Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 27/03: Vũ trang để cùng Chúa thu góp
Giáo Hội Năm Châu
03:33 26/03/2025
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ.” Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?... bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ. Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
“Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.”
Hậu hỉ tình Cha
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
05:51 26/03/2025
HẬU HỈ TÌNH CHA!
(Chúa Nhật IV Mùa Chay C)
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn Tin Mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về “người con hoang đàng” là đỉnh cao của chữ tình. Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ “người con hoang đàng” không thể lột tả hết. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành “Người Cha nhân hậu”. Xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là “Hậu hỉ tình Cha”.
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao cả, nước từ trên cao mãi chảy xuống chỗ sâu. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại.
Dù khuất bóng con nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…”. Mục đích trở về đúng là “vị kỷ”: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng của mình. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm cùng với nụ hôn đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết! Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Tình của cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
“Con ta đây đã chết mà nay sống lại”. “Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà”. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người”. Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16).
Thánh sử Luca ghi rõ chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. “Còn thằng con của cha kia…”. Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống (x.Mt 5,43-48). Khi nói rằng: “Mọi sự của cha cũng là của con” thì người cha không chỉ xác định với người anh cả về của cải vật chất mà đặc biệt nhắc nhớ anh rằng người con thứ hai của ông chính là em ruột của anh ta. Và ông còn nhấn mạnh: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. (x.Lc.15,31).
Tình Chúa thật bao la. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: “Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi”, thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không một ai hưởng nhận hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính chúng ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu chúng ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.
Ban Mê Thuột
(Chúa Nhật IV Mùa Chay C)
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn Tin Mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về “người con hoang đàng” là đỉnh cao của chữ tình. Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ “người con hoang đàng” không thể lột tả hết. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành “Người Cha nhân hậu”. Xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là “Hậu hỉ tình Cha”.
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao cả, nước từ trên cao mãi chảy xuống chỗ sâu. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại.
Dù khuất bóng con nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…”. Mục đích trở về đúng là “vị kỷ”: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng của mình. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm cùng với nụ hôn đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết! Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Tình của cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
“Con ta đây đã chết mà nay sống lại”. “Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà”. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người”. Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16).
Thánh sử Luca ghi rõ chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. “Còn thằng con của cha kia…”. Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống (x.Mt 5,43-48). Khi nói rằng: “Mọi sự của cha cũng là của con” thì người cha không chỉ xác định với người anh cả về của cải vật chất mà đặc biệt nhắc nhớ anh rằng người con thứ hai của ông chính là em ruột của anh ta. Và ông còn nhấn mạnh: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. (x.Lc.15,31).
Tình Chúa thật bao la. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: “Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi”, thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không một ai hưởng nhận hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính chúng ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu chúng ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.
Ban Mê Thuột
Người Cha Hy Vọng
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
05:53 26/03/2025
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY - C
(Lc 15, 1-3. 11-32)
Người Cha Hy Vọng
Có người gọi đoạn Tin Mừng Lc 15,11-32 là “Dụ ngôn về người con phung phá”, vì khi đọc lên thấy sự hoang đàng của người con. Có người ta gọi là “Dụ ngôn về người cha nhân hậu”, bởi nó giúp ta khám phá khuôn mặt tốt lành của người cha. Quả thực, vai chính trong câu truyện không phải là người con (hoặc các người con, nếu kể thêm người con cả), mà là người cha, người cha hy vọng. Bởi qua cách hành xử của người cha, chúng ta dễ dàng nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa qua người cha mà Luca trình bày là Người Cha Hy Vọng.
Năm hy vọng
Năm Thánh lệ thường 2025 với chủ đề “Những người Hành hương Hy vọng” là cơ hội để mọi người đặt niềm hy vọng vào Chúa là Người Cha hy vọng. Đồng thời hy vọng vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa. Năm Thánh mời gọi chúng ta tái khám phá niềm vui của việc gặp gỡ Thiên Chúa là Cha chúng ta, mời gọi chúng ta đổi mới tinh thần và cam kết biến đổi thế giới.
Thế giới chúng ta đang sống thực sự cần hy vọng ngay lúc này. Có nhiều sự kiện đáng buồn, từ thiên tai, tai nạn, hoả hoạn, khủng bố, đến tội ác và bệnh dịch bí ẩn, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh, bệnh viện và trường học bị đánh bom, trẻ em bị súng máy gây sát thương... tiêu huỷ nhiều công trình phúc lợi, cướp đi bao sinh mạng con người, khiến người ta nghi ngờ và tự hỏi : làm sao tương lai có thể tốt đẹp được. Không phải lúc nào cũng dễ dàng có hy vọng. Isaia mời gọi chúng ta Hãy đặt hy vọng vào Chúa, Chúa sẽ giúp cho : “Những ai trông vào Yavê, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 31). Hay như thánh Phaolô, hãy xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho chúng ta chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, chúng ta được tràn trề hy vọng. (x.Rm 15,13)
Người cha hy vọng
Người cha hay Chúa Cha đã chia gia tài và để con mình ra đi sống đời con muốn sống, và cũng chính người cha ngày ngày tựa cửa mong ngóng con trở về, nên “anh còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy hôn để…” (Lc 15,20).
“Anh còn ở đàng xa”, lời này muốn nói rằng người cha đã mòn mỏi đợi con trong hy vọng. Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa hy vọng, Thiên Chúa của lời hứa, bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta; Ngài vui sướng và ăn mừng vì một người tội lỗi trở về. Như vậy dụ ngôn cho thấy những thái độ của Thiên Chúa, thể hiện qua những hành vi của người cha, có nguồn gốc sâu xa từ sự hy vọng. Chúng ta có thể gọi thái độ này là sự hy vọng của Thiên Chúa.
Hỏi : Lý do gì khiến chúng ta hy vọng vào Chúa? Do đâu mà người cha đã chạnh lòng thương và chạy lại gặp con?
Thưa : Do tấm lòng của người cha, của Thiên Chúa, một Thiên Chúa trung thành là sự bảo đảm cho chúng ta hy vọng. Là tình yêu đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa luôn đợi chờ ta. Chúa yêu thương chúng ta bằng tình của người mẹ yêu thương con cái, một tình yêu nhưng không, một tình yêu chờ đợi, dù con người bội nghĩa, bất trung (x.Is 49,14-16; 63,16; Gr 31,20; Tv 131).
Quan sát cảnh người cha ngày ngày đứng chờ con mỏi mòn đôi mắt. Nên khi con ông còn ở đàng xa, chính ông đã nhận ra con trước, tình cha thúc ông chạy về phía con và ôm lấy con. Đúng lý ra, người con chạy tới và quỳ sụp dưới chân cha mới phải. Đàng này, người cha đã đi bước trước. Ở đây, chúng ta khám ra một người cha không sợ mất mặt, không ngại bị đàm tiếu hay những điều xấu nào đó có thể xảy ra cho mình. Uy tín của người cha không ở chỗ giữ một khoảng cách đối với con cái, nhưng ở chỗ yêu con và biết cách diễn tả tình cha con.
Chúa là niềm hy vọng của chúng ta
Khi thấy con trở về, người cha đã sung sướng như một đứa trẻ. Ông ôm hôn anh ta, bảo đầy tớ mặc cho anh ta áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay anh ta, xỏ dép vào chân anh ta, giết bê béo làm thịt ăn mừng anh ta (x.Lc ). Những việc đó là cách biểu lộ niềm vui và hy vọng của ông, một niềm vui đặc biệt với hy vọng con ông sẽ trở về, nên ông sắm sẵn cho con. Đó chính là niềm vui của Cha trên trời dành cho một người tội lỗi biết hối cải ăn năn, giúp chúng ta tin và hy vọng vào Thiên Chúa tình thương.
Lạy Chúa, con luôn đặt hy vọng vào Chúa và lòng con tin tưởng ở Chúa. Vì ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc, đâu là đường để con bước đi.
(Lc 15, 1-3. 11-32)
Người Cha Hy Vọng
Có người gọi đoạn Tin Mừng Lc 15,11-32 là “Dụ ngôn về người con phung phá”, vì khi đọc lên thấy sự hoang đàng của người con. Có người ta gọi là “Dụ ngôn về người cha nhân hậu”, bởi nó giúp ta khám phá khuôn mặt tốt lành của người cha. Quả thực, vai chính trong câu truyện không phải là người con (hoặc các người con, nếu kể thêm người con cả), mà là người cha, người cha hy vọng. Bởi qua cách hành xử của người cha, chúng ta dễ dàng nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa qua người cha mà Luca trình bày là Người Cha Hy Vọng.
Năm hy vọng
Năm Thánh lệ thường 2025 với chủ đề “Những người Hành hương Hy vọng” là cơ hội để mọi người đặt niềm hy vọng vào Chúa là Người Cha hy vọng. Đồng thời hy vọng vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa. Năm Thánh mời gọi chúng ta tái khám phá niềm vui của việc gặp gỡ Thiên Chúa là Cha chúng ta, mời gọi chúng ta đổi mới tinh thần và cam kết biến đổi thế giới.
Thế giới chúng ta đang sống thực sự cần hy vọng ngay lúc này. Có nhiều sự kiện đáng buồn, từ thiên tai, tai nạn, hoả hoạn, khủng bố, đến tội ác và bệnh dịch bí ẩn, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh, bệnh viện và trường học bị đánh bom, trẻ em bị súng máy gây sát thương... tiêu huỷ nhiều công trình phúc lợi, cướp đi bao sinh mạng con người, khiến người ta nghi ngờ và tự hỏi : làm sao tương lai có thể tốt đẹp được. Không phải lúc nào cũng dễ dàng có hy vọng. Isaia mời gọi chúng ta Hãy đặt hy vọng vào Chúa, Chúa sẽ giúp cho : “Những ai trông vào Yavê, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 31). Hay như thánh Phaolô, hãy xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho chúng ta chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, chúng ta được tràn trề hy vọng. (x.Rm 15,13)
Người cha hy vọng
Người cha hay Chúa Cha đã chia gia tài và để con mình ra đi sống đời con muốn sống, và cũng chính người cha ngày ngày tựa cửa mong ngóng con trở về, nên “anh còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy hôn để…” (Lc 15,20).
“Anh còn ở đàng xa”, lời này muốn nói rằng người cha đã mòn mỏi đợi con trong hy vọng. Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa hy vọng, Thiên Chúa của lời hứa, bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta; Ngài vui sướng và ăn mừng vì một người tội lỗi trở về. Như vậy dụ ngôn cho thấy những thái độ của Thiên Chúa, thể hiện qua những hành vi của người cha, có nguồn gốc sâu xa từ sự hy vọng. Chúng ta có thể gọi thái độ này là sự hy vọng của Thiên Chúa.
Hỏi : Lý do gì khiến chúng ta hy vọng vào Chúa? Do đâu mà người cha đã chạnh lòng thương và chạy lại gặp con?
Thưa : Do tấm lòng của người cha, của Thiên Chúa, một Thiên Chúa trung thành là sự bảo đảm cho chúng ta hy vọng. Là tình yêu đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa luôn đợi chờ ta. Chúa yêu thương chúng ta bằng tình của người mẹ yêu thương con cái, một tình yêu nhưng không, một tình yêu chờ đợi, dù con người bội nghĩa, bất trung (x.Is 49,14-16; 63,16; Gr 31,20; Tv 131).
Quan sát cảnh người cha ngày ngày đứng chờ con mỏi mòn đôi mắt. Nên khi con ông còn ở đàng xa, chính ông đã nhận ra con trước, tình cha thúc ông chạy về phía con và ôm lấy con. Đúng lý ra, người con chạy tới và quỳ sụp dưới chân cha mới phải. Đàng này, người cha đã đi bước trước. Ở đây, chúng ta khám ra một người cha không sợ mất mặt, không ngại bị đàm tiếu hay những điều xấu nào đó có thể xảy ra cho mình. Uy tín của người cha không ở chỗ giữ một khoảng cách đối với con cái, nhưng ở chỗ yêu con và biết cách diễn tả tình cha con.
Chúa là niềm hy vọng của chúng ta
Khi thấy con trở về, người cha đã sung sướng như một đứa trẻ. Ông ôm hôn anh ta, bảo đầy tớ mặc cho anh ta áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay anh ta, xỏ dép vào chân anh ta, giết bê béo làm thịt ăn mừng anh ta (x.Lc ). Những việc đó là cách biểu lộ niềm vui và hy vọng của ông, một niềm vui đặc biệt với hy vọng con ông sẽ trở về, nên ông sắm sẵn cho con. Đó chính là niềm vui của Cha trên trời dành cho một người tội lỗi biết hối cải ăn năn, giúp chúng ta tin và hy vọng vào Thiên Chúa tình thương.
Lạy Chúa, con luôn đặt hy vọng vào Chúa và lòng con tin tưởng ở Chúa. Vì ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc, đâu là đường để con bước đi.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:27 26/03/2025
84. Chiến thắng chính mình, từ bỏ ý chí của nó, thì đó là ân sủng lớn nhất mà con người đạt được từ nơi Thiên Chúa.
(Thánh Francis of Assisi)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:34 26/03/2025
100. NGƯỜI CÂM MỞ MIỆNG
Có người giả làm người câm đi trên phố xin ăn.
Một hôm, hắn ta cầm hai xu mua rượu uống, sau khi uống xong thì nói:
- “Thêm cho tôi một ít nữa”.
Chủ quán rượu rất kinh ngạc nói:
- “Ông làm sao mà nói được?”
Hắn trả lời:
- “Bình thường không có tiền, ông biểu tôi làm sao nói được chứ? Hôm nay có hai xu tự nhiên biết nói”.
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 100:
Tiền, có lúc làm cho người nghèo và người thấp cổ bé họng bị “câm” không nói được, cũng có khi nó làm cho người có chức có quyền bị “ngọng” nói không chính xác rõ ràng…
Có những người nghèo “câm” không nói được trước những bất công mà mình phải chịu, vì không có tiền để kiện tụng, cái “câm” của họ chắc chắn sẽ được Thiên Chúa cất tiếng biện hộ cho họ trong ngày phán xét chung người sống cũng như người đã chết; có những người mang danh là đại diện cho công lý nhưng cũng bị nói “ngọng” không trung thực, vì đồng tiền hối lộ họ đã nuốt đang bị nghẹn lại nơi cổ, chính những đồng tiền chận ngang cổ này làm cho cuộc sống của họ giống như người đang say nửa tỉnh nửa mê, tâm hồn bất an và càng ngày càng làm những chuyện thất đức để che lấp cái bất an của mình…
Người Ki-tô hữu coi đồng tiền như là một phương tiện Thiên Chúa ban cho để nuôi mình và giúp đỡ tha nhân, cho nên họ sẽ nói chứ không câm miệng trước những bất công xảy đến cho họ cũng như cho người khác, bởi vì có một lương tâm chân chính và cương trực, thì quý hơn tất cả bạc vàng mà họ đang có hoặc sẽ có sau này.
Có rất nhiều người sử dụng đồng tiền để làm cho tha nhân phải “câm” không nói được. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện cho họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có người giả làm người câm đi trên phố xin ăn.
Một hôm, hắn ta cầm hai xu mua rượu uống, sau khi uống xong thì nói:
- “Thêm cho tôi một ít nữa”.
Chủ quán rượu rất kinh ngạc nói:
- “Ông làm sao mà nói được?”
Hắn trả lời:
- “Bình thường không có tiền, ông biểu tôi làm sao nói được chứ? Hôm nay có hai xu tự nhiên biết nói”.
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 100:
Tiền, có lúc làm cho người nghèo và người thấp cổ bé họng bị “câm” không nói được, cũng có khi nó làm cho người có chức có quyền bị “ngọng” nói không chính xác rõ ràng…
Có những người nghèo “câm” không nói được trước những bất công mà mình phải chịu, vì không có tiền để kiện tụng, cái “câm” của họ chắc chắn sẽ được Thiên Chúa cất tiếng biện hộ cho họ trong ngày phán xét chung người sống cũng như người đã chết; có những người mang danh là đại diện cho công lý nhưng cũng bị nói “ngọng” không trung thực, vì đồng tiền hối lộ họ đã nuốt đang bị nghẹn lại nơi cổ, chính những đồng tiền chận ngang cổ này làm cho cuộc sống của họ giống như người đang say nửa tỉnh nửa mê, tâm hồn bất an và càng ngày càng làm những chuyện thất đức để che lấp cái bất an của mình…
Người Ki-tô hữu coi đồng tiền như là một phương tiện Thiên Chúa ban cho để nuôi mình và giúp đỡ tha nhân, cho nên họ sẽ nói chứ không câm miệng trước những bất công xảy đến cho họ cũng như cho người khác, bởi vì có một lương tâm chân chính và cương trực, thì quý hơn tất cả bạc vàng mà họ đang có hoặc sẽ có sau này.
Có rất nhiều người sử dụng đồng tiền để làm cho tha nhân phải “câm” không nói được. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện cho họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
CNN: Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cận kề cái chết đến mức nhóm y tế của ngài đã cân nhắc đến việc ngừng điều trị
Vũ Văn An
13:58 26/03/2025

Christopher Lamb của Đài CNN hôm nay cho hay: Theo bác sĩ trưởng, nhóm y tế chăm sóc Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cân nhắc đến việc ngừng điều trị để ngài có thể qua đời, trong khi vị giáo hoàng 88 tuổi này phải nhập viện vì bệnh đường hô hấp kéo dài.
Giáo sư Sergio Alfieri nói với tờ báo Ý Corriere della Sera rằng thời điểm quan trọng nhất là vào ngày 28 tháng 2 khi Đức Giáo Hoàng lên cơn khó thở và hít phải chất nôn của chính mình.
"Chúng tôi phải lựa chọn giữa việc dừng lại và để ngài ra đi hoặc ép buộc và thử tất cả các loại thuốc và liệu pháp có thể, với nguy cơ rất cao gây tổn thương các cơ quan khác. Và cuối cùng, chúng tôi đã đi theo con đường này", BS Alfieri cho biết.
BS Alfieri, người đứng đầu nhóm tại bệnh viện Gemelli ở Rome, cho biết quyết định tiếp tục điều trị là do y tá của Đức Phanxicô đưa ra. “Đức Thánh Cha luôn quyết định. Ngài giao phó mọi loại lựa chọn chăm sóc sức khỏe cho Massimiliano Strappetti, trợ lý chăm sóc sức khỏe cá nhân của ngài, người hiểu rõ mong muốn của Đức Giáo Hoàng.”
Ông được cho là đã nói với BS Alfieri: “Hãy thử mọi cách, chúng tôi sẽ không bỏ cuộc. Đó cũng là điều mà tất cả chúng tôi đều nghĩ. Và không ai bỏ cuộc cả.”
Đức Phanxicô rời bệnh viện vào ngày 23 tháng 3 sau 38 ngày nằm viện, là thời gian dài nhất trong bốn lần nằm viện kể từ khi ngài được bầu làm giáo hoàng cách đây 12 năm. Đức Giáo Hoàng đã bị một số cơn khó thở trong thời gian nằm viện, BS Alfieri trước đó đã nói rằng hai trong số những cơn đó đã khiến tính mạng của Đức Giáo Hoàng gặp nguy hiểm.
Trong thời gian nằm viện, Vatican đã cung cấp mức độ chi tiết chưa từng có về tình trạng của Đức Phanxicô.
BS Alfieri cho biết đây là quyết định của Đức Giáo Hoàng và các bản tin của Vatican đã được nhóm y tế chuẩn bị với một số thông tin bổ sung từ các thư ký riêng của Đức Phanxicô.
“Ngay từ ngày đầu tiên, ngài đã yêu cầu chúng tôi nói sự thật và ngài muốn chúng tôi nói sự thật về tình trạng của ngài. Không có gì thay đổi hoặc bỏ sót cả.”
Theo Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trở về dinh thự của mình tại Casa Santa Marta, nơi ngài sẽ được điều trị bao gồm vật lý trị liệu về khả năng vận động và hô hấp, đặc biệt là phục hồi giọng nói, và tham gia cầu nguyện cá nhân.
Các bác sĩ cũng khuyên Đức Giáo Hoàng nên được hỗ trợ y tế 24 giờ, bao gồm liệu pháp oxy và trong trường hợp khẩn cấp.
Đức Giáo Hoàng sẽ dần dần trở lại làm việc. Ngài đã thể hiện quyết tâm tiếp tục tại vị, đã tiếp tục một số nhiệm vụ và ký các văn bản.
Ngài đã chuẩn bị chào đón Vua Charles và Hoàng hậu Camilla của Anh trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Tòa thánh vào tháng tới, tuy nhiên Cung điện Buckingham đã thông báo vào thứ Ba rằng chuyến đi đã bị hoãn lại.
Cung điện Buckingham cho biết chuyến đi đã bị "hoãn lại theo thỏa thuận chung, vì lời khuyên y tế hiện cho rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ được hưởng lợi từ một thời gian nghỉ ngơi và hồi phục kéo dài".
Cặp đôi hoàng gia dự kiến sẽ thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước kéo dài bốn ngày tới Vatican và Ý từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 4. Người ta hiểu rằng chuyến đi của Nhà vua và Hoàng hậu tới Ý vẫn sẽ diễn ra, tuy nhiên một số phần của chương trình dự kiến sẽ thay đổi khi các công tác chuẩn bị được hoàn tất.
Đức Phanxicô đã không chủ trì buổi đọc kinh Truyền tin trong bảy Chúa Nhật vừa qua, nhưng vẫn đưa ra những suy tư hàng tuần - gần đây nhất là lời kêu gọi "hòa bình" ở các khu vực chiến tranh.
"Anh Chị em đã tiếp tục cầu nguyện cho tôi với rất nhiều kiên nhẫn và bền bỉ. Cảm ơn anh chị em rất nhiều. Tôi cũng cầu nguyện cho anh chị em ", ngài nói trong một bài đăng trên X vào Chúa Nhật. "Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình, đặc biệt là ở Ukraine, Palestine, Israel, Lebanon, Myanmar, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo đã bị tử đạo".
Bài giáo lý do Đức Thánh Cha chuẩn bị dành cho buổi tiếp kiến chung ngày 26 tháng 3 năm 2025
Vũ Văn An
14:25 26/03/2025

Mặc dù đang dưỡng bệnh tại Casa Santa Marta, Đức Phanxicô vẫn đã có bài giáo lý soạn sẵn cho buổi tiếp kiến chung ngày 26 tháng 3, với đề tài:
Chu kỳ Giáo lý – Năm Thánh 2025. Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta. II. Cuộc đời Chúa Giêsu. Những cuộc gặp gỡ 2. Người phụ nữ Samari. “Cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4:7)
Anh chị em thân mến,
Sau khi chiêm niệm về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô, người đã đi tìm Chúa Giêsu, hôm nay chúng ta sẽ suy gẫm về những khoảnh khắc mà dường như Người thực sự đang chờ đợi ngay tại đó, tại ngã ba đường trong cuộc sống của chúng ta. Đó là những cuộc gặp gỡ khiến chúng ta ngạc nhiên, và lúc đầu có lẽ chúng ta thậm chí còn hơi do dự; chúng ta cố gắng thận trọng và hiểu những gì đang xảy ra.
Đây có lẽ cũng là kinh nghiệm của người phụ nữ Samaria, được đề cập trong chương bốn của Tin mừng Gioan (so sánh 4:5-26). Cô ấy không mong đợi tìm thấy một người đàn ông ở giếng vào buổi trưa; thực ra cô ấy hy vọng không tìm thấy ai cả. Trên thực tế, cô ấy đi lấy nước từ giếng vào một giờ bất thường, khi trời rất nóng. Có lẽ người phụ nữ này xấu hổ về cuộc sống của mình, có lẽ cô ấy cảm thấy bị phán xét, lên án, không được hiểu, và vì lý do này, cô ấy đã tự cô lập mình, cô ấy đã cắt đứt quan hệ với mọi người.
Để đi đến Galilê từ Giuđêa, Chúa Giêsu sẽ phải chọn một con đường khác và không đi qua Samaria. Con đường đó cũng sẽ an toàn hơn, xét đến mối quan hệ căng thẳng giữa người Do Thái và người Samaria. Thay vào đó, Người muốn đi qua đó, và dừng lại ở giếng đó, đúng vào thời điểm đó! Chúa Giêsu chờ đợi chúng ta và tự để Người được tìm thấy chính khi chúng ta nghĩ rằng không còn hy vọng nào cho chúng ta nữa. Giếng, ở Trung Đông cổ thời, là nơi gặp gỡ, nơi đôi khi các cuộc hôn nhân được sắp đặt; đó là nơi đính hôn. Chúa Giêsu muốn giúp người phụ nữ này hiểu được nơi tìm thấy câu trả lời thực sự cho mong muốn được yêu của cô.
