây trạm xử lý nước thải cho bằng được, chắc đã cùng nhau hạ quyết làm xong nội đêm 16 tháng 11? .Theo dõi tin tức từ các trang mạng Chúa Cứu Thế, Nữ Vương Công Lý, Vietcatholicnews và nhiều trang điện tử khác, mọi người đều nhận ra niềm đau của Thái Hà giữa đêm khuya đang bị bóng đêm đè bẹp. Bóng đêm này không phải là bóng tối của đêm về mà bóng đêm của nhà nước tà quyền.
Nhìn qua hình ảnh đêm 16 tháng 11 tại Thái Hà trong khuôn viên Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế, ai mà chẳng đau lòng, xót xa trước hiện tượng vô cùng xảo quyệt của nhà nước bóng đêm qua hành động mà họ đang ra sức chiếm đoạt tài sản của Giáo Hội một cách cấp bách. Trong một khuôn viên của Tu viện lại diễn ra rõ rệt 2 cảnh tượng khác nhau :
- bên bóng đêm đang ra sức hì hục, đào xới để thực hiện mộng chiếm đoạt đất đai của Tu Viện càng nhanh càng tốt
- bên phía ánh sáng thì trên toà nhà cao bảng đèn điện tử đang hiên ngang chạy với nội dung khẳng khái: “Yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội trả lại Tu viện đang mượn làm bệnh viện Đống Đa cho Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và trả lại Hồ Ba Giang cho Giáo xứ Thái Hà” cộng với lực lượng đông đảo giáo dân cũng như các linh mục, tu sĩ Thái Hà canh thức cầu nguyện để giữ tài sản của Giáo xứ cũng như đề phòng đám côn đồ do nhà cầm quyền sai tới tấn công họ.
Xin bấm vào link dưới dể đọc tin tức của đêm 16-11:
http://www.chuacuuthe.com/comment/h%c6%a1n-500-cong-an-cac-lo%e1%ba%a1i-d%e1%bb%91i-pho-v%e1%bb%9bi-thai-ha-dem-16-17-11-2011/
Tóm lại, qua hiện tượng của cái gọi là công trình xây dựng trạm xử lý nước thải mà về phía truyền thông của nhà nước bóng đêm thì họ đã bày ra trò bịp bợm qua những lần tiếp xúc với các đại diện với Thái Hà qua cái gọi là “đối thoại “ nhưng lòng tham của những tên nắm quyền lực đã quyết tâm chiếm đoạt đất đai của Tu viện. Việc xây dựng này nhiều người cho rằng như là một hành động xóa dấu tích của Tu Viện để ăn cướp trọn gói, nên họ đã hì hục đến làm công trình xây dựng giữa đêm đen.
Qua đó, chuyện gọi nhà nước cộng sản Việt Nam là nhà nước của bóng đêm thì chẳng sai chút nào.
Nguyện xin Chúa gìn giữ dân Chúa tại Thái Hà kiên vững trong cuộc đấu tranh đòi công lý và sự thật. Xin cho mọi người cùng sát cánh với Thái Hà trong giờ phút quan trọng của lịch sử đòi công lý.
Seattle đêm 17 tháng Các Đẳng Linh Hồn.
Nguyễn An Quý
Chỉ hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau mới có hòa bình hòa hợp
Linh Tiến Khải
21:12 18/11/2011
Trong tháng 12 tới này, hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới, chúng ta hãy cầu xin cho các dân tộc trên trái đất biết lớn lên trong hòa hợp hòa bình qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; cách riêng cầu cho nhà nước cộng sản Việt Nam biết bỏ đường tà vạy, hành xử như một nhà nước pháp quyền, nghiêm chỉnh thực thi Hiến pháp quốc gia, chấm dứt đàn áp cướp bóc và tôn trọng các quyền con người.
RADIO VATICAN (18.11.2011) - Trong các tháng qua tình hình thế giới liên tục căng thẳng với các cuộc xuống đường biểu tình đòi tự do dân chủ của người dân các nước A rập Bắc Phi và vùng Trung Đông. Người dân nổi dậy phản đối và lật đổ chính sách cai trị độc tài bất công của nhà nước. Đây đã là trường hợp của Tunisia , Ai Cập và Libia, và đang là trường hợp của Siria và Yemen . Tại vài nước tây âu như Hy Lạp, Anh quốc, Hoa Kỳ và Italia dân chúng cũng xuống đường hay cắm lều biểu tình phản đối tình trạng sống khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế gây ra.
Trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn tại một vài nước Phi châu như Somalia, Sudan, Kenya, và các xung khắc bạo lực khủng bố khiến cho mhiều người thiệt mạng như bên Nigeria. Thêm vào đó là cảnh lời qua tiếng lại giữa vài nước có vũ khí hạt nhân với Iran đang nhất quyết chế tạo vũ khí nguyên tử. Tất cả khiến cho tình hình thế giới như một lò thuốc nổ.
Riêng tại Việt Nam nhà nước cộng sản vẫn ngang nhiên tiếp tục ăn cướp đất đai của các Giáo Hội, các dòng tu và của dân chúng. Điển hình là đêm 16-11-2011 tà quyền Hà Hội đã huy động 600 công an cảnh sát tới ăn cướp và thi công trên đất của Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, khiến cho sáng ngày 18-11-2011 các linh mục tu sĩ và giáo dân Thái Hà phải biểu tình phản đối.
Chính các bất công, các cung cách hành xử tàn ác và vô luân của giới lãnh đạo độc tài, không tôn trọng các hiến pháp quốc gia và tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khiến cho hòa bình và hòa hơp xã hội bị đe dọa trầm trọng khắp nơi trên thế giới. Và đây là lý do giải thích tại sao trong tháng 12 tới đây Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta cầu xin cho các dân tộc trên trái đất lớn lên trong hòa hợp hòa bình qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Trong sứ điệp gửi Ngày Hòa Bình Thế Giới 2007 tựa đề “Bản vị con người, trái tim của hòa bình”, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tái khẳng định phẩm giá cao trọng của con người, được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Con người không phải là một đồ vật, nhưng là một bản vị có khả năng tự hiểu biết, tự chiếm hữu, tự hiến dâng một cách tự do và bước vào trong sự hiệp thông với các người khác. Chính vì thế con người có nhiệm vụ trưởng thành trong khả năng yêu thương và làm cho thế giới tiến bộ bằng cách canh tân nó trong công lý và hòa bình.
Hòa bình là một ơn và là một bổn phận.
Các cá nhân và các dân tộc có khả năng liên lỉ dấn thân sống bên nhau và dệt nên các tương quan công bằng và liên đới. Hòa bình là một bổn phận đòi buộc mỗi người phải trả lời phù hơp với chương trình của Thiên Chúa được khắc ghi trong con tim và lương tâm sâu thẳm của từng người. Chính vì thế mọi người đều có bổn phận tôn trọng phẩm gía của người khác, phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa Tạo Hóa. Vì thế, người được hưởng một quyền bính chính trị, kỹ thuật, kinh tế lớn hơn không thể lạm dụng nó để vi phạm các quyền của các người kém may mắn hơn. Hòa bình được xây dựng trên việc tôn trọng các quyền của tất cả mọi người.
Vì ý thức được điều đó, Giáo Hội dấn thân bảo vệ các quyền căn bản của mọi người. Giáo Hội đặc biệt đòi hỏi tôn trọng quyền sống và quyền tự do tôn giáo của từng người, là các quyền bẩm sinh tùy thuộc Thiên Chúa. Vì thế cần phải tố cáo tất cả các vi phạm quyền sống trong xã hội: ngoài các nạn nhân của các xung đột vũ trang, của nạn khủng bố và nhiều hình thức bạo lực khác, còn có các người bị chết thinh lặng vì nạn đói, nạn phá thai, nạn thử nghiệm trên các phôi thai người và trợ tử. Tất cả đều mưu sát hòa bình. Phá thai và thử nghiệm trên phôi thai người là trực tiếp khước từ việc tiếp đón tha nhân, là thái độ không thể thiếu giúp thiết lập các tương quan hòa bình lâu bền.
Liên quan tới tự do tôn giáo có một triệu chứng gây lo âu cho thấy thiếu hòa bình trên thế giới: đó là các khó khăn mà kitô hữu cũng như tín hữu các tôn giáo khác gặp phải trong việc tự do tuyên xưng các xác tín tôn giáo của họ. Riêng đối với các tín hữu kitô phải đau đớn ghi nhận rằng trong vài quốc gia họ không chỉ bị ngăn cản, mà còn bị bách hại nữa, và mới đây người ta đã có thể ghi nhận các bạo lực ghê tởm chống lại các kitô hữu. Có các chính quyền áp đặt một tôn giáo duy nhất cho tất cả mọi người, trong khi có các chính quyền khác thờ ơ không bách hại một cách tàn bạo, nhưng dưỡng nuôi việc chế nhạo các tôn giáo một cách có hệ thống trên bình diện văn hóa. Trong tất cả mọi trường hợp một quyền căn bản của con người đã không được tôn trọng và điều này gây ra các âm hưởng nghiêm trọng đối với sự chung sống hòa bình.
Ngoài ra, nguồn gốc của nhiều căng thẳng đe dọa hòa bình là các bất công chồng chất vẫn tồn tại trên thế giới, trong đó có các bất bình đẳng liên quan tới việc có lương thực, nước uống, nhà ở và y tế, cũng như các bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong việc thực thi các quyền căn bản của con người. Cho đến nay điều kiện sống của nữ giới đã không được chú ý đủ. Họ bị kỳ thị, khai thác bóc lột, khinh rẻ và đối xử như đồ vật. Tất cả đều là các yếu tố xúc phạm nặng nề tới phẩm giá con người, gây bất ổn cho trật tự xã hội và làm tổn thương hòa bình và hòa hợp.
Với các tâm tình trên đây, trong tháng 12 tới này, hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới, chúng ta hãy cầu xin cho các dân tộc trên trái đất biết lớn lên trong hòa hợp hòa bình qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; cách riêng cầu cho nhà nước cộng sản Việt Nam biết bỏ đường tà vạy, hành xử như một nhà nước pháp quyền, nghiêm chỉnh thực thi Hiến pháp quốc gia, chấm dứt đàn áp cướp bóc và tôn trọng các quyền con người.
RADIO VATICAN (18.11.2011) - Trong các tháng qua tình hình thế giới liên tục căng thẳng với các cuộc xuống đường biểu tình đòi tự do dân chủ của người dân các nước A rập Bắc Phi và vùng Trung Đông. Người dân nổi dậy phản đối và lật đổ chính sách cai trị độc tài bất công của nhà nước. Đây đã là trường hợp của Tunisia , Ai Cập và Libia, và đang là trường hợp của Siria và Yemen . Tại vài nước tây âu như Hy Lạp, Anh quốc, Hoa Kỳ và Italia dân chúng cũng xuống đường hay cắm lều biểu tình phản đối tình trạng sống khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế gây ra.
Trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn tại một vài nước Phi châu như Somalia, Sudan, Kenya, và các xung khắc bạo lực khủng bố khiến cho mhiều người thiệt mạng như bên Nigeria. Thêm vào đó là cảnh lời qua tiếng lại giữa vài nước có vũ khí hạt nhân với Iran đang nhất quyết chế tạo vũ khí nguyên tử. Tất cả khiến cho tình hình thế giới như một lò thuốc nổ.
Riêng tại Việt Nam nhà nước cộng sản vẫn ngang nhiên tiếp tục ăn cướp đất đai của các Giáo Hội, các dòng tu và của dân chúng. Điển hình là đêm 16-11-2011 tà quyền Hà Hội đã huy động 600 công an cảnh sát tới ăn cướp và thi công trên đất của Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, khiến cho sáng ngày 18-11-2011 các linh mục tu sĩ và giáo dân Thái Hà phải biểu tình phản đối.
Chính các bất công, các cung cách hành xử tàn ác và vô luân của giới lãnh đạo độc tài, không tôn trọng các hiến pháp quốc gia và tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khiến cho hòa bình và hòa hơp xã hội bị đe dọa trầm trọng khắp nơi trên thế giới. Và đây là lý do giải thích tại sao trong tháng 12 tới đây Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta cầu xin cho các dân tộc trên trái đất lớn lên trong hòa hợp hòa bình qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Trong sứ điệp gửi Ngày Hòa Bình Thế Giới 2007 tựa đề “Bản vị con người, trái tim của hòa bình”, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tái khẳng định phẩm giá cao trọng của con người, được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Con người không phải là một đồ vật, nhưng là một bản vị có khả năng tự hiểu biết, tự chiếm hữu, tự hiến dâng một cách tự do và bước vào trong sự hiệp thông với các người khác. Chính vì thế con người có nhiệm vụ trưởng thành trong khả năng yêu thương và làm cho thế giới tiến bộ bằng cách canh tân nó trong công lý và hòa bình.
Hòa bình là một ơn và là một bổn phận.
Các cá nhân và các dân tộc có khả năng liên lỉ dấn thân sống bên nhau và dệt nên các tương quan công bằng và liên đới. Hòa bình là một bổn phận đòi buộc mỗi người phải trả lời phù hơp với chương trình của Thiên Chúa được khắc ghi trong con tim và lương tâm sâu thẳm của từng người. Chính vì thế mọi người đều có bổn phận tôn trọng phẩm gía của người khác, phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa Tạo Hóa. Vì thế, người được hưởng một quyền bính chính trị, kỹ thuật, kinh tế lớn hơn không thể lạm dụng nó để vi phạm các quyền của các người kém may mắn hơn. Hòa bình được xây dựng trên việc tôn trọng các quyền của tất cả mọi người.
Vì ý thức được điều đó, Giáo Hội dấn thân bảo vệ các quyền căn bản của mọi người. Giáo Hội đặc biệt đòi hỏi tôn trọng quyền sống và quyền tự do tôn giáo của từng người, là các quyền bẩm sinh tùy thuộc Thiên Chúa. Vì thế cần phải tố cáo tất cả các vi phạm quyền sống trong xã hội: ngoài các nạn nhân của các xung đột vũ trang, của nạn khủng bố và nhiều hình thức bạo lực khác, còn có các người bị chết thinh lặng vì nạn đói, nạn phá thai, nạn thử nghiệm trên các phôi thai người và trợ tử. Tất cả đều mưu sát hòa bình. Phá thai và thử nghiệm trên phôi thai người là trực tiếp khước từ việc tiếp đón tha nhân, là thái độ không thể thiếu giúp thiết lập các tương quan hòa bình lâu bền.
Liên quan tới tự do tôn giáo có một triệu chứng gây lo âu cho thấy thiếu hòa bình trên thế giới: đó là các khó khăn mà kitô hữu cũng như tín hữu các tôn giáo khác gặp phải trong việc tự do tuyên xưng các xác tín tôn giáo của họ. Riêng đối với các tín hữu kitô phải đau đớn ghi nhận rằng trong vài quốc gia họ không chỉ bị ngăn cản, mà còn bị bách hại nữa, và mới đây người ta đã có thể ghi nhận các bạo lực ghê tởm chống lại các kitô hữu. Có các chính quyền áp đặt một tôn giáo duy nhất cho tất cả mọi người, trong khi có các chính quyền khác thờ ơ không bách hại một cách tàn bạo, nhưng dưỡng nuôi việc chế nhạo các tôn giáo một cách có hệ thống trên bình diện văn hóa. Trong tất cả mọi trường hợp một quyền căn bản của con người đã không được tôn trọng và điều này gây ra các âm hưởng nghiêm trọng đối với sự chung sống hòa bình.
Ngoài ra, nguồn gốc của nhiều căng thẳng đe dọa hòa bình là các bất công chồng chất vẫn tồn tại trên thế giới, trong đó có các bất bình đẳng liên quan tới việc có lương thực, nước uống, nhà ở và y tế, cũng như các bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong việc thực thi các quyền căn bản của con người. Cho đến nay điều kiện sống của nữ giới đã không được chú ý đủ. Họ bị kỳ thị, khai thác bóc lột, khinh rẻ và đối xử như đồ vật. Tất cả đều là các yếu tố xúc phạm nặng nề tới phẩm giá con người, gây bất ổn cho trật tự xã hội và làm tổn thương hòa bình và hòa hợp.
Với các tâm tình trên đây, trong tháng 12 tới này, hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới, chúng ta hãy cầu xin cho các dân tộc trên trái đất biết lớn lên trong hòa hợp hòa bình qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; cách riêng cầu cho nhà nước cộng sản Việt Nam biết bỏ đường tà vạy, hành xử như một nhà nước pháp quyền, nghiêm chỉnh thực thi Hiến pháp quốc gia, chấm dứt đàn áp cướp bóc và tôn trọng các quyền con người.
Dự án nước thải BV Đống Đa là “chương trình Thiên Chúa thiết định”?
Alf Hoàng Gia Bảo
23:00 18/11/2011
Đã thành thói quen mỗi khi thấy Thái Hà ‘lâm nạn’ tôi lại hay vào trang Hà Nội Mới để xem họ nói gì. Tối nay (18/11) sau khi tin tức xuống đường của khoảng 200 tu sĩ và giáo dân Thái Hà được loan đi vào buổi sáng, y như rằng tờ báo này đã liền ‘bù lu bù loa’ “Chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định”
Ái chà! Cái tittle nghe sao mà ‘giật gân’. Dám lôi cả Thiên Chúa vào cuộc thế này thì chắc phải là ‘chuyện nhớn’ lắm đây?
Tưởng rằng tác giả phải là người am hiểu về giáo lý thần học, thế nhưng chỉ sau vài phút cất công đi tìm hiểu sự thật đã có ngay. Hóa ra cái tựa đề ‘đao to búa lớn’ này chỉ là kết quả của việc “bắc chõ nghe hơi” của ‘bồi bút’ Hà Dương cóp nhặt từ bài giảng của Lm. Đa Minh Trần Quốc Bảo, DCCT trên đăng website của chính DCCT nhan đề “đám cưới giấy tờ”, sau đó đem cắt dán lại theo ý đồ của mình để đánh lừa dư luận.
Dùng ‘gậy ông đập lưng ông’ lấy lời Chúa ra để ‘đập’ lại người công giáo thì còn gì bằng?
Sau khúc dạo đầu quen thuộc lấy ‘nhân dân’ và ‘ich nước lợi nhà’ ra làm lý lẽ “Chỉ ít thời gian nữa thôi, cùng với công viên cây xanh, hệ thống nước thải được xử lý sẽ đem lại môi trường trong lành cho một khu vực đông dân cư” họng súng của tờ HNM liền chỉa sang phiá nhà thờ Thái Hà “…Thế nhưng, thật đáng buồn, một dự án ích nước, lợi dân như vậy lại đang bị một số linh mục Nhà thờ Thái Hà mà đứng đầu là linh mục Chính xứ Nguyễn Văn Phượng tìm mọi cách chống phá… tuyên truyền nội dung trái quy định của pháp luật; bất hợp tác, kích động giáo dân chống đối chính quyền, gây mất an ninh trật tự xã hội; tuyên truyền chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... mà thâm ý của tờ báo này không gì hơn là để ‘nhân dân’ sau khi đọc xong cứ thế mà ‘lên cơn điên’ nhắm vào mấy cái bia linh mục Thái Hà ‘nhả đạn’.
Nhưng Hà Dương đã nhầm to!
Ông bà ta bảo “điếc hay ngóng ngọng hay nói” quả không sai chút nào. Với mớ ‘kiến thức’ cóp nhặt được lẽ ra Hà Dương nên viết ít thôi đằng này lại tỏ ra quá hăng, nói cứ như… Thánh nói: “Là những chủ chiên - người có nhiệm vụ răn dạy các con chiên sống "tốt đời đẹp đạo", các linh mục Nhà thờ Thái Hà không thể không biết đến lời dạy của Đức Thánh Cha và đường hướng hành đạo của Giáo hội Việt Nam về việc "là một giáo dân tốt cũng là một công dân tốt". Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy: Người tín hữu Kitô sống trong xã hội cần phải tôn trọng công quyền và tuân hành những luật pháp công chính (GLCG. # 1990, 1916). Là con Chúa, không được phép làm chuyện phản lại luật pháp chính đáng được quy định bởi chính quyền, bởi luật pháp của mỗi quốc gia nhằm lợi ích chung của con người hay sự trật tự trong tổ chức xã hội. Còn theo Thánh Tôma Aquinô, luật pháp công chính là nhằm xây dựng và bảo vệ công ích như hòa bình, công lý xã hội. Khi mang tính cách công chính như thế, công quyền và luật pháp xã hội phản ảnh ý định của Thiên Chúa và các lề luật vĩnh hằng của Ngài... Sự bất tuân luật pháp công chính là tội, và đó là tội trọng. Vì hành động ấy nguy hại cho công lý, bác ái xã hội và phản nghịch ý định tốt đẹp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng khẳng định: "Ai chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định. Kẻ ấy sẽ phải chuốc lấy án phạt cho mình!" (Rm 13:2).
Đúng là “điếc chẳng sợ súng” có lẽ do dốt nên tay bồi bút này nghĩ ai cũng như mình, chẳng ai phát hiện ra việc mình đi chôm bài này. Tệ hơn chẳng biết cóp nhặt vận dụng như thế lợi hại ra sao?
+ Trước hết bài giảng Lm. Đa Minh Trần Quốc Bảo, DCCT nhằm nhắc nhở giới trẻ cần gìn giữ và làm tốt các thủ tục cần thiết cả về đạo lẫn đời trước khi kết hôn, thì ‘bồi bút’ Hà Dương lại vận dụng nó một cách ‘méo mó’ vào chuyện tranh chấp đất đai.
+ Nhưng đây mới là bài học để từ nay về sau Hà Dương thận trọng hơn mỗi khi muốn ‘bóp mép’ tài liệu đạo: Việc “tôn trọng công quyền và tuân hành những luật pháp công chính” là hoàn toàn đúng và cần thiết phải thi hành đ/v mọi công dân chứ chẳng riêng gì người có đạo, nhưng Hà Dương cần đến nhà thờ học thêm giáo lý để hiểu và phân biệt cho rạch ròi hơn, thế nào là khác biệt giữa một ‘công quyền’ với một nền ‘luật pháp công chính’ theo quan điểm của đạo công giáo và sự “độc quyền” mà thường đi kèm với nó là mới “luật rừng” điển hình như NQ23/2003/QH11 của nhà nước CH-XHCN-VN hiện nay, kẻo lại uổng công đi cóp nhặt.
Tóm lại, Màn ‘gắp lửa bỏ tay người’ thô thiển kiểu này của tờ HNM chẳng còn lại gì với chúng ta. Dẫu sao chuyện một tờ báo (nhất lại là vô thần) dám lôi giáo lý ra để tranh luận, rồi dùng những kết quả suy diễn một cách méo mó ‘cả vú lấp miệng em’ đi bắt bẻ kết tội các linh mục giáo xứ Thái Hà về vụ Trạm xử lý nước thải Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, rằng “Xin được dẫn lời Thánh Phaolô để cảnh tỉnh cho những người đang cố tình vi phạm pháp luật: "Ai chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định. Kẻ ấy sẽ phải chuốc lấy án phạt cho mình!" kể ra họ cũng gan cùng mình!
Dự án nước thải bệnh viện Đống Đa là “chương trình Thiên Chúa thiết định” Tín điều mới này chắc chỉ có ở VN được qui định bởi ‘giáo hội’ Hà Nội Mới và ‘giáo chủ’ Hà Dương?
Thật đúng là ‘điếc không sợ súng’ bồi bút Hà Dương vừa tự mình vạch áo, đem cái sự dốt nát của bản thân ra khoe trước bàn dân thiên hạ.
Sàigòn, 18/11/2011
Ái chà! Cái tittle nghe sao mà ‘giật gân’. Dám lôi cả Thiên Chúa vào cuộc thế này thì chắc phải là ‘chuyện nhớn’ lắm đây?
Tưởng rằng tác giả phải là người am hiểu về giáo lý thần học, thế nhưng chỉ sau vài phút cất công đi tìm hiểu sự thật đã có ngay. Hóa ra cái tựa đề ‘đao to búa lớn’ này chỉ là kết quả của việc “bắc chõ nghe hơi” của ‘bồi bút’ Hà Dương cóp nhặt từ bài giảng của Lm. Đa Minh Trần Quốc Bảo, DCCT trên đăng website của chính DCCT nhan đề “đám cưới giấy tờ”, sau đó đem cắt dán lại theo ý đồ của mình để đánh lừa dư luận.
Dùng ‘gậy ông đập lưng ông’ lấy lời Chúa ra để ‘đập’ lại người công giáo thì còn gì bằng?
Sau khúc dạo đầu quen thuộc lấy ‘nhân dân’ và ‘ich nước lợi nhà’ ra làm lý lẽ “Chỉ ít thời gian nữa thôi, cùng với công viên cây xanh, hệ thống nước thải được xử lý sẽ đem lại môi trường trong lành cho một khu vực đông dân cư” họng súng của tờ HNM liền chỉa sang phiá nhà thờ Thái Hà “…Thế nhưng, thật đáng buồn, một dự án ích nước, lợi dân như vậy lại đang bị một số linh mục Nhà thờ Thái Hà mà đứng đầu là linh mục Chính xứ Nguyễn Văn Phượng tìm mọi cách chống phá… tuyên truyền nội dung trái quy định của pháp luật; bất hợp tác, kích động giáo dân chống đối chính quyền, gây mất an ninh trật tự xã hội; tuyên truyền chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... mà thâm ý của tờ báo này không gì hơn là để ‘nhân dân’ sau khi đọc xong cứ thế mà ‘lên cơn điên’ nhắm vào mấy cái bia linh mục Thái Hà ‘nhả đạn’.
Nhưng Hà Dương đã nhầm to!
Ông bà ta bảo “điếc hay ngóng ngọng hay nói” quả không sai chút nào. Với mớ ‘kiến thức’ cóp nhặt được lẽ ra Hà Dương nên viết ít thôi đằng này lại tỏ ra quá hăng, nói cứ như… Thánh nói: “Là những chủ chiên - người có nhiệm vụ răn dạy các con chiên sống "tốt đời đẹp đạo", các linh mục Nhà thờ Thái Hà không thể không biết đến lời dạy của Đức Thánh Cha và đường hướng hành đạo của Giáo hội Việt Nam về việc "là một giáo dân tốt cũng là một công dân tốt". Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy: Người tín hữu Kitô sống trong xã hội cần phải tôn trọng công quyền và tuân hành những luật pháp công chính (GLCG. # 1990, 1916). Là con Chúa, không được phép làm chuyện phản lại luật pháp chính đáng được quy định bởi chính quyền, bởi luật pháp của mỗi quốc gia nhằm lợi ích chung của con người hay sự trật tự trong tổ chức xã hội. Còn theo Thánh Tôma Aquinô, luật pháp công chính là nhằm xây dựng và bảo vệ công ích như hòa bình, công lý xã hội. Khi mang tính cách công chính như thế, công quyền và luật pháp xã hội phản ảnh ý định của Thiên Chúa và các lề luật vĩnh hằng của Ngài... Sự bất tuân luật pháp công chính là tội, và đó là tội trọng. Vì hành động ấy nguy hại cho công lý, bác ái xã hội và phản nghịch ý định tốt đẹp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng khẳng định: "Ai chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định. Kẻ ấy sẽ phải chuốc lấy án phạt cho mình!" (Rm 13:2).
Đúng là “điếc chẳng sợ súng” có lẽ do dốt nên tay bồi bút này nghĩ ai cũng như mình, chẳng ai phát hiện ra việc mình đi chôm bài này. Tệ hơn chẳng biết cóp nhặt vận dụng như thế lợi hại ra sao?
+ Trước hết bài giảng Lm. Đa Minh Trần Quốc Bảo, DCCT nhằm nhắc nhở giới trẻ cần gìn giữ và làm tốt các thủ tục cần thiết cả về đạo lẫn đời trước khi kết hôn, thì ‘bồi bút’ Hà Dương lại vận dụng nó một cách ‘méo mó’ vào chuyện tranh chấp đất đai.
+ Nhưng đây mới là bài học để từ nay về sau Hà Dương thận trọng hơn mỗi khi muốn ‘bóp mép’ tài liệu đạo: Việc “tôn trọng công quyền và tuân hành những luật pháp công chính” là hoàn toàn đúng và cần thiết phải thi hành đ/v mọi công dân chứ chẳng riêng gì người có đạo, nhưng Hà Dương cần đến nhà thờ học thêm giáo lý để hiểu và phân biệt cho rạch ròi hơn, thế nào là khác biệt giữa một ‘công quyền’ với một nền ‘luật pháp công chính’ theo quan điểm của đạo công giáo và sự “độc quyền” mà thường đi kèm với nó là mới “luật rừng” điển hình như NQ23/2003/QH11 của nhà nước CH-XHCN-VN hiện nay, kẻo lại uổng công đi cóp nhặt.
Tóm lại, Màn ‘gắp lửa bỏ tay người’ thô thiển kiểu này của tờ HNM chẳng còn lại gì với chúng ta. Dẫu sao chuyện một tờ báo (nhất lại là vô thần) dám lôi giáo lý ra để tranh luận, rồi dùng những kết quả suy diễn một cách méo mó ‘cả vú lấp miệng em’ đi bắt bẻ kết tội các linh mục giáo xứ Thái Hà về vụ Trạm xử lý nước thải Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, rằng “Xin được dẫn lời Thánh Phaolô để cảnh tỉnh cho những người đang cố tình vi phạm pháp luật: "Ai chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định. Kẻ ấy sẽ phải chuốc lấy án phạt cho mình!" kể ra họ cũng gan cùng mình!