Chủ đề về mong muốn là nền tảng để hiểu cuộc gặp gỡ này. Chúa Giêsu là người đầu tiên bày tỏ mong muốn của Người: "Hãy cho Ta uống!" (câu 10). Để mở đầu cho một cuộc đối thoại, Chúa Giêsu tỏ ra yếu đuối, để người kia cảm thấy thoải mái, đảm bảo rằng cô ấy không sợ hãi. Khát nước thường là hình ảnh của mong muốn, ngay cả trong Kinh thánh. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu trước hết khát khao ơn cứu rỗi cho người phụ nữ. Thánh Augustinô nói rằng "Người đang xin nước uống" "khát khao đức tin của chính người phụ nữ". [1]
Trong khi Nicôđêmô đã đến với Chúa Giêsu vào ban đêm, thì ở đây Chúa Giêsu gặp người phụ nữ Samari vào giữa trưa, thời điểm có nhiều ánh sáng nhất. Đây thực sự là khoảnh khắc mặc khải. Chúa Giêsu cho cô ấy biết Người là Đấng Mê-xi-a và cũng rõi sáng lên cuộc đời của Người. Người giúp cô ấy đọc lại lịch sử của cô, một lịch sử phức tạp và đau đớn: cô ấy đã có năm người chồng và hiện đang sống với người thứ sáu không phải là chồng. Con số sáu không phải là ngẫu nhiên, nhưng thường chỉ ra sự không hoàn hảo. Có lẽ đó là ám chỉ đến chú rể thứ bảy, người cuối cùng sẽ thỏa mãn mong muốn được yêu thương thực sự của người phụ nữ này. Và chú rể đó chỉ có thể là Chúa Giêsu.
Khi nhận ra rằng Chúa Giêsu biết cuộc sống của mình, người phụ nữ chuyển câu truyện sang vấn đề tôn giáo đã chia rẽ người Do Thái và người Samaria. Điều này đôi khi cũng xảy ra với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện: tại thời điểm Chúa chạm đến cuộc sống của chúng ta, với những vấn đề của nó, đôi khi chúng ta lạc vào những suy tư khiến chúng ta có ảo tưởng về một lời cầu nguyện thành công. Trên thực tế, chúng ta đã dựng lên những rào cản bảo vệ. Tuy nhiên, Chúa luôn vĩ đại hơn, và đối với người phụ nữ Samaria, người mà theo các giới luật văn hóa, Người thậm chí không nên nói chuyện, Người đã ban cho sự mặc khải cao nhất: Người nói với cô về Chúa Cha, người phải được tôn thờ trong tinh thần và sự thật. Và khi cô, một lần nữa ngạc nhiên, nhận thấy rằng về những điều này tốt hơn là chờ đợi Đấng Mê-xi-a, Người nói với cô: "Ta chính là Đấng đang nói chuyện với chị" (câu 26). Giống như một lời tuyên bố tình yêu: Đấng mà chị đang chờ đợi chính là Ta; Đấng cuối cùng có thể đáp lại mong muốn được yêu của chị.
Vào thời điểm đó, người phụ nữ chạy đi gọi mọi người trong làng, vì sứ mệnh xuất phát chính xác từ trải nghiệm cảm thấy được yêu. Và lời tuyên bố nào mà cô ấy có thể mang lại, nếu không phải là trải nghiệm được hiểu, được chào đón, được tha thứ? Đây là một hình ảnh khiến chúng ta phải suy gẫm về việc tìm kiếm những cách thức mới để truyền giáo.
Giống như một người đang yêu, người Samaria này quên mất chiếc bình đựng nước của mình, để nó dưới chân Chúa Giê-su. Sức nặng của chiếc bình trên đầu cô, mỗi lần cô trở về nhà, nhắc nhở cô về tình trạng của mình, cuộc sống đầy rắc rối của cô. Nhưng giờ đây chiếc bình được để dưới chân Chúa Giê-su. Quá khứ không còn là gánh nặng nữa; cô đã được hòa giải. Và đối với chúng ta cũng vậy: để đi và công bố Tin Mừng, trước tiên chúng ta cần đặt gánh nặng lịch sử của mình dưới chân Chúa, để giao phó cho Người gánh nặng của quá khứ. Chỉ những người đã hòa giải mới có thể mang Tin Mừng.
Anh chị em thân mến, chúng ta đừng mất hy vọng! Ngay cả khi lịch sử của chúng ta có vẻ nặng nề, phức tạp, thậm chí có thể bị hủy hoại đối với chúng ta, chúng ta vẫn luôn có khả năng giao phó nó cho Chúa và bắt đầu lại cuộc hành trình của mình. Thiên Chúa là Đấng nhân từ, và luôn chờ đợi chúng ta!
_______________________
[1] Bài giảng 15,11.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thế giới thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng
Mai Văn Phấn
06:07 26/03/2025
Thế giới thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng
"Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện
Như chùm hoa tự trút hết hương thơm"
(Lê Đình Bảng)
Francis Assisi Lê Đình Bảng là một trong những nhà thơ Công Giáo tiêu biểu, để lại dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại. Thơ ông hòa quyện đức tin kiên vững, lòng đạo và chiều sâu giáo lý, vẻ đẹp mỹ học Kitô giáo và bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện sự uyên bác về tri thức văn hóa Đông – Tây. Sự nghiệp thi ca của ông như vùng đất phong nhiêu, với thổ nhưỡng và khí hậu riêng biệt, cất lên tiếng nói sáng tạo, vừa khơi nguồn cảm hứng cho những người yêu văn chương, vừa nuôi dưỡng khát vọng chiêm nghiệm đức tin.
Nói đến thơ của Lê Đình Bảng là nói đến những dòng mạch thơ về đức tin và tình yêu Thiên Chúa, về hình tượng người mẹ và gia đình, về quê hương và ký ức tuổi thơ, về triết lý nhân sinh và nỗi niềm nhân thế, về tâm tư trước thời cuộc và dấu ấn lịch sử, về thiên nhiên và cái đẹp. Ở khuôn khổ bài này, tôi muốn đi sâu vào những dòng mạch trên đồng thời khái quát đặc trưng thi pháp của ông, để thấy được lực hấp dẫn và tầm ảnh hưởng của thơ Lê Đình Bảng.
"Chút gia tài của lòng đạo, đức tin " – Đức tin và tình yêu Thiên Chúa
Lòng đạo và đức tin là cốt lõi xuyên suốt hành trình thi ca của Lê Đình Bảng. Đức tin Kitô giáo thấm đẫm trong từng câu chữ, trở thành ý hướng chủ đạo, kết tinh thành những khúc tụng ca ngợi khen và tôn vinh tình yêu Thiên Chúa. Như mạch suối ân sủng tuôn trào, thơ ông dẫn dắt tâm hồn người đọc đến với sự chiêm niệm và niềm khát khao hướng thượng. Hình ảnh thiên nhiên sống động trong bài thơ "Suối nguồn" chính là biểu tượng cho ân tình Thiên Chúa – suối mát thiêng liêng luôn tuôn đổ xuống lòng người:
"Suối nguồn, như gấm, như hoa
Mở phơi, thấm đẫm sương sa đất trời
Từ trong mạch giếng sâu khơi
Dấu yêu, ngọt mật. Chúa ôi, dịu dàng."
Dòng suối ấy biểu trưng cho ân điển của Chúa, tưới mát và thấm sâu vào đời sống, cho tâm hồn tín hữu thêm vững vàng. Trong bài "Ơn Người quá đủ cho tôi", Lê Đình Bảng bày tỏ lòng tri ân chân thành, giản dị:
"Lạy Chúa, bao giờ tôi cảm nhận
Mỗi người tôi gặp, mỗi buồn vui
Mỗi nơi, mỗi lúc, chiều, mai, sớm
Chúa ở cùng tôi, trong phận người
Là mạch nguồn thiêng liêng, máu thịt
Từ trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Bây giờ, tôi sống hay tôi chết
Tôi được bình yên như khí trời"
Tứ thơ biểu đạt niềm tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong mọi khoảnh khắc. Tình yêu Thiên Chúa bao dung là điểm tựa bền vững và sức mạnh tinh thần nâng đỡ con người. Đến với Chúa là hành trình qua những khúc quanh của cuộc đời, nơi thử thách trở thành phép rèn luyện đức tin.
"Kể từ nay, xác hồn tôi, tất cả
Được treo lên, được cứu rỗi đời đời
Lên ngọn sông đào, tắm mát thảnh thơi
Dưới đôi cánh từ bi, trong nhà Chúa"
(Trong cõi đầy vơi)
Hình ảnh "ngọn sông đào, tắm mát thảnh thơi" gợi sự thanh lọc, bình an trong vòng tay Thiên Chúa. Một trong những giá trị cốt lõi của thơ Lê Đình Bảng là đức tính khiêm nhường, thể hiện qua giọng điệu dung dị, lắng sâu, không khoa trương mà chân thành, tha thiết.
"Con xin Chúa, một chỗ ngồi chót hết
Bất cứ đâu đây, xa lạ, không tên
Chỗ muộn mằn còn sót lại, bỏ quên
Vụn bánh rớt rơi, chẳng ai thèm nhặt
...
Sao mòn mỏi? Sao gập ghềnh, chia cắt
Con chỉ là người đầy tớ vô duyên
Phận nữ tỳ, đâu dám đến gần bên
Nơi diên yến, đền vua trên Núi Thánh"
(Ơi, người làng Sông)
Lời thơ thể hiện trọn vẹn tinh thần phó thác và phụng sự Thiên Chúa, một sự tự nguyện rèn luyện bản thân trong tinh thần khiêm hạ, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, để tâm hồn hoàn toàn thuộc về Đức Mến, như một chứng nhân sống của đức tin và ân sủng.
“Nhiều khi, tôi hỏi riêng tôi
Bát cơm nhà Chúa, hạt vơi, hạt đầy
Hạt nào tôi giữ trong tay
Của riêng, xin để dành ngày cánh chung”
(Tự tình khúc)
Đó là nỗi trăn trở mang màu sắc triết lý và tôn giáo, khi con người đối diện với chính mình, tự vấn về ý nghĩa của sự sở hữu và dâng hiến. Nỗi băn khoăn của nhân vật trữ tình hướng đến một viễn cảnh lớn hơn – "ngày cánh chung". Ở đó, con người không còn bị ràng buộc bởi những toan tính trần thế, mà đứng trước sự phán xét tối hậu, nơi mọi sự đều được cân nhắc theo ánh sáng của lòng bác ái và đức tin.
Phần lớn thơ của Lê Đình Bảng mang tinh thần đối thoại thiêng liêng giữa con người và Thiên Chúa. Bằng giọng điệu thân mật, ông trò chuyện với Đấng-Tối-Cao như với người Cha hiền hậu, Đấng yêu thương và che chở, cũng như một người bạn tri kỷ luôn lắng nghe và đồng hành trên mọi nẻo đường.
"Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội
Lớn dần lên trong hương sắc của người
Ngày lại ngày hoa trái cứ sinh sôi
Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt"
(Giữa bao la đất trời )
Sự gắn bó với Thiên Chúa trong thơ Lê Đình Bảng không phải một huyền nhiệm xa vời, mà là mối thân tình tràn đầy ân sủng, nhuộm thấm từng khoảnh khắc đời sống. Thơ ông vang lên như lời kinh dâng hiến, trào dâng từ cõi lòng thành kính, ngợi ca tình yêu thương bao dung và sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa. Với đức tin vững vàng, ông khơi dậy khát vọng sống đẹp, sống trọn vẹn trong tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa.
"Con mang ơn mẹ suốt đời " – Hình tượng người mẹ và gia đình
Hình tượng người mẹ và gia đình trong thơ Lê Đình Bảng được khắc họa với chiều sâu cảm xúc, mang sắc thái tâm linh.
Người mẹ hiện lên như biểu tượng thiêng liêng của sự hy sinh, lòng nhẫn nại và đức tin bền bỉ, là kết tinh của vẻ đẹp cao cả. Mẹ là hiện thân của tình yêu thương vô bờ, âm thầm gánh vác mọi nhọc nhằn, gian khó để con cái trưởng thành. Những câu thơ của ông về người mẹ rất giàu sức lay động, phản chiếu triết lý nhân sinh và niềm tin tôn giáo:
“Con đâu dám, ngồi ở không, trông đợi
Mẹ gánh hàng rong tất tả mỗi ngày
Tuổi đã già, ai bắt phải luôn tay
Đêm rét buốt, ổ rơm không đủ chỗ”
(Lời mẹ ru)
Tứ thơ này gợi nhắc công ơn sinh thành của mẹ, chạm tới tâm linh – nơi tình mẫu tử tỏa sáng trong đức tin. Lòng biết ơn mẹ là một giá trị thiêng liêng, phản chiếu tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa, cần được thấu hiểu sâu sắc và thể hiện qua những hành động bác ái trong đời sống.
Hình tượng gia đình trong thơ ông không chỉ là tổ ấm mà còn mang ý nghĩa văn hóa – tinh thần, là nơi lưu giữ đức tin, các giá trị truyền thống, đồng thời kết tinh và lan tỏa tình yêu thương giữa các thế hệ.
"Lời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ
Của xóm làng quê, của hết mọi người
Từ trong bào thai, mẹ hát ru nôi
Từ gồng gánh, nhịp tang bồng, ra chợ"
(Di sản);
"Của cải mẹ cha cho, có vậy
Để dành, khi con lớn, con khôn
Những câu kinh sách, phiên chầu lễ
Đã thấm vào da thịt, máu xương"
(Chuyện những mùa hoa năm ấy)
Trong dòng cảm xúc về mẹ và gia đình, một trong những tác phẩm nổi bật của Lê Đình Bảng là trường ca "Ca dao mẹ", gồm 132 khúc thơ lục bát. Sử dụng thi pháp lục bát truyền thống, tác giả rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của tình mẫu tử và giá trị gia đình. Ngay từ câu thơ đầu tiên, hình ảnh người mẹ hiện ra với tình yêu thương ấm áp, dịu dàng và bao dung:
“Hương cau, hương bưởi hiên nhà
Mẹ ngồi gom mẹt khoai hà, chờ con”
Trong “Ca dao mẹ”, hình ảnh Người Mẹ sáng ngời đức tin, lo toan chu toàn mọi việc, kể cả việc hậu sự của chính mình, dẫn dắt con theo tinh thần “tốt đời đẹp đạo”, cần kiệm như truyền thống của các bà mẹ Việt Nam. Những câu thơ đọc lên khiến lòng rưng rưng:
“Ngọt bùi, cay đắng cho cam
Nhớ, mai mẹ mất, đừng làm ma to
Chỉ đưa mẹ đến nhà thờ
Ăn mày các phép, đừng lo, tội tình”
Gia đình trong "Ca dao mẹ" phản ánh những nét đẹp trong văn hóa cộng đồng như sự đùm bọc, che chở, lòng biết ơn và niềm tin tôn giáo. Các đoạn thơ miêu tả phong tục tập quán của người Việt, từ bữa cơm quê giản dị đến phong tục sinh hoạt, các nghi thức lễ giỗ tổ tiên, mở ra một không gian văn hóa đặc sắc và phong phú.
“Mẹ bày ra bữa cơm quê
Khói thơm quanh cái chõng tre đầu hồi”
Tính biểu trưng của hình tượng Người Mẹ trong bài thơ sâu đậm đến mức ta như thấy hình bóng mẹ mình trong đó. Lê Đình Bảng dung hòa đạo lý truyền thống với đức tin Thiên Chúa, cất lên khúc ca bất tận về tình mẫu tử thiêng liêng. Hình ảnh người mẹ rất riêng mà cũng rất chung ấy gợi nhắc câu ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.”
“Cứ mỗi mùa Vu Lan, cúng quả
Nghe chùa bên mở huệ, tuần chay
Dọc đường ra nghĩa trang, Em bảo
Mẹ ngủ trong gò đất cỏ may
Thành bụi, thành tro than lãng đãng
Vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày”
(Mùa trăng vu lan nhớ mẹ)
Hình ảnh Người Mẹ được nhà thơ khắc họa bằng những nét chấm phá vừa thiêng liêng, vừa dung dị, gợi lên nỗi nhớ thương sâu thẳm trong mùa Vu Lan – mùa hiếu hạnh. Mẹ không còn hiện diện trong hình hài quen thuộc, mà đã hòa vào thiên nhiên, vào đất trời, thành tro bụi, như một sự trở về với cội nguồn vô tận. Nhưng dù đã khuất, Mẹ vẫn hiển hiện trong từng chi tiết đời thường. Không gian thơ thấm đẫm sắc thái tâm linh và nỗi nhớ ngậm ngùi. Cỏ may mọc trên nấm mộ không chỉ gợi lên sự hoang hoải, mà còn là dấu vết thời gian, như một sự nhắc nhớ về sự mong manh của kiếp người. Đặc biệt, hình ảnh "vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày" gợi ra một ẩn dụ đẹp đẽ: dẫu Mẹ đã khuất, tình yêu và sự che chở của Mẹ vẫn còn đó, nhẹ nhàng mà bền bỉ, như ánh trăng hiển hiện giữa nhân gian dù không còn thuộc về cõi thế.
Hình ảnh ấy không chỉ gợi nhớ về Mẹ, mà còn mở rộng ra nỗi mất mát trong đời sống, nơi những người ở lại mãi khắc khoải trong niềm thương nhớ. Tình cảm vợ chồng là nền tảng bền vững của mỗi gia đình Việt Nam, và khi một người ra đi, khoảng trống để lại không gì có thể lấp đầy. Đoạn thơ là tiếng lòng đau đáu của người chồng thương nhớ người vợ đã khuất.
“Từ hôm Em bỏ đi xa
Ngẩn ngơ, tôi cứ vào ra, như là
Con tàu về cuối sân ga
Chúa ôi, mưa nhạt, mưa nhoà, vắng không
Cái ngày khăn gói qua sông
Mênh mông một dải quê chồng xa xôi
Quạt nồng, ấp lạnh chưa vơi
Tóc tơ đã rối một đời vào nhau”
(Requiem)
Nỗi đau thấm vào từng khoảnh khắc thường nhật, trong những bước chân lặng lẽ, không gian vắng vẻ, cơn mưa nhòa nhạt - tất cả nhuốm màu cô quạnh. Hồi tưởng về người vợ, tác giả không chỉ nhớ đến bóng hình xưa mà còn cả chặng đường đời đã cùng nhau đi qua, từ ngày nàng khăn gói theo chồng xa quê đến những tháng ngày sẻ chia buồn vui, quạt nồng ấp lạnh. Đoạn thơ vừa là lời tiếc thương, vừa là sự tri ân, lưu giữ dư âm của một tình yêu đã hóa vĩnh hằng.
Lòng thành kính của nhà thơ đối với mẹ được thể hiện qua nhiều bài thơ, qua nhiều tầng ý nghĩa, từ người mẹ trần gian – người đã nuôi dưỡng và che chở, đến mẹ quê hương – biểu tượng của cội nguồn và sự gắn bó thiêng liêng, và đỉnh cao là Đức Mẹ Maria – nguồn cội của yêu thương, lòng từ ái và đức hy sinh cho nhân loại:
"Kính chào Mẹ Maria
Trăm muôn ríu rít chim ca đầu mùa
Con thường hỏi giữa vu vơ
Bao giờ mưa tạnh? Bao giờ nước lên?"
(Con về xứ mẹ mùa hoa)
Nhà thơ đã dâng lời nguyện cầu thành kính hướng về Đức Trinh Nữ Maria – biểu tượng thiêng liêng của lòng tin và sự che chở. Hình ảnh thiên nhiên trong khổ thơ trên, với tiếng chim ca đầu mùa và khung cảnh tươi mới, thể hiện niềm hân hoan của muôn loài trong sự chào mừng Mẹ Maria. Ẩn sau những câu hỏi tưởng chừng như vu vơ “Bao giờ mưa tạnh? Bao giờ nước lên?” là nỗi trăn trở về cuộc đời, sự tìm kiếm ánh sáng dẫn lối trong những giai đoạn mịt mù của kiếp người. Nhà thơ khẳng định niềm tin mãnh liệt và sự trở về trong vòng tay yêu thương của Đức Mẹ, nơi tín hữu tìm thấy sự an ủi, hy vọng và ý nghĩa đời sống.
"Đền Vàng Quỳ Trước Dâng Hoa
Trông lên tháp bảo, thấy toà Ba Ngôi
Mười Hai Nhân Đức gương soi
Kính thân Đức Mẹ, đời đời ngửa trông.”
(Quỳ trước đền vàng)
Tâm hồn Lê Đình Bảng luôn chan chứa lòng tôn kính và yêu mến sâu sắc dành cho Đức Mẹ Maria. Hình ảnh Đức Mẹ trong thơ ông bao trùm toàn bộ đời sống tinh thần, trở thành bầu trời, mặt đất, và cả bầu khí quyển để ông được hít thở và hân hưởng trong tình yêu thương bao la của Mẹ.
"Đội ơn Đức Mẹ Môi Khôi
Cho con yêu cả nắng nôi, giãi dầu
Cũng đành áo rách thương nhau
Cái duyên cam quýt vừa sâu, vừa đằm"
(Con về xứ bưởi Năm Roi)
Đó là một đức tin thuần khiết, một tình yêu thẳm sâu không chút nghi ngại, khi Lê Đình Bảng đặt trọn niềm cậy trông vào Đức Mẹ. Ông cảm nhận được sự chở che của Mẹ ngay trong những khốn khó, để từ đó biết yêu cả những gian nan, tìm thấy sự an ủi trong từng biến cố. Chính tình yêu ấy đã làm nên sức mạnh nội tâm, giúp ông giữ vững đức tin và tiếp tục hành trình thi ca của mình trong niềm phó thác trọn vẹn.
Đức Mẹ Maria đã hiển hiện trong đời sống thiêng liêng và cả trong thế giới trần thế. Lê Đình Bảng tuyên xưng Đức Mẹ như “hoa đồng trinh” – một hình ảnh quen thuộc trong thần học và nghệ thuật Công Giáo. Hoa đồng trinh không chỉ biểu trưng cho sự thanh sạch, mà còn mang ý nghĩa thiêng liêng về sự sinh nở thánh thiện, nhắc đến biến cố Truyền Tin khi Đức Mẹ đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể: "Có phải hoa đồng trinh Đức Mẹ/ Đương vào mùa bụi phấn bay bay" (Trong khu vườn rào kín). Nhà thơ luôn thể hiện lòng tin tưởng và cậy trông vào Đức Mẹ. Cách cầu nguyện trong thơ của Lê Đình Bảng hết sức giản dị nhưng đượm đầy tâm tình của người con ngoan đạo – tín hữu tìm về nơi trú ẩn an toàn nhất của lòng tin: "Lạy xin Đức Mẹ ban ơn/ Qua mùa đói khổ, gặp cơn yên bình" (Về cõi trời mênh mang). Hay, câu thơ "Mẹ về trời, nhưng chẳng rời mặt đất/ Kính mừng Maria, Đức Mẹ Chúa Trời" (Về Carthage, nhà Mẹ yên vui) vang lên tiếng kinh nguyện, gợi nhớ Thiên thần Gabriel truyền tin cho Mẹ Maria là biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại. Đó không chỉ là lời tụng ca, mà còn xác tín vai trò của Đức Mẹ trong lịch sử cứu độ: Người là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng chuyển cầu đầy quyền năng cho nhân loại.
"Thì ra, thuở ấy, chưa xa " – Quê hương và ký ức tuổi thơ
Trong thơ Lê Đình Bảng, quê hương và ký ức tuổi thơ là miền nhớ nhung da diết, là cội nguồn của yêu thương và sức mạnh tinh thần. Thơ ông vừa chân chất, ấm áp, vừa nhắc nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Quê hương trong thơ ông không chỉ là điểm tựa mà còn là nguồn cảm hứng vô tận, là niềm an ủi và chốn nương tựa tinh thần.