Dự án nước thải bệnh viện Đống Đa là “chương trình Thiên Chúa thiết định” Tín điều mới này chắc chỉ có ở VN được qui định bởi ‘giáo hội’ Hà Nội Mới và ‘giáo chủ’ Hà Dương?
Thật đúng là ‘điếc không sợ súng’ bồi bút Hà Dương vừa tự mình vạch áo, đem cái sự dốt nát của bản thân ra khoe trước bàn dân thiên hạ.
Sàigòn, 18/11/2011
Tài Liệu - Sưu Khảo
Trung Quốc: Nanh vuốt con hổ đói
Lữ Giang
07:53 18/11/2011
Nhân Dân Nhật báo của Trung Quốc ngày 28.9.2011 đã đưa ra lời cảnh cáo:
“Các nước Á Châu nên cảnh giác với sự nguy hiểm của cảm tưởng họ thấy rằng họ có thể ‘làm bất cứ cái gì họ muốn’ vì có sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở khu vực.”
Bài báo viết tiếp:
“Á Châu vẫn là đất màu mỡ cho tâm lý chiến tranh lạnh. Á Châu đang tiến về phía trước và sẽ không bao giờ trở lại thời kỳ chiến tranh lạnh và Trung Quốc phải đóng một vai trò quan trọng về sự an ninh của Á Châu trong tương lai.”
Các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, đều hiểu rằng đó không phải là một lời cảnh cáo suông. Hành động của Trung Quốc sẽ như thế nào, chúng ta chưa thể lường được.
Trên đây là thái độ của một con hổ đói đang đưa nanh vuốt ra để kiếm sống. Một câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao khi đang đưa cánh tay dài ra vơ vét tài nguyên ở Trung Đông, ở Châu Mỹ Latin, ở Phi Châu..., Trung Quốc lại nhất quyết phải nắm được Biển Đông bằng mọi giá? Các nước ASEAN, nhất là Việt Nam, và Hoa Kỳ sẽ phải ứng phó như thế nào?
CON HỔ ĐÓI TRUNG QUỐC
Trong hiện tại và trong giai đoạn sắp đến, Trung Quốc sẽ phải đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Nghiêm trọng không phải chỉ vì dân số đất nước này đã tăng lên gần 1,3 tỷ người, mà còn vì từ năm 1980, Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Năm năm về trước, GDP của Trung Quốc chỉ mới 2.300 tỷ USD, tức chỉ bằng nửa của Nhật, nhưng trong vài năm qua, Trung Quốc đã lần lượt vượt qua Anh, Pháp và Đức, bây giờ đã vượt qua cả Nhật Bản, trở thành nền kinh tế thứ nhất ở Á Châu và thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Theo dự tính, năm 2040, Trung Quốc sẽ đứng ngang hàng với Mỹ (với GDP khoảng 14.000 tỷ USD).
Trước sự tăng nhanh của dân số và nền kinh tế, Trung Quốc phải đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng, trước tiên là vấn đề lương thực, rối đến vấn đề năng lượng, vấn đề nguyên liệu... Chúng tôi chỉ nêu lên một số vấn đề chính.
NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊM TRỌNG
Về lương thực, từ năm 1997, một nhóm các khoa học gia đã ước tính đến năm 2025, Trung Quốc sẽ phải nhập 175 triệu tấn lương thực mỗi năm, và đến năm 2030, con số này lên tới 200 triệu, tức bằng toàn bộ số lương thực xuất khẩu hiện nay của cả thế giới. Trung Quốc thấy trước vấn đề nên đã lập ra những kế hoạch có thể giúp thu đủ số lương thực cần dùng, nhưng không kéo dài được lâu, vì vấn đề môi trường. Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch tạo dựng nguồn lương thực tại một số nước ở Mỹ Châu Latin và Phi Châu.
Vấn đề thứ hai nghiêm trọng hơn, đó là vấn đề năng lượng. Theo thống kê thường niên về năng lượng thế giới của tập đoàn dầu mỏ BP được công bố ngày 8.6.2011. Trung Quốc đã chính thức vượt Mỹ trở thành nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới. Tổng số lượng tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc tăng hơn 11,2% so với năm 2009.
Về dầu lửa, Trung Quốc chiếm 20,3% tổng số nhu cầu dầu lửa toàn cầu, vượt qua Mỹ với tỷ lệ 19%. Năm 2010, lượng dầu thô sử dụng thực tế của Trung Quốc là 439 triệu tấn, tăng 13,1%.
Cục tình báo năng lượng Mỹ (EIA) cho biết Trung Đông cung ứng khoảng 2,9 triệu thùng mỗi ngày cho Trung Quốc, chiếm hơn một nửa tổng số lượng nhập khẩu dầu của Trung Quốc, trong đó lượng cung ứng của Saudi Arabia đạt xấp xỉ 1,1 triệu thùng mỗi ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ dự đoán lượng dầu Trung Quốc phải nhập khẩu sẽ tiếp tục tăng cao, có thể chiếm 2/3 nhu cầu vào 2015 và 4/5 vào năm 2030. Nếu xung đột xảy ra giữa Mỹ, phương Tây và Iran, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn vì các nguồn cung cấp dầu lửa từ vùng Vịnh phải qua eo biển Hormuz.
HỔ ĐÓI ĐI KIẾM ĂN
Tính đến năm 2008, Trung Quốc đã có 12.000 dự án đầu tư chính thức ở hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thương vụ mới nhất là PetroChina của Trung Quốc đã ký mua 60% cổ phần của công ty Athabasca của Canada với giá 1,7 tỷ USD để khai thác bitum (nhựa đường). Ngày 18.7.2011, PetroChina mua lại một lượng khí đốt thiên nhiên khổng lồ từ Úc với khoảng 2,25 triệu tấn mỗi năm và kéo dài 20 năm. Trước đó, PetroChina đồng ý mua 45,51% cổ phần của Công ty dầu mỏ Singapore (SPC) với giá hơn 1 tỷ USD.
1.- Tiến vào Nam Mỹ
Kề từ năm 2010, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư quan trọng hàng đầu tại một số nước trong khu vực Mỹ Châu Latin, đặc biệt là Brazil, Argentina, Venezuela và Peru. Trung Quốc đã ký hợp đồng 3 tỷ USA khai thác mỏ dầu khí Peregino và 3,3 tỷ USD xây dựng tổ hợp luyện kim ở Brazil, mua lại 50% công ty dầu khí Bridas của Argentina. Công ty Chinalco ký hợp đồng 2,2 tỷ USD khai thác mỏ đồng Toromocho ở Peru, v.v. Chỉ riêng về dầu khí Trung Quốc đã đầu tư tới 15 tỷ USD vào các nước Mỹ Châu Latin trong năm qua,
Venezuela đã tăng lượng cung dầu thô cho Trung Quốc từ 350 nghìn thùng/ngày lên 800 nghìn thùng/ngày kể từ năm 2008. Trung Quốc cam kết đầu tư 16 tỷ đô la trong vòng ba năm để khai thác dầu lửa ở khu vực Orénoque. Trung Quốc sẽ khai thác dầu ở lưu vực sông Orinoco của Venezuela và hai nước cùng phát triển khu vực dầu khí ở Zumano.
Ngoài ra, Quỹ đầu tư chung 9 tỷ USD giữa Venezuela và Trung Quốc đang tài trợ 85 dự án phát triển tại Venezuela, từ các nhà máy điện nhỏ tới các dự án hóa dầu, xây dựng hệ thống đường sắt, đường cao tốc và nhà ở.
2.- Tiến vào Phi Châu
Từ lâu, Phi Châu vốn được coi là vùng “hoang địa”, nơi đó nghèo đói, lười biếng, bệnh hoạn... lan tràn, nên gần như đã bị Hoa Kỳ và các nước Tây phương bỏ rơi. Nhưng Trung Quốc lại nhìn về Phi Châu với cái nhìn khác.
Theo số liệu Trung Quốc công bố, Trung Quốc hiện là đối tác thương mại hai chiều lớn nhất của Phi Châu đạt tới 114 tỷ USD. Theo dự báo của Ngân hàng Standard, đầu tư của Trung Quốc vào lục địa Phi Châu trong thời gian từ 2009 đến 2015 có khả năng tăng tới 70%, lên 50 tỷ USD. Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Trung Quốc và Châu Phi đến năm 2015 có thể vọt lên mức 300 tỷ USD. Phi Châu đã trở thành thị trường mới cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc.
Công ty CNOOC của Trung Quốc cũng đã đạt được thỏa ước khoan thăm dò dầu khí ở Kenya, và ký với Nigeria, nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất ở Phi Châu, một thoả ước về phát triển kinh tế.
Từ tháng 9/2009, Trung Quốc đã đầu tư 450 triệu USD để thành lập hai đặc khu kinh tế tại Chambuchi và Lusaka ở Zambia. Tương tự, Trung Quốc đã thiết lập các đặc khu kinh tế ở 3 nước khác là Nigeria, Ethiopia và Ai Cập. Tại Nigeria, Trung Quốc lên kế hoạch đầu tư 500 triệu USD vào hai đặc khu kinh tế chủ yếu để chế tạo máy và khai thác khoáng sản.
MÔ THỨC ĐƯỢC ƯA THÍCH
Tờ Wall Street Journal ngày 7.9.2011 tố cáo đầu tư và viện trợ của Trung Quốc tại Phi Châu nhằm mục đích bòn rút nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây và chiếm cảm tình của tầng lớp lãnh đạo và trung lưu ở châu lục này. Nhưng nếu so với Mỹ, Trung Quốc xem ra đang được chào đón nồng nhiệt hơn tại Phi Châu. Từ Nam Phi đến Ethiopia, mô hình phát triển của Trung Quốc rất được các nhà lãnh đạo Phi Châu ưa chuộng, vì nó dựa trên sự tăng trưởng có sự chỉ đạo của Nhà nước và quản lý chặt chẽ về chính trị. Nó hoàn toàn khác với mô hình của Mỹ là dùng chiêu bài “dân chủ và nhân quyền” để lật đổ những nhà lãnh đạo không đi theo đường lối của Mỹ và thay thế bằng những tay sai của Mỹ. Tổng thống Robert Mugabe của Zimbabwe đã ca ngợi mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc là "đất nước bạn có thể thành công mà không cần phải đi theo mô hình phương Tây".
Theo một bản báo cáo của Wahington Post, Trung Quốc đang nắm "quyền sinh sát" đối với nền kinh tế Phi Châu. Các dự án đầu tư của Trung Quốc tại đây, đa phần là khai thác khoáng sản, sử dụng các công nghệ thô sơ và lạc hậu so với thế giới, nhưng vẫn là quá tốt đối với Phi Châu.
Sau nhiều sự chỉ trích của Tây Phương, các công ty Trung Quốc không chỉ quan tâm tới tài nguyên thiên nhiên của Phi Châu mà ngày càng tích cực hơn trong việc giúp Phi Châu xây dựng các cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cảng và nhà máy điện. Dấu ấn Trung Quốc hiện lên ngay tại một công trình bệnh viện được khánh thành tại thủ đô Kinshasa của Congo và Trung Quốc cũng đã hoàn thành quảng trường cũng như đại lộ phía trước tòa nhà Quốc hội Congo. Tại Kenya, Trung Quốc đang thực hiện một dự án đường cao tốc với trị giá 330 triệu USD với nguồn vốn vay từ Ngân hàng Phát triển Phi Châu. Trung Quốc thậm chí còn xây cả tòa nhà Quốc hội cho Malawi, các nhà thờ cho các giáo hội Công Giáo... Ngày nay, Trung Quốc đã áp dụng phương thức "đổi tài nguyên lấy cơ sở hạ tầng”. Phi Châu xem ra hài lòng với phương thức này.
QUAY TRỞ LẠI BIỂN ĐÔNG
Như chúng tôi đã nói trong bài “Chuyện gì sẽ xẩy ra?”, hôm 17.3.2011, khi HĐBA LHQ thông qua Nghị quyết 1973 thiết lập vùng cấm bay và cho phép sử dụng vũ lực đối với chính quyền của Gaddafi, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng, mặc dầu Trung Quốc có quyền phủ quyết. Sau đó, Trung Quốc đã cho rút nhanh các công ty, các chuyên viên và nhân công của họ ra khỏi Libya. Nhưng ngày 4.10.2011, khi HĐBA LHQ đưa ra nghị quyết “lên án những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng” ở Syria, Trung Quốc đã phủ quyết, mặc dầu Trung Quốc chưa có quyền lợi gì ở đó. Vì thái độ nghịch lý này, nhiều người nghi ngờ đã có sự đổi chác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc về các vùng mà mỗi bên có quyền hành động vì quyền lợi của mình.
1.- Nguồn cung cấp dầu lửa bất an
Sự thiệt hại của Trung Quốc ở Libya khi chiến cuộc xẩy ra không phải là nhỏ. Ông Diêu Kiếm, phát ngôn viên của Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết cuộc chiến đã gây thiệt hại lớn cho 50 dự án lớn của 75 xí nghiệp Trung Quốc ở Libya mà tổng số giá trị lên đến 18,8 tỉ USD. Ngoài ra, trao đổi thương mại giữa Tripoli và Bắc Kinh năm 2010 đã lên đến 6,7 tỉ USD. Tờ Minh Báo xuất bản tại Hongkong thẩm định: "Không phải Trung Quốc cần Libya, nhưng ngược lại". Tripoli hiện lệ thuộc đến 90% vào hàng hóa nhập khẩu, và Trung Quốc đã xuất khẩu qua Libya đủ thứ thượng vàng hạ cám, từ xe hơi cho đến máy rửa chén, các mặt hàng điện tử hay các loại đồ chơi...
Ngày 13.9.2011, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho biết Hội đồng Quốc gia Chuyển tiếp Libya đã xác nhận rằng mọi thỏa thuận ký kết giữa chế độ Gaddafi và Trung Quốc vẫn còn có giá trị. Nhưng Trung Quốc vẫn thấy tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi đang ở trong tình trạng bất ổn, bất cứ lúc nào cũng có thể gây trở ngại cho việc cung cấp dầu lửa cho Trung Quốc. Tình hình ở Mỹ Châu Latin và Phi Châu cũng không có gì bảo đảo, nên Trung Quốc phải quyết tâm chiếm đoạt nguồn dầu lửa tại Biển Đông.
2.- Trử lượng dầu khí ở Biển Đông
Bộ Tài nguyên và Địa chất Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông là khoảng 17,7 tỷ thùng. Nhưng các chuyên gia tin rằng ở Biển Đông có trử lượng dầu mỏ khoảng 7,7 tỷ thùng và trữ lượng khí đốt khoảng 266 nghìn tỷ feet khối.
Giả thiết sự tính toán của các chuyên gia đúng, trử lượng dầu lửa ở Biển Đông cũng đã cao hơn trử lượng của Nga, Libya hay Nigeria.
Chính phủ Trung Quốc đã quyết định từ nay đến năm 2020 phải triển khai các dự án thăm dò và khai thác năng lượng ở Biển Đông với trị giá 30 tỷ USD. Giàn khoan 981 chính thức hoạt động vào tháng 8, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 mét và độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 mét. Đó là loại giàn khoan cấp “siêu sâu” do Trung Quốc sản xuất.
CHIẾM BIỂN ĐÔNG BẰNG MỌI GIÁ
Để khỏi phụ thuộc quá nặng vào nguồn dầu lửa nhập khẩu, giới hoạch định chính sách Trung Quốc đã quyết định phải chiếm Biển Đông bằng mọi giá.
Lúc đầu, Trung Quốc dựa vào hai lý thuyết trong quốc tế công pháp cũ để xác định vùng trong lưỡi bò và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, đó là lý thuyết “vùng nước lịch sử” (historic water) và lý thuyết “hải đảo nổi lên ở biển” (Insula in mara nata). Nhưng cả hai lý thuyết này đã bị bác bỏ, vì không được quốc tế công pháp ngày nay và Luật Biển LHQ 1982 công nhận. Vã lại, Trung Quốc cũng không chứng minh được “quyền sở hữu chấp hữu” (possession title) của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bị thua trên phương diện pháp lý, Trung Quốc quyết định dùng sức mạnh. Mỹ và các cường quốc Tây phương có thể dùng sức mạnh để nắm chủ quyền ở Trung Đông và Bắc Phi, tại sao Trung Quốc lại không thể làm như vậy ở Biển Đông?
Chuyên gia phân tích quốc phòng Dean Cheng thuộc tổ chức Heritage Foundation ở Washington đã có nhận định:
"Dường như Trung Quốc đang triệt để can dự vào chuyện thúc đẩy để nhận toàn bộ chủ quyền trên vùng này và họ có vẻ như chẳng thèm để ý xem họ đang dẫm chân lên những ai."
Trên tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 4.8.2011, nhà bình luận Zhong Sheng đã nói rõ:
“Vài quốc gia sẽ trả giá vì đánh giá sai về chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc... Bất kỳ quốc gia nào có đánh giá sai lầm chiến lược nghiêm trọng về vấn đề này chắc chắn sẽ phải trả giá cao.”
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết-Trì đã đưa ra lời cảnh cáo Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton trong buổi họp song phương trước khi Diễn đàn An Ninh cấp Vùng của khối ASEAN chính thức họp tại Bali, Indonesia. Ông ta nói rằng việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại biển Đông hay bất kỳ nơi nào khác đều không phải là công việc của Hoa Kỳ. Điều cần lưu ý là đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa phê chuẩn Công Ước LHQ về Luật Biển 1982.
CHIẾN DỊCH BAO VÂY TRUNG QUỐC?
Như chúng tôi đã nói, trong khối ASEAN, có ba nước đã đứng hẵn về phía Trung Quốc là Lào, Cambodia và Miến Điện. Còn hai nước Indonesia và Singapore đã nói rõ lập trường của họ là thân cận với Mỹ mà không chọc giận Trung Quốc.
Hai nước đang bấn xúc xích là Việt Nam và Philippines. Việt Nam đang đi cầu cứu nhiều nơi. Nhưng nhật báo The Hindu của Ấn Độ số ngày 9.11.2011 tiết lộ rằng Hà Nội đã đề nghị New Delhi trợ giúp về mặt quân sự, chủ yếu là trong lĩnh vực hải quân, nhưng Ấn Độ phân vân, vì không muốn đổ thêm dầu vào lửa trong quan hệ với Trung Quốc. Như vậy Việt Nam và Philippines chỉ còn trông cậy vào Hoa Kỳ.
Trong thời gian gần đây, có ba hội nghị liên quan đền Á Đông đã diễn ra tại Honolulu, Bali và Úc. Những diễn biến của các hội nghị này đã khiến một số người tin rằng đó là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ muốn bao vây Trung Quốc bằng kinh tế và quân sự. Sự thật như thế nào?
“Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái Bình Dương” (APEC) được tổ chức tại Honolulu, Hawaii, từ 20 đến 12.11.2011 với chủ đề “Xác định tương lai”. Hội nghị đã bàn về nội dung của Hiệp Định “Đối tác Xuyên Thái Bình Dương” (TPP) mang tầm vóc chiến lược với sự tham gia của 9 nước là Mỹ, Úc, Brunei, Chilê, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Mục tiêu là nối kết các nền kinh tế liên hệ, tự do hóa mậu dịch và đầu tư trong nội bộ tổ chức này, và có thể đi tới thành lập “Khu mậu dịch tự do trong vùng Á Châu Thái Bình Dương”. Tổng Thống Obama nói rằng kim ngạch mậu dịch thường niên với Hoa Kỳ hiện đã trên dưới 200 tỉ đô la, sẽ có lợi cho tất cả các nước tham gia. Tuy nhiên, còn lâu mới hình thành được “Khu mậu dịch tự do trong vùng Á Châu Thái Bình Dương” vì nhiều luật lệ và thủ tục rất nhiêu khê. Ngoài ra, nếu bỏ Hoa Kỳ ra, thị trường của 8 nước còn lại cũng không bằng thị trường Trung Quốc.
Ngày 17.11.2011 hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 19 được tổ chức ở Bali, Indonesia. Hội nghị này không liên hệ gì đến tình hình Biển Đông. Nhưng ngày 16.11.2011, khi ký “Tuyên Ngôn Manila” với Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã khẳng định rằng Mỹ sẽ không đứng về bên nào trong tranh chấp ở biển Đông, nhưng bà cảnh cáo các nước không được đe dọa để xác lập chủ quyền, và tranh chấp phải được giải quyết thông qua Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982.
Quan trọng hơn cả, hôm 16.11.2011, Tổng Thống Obama đã viếng thăm Úc và tuyên bố tăng cường sự hiện diện quân sự tại Úc, khởi đầu là gởi 250 thủy quân lục chiến đến miền Bắc nước Úc từ 2012 và sẽ tăng dần lên đến 2.500. Ông nói:
"Chúng tôi sẽ giữ vững khả năng đặc biệt nhằm thể hiện sức mạnh và đập tan các đe dọa cho hòa bình.”
Một vài nhà phân tích cho rằng với những loại hoạt động chưa đâu vào đâu và một vài lời tuyên bố có vẽ mạnh mẽ như thế, không đủ để chứng tỏ Mỹ muốn bao vây Trung Quốc về cả kinh tế lẫn quân sự. Nó chỉ có giá trị như là một hành vi trấn an các nước đang bị Trung Quốc uy hiếp tại Biển Đông mà thôi.
Điều chắc chắn là Trung Quốc sẽ không từ bỏ kế hoạch chiếm các mõ dầu ở Biển Đông, nhưng Trung Quốc sẽ hành động như thế nào để sự đối đầu với Hoa Kỳ không xầy ra, đó là vấn để cần tìm hiểu.
Ngày 15.11.2011
“Các nước Á Châu nên cảnh giác với sự nguy hiểm của cảm tưởng họ thấy rằng họ có thể ‘làm bất cứ cái gì họ muốn’ vì có sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở khu vực.”
Bài báo viết tiếp:
“Á Châu vẫn là đất màu mỡ cho tâm lý chiến tranh lạnh. Á Châu đang tiến về phía trước và sẽ không bao giờ trở lại thời kỳ chiến tranh lạnh và Trung Quốc phải đóng một vai trò quan trọng về sự an ninh của Á Châu trong tương lai.”
Các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, đều hiểu rằng đó không phải là một lời cảnh cáo suông. Hành động của Trung Quốc sẽ như thế nào, chúng ta chưa thể lường được.
Trên đây là thái độ của một con hổ đói đang đưa nanh vuốt ra để kiếm sống. Một câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao khi đang đưa cánh tay dài ra vơ vét tài nguyên ở Trung Đông, ở Châu Mỹ Latin, ở Phi Châu..., Trung Quốc lại nhất quyết phải nắm được Biển Đông bằng mọi giá? Các nước ASEAN, nhất là Việt Nam, và Hoa Kỳ sẽ phải ứng phó như thế nào?
CON HỔ ĐÓI TRUNG QUỐC
Trong hiện tại và trong giai đoạn sắp đến, Trung Quốc sẽ phải đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Nghiêm trọng không phải chỉ vì dân số đất nước này đã tăng lên gần 1,3 tỷ người, mà còn vì từ năm 1980, Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Năm năm về trước, GDP của Trung Quốc chỉ mới 2.300 tỷ USD, tức chỉ bằng nửa của Nhật, nhưng trong vài năm qua, Trung Quốc đã lần lượt vượt qua Anh, Pháp và Đức, bây giờ đã vượt qua cả Nhật Bản, trở thành nền kinh tế thứ nhất ở Á Châu và thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Theo dự tính, năm 2040, Trung Quốc sẽ đứng ngang hàng với Mỹ (với GDP khoảng 14.000 tỷ USD).
Trước sự tăng nhanh của dân số và nền kinh tế, Trung Quốc phải đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng, trước tiên là vấn đề lương thực, rối đến vấn đề năng lượng, vấn đề nguyên liệu... Chúng tôi chỉ nêu lên một số vấn đề chính.
NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊM TRỌNG
Về lương thực, từ năm 1997, một nhóm các khoa học gia đã ước tính đến năm 2025, Trung Quốc sẽ phải nhập 175 triệu tấn lương thực mỗi năm, và đến năm 2030, con số này lên tới 200 triệu, tức bằng toàn bộ số lương thực xuất khẩu hiện nay của cả thế giới. Trung Quốc thấy trước vấn đề nên đã lập ra những kế hoạch có thể giúp thu đủ số lương thực cần dùng, nhưng không kéo dài được lâu, vì vấn đề môi trường. Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch tạo dựng nguồn lương thực tại một số nước ở Mỹ Châu Latin và Phi Châu.
Vấn đề thứ hai nghiêm trọng hơn, đó là vấn đề năng lượng. Theo thống kê thường niên về năng lượng thế giới của tập đoàn dầu mỏ BP được công bố ngày 8.6.2011. Trung Quốc đã chính thức vượt Mỹ trở thành nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới. Tổng số lượng tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc tăng hơn 11,2% so với năm 2009.
Về dầu lửa, Trung Quốc chiếm 20,3% tổng số nhu cầu dầu lửa toàn cầu, vượt qua Mỹ với tỷ lệ 19%. Năm 2010, lượng dầu thô sử dụng thực tế của Trung Quốc là 439 triệu tấn, tăng 13,1%.
Cục tình báo năng lượng Mỹ (EIA) cho biết Trung Đông cung ứng khoảng 2,9 triệu thùng mỗi ngày cho Trung Quốc, chiếm hơn một nửa tổng số lượng nhập khẩu dầu của Trung Quốc, trong đó lượng cung ứng của Saudi Arabia đạt xấp xỉ 1,1 triệu thùng mỗi ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ dự đoán lượng dầu Trung Quốc phải nhập khẩu sẽ tiếp tục tăng cao, có thể chiếm 2/3 nhu cầu vào 2015 và 4/5 vào năm 2030. Nếu xung đột xảy ra giữa Mỹ, phương Tây và Iran, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn vì các nguồn cung cấp dầu lửa từ vùng Vịnh phải qua eo biển Hormuz.
HỔ ĐÓI ĐI KIẾM ĂN
Tính đến năm 2008, Trung Quốc đã có 12.000 dự án đầu tư chính thức ở hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thương vụ mới nhất là PetroChina của Trung Quốc đã ký mua 60% cổ phần của công ty Athabasca của Canada với giá 1,7 tỷ USD để khai thác bitum (nhựa đường). Ngày 18.7.2011, PetroChina mua lại một lượng khí đốt thiên nhiên khổng lồ từ Úc với khoảng 2,25 triệu tấn mỗi năm và kéo dài 20 năm. Trước đó, PetroChina đồng ý mua 45,51% cổ phần của Công ty dầu mỏ Singapore (SPC) với giá hơn 1 tỷ USD.
1.- Tiến vào Nam Mỹ
Kề từ năm 2010, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư quan trọng hàng đầu tại một số nước trong khu vực Mỹ Châu Latin, đặc biệt là Brazil, Argentina, Venezuela và Peru. Trung Quốc đã ký hợp đồng 3 tỷ USA khai thác mỏ dầu khí Peregino và 3,3 tỷ USD xây dựng tổ hợp luyện kim ở Brazil, mua lại 50% công ty dầu khí Bridas của Argentina. Công ty Chinalco ký hợp đồng 2,2 tỷ USD khai thác mỏ đồng Toromocho ở Peru, v.v. Chỉ riêng về dầu khí Trung Quốc đã đầu tư tới 15 tỷ USD vào các nước Mỹ Châu Latin trong năm qua,
Venezuela đã tăng lượng cung dầu thô cho Trung Quốc từ 350 nghìn thùng/ngày lên 800 nghìn thùng/ngày kể từ năm 2008. Trung Quốc cam kết đầu tư 16 tỷ đô la trong vòng ba năm để khai thác dầu lửa ở khu vực Orénoque. Trung Quốc sẽ khai thác dầu ở lưu vực sông Orinoco của Venezuela và hai nước cùng phát triển khu vực dầu khí ở Zumano.
Ngoài ra, Quỹ đầu tư chung 9 tỷ USD giữa Venezuela và Trung Quốc đang tài trợ 85 dự án phát triển tại Venezuela, từ các nhà máy điện nhỏ tới các dự án hóa dầu, xây dựng hệ thống đường sắt, đường cao tốc và nhà ở.
2.- Tiến vào Phi Châu
Từ lâu, Phi Châu vốn được coi là vùng “hoang địa”, nơi đó nghèo đói, lười biếng, bệnh hoạn... lan tràn, nên gần như đã bị Hoa Kỳ và các nước Tây phương bỏ rơi. Nhưng Trung Quốc lại nhìn về Phi Châu với cái nhìn khác.
Theo số liệu Trung Quốc công bố, Trung Quốc hiện là đối tác thương mại hai chiều lớn nhất của Phi Châu đạt tới 114 tỷ USD. Theo dự báo của Ngân hàng Standard, đầu tư của Trung Quốc vào lục địa Phi Châu trong thời gian từ 2009 đến 2015 có khả năng tăng tới 70%, lên 50 tỷ USD. Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Trung Quốc và Châu Phi đến năm 2015 có thể vọt lên mức 300 tỷ USD. Phi Châu đã trở thành thị trường mới cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc.
Công ty CNOOC của Trung Quốc cũng đã đạt được thỏa ước khoan thăm dò dầu khí ở Kenya, và ký với Nigeria, nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất ở Phi Châu, một thoả ước về phát triển kinh tế.