Nhà thơ sinh ra tại vùng Kinh Bắc, có nguyên quán ở Thái Bình - mảnh đất lưu giữ những giá trị truyền thống nghìn năm, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc và độc đáo: “Mẹ là cổ tích, ca dao/ Câu kinh, nguyện ngắm chảy vào hồn con” (Ca dao mẹ). Đất mẹ, nguồn cảm hứng thiêng liêng, đã khắc sâu dấu ấn vĩnh cửu trong từng nhịp đập trái tim người nghệ sĩ.
Thơ Lê Đình Bảng mang đậm dấu ấn quê hương ông, đặc biệt khắc họa sinh động không gian văn hóa Kinh Bắc, gắn liền với những lễ hội dân gian, tập quán lâu đời và vẻ đẹp thiên nhiên. Một không gian phản chiếu ngàn năm văn hiến.
"Ai về Kinh Bắc xa xôi
Nhớ câu quan họ, nhớ người mình thương"
(Rước tình về với quê hương)
Kinh Bắc – mảnh đất gắn liền với những di sản văn hóa lâu đời, từ những làn điệu dân ca quan họ đến các lễ hội dân gian truyền thống, đã được Lê Đình Bảng tái hiện một cách sinh động với những hình ảnh quen thuộc của làng quê: con sông hiền hòa, cánh đồng lúa vàng, ngôi đình làng cổ kính, tiếng trống hội vang vọng, và những mái nhà tranh giản dị, ấm cúng.
"Lúc trưa nắng,về dừng chân nghỉ mát
Nghêu ngao lời ca quan họ tang bồng"
(Một khúc tang bồng);
"Liền anh liền chị vãn hát đêm qua
Mớ bảy, mớ ba, hội Lim quan họ"
(Về La Vang, nhà mẹ trăm gian)
Làn điệu quan họ trong thơ Lê Đình Bảng vừa là di sản văn hóa đặc sắc của Kinh Bắc, vừa biểu trưng cho sự thăng hoa của văn hóa dân gian. Những câu hát quan họ ngọt ngào biểu đạt tình yêu và sự gắn kết cộng đồng, trở thành yếu tố văn hóa độc đáo, là nhịp điệu của đời sống qua các thế hệ.
"Chờ câu quan họ tình tang
Là đi về chốn mình đang thuộc về"
(Nghêu ngao hát thương hồ)
"Ngồi nghe quan họ, giờ lâu
Mái ngoài, văn miếu, áo chầu lạnh tanh
Tràng An ngày trước, như tranh
Những con phố cổ Hà Thành rêu phong"
(Có ai về Tràng An)
Lê Đình Bảng tái hiện những hình ảnh giàu màu sắc và âm điệu của làng quê Bắc Bộ, qua các lễ hội tôn vinh tình yêu và sinh hoạt cộng đồng. Thơ ông gửi gắm thông điệp bảo tồn giá trị văn hóa trong bối cảnh hiện đại.
Làng quê tuổi thơ của ông hòa quyện giữa hoài niệm về những ngày tháng gieo neo vất vả và lòng biết ơn đối với cha mẹ, gia đình, làng xóm. Đó là nỗi lòng da diết của những ai đã từng lớn lên trong cảnh nghèo khó nhưng tràn đầy tình yêu thương, nơi những bữa cơm đạm bạc vẫn ấm áp tiếng cười, nơi từng mái nhà đơn sơ chất chứa bao kỷ niệm.
"Con đâu dám, ngồi ở không, trông đợi
Mẹ gánh hàng rong tất tả mỗi ngày"
(Lời mẹ ru)
Quê hương trong thơ Lê Đình Bảng là không gian lưu giữ "hồn cốt" một cộng đồng, là nơi con người luôn mong muốn trở về. Ký ức tuổi thơ với những hình ảnh giản dị là điểm tựa vững chắc, giúp kết nối cội nguồn và kế thừa những giá trị truyền thống.
"Qua lối ngõ, mãi gập ghềnh đá dặm
Nhìn hai bên sông, điên điển rực vàng
Chuyến phà bên kia, đợi khách quá giang
Mấy đọt dừa reo trong chuông nhựt một"
(Một miền ký ức)
Quê hương là dòng chảy trong mỗi trái tim, nơi ký ức là điểm tựa vững chãi, là nơi chốn để ta cảm nhận bình yên và tình yêu thương.
“Giữa hai mùa, Nam bộ, nắng và mưa
Đâu có Mẹ, là quê hương con đó”
(Mẹ và quê hương)
Quê hương không chỉ là miền đất, một địa danh cố định, mà là nơi có tình yêu thương của Mẹ. Câu thơ mở ra một cách nhìn rộng hơn về khái niệm quê hương: đó không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi trái tim ta thuộc về, nơi có người thân yêu nhất. Với những ai xa quê hương, nếu có Mẹ bên cạnh, dù ở bất cứ đâu, nơi ấy vẫn là chốn yên bình nhất.
Thơ của Lê Đình Bảng khắc họa ký ức tuổi thơ và quê hương nghèo khó qua những hình ảnh thiên nhiên bình dị nhưng đậm chất trữ tình. Tác giả không chỉ vẽ nên bức tranh quê nhà quen thuộc với những khu vườn rào kín, hoa nở rộ và những góc nhỏ chứa chan kỷ niệm, mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng của một tâm hồn luôn hướng về cội nguồn. Những dấu ấn của tuổi thơ – sự mộc mạc, thuần khiết và chan chứa niềm nhớ – được hiện lên qua hình ảnh của thiên nhiên thay đổi theo mùa, gợi nhớ đến những ngày xưa bình dị, nơi mà từng khoảnh khắc dường như chứa đựng cả niềm khát khao yêu thương và khát vọng sống.
"Người về, nẻo khuất, canh thâu
Nhớ nhung, xin gửi ơn sâu, nghĩa dày
Hỏi mùa xanh lá, xanh cây
Em ơi, nụ biếc, cành đầy măng tơ
Nhà em sau bụi ô rô
Đứng trên bậc đá nhà thờ ngó nghiêng"
(Quê nhà)
Đoạn thơ dưới đây mở ra một không gian ký ức tuổi thơ mộng mơ, nơi những hình ảnh thiên nhiên thấm đượm tình yêu, nhớ nhung và khát khao sống, trở thành biểu tượng cảm xúc sâu sắc vượt thời gian:
"Suốt mùa hoa, dưới chân đê, thả nghé
Tuổi thơ ta ru vời vợi cánh diều
Ở quê, mình những trộm nhớ, thầm yêu
Con nhện giăng tơ, chờ hoa, chờ nụ"
(Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ)
Những giá trị tinh thần được nuôi dưỡng qua ký ức càng trở nên thiêng liêng và trân quý. Không gian quê hương và ký ức tuổi thơ trong thơ Lê Đình Bảng là nơi lưu giữ những kỷ niệm ngọt bùi, là nguồn động lực giúp con người vượt qua khó khăn và tìm lại chính mình mỗi khi lạc lối giữa dòng chảy thời gian. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện niềm tin vào sức mạnh của ký ức – một sức mạnh có thể thắp sáng cả những con đường mịt mờ, gợi mở những ước mơ giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
“Con bé bỏng suốt đời trong mắt Mẹ
Và măng tơ, vừa xanh nụ, xanh chồi
Cứ ngỡ bầu trời là mảnh sân chơi
Một ông sáng sao, hai ông sao sáng
….
Câu hát ấy của một thời xa vắng
Những đêm trăng tuổi mọn ở quê nhà
Ai khôn thì về, ai dại thì xa
Thả đỉa ba ba, nhớ cha, nhớ Chúa”
(Những mùa trăng tuổi mọn)
Trong thơ Lê Đình Bảng, quê hương là nơi lưu giữ những ký ức tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên; đó là thế giới của những trò chơi con trẻ, của bầu trời rộng lớn tưởng chừng chỉ là một mảnh sân vui đùa, nơi từng ánh sao cũng trở thành người bạn đồng hành trong những đêm tuổi thơ. Nhưng sâu thẳm hơn, quê hương đã hóa thân vào hình ảnh Người Mẹ - một biểu tượng dịu dàng, chở che và mãi mãi dang rộng vòng tay yêu thương. Nỗi nhớ quê nhà là sự trở về với cội nguồn, với tình yêu thương vô bờ bến của mẹ và đức tin đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ. Trong dòng chảy ký ức ấy, quê hương không chỉ là nơi chốn, mà trở thành một phần tâm hồn, một miền thiêng liêng không thể phai mờ, nơi tình mẹ hòa quyện cùng tình Chúa, nâng đỡ con người suốt hành trình cuộc đời.
"Triết lý, nhân sinh gửi lại đời " – Triết lý nhân sinh và nỗi niềm nhân thế
Thơ Lê Đình Bảng thấm đẫm triết lý nhân sinh, phản ánh những trăn trở về thân phận con người, thời cuộc và lịch sử. Tác phẩm của ông vừa tái hiện những biến động xã hội vừa gợi mở những suy tư về bản chất của sự sống, tính vô thường của thời gian và nỗi lênh đênh của phận người; đồng thời biểu đạt nền tảng của đức tin, là điểm tựa tinh thần giúp con người đối diện với thế sự xoay vần, vượt qua thử thách và tìm kiếm ý nghĩa cứu rỗi trong dòng chảy lịch sử và vận mệnh cá nhân.
"Mỗi ngày, tập đi đàng nhân đức
Bằng cả trăm năm ở thế gian"
(Một ngày ở trong nhà Chúa)
Trong sáng tác của Lê Đình Bảng, thể loại trường ca giữ vai trò quan trọng để biểu đạt đức tin, đồng thời kết tinh tư tưởng và hệ hình thẩm mĩ. Các trường ca như "Nghêu ngao hát thương hồ" (gồm 130 khổ thơ), "Nhật nguyệt hành" (541 khổ), "Những cơn bão muộn" (670 khổ), và "Trong cõi vô ngôn" (162 khổ) đã khắc họa chân thực thân phận con người trong dòng thời gian và những biến động thời cuộc. Những bão tố trong cuộc đời và hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trong sự chiêm nghiệm đã tạo nên những tác phẩm mang vẻ đẹp trầm lặng, giàu suy tưởng.
Câu hỏi về sự vô thường của cuộc đời và vai trò của con người trong dòng chảy thời gian được đặt ra trong trường ca "Nghêu ngao hát thương hồ". Tác giả trăn trở về kiếp người phiêu dạt, một đời sống gắn liền với sông nước, con đò, nơi con người dường như bị cuốn theo sự vô định và không thể làm chủ số phận mình:
"Quanh năm, làm kiếp thương hồ
Nước sông, gạo chợ, con đò lênh đênh
Ai về bờ bãi chông chênh
Tình tang, qua mấy những bềnh bồng thôn"
(Nghêu ngao hát thương hồ)
Trường ca "Nhật nguyệt hành" thể hiện triết lý về thời gian và sự thăng trầm của cuộc đời qua hình tượng nhật nguyệt – biểu trưng cho sự xoay vần không ngừng của vũ trụ. Tác phẩm khắc họa dấu ấn thời cuộc, phản ánh những biến động của con người và xã hội. Thời gian, với quy luật tuần hoàn, đặt con người trước những đổi thay bên ngoài lẫn những biến chuyển nội tâm. Trong vận hành của "nhật nguyệt", mỗi cá nhân bị cuốn vào dòng chảy sự sống, buộc phải đối diện với những đấu tranh nội tại và tìm cách hòa nhập vào cuộc thế. Ở trường ca này, Lê Đình Bảng thể hiện sự giằng xé khi đối diện với sự thay đổi không ngừng của vạn vật. Quá khứ, như dòng sông lùi mãi về xa, khiến con người cảm thấy lạc lõng và bơ vơ trong một thế giới đầy biến động. Con người trong cơn biến động ấy phải đối diện với nỗi sợ bị lãng quên, bị tách khỏi quá khứ và quê hương. Đây là không gian đầy khắc khoải, phơi bày những nỗi cô đơn, mất mát, và khát vọng khôi phục, nối kết với quá khứ.
"Để lưu giữ vững bền một quá khứ
Lục bình trông tím ngắt cả dòng sông
Hỏi quê nhà, còn nhớ, nhớ ta không
Thuở trước, nhìn nhau, đầm đìa nước mắt"
(Nhật nguyệt hành)
Những biến động của thời cuộc và con người trong các thập kỷ đầy xáo trộn cũng được khắc họa rõ nét trong trường ca "Những cơn bão muộn". Hình ảnh cơn bão, ngoài sức mạnh tàn phá thực tế, còn tượng trưng cho những dông tố trong cuộc đời, những vật lộn tranh đấu ngoại tại và nội tại, những ước mơ và khát vọng chưa thành.
"Vẫn biết ở bên bờ sóng gió
Bồn chồn, ai biết thuở nào khuây
Chờ thêm mùa lũ, sau cơn bão
Để đất bồi lên những luống cày
...
Nước mắt chực rơi, rồi chững lại
Ra sông và ra biển, bao giờ
Mẹ vun lại vồng, sau cơn bão
Từng khúc sông sạt lở, vỡ bờ"
(Những cơn bão muộn)
Nhà thơ bày tỏ tâm tư về sự biến thiên của thời cuộc, về quá khứ và hiện tại, về những mất mát và hy vọng; đó là những chìm nổi mà con người phải trải qua trong hành trình tìm lại sự bình yên. Dẫu có cả những bồn chồn và những giọt nước mắt hoang mang trước nghịch cảnh, nhưng qua hình ảnh "đất bồi lên những luống cày" hay "mẹ vun lại vồng", cho thấy sự kiên trì và khát vọng tái sinh, mong chờ sự phục hồi sau những bão tố. Song những vần thơ này cũng gói ghém cảm giác ngậm ngùi thế sự của tác giả, như một nỗi trăn trở trước dòng chảy vô thường của cuộc đời, nơi mà mất mát và hy vọng luôn đan xen.
Ở trường ca "Trong cõi vô ngôn", Lê Đình Bảng vẽ lên bức tranh sống động về cuộc đời con người qua những giai đoạn thử thách, tìm kiếm sự cứu rỗi, và đối diện với bi kịch nhân sinh. Dưới vẻ trầm lắng, mỗi câu thơ tự sự như những dấu tích của đời sống, đồng thời cũng phản chiếu khát vọng giải thoát và niềm tin vững chắc vào sự trở về.
"Lặng thầm trong cõi vô ngôn ấy
Như luống cày trên ruộng nẻ khô
Chúa bảo con đi, đừng ngoái lại
Làm sao nước lã vã nên hồ
Nhưng không, ơn Chúa ban nhiều quá
Mặt đất này sinh sôi tốt tươi
Con được trầm mình trong giếng thánh
Làm hoa, con lại được làm người"
(Trong cõi vô ngôn)
Trường ca "Trong cõi vô ngôn" cho ta thấy cảm giác bất định và khiêm nhường trong mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa. Nhà thơ dẫn ta vào cõi vô ngôn, nơi tình yêu của Thiên Chúa không đến với ta bằng ngôn từ, mà lan tỏa trong sự thinh lặng thiêng liêng, trong những rung động sâu thẳm của tâm hồn, nơi con người lắng nghe và cảm nhận bằng đức tin và trái tim hơn là bằng lý trí. Tác phẩm thấm đẫm triết lý nhân sinh này phản ánh nỗi day dứt trước cuộc sống đầy bất công và thách thức, đồng thời cũng dẫn đến hành trình tìm kiếm sự cứu rỗi. Dòng tự sự này khắc họa quá trình lạc lối, đấu tranh với bản thân và thế giới, rồi cuối cùng sự cứu rỗi của Chúa chính là hy vọng, là điểm tựa giúp con người vượt lên số phận, khổ ải và nguy nan.
Thơ Lê Đình Bảng cũng phản ánh những biến động xã hội, những nỗi đau chiến tranh và khát vọng hòa bình. Nhà thơ đề cập đến những sự kiện lớn của dân tộc, những cuộc chiến tàn khốc và những mất mát mà con người phải gánh chịu. Tuy nhiên, thơ ông không chỉ phản ánh những khía cạnh u ám, buồn thương mà còn thể hiện khát vọng mạnh mẽ về sự hồi sinh.
"Nhưng làm sao cấm tôi chờ đợi
Trong chiến tranh, mới hiểu ngậm ngùi
Cây khế đầu hồi đương nhú quả
Hình như ai đến, báo tin vui"
(Ngược dòng)
Một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ ông là sự hòa quyện giữa triết lý nhân sinh và hình ảnh thiên nhiên. Những dòng sông, cơn bão, cây cối, chim muông… không chỉ là cảnh vật mà còn mang tính triết lý, ẩn chứa những suy tư về cuộc đời. Thơ ông thấm đượm một nỗi buồn trầm lắng, man mác trước sự không hoàn hảo của kiếp nhân sinh, nhưng đồng thời cũng khơi dậy niềm hy vọng vào hành trình tìm kiếm ý nghĩa giữa dòng chảy vô thường.
"Tiếng của thiên nhiên, mùa màng, thời vụ
Tiếng của đồng xanh, bóng cả, cây cao
Tiếng gió reo vui như mận, như đào
Vội ghi chép, để truyền đời, san sẻ"
(Di sản)
Nhà thơ không né tránh những vấn đề xã hội mà thay vào đó, ông sử dụng thơ như một công cụ mạnh mẽ để khám phá và diễn giải những biến động của thời gian và ngoại cảnh. Thơ của ông vừa phản ánh hiện thực vừa gợi mở những suy ngẫm sâu sắc về những chuyển biến không ngừng của thời cuộc, thiên nhiên và vũ trụ. Những hình ảnh và tình huống trong tác phẩm của ông gợi mở suy tư về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, giữa hiện tại và quá khứ, giữa hữu hạn và vô tận.
"Chuyện vũ trụ, chuyện nhân sinh, thời cuộc
Cây cỏ muôn loài, bờ bãi, khe truông
Sợi tóc trên đầu, dâu bể, tang thương
Quy luật tuần hoàn, hoá sinh, trụ diệt
Việc của Chúa, Chúa làm, nào ai biết
Bởi thiên nhiên là bàn tiệc ê hề
Dọn bày ra, cho ăn uống thoả thuê
Để nếm trải đủ ngọt bùi thế sự"
(Kinh Cáo mình)
Thơ Lê Đình Bảng mở ra không gian rộng lớn, khơi gợi những chiêm nghiệm về sự vô thường, đồng thời mời gọi con người sống có ý nghĩa trong dòng chảy bất tận của thời gian. Đây là hành trình khám phá bản thể con người khi đối diện với thời gian và những biến động lịch sử, nó giúp người đọc tìm thấy những bài học quý giá về sự sống, cái chết và những giá trị tinh thần.
"Đợi cả thiên nhiên nở một lần " – Thiên nhiên và cái đẹp
Trong thơ Lê Đình Bảng, ánh sáng Thiên Chúa luôn chiếu rọi cuộc sống con người, làm rạng rỡ vẻ đẹp thiên nhiên và ban cho nó khí sắc thiêng. Vẻ đẹp ấy biểu lộ tình yêu vô biên và sự quan phòng của Thiên Chúa, khiến mỗi hình ảnh thiên nhiên trở thành minh chứng sống động cho sự hiện diện của Đấng-Sáng-Tạo.
"Con hát lời hoan ca, thánh vịnh
Hàng hàng châu ngọc, những thi thiên
Cùng muông chim, cỏ hoa, trời đất
Là nhã ca và sách Khải Huyền"
(Về suối miền Nam)
Thiên nhiên mở ra những suy tưởng về sự hòa hợp giữa con người và Thượng Đế. Vẻ đẹp thiên nhiên hiển lộ trong ánh sáng bao phủ, kết nối thế giới trần gian với thiên đàng, nơi con người tìm thấy hạnh phúc trong Đức Mến.
Thơ ông cũng khơi mở một miền ký ức thiêng liêng, nơi con người cảm nhận sự yên bình và hòa hợp:
"Bằng lăng rợp hai bờ kinh thăm thẳm
Ấy là nơi, sông chia nhánh, cắm sào
Hai vai đầy cành lá mướt lên cao
Tiếng cá quẫy dưới ao nhà tanh tách"
(Một miền ký ức)
Những thi ảnh đó in dấu sự thân thuộc, hòa quyện trong ánh sáng và thanh âm kỳ diệu của sự sống.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông mang tính biểu tượng, mở ra không gian an bình, chan chứa tình yêu thương của Chúa. Vẻ đẹp do Đấng Sáng Thế tạo nên trở thành lời mời gọi con người quay về với lòng bác ái, sự tha thứ và khát khao ơn cứu rỗi, hòa hợp trong nhịp điệu của vũ trụ.
"Về suối miền Nam, bên mé nước
Của trời cho, vô tận, vô vàn
Một ngày được ở trong nhà Chúa
Con sẽ đàn ca lên, hát vang"
(Về suối miền Nam);
"Chúa đến với tôi, như một làn gió
Cứ phiêu diêu và ẩn hiện, không chừng
Dặm thẳng, đường quanh, uốn khúc, vòng cung
Đất và nước, cùng cỏ cây, hoa lá"
(Khi Chúa đến với tôi)
Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Lê Đình Bảng là lời ngợi ca công trình kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi hình ảnh, dù bé mọn hay tráng lệ, đều mang dấu thiêng, gợi mở suy tư về đức tin và khát vọng hòa quyện trong tình yêu của Đấng Tối Cao. Qua đó, tác phẩm tạo nên một giai điệu tâm linh, nơi sự huyền nhiệm của vũ trụ hòa quyện với ánh sáng Kitô giáo, mở ra không gian thiêng liêng đầy cảm nghiệm.
Khái quát đặc trưng thi pháp
Thơ Lê Đình Bảng chịu ảnh hưởng của thi pháp Thơ Mới, với khuynh hướng đề cao cảm xúc cá nhân và khắc họa cái tôi trữ tình trong sự giao thoa giữa nội cảm và suy tưởng. Ông khai thác đa dạng miền tâm trạng, từ nỗi buồn, sự cô đơn đến khát vọng yêu thương và niềm vui sống, tạo dựng một thế giới thi ca giàu tính triết lý và chiều sâu nội tâm. Thơ ông là sự kết hợp hài hòa giữa nhạc điệu và hình ảnh tượng trưng, đồng thời là sự giao thoa giữa tinh thần lãng mạn và tư tưởng Kitô giáo, định hình nên một phong cách riêng giàu tính thiêng.
Lê Đình Bảng vận dụng phong phú các biểu tượng Công Giáo như Kinh Thánh, Kinh Nguyện, Thánh Giá, dòng suối, ngọn nến, ánh sáng, đại dương cùng những biểu tượng trong văn hoá dân gian Việt Nam đã khắc họa sự màu nhiệm của Thiên Chúa mà không cần nói đến phép màu. Những biểu tượng này vừa mang ý nghĩa trực quan vừa gợi mở suy niệm về đức tin, ân sủng và hành trình cứu độ. Thơ ông khiến người đọc cảm nhận Thiên Chúa gần gụi hơn và thế giới thiện lành hơn.
"Suối nguồn, như gấm, như hoa
Mở phơi, thấm đẫm sương sa đất trời
Từ trong mạch giếng sâu khơi
Dấu yêu, ngọt mật. Chúa ôi, dịu dàng"
(Suối nguồn)
Biểu tượng Thánh Giá trong thơ Lê Đình Bảng thể hiện sự hy sinh cao cả của Chúa và lòng thương xót vô biên dành cho nhân loại:
"Chúa vẫn treo mình trên thánh giá
Máu còn nhuộm đỏ thắm hồn con
Đội ơn lòng Chúa luôn thương xót"
Từng bước con đi, dẫu mỏi mòn"
(Nguyện thầm)
Thánh Giá không chỉ gợi nhắc nỗi đau và sự cứu chuộc, mà còn trở thành điểm tựa tâm linh, nâng đỡ con người trong hành trình đức tin. Đó là dấu ấn của tình yêu thiêng liêng, truyền sức mạnh và niềm an ủi cho những ai đang đối diện với thử thách, giúp họ kiên vững tiến bước dù cuộc đời đầy gian nan.
Biểu tượng Kinh Nguyện thể hiện niềm tin và sự kết nối thiêng liêng giữa con người với Thiên Chúa. Hình ảnh thiên nhiên hòa quyện với lời kinh tạo nên không gian thiêng liêng, nơi tâm hồn tìm thấy sự che chở, bình an và hy vọng:
“Con về đây, ngước trông lên
Mẹ - ngôi sao sáng giữa đêm tối trời”
(Kinh Nguyện La Vang);
"Chim non ríu rít lời kinh nguyện
Ta, kẻ chầu nhưng đọc thánh thư
(Cõi thiêng)
Trong thơ Lê Đình Bảng, các biểu tượng văn hóa dân gian Việt Nam mang đậm sắc thái tôn giáo và lịch sử. Những hình ảnh quen thuộc như sông, núi, giếng nước, sân đình, cây đa, bến nước, cây tre, cây lúa, hoa sen... đều hiện diện trong thơ ông, tạo nên một không gian văn hóa đa tầng và đặc sắc. Cảm hứng tôn giáo kết hợp với cảm nhận về quê hương và lịch sử được thể hiện rõ qua những câu thơ giàu hình ảnh:
"Muôn dân nước, đủ màu da, tiếng nói
Nhưng cùng chung một Mẹ Maria
Mẹ ở đầu làng, bến nước, cây đa
Mẹ tít trên non, Mẹ trong hốc đá"
(Mẹ và quê hương)
Những hình ảnh giản dị mà thiêng liêng ấy thể hiện sự gắn kết sâu sắc giữa con người, tín ngưỡng và thiên nhiên, mang đến một cảm thức về sự bình dị và vĩnh hằng của Mẹ Maria, gắn liền với những không gian quen thuộc trong đời sống văn hóa của người Việt.
Một trong những hình ảnh gây ấn tượng mạnh với tôi trong thơ Lê Đình Bảng là "đóa từ tâm" – biểu tượng cho tình yêu, lòng nhân ái và sự thanh tịnh. "Từ tâm" không chỉ gợi lên ý nghĩa lòng từ bi, vị tha mà còn hàm chứa tình yêu thương trọn vẹn noi gương Đức Kitô và Đức Mẹ Maria, trong khi "đóa" tượng trưng cho sự nở rộ của ân sủng, vẻ đẹp tinh thần được nuôi dưỡng bởi đức tin. Hình ảnh này gắn liền với đời sống đạo hạnh, sự an lạc nội tâm và khát vọng dâng hiến. Trong bài thơ "Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ", "đóa từ tâm" trở thành biểu tượng của tình yêu thuần khiết, bền bỉ và thầm lặng, không vội vàng mà kiên nhẫn chờ đợi, tựa như lòng mến dâng đầy sự khiêm nhường và tin tưởng. Đây chính là biểu trưng của tình yêu dâng hiến, hòa quyện với đức tin và ánh sáng thiêng liêng:
"Em vẫn thế, là con chiên của Chúa
Trong vườn thiêng, rào kín rất lặng thầm
Ôi, ước gì, Em là đoá từ tâm
Tôi an trú một đời yên ấm mãi"
(Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ)
Đến bài "Ngọc lan hương", "đóa từ tâm" khắc họa hành trình chuyển hóa tinh thần - từ những cảm nhận trần thế đến sự giác ngộ trong tình yêu Thiên Chúa - nơi con người tìm thấy bình yên và viên mãn trong đức tin:
"Lệ mùa rơi đóa Thu phong ấy
Hương ngọc lan ủ dưới gối nằm
Chợt nửa khuya, mơ hồ tỉnh giấc
Đêm thơm như là đoá từ tâm"
Sự gian giao thoa giữa trần gian và cõi thiêng, nơi tình yêu con người chuyển hóa thành tình yêu Thiên Chúa là những nết đặc sắc trong thơ Lê Đình Bảng.
“mùa thương, mùa nhớ, mùa vui đấy
Mùa của bồ câu yêu thóc phơi
Cơm bạc, cơm vàng rơi vãi hết
Từ Em như cây cải về trời
….
Chợt nhớ, mỗi lần lên rước lễ
Tôi bâng khuâng một thoáng, Em nhìn
Trời ơi, đôi mắt buồn u ẩn
Hai trái tim cùng một đức tin”
(Lời tự tình của bến trần gian)
Những hình ảnh thân thuộc như "bồ câu yêu thóc phơi" hay "cơm bạc, cơm vàng" mang hơi thở cuộc sống đời thường, nhưng đồng thời cũng gợi đến sự buông bỏ, dâng hiến, như một hành trình "về trời". Tình yêu trần thế không mất đi mà chuyển hóa thành một trạng thái tinh khôi hơn, nơi sự gắn kết giữa con người được soi rọi bởi ánh sáng đức tin. Khoảnh khắc "lên rước lễ" trở thành giây phút nhận thức sâu sắc về sự hiện diện của nhau không chỉ trong đời sống tình cảm mà còn trong hành trình tâm linh. Cái nhìn bâng khuâng của nhân vật trữ tình trước đôi mắt "buồn u ẩn" của người mình thương không còn thuần túy là cảm xúc nhân gian, mà đã mang một sắc thái thiêng liêng. Hai trái tim vẫn rung động, nhưng giờ đây không chỉ hướng về nhau, mà cùng hòa chung một đức tin, một tình yêu lớn lao hơn. Ở đó, tình yêu con người được nâng lên một tầng ý nghĩa cao hơn - trở thành sự đồng điệu trong đức tin, hòa trong ánh sáng thiêng liêng.
Điểm nổi bật nữa trong thơ Lê Đình Bảng là sự phong phú của chất liệu văn hóa dân gian Việt Nam. Ông thường sử dụng thể lục bát – thể thơ truyền thống quen thuộc, gắn bó với tâm hồn người Việt, đồng thời khéo léo đưa vào đó những hình ảnh, điển tích và phong vị dân dã. Ngôn ngữ trong thơ ông giản dị mà tinh tế, tạo nên những câu thơ nhẹ nhàng, mượt mà như làn điệu quan họ “Người ở đừng về”, lại rưng rưng một thứ chia xa, khiến người ta phải ngậm ngùi
"Thôi người ở lại dương gian
Có đem nhung nhớ đời dan díu này
Để gieo hết hạt trong tay
Phơi phong hết nắng những ngày đương xuân"
(Ta còn để lại gì không)
Sự kết hợp giữa văn hóa Công Giáo và chất liệu dân gian truyền thống tạo nên một thế giới thơ vừa có chiều sâu tâm linh, vừa khắng khít, thân thuộc. Giọng thơ của Lê Đình Bảng thường mang âm hưởng nguyện cầu, thể hiện sự khiêm cung trước Thiên Chúa và tự thấy mình không xứng đáng để nhận ân điển của Ngài.
"Tôi đâu dám ngửa tay, xin điềm lạ
Bởi biết mình, loài cỏ rác vãi vương
Có là chi mà đáng để Chúa thương
Tôi rách rưới và ăn đong từng bữa"
(Tôi đâu dám xin)
Thơ ông mở ra cảnh giới vừa thực vừa mộng, với những hình ảnh thân quen giàu sức gợi. Ông không dụng chữ cầu kỳ hay bóng bẩy, mà chọn lối diễn đạt chân tình, chạm tới trái tim người đọc. Sự giản dị này giúp những ý tưởng lớn lao về đức tin và tình yêu trở nên gắn bó. Những câu thơ như "Chúa dạy con giục lòng ăn năn tội/ Vì bẩm sinh, mang trăm nỗi đoạn trường/ Ôi, tội hồng ân đã sớm đau thương/ Phải ra sức, tập đi đàng nhân đức" (Cho con theo dấu bước của Người) mang tính triết lý sâu sắc nhưng vẫn dễ đi vào lòng người. Thi pháp đặc sắc này của Lê Đình Bảng không chỉ làm phong phú thêm diện mạo thơ Công Giáo đương đại mà còn là gợi ý quý giá cho những cây bút trẻ muốn dấn thân vào con đường thi ca tâm linh.
* * *
Thơ Lê Đình Bảng đóng vai trò quan trọng trong dòng chảy văn chương Công Giáo, và có chỗ đứng xứng đáng trong thơ Việt Nam đương đại. Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Công Thuấn đã nhận xét: "Lê Đình Bảng vẫn làm thơ truyền thống, nhưng đã nâng phẩm chất nghệ thuật của thơ truyền thống Việt lên một bước mới, đó là sự kết hợp mỹ học truyền thống với mỹ học Thiên Chúa giáo đậm chất Việt. ". Tác giả góp phần làm phong phú và khẳng định vị trí của thơ Công Giáo trong nền thi ca nước nhà. Nếu như thế hệ trước có các nhà thơ Công Giáo tiêu biểu như Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng, Xuân Văn... thì Lê Đình Bảng tiếp nối và mở rộng biên độ sáng tạo, ca ngợi đức tin và đào sâu những suy tư triết học, nhân sinh. Những tác phẩm của ông khơi dậy ý thức về đức tin, không chỉ dành riêng cho tín hữu mà còn lan tỏa đến những ai trăn trở về ý nghĩa cuộc đời, về sự hiện hữu và lòng biết ơn Thượng Đế. Bên cạnh đó, thơ Lê Đình Bảng tạo ra cầu nối giữa văn thơ Công Giáo và văn hóa dân tộc, nó không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh sáng tạo mới.
Nhiều bài thơ của Lê Đình Bảng được phổ nhạc, trở thành những bài thánh ca vang lên trong đời sống phụng vụ và tâm hồn tín hữu Công Giáo Việt Nam. Chính sự kết hợp hài hòa giữa thi ca và âm nhạc đã làm cho thơ ông vượt ra khỏi giới hạn của một thể loại văn học đơn thuần, trở thành một phần của đời sống tâm linh, đồng hành cùng những giờ cầu nguyện và suy niệm của tín hữu. Với những đóng góp lớn lao đó, thơ Lê Đình Bảng trở thành một phần quan trọng trong dòng chảy thơ ca Việt Nam đương đại, mở ra những hướng đi mới cho thơ Công Giáo trong thời đại hôm nay.
* * *
Thơ của Francis Assisi Lê Đình Bảng là thế giới của đức tin, nơi mỗi vần thơ là lời nguyện ca dâng lên Thiên Chúa. Đó là hành trình suy niệm về ân sủng, tình yêu và ơn cứu độ, qua đó khẳng định và củng cố mối hiệp thông giữa con người với Đấng-Tối-Cao cũng như tình huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu. Không chỉ mang chiều kích tâm linh, thơ ông còn khắc họa đời sống bình dị, nơi ký ức tuổi thơ, tình yêu gia đình và quê hương trở thành những giá trị vĩnh cửu, nuôi dưỡng tâm hồn con người. Nhà thơ cũng đồng thời mở ra cuộc đối thoại với thời gian, con người và lịch sử. Hành trình thi ca của ông là sự dâng hiến, nơi mỹ học tôn giáo giao thoa hài hòa với mỹ học dân tộc. Thơ Lê Đình Bảng đang tiếp tục lan tỏa, trở thành nguồn cảm hứng cho những thế hệ sau.
Những bài thơ của ông đã và sẽ tiếp tục vang lên, không chỉ trong lòng tín hữu mà còn trong tâm hồn những ai kiếm tìm ý nghĩa và sự cứu rỗi trong cuộc sống. Cá nhân tôi luôn dành cho thơ ông sự yêu mến và ngưỡng mộ. Qua những vần thơ ấy, tôi học được cách kết hợp nhuần nhị giữa đức tin và nghệ thuật, giữa chiêm nghiệm tâm linh và sáng tạo thi ca. Xin kính chúc ông luôn tràn đầy ơn phúc, tiếp tục sáng tạo và để lại cho đời thêm nhiều di sản thiêng liêng.
Nhà thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng là cây bút Công Giáo. Ông sinh ngày 17/9/1942 tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyên quán: Thọ Cách, Thụy Anh( Thái Thụy), Thái Bình.
Học Tiểu chủng viện Thái Bình, Phan Rang (1954-1957); Tiểu chủng viện Phan-xi-cô Xavie Bùi Chu (1957-1960); Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh, Sài gòn;
Đại Học Văn Khoa Sài gòn (1961-1965, 1967-1975); Cử nhân Giáo Khoa Văn Chương Việt Hán, Đại Học Sư Phạm Ban Việt Hán; Cao Học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.
Ông từng là thành viên, ủy viên các Ban thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam: Ủy Ban Thánh Nhạc, Ủy Ban Phụng Tự, Ủy Ban Giáo Dân, Ủy Ban Văn hóa, Ủy Ban loan báo Tin Mừng.
Lê Đình Bảng là cây bút đa tài, hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết văn xuôi, tùy bút, nghiên cứu, sưu tầm, phê bình văn học, Thánh Nhạc Thánh Ca, biên soạn giáo trình văn học, gia phả học, báo chí…
Ông đã xuất bản: "Những dặm dài hành hương" (Trường ca lục bát về cuộc di cư từ Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Phủ Lý, Hà Nội và Hải Phòng, Sài gòn, 1954-1955); "Lưu đày" (Thơ nguyện cầu. Phan Rang, 1956-1957. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Lời con dâng" (Thơ nguyện cầu. Phan Rang, 1957. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Lộc trời" (Thơ nguyện cầu. Sài gòn, Gia Định, 1958-1961. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Bước chân người Giao Chỉ" (Thơ. Bút hiệu Đỳnh Bảng. Sài gòn, 1967); "Đêm Rất Thánh" (Tuỳ bút. Quà tặng học trò, 1969); "Kinh Sầu" (Thơ nguyện cầu. Long Xuyên, Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang, 1965-1969); "Hiện tượng lục bát trong thi ca Việt Nam" (Tiểu luận. Sài gòn, 1970); "Giảng văn - Văn học sử Việt Nam - Phương pháp nghị luận" (Giáo trình giảng dạy Quốc văn các lớp Đệ Nhất và Đệ Nhị cấp, ban ABCD. Sài gòn, 1963-1975); "Chuyên Hóa - Sinh hoạt học đường" (Giáo trình giảng dạy các lớp 10,11,12. Sài gòn, 1972-1975. Giảng khoá Giáo chức Tư thục Công Giáo Việt Nam tại Sài gòn, Mỹ Tho và Ban Mê Thuột, 1970-1974.); "Dưới cờ" (Thơ, 1972); "Gia phả Lê tộc" (Điền dã và ghi chép tại Sài gòn, Gia Định, Đồng Nai, Long Xuyên, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, 1976-1986); "Vòng quanh xứ đạo" (Bút hiệu Lê Quán Thư. Bút ký lịch sử các xứ đạo – nhà thờ tại Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định, 1988-1991); "Hành hương" (Thơ, Sài gòn, 1994); "Ngôn ngữ Nhà Đạo" (Bút hiệu: Mộ Dung, Thuỵ Anh, Người Sông Hoá, Nhất Kiếm, Quốc Chính, Ngũ Kinh. Tạp bút chuyện văn hoá nhà đạo, 1988-1995); "Thánh ca Hoài Đức – Một thời để nhớ" (Biên khảo, 1994-2002); "Chuyện đất và người làng Thọ" (Bút ký gia phả học, 2005); "Thiên đường của loài chim sâu" (Tuyển tập truyện ngắn, bút hiệu Thuỵ Anh, Lại Thị Hương Nhu, Sài gòn, 1963-2007); "Hành hương" (Thơ tái bản, Nxb. Tôn Giáo, 2006); "Những tháng ngày không quên" (Sổ tay Hát Lên Mừng Chúa - Bút hiệu Lê Quán Thư. Ghi nhận mọi sinh hoạt lịch sử, sáng tác, hội thảo, biểu diễn, giảng dạy Thánh nhạc Thánh ca qua những chặng đường lịch sử từ 1990); "Kinh trong sương" (Tuyển tập thơ Công Giáo. Hợp soạn với Trăng Thập Tự, Phan xi cô, Cao Huy Hoàng, 2007); "Các giám mục nước ngoài phục vụ tại Việt Nam" (Biên khảo lịch sử Công Giáo. Hợp soạn với Lê Ngọc Bích và Lê Thiện Sỹ, Nxb. Tôn Giáo, 2009); "Ở thượng nguồn thi ca Công Giáo Việt Nam" (Sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu thi ca Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ (thế kỷ XVI) đến hiện đại. Toàn bộ gồm 6 Tập, trên 4000 trang, với 6 chủ đề: Thơ trong Kinh nguyện; thơ cầu nguyện; thơ Phúc Âm diễn ca; thơ Huấn ca; thơ Ký Ức dòng đời và thơ trong Thánh nhạc thánh ca. Nxb. Tôn Giáo, Đông Phương, 2009); "Quỳ trước đền vàng" (Thơ. Nxb. Tôn Giáo, 2010); "Văn học Công Giáo Việt Nam – Những chặng đường" (Biên khảo lịch sử văn học Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ (thế kỷ XVI) đến hiện đại. Nxb. Từ Điển Bách Khoa, 2010); "Như hương trầm bay lên" (Biên khảo về Hàn Mạc Tử. Hợp soạn với Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, 2010); "Nhã ca La Vang" (Tuyển tập thi ca về Đức Mẹ La Vang (1901-2014); "Gặp gỡ những dòng sông" (Tạp bút, Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Về bên mẹ – Vào đời – Nói với những người đang yêu" (Bút ký, tâm tình với khách hành hương La Vang (1998-2014); Giáo trình giảng dạy các lớp Vào Đời, Nhân Bản và Giáo Lý Hôn Nhân (1988-2016) tại các nhà thờ giáo xứ tại Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Xuân Lộc, Đà Lạt, Bình Dương, Long Xuyên, Nha Trang, Qui Nhơn, Huế... "Lời tự tình của bến trần gian" (Thơ. Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Đội ơn lòng chúa bao dung" (Thơ, 2012); "Lời khấn nhỏ chiều chúa nhật" (Thơ, Nxb, Tôn Giáo 2012); "Về cõi trời mênh mang" (Thơ, Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Hành trình một trăm năm (1908-2008) Báo chí Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo về Lịch sử Báo chí Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện đại. 2008-2012); "Nửa vòng trái đất vừa xa vừa gần" (Tạp bút du ký Hoa Kỳ, Nxb Tôn Giáo, 2014); "Ơn đời một cõi mênh mang" (Thơ, Nxb Tôn Giáo); "Đồng dao Nước Trời" (Tuyển tập Thơ và Nhạc với Nhạc sỹ Hồ Đăng Tín, Nxb Tôn Giáo, 2014); "Vè vãn ca ngâm Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo, Nxb. Đồng Nai, 2015). Lê Đình Bảng đã hoàn tất một số tác phẩm như "Quê Người" (Thơ), "Dâng Hoa Toàn Tập" (Biên khảo), "Lục Bát Thương Hồ" (Thơ); "Dặm Dài Nghêu Ngao" (Thơ), "Ca Dao Mẹ" (Thơ); "Văn Hoá Lễ Hội Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo), "Ở Một Cõi Nào" (Thơ), "Tản Mạn Chuyện Văn Hoá Công Giáo" (Tạp bút), "Lòng Đạo Dân Gian Của Người Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo) và dự định sẽ xuất bản trong tương lai. (Tư liệu do tác giả cung cấp).
Hải Phòng - Phát Diệm, 10/2/2025
M.V.P
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Hồng (2018), Giọng điệu giãi bày trong thơ Công Giáo Việt Nam hiện đại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Kim Hồng (2018), Biểu tượng trong thơ Công Giáo Việt Nam hiện đại, Tạp chí Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Vy Khanh (2023), Sơ thảo Văn học Công Giáo Việt Nam, Nguyễn Publishing, Toronto, Canada.
4. Cảm thức hiện sinh hữu thần trong tập thơ "Hành hương" của Lê Đình Bảng. Hội dòng Nữ tu Thừa sai Đức Mẹ Trinh Vương.
5. Khải Triều (2022), Những nhà thơ Công Giáo Việt Nam hiện nay, Lưu hành nội bộ, Thư viện Mân Côi.
6. Bùi Công Thuấn (2020), Những mùa vàng văn học Công Giáo Việt Nam, NXB Hội Nhà văn.
7. Bùi Công Thuấn (2022), Văn học Công Giáo Việt Nam đương đại, NXB Hội Nhà văn.
"Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện
Như chùm hoa tự trút hết hương thơm"
(Lê Đình Bảng)
Francis Assisi Lê Đình Bảng là một trong những nhà thơ Công Giáo tiêu biểu, để lại dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại. Thơ ông hòa quyện đức tin kiên vững, lòng đạo và chiều sâu giáo lý, vẻ đẹp mỹ học Kitô giáo và bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện sự uyên bác về tri thức văn hóa Đông – Tây. Sự nghiệp thi ca của ông như vùng đất phong nhiêu, với thổ nhưỡng và khí hậu riêng biệt, cất lên tiếng nói sáng tạo, vừa khơi nguồn cảm hứng cho những người yêu văn chương, vừa nuôi dưỡng khát vọng chiêm nghiệm đức tin.
Nói đến thơ của Lê Đình Bảng là nói đến những dòng mạch thơ về đức tin và tình yêu Thiên Chúa, về hình tượng người mẹ và gia đình, về quê hương và ký ức tuổi thơ, về triết lý nhân sinh và nỗi niềm nhân thế, về tâm tư trước thời cuộc và dấu ấn lịch sử, về thiên nhiên và cái đẹp. Ở khuôn khổ bài này, tôi muốn đi sâu vào những dòng mạch trên đồng thời khái quát đặc trưng thi pháp của ông, để thấy được lực hấp dẫn và tầm ảnh hưởng của thơ Lê Đình Bảng.
"Chút gia tài của lòng đạo, đức tin " – Đức tin và tình yêu Thiên Chúa
Lòng đạo và đức tin là cốt lõi xuyên suốt hành trình thi ca của Lê Đình Bảng. Đức tin Kitô giáo thấm đẫm trong từng câu chữ, trở thành ý hướng chủ đạo, kết tinh thành những khúc tụng ca ngợi khen và tôn vinh tình yêu Thiên Chúa. Như mạch suối ân sủng tuôn trào, thơ ông dẫn dắt tâm hồn người đọc đến với sự chiêm niệm và niềm khát khao hướng thượng. Hình ảnh thiên nhiên sống động trong bài thơ "Suối nguồn" chính là biểu tượng cho ân tình Thiên Chúa – suối mát thiêng liêng luôn tuôn đổ xuống lòng người:
"Suối nguồn, như gấm, như hoa
Mở phơi, thấm đẫm sương sa đất trời
Từ trong mạch giếng sâu khơi
Dấu yêu, ngọt mật. Chúa ôi, dịu dàng."
Dòng suối ấy biểu trưng cho ân điển của Chúa, tưới mát và thấm sâu vào đời sống, cho tâm hồn tín hữu thêm vững vàng. Trong bài "Ơn Người quá đủ cho tôi", Lê Đình Bảng bày tỏ lòng tri ân chân thành, giản dị:
"Lạy Chúa, bao giờ tôi cảm nhận
Mỗi người tôi gặp, mỗi buồn vui
Mỗi nơi, mỗi lúc, chiều, mai, sớm
Chúa ở cùng tôi, trong phận người
Là mạch nguồn thiêng liêng, máu thịt
Từ trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Bây giờ, tôi sống hay tôi chết
Tôi được bình yên như khí trời"
Tứ thơ biểu đạt niềm tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong mọi khoảnh khắc. Tình yêu Thiên Chúa bao dung là điểm tựa bền vững và sức mạnh tinh thần nâng đỡ con người. Đến với Chúa là hành trình qua những khúc quanh của cuộc đời, nơi thử thách trở thành phép rèn luyện đức tin.
"Kể từ nay, xác hồn tôi, tất cả
Được treo lên, được cứu rỗi đời đời
Lên ngọn sông đào, tắm mát thảnh thơi
Dưới đôi cánh từ bi, trong nhà Chúa"
(Trong cõi đầy vơi)
Hình ảnh "ngọn sông đào, tắm mát thảnh thơi" gợi sự thanh lọc, bình an trong vòng tay Thiên Chúa. Một trong những giá trị cốt lõi của thơ Lê Đình Bảng là đức tính khiêm nhường, thể hiện qua giọng điệu dung dị, lắng sâu, không khoa trương mà chân thành, tha thiết.
"Con xin Chúa, một chỗ ngồi chót hết
Bất cứ đâu đây, xa lạ, không tên
Chỗ muộn mằn còn sót lại, bỏ quên
Vụn bánh rớt rơi, chẳng ai thèm nhặt
...
Sao mòn mỏi? Sao gập ghềnh, chia cắt
Con chỉ là người đầy tớ vô duyên
Phận nữ tỳ, đâu dám đến gần bên
Nơi diên yến, đền vua trên Núi Thánh"
(Ơi, người làng Sông)
Lời thơ thể hiện trọn vẹn tinh thần phó thác và phụng sự Thiên Chúa, một sự tự nguyện rèn luyện bản thân trong tinh thần khiêm hạ, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, để tâm hồn hoàn toàn thuộc về Đức Mến, như một chứng nhân sống của đức tin và ân sủng.