Từ tháng 9/2009, Trung Quốc đã đầu tư 450 triệu USD để thành lập hai đặc khu kinh tế tại Chambuchi và Lusaka ở Zambia. Tương tự, Trung Quốc đã thiết lập các đặc khu kinh tế ở 3 nước khác là Nigeria, Ethiopia và Ai Cập. Tại Nigeria, Trung Quốc lên kế hoạch đầu tư 500 triệu USD vào hai đặc khu kinh tế chủ yếu để chế tạo máy và khai thác khoáng sản.
MÔ THỨC ĐƯỢC ƯA THÍCH
Tờ Wall Street Journal ngày 7.9.2011 tố cáo đầu tư và viện trợ của Trung Quốc tại Phi Châu nhằm mục đích bòn rút nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây và chiếm cảm tình của tầng lớp lãnh đạo và trung lưu ở châu lục này. Nhưng nếu so với Mỹ, Trung Quốc xem ra đang được chào đón nồng nhiệt hơn tại Phi Châu. Từ Nam Phi đến Ethiopia, mô hình phát triển của Trung Quốc rất được các nhà lãnh đạo Phi Châu ưa chuộng, vì nó dựa trên sự tăng trưởng có sự chỉ đạo của Nhà nước và quản lý chặt chẽ về chính trị. Nó hoàn toàn khác với mô hình của Mỹ là dùng chiêu bài “dân chủ và nhân quyền” để lật đổ những nhà lãnh đạo không đi theo đường lối của Mỹ và thay thế bằng những tay sai của Mỹ. Tổng thống Robert Mugabe của Zimbabwe đã ca ngợi mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc là "đất nước bạn có thể thành công mà không cần phải đi theo mô hình phương Tây".
Theo một bản báo cáo của Wahington Post, Trung Quốc đang nắm "quyền sinh sát" đối với nền kinh tế Phi Châu. Các dự án đầu tư của Trung Quốc tại đây, đa phần là khai thác khoáng sản, sử dụng các công nghệ thô sơ và lạc hậu so với thế giới, nhưng vẫn là quá tốt đối với Phi Châu.
Sau nhiều sự chỉ trích của Tây Phương, các công ty Trung Quốc không chỉ quan tâm tới tài nguyên thiên nhiên của Phi Châu mà ngày càng tích cực hơn trong việc giúp Phi Châu xây dựng các cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cảng và nhà máy điện. Dấu ấn Trung Quốc hiện lên ngay tại một công trình bệnh viện được khánh thành tại thủ đô Kinshasa của Congo và Trung Quốc cũng đã hoàn thành quảng trường cũng như đại lộ phía trước tòa nhà Quốc hội Congo. Tại Kenya, Trung Quốc đang thực hiện một dự án đường cao tốc với trị giá 330 triệu USD với nguồn vốn vay từ Ngân hàng Phát triển Phi Châu. Trung Quốc thậm chí còn xây cả tòa nhà Quốc hội cho Malawi, các nhà thờ cho các giáo hội Công Giáo... Ngày nay, Trung Quốc đã áp dụng phương thức "đổi tài nguyên lấy cơ sở hạ tầng”. Phi Châu xem ra hài lòng với phương thức này.
QUAY TRỞ LẠI BIỂN ĐÔNG
Như chúng tôi đã nói trong bài “Chuyện gì sẽ xẩy ra?”, hôm 17.3.2011, khi HĐBA LHQ thông qua Nghị quyết 1973 thiết lập vùng cấm bay và cho phép sử dụng vũ lực đối với chính quyền của Gaddafi, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng, mặc dầu Trung Quốc có quyền phủ quyết. Sau đó, Trung Quốc đã cho rút nhanh các công ty, các chuyên viên và nhân công của họ ra khỏi Libya. Nhưng ngày 4.10.2011, khi HĐBA LHQ đưa ra nghị quyết “lên án những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng” ở Syria, Trung Quốc đã phủ quyết, mặc dầu Trung Quốc chưa có quyền lợi gì ở đó. Vì thái độ nghịch lý này, nhiều người nghi ngờ đã có sự đổi chác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc về các vùng mà mỗi bên có quyền hành động vì quyền lợi của mình.
1.- Nguồn cung cấp dầu lửa bất an
Sự thiệt hại của Trung Quốc ở Libya khi chiến cuộc xẩy ra không phải là nhỏ. Ông Diêu Kiếm, phát ngôn viên của Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết cuộc chiến đã gây thiệt hại lớn cho 50 dự án lớn của 75 xí nghiệp Trung Quốc ở Libya mà tổng số giá trị lên đến 18,8 tỉ USD. Ngoài ra, trao đổi thương mại giữa Tripoli và Bắc Kinh năm 2010 đã lên đến 6,7 tỉ USD. Tờ Minh Báo xuất bản tại Hongkong thẩm định: "Không phải Trung Quốc cần Libya, nhưng ngược lại". Tripoli hiện lệ thuộc đến 90% vào hàng hóa nhập khẩu, và Trung Quốc đã xuất khẩu qua Libya đủ thứ thượng vàng hạ cám, từ xe hơi cho đến máy rửa chén, các mặt hàng điện tử hay các loại đồ chơi...
Ngày 13.9.2011, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho biết Hội đồng Quốc gia Chuyển tiếp Libya đã xác nhận rằng mọi thỏa thuận ký kết giữa chế độ Gaddafi và Trung Quốc vẫn còn có giá trị. Nhưng Trung Quốc vẫn thấy tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi đang ở trong tình trạng bất ổn, bất cứ lúc nào cũng có thể gây trở ngại cho việc cung cấp dầu lửa cho Trung Quốc. Tình hình ở Mỹ Châu Latin và Phi Châu cũng không có gì bảo đảo, nên Trung Quốc phải quyết tâm chiếm đoạt nguồn dầu lửa tại Biển Đông.
2.- Trử lượng dầu khí ở Biển Đông
Bộ Tài nguyên và Địa chất Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông là khoảng 17,7 tỷ thùng. Nhưng các chuyên gia tin rằng ở Biển Đông có trử lượng dầu mỏ khoảng 7,7 tỷ thùng và trữ lượng khí đốt khoảng 266 nghìn tỷ feet khối.
Giả thiết sự tính toán của các chuyên gia đúng, trử lượng dầu lửa ở Biển Đông cũng đã cao hơn trử lượng của Nga, Libya hay Nigeria.
Chính phủ Trung Quốc đã quyết định từ nay đến năm 2020 phải triển khai các dự án thăm dò và khai thác năng lượng ở Biển Đông với trị giá 30 tỷ USD. Giàn khoan 981 chính thức hoạt động vào tháng 8, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 mét và độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 mét. Đó là loại giàn khoan cấp “siêu sâu” do Trung Quốc sản xuất.
CHIẾM BIỂN ĐÔNG BẰNG MỌI GIÁ
Để khỏi phụ thuộc quá nặng vào nguồn dầu lửa nhập khẩu, giới hoạch định chính sách Trung Quốc đã quyết định phải chiếm Biển Đông bằng mọi giá.
Lúc đầu, Trung Quốc dựa vào hai lý thuyết trong quốc tế công pháp cũ để xác định vùng trong lưỡi bò và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, đó là lý thuyết “vùng nước lịch sử” (historic water) và lý thuyết “hải đảo nổi lên ở biển” (Insula in mara nata). Nhưng cả hai lý thuyết này đã bị bác bỏ, vì không được quốc tế công pháp ngày nay và Luật Biển LHQ 1982 công nhận. Vã lại, Trung Quốc cũng không chứng minh được “quyền sở hữu chấp hữu” (possession title) của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bị thua trên phương diện pháp lý, Trung Quốc quyết định dùng sức mạnh. Mỹ và các cường quốc Tây phương có thể dùng sức mạnh để nắm chủ quyền ở Trung Đông và Bắc Phi, tại sao Trung Quốc lại không thể làm như vậy ở Biển Đông?
Chuyên gia phân tích quốc phòng Dean Cheng thuộc tổ chức Heritage Foundation ở Washington đã có nhận định:
"Dường như Trung Quốc đang triệt để can dự vào chuyện thúc đẩy để nhận toàn bộ chủ quyền trên vùng này và họ có vẻ như chẳng thèm để ý xem họ đang dẫm chân lên những ai."
Trên tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 4.8.2011, nhà bình luận Zhong Sheng đã nói rõ:
“Vài quốc gia sẽ trả giá vì đánh giá sai về chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc... Bất kỳ quốc gia nào có đánh giá sai lầm chiến lược nghiêm trọng về vấn đề này chắc chắn sẽ phải trả giá cao.”
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết-Trì đã đưa ra lời cảnh cáo Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton trong buổi họp song phương trước khi Diễn đàn An Ninh cấp Vùng của khối ASEAN chính thức họp tại Bali, Indonesia. Ông ta nói rằng việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại biển Đông hay bất kỳ nơi nào khác đều không phải là công việc của Hoa Kỳ. Điều cần lưu ý là đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa phê chuẩn Công Ước LHQ về Luật Biển 1982.
CHIẾN DỊCH BAO VÂY TRUNG QUỐC?
Như chúng tôi đã nói, trong khối ASEAN, có ba nước đã đứng hẵn về phía Trung Quốc là Lào, Cambodia và Miến Điện. Còn hai nước Indonesia và Singapore đã nói rõ lập trường của họ là thân cận với Mỹ mà không chọc giận Trung Quốc.
Hai nước đang bấn xúc xích là Việt Nam và Philippines. Việt Nam đang đi cầu cứu nhiều nơi. Nhưng nhật báo The Hindu của Ấn Độ số ngày 9.11.2011 tiết lộ rằng Hà Nội đã đề nghị New Delhi trợ giúp về mặt quân sự, chủ yếu là trong lĩnh vực hải quân, nhưng Ấn Độ phân vân, vì không muốn đổ thêm dầu vào lửa trong quan hệ với Trung Quốc. Như vậy Việt Nam và Philippines chỉ còn trông cậy vào Hoa Kỳ.
Trong thời gian gần đây, có ba hội nghị liên quan đền Á Đông đã diễn ra tại Honolulu, Bali và Úc. Những diễn biến của các hội nghị này đã khiến một số người tin rằng đó là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ muốn bao vây Trung Quốc bằng kinh tế và quân sự. Sự thật như thế nào?
“Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái Bình Dương” (APEC) được tổ chức tại Honolulu, Hawaii, từ 20 đến 12.11.2011 với chủ đề “Xác định tương lai”. Hội nghị đã bàn về nội dung của Hiệp Định “Đối tác Xuyên Thái Bình Dương” (TPP) mang tầm vóc chiến lược với sự tham gia của 9 nước là Mỹ, Úc, Brunei, Chilê, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Mục tiêu là nối kết các nền kinh tế liên hệ, tự do hóa mậu dịch và đầu tư trong nội bộ tổ chức này, và có thể đi tới thành lập “Khu mậu dịch tự do trong vùng Á Châu Thái Bình Dương”. Tổng Thống Obama nói rằng kim ngạch mậu dịch thường niên với Hoa Kỳ hiện đã trên dưới 200 tỉ đô la, sẽ có lợi cho tất cả các nước tham gia. Tuy nhiên, còn lâu mới hình thành được “Khu mậu dịch tự do trong vùng Á Châu Thái Bình Dương” vì nhiều luật lệ và thủ tục rất nhiêu khê. Ngoài ra, nếu bỏ Hoa Kỳ ra, thị trường của 8 nước còn lại cũng không bằng thị trường Trung Quốc.
Ngày 17.11.2011 hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 19 được tổ chức ở Bali, Indonesia. Hội nghị này không liên hệ gì đến tình hình Biển Đông. Nhưng ngày 16.11.2011, khi ký “Tuyên Ngôn Manila” với Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã khẳng định rằng Mỹ sẽ không đứng về bên nào trong tranh chấp ở biển Đông, nhưng bà cảnh cáo các nước không được đe dọa để xác lập chủ quyền, và tranh chấp phải được giải quyết thông qua Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982.
Quan trọng hơn cả, hôm 16.11.2011, Tổng Thống Obama đã viếng thăm Úc và tuyên bố tăng cường sự hiện diện quân sự tại Úc, khởi đầu là gởi 250 thủy quân lục chiến đến miền Bắc nước Úc từ 2012 và sẽ tăng dần lên đến 2.500. Ông nói:
"Chúng tôi sẽ giữ vững khả năng đặc biệt nhằm thể hiện sức mạnh và đập tan các đe dọa cho hòa bình.”
Một vài nhà phân tích cho rằng với những loại hoạt động chưa đâu vào đâu và một vài lời tuyên bố có vẽ mạnh mẽ như thế, không đủ để chứng tỏ Mỹ muốn bao vây Trung Quốc về cả kinh tế lẫn quân sự. Nó chỉ có giá trị như là một hành vi trấn an các nước đang bị Trung Quốc uy hiếp tại Biển Đông mà thôi.
Điều chắc chắn là Trung Quốc sẽ không từ bỏ kế hoạch chiếm các mõ dầu ở Biển Đông, nhưng Trung Quốc sẽ hành động như thế nào để sự đối đầu với Hoa Kỳ không xầy ra, đó là vấn để cần tìm hiểu.
Ngày 15.11.2011
Văn Hóa
Cõi suy tư
Jos. Tú Nạc, NMS
07:58 18/11/2011
Tên tôi chẳng phải của tôi
Vì ai đã đặt cho tôi tên này.
Tôi là ai?
Thân tôi chẳng phải của tôi
Vì thân từ đất tạo tôi thành người.
Tôi là ai?
Phản hồi chẳng phải ảnh tôi
Là gương phản chiếu hình tôi ảo mờ.
Tôi là ai?
Nghĩ suy chẳng phải của tôi
Tâm tư thay đổi nổi trôi theo mùa.
Tôi là ai?
Hành động chẳng phải của tôi
Vì hành động thể thay tôi dối người.
Tôi là ai?
Cảm xúc chẳng phải của tôi
Như cành lay gió chơi vơi giữa trời.
Tôi là ai?
- Là sinh lực vĩnh hằng con Thiên Chúa,
Là mảnh cưa soi vô giá của Người.
(Tháng cầu cho các Linh Hồn - 2011)
Chuyện Thái Hà
TTT
08:01 18/11/2011
Nhà cầm quyền Hà Nội duyệt đầu tư
Nhằm xóa dấu tích một Dòng Tu
Hòng cướp đoạt Tu viện Chúa Cứu Thế (1)
Thái Hà giáo xứ
Cộng sản đã “mượn” trước đây
“Mượn” cho đến hôm nay
Hơn năm mươi năm ròng rã (2)
Lòng tham tích lũy không chịu trả
Chiến dịch “ma quỷ” được chuẩn bị kỹ càng
Nào là cảnh sát cơ động, công an,…
Huy động nhiều thiết bị, xe cộ
Đưa vào khu vực Tu viện Chúa Cứu thế
Để cướp đoạt Nhà Chúa làm công viên
Cục đất cũng không thể lặng im
Nếu mà nó có thể nói được
Chính Thánh Phaolô đã báo trước:
Mầu nhiệm sự gian ác đang hoành hành (3)
Đây là sự thật rành rành
Xin Chúa chớ đành chợp mắt ngủ quên!
(1) Năm 1959.
(2) Việc cưỡng cướp nhằm xóa bỏ dấu tích Tu viện Thái Hà bắt đầu từ 23h (giờ Hà Nội) đêm 16-11-2011.
(3) 2 Tx 2: 7.
Tóm lược lịch sử truyền giáo Việt Nam
Lm Vũđình Tường
23:34 18/11/2011
Lịch sử Giáo Hội Việt nam tạm chia thành năm thời kì.
Thời kì khai sinh (1533-1659)
Inikhu đến Trà Lũ, Nam Định 1553 vì thế các sử gia Cộng Giáo chọn năm này là năm khai sinh Giáo Hội Việt Nam. 1550 linh mục Gaspar da Santa Cruz, dòng Đa Minh đến Hà Tiên giảng đạo. Những năm kế tiếp là các tu sĩ Bồ Đào Nha, và Tây Ban Nha đến từ Phi Luật Tân. Công chúa Mai Hoa là chị của vua Lê Thế Tông nhập đạo khai mào cho cánh đồng truyền giáo sau này.
Thơì kì khai phá (1659-1802)
Những danh nhân làm nên lịch sử đến vào giai đoạn này như các cha Buzomi, Pina, Borri và Đắc Lộ. Các ngài soạn sách giáo lí bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ với sự trợ giúp của các học giả Việt Nam như cụ Gioan Kim, Cụ Phao, cụ nghè Giuse. Cha Đắc Lộ ấn bản sách tiếng Việt đầu tiên năm 1651 vơí tựa đề ‘Phép Giảng 8 Ngày’. Con số Kitô hữu lúc này có khoảng một trăm ngàn.
Thời Kì hình thành (1659-1802)
Đức thánh cha Alexandre VII quyết định thành lập 2 giáo phận tại Việt Nam dươí sự hướng dẫn của hai đức cha La Motte và Pallu. Giáo phận Đàng Trong và Giáo phận Đàng Ngoài. Công đồng đầu tiên xảy ra vào năm 1670 thống nhất vấn đề nghi lễ, dịch thuật. Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu và Hà Tây ra đời. 1679 Giáo phận Đàng Ngoài chia hai thành giáo phận Đông và Tây. Đất nước chia năm xẻ bảy miền Bắc có dòng họ Trịnh; miền trung do anh em Tây Sơn và miền Nam có chúa Nguyễn. Nhiều thừa sai và Kitô hữu bị giết trong giai đoạn này, nhất là dưới thơì Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm. Trong nam Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn vây hãm nên nhờ Đức Cha Bá đa Lộc coi hoàng tử Cảnh, lúc đó 4 tuổi, hy vọng vị hoàng tử tí hon này sẽ nối nghiệp cha và dễ dàng cho việc truyền đạo. Không may hoàng tử bị bệnh mất ở tuổi 22. Đức cha Bá đa Lộc giúp Nguyễn phúc Ánh, sau này là vua Gia Long. Vị vua này dễ dãi trong việc truyền giáo nhưng các đời vua con, cháu Giáo Hội Việt Nam trải qua thơì kì bi đát nhất và cũng là thơì kì huy hoàng nhất. Số Kitô hữu tăng lên con số 320,000 vơí 121 linh mục Việt nam.
Thời Kì Thử Thách (1802– 1885)
Vua Gia Long mất đi việc phế người này, bỏ người kia tranh giành ngôi vua tạo nên tình trạng nghi kị, ghét bỏ, thù hằn đến độ trung thần như Tả quân Lê văn Duyệt phải lên tiếng phản đối. Giặc nổi lên, mất mùa, dịch bệnh người ta đều đổ lên đầu Kitô hữu và như thế việc chém, giết, tù, đày và luận tội không thể tránh được. Không thiếu kẻ lợi dụng thời cơ áp bức Kitô hữu. Những tay cường hào, lãnh chúa từng vùng. Họ tự do tăng thuế, cấm làm một số nghề chỉ vì tin vào Chúa. Lạ lùng thay số Kitô hữu tăng nhiều hơn số bị xử trảm, bị giết, bị tù. Toà Thánh liên tiếp ba lần chia giáo phận vì số Kitô hữu quá đông. Thống kê 1889 cho thấy lúc đó có 9 giáo phận, 356 linh mục gốc Việt và giáo dân là 648,435 người. Đây cũng là thời kì con số tử đạo tăng lên kỉ lục hàng trăm ngàn người chết vì Danh Chúa.
Thời Kì Phát Triển và Trưởng Thành (1885-2005)
Giai đoạn này phần lớn Việt nam bị Pháp đô hộ vơí hiệp Ước Giáp Thân 1884. Pháp chia nước ta thành ba miền để trị và cho tự do tôn giáo. Giám mục Việt nam tiên khởi Đức cha Nguyễn Bá Tòng tấn phong 11/6/1933 và công đồng Đông Dương họp tại Hà Nội dẫn tới việc chuẩn bị lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Tính đến 2004 Giáo Hội Việt nam 5,667,428 giáo dân với 2518 giáo xứ thuộc 25 giáo phận, với 42 giám mục. Dân số dân là 82 triệu. Hoạt động của Kitô hữu không phải chỉ nhắm đến tôn giáo thuần tuý mà nhắm đến, nâng cao, bảo vệ và mưu cầu hạnh phúc con người. Điều đó dẫn đến việc lập các trường học, nhà thương, bệnh viện, trạm xá, nhà hưu dưỡng, các trại cùi và cô nhi viện. Những công việc này được làm với tất cả tấm lòng yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân của các tu sĩ nam nữ và Kitô hữu nhiệt thành.
Ngày nay Giáo Hội tự do trong các cơ sở vật chất và đặt trọng tâm nhiều hơn vào ân sủng Chúa, không còn bị ràng buộc vào cơ sở vật chất nhiều như trước nữa. Điều này cho thấy Giáo Hội bên nhà đang sống lại kinh nghiệm những ngày xa xưa của thơì kì phôi thai. Chính thời kì phôi thai và thử thách, không dính bén nhiều về vật chất Giáo Hội đã trưởng thành. Có lẽ đây là dấu chỉ cho thấy Giáo Hội Chúa sống mạnh không phải nhờ vào cơ sở vật chất mà nhờ vào ân sủng, tình yêu và lòng yêu mến các kitô hữu dành cho nhau. Nơi đâu nghèo cơ sở vật chất. Nơi đó giầu mạnh về đức tin và giầu lòng mến Chúa và yêu tha nhân.
Lm Vũđình Tường
Tóm lược dựa theo tài liệu của Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn trong cuốn Niên Giám Giáo Hội VN (tháng 11, năm 2005)
TiengChuong.org
Thời kì khai sinh (1533-1659)
Inikhu đến Trà Lũ, Nam Định 1553 vì thế các sử gia Cộng Giáo chọn năm này là năm khai sinh Giáo Hội Việt Nam. 1550 linh mục Gaspar da Santa Cruz, dòng Đa Minh đến Hà Tiên giảng đạo. Những năm kế tiếp là các tu sĩ Bồ Đào Nha, và Tây Ban Nha đến từ Phi Luật Tân. Công chúa Mai Hoa là chị của vua Lê Thế Tông nhập đạo khai mào cho cánh đồng truyền giáo sau này.
Đức thánh cha Alexander VII (1599–1667) |
Những danh nhân làm nên lịch sử đến vào giai đoạn này như các cha Buzomi, Pina, Borri và Đắc Lộ. Các ngài soạn sách giáo lí bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ với sự trợ giúp của các học giả Việt Nam như cụ Gioan Kim, Cụ Phao, cụ nghè Giuse. Cha Đắc Lộ ấn bản sách tiếng Việt đầu tiên năm 1651 vơí tựa đề ‘Phép Giảng 8 Ngày’. Con số Kitô hữu lúc này có khoảng một trăm ngàn.
Thời Kì hình thành (1659-1802)
Đức thánh cha Alexandre VII quyết định thành lập 2 giáo phận tại Việt Nam dươí sự hướng dẫn của hai đức cha La Motte và Pallu. Giáo phận Đàng Trong và Giáo phận Đàng Ngoài. Công đồng đầu tiên xảy ra vào năm 1670 thống nhất vấn đề nghi lễ, dịch thuật. Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu và Hà Tây ra đời. 1679 Giáo phận Đàng Ngoài chia hai thành giáo phận Đông và Tây. Đất nước chia năm xẻ bảy miền Bắc có dòng họ Trịnh; miền trung do anh em Tây Sơn và miền Nam có chúa Nguyễn. Nhiều thừa sai và Kitô hữu bị giết trong giai đoạn này, nhất là dưới thơì Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm. Trong nam Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn vây hãm nên nhờ Đức Cha Bá đa Lộc coi hoàng tử Cảnh, lúc đó 4 tuổi, hy vọng vị hoàng tử tí hon này sẽ nối nghiệp cha và dễ dàng cho việc truyền đạo. Không may hoàng tử bị bệnh mất ở tuổi 22. Đức cha Bá đa Lộc giúp Nguyễn phúc Ánh, sau này là vua Gia Long. Vị vua này dễ dãi trong việc truyền giáo nhưng các đời vua con, cháu Giáo Hội Việt Nam trải qua thơì kì bi đát nhất và cũng là thơì kì huy hoàng nhất. Số Kitô hữu tăng lên con số 320,000 vơí 121 linh mục Việt nam.
Vua Gia Long (1762–1820) |
Thời Kì Thử Thách (1802– 1885)
Vua Gia Long mất đi việc phế người này, bỏ người kia tranh giành ngôi vua tạo nên tình trạng nghi kị, ghét bỏ, thù hằn đến độ trung thần như Tả quân Lê văn Duyệt phải lên tiếng phản đối. Giặc nổi lên, mất mùa, dịch bệnh người ta đều đổ lên đầu Kitô hữu và như thế việc chém, giết, tù, đày và luận tội không thể tránh được. Không thiếu kẻ lợi dụng thời cơ áp bức Kitô hữu. Những tay cường hào, lãnh chúa từng vùng. Họ tự do tăng thuế, cấm làm một số nghề chỉ vì tin vào Chúa. Lạ lùng thay số Kitô hữu tăng nhiều hơn số bị xử trảm, bị giết, bị tù. Toà Thánh liên tiếp ba lần chia giáo phận vì số Kitô hữu quá đông. Thống kê 1889 cho thấy lúc đó có 9 giáo phận, 356 linh mục gốc Việt và giáo dân là 648,435 người. Đây cũng là thời kì con số tử đạo tăng lên kỉ lục hàng trăm ngàn người chết vì Danh Chúa.
Đức cha Nguyễn Bá Tòng (1868-1949) |
Giai đoạn này phần lớn Việt nam bị Pháp đô hộ vơí hiệp Ước Giáp Thân 1884. Pháp chia nước ta thành ba miền để trị và cho tự do tôn giáo. Giám mục Việt nam tiên khởi Đức cha Nguyễn Bá Tòng tấn phong 11/6/1933 và công đồng Đông Dương họp tại Hà Nội dẫn tới việc chuẩn bị lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Tính đến 2004 Giáo Hội Việt nam 5,667,428 giáo dân với 2518 giáo xứ thuộc 25 giáo phận, với 42 giám mục. Dân số dân là 82 triệu. Hoạt động của Kitô hữu không phải chỉ nhắm đến tôn giáo thuần tuý mà nhắm đến, nâng cao, bảo vệ và mưu cầu hạnh phúc con người. Điều đó dẫn đến việc lập các trường học, nhà thương, bệnh viện, trạm xá, nhà hưu dưỡng, các trại cùi và cô nhi viện. Những công việc này được làm với tất cả tấm lòng yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân của các tu sĩ nam nữ và Kitô hữu nhiệt thành.
Ngày nay Giáo Hội tự do trong các cơ sở vật chất và đặt trọng tâm nhiều hơn vào ân sủng Chúa, không còn bị ràng buộc vào cơ sở vật chất nhiều như trước nữa. Điều này cho thấy Giáo Hội bên nhà đang sống lại kinh nghiệm những ngày xa xưa của thơì kì phôi thai. Chính thời kì phôi thai và thử thách, không dính bén nhiều về vật chất Giáo Hội đã trưởng thành. Có lẽ đây là dấu chỉ cho thấy Giáo Hội Chúa sống mạnh không phải nhờ vào cơ sở vật chất mà nhờ vào ân sủng, tình yêu và lòng yêu mến các kitô hữu dành cho nhau. Nơi đâu nghèo cơ sở vật chất. Nơi đó giầu mạnh về đức tin và giầu lòng mến Chúa và yêu tha nhân.
Lm Vũđình Tường
Tóm lược dựa theo tài liệu của Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn trong cuốn Niên Giám Giáo Hội VN (tháng 11, năm 2005)
TiengChuong.org
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thương Nhớ Nhiếp Ảnh Gia Lm. Trần Cao Tường
Nguyễn Đức Cung
21:20 18/11/2011
THƯƠNG NHỚ NHIẾP ẢNH GIA LM. TRẦN CAO TƯỜNG
Ảnh của Nguyễn Đức Cung (Người trong hình là NAG Lm. Trần Cao Tường)
“Chụp hình là linh thao đấy. Nhìn ra được Đường Nở Hoa.
Mọi ngóc ngách đang nở hoa. Đất đá đang nở hoa.
Đầu cành khô đang nở hoa. Thấy thần linh Chúa trong mọi sự,
thấy được những phép lạ, những tuyệt tác trong những gì xem
ra tầm thường nhỏ bé..”
(Trích bài viết của Lm.Trần Cao Tường: Nghệ Thuật Chụp Hình
trong tuyển tập Đường Nở Hoa Lê Thị Thành)
-Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
-Làng Văn Hữu Dũng Lạc
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Nguyễn Đức Cung (Người trong hình là NAG Lm. Trần Cao Tường)
“Chụp hình là linh thao đấy. Nhìn ra được Đường Nở Hoa.
Mọi ngóc ngách đang nở hoa. Đất đá đang nở hoa.
Đầu cành khô đang nở hoa. Thấy thần linh Chúa trong mọi sự,
thấy được những phép lạ, những tuyệt tác trong những gì xem
ra tầm thường nhỏ bé..”
(Trích bài viết của Lm.Trần Cao Tường: Nghệ Thuật Chụp Hình
trong tuyển tập Đường Nở Hoa Lê Thị Thành)
-Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
-Làng Văn Hữu Dũng Lạc
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
VietCatholic TV
Thế giới nhìn từ Vatican 10/11/2011 - 17/11/2011
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:12 18/11/2011
1. Buổi triều yết chung sáng thứ Tư 16 tháng 11.
Trong cuộc giao đấu giữa thiện và ác, sự ác xem chừng thắng thế, nhưng “tình yêu chứ không phải là lòng thù hận cuối cùng sẽ thắng thế”. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã khẳng định như trên trong buổi triều yết chung sáng thứ Tư 16 tháng 11.