“Nhiều khi, tôi hỏi riêng tôi
Bát cơm nhà Chúa, hạt vơi, hạt đầy
Hạt nào tôi giữ trong tay
Của riêng, xin để dành ngày cánh chung”
(Tự tình khúc)
Đó là nỗi trăn trở mang màu sắc triết lý và tôn giáo, khi con người đối diện với chính mình, tự vấn về ý nghĩa của sự sở hữu và dâng hiến. Nỗi băn khoăn của nhân vật trữ tình hướng đến một viễn cảnh lớn hơn – "ngày cánh chung". Ở đó, con người không còn bị ràng buộc bởi những toan tính trần thế, mà đứng trước sự phán xét tối hậu, nơi mọi sự đều được cân nhắc theo ánh sáng của lòng bác ái và đức tin.
Phần lớn thơ của Lê Đình Bảng mang tinh thần đối thoại thiêng liêng giữa con người và Thiên Chúa. Bằng giọng điệu thân mật, ông trò chuyện với Đấng-Tối-Cao như với người Cha hiền hậu, Đấng yêu thương và che chở, cũng như một người bạn tri kỷ luôn lắng nghe và đồng hành trên mọi nẻo đường.
"Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội
Lớn dần lên trong hương sắc của người
Ngày lại ngày hoa trái cứ sinh sôi
Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt"
(Giữa bao la đất trời )
Sự gắn bó với Thiên Chúa trong thơ Lê Đình Bảng không phải một huyền nhiệm xa vời, mà là mối thân tình tràn đầy ân sủng, nhuộm thấm từng khoảnh khắc đời sống. Thơ ông vang lên như lời kinh dâng hiến, trào dâng từ cõi lòng thành kính, ngợi ca tình yêu thương bao dung và sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa. Với đức tin vững vàng, ông khơi dậy khát vọng sống đẹp, sống trọn vẹn trong tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa.
"Con mang ơn mẹ suốt đời " – Hình tượng người mẹ và gia đình
Hình tượng người mẹ và gia đình trong thơ Lê Đình Bảng được khắc họa với chiều sâu cảm xúc, mang sắc thái tâm linh.
Người mẹ hiện lên như biểu tượng thiêng liêng của sự hy sinh, lòng nhẫn nại và đức tin bền bỉ, là kết tinh của vẻ đẹp cao cả. Mẹ là hiện thân của tình yêu thương vô bờ, âm thầm gánh vác mọi nhọc nhằn, gian khó để con cái trưởng thành. Những câu thơ của ông về người mẹ rất giàu sức lay động, phản chiếu triết lý nhân sinh và niềm tin tôn giáo:
“Con đâu dám, ngồi ở không, trông đợi
Mẹ gánh hàng rong tất tả mỗi ngày
Tuổi đã già, ai bắt phải luôn tay
Đêm rét buốt, ổ rơm không đủ chỗ”
(Lời mẹ ru)
Tứ thơ này gợi nhắc công ơn sinh thành của mẹ, chạm tới tâm linh – nơi tình mẫu tử tỏa sáng trong đức tin. Lòng biết ơn mẹ là một giá trị thiêng liêng, phản chiếu tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa, cần được thấu hiểu sâu sắc và thể hiện qua những hành động bác ái trong đời sống.
Hình tượng gia đình trong thơ ông không chỉ là tổ ấm mà còn mang ý nghĩa văn hóa – tinh thần, là nơi lưu giữ đức tin, các giá trị truyền thống, đồng thời kết tinh và lan tỏa tình yêu thương giữa các thế hệ.
"Lời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ
Của xóm làng quê, của hết mọi người
Từ trong bào thai, mẹ hát ru nôi
Từ gồng gánh, nhịp tang bồng, ra chợ"
(Di sản);
"Của cải mẹ cha cho, có vậy
Để dành, khi con lớn, con khôn
Những câu kinh sách, phiên chầu lễ
Đã thấm vào da thịt, máu xương"
(Chuyện những mùa hoa năm ấy)
Trong dòng cảm xúc về mẹ và gia đình, một trong những tác phẩm nổi bật của Lê Đình Bảng là trường ca "Ca dao mẹ", gồm 132 khúc thơ lục bát. Sử dụng thi pháp lục bát truyền thống, tác giả rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của tình mẫu tử và giá trị gia đình. Ngay từ câu thơ đầu tiên, hình ảnh người mẹ hiện ra với tình yêu thương ấm áp, dịu dàng và bao dung:
“Hương cau, hương bưởi hiên nhà
Mẹ ngồi gom mẹt khoai hà, chờ con”
Trong “Ca dao mẹ”, hình ảnh Người Mẹ sáng ngời đức tin, lo toan chu toàn mọi việc, kể cả việc hậu sự của chính mình, dẫn dắt con theo tinh thần “tốt đời đẹp đạo”, cần kiệm như truyền thống của các bà mẹ Việt Nam. Những câu thơ đọc lên khiến lòng rưng rưng:
“Ngọt bùi, cay đắng cho cam
Nhớ, mai mẹ mất, đừng làm ma to
Chỉ đưa mẹ đến nhà thờ
Ăn mày các phép, đừng lo, tội tình”
Gia đình trong "Ca dao mẹ" phản ánh những nét đẹp trong văn hóa cộng đồng như sự đùm bọc, che chở, lòng biết ơn và niềm tin tôn giáo. Các đoạn thơ miêu tả phong tục tập quán của người Việt, từ bữa cơm quê giản dị đến phong tục sinh hoạt, các nghi thức lễ giỗ tổ tiên, mở ra một không gian văn hóa đặc sắc và phong phú.
“Mẹ bày ra bữa cơm quê
Khói thơm quanh cái chõng tre đầu hồi”
Tính biểu trưng của hình tượng Người Mẹ trong bài thơ sâu đậm đến mức ta như thấy hình bóng mẹ mình trong đó. Lê Đình Bảng dung hòa đạo lý truyền thống với đức tin Thiên Chúa, cất lên khúc ca bất tận về tình mẫu tử thiêng liêng. Hình ảnh người mẹ rất riêng mà cũng rất chung ấy gợi nhắc câu ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.”
“Cứ mỗi mùa Vu Lan, cúng quả
Nghe chùa bên mở huệ, tuần chay
Dọc đường ra nghĩa trang, Em bảo
Mẹ ngủ trong gò đất cỏ may
Thành bụi, thành tro than lãng đãng
Vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày”
(Mùa trăng vu lan nhớ mẹ)
Hình ảnh Người Mẹ được nhà thơ khắc họa bằng những nét chấm phá vừa thiêng liêng, vừa dung dị, gợi lên nỗi nhớ thương sâu thẳm trong mùa Vu Lan – mùa hiếu hạnh. Mẹ không còn hiện diện trong hình hài quen thuộc, mà đã hòa vào thiên nhiên, vào đất trời, thành tro bụi, như một sự trở về với cội nguồn vô tận. Nhưng dù đã khuất, Mẹ vẫn hiển hiện trong từng chi tiết đời thường. Không gian thơ thấm đẫm sắc thái tâm linh và nỗi nhớ ngậm ngùi. Cỏ may mọc trên nấm mộ không chỉ gợi lên sự hoang hoải, mà còn là dấu vết thời gian, như một sự nhắc nhớ về sự mong manh của kiếp người. Đặc biệt, hình ảnh "vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày" gợi ra một ẩn dụ đẹp đẽ: dẫu Mẹ đã khuất, tình yêu và sự che chở của Mẹ vẫn còn đó, nhẹ nhàng mà bền bỉ, như ánh trăng hiển hiện giữa nhân gian dù không còn thuộc về cõi thế.
Hình ảnh ấy không chỉ gợi nhớ về Mẹ, mà còn mở rộng ra nỗi mất mát trong đời sống, nơi những người ở lại mãi khắc khoải trong niềm thương nhớ. Tình cảm vợ chồng là nền tảng bền vững của mỗi gia đình Việt Nam, và khi một người ra đi, khoảng trống để lại không gì có thể lấp đầy. Đoạn thơ là tiếng lòng đau đáu của người chồng thương nhớ người vợ đã khuất.
“Từ hôm Em bỏ đi xa
Ngẩn ngơ, tôi cứ vào ra, như là
Con tàu về cuối sân ga
Chúa ôi, mưa nhạt, mưa nhoà, vắng không
Cái ngày khăn gói qua sông
Mênh mông một dải quê chồng xa xôi
Quạt nồng, ấp lạnh chưa vơi
Tóc tơ đã rối một đời vào nhau”
(Requiem)
Nỗi đau thấm vào từng khoảnh khắc thường nhật, trong những bước chân lặng lẽ, không gian vắng vẻ, cơn mưa nhòa nhạt - tất cả nhuốm màu cô quạnh. Hồi tưởng về người vợ, tác giả không chỉ nhớ đến bóng hình xưa mà còn cả chặng đường đời đã cùng nhau đi qua, từ ngày nàng khăn gói theo chồng xa quê đến những tháng ngày sẻ chia buồn vui, quạt nồng ấp lạnh. Đoạn thơ vừa là lời tiếc thương, vừa là sự tri ân, lưu giữ dư âm của một tình yêu đã hóa vĩnh hằng.
Lòng thành kính của nhà thơ đối với mẹ được thể hiện qua nhiều bài thơ, qua nhiều tầng ý nghĩa, từ người mẹ trần gian – người đã nuôi dưỡng và che chở, đến mẹ quê hương – biểu tượng của cội nguồn và sự gắn bó thiêng liêng, và đỉnh cao là Đức Mẹ Maria – nguồn cội của yêu thương, lòng từ ái và đức hy sinh cho nhân loại:
"Kính chào Mẹ Maria
Trăm muôn ríu rít chim ca đầu mùa
Con thường hỏi giữa vu vơ
Bao giờ mưa tạnh? Bao giờ nước lên?"
(Con về xứ mẹ mùa hoa)
Nhà thơ đã dâng lời nguyện cầu thành kính hướng về Đức Trinh Nữ Maria – biểu tượng thiêng liêng của lòng tin và sự che chở. Hình ảnh thiên nhiên trong khổ thơ trên, với tiếng chim ca đầu mùa và khung cảnh tươi mới, thể hiện niềm hân hoan của muôn loài trong sự chào mừng Mẹ Maria. Ẩn sau những câu hỏi tưởng chừng như vu vơ “Bao giờ mưa tạnh? Bao giờ nước lên?” là nỗi trăn trở về cuộc đời, sự tìm kiếm ánh sáng dẫn lối trong những giai đoạn mịt mù của kiếp người. Nhà thơ khẳng định niềm tin mãnh liệt và sự trở về trong vòng tay yêu thương của Đức Mẹ, nơi tín hữu tìm thấy sự an ủi, hy vọng và ý nghĩa đời sống.
"Đền Vàng Quỳ Trước Dâng Hoa
Trông lên tháp bảo, thấy toà Ba Ngôi
Mười Hai Nhân Đức gương soi
Kính thân Đức Mẹ, đời đời ngửa trông.”
(Quỳ trước đền vàng)
Tâm hồn Lê Đình Bảng luôn chan chứa lòng tôn kính và yêu mến sâu sắc dành cho Đức Mẹ Maria. Hình ảnh Đức Mẹ trong thơ ông bao trùm toàn bộ đời sống tinh thần, trở thành bầu trời, mặt đất, và cả bầu khí quyển để ông được hít thở và hân hưởng trong tình yêu thương bao la của Mẹ.
"Đội ơn Đức Mẹ Môi Khôi
Cho con yêu cả nắng nôi, giãi dầu
Cũng đành áo rách thương nhau
Cái duyên cam quýt vừa sâu, vừa đằm"
(Con về xứ bưởi Năm Roi)
Đó là một đức tin thuần khiết, một tình yêu thẳm sâu không chút nghi ngại, khi Lê Đình Bảng đặt trọn niềm cậy trông vào Đức Mẹ. Ông cảm nhận được sự chở che của Mẹ ngay trong những khốn khó, để từ đó biết yêu cả những gian nan, tìm thấy sự an ủi trong từng biến cố. Chính tình yêu ấy đã làm nên sức mạnh nội tâm, giúp ông giữ vững đức tin và tiếp tục hành trình thi ca của mình trong niềm phó thác trọn vẹn.
Đức Mẹ Maria đã hiển hiện trong đời sống thiêng liêng và cả trong thế giới trần thế. Lê Đình Bảng tuyên xưng Đức Mẹ như “hoa đồng trinh” – một hình ảnh quen thuộc trong thần học và nghệ thuật Công Giáo. Hoa đồng trinh không chỉ biểu trưng cho sự thanh sạch, mà còn mang ý nghĩa thiêng liêng về sự sinh nở thánh thiện, nhắc đến biến cố Truyền Tin khi Đức Mẹ đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể: "Có phải hoa đồng trinh Đức Mẹ/ Đương vào mùa bụi phấn bay bay" (Trong khu vườn rào kín). Nhà thơ luôn thể hiện lòng tin tưởng và cậy trông vào Đức Mẹ. Cách cầu nguyện trong thơ của Lê Đình Bảng hết sức giản dị nhưng đượm đầy tâm tình của người con ngoan đạo – tín hữu tìm về nơi trú ẩn an toàn nhất của lòng tin: "Lạy xin Đức Mẹ ban ơn/ Qua mùa đói khổ, gặp cơn yên bình" (Về cõi trời mênh mang). Hay, câu thơ "Mẹ về trời, nhưng chẳng rời mặt đất/ Kính mừng Maria, Đức Mẹ Chúa Trời" (Về Carthage, nhà Mẹ yên vui) vang lên tiếng kinh nguyện, gợi nhớ Thiên thần Gabriel truyền tin cho Mẹ Maria là biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại. Đó không chỉ là lời tụng ca, mà còn xác tín vai trò của Đức Mẹ trong lịch sử cứu độ: Người là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng chuyển cầu đầy quyền năng cho nhân loại.
"Thì ra, thuở ấy, chưa xa " – Quê hương và ký ức tuổi thơ
Trong thơ Lê Đình Bảng, quê hương và ký ức tuổi thơ là miền nhớ nhung da diết, là cội nguồn của yêu thương và sức mạnh tinh thần. Thơ ông vừa chân chất, ấm áp, vừa nhắc nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Quê hương trong thơ ông không chỉ là điểm tựa mà còn là nguồn cảm hứng vô tận, là niềm an ủi và chốn nương tựa tinh thần.
Nhà thơ sinh ra tại vùng Kinh Bắc, có nguyên quán ở Thái Bình - mảnh đất lưu giữ những giá trị truyền thống nghìn năm, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc và độc đáo: “Mẹ là cổ tích, ca dao/ Câu kinh, nguyện ngắm chảy vào hồn con” (Ca dao mẹ). Đất mẹ, nguồn cảm hứng thiêng liêng, đã khắc sâu dấu ấn vĩnh cửu trong từng nhịp đập trái tim người nghệ sĩ.
Thơ Lê Đình Bảng mang đậm dấu ấn quê hương ông, đặc biệt khắc họa sinh động không gian văn hóa Kinh Bắc, gắn liền với những lễ hội dân gian, tập quán lâu đời và vẻ đẹp thiên nhiên. Một không gian phản chiếu ngàn năm văn hiến.
"Ai về Kinh Bắc xa xôi
Nhớ câu quan họ, nhớ người mình thương"
(Rước tình về với quê hương)
Kinh Bắc – mảnh đất gắn liền với những di sản văn hóa lâu đời, từ những làn điệu dân ca quan họ đến các lễ hội dân gian truyền thống, đã được Lê Đình Bảng tái hiện một cách sinh động với những hình ảnh quen thuộc của làng quê: con sông hiền hòa, cánh đồng lúa vàng, ngôi đình làng cổ kính, tiếng trống hội vang vọng, và những mái nhà tranh giản dị, ấm cúng.
"Lúc trưa nắng,về dừng chân nghỉ mát
Nghêu ngao lời ca quan họ tang bồng"
(Một khúc tang bồng);
"Liền anh liền chị vãn hát đêm qua
Mớ bảy, mớ ba, hội Lim quan họ"
(Về La Vang, nhà mẹ trăm gian)
Làn điệu quan họ trong thơ Lê Đình Bảng vừa là di sản văn hóa đặc sắc của Kinh Bắc, vừa biểu trưng cho sự thăng hoa của văn hóa dân gian. Những câu hát quan họ ngọt ngào biểu đạt tình yêu và sự gắn kết cộng đồng, trở thành yếu tố văn hóa độc đáo, là nhịp điệu của đời sống qua các thế hệ.
"Chờ câu quan họ tình tang
Là đi về chốn mình đang thuộc về"
(Nghêu ngao hát thương hồ)
"Ngồi nghe quan họ, giờ lâu
Mái ngoài, văn miếu, áo chầu lạnh tanh
Tràng An ngày trước, như tranh
Những con phố cổ Hà Thành rêu phong"
(Có ai về Tràng An)
Lê Đình Bảng tái hiện những hình ảnh giàu màu sắc và âm điệu của làng quê Bắc Bộ, qua các lễ hội tôn vinh tình yêu và sinh hoạt cộng đồng. Thơ ông gửi gắm thông điệp bảo tồn giá trị văn hóa trong bối cảnh hiện đại.
Làng quê tuổi thơ của ông hòa quyện giữa hoài niệm về những ngày tháng gieo neo vất vả và lòng biết ơn đối với cha mẹ, gia đình, làng xóm. Đó là nỗi lòng da diết của những ai đã từng lớn lên trong cảnh nghèo khó nhưng tràn đầy tình yêu thương, nơi những bữa cơm đạm bạc vẫn ấm áp tiếng cười, nơi từng mái nhà đơn sơ chất chứa bao kỷ niệm.
"Con đâu dám, ngồi ở không, trông đợi
Mẹ gánh hàng rong tất tả mỗi ngày"
(Lời mẹ ru)
Quê hương trong thơ Lê Đình Bảng là không gian lưu giữ "hồn cốt" một cộng đồng, là nơi con người luôn mong muốn trở về. Ký ức tuổi thơ với những hình ảnh giản dị là điểm tựa vững chắc, giúp kết nối cội nguồn và kế thừa những giá trị truyền thống.
"Qua lối ngõ, mãi gập ghềnh đá dặm
Nhìn hai bên sông, điên điển rực vàng
Chuyến phà bên kia, đợi khách quá giang
Mấy đọt dừa reo trong chuông nhựt một"
(Một miền ký ức)
Quê hương là dòng chảy trong mỗi trái tim, nơi ký ức là điểm tựa vững chãi, là nơi chốn để ta cảm nhận bình yên và tình yêu thương.
“Giữa hai mùa, Nam bộ, nắng và mưa
Đâu có Mẹ, là quê hương con đó”
(Mẹ và quê hương)
Quê hương không chỉ là miền đất, một địa danh cố định, mà là nơi có tình yêu thương của Mẹ. Câu thơ mở ra một cách nhìn rộng hơn về khái niệm quê hương: đó không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi trái tim ta thuộc về, nơi có người thân yêu nhất. Với những ai xa quê hương, nếu có Mẹ bên cạnh, dù ở bất cứ đâu, nơi ấy vẫn là chốn yên bình nhất.
Thơ của Lê Đình Bảng khắc họa ký ức tuổi thơ và quê hương nghèo khó qua những hình ảnh thiên nhiên bình dị nhưng đậm chất trữ tình. Tác giả không chỉ vẽ nên bức tranh quê nhà quen thuộc với những khu vườn rào kín, hoa nở rộ và những góc nhỏ chứa chan kỷ niệm, mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng của một tâm hồn luôn hướng về cội nguồn. Những dấu ấn của tuổi thơ – sự mộc mạc, thuần khiết và chan chứa niềm nhớ – được hiện lên qua hình ảnh của thiên nhiên thay đổi theo mùa, gợi nhớ đến những ngày xưa bình dị, nơi mà từng khoảnh khắc dường như chứa đựng cả niềm khát khao yêu thương và khát vọng sống.
"Người về, nẻo khuất, canh thâu
Nhớ nhung, xin gửi ơn sâu, nghĩa dày
Hỏi mùa xanh lá, xanh cây
Em ơi, nụ biếc, cành đầy măng tơ
Nhà em sau bụi ô rô
Đứng trên bậc đá nhà thờ ngó nghiêng"
(Quê nhà)
Đoạn thơ dưới đây mở ra một không gian ký ức tuổi thơ mộng mơ, nơi những hình ảnh thiên nhiên thấm đượm tình yêu, nhớ nhung và khát khao sống, trở thành biểu tượng cảm xúc sâu sắc vượt thời gian:
"Suốt mùa hoa, dưới chân đê, thả nghé
Tuổi thơ ta ru vời vợi cánh diều
Ở quê, mình những trộm nhớ, thầm yêu
Con nhện giăng tơ, chờ hoa, chờ nụ"
(Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ)
Những giá trị tinh thần được nuôi dưỡng qua ký ức càng trở nên thiêng liêng và trân quý. Không gian quê hương và ký ức tuổi thơ trong thơ Lê Đình Bảng là nơi lưu giữ những kỷ niệm ngọt bùi, là nguồn động lực giúp con người vượt qua khó khăn và tìm lại chính mình mỗi khi lạc lối giữa dòng chảy thời gian. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện niềm tin vào sức mạnh của ký ức – một sức mạnh có thể thắp sáng cả những con đường mịt mờ, gợi mở những ước mơ giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
“Con bé bỏng suốt đời trong mắt Mẹ
Và măng tơ, vừa xanh nụ, xanh chồi
Cứ ngỡ bầu trời là mảnh sân chơi
Một ông sáng sao, hai ông sao sáng
….
Câu hát ấy của một thời xa vắng
Những đêm trăng tuổi mọn ở quê nhà
Ai khôn thì về, ai dại thì xa
Thả đỉa ba ba, nhớ cha, nhớ Chúa”
(Những mùa trăng tuổi mọn)
Trong thơ Lê Đình Bảng, quê hương là nơi lưu giữ những ký ức tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên; đó là thế giới của những trò chơi con trẻ, của bầu trời rộng lớn tưởng chừng chỉ là một mảnh sân vui đùa, nơi từng ánh sao cũng trở thành người bạn đồng hành trong những đêm tuổi thơ. Nhưng sâu thẳm hơn, quê hương đã hóa thân vào hình ảnh Người Mẹ - một biểu tượng dịu dàng, chở che và mãi mãi dang rộng vòng tay yêu thương. Nỗi nhớ quê nhà là sự trở về với cội nguồn, với tình yêu thương vô bờ bến của mẹ và đức tin đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ. Trong dòng chảy ký ức ấy, quê hương không chỉ là nơi chốn, mà trở thành một phần tâm hồn, một miền thiêng liêng không thể phai mờ, nơi tình mẹ hòa quyện cùng tình Chúa, nâng đỡ con người suốt hành trình cuộc đời.
"Triết lý, nhân sinh gửi lại đời " – Triết lý nhân sinh và nỗi niềm nhân thế
Thơ Lê Đình Bảng thấm đẫm triết lý nhân sinh, phản ánh những trăn trở về thân phận con người, thời cuộc và lịch sử. Tác phẩm của ông vừa tái hiện những biến động xã hội vừa gợi mở những suy tư về bản chất của sự sống, tính vô thường của thời gian và nỗi lênh đênh của phận người; đồng thời biểu đạt nền tảng của đức tin, là điểm tựa tinh thần giúp con người đối diện với thế sự xoay vần, vượt qua thử thách và tìm kiếm ý nghĩa cứu rỗi trong dòng chảy lịch sử và vận mệnh cá nhân.
"Mỗi ngày, tập đi đàng nhân đức
Bằng cả trăm năm ở thế gian"
(Một ngày ở trong nhà Chúa)
Trong sáng tác của Lê Đình Bảng, thể loại trường ca giữ vai trò quan trọng để biểu đạt đức tin, đồng thời kết tinh tư tưởng và hệ hình thẩm mĩ. Các trường ca như "Nghêu ngao hát thương hồ" (gồm 130 khổ thơ), "Nhật nguyệt hành" (541 khổ), "Những cơn bão muộn" (670 khổ), và "Trong cõi vô ngôn" (162 khổ) đã khắc họa chân thực thân phận con người trong dòng thời gian và những biến động thời cuộc. Những bão tố trong cuộc đời và hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trong sự chiêm nghiệm đã tạo nên những tác phẩm mang vẻ đẹp trầm lặng, giàu suy tưởng.
Câu hỏi về sự vô thường của cuộc đời và vai trò của con người trong dòng chảy thời gian được đặt ra trong trường ca "Nghêu ngao hát thương hồ". Tác giả trăn trở về kiếp người phiêu dạt, một đời sống gắn liền với sông nước, con đò, nơi con người dường như bị cuốn theo sự vô định và không thể làm chủ số phận mình:
"Quanh năm, làm kiếp thương hồ
Nước sông, gạo chợ, con đò lênh đênh
Ai về bờ bãi chông chênh
Tình tang, qua mấy những bềnh bồng thôn"
(Nghêu ngao hát thương hồ)
Trường ca "Nhật nguyệt hành" thể hiện triết lý về thời gian và sự thăng trầm của cuộc đời qua hình tượng nhật nguyệt – biểu trưng cho sự xoay vần không ngừng của vũ trụ. Tác phẩm khắc họa dấu ấn thời cuộc, phản ánh những biến động của con người và xã hội. Thời gian, với quy luật tuần hoàn, đặt con người trước những đổi thay bên ngoài lẫn những biến chuyển nội tâm. Trong vận hành của "nhật nguyệt", mỗi cá nhân bị cuốn vào dòng chảy sự sống, buộc phải đối diện với những đấu tranh nội tại và tìm cách hòa nhập vào cuộc thế. Ở trường ca này, Lê Đình Bảng thể hiện sự giằng xé khi đối diện với sự thay đổi không ngừng của vạn vật. Quá khứ, như dòng sông lùi mãi về xa, khiến con người cảm thấy lạc lõng và bơ vơ trong một thế giới đầy biến động. Con người trong cơn biến động ấy phải đối diện với nỗi sợ bị lãng quên, bị tách khỏi quá khứ và quê hương. Đây là không gian đầy khắc khoải, phơi bày những nỗi cô đơn, mất mát, và khát vọng khôi phục, nối kết với quá khứ.
"Để lưu giữ vững bền một quá khứ
Lục bình trông tím ngắt cả dòng sông
Hỏi quê nhà, còn nhớ, nhớ ta không
Thuở trước, nhìn nhau, đầm đìa nước mắt"
(Nhật nguyệt hành)
Những biến động của thời cuộc và con người trong các thập kỷ đầy xáo trộn cũng được khắc họa rõ nét trong trường ca "Những cơn bão muộn". Hình ảnh cơn bão, ngoài sức mạnh tàn phá thực tế, còn tượng trưng cho những dông tố trong cuộc đời, những vật lộn tranh đấu ngoại tại và nội tại, những ước mơ và khát vọng chưa thành.
"Vẫn biết ở bên bờ sóng gió
Bồn chồn, ai biết thuở nào khuây
Chờ thêm mùa lũ, sau cơn bão
Để đất bồi lên những luống cày
...
Nước mắt chực rơi, rồi chững lại
Ra sông và ra biển, bao giờ
Mẹ vun lại vồng, sau cơn bão
Từng khúc sông sạt lở, vỡ bờ"
(Những cơn bão muộn)
Nhà thơ bày tỏ tâm tư về sự biến thiên của thời cuộc, về quá khứ và hiện tại, về những mất mát và hy vọng; đó là những chìm nổi mà con người phải trải qua trong hành trình tìm lại sự bình yên. Dẫu có cả những bồn chồn và những giọt nước mắt hoang mang trước nghịch cảnh, nhưng qua hình ảnh "đất bồi lên những luống cày" hay "mẹ vun lại vồng", cho thấy sự kiên trì và khát vọng tái sinh, mong chờ sự phục hồi sau những bão tố. Song những vần thơ này cũng gói ghém cảm giác ngậm ngùi thế sự của tác giả, như một nỗi trăn trở trước dòng chảy vô thường của cuộc đời, nơi mà mất mát và hy vọng luôn đan xen.
Ở trường ca "Trong cõi vô ngôn", Lê Đình Bảng vẽ lên bức tranh sống động về cuộc đời con người qua những giai đoạn thử thách, tìm kiếm sự cứu rỗi, và đối diện với bi kịch nhân sinh. Dưới vẻ trầm lắng, mỗi câu thơ tự sự như những dấu tích của đời sống, đồng thời cũng phản chiếu khát vọng giải thoát và niềm tin vững chắc vào sự trở về.
"Lặng thầm trong cõi vô ngôn ấy
Như luống cày trên ruộng nẻ khô
Chúa bảo con đi, đừng ngoái lại
Làm sao nước lã vã nên hồ
Nhưng không, ơn Chúa ban nhiều quá
Mặt đất này sinh sôi tốt tươi
Con được trầm mình trong giếng thánh
Làm hoa, con lại được làm người"
(Trong cõi vô ngôn)
Trường ca "Trong cõi vô ngôn" cho ta thấy cảm giác bất định và khiêm nhường trong mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa. Nhà thơ dẫn ta vào cõi vô ngôn, nơi tình yêu của Thiên Chúa không đến với ta bằng ngôn từ, mà lan tỏa trong sự thinh lặng thiêng liêng, trong những rung động sâu thẳm của tâm hồn, nơi con người lắng nghe và cảm nhận bằng đức tin và trái tim hơn là bằng lý trí. Tác phẩm thấm đẫm triết lý nhân sinh này phản ánh nỗi day dứt trước cuộc sống đầy bất công và thách thức, đồng thời cũng dẫn đến hành trình tìm kiếm sự cứu rỗi. Dòng tự sự này khắc họa quá trình lạc lối, đấu tranh với bản thân và thế giới, rồi cuối cùng sự cứu rỗi của Chúa chính là hy vọng, là điểm tựa giúp con người vượt lên số phận, khổ ải và nguy nan.
Thơ Lê Đình Bảng cũng phản ánh những biến động xã hội, những nỗi đau chiến tranh và khát vọng hòa bình. Nhà thơ đề cập đến những sự kiện lớn của dân tộc, những cuộc chiến tàn khốc và những mất mát mà con người phải gánh chịu. Tuy nhiên, thơ ông không chỉ phản ánh những khía cạnh u ám, buồn thương mà còn thể hiện khát vọng mạnh mẽ về sự hồi sinh.
"Nhưng làm sao cấm tôi chờ đợi
Trong chiến tranh, mới hiểu ngậm ngùi
Cây khế đầu hồi đương nhú quả
Hình như ai đến, báo tin vui"
(Ngược dòng)
Một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ ông là sự hòa quyện giữa triết lý nhân sinh và hình ảnh thiên nhiên. Những dòng sông, cơn bão, cây cối, chim muông… không chỉ là cảnh vật mà còn mang tính triết lý, ẩn chứa những suy tư về cuộc đời. Thơ ông thấm đượm một nỗi buồn trầm lắng, man mác trước sự không hoàn hảo của kiếp nhân sinh, nhưng đồng thời cũng khơi dậy niềm hy vọng vào hành trình tìm kiếm ý nghĩa giữa dòng chảy vô thường.
"Tiếng của thiên nhiên, mùa màng, thời vụ
Tiếng của đồng xanh, bóng cả, cây cao
Tiếng gió reo vui như mận, như đào
Vội ghi chép, để truyền đời, san sẻ"
(Di sản)
Nhà thơ không né tránh những vấn đề xã hội mà thay vào đó, ông sử dụng thơ như một công cụ mạnh mẽ để khám phá và diễn giải những biến động của thời gian và ngoại cảnh. Thơ của ông vừa phản ánh hiện thực vừa gợi mở những suy ngẫm sâu sắc về những chuyển biến không ngừng của thời cuộc, thiên nhiên và vũ trụ. Những hình ảnh và tình huống trong tác phẩm của ông gợi mở suy tư về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, giữa hiện tại và quá khứ, giữa hữu hạn và vô tận.
"Chuyện vũ trụ, chuyện nhân sinh, thời cuộc
Cây cỏ muôn loài, bờ bãi, khe truông
Sợi tóc trên đầu, dâu bể, tang thương
Quy luật tuần hoàn, hoá sinh, trụ diệt
Việc của Chúa, Chúa làm, nào ai biết
Bởi thiên nhiên là bàn tiệc ê hề
Dọn bày ra, cho ăn uống thoả thuê
Để nếm trải đủ ngọt bùi thế sự"
(Kinh Cáo mình)
Thơ Lê Đình Bảng mở ra không gian rộng lớn, khơi gợi những chiêm nghiệm về sự vô thường, đồng thời mời gọi con người sống có ý nghĩa trong dòng chảy bất tận của thời gian. Đây là hành trình khám phá bản thể con người khi đối diện với thời gian và những biến động lịch sử, nó giúp người đọc tìm thấy những bài học quý giá về sự sống, cái chết và những giá trị tinh thần.
"Đợi cả thiên nhiên nở một lần " – Thiên nhiên và cái đẹp
Trong thơ Lê Đình Bảng, ánh sáng Thiên Chúa luôn chiếu rọi cuộc sống con người, làm rạng rỡ vẻ đẹp thiên nhiên và ban cho nó khí sắc thiêng. Vẻ đẹp ấy biểu lộ tình yêu vô biên và sự quan phòng của Thiên Chúa, khiến mỗi hình ảnh thiên nhiên trở thành minh chứng sống động cho sự hiện diện của Đấng-Sáng-Tạo.
"Con hát lời hoan ca, thánh vịnh
Hàng hàng châu ngọc, những thi thiên
Cùng muông chim, cỏ hoa, trời đất
Là nhã ca và sách Khải Huyền"
(Về suối miền Nam)
Thiên nhiên mở ra những suy tưởng về sự hòa hợp giữa con người và Thượng Đế. Vẻ đẹp thiên nhiên hiển lộ trong ánh sáng bao phủ, kết nối thế giới trần gian với thiên đàng, nơi con người tìm thấy hạnh phúc trong Đức Mến.
Thơ ông cũng khơi mở một miền ký ức thiêng liêng, nơi con người cảm nhận sự yên bình và hòa hợp:
"Bằng lăng rợp hai bờ kinh thăm thẳm
Ấy là nơi, sông chia nhánh, cắm sào
Hai vai đầy cành lá mướt lên cao
Tiếng cá quẫy dưới ao nhà tanh tách"
(Một miền ký ức)
Những thi ảnh đó in dấu sự thân thuộc, hòa quyện trong ánh sáng và thanh âm kỳ diệu của sự sống.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông mang tính biểu tượng, mở ra không gian an bình, chan chứa tình yêu thương của Chúa. Vẻ đẹp do Đấng Sáng Thế tạo nên trở thành lời mời gọi con người quay về với lòng bác ái, sự tha thứ và khát khao ơn cứu rỗi, hòa hợp trong nhịp điệu của vũ trụ.
"Về suối miền Nam, bên mé nước
Của trời cho, vô tận, vô vàn
Một ngày được ở trong nhà Chúa
Con sẽ đàn ca lên, hát vang"
(Về suối miền Nam);
"Chúa đến với tôi, như một làn gió
Cứ phiêu diêu và ẩn hiện, không chừng
Dặm thẳng, đường quanh, uốn khúc, vòng cung
Đất và nước, cùng cỏ cây, hoa lá"
(Khi Chúa đến với tôi)
Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Lê Đình Bảng là lời ngợi ca công trình kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi hình ảnh, dù bé mọn hay tráng lệ, đều mang dấu thiêng, gợi mở suy tư về đức tin và khát vọng hòa quyện trong tình yêu của Đấng Tối Cao. Qua đó, tác phẩm tạo nên một giai điệu tâm linh, nơi sự huyền nhiệm của vũ trụ hòa quyện với ánh sáng Kitô giáo, mở ra không gian thiêng liêng đầy cảm nghiệm.
Khái quát đặc trưng thi pháp
Thơ Lê Đình Bảng chịu ảnh hưởng của thi pháp Thơ Mới, với khuynh hướng đề cao cảm xúc cá nhân và khắc họa cái tôi trữ tình trong sự giao thoa giữa nội cảm và suy tưởng. Ông khai thác đa dạng miền tâm trạng, từ nỗi buồn, sự cô đơn đến khát vọng yêu thương và niềm vui sống, tạo dựng một thế giới thi ca giàu tính triết lý và chiều sâu nội tâm. Thơ ông là sự kết hợp hài hòa giữa nhạc điệu và hình ảnh tượng trưng, đồng thời là sự giao thoa giữa tinh thần lãng mạn và tư tưởng Kitô giáo, định hình nên một phong cách riêng giàu tính thiêng.
Lê Đình Bảng vận dụng phong phú các biểu tượng Công Giáo như Kinh Thánh, Kinh Nguyện, Thánh Giá, dòng suối, ngọn nến, ánh sáng, đại dương cùng những biểu tượng trong văn hoá dân gian Việt Nam đã khắc họa sự màu nhiệm của Thiên Chúa mà không cần nói đến phép màu. Những biểu tượng này vừa mang ý nghĩa trực quan vừa gợi mở suy niệm về đức tin, ân sủng và hành trình cứu độ. Thơ ông khiến người đọc cảm nhận Thiên Chúa gần gụi hơn và thế giới thiện lành hơn.
"Suối nguồn, như gấm, như hoa
Mở phơi, thấm đẫm sương sa đất trời
Từ trong mạch giếng sâu khơi
Dấu yêu, ngọt mật. Chúa ôi, dịu dàng"
(Suối nguồn)
Biểu tượng Thánh Giá trong thơ Lê Đình Bảng thể hiện sự hy sinh cao cả của Chúa và lòng thương xót vô biên dành cho nhân loại:
"Chúa vẫn treo mình trên thánh giá
Máu còn nhuộm đỏ thắm hồn con
Đội ơn lòng Chúa luôn thương xót"
Từng bước con đi, dẫu mỏi mòn"
(Nguyện thầm)
Thánh Giá không chỉ gợi nhắc nỗi đau và sự cứu chuộc, mà còn trở thành điểm tựa tâm linh, nâng đỡ con người trong hành trình đức tin. Đó là dấu ấn của tình yêu thiêng liêng, truyền sức mạnh và niềm an ủi cho những ai đang đối diện với thử thách, giúp họ kiên vững tiến bước dù cuộc đời đầy gian nan.
Biểu tượng Kinh Nguyện thể hiện niềm tin và sự kết nối thiêng liêng giữa con người với Thiên Chúa. Hình ảnh thiên nhiên hòa quyện với lời kinh tạo nên không gian thiêng liêng, nơi tâm hồn tìm thấy sự che chở, bình an và hy vọng:
“Con về đây, ngước trông lên
Mẹ - ngôi sao sáng giữa đêm tối trời”
(Kinh Nguyện La Vang);
"Chim non ríu rít lời kinh nguyện
Ta, kẻ chầu nhưng đọc thánh thư
(Cõi thiêng)
Trong thơ Lê Đình Bảng, các biểu tượng văn hóa dân gian Việt Nam mang đậm sắc thái tôn giáo và lịch sử. Những hình ảnh quen thuộc như sông, núi, giếng nước, sân đình, cây đa, bến nước, cây tre, cây lúa, hoa sen... đều hiện diện trong thơ ông, tạo nên một không gian văn hóa đa tầng và đặc sắc. Cảm hứng tôn giáo kết hợp với cảm nhận về quê hương và lịch sử được thể hiện rõ qua những câu thơ giàu hình ảnh:
"Muôn dân nước, đủ màu da, tiếng nói
Nhưng cùng chung một Mẹ Maria
Mẹ ở đầu làng, bến nước, cây đa
Mẹ tít trên non, Mẹ trong hốc đá"
(Mẹ và quê hương)
Những hình ảnh giản dị mà thiêng liêng ấy thể hiện sự gắn kết sâu sắc giữa con người, tín ngưỡng và thiên nhiên, mang đến một cảm thức về sự bình dị và vĩnh hằng của Mẹ Maria, gắn liền với những không gian quen thuộc trong đời sống văn hóa của người Việt.
Một trong những hình ảnh gây ấn tượng mạnh với tôi trong thơ Lê Đình Bảng là "đóa từ tâm" – biểu tượng cho tình yêu, lòng nhân ái và sự thanh tịnh. "Từ tâm" không chỉ gợi lên ý nghĩa lòng từ bi, vị tha mà còn hàm chứa tình yêu thương trọn vẹn noi gương Đức Kitô và Đức Mẹ Maria, trong khi "đóa" tượng trưng cho sự nở rộ của ân sủng, vẻ đẹp tinh thần được nuôi dưỡng bởi đức tin. Hình ảnh này gắn liền với đời sống đạo hạnh, sự an lạc nội tâm và khát vọng dâng hiến. Trong bài thơ "Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ", "đóa từ tâm" trở thành biểu tượng của tình yêu thuần khiết, bền bỉ và thầm lặng, không vội vàng mà kiên nhẫn chờ đợi, tựa như lòng mến dâng đầy sự khiêm nhường và tin tưởng. Đây chính là biểu trưng của tình yêu dâng hiến, hòa quyện với đức tin và ánh sáng thiêng liêng:
"Em vẫn thế, là con chiên của Chúa
Trong vườn thiêng, rào kín rất lặng thầm
Ôi, ước gì, Em là đoá từ tâm
Tôi an trú một đời yên ấm mãi"
(Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ)
Đến bài "Ngọc lan hương", "đóa từ tâm" khắc họa hành trình chuyển hóa tinh thần - từ những cảm nhận trần thế đến sự giác ngộ trong tình yêu Thiên Chúa - nơi con người tìm thấy bình yên và viên mãn trong đức tin:
"Lệ mùa rơi đóa Thu phong ấy
Hương ngọc lan ủ dưới gối nằm
Chợt nửa khuya, mơ hồ tỉnh giấc
Đêm thơm như là đoá từ tâm"
Sự gian giao thoa giữa trần gian và cõi thiêng, nơi tình yêu con người chuyển hóa thành tình yêu Thiên Chúa là những nết đặc sắc trong thơ Lê Đình Bảng.
“mùa thương, mùa nhớ, mùa vui đấy
Mùa của bồ câu yêu thóc phơi
Cơm bạc, cơm vàng rơi vãi hết
Từ Em như cây cải về trời
….
Chợt nhớ, mỗi lần lên rước lễ
Tôi bâng khuâng một thoáng, Em nhìn
Trời ơi, đôi mắt buồn u ẩn
Hai trái tim cùng một đức tin”
(Lời tự tình của bến trần gian)
Những hình ảnh thân thuộc như "bồ câu yêu thóc phơi" hay "cơm bạc, cơm vàng" mang hơi thở cuộc sống đời thường, nhưng đồng thời cũng gợi đến sự buông bỏ, dâng hiến, như một hành trình "về trời". Tình yêu trần thế không mất đi mà chuyển hóa thành một trạng thái tinh khôi hơn, nơi sự gắn kết giữa con người được soi rọi bởi ánh sáng đức tin. Khoảnh khắc "lên rước lễ" trở thành giây phút nhận thức sâu sắc về sự hiện diện của nhau không chỉ trong đời sống tình cảm mà còn trong hành trình tâm linh. Cái nhìn bâng khuâng của nhân vật trữ tình trước đôi mắt "buồn u ẩn" của người mình thương không còn thuần túy là cảm xúc nhân gian, mà đã mang một sắc thái thiêng liêng. Hai trái tim vẫn rung động, nhưng giờ đây không chỉ hướng về nhau, mà cùng hòa chung một đức tin, một tình yêu lớn lao hơn. Ở đó, tình yêu con người được nâng lên một tầng ý nghĩa cao hơn - trở thành sự đồng điệu trong đức tin, hòa trong ánh sáng thiêng liêng.
Điểm nổi bật nữa trong thơ Lê Đình Bảng là sự phong phú của chất liệu văn hóa dân gian Việt Nam. Ông thường sử dụng thể lục bát – thể thơ truyền thống quen thuộc, gắn bó với tâm hồn người Việt, đồng thời khéo léo đưa vào đó những hình ảnh, điển tích và phong vị dân dã. Ngôn ngữ trong thơ ông giản dị mà tinh tế, tạo nên những câu thơ nhẹ nhàng, mượt mà như làn điệu quan họ “Người ở đừng về”, lại rưng rưng một thứ chia xa, khiến người ta phải ngậm ngùi
"Thôi người ở lại dương gian
Có đem nhung nhớ đời dan díu này
Để gieo hết hạt trong tay
Phơi phong hết nắng những ngày đương xuân"
(Ta còn để lại gì không)
Sự kết hợp giữa văn hóa Công Giáo và chất liệu dân gian truyền thống tạo nên một thế giới thơ vừa có chiều sâu tâm linh, vừa khắng khít, thân thuộc. Giọng thơ của Lê Đình Bảng thường mang âm hưởng nguyện cầu, thể hiện sự khiêm cung trước Thiên Chúa và tự thấy mình không xứng đáng để nhận ân điển của Ngài.
"Tôi đâu dám ngửa tay, xin điềm lạ
Bởi biết mình, loài cỏ rác vãi vương
Có là chi mà đáng để Chúa thương
Tôi rách rưới và ăn đong từng bữa"
(Tôi đâu dám xin)
Thơ ông mở ra cảnh giới vừa thực vừa mộng, với những hình ảnh thân quen giàu sức gợi. Ông không dụng chữ cầu kỳ hay bóng bẩy, mà chọn lối diễn đạt chân tình, chạm tới trái tim người đọc. Sự giản dị này giúp những ý tưởng lớn lao về đức tin và tình yêu trở nên gắn bó. Những câu thơ như "Chúa dạy con giục lòng ăn năn tội/ Vì bẩm sinh, mang trăm nỗi đoạn trường/ Ôi, tội hồng ân đã sớm đau thương/ Phải ra sức, tập đi đàng nhân đức" (Cho con theo dấu bước của Người) mang tính triết lý sâu sắc nhưng vẫn dễ đi vào lòng người. Thi pháp đặc sắc này của Lê Đình Bảng không chỉ làm phong phú thêm diện mạo thơ Công Giáo đương đại mà còn là gợi ý quý giá cho những cây bút trẻ muốn dấn thân vào con đường thi ca tâm linh.
* * *
Thơ Lê Đình Bảng đóng vai trò quan trọng trong dòng chảy văn chương Công Giáo, và có chỗ đứng xứng đáng trong thơ Việt Nam đương đại. Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Công Thuấn đã nhận xét: "Lê Đình Bảng vẫn làm thơ truyền thống, nhưng đã nâng phẩm chất nghệ thuật của thơ truyền thống Việt lên một bước mới, đó là sự kết hợp mỹ học truyền thống với mỹ học Thiên Chúa giáo đậm chất Việt. ". Tác giả góp phần làm phong phú và khẳng định vị trí của thơ Công Giáo trong nền thi ca nước nhà. Nếu như thế hệ trước có các nhà thơ Công Giáo tiêu biểu như Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng, Xuân Văn... thì Lê Đình Bảng tiếp nối và mở rộng biên độ sáng tạo, ca ngợi đức tin và đào sâu những suy tư triết học, nhân sinh. Những tác phẩm của ông khơi dậy ý thức về đức tin, không chỉ dành riêng cho tín hữu mà còn lan tỏa đến những ai trăn trở về ý nghĩa cuộc đời, về sự hiện hữu và lòng biết ơn Thượng Đế. Bên cạnh đó, thơ Lê Đình Bảng tạo ra cầu nối giữa văn thơ Công Giáo và văn hóa dân tộc, nó không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh sáng tạo mới.
Nhiều bài thơ của Lê Đình Bảng được phổ nhạc, trở thành những bài thánh ca vang lên trong đời sống phụng vụ và tâm hồn tín hữu Công Giáo Việt Nam. Chính sự kết hợp hài hòa giữa thi ca và âm nhạc đã làm cho thơ ông vượt ra khỏi giới hạn của một thể loại văn học đơn thuần, trở thành một phần của đời sống tâm linh, đồng hành cùng những giờ cầu nguyện và suy niệm của tín hữu. Với những đóng góp lớn lao đó, thơ Lê Đình Bảng trở thành một phần quan trọng trong dòng chảy thơ ca Việt Nam đương đại, mở ra những hướng đi mới cho thơ Công Giáo trong thời đại hôm nay.