“Có cơ man những sự dữ đang hoành hành trên thế giới,” nhưng trong cuộc giao đấu thường xuyên giữa thiện và ác, “phần thắng sẽ thuộc về Thiên Chúa” và “dù cho có biết bao những điều tiêu cực trong lịch sử, Chúa Kitô sẽ thắng chứ không phải là những thế lực tăm tối, tình yêu chứ không phải là lòng thù hận cuối cùng sẽ thắng thế”. Đức Thánh Cha đã rút ra kết luận trên từ Thánh Vịnh 110 mà ngài giải thích với hơn 20 ngàn anh chị em tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha nói:
“Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý về kinh nguyện Kitô Giáo, giờ đây chúng ta hướng đến Thánh Vịnh 110, một trong những Thánh Vịnh “vương giả”, khởi đầu đã được liên kết với việc đăng quang của vua Đa Vít. Giáo Hội đọc Thánh Vịnh này như một lời tiên tri về Chúa Kitô, Hoàng Đế Mêsia và là thượng tế muôn đời, Đấng đã sống lại từ trong kẻ chết và ngự bên phải Chúa Cha. Thánh Phêrô, trong diễn từ về Lễ Ngũ Tuần (x. Tông Đồ Công Vụ 1:32-36) đã dùng những lời của Thánh Vịnh này để nói về chiến thắng của Chúa trước cái chết và sự khải hoàn trong vinh quang của Ngài. Từ những thời xa xưa, đoạn thứ Ba đầy huyền nhiệm đã được diễn dịch như một quy chiếu về Ngôi Con Chí Thánh, trong khi đoạn thứ Tư đề cập đến Ngài như “một thượng tế muôn đời, theo phẩm hàm Menkisêđê”.
Thư Do Thái đặc biệt áp dụng hình ảnh này cho Chúa Kitô, con Thiên Chúa và là thầy cả thượng phẩm hoàn hảo của chúng ta, Đấng hiện diện muôn đời để chuyển cầu cho những ai qua Ngài đến với Chúa Cha (x. Thư Do Thái 7:25). Đoạn cuối của Thánh Vịnh trình bày Vua khải hoàn như Đấng xét xử các dân nước. Khi chúng ta cầu nguyện với Thánh Vịnh này, chúng ta công bố vinh quang của Chúa Kitô Phục sinh và là Vua của chúng ta, trong khi cố gắng sống hoàn thiện hơn với chức vương giả và tư tế của mình như những chi thể của Ngài qua phép Rửa Tội.
Tôi chào thăm các nhóm sinh viên và học sinh đến tham dự buổi triều yết chung hôm nay. Tôi cũng chào các đại biểu của Ủy Ban Do Thái Sự Vụ của Hoa Kỳ. Với các tín hữu hành hương từ các miền nói tiếng Anh hiện diện nơi đây, đặc biệt những anh chị em đến từ Anh quốc, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, xin Chúa ban phép lành, bình an và hạnh phúc cho anh chị em.
2. Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội Đồng Tôn Giáo Do Thái
Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã cổ võ các vị lãnh đạo tôn giáo tại Israel kiến tạo bầu không khí tín nhiệm và đối thoại giữa mọi tôn giáo tại Thánh Địa.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 10-11-2011 dành cho 27 thành viên thuộc hội đồng tôn giáo Israel. Trong số các thành viên có Đại Rabbi Jona Metzger, Đức Thượng Phụ Fouad Twal của Công Giáo la tinh ở Jerusalem, Chủ tịch Hội đồng Imam Hồi giáo ở Israel, Ông Mohamad Kiwan, và thủ lãnh Hồi giáo Druse là ông Sheik Moufak Tarif.
Trong bài diễn văn, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Trong thời đại bị xáo trộn ngày nay, đối thoại giữa các tôn giáo đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để kiến tạo một bầu không khi cảm thông và tôn trọng lẫn nhau, có thể dẫn tới tình bạn và sự tín nhiệm vững chắc đối với nhau”.
Đức Thánh Cha nhắc lại điều ngài đã nói tại Assisi hôm 27-10 vừa qua: “Ngày nay chúng ta đang phải đương đầu với 2 thứ bạo lực: một đàng là sự sử dụng bạo lực nhân danh tôn giáo, và đàng khác, bạo lực xuất phát từ sự phủ nhận Thiên Chúa thường thấy trong đời sống xã hội tân tiến ngày nay. Trong tình trạng đó, với tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi tái khẳng định rằng quan hệ ngay chính của con người với Thiên Chúa là một sức mạnh hòa bình. Đây là chân lý cần được biểu lộ rõ ràng hơn qua cách thức chúng ta sống với nhau hằng ngày. Vì thế, tôi khích lệ quí vị cổ võ một bầu không khí tín nhiệm và đối thoại giữa các vị lãnh đạo và các phần tử của mọi truyền thống tôn giáo hiện diện tại Thánh Địa”.
3. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tiếp chủ tịch Hội Đồng Âu Châu
Sáng 14 tháng 11, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã tiếp chủ tịch Hội Đồng Âu Châu, ông Herman Van Rompuy. Trong nửa giờ trao đổi, hai vị đã đề cập đến cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị khắp Âu Châu cũng như những vấn đề kiên quan đến nhân quyền và quyền tự do tôn giáo.
Ông Van Rompuy đã trao tặng Đức Thánh Cha cuốn “Lược Đồ Dự Án Âu Châu,” và Đức Thánh Cha trao cho ông Van Rompuy một huy chương vàng triều Giáo Hoàng của ngài.
Ông Van Rompuy đã là chủ tịch Hội Đồng Âu Châu từ tháng Giêng năm 2010. Hội Đồng Âu Châu là một trong 7 cơ chế trong Liên Hiệp Âu Châu chịu trách nhiệm về hoạch định chính sách cho Liên Hiệp Âu Châu.
4. Nhà thờ rất hiện đại tại Hoa Kỳ
Nhà thờ Chúa Biến Hình được xây vào năm 2000 tại Orleans, Massachusetts. Anh chị em giáo dân tại đây đã hình thành nên cộng đoàn Chúa Giêsu và được linh hứng với những truyền thống của dòng Biển Đức. Nhà thờ của họ làm bằng gỗ và đá khắc với những phù điêu cũng như những tranh bằng đồng và kính.
Những hình ảnh được khắc và tạc trong nhà thờ bởi các nghệ nhân Italia và Pháp theo cùng một chủ đề đó là những thực tại dưới đất cũng có một ý nghĩa nào đó trên thiên quốc, là một trong những điều tâm đắc của Thánh Biển Đức.
Trên Web site của họ tại địa chỉ churchofthetransfiguration.org quý vị và các bạn có thể ghé thăm nhà thờ của họ qua một chương trình thăm viếng ảo dành cho những ai không có điều kiện đến thăm một trong những ngôi nhà thờ tân tiến nhất Hoa Kỳ về nhiều mặt.
02. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 trở thành công dân danh dự tại thành phố nơi bà ngoại ngài sinh trưởng.
Đức Thánh Cha vừa trở thành công dân danh dự của thành phố “Naz-Sciaves”, một thành phố của Italia. Một đoàn đại biểu của thành phố đã đến Vatican để trao tặng Đức Thánh Cha huy chương danh dự của thành phố.
Đây là nơi sinh trưởng của bà ngoại và bà cố của Đức Thánh Cha. Thành phố Naz-Sciaves hiện có 2500 dân nằm ở phía Bắc Ý trong vùng Bolzano gần biên giới với nước Áo.
Năm 1940, khi được 13 tuổi, Đức Thánh Cha đã viếng thăm thành phố này và đã đi xe đạp dạo quanh vùng với anh trai của ngài.
12 thành phố khác cũng đã trao tặng Đức Thánh Cha danh hiệu công dân danh dự. Những thành phố này thuộc Áo, Italia và Đức trong đó có thành phố Martkl am Inn nơi sinh trưởng của Đức Thánh Cha.
5. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 khích lệ các thiện nguyện viên như những người đã cổ vũ cho thiện chí trên thế giới
Trong phiên họp chót của hội nghị các thiện nguyện viên được Tòa Thánh tổ chức, các tham dự viên đã vui mừng chào đón Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha đã cám ơn Đức Hồng Y Robert Sarah, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm là người đã tổ chức hội nghị này trong khuôn khổ Năm Các Thiện Nguyện Viên Âu Châu. Đức Thánh Cha nói với các tham dự viên rằng công việc của họ không chỉ thể hiện thiện chí nhưng còn là một lời đáp trả cho một sự gặp gỡ thân tình với Chúa Kitô.
Ngài nói:
“Hồng ân của Chúa Kitô giúp chúng ta khám phá trong ta một lòng ao ước cho tình liên đới và cho một ơn gọi căn bản cho tình yêu”.
Đức Thánh Cha khích lệ các thiện nguyện viên rằng tuy công việc của họ không thể đáp ứng được hết những nhu cầu nảy sinh, họ không nên để thực tại của cuộc sống làm nhụt chí.
“Điều nhỏ mọn chúng ta có thể làm để đáp ứng phần nào nhu cầu nhân loại có thể xem như những hạt giống sẽ tăng trưởng và đem lại nhiều hoa trái; đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô và tình yêu, giống như cành cây được đề cập trong Phúc Âm, sẽ lớn lên đem lại bóng mát, sự bảo vệ và sức mạnh cho những ai cần đến.”
Hội nghị quy tụ 160 tham dự viên từ các tổ chức thiện nguyện của 25 quốc gia tại Âu Châu.
6. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đang cứu xét một dự án viếng thăm hai nước Cuba và Mễ Tây Cơ để đáp lại lời mời từ hai nước này.
Trả lời câu hỏi của giới báo chí, hôm 10-11-2011, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết trong những ngày qua, các vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Mễ Tây Cơ và Cuba đã được ủy nhiệm thông báo cho các vị lãnh đạo tôn giáo và dân sự cấp cao nhất về việc Đức Thánh Cha đang cứu xét một dự án cụ thể để viếng thăm hai nước.
Dự án này sẽ được đào sâu trong những tuần lễ tới đây và dựa theo đó, Đức Thánh Cha quyết định chung kết và sẽ thông báo theo thể thức và thời gian ngài thấy là thuận tiện nhất.
Thời điểm dự kiến cho cuộc viếng thăm là vào mùa xuân năm tới, vì thế, thời gian để quyết định chung kết về chương trình và việc chuẩn bị tương đối đã đến gần.
Về lý do cuộc viếng thăm, Cha Lombardi cho biết sự mong đợi của nhân dân Mễ Tây Cơ là điều ai cũng biết, Đức Thánh Cha để ý đến điều đó và ngài vui mừng vì có thể đáp lại mong đợi ấy. Đức Thánh Cha đã đến Brazil, nhưng các nước Mỹ châu la tinh nói tiếng Tây ban nha mong muốn một cuộc viếng thăm cho họ và Mễ Tây Cơ là dân tộc đông đảo nhất trong số các nước này.
Cuba cũng là một nước rất mong được thấy Đức Giáo Hoàng, người không bao giờ quên cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Gioan Phaolô 2.
Cha Lombardi nói thêm rằng: “Chỉ cần nhìn bản đồ là đủ thấy Cuba và Mễ Tây Cơ ở cùng một hướng so với Roma, và vì thế điều hợp lý là gộp hai nước trong một chuyến viếng thăm duy nhất, thay vì 2 cuộc viếng thăm riêng rẽ, sẽ đòi một hành trình dài và phức tạp hơn.
7 – Các trường công lập tại Pakistan dạy học sinh đừng khoan dung đối với những ai không phải là tín hữu Đạo Hồi.
Các sách giáo khoa, được sử dụng trong trường công lập và trường tư thục ở Pakistan, dạy cho học sinh nước này có thành kiến và bất khoan dung đối với các nhóm thiểu số tôn giáo không theo đạo Hồi: đây là kết quả của một nghiên cứu đầu tiên thuộc loại này, được thực hiện bởi Ủy ban về Tự do tôn giáo quốc tế của quốc hội Hoa Kỳ(USCIRF) và được công bố ngày 9-11 tại Washington.
Phúc trình, được thông tấn xã Công Giáo Fides của Tòa Thánh đăng tải cho thấy hệ thống trường học ở Pakistan là gốc rễ của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo rộng rãi, và giúp giải thích lý do tại sao những hành vi khủng bố chống người không theo Hồi Giáo lại thường được hỗ trợ rộng rãi, khoan dung và biện minh tại Pakistan.
Nghiên cứu, có tựa đề "Kết nối các dấu chấm: giáo dục và sự phân biệt đối xử tôn giáo ở Pakistan", xem xét lại hơn 100 sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 10 thuộc bốn tỉnh của Pakistan. Hồi tháng 2-1011, các nhà nghiên cứu đã đến thăm 37 trường công lập, phỏng vấn 277 học sinh và các giáo viên. Họ cũng đến thăm 19 trường đào tạo chức sắc Hồi giáo, nơi họ đã phỏng vấn thêm 226 học sinh và các thầy giảng Kinh Koran.
Phúc trình nói: “Các nhóm thiểu số tôn giáo thường được mô tả như những công dân thấp kém hoặc công dân hạng nhì, được ban các quyền lợi bởi các người Hồi giáo Pakistan quảng đại, do đó họ cần phải biết ơn người Hồi Giáo. Đặc biệt, người Ấn giáo bị liên tục mô tả như là các phần tử cực đoan, và những kẻ thù truyền kiếp của Hồi giáo". Phúc trình nói tiếp: “Nền văn hóa và xã hội của Pakistan dựa trên sự bất công và tàn ác”.
8 – Phim The Last Christero
Cuốn phim The Last Christero mô tả những chiến sĩ Công Giáo cố gắng chống lại chính sách tận diệt tôn giáo của chính quyền tam điểm thân cộng của Mễ Tây Cơ.
Năm 1926, chính quyền Mễ Tây Cơ thực thi một chính sách bài giáo sĩ và đưa ra hàng loạt các cấm đoán đối với người Công Giáo. Các nông dân Công Giáo đã cầm súng chống lại một đạo quân tinh nhuệ của chính quyền trong cuộc chiến gọi là Cristero War. Cuộc chiến bắt đầu từ năm 1926. Năm 1929, Hoa Kỳ áp lực với Mễ Tây Cơ để có cuộc ngưng bắn. Tuy nhiên, nhiều chiến sĩ Kitô ra trình diện đã bị giết chết.
Cuốn phim đề cập đến năm 1930 khi những chiến sĩ Kitô tiếp tục cuộc chiến của họ. Họ đã phải lang thang trong những vùng núi khô cằn để tránh sự lùng bắt của quân chính phủ.