* * *
Thơ của Francis Assisi Lê Đình Bảng là thế giới của đức tin, nơi mỗi vần thơ là lời nguyện ca dâng lên Thiên Chúa. Đó là hành trình suy niệm về ân sủng, tình yêu và ơn cứu độ, qua đó khẳng định và củng cố mối hiệp thông giữa con người với Đấng-Tối-Cao cũng như tình huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu. Không chỉ mang chiều kích tâm linh, thơ ông còn khắc họa đời sống bình dị, nơi ký ức tuổi thơ, tình yêu gia đình và quê hương trở thành những giá trị vĩnh cửu, nuôi dưỡng tâm hồn con người. Nhà thơ cũng đồng thời mở ra cuộc đối thoại với thời gian, con người và lịch sử. Hành trình thi ca của ông là sự dâng hiến, nơi mỹ học tôn giáo giao thoa hài hòa với mỹ học dân tộc. Thơ Lê Đình Bảng đang tiếp tục lan tỏa, trở thành nguồn cảm hứng cho những thế hệ sau.
Những bài thơ của ông đã và sẽ tiếp tục vang lên, không chỉ trong lòng tín hữu mà còn trong tâm hồn những ai kiếm tìm ý nghĩa và sự cứu rỗi trong cuộc sống. Cá nhân tôi luôn dành cho thơ ông sự yêu mến và ngưỡng mộ. Qua những vần thơ ấy, tôi học được cách kết hợp nhuần nhị giữa đức tin và nghệ thuật, giữa chiêm nghiệm tâm linh và sáng tạo thi ca. Xin kính chúc ông luôn tràn đầy ơn phúc, tiếp tục sáng tạo và để lại cho đời thêm nhiều di sản thiêng liêng.
Nhà thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng là cây bút Công Giáo. Ông sinh ngày 17/9/1942 tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyên quán: Thọ Cách, Thụy Anh( Thái Thụy), Thái Bình.
Học Tiểu chủng viện Thái Bình, Phan Rang (1954-1957); Tiểu chủng viện Phan-xi-cô Xavie Bùi Chu (1957-1960); Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh, Sài gòn;
Đại Học Văn Khoa Sài gòn (1961-1965, 1967-1975); Cử nhân Giáo Khoa Văn Chương Việt Hán, Đại Học Sư Phạm Ban Việt Hán; Cao Học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.
Ông từng là thành viên, ủy viên các Ban thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam: Ủy Ban Thánh Nhạc, Ủy Ban Phụng Tự, Ủy Ban Giáo Dân, Ủy Ban Văn hóa, Ủy Ban loan báo Tin Mừng.
Lê Đình Bảng là cây bút đa tài, hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết văn xuôi, tùy bút, nghiên cứu, sưu tầm, phê bình văn học, Thánh Nhạc Thánh Ca, biên soạn giáo trình văn học, gia phả học, báo chí…
Ông đã xuất bản: "Những dặm dài hành hương" (Trường ca lục bát về cuộc di cư từ Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Phủ Lý, Hà Nội và Hải Phòng, Sài gòn, 1954-1955); "Lưu đày" (Thơ nguyện cầu. Phan Rang, 1956-1957. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Lời con dâng" (Thơ nguyện cầu. Phan Rang, 1957. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Lộc trời" (Thơ nguyện cầu. Sài gòn, Gia Định, 1958-1961. Bút hiệu: Mạc La Đình); "Bước chân người Giao Chỉ" (Thơ. Bút hiệu Đỳnh Bảng. Sài gòn, 1967); "Đêm Rất Thánh" (Tuỳ bút. Quà tặng học trò, 1969); "Kinh Sầu" (Thơ nguyện cầu. Long Xuyên, Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang, 1965-1969); "Hiện tượng lục bát trong thi ca Việt Nam" (Tiểu luận. Sài gòn, 1970); "Giảng văn - Văn học sử Việt Nam - Phương pháp nghị luận" (Giáo trình giảng dạy Quốc văn các lớp Đệ Nhất và Đệ Nhị cấp, ban ABCD. Sài gòn, 1963-1975); "Chuyên Hóa - Sinh hoạt học đường" (Giáo trình giảng dạy các lớp 10,11,12. Sài gòn, 1972-1975. Giảng khoá Giáo chức Tư thục Công Giáo Việt Nam tại Sài gòn, Mỹ Tho và Ban Mê Thuột, 1970-1974.); "Dưới cờ" (Thơ, 1972); "Gia phả Lê tộc" (Điền dã và ghi chép tại Sài gòn, Gia Định, Đồng Nai, Long Xuyên, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, 1976-1986); "Vòng quanh xứ đạo" (Bút hiệu Lê Quán Thư. Bút ký lịch sử các xứ đạo – nhà thờ tại Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định, 1988-1991); "Hành hương" (Thơ, Sài gòn, 1994); "Ngôn ngữ Nhà Đạo" (Bút hiệu: Mộ Dung, Thuỵ Anh, Người Sông Hoá, Nhất Kiếm, Quốc Chính, Ngũ Kinh. Tạp bút chuyện văn hoá nhà đạo, 1988-1995); "Thánh ca Hoài Đức – Một thời để nhớ" (Biên khảo, 1994-2002); "Chuyện đất và người làng Thọ" (Bút ký gia phả học, 2005); "Thiên đường của loài chim sâu" (Tuyển tập truyện ngắn, bút hiệu Thuỵ Anh, Lại Thị Hương Nhu, Sài gòn, 1963-2007); "Hành hương" (Thơ tái bản, Nxb. Tôn Giáo, 2006); "Những tháng ngày không quên" (Sổ tay Hát Lên Mừng Chúa - Bút hiệu Lê Quán Thư. Ghi nhận mọi sinh hoạt lịch sử, sáng tác, hội thảo, biểu diễn, giảng dạy Thánh nhạc Thánh ca qua những chặng đường lịch sử từ 1990); "Kinh trong sương" (Tuyển tập thơ Công Giáo. Hợp soạn với Trăng Thập Tự, Phan xi cô, Cao Huy Hoàng, 2007); "Các giám mục nước ngoài phục vụ tại Việt Nam" (Biên khảo lịch sử Công Giáo. Hợp soạn với Lê Ngọc Bích và Lê Thiện Sỹ, Nxb. Tôn Giáo, 2009); "Ở thượng nguồn thi ca Công Giáo Việt Nam" (Sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu thi ca Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ (thế kỷ XVI) đến hiện đại. Toàn bộ gồm 6 Tập, trên 4000 trang, với 6 chủ đề: Thơ trong Kinh nguyện; thơ cầu nguyện; thơ Phúc Âm diễn ca; thơ Huấn ca; thơ Ký Ức dòng đời và thơ trong Thánh nhạc thánh ca. Nxb. Tôn Giáo, Đông Phương, 2009); "Quỳ trước đền vàng" (Thơ. Nxb. Tôn Giáo, 2010); "Văn học Công Giáo Việt Nam – Những chặng đường" (Biên khảo lịch sử văn học Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ (thế kỷ XVI) đến hiện đại. Nxb. Từ Điển Bách Khoa, 2010); "Như hương trầm bay lên" (Biên khảo về Hàn Mạc Tử. Hợp soạn với Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, 2010); "Nhã ca La Vang" (Tuyển tập thi ca về Đức Mẹ La Vang (1901-2014); "Gặp gỡ những dòng sông" (Tạp bút, Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Về bên mẹ – Vào đời – Nói với những người đang yêu" (Bút ký, tâm tình với khách hành hương La Vang (1998-2014); Giáo trình giảng dạy các lớp Vào Đời, Nhân Bản và Giáo Lý Hôn Nhân (1988-2016) tại các nhà thờ giáo xứ tại Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Xuân Lộc, Đà Lạt, Bình Dương, Long Xuyên, Nha Trang, Qui Nhơn, Huế... "Lời tự tình của bến trần gian" (Thơ. Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Đội ơn lòng chúa bao dung" (Thơ, 2012); "Lời khấn nhỏ chiều chúa nhật" (Thơ, Nxb, Tôn Giáo 2012); "Về cõi trời mênh mang" (Thơ, Nxb. Tôn Giáo, 2012); "Hành trình một trăm năm (1908-2008) Báo chí Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo về Lịch sử Báo chí Công Giáo Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện đại. 2008-2012); "Nửa vòng trái đất vừa xa vừa gần" (Tạp bút du ký Hoa Kỳ, Nxb Tôn Giáo, 2014); "Ơn đời một cõi mênh mang" (Thơ, Nxb Tôn Giáo); "Đồng dao Nước Trời" (Tuyển tập Thơ và Nhạc với Nhạc sỹ Hồ Đăng Tín, Nxb Tôn Giáo, 2014); "Vè vãn ca ngâm Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo, Nxb. Đồng Nai, 2015). Lê Đình Bảng đã hoàn tất một số tác phẩm như "Quê Người" (Thơ), "Dâng Hoa Toàn Tập" (Biên khảo), "Lục Bát Thương Hồ" (Thơ); "Dặm Dài Nghêu Ngao" (Thơ), "Ca Dao Mẹ" (Thơ); "Văn Hoá Lễ Hội Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo), "Ở Một Cõi Nào" (Thơ), "Tản Mạn Chuyện Văn Hoá Công Giáo" (Tạp bút), "Lòng Đạo Dân Gian Của Người Công Giáo Việt Nam" (Biên khảo) và dự định sẽ xuất bản trong tương lai. (Tư liệu do tác giả cung cấp).
Hải Phòng - Phát Diệm, 10/2/2025
M.V.P
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Hồng (2018), Giọng điệu giãi bày trong thơ Công Giáo Việt Nam hiện đại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Kim Hồng (2018), Biểu tượng trong thơ Công Giáo Việt Nam hiện đại, Tạp chí Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Vy Khanh (2023), Sơ thảo Văn học Công Giáo Việt Nam, Nguyễn Publishing, Toronto, Canada.
4. Cảm thức hiện sinh hữu thần trong tập thơ "Hành hương" của Lê Đình Bảng. Hội dòng Nữ tu Thừa sai Đức Mẹ Trinh Vương.
5. Khải Triều (2022), Những nhà thơ Công Giáo Việt Nam hiện nay, Lưu hành nội bộ, Thư viện Mân Côi.
6. Bùi Công Thuấn (2020), Những mùa vàng văn học Công Giáo Việt Nam, NXB Hội Nhà văn.
7. Bùi Công Thuấn (2022), Văn học Công Giáo Việt Nam đương đại, NXB Hội Nhà văn.
VietCatholic TV
Tướng Syrskyi: Tổn thất nặng về chiến xa, Nga tê liệt. Vụ rò rỉ tai hại kế hoạch chiến tranh của Mỹ
VietCatholic Media
03:35 26/03/2025
1. Nga mất 61 hệ thống pháo, 18 xe chiến đấu bộ binh và 5 xe tăng trong một ngày. Ukraine đang đạt được những thắng lợi trước mắt
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv chiều Thứ Ba, 25 Tháng Ba, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cho biết trong 24 giờ trước đó, Nga đã mất 61 hệ thống pháo binh, 18 xe chiến đấu bọc thép, gọi tắt là AFV và năm xe tăng trong cuộc chiến với Kyiv, cũng như 1.180 binh sĩ.
Tổn thất của Nga xảy ra trong bối cảnh Mạc Tư Khoa, Washington và Kyiv vẫn đang tiếp tục đàm phán nhằm chấm dứt cuộc chiến kéo dài ba năm.
Mặc dù đã có lệnh ngừng bắn có giới hạn trong 30 ngày, giao tranh vẫn tiếp diễn và những tổn thất liên tục của Mạc Tư Khoa đang góp phần gây ra tình trạng thiếu hụt thiết bị. Vyacheslav Gladkov, Thống đốc khu vực Belgorod của Nga, cho biết quân Ukraine đã tấn công xuyên biên giới vào tỉnh của ông và phá hoại nghiêm trọng các tuyến hậu cần và các sở chỉ huy.
Ngoài các hệ thống pháo, xe chiến đấu bộ binh và xe tăng, Mạc Tư Khoa còn mất 118 UAV, 98 xe và thùng nhiên liệu, cùng ba hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt vào thứ Hai.
Theo số liệu từ Quân đội Ukraine, tổn thất hệ thống pháo mỗi tháng của Nga đạt đỉnh vào tháng 7 và tháng 8 năm 2024, sau đó giảm trước khi tăng trở lại vào tháng 2 năm 2025.
Mạc Tư Khoa đã phải chịu tổn thất lớn về xe chiến đấu bộ binh kể từ tháng 10 năm 2023, mặc dù đã chứng kiến sự sụt giảm về tổn thất xe tăng kể từ tháng 6 năm 2024.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Ukraine cho biết Nga đã mất 905.940 binh sĩ, 21.590 hệ thống pháo, 21.670 xe chiến đấu bộ binh, 10.425 xe tăng, 30.759 UAV và 41.824 xe cộ và thùng nhiên liệu.
Tướng Oleksandr Syrskyi, Tổng tư lệnh Quân đội Ukraine, cho biết: “Nhờ vào công tác chiến đấu phối hợp của những người bảo vệ chúng ta, hơn một ngàn rưỡi, cụ thể là 1.609, xe thiết giáp chiến đấu và 748 xe tăng của địch đã bị vô hiệu hóa kể từ đầu năm. Cảm ơn những người lính của chúng ta! Lực lượng Phòng vệ Ukraine tiếp tục tiêu diệt quân xâm lược và thiết bị của chúng. Vinh quang cho Ukraine!”
Nhóm nghiên cứu IISS cho biết Ukraine đang có những thắng lợi trước mắt nhờ cuộc tấn công xuyên biên giới bất ngờ vào tỉnh Belgorod, cắt đứt hệ thống hậu cần của Nga. Tuy nhiên, IISS cảnh giác rằng: “Mặc dù lực lượng Nga có thể suy yếu trong những tháng tới, nhưng họ đã được tái thiết và thích nghi đầy đủ để duy trì các hoạt động tấn công trong ít nhất một năm nữa; tuy nhiên, điều này sẽ phải trả giá rất đắt về trang thiết bị và thương vong.”
“Tình hình ở Ukraine không đến mức tồi tệ như đầu năm 2024, nhưng nước này vẫn sẽ phải dựa vào sự hỗ trợ của phương Tây và cải thiện khả năng quản lý nhân lực để tránh những thất bại tiếp theo trên chiến trường.”
Nga có thể gặp vấn đề sau khi lệnh ngừng bắn kết thúc vì nước này có thể không có thời gian để bổ sung trang thiết bị để tiếp tục chiến đấu hiệu quả.
[Newsweek: Russia Loses 61 Artillery Systems, 18 AFVs and 5 Tanks in a Day: Ukraine]
2. Nhiều lực lượng Nga Tấn Công Bằng Xe Nhỏ Gọn, Xe Tải Và Xe Golf
Theo một cuộc khảo sát gần đây, xe tải bọc thép và các loại xe dân dụng như xe tải nhỏ, xe hơi nhỏ gọn và xe địa hình - tức là xe golf - hiện chiếm khoảng 70 phần trăm tổn thất của Nga.
Nhưng tỷ lệ ngày càng tăng của các phương tiện dân sự trong đống đổ nát của cuộc chiến kéo dài 37 tháng giữa Nga và Ukraine không có nghĩa là có ít xe tăng và xe chiến đấu của Nga hơn - những phương tiện truyền thống dành cho lực lượng cơ giới - dọc theo tuyến đầu dài 700 dặm.
Không, thực tế là có nhiều xe tăng và xe chiến đấu bị phá hủy và bỏ lại trên chiến tuyến hiện nay hơn so với một năm trước, ngay cả khi những xe thiết giáp chuyên dụng này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số tổn thất của Nga.
Sự gia tăng số lượng xe cộ các loại - cả xe thiết giáp và không bọc thép - cho thấy cường độ các cuộc tấn công chồng chéo của Nga diễn ra trên nhiều khu vực ở miền đông Ukraine và miền tây nước Nga trong 18 tháng qua.
Cho đến gần đây, quân Nga vẫn tấn công hầu như ở mọi nơi, với số lượng lớn, bằng bất kỳ phương tiện nào họ có thể lấy được từ các kênh chính thức hoặc không chính thức.
Nhưng tổn thất của Nga tăng theo các cuộc tấn công của Nga, và kho xe tăng và xe chiến đấu bộ binh truyền thống cạn kiệt so với nhu cầu ngày càng tăng, buộc các trung đoàn và lữ đoàn phải chuyển sang xe golf, xe Lada nhỏ gọn và xe tải Bukhanka để tăng khả năng cơ động cho các cuộc tấn công ngày càng thường xuyên.
Các con số cho thấy câu chuyện. Như nhà phân tích Chris Jones minh họa, xe tăng bọc thép và xe chiến đấu chiếm khoảng một nửa trong số khoảng 375 xe mà Nga mất vào tháng 2 năm 2024.
Một năm sau vào tháng 2, Nga mất khoảng 1.100 xe cộ—và 250 xe là xe tăng và xe chiến đấu. Một nửa số xe của Nga bị mất trong tháng đó là xe dân sự hoặc xe tải bọc thép. Nhưng một nửa bao gồm xe tăng và xe chiến đấu vẫn đại diện cho sự gia tăng thô về số lượng những chiếc xe này xuất hiện dọc theo tuyến đầu.
Ngành công nghiệp Nga có thể chế tạo khoảng 200 xe chiến đấu BMP-3 và 90 xe tăng T-90M mới mỗi năm cũng như hàng trăm xe thiết giáp mới khác, bao gồm xe chiến đấu bánh lốp BTR-82.
Vì các trung đoàn cơ giới của Nga mất xe thiết giáp với tốc độ hàng năm là 6.000 xe một năm, hoặc 500 xe một tháng - chủ yếu là do mìn, pháo binh và máy bay điều khiển từ xa của Ukraine - nên đã xảy ra tình trạng thiếu hụt.
Càng ngày càng tuyệt vọng vì tính cơ động trên chiến trường, ngay từ năm 2022, người Nga đã mở các căn cứ lưu trữ rộng lớn, nơi từng chứa hàng chục ngàn phương tiện lỗi thời từ thời Chiến tranh Lạnh.
Nhưng ngay cả những chiếc xe cũ này cũng không thể trang bị đầy đủ cho các trung đoàn tiền tuyến đủ nhanh, xét đến tốc độ hoạt động ngày càng tăng của các trung đoàn. Nhà phân tích nguồn mở Jompy đã giải thích rõ nhất vào tháng Giêng, lấy xe chiến đấu bánh lốp BTR làm nghiên cứu điển hình. Jompy viết: “Có vẻ như Nga vẫn còn tổng cộng 2.358 xe BTR-60/70/80 được lưu trữ trong số 3.673 xe được lưu trữ trước chiến tranh”.
Vẻ bề ngoài có thể đánh lừa. “Trên thực tế, hầu hết các xe đều là BTR-60 và -70 cũ, trong tình trạng tồi tệ” và rất khó để tái kích hoạt, Jompy giải thích.
Xe kiểu dân sự là phương sách cuối cùng. Nhưng đó là phương sách cuối cùng đã trở nên bình thường. “Tôi đoán là vụ tấn công Lada này giờ đã là chuyện bình thường rồi?” nhà phân tích nguồn mở Moklasen trầm ngâm khi họ xem xét kỹ lưỡng một đoạn video khác từ một đơn vị máy bay điều khiển từ xa của Ukraine phá hủy những chiếc xe nhỏ gọn của Nga tấn công các vị trí của Ukraine vào cuối tháng Giêng.
Hai tháng sau, chuẩn mực đã trở nên nhất quán. Rất nhiều người Nga tấn công bằng rất nhiều xe dân sự không bọc thép đến nỗi những chiếc xe này hiện chiếm hơn hai phần ba số thương vong.
Nhưng vẫn còn rất nhiều xe tăng bọc thép và xe chiến đấu trong hỗn hợp. Thực tế là ngày càng nhiều hơn—mặc dù nhiều trong số chúng đã có tuổi đời hàng thập niên.
[Forbes: A Lot More Russian Troops Are Attacking In Compact Cars, Vans And Golf Carts]
3. Tổng thống Trump bày tỏ sự tin tưởng vào Waltz giữa những tai tiếng nghiêm trọng liên quan đến cuộc trò chuyện về kế hoạch chiến tranh
Tổng thống Trump bày tỏ sự tin tưởng vào cố vấn an ninh quốc gia của mình, Michael Waltz, trong một cuộc phỏng vấn với NBC News hôm thứ Ba trong bối cảnh các quan chức cao cấp vô tình đưa một nhà báo vào chuỗi tin nhắn tuyệt mật thảo luận về các cuộc không kích ở Yemen.
Tờ Atlantic đưa tin hôm thứ Hai rằng biên tập viên của họ đã vô tình được đưa vào một cuộc trò chuyện tuyệt mật qua ứng dụng Signal, trong đó những người tham gia thảo luận về các kế hoạch chiến tranh nhạy cảm. Cuộc trò chuyện tuyệt mật này lẽ ra chỉ dành cho các thành viên nội các của Tổng thống Trump và một số tướng lãnh. Đây là một vụ tai tiếng rất lớn, gây sốc cho các quan chức an ninh quốc gia và các thành viên của Quốc hội vì các thông tin nhạy cảm liên quan đến an ninh quốc gia đã bị rò rỉ ra ngoài. Nó còn gây ra một cú sốc ngoại giao vì một số Bộ Trưởng đã đưa ra những lời lăng mạ tàn bạo đối với một số quan chức của các nước đồng minh của Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth đã gọi các viên chức Âu Châu là “THẢM HẠI” và “ĐỒ ĂN BÁM” gây ra các phản ứng dữ dội trong NATO và Liên Hiệp Âu Châu.
POLITICO đưa tin hôm thứ Hai rằng Waltz có thể là người phải chịu tội trong Tòa Bạch Ốc.
“Michael Waltz đã học được một bài học và ông ấy là một người đàn ông tốt,” Tổng thống Trump nói trong cuộc phỏng vấn với NBC News.
Tổng thống nói tiếp rằng sự hiện diện của nhà báo trong nhóm trò chuyện “hoàn toàn không gây ra tác động nào” và các cuộc tấn công của Houthi “hoàn toàn thành công”.
Có những cuộc thảo luận đang diễn ra giữa các viên chức hành chính cao cấp về việc phải làm gì với Waltz, POLITICO đã đưa tin trước đó, bao gồm cả việc buộc ông phải từ chức. “Bạn không thể liều lĩnh với tư cách là cố vấn an ninh quốc gia”, một viên chức cao cấp được giấu tên để thảo luận về các cuộc thảo luận nội bộ cho biết vào thứ Hai.
Đáp lại báo cáo cho rằng Waltz có thể sắp bị sa thải, thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt cho biết vào sáng thứ Ba rằng Tổng thống Trump “vẫn tin tưởng vào nhóm an ninh quốc gia của mình, bao gồm cả Mike Waltz.”
Bà cho biết: “Những câu chuyện đưa ra thông tin ngược lại đều do các nguồn tin ẩn danh đưa ra và rõ ràng họ không nói chuyện với Tổng thống”.
Đầu tháng này, tổng biên tập của tờ The Atlantic, Jeffrey Goldberg, đã nhận được thông báo rằng ông đã được Waltz thêm vào một nhóm trò chuyện có tên “Nhóm nhỏ PC của Houthi” có vẻ như bao gồm hơn chục quan chức cao cấp khác, trong đó có Phó Tổng thống JD Vance, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth, Giám đốc Tình báo Quốc gia Tulsi Gabbard và Giám đốc CIA John Ratcliffe.
Liên quan đến chuỗi văn bản rò rỉ được Goldberg công bố trên tờ The Atlantic, Hội đồng An ninh Quốc gia xác nhận với POLITICO, The Atlantic và các cơ quan truyền thông khác, cũng như Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson, rằng chúng “có vẻ là xác thực”.
Nhưng Tòa Bạch Ốc và các đồng minh khác đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của vụ vi phạm. Hegseth đã nói tại Hawaii vào thứ Hai rằng “không ai nhắn tin về kế hoạch chiến tranh”, là điều mà Leavitt đã nhắc lại vào sáng thứ Ba. “Jeffrey Goldberg nổi tiếng với những lời lẽ giật gân”, Leavitt nói trên X, khẳng định rằng “không có 'kế hoạch chiến tranh' nào được thảo luận”.
Tạp chí Atlantic đã công bố một số thông điệp từ chuỗi này — bao gồm cả kế hoạch tấn công lực lượng Houthi ở Yemen — nhưng Goldberg đã giữ lại các thông điệp khác, với lý do là vì lý do an ninh quốc gia.
Trong lần xuất hiện vào sáng thứ Ba trên chương trình “Morning Joe” của MSNBC, Goldberg cho biết ông đã nhận được một tin nhắn trong chuỗi tin nhắn từ Hegseth, nêu chi tiết “trình tự diễn biến cuộc chiến, trình tự tấn công, gói vũ khí, mục tiêu”.
“Tôi không muốn đi vào chi tiết, vì tôi không nghĩ rằng việc đưa ra các vấn đề hoạt động là có trách nhiệm, và tôi không hiểu tất cả các nguồn và phương pháp vấn đề được nêu ra bởi điều này từ góc độ tình báo,” Goldberg nói. “Tôi đã thấy phản hồi của Hegseth ngày hôm qua. Phản ứng của ông ấy không nghiêm chỉnh.”
Đảng Dân chủ và một số đảng viên Cộng hòa trên Đồi Capitol đã bày tỏ sự tức giận và lo ngại, cả về những gì họ cho là sự liều lĩnh của các viên chức khi không chỉ thêm một công dân vào các cuộc thảo luận nhạy cảm mà còn giao tiếp thông qua một kênh không an toàn. Thượng nghị sĩ Susan Collins gọi đó là “một vấn đề cực kỳ đáng lo ngại và nghiêm trọng”.
Dân biểu Mike Lawler cho biết các biện pháp bảo vệ cần được đưa ra để “bảo đảm điều này không bao giờ xảy ra nữa”.
Những người theo đảng Dân chủ chỉ trích nhiều hơn. “Chỉ có một từ cho điều này: FUBAR,” Dân biểu Pat Ryan, một cựu chiến binh Lục quân hiện đang làm việc tại Ủy ban Dịch vụ Vũ trang, đã viết trên X, sử dụng một từ viết tắt mô tả khi có điều gì đó hoàn toàn tồi tệ. FUBAR là từ chửi thề đại khái có nghĩa là “Khốn kiếp đến mức khó chấp nhận và vô phương sửa chữa”
Ryan nói thêm: “Nếu đảng Cộng hòa tại Hạ viện không tổ chức phiên điều trần về nguyên nhân xảy ra sự việc này NGAY LẬP TỨC, tôi sẽ tự mình làm điều đó”.
Tuy nhiên, nhiều đồng minh trung thành của MAGA đang hạ thấp vụ rò rỉ. “Chúng tôi không biết có bao nhiêu phần trong số này là chính xác”, Thượng nghị sĩ Josh Hawley, một thành viên của Ủy ban Tư pháp Thượng viện, cho biết trên Fox News. “Chúng tôi đang phàn nàn về việc ai có trong tin nhắn văn bản và ai không. Ý tôi là, thôi nào.”
[Politico: Trump expresses confidence in Waltz amid war plans chat fallout]
4. Hoa Kỳ công bố thỏa thuận Hắc Hải với Nga và Ukraine
Tòa Bạch Ốc hôm thứ Ba tuyên bố rằng họ đã đạt được các thỏa thuận riêng với Nga và Ukraine để cho phép “hàng hải an toàn” ở Hắc Hải, loại bỏ rào cản lớn đối với các cuộc đàm phán hòa bình giữa hai nước.
Chính quyền Tổng thống Trump, trong hai tuyên bố, cho biết các cuộc đàm phán cấp kỹ thuật giữa các quan chức Hoa Kỳ, Nga và Ukraine tại Riyadh, Ả Rập Xê Út, đã dẫn đến các thỏa thuận nhằm “bảo đảm an toàn hàng hải, loại bỏ việc sử dụng vũ lực và ngăn chặn việc sử dụng tàu thương mại cho mục đích quân sự ở Hắc Hải”.
Hoa Kỳ cũng cho biết sẽ giúp khôi phục “khả năng tiếp cận thị trường thế giới về xuất khẩu nông sản và phân bón” của Nga và thực hiện các bước để cải thiện khả năng tiếp cận vận chuyển toàn cầu của Mạc Tư Khoa.
Theo Hoa Kỳ, cả hai bên cũng đã đồng ý hợp tác hướng tới việc thực hiện lệnh ngừng bắn về cơ sở hạ tầng năng lượng mà Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và Putin đã đồng ý trong các cuộc gọi với Tổng thống Trump vào đầu tháng này. Và Hoa Kỳ đã nhắc lại cam kết của mình về việc “hỗ trợ đạt được việc trao đổi tù nhân chiến tranh, trả tự do cho những người bị giam giữ dân sự và trả lại những đứa trẻ Ukraine bị chuyển đi cưỡng bức”.
Trong thông báo của mình, Mạc Tư Khoa tỏ ra thận trọng hơn. Điện Cẩm Linh cho biết như trên rằng thỏa thuận bảo đảm quá cảnh an toàn qua Hắc Hải sẽ có hiệu lực sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ một số lệnh trừng phạt và hạn chế đối với lĩnh vực tài chính đối với các công ty xuất khẩu sản phẩm thực phẩm và phân bón. Những chi tiết này không được đưa vào tuyên bố của Hoa Kỳ.
Một quan chức Tòa Bạch Ốc giấu tên để thảo luận về các cuộc đàm phán với Nga cho biết “người Nga đã liên lạc với chúng tôi vào chiều nay để yêu cầu đàm phán thêm”, cho thấy việc nới lỏng lệnh trừng phạt vẫn chưa phải là vấn đề được giải quyết.
Trong khi đó, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã bày tỏ mối quan ngại về thỏa thuận này tại một cuộc họp báo hôm thứ Ba ở Kyiv. Nhưng ông khẳng định Ukraine đã có động thái đúng đắn. “Còn quá sớm để nói rằng điều này sẽ hiệu quả”, ông nói. “Nhưng chúng tôi đã làm đúng khi đồng ý vì không ai đổ lỗi cho Ukraine vì không muốn hòa bình”.
Một thỏa thuận thành công sẽ là một bước đột phá lớn. Vấn đề về quyền vận chuyển và an toàn ở Hắc Hải đã làm đau đầu các nhà đàm phán đang tìm cách chấm dứt cuộc xâm lược kéo dài ba năm của Nga vào Ukraine và củng cố chuỗi cung ứng toàn cầu phụ thuộc vào xuất khẩu ngũ cốc, dầu hạt và phân bón từ cả hai nước.
Chiến tranh đã làm đảo lộn các chuyến hàng ngũ cốc qua Hắc Hải, làm gia tăng nỗi lo sợ toàn cầu về tình trạng thiếu lương thực. Nhiều quốc gia ở Phi Châu và Trung Đông phụ thuộc vào các mặt hàng xuất khẩu này để duy trì nguồn cung cấp lương thực của họ.
Bế tắc ban đầu đã được giải quyết vào tháng 7 năm 2022, khi Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hiệp Quốc làm trung gian cho “Sáng kiến ngũ cốc Hắc Hải”, cho phép nguồn cung cấp lương thực quan trọng di chuyển qua Hắc Hải mà không bị đe dọa tấn công.
Nhưng thỏa thuận đã đổ vỡ vào năm 2023 sau khi Điện Cẩm Linh đưa ra một loạt yêu cầu mới để gia hạn thỏa thuận, bao gồm cả việc nới lỏng lệnh trừng phạt và cho phép tàu của nước này tham gia. Những nỗ lực liên tiếp của Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác nhằm khôi phục thỏa thuận đã không thành công, mặc dù ngũ cốc của Ukraine vẫn có thể vượt qua. Xuất khẩu thậm chí còn tăng kể từ năm 2023.
[Newsweek: US announces Black Sea deal with Russia and Ukraine]
5. Trung Quốc phủ nhận việc toan tính tham gia phái bộ gìn giữ hòa bình Ukraine
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã phủ nhận thông tin trên các phương tiện truyền thông rằng nước này đang cân nhắc tham gia vào một phái bộ gìn giữ hòa bình có thể có ở Ukraine, tờ báo nhà nước Trung Quốc Hoàn Cầu Thời Báo đưa tin vào ngày 24 tháng 3.
Hãng tin Đức Die Welt đưa tin vào ngày 22 tháng 3 rằng, theo các nguồn tin ngoại giao không được tiết lộ, Bắc Kinh đang cân nhắc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình như một phần của “liên minh những người tự nguyện” do Âu Châu đứng đầu nhằm bảo đảm lệnh ngừng bắn ở Ukraine.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo về câu chuyện này, phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Vương Văn Bân (Wang Wenbin - 王文斌) cho biết tại cuộc họp báo chiều Thứ Hai, 24 Tháng Ba, rằng những tuyên bố này hoàn toàn sai sự thật.
Phái bộ gìn giữ hòa bình do Anh và Pháp dẫn đầu có mục đích bảo đảm an ninh cho Ukraine trong trường hợp ngừng bắn bằng cách điều động quân đội nước ngoài trên bộ cũng như hỗ trợ trên không và trên biển.
Chi tiết về nhiệm vụ vẫn chưa rõ ràng vì các cuộc đàm phán trong “liên minh những người sẵn sàng” vẫn đang diễn ra. Cuộc thảo luận diễn ra khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump thúc đẩy việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Ukraine trong khi bác bỏ khả năng tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ do Âu Châu dẫn đầu.
Bắc Kinh tuyên bố là một bên trung lập trong cuộc chiến tranh Nga-Ukraine mặc dù là đối tác kinh tế và chính trị thân thiết với Mạc Tư Khoa. Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Nga chống lại tác động của các lệnh trừng phạt của phương Tây và trở thành nguồn cung cấp hàng hóa lưỡng dụng hàng đầu cho mục đích quân sự.
Về mặt chính thức, Trung Quốc đã phủ nhận việc cung cấp hỗ trợ quân sự cho cả hai bên và nhấn mạnh sự cần thiết phải có một giải pháp hòa bình.
[Kyiv Independent: China denies considering participation in Ukraine peacekeeping mission]
6. Người tuyên truyền của Putin buộc phải xin lỗi sau cuộc đụng độ với đồng minh của Kadyrov
Vladimir Solovyov, người dẫn chương trình truyền hình nhà nước Nga và là đồng minh chủ chốt của Putin, đã buộc phải quay phim xin lỗi trực tiếp sau khi chỉ trích blogger quân sự Roman Alekhine trên sóng truyền hình.
Cách dùng từ của Solovyov dường như đã xúc phạm đến tiểu đoàn Akhmat của nhà lãnh đạo Chechnya Ramzan Kadyrov, đơn vị đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến ở Ukraine, và các quan chức Chechnya.
Solovyov, được coi là người tuyên truyền chính của Nga, được biết đến với những phát biểu gây tranh cãi cao độ trên truyền hình nhà nước, và hiếm khi xin lỗi vì đã làm như vậy. Lời xin lỗi công khai của ông nhấn mạnh mức độ nghiêm trọng của phản ứng dữ dội và áp lực mà ông đã nhận được vì đã làm phật lòng các quan chức Chechnya.
Phát sóng trực tiếp vào ngày 19 tháng 3, Solovyov đã khiển trách Alekhine, cựu cố vấn của thống đốc vùng Kursk của Nga, người đã nói rằng ông đã phục vụ trong Akhmat một thời gian ngắn và tuyên bố đã tham gia vào một trong những hoạt động quân sự gần đây của tiểu đoàn.
Alekhine cho biết ông đã ký hợp đồng với tiểu đoàn, nhưng nhận ra rằng ông đã “phạm sai lầm” và nghỉ việc chỉ sau 23 ngày.
Hôm 19 Tháng Ba, Solovyov bày tỏ sự phẫn nộ về thời gian ngắn ngủi của ông ta trong tiểu đoàn, cho rằng điều này làm hoen ố danh tiếng của tiểu đoàn, chắc chắn tiểu đoàn này có vấn đề nào đó.
Sau khi bị chỉ trích, Solovyov quay sang bênh vực tiểu đoàn Akhmat và tấn công Alekhine.
“Đây là một đội quân hay một băng đảng? Ở đây, Akhmat là một đội quân,” người tuyên truyền của Điện Cẩm Linh nói trên truyền hình nhà nước. “Hắn là ai vậy? Kẻ gian này là ai? Làm sao đơn vị Akhmat huyền thoại có thể giữ được điều này trong hàng ngũ của mình?”
Bình luận của Solovyov đã gây ra phản ứng dữ dội từ chính quyền Chechnya. Bộ trưởng Chính sách quốc gia, Quan hệ đối ngoại và Thông tin Akhmed Dudayev đã công khai chỉ trích Solovyov, nói trong một video trên Telegram rằng lời chỉ trích của ông có thể “phá vỡ” mối quan hệ hữu nghị của họ.
Dudayev cũng yêu cầu Solovyov làm rõ liệu lời chỉ trích của ông là nhằm vào đại diện Chechnya hay tiểu đoàn Akhmat.
Dường như đang chịu áp lực, Solovyov đã quay một video làm rõ rằng lời chỉ trích của ông nhắm vào Alekhine, người mà ông mô tả là “không xứng đáng” và làm ảnh hưởng đến “danh tiếng hoàn hảo” của đơn vị. Đoạn clip được Dudayev đăng trên Telegram.
Alekhine đã lên Telegram yêu cầu mọi người “hãy lo chuyện của mình”.
Blogger quân sự Roman Alekhine phát biểu trên Telegram vào ngày 22 tháng 3: “Mọi người nên lo chuyện của mình—đó là kết luận chính rút ra từ tình hình hợp đồng của tôi.
Alekhine nói thêm: “Bộ Quốc phòng chỉ đơn giản là sửa chữa sai lầm mà tôi đã mắc phải bằng cách ký hợp đồng”.
“Tôi là một nhà quản lý dân sự, một nhà công nghệ xã hội, một nhà phân tích, một tình nguyện viên, theo một nghĩa nào đó—một blogger, nhưng không phải là một quân nhân có kỹ năng quân sự. Và tôi hữu ích hơn cho mọi người và đất nước trong cuộc sống dân sự.
“Đúng vậy, trong một cuộc trò chuyện đầy cảm xúc với Apti Alaudinov chỉ huy của Akhmat, tôi đã từng hứa sẽ ký hợp đồng và tôi đã giữ lời vì tôi không thể lừa dối một người bạn và một vị tướng rất được kính trọng.
“Nhưng cuối cùng, quyết định của tôi đã gây hại nhiều hơn cho mục tiêu chung của chúng ta và Bộ Quốc phòng đã khắc phục tình hình này một cách công bằng và minh bạch. Tôi không có bất kỳ khiếu nại nào với họ.
“Chúng tôi tiếp tục ủng hộ chiến thắng và con người của mình. Tôi cảm ơn Allah vì mọi thứ,” Alekhine nói.
Tiểu đoàn Akhmat tiếp tục hỗ trợ quân đội Nga trong cuộc chiến ở Ukraine, hiện đã bước sang năm thứ tư. Cho đến nay, Kadyrov đã gửi hàng chục ngàn người của mình để tăng cường cho quân đội của Putin đang chiến đấu ở Ukraine.
[Politico: Putin Propagandist Forced To Apologize After Clash With Kadyrov Ally]
7. Tổng thống Trump nói rằng nỗ lực chấm dứt chiến tranh Ukraine ‘phần nào được kiểm soát’ chỉ vài giờ trước cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa chết người của Nga vào Kyiv
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết những nỗ lực chấm dứt chiến tranh ở Ukraine “phần nào được kiểm soát” chỉ vài giờ trước cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa lớn của Nga vào Kyiv khiến ba người thiệt mạng, trong đó có một bé gái năm tuổi và cha em.
Phát biểu với hãng truyền thông thể thao OutKick vào ngày 22 tháng 3, Tổng thống Trump cho biết ông đã có “những cuộc thảo luận rất lý trí” với Putin.
“Tôi không nghĩ có ai trên thế giới có thể ngăn cản Putin ngoại trừ tôi, và tôi nghĩ tôi sẽ có thể ngăn cản ông ấy,” Tổng thống Trump nói với Travis trong cuộc phỏng vấn trên Không lực Một.
“Chúng tôi đã có một số cuộc thảo luận rất lý trí, và tôi chỉ muốn thấy mọi người ngừng bị giết hại.”
Chỉ vài giờ sau cuộc phỏng vấn, Kyiv đã bị nhiều máy bay điều khiển từ xa kamikaze của Nga tấn công, khiến ba người thiệt mạng và 10 người khác bị thương.
Tổng thống Trump đã hứa ngừng bắn ở Ukraine kể từ khi nhậm chức vào Tháng Giêng nhưng các cuộc đàm phán với Nga cho đến nay vẫn chưa mang lại kết quả khả quan.
Vào ngày 18 tháng 3, Mạc Tư Khoa tuyên bố đã đồng ý lệnh ngừng bắn 30 ngày do Hoa Kỳ đề xuất đối với cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine sau cuộc điện đàm giữa Putin và Tổng thống Trump.
Trong khi Tòa Bạch Ốc ăn mừng lệnh ngừng bắn một phần, hàng chục thường dân ở Ukraine đã thiệt mạng do các cuộc tấn công của Nga kể từ khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Tổng thống Trump nói với người sáng lập OutKick Clay Travis rằng ông có mối quan hệ tốt với cả Putin và Tổng thống Volodymyr Zelenskiy, bất chấp cuộc tranh cãi nảy lửa tại Phòng Bầu dục vào tháng trước khiến Tổng thống Zelenskiy rời khỏi Tòa Bạch Ốc sớm mà không ký thỏa thuận về khoáng sản của Ukraine.
Các nhà đàm phán Hoa Kỳ dự kiến sẽ có cuộc gặp riêng với các đại biểu Ukraine và Nga tại Riyadh vào ngày 24 tháng 3 để thảo luận về đề xuất ngừng bắn.
Các quan chức Ukraine nói với tờ Kyiv Independent rằng họ hoài nghi rằng các cuộc đàm phán sẽ dẫn đến bất kỳ kết quả đáng kể nào. Cho đến nay, nhóm Tổng thống Trump chỉ tổ chức các cuộc đàm phán song phương với từng bên riêng biệt, bao gồm các cuộc họp với Nga tại Riyadh vào ngày 18 tháng 2 và Istanbul vào ngày 27 tháng 2, và với Ukraine tại Jeddah vào ngày 11 tháng 3.
[Kyiv Independent: Trump says efforts to end Ukraine war 'somewhat under control' just hours before deadly Russian drone strike on Kyiv]
8. Doanh số bán hàng của Tesla tại Âu Châu sụt giảm khi làn sóng phản đối Musk gia tăng
Vòng xoáy đi xuống của Tesla đang trở nên tồi tệ khi thị phần bán xe điện tại Âu Châu của hãng này giảm 58% trong hai tháng đầu năm nay, từ 18,4% vào năm 2024 xuống còn 7,7% trong cùng kỳ năm nay, theo dữ liệu từ JATO Dynamics, một công ty tư vấn xe hơi.
Để thêm dầu vào lửa, các thương hiệu xe điện Trung Quốc đã bán được gần 20.000 xe tại Âu Châu vào tháng trước, vượt xa con số 15.700 xe của Tesla.
Công ty xe điện của Mỹ đang phải đối mặt với làn sóng phản đối dữ dội trên toàn cầu, xuất phát từ sự tức giận đối với Elon Musk và những tuyên bố của ông với tư cách là cố vấn chính của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
Ở Âu Châu, Đức đang dẫn đầu trong việc từ chối Tesla, công ty có một trong những nhà máy rất lớn bên ngoài Berlin. Điều này được thúc đẩy bởi phản ứng dữ dội chống lại Musk sau khi ông phát biểu tại một cuộc biểu tình của đảng cực hữu Alternative for Germany trước cuộc bầu cử bất thường vào tháng 2.
Hơn 94 phần trăm số người trả lời cuộc khảo sát gần đây trong số 100.000 người Đức cho biết họ sẽ không mua xe Tesla nữa.
Sự sụt giảm mạnh về thị phần của Tesla diễn ra khi doanh số bán xe điện phục hồi; doanh số bán xe điện tại Âu Châu trong tháng 2 này là 164.148 chiếc, tăng 26 phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái.
Các thương hiệu Âu Châu chiếm phần lớn doanh số bán xe điện tại châu lục này, nhưng các nhà sản xuất xe điện Trung Quốc đang giành được thị phần, bất chấp mức thuế mà Ủy ban áp dụng đối với xe điện sản xuất tại Trung Quốc vào năm ngoái.
BYD, nhà sản xuất xe điện lớn nhất thế giới, đã chứng kiến 4.400 xe được ghi danh vào tháng 2, tăng 94 phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái.
[Politico: Tesla’s Europe sales collapse as anti-Musk backlash grows]
9. Tổng thống Trump hy vọng sẽ sớm ký thỏa thuận khoáng sản với Ukraine
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết vào ngày 24 tháng 3 rằng ông hy vọng sẽ sớm ký thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Ukraine về các khoáng sản quan trọng, Reuters đưa tin.
Trước đó, hai quốc gia đã có kế hoạch ký một thỏa thuận khoáng sản vào ngày 28 tháng 2, nhưng kế hoạch đã bị hủy bỏ sau cuộc đụng độ gay gắt giữa Tổng thống Trump và Tổng thống Volodymyr Zelenskiy.
Theo hãng thông tấn này, Tổng thống Trump cũng đề cập rằng Hoa Kỳ và Ukraine đang đàm phán về khả năng sở hữu các nhà máy điện của Ukraine của các công ty Mỹ.
Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia bị Nga tạm chiếm là trọng tâm của các cuộc đàm phán hòa bình ở Ukraine. Điều gì đang bị đe dọa?
Vào ngày 19 tháng 3, Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt cho biết Hoa Kỳ đã “vượt qua” thỏa thuận khoáng sản với Ukraine và đang tập trung vào việc đạt được “lệnh ngừng bắn lâu dài”.
Leavitt làm rõ rằng bà không nói rằng thỏa thuận này đã bị hủy bỏ.
Thỏa thuận khoáng sản được mong đợi từ lâu này sẽ thành lập một quỹ mà Ukraine sẽ đóng góp 50% số tiền thu được từ lợi nhuận trong tương lai khi khai thác các nguồn tài nguyên do nhà nước sở hữu, bao gồm dầu mỏ, khí đốt và cơ sở hạ tầng hậu cần.
Ukraine đã bác bỏ các phiên bản trước của thỏa thuận này với lý do chúng thiếu sự bảo đảm an ninh cụ thể.
Thỏa thuận cuối cùng, được Kyiv chấp thuận, không đưa ra bảo đảm an ninh nhưng có bao gồm một dòng nói rằng quỹ “sẽ được tái đầu tư ít nhất hàng năm vào Ukraine để thúc đẩy sự an toàn, an ninh và thịnh vượng của Ukraine”.
Tòa Bạch Ốc mô tả thỏa thuận này là cách để Hoa Kỳ “thu hồi” khoản viện trợ tài chính mà nước này đã chuyển cho Kyiv kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện.
[Kyiv Independent: Trump expects to sign minerals deal with Ukraine 'soon']
10. Điện Cẩm Linh tăng ưu đãi tài chính lên hơn 23.000 đô la trong bối cảnh thiếu hụt tuyển dụng quân sự
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Hai, 24 Tháng Ba, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết Nga đang tăng cường các ưu đãi tài chính cho tân binh do tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng tình nguyện viên mới.
Theo Đại Úy Yusov, Điện Cẩm Linh đã tăng khoản thanh toán để ký hợp đồng đầu tiên lên hơn 2 triệu rúp, hay 23.800 đô la, ở một số khu vực, trong đó những tân binh ở khu vực Samara được trả gần 4 triệu rúp, hay 47.600 đô la.
Những đợt tuyển dụng mới chủ yếu nhắm vào những cá nhân gặp khó khăn về tài chính và thanh thiếu niên cực đoan dễ bị ảnh hưởng bởi tuyên truyền.
Ông nêu rõ: “Việc tăng tiền thưởng thường xuyên là biện pháp bắt buộc của Điện Cẩm Linh, phản ánh những khó khăn trong việc bổ sung quân số cho các đơn vị quân đội”.
Vào tháng 7 năm 2024, Thị trưởng Mạc Tư Khoa Sergey Sobyanin đã ký sắc lệnh thiết lập khoản tiền thưởng ký kết một lần là 1,9 triệu rúp, hay 22.600 đô la, cho cư dân thành phố tham gia quân đội.
Cơ quan thống kê liên bang Nga, Rosstat, cho biết vào năm 2024, mức lương trung bình hàng tháng trên cả nước là khoảng 87.700 rúp, hay 1.044 đô la.
[Kyiv Independent: Kremlin raises financial incentives to over $23000 amid military recruitment shortages]