Trong cuộc giao đấu giữa thiện và ác, sự ác xem chừng thắng thế, nhưng “tình yêu chứ không phải là lòng thù hận cuối cùng sẽ thắng thế”. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã khẳng định như trên trong buổi triều yết chung sáng thứ Tư 16 tháng 11.
“Có cơ man những sự dữ đang hoành hành trên thế giới,” nhưng trong cuộc giao đấu thường xuyên giữa thiện và ác, “phần thắng sẽ thuộc về Thiên Chúa” và “dù cho có biết bao những điều tiêu cực trong lịch sử, Chúa Kitô sẽ thắng chứ không phải là những thế lực tăm tối, tình yêu chứ không phải là lòng thù hận cuối cùng sẽ thắng thế”. Đức Thánh Cha đã rút ra kết luận trên từ Thánh Vịnh 110 mà ngài giải thích với hơn 20 ngàn anh chị em tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha nói:
“Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý về kinh nguyện Kitô Giáo, giờ đây chúng ta hướng đến Thánh Vịnh 110, một trong những Thánh Vịnh “vương giả”, khởi đầu đã được liên kết với việc đăng quang của vua Đa Vít. Giáo Hội đọc Thánh Vịnh này như một lời tiên tri về Chúa Kitô, Hoàng Đế Mêsia và là thượng tế muôn đời, Đấng đã sống lại từ trong kẻ chết và ngự bên phải Chúa Cha. Thánh Phêrô, trong diễn từ về Lễ Ngũ Tuần (x. Tông Đồ Công Vụ 1:32-36) đã dùng những lời của Thánh Vịnh này để nói về chiến thắng của Chúa trước cái chết và sự khải hoàn trong vinh quang của Ngài. Từ những thời xa xưa, đoạn thứ Ba đầy huyền nhiệm đã được diễn dịch như một quy chiếu về Ngôi Con Chí Thánh, trong khi đoạn thứ Tư đề cập đến Ngài như “một thượng tế muôn đời, theo phẩm hàm Menkisêđê”.
Thư Do Thái đặc biệt áp dụng hình ảnh này cho Chúa Kitô, con Thiên Chúa và là thầy cả thượng phẩm hoàn hảo của chúng ta, Đấng hiện diện muôn đời để chuyển cầu cho những ai qua Ngài đến với Chúa Cha (x. Thư Do Thái 7:25). Đoạn cuối của Thánh Vịnh trình bày Vua khải hoàn như Đấng xét xử các dân nước. Khi chúng ta cầu nguyện với Thánh Vịnh này, chúng ta công bố vinh quang của Chúa Kitô Phục sinh và là Vua của chúng ta, trong khi cố gắng sống hoàn thiện hơn với chức vương giả và tư tế của mình như những chi thể của Ngài qua phép Rửa Tội.
Tôi chào thăm các nhóm sinh viên và học sinh đến tham dự buổi triều yết chung hôm nay. Tôi cũng chào các đại biểu của Ủy Ban Do Thái Sự Vụ của Hoa Kỳ. Với các tín hữu hành hương từ các miền nói tiếng Anh hiện diện nơi đây, đặc biệt những anh chị em đến từ Anh quốc, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, xin Chúa ban phép lành, bình an và hạnh phúc cho anh chị em.
2. Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội Đồng Tôn Giáo Do Thái
Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã cổ võ các vị lãnh đạo tôn giáo tại Israel kiến tạo bầu không khí tín nhiệm và đối thoại giữa mọi tôn giáo tại Thánh Địa.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 10-11-2011 dành cho 27 thành viên thuộc hội đồng tôn giáo Israel. Trong số các thành viên có Đại Rabbi Jona Metzger, Đức Thượng Phụ Fouad Twal của Công Giáo la tinh ở Jerusalem, Chủ tịch Hội đồng Imam Hồi giáo ở Israel, Ông Mohamad Kiwan, và thủ lãnh Hồi giáo Druse là ông Sheik Moufak Tarif.
Trong bài diễn văn, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Trong thời đại bị xáo trộn ngày nay, đối thoại giữa các tôn giáo đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để kiến tạo một bầu không khi cảm thông và tôn trọng lẫn nhau, có thể dẫn tới tình bạn và sự tín nhiệm vững chắc đối với nhau”.
Đức Thánh Cha nhắc lại điều ngài đã nói tại Assisi hôm 27-10 vừa qua: “Ngày nay chúng ta đang phải đương đầu với 2 thứ bạo lực: một đàng là sự sử dụng bạo lực nhân danh tôn giáo, và đàng khác, bạo lực xuất phát từ sự phủ nhận Thiên Chúa thường thấy trong đời sống xã hội tân tiến ngày nay. Trong tình trạng đó, với tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi tái khẳng định rằng quan hệ ngay chính của con người với Thiên Chúa là một sức mạnh hòa bình. Đây là chân lý cần được biểu lộ rõ ràng hơn qua cách thức chúng ta sống với nhau hằng ngày. Vì thế, tôi khích lệ quí vị cổ võ một bầu không khí tín nhiệm và đối thoại giữa các vị lãnh đạo và các phần tử của mọi truyền thống tôn giáo hiện diện tại Thánh Địa”.
3. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tiếp chủ tịch Hội Đồng Âu Châu
Sáng 14 tháng 11, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã tiếp chủ tịch Hội Đồng Âu Châu, ông Herman Van Rompuy. Trong nửa giờ trao đổi, hai vị đã đề cập đến cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị khắp Âu Châu cũng như những vấn đề kiên quan đến nhân quyền và quyền tự do tôn giáo.
Ông Van Rompuy đã trao tặng Đức Thánh Cha cuốn “Lược Đồ Dự Án Âu Châu,” và Đức Thánh Cha trao cho ông Van Rompuy một huy chương vàng triều Giáo Hoàng của ngài.
Ông Van Rompuy đã là chủ tịch Hội Đồng Âu Châu từ tháng Giêng năm 2010. Hội Đồng Âu Châu là một trong 7 cơ chế trong Liên Hiệp Âu Châu chịu trách nhiệm về hoạch định chính sách cho Liên Hiệp Âu Châu.
4. Nhà thờ rất hiện đại tại Hoa Kỳ
Nhà thờ Chúa Biến Hình được xây vào năm 2000 tại Orleans, Massachusetts. Anh chị em giáo dân tại đây đã hình thành nên cộng đoàn Chúa Giêsu và được linh hứng với những truyền thống của dòng Biển Đức. Nhà thờ của họ làm bằng gỗ và đá khắc với những phù điêu cũng như những tranh bằng đồng và kính.
Những hình ảnh được khắc và tạc trong nhà thờ bởi các nghệ nhân Italia và Pháp theo cùng một chủ đề đó là những thực tại dưới đất cũng có một ý nghĩa nào đó trên thiên quốc, là một trong những điều tâm đắc của Thánh Biển Đức.
Trên Web site của họ tại địa chỉ churchofthetransfiguration.org quý vị và các bạn có thể ghé thăm nhà thờ của họ qua một chương trình thăm viếng ảo dành cho những ai không có điều kiện đến thăm một trong những ngôi nhà thờ tân tiến nhất Hoa Kỳ về nhiều mặt.
02. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 trở thành công dân danh dự tại thành phố nơi bà ngoại ngài sinh trưởng.
Đức Thánh Cha vừa trở thành công dân danh dự của thành phố “Naz-Sciaves”, một thành phố của Italia. Một đoàn đại biểu của thành phố đã đến Vatican để trao tặng Đức Thánh Cha huy chương danh dự của thành phố.
Đây là nơi sinh trưởng của bà ngoại và bà cố của Đức Thánh Cha. Thành phố Naz-Sciaves hiện có 2500 dân nằm ở phía Bắc Ý trong vùng Bolzano gần biên giới với nước Áo.
Năm 1940, khi được 13 tuổi, Đức Thánh Cha đã viếng thăm thành phố này và đã đi xe đạp dạo quanh vùng với anh trai của ngài.
12 thành phố khác cũng đã trao tặng Đức Thánh Cha danh hiệu công dân danh dự. Những thành phố này thuộc Áo, Italia và Đức trong đó có thành phố Martkl am Inn nơi sinh trưởng của Đức Thánh Cha.
5. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 khích lệ các thiện nguyện viên như những người đã cổ vũ cho thiện chí trên thế giới
Trong phiên họp chót của hội nghị các thiện nguyện viên được Tòa Thánh tổ chức, các tham dự viên đã vui mừng chào đón Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha đã cám ơn Đức Hồng Y Robert Sarah, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm là người đã tổ chức hội nghị này trong khuôn khổ Năm Các Thiện Nguyện Viên Âu Châu. Đức Thánh Cha nói với các tham dự viên rằng công việc của họ không chỉ thể hiện thiện chí nhưng còn là một lời đáp trả cho một sự gặp gỡ thân tình với Chúa Kitô.
Ngài nói:
“Hồng ân của Chúa Kitô giúp chúng ta khám phá trong ta một lòng ao ước cho tình liên đới và cho một ơn gọi căn bản cho tình yêu”.
Đức Thánh Cha khích lệ các thiện nguyện viên rằng tuy công việc của họ không thể đáp ứng được hết những nhu cầu nảy sinh, họ không nên để thực tại của cuộc sống làm nhụt chí.
“Điều nhỏ mọn chúng ta có thể làm để đáp ứng phần nào nhu cầu nhân loại có thể xem như những hạt giống sẽ tăng trưởng và đem lại nhiều hoa trái; đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô và tình yêu, giống như cành cây được đề cập trong Phúc Âm, sẽ lớn lên đem lại bóng mát, sự bảo vệ và sức mạnh cho những ai cần đến.”
Hội nghị quy tụ 160 tham dự viên từ các tổ chức thiện nguyện của 25 quốc gia tại Âu Châu.
6. Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đang cứu xét một dự án viếng thăm hai nước Cuba và Mễ Tây Cơ để đáp lại lời mời từ hai nước này.
Trả lời câu hỏi của giới báo chí, hôm 10-11-2011, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết trong những ngày qua, các vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Mễ Tây Cơ và Cuba đã được ủy nhiệm thông báo cho các vị lãnh đạo tôn giáo và dân sự cấp cao nhất về việc Đức Thánh Cha đang cứu xét một dự án cụ thể để viếng thăm hai nước.
Dự án này sẽ được đào sâu trong những tuần lễ tới đây và dựa theo đó, Đức Thánh Cha quyết định chung kết và sẽ thông báo theo thể thức và thời gian ngài thấy là thuận tiện nhất.
Thời điểm dự kiến cho cuộc viếng thăm là vào mùa xuân năm tới, vì thế, thời gian để quyết định chung kết về chương trình và việc chuẩn bị tương đối đã đến gần.
Về lý do cuộc viếng thăm, Cha Lombardi cho biết sự mong đợi của nhân dân Mễ Tây Cơ là điều ai cũng biết, Đức Thánh Cha để ý đến điều đó và ngài vui mừng vì có thể đáp lại mong đợi ấy. Đức Thánh Cha đã đến Brazil, nhưng các nước Mỹ châu la tinh nói tiếng Tây ban nha mong muốn một cuộc viếng thăm cho họ và Mễ Tây Cơ là dân tộc đông đảo nhất trong số các nước này.
Cuba cũng là một nước rất mong được thấy Đức Giáo Hoàng, người không bao giờ quên cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Gioan Phaolô 2.
Cha Lombardi nói thêm rằng: “Chỉ cần nhìn bản đồ là đủ thấy Cuba và Mễ Tây Cơ ở cùng một hướng so với Roma, và vì thế điều hợp lý là gộp hai nước trong một chuyến viếng thăm duy nhất, thay vì 2 cuộc viếng thăm riêng rẽ, sẽ đòi một hành trình dài và phức tạp hơn.
7 – Các trường công lập tại Pakistan dạy học sinh đừng khoan dung đối với những ai không phải là tín hữu Đạo Hồi.
Các sách giáo khoa, được sử dụng trong trường công lập và trường tư thục ở Pakistan, dạy cho học sinh nước này có thành kiến và bất khoan dung đối với các nhóm thiểu số tôn giáo không theo đạo Hồi: đây là kết quả của một nghiên cứu đầu tiên thuộc loại này, được thực hiện bởi Ủy ban về Tự do tôn giáo quốc tế của quốc hội Hoa Kỳ(USCIRF) và được công bố ngày 9-11 tại Washington.
Phúc trình, được thông tấn xã Công Giáo Fides của Tòa Thánh đăng tải cho thấy hệ thống trường học ở Pakistan là gốc rễ của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo rộng rãi, và giúp giải thích lý do tại sao những hành vi khủng bố chống người không theo Hồi Giáo lại thường được hỗ trợ rộng rãi, khoan dung và biện minh tại Pakistan.
Nghiên cứu, có tựa đề "Kết nối các dấu chấm: giáo dục và sự phân biệt đối xử tôn giáo ở Pakistan", xem xét lại hơn 100 sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 10 thuộc bốn tỉnh của Pakistan. Hồi tháng 2-1011, các nhà nghiên cứu đã đến thăm 37 trường công lập, phỏng vấn 277 học sinh và các giáo viên. Họ cũng đến thăm 19 trường đào tạo chức sắc Hồi giáo, nơi họ đã phỏng vấn thêm 226 học sinh và các thầy giảng Kinh Koran.
Phúc trình nói: “Các nhóm thiểu số tôn giáo thường được mô tả như những công dân thấp kém hoặc công dân hạng nhì, được ban các quyền lợi bởi các người Hồi giáo Pakistan quảng đại, do đó họ cần phải biết ơn người Hồi Giáo. Đặc biệt, người Ấn giáo bị liên tục mô tả như là các phần tử cực đoan, và những kẻ thù truyền kiếp của Hồi giáo". Phúc trình nói tiếp: “Nền văn hóa và xã hội của Pakistan dựa trên sự bất công và tàn ác”.
8 – Phim The Last Christero
Cuốn phim The Last Christero mô tả những chiến sĩ Công Giáo cố gắng chống lại chính sách tận diệt tôn giáo của chính quyền tam điểm thân cộng của Mễ Tây Cơ.
Năm 1926, chính quyền Mễ Tây Cơ thực thi một chính sách bài giáo sĩ và đưa ra hàng loạt các cấm đoán đối với người Công Giáo. Các nông dân Công Giáo đã cầm súng chống lại một đạo quân tinh nhuệ của chính quyền trong cuộc chiến gọi là Cristero War. Cuộc chiến bắt đầu từ năm 1926. Năm 1929, Hoa Kỳ áp lực với Mễ Tây Cơ để có cuộc ngưng bắn. Tuy nhiên, nhiều chiến sĩ Kitô ra trình diện đã bị giết chết.
Cuốn phim đề cập đến năm 1930 khi những chiến sĩ Kitô tiếp tục cuộc chiến của họ. Họ đã phải lang thang trong những vùng núi khô cằn để tránh sự lùng bắt của quân chính phủ.