Phụng Vụ - Mục Vụ
Chân dung Đức Maria
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
00:23 17/12/2024
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C : LC 1,39-45
39Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. 42Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
CHÂN DUNG ĐỨC MA-RI-A
Dịp lễ Giáng sinh, một nữ sinh nội trú xin mẹ cô một chiếc gương lớn và đẹp. Bà mẹ gởi đến cho cô một bức ảnh tuyệt xinh của Đức Trinh Nữ. Bức ảnh được đóng khung kỹ càng và có ghi dòng chữ như sau : “Đây sẽ là tấm gương soi của con mỗi ngày !” Món quà này gây ấn tượng mạnh lên thiếu nữ. Và từ đó, cứ mỗi buổi tối, cô quỳ xuống trước bức ảnh Đức Mẹ và hỏi : “Má ơi, hôm nay con có làm vui lòng Má không? Con đã noi gương Má ở điểm nào?”
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, cũng ở ngưỡng của ngày Giáng sinh, phác họa cho chúng ta chân dung của Đức Ma-ri-a cũng để chúng ta soi vào. Khuôn mặt của Thân Mẫu Chúa hiện lên trên nền của một ngôi làng vô danh thuộc “miền núi Giu-đa”, được truyền thống Ki-tô giáo đồng hóa với làng Ain Karim (suối nước của vườn nho), cách Giê-ru-sa-lem vài kilômét. Và người vẽ khuôn mặt đó chính là bà Ê-li-sa-bét. Qua những lời ca của bà, đã hiện lên chân dung có thể nói chính xác và sống động nhất về Mẹ. Chúng ta sẽ dừng lại trên những lời này. Rồi cũng tại đây, chúng ta sẽ thấy tâm hồn Mẹ qua bài ca tuyệt diệu của Mẹ, bài ca ngợi khen vị Thiên Chúa của những kẻ nghèo khó, rốt cùng, hèn mọn, bị áp bức.
1. Hạnh phúc vì được chúc lành
Những lời của Ê-li-sa-bét nói cho đúng chẳng phải là một bài ca, tuy nhiên vẫn chứa đựng một đoạn thánh thi xây dựng trên một lời chúc tụng và một mối phúc : “Em được chúc tụng hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng đáng chúc tụng… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em !” Đây là một thánh thi mini, rất mạnh mẽ sống động; đàng khác, nó còn mang tính “tiên tri.” Lu-ca đã nhấn mạnh rằng khi thốt lên nó, Ê-li-sa-bét “được đầy Thánh Thần”, Đấng từng tác động các ngôn sứ trong lời loan báo của họ.
Bài ca khai mở với lời “chúc tụng” mà sau đó đã được đưa vào kinh Kính Mừng. Lấy lại một kiểu nói dùng trong Cựu Ước cho những phụ nữ vĩ đại như Đê-bô-ra và Giu-đi-tha, Ê-li-sa-bét biểu dương chức làm mẹ thần linh của Ma-ri-a như dấu chỉ cao nhất của việc Thiên Chúa “chúc lành”, nghĩa là hiện diện và hành động giữa chúng ta cũng như bên trong lịch sử chúng ta. Đối với Thánh Kinh, phúc lành được bày tỏ đặc biệt trong sự sống và sức sinh sản; nơi Đức Ma-ri-a đã xuất hiện Sự sống tuyệt hảo xóa bỏ sự cằn cỗi và chết chóc. Mẹ quả là một phúc lành của trời cao !
Bài ca của Ê-li-sa-bét tiếp tục với một chuyển động thứ hai, cũng là chúc tụng, nhưng dưới dạng câu hỏi, một câu hỏi long trọng, có lối ám chỉ rất mãnh liệt đối với người hiểu biết Cựu Ước : “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Tư tưởng này gợi nhớ một đoạn Kinh Thánh thời danh liên quan đến việc chuyển hòm bia Giao ước về Giê-ru-sa-lem, thủ đô mới của Đa-vít : “Hòm bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Vậy việc Đức Ma-ri-a viếng thăm được trình bày như hòm bia mới của Đức Chúa đến. Và như hòm bia ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm đã mang lại phúc lành cho nhà ông (x. 2Sm 6,11-12), Đức Ma-ri-a cũng là phúc lành mang đến cho ngôi nhà nhân loại và cho ai đón nhận Mẹ vào nhà mình.
Tước hiệu Đức Ma-ri-a nhận từ Ê-li-sa-bét –“Thân Mẫu Chúa”– rõ ràng là tước hiệu cao nhất và đúng nhất, như sẽ được tuyên bố trong Công đồng Ê-phê-xô năm 431. Ngày 22 tháng 6 năm ấy, Công đồng xác định Đức Giê-su có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là ngôi vị Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a là mẹ thật của Đức Giêsu nên cũng là Mẹ Thiên Chúa thật. Đấy là phản ứng của đức tin chân thực trước việc Nestôriô, giáo chủ Constantinopolis, trước đó chủ trương rằng : "Đức Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Bà Maria chỉ là mẹ ngôi vị con người của Đức Giêsu, do đấy chẳng phải là Mẹ Thiên Chúa." Còn Thánh Ambrôsiô (340-397) trước đó nữa thì dạy : “Đức Ma-ri-a không phải là Thiên Chúa trong đền thờ nhưng là đền thờ của Thiên Chúa.” Chính vì thế truyền thống Ki-tô giáo cũng sẽ biểu dương Mẹ như là “Sion mới” và “Hòm bia Giao ước mới” (“Đức bà như hòm bia Thiên Chúa vậy” Kinh cầu Đức Bà).
2. Hạnh phúc vì được tin Chúa
Cuối cùng, bài ca của bà Ê-li-sa-bét nói lên một “mối phúc”, mối phúc đầu tiên của Tin Mừng : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em !” Đây là tiếng kêu sẽ trở thành dây dẫn (sợi chỉ đỏ) của cả một thông điệp về Đức Ma-ri-a của Đức Gio-an-Phao-lô II : Mẹ Đấng Cứu Thế. Quả thế, trong thông điệp này, Thánh Giáo hoàng từng viết : “Trong câu Em thật có phúc vì đã tin được bà Ê-li-sa-bét thốt lên, chúng ta gần như có thể tìm thấy một chìa khóa mở cho chúng ta thấy thực tại thâm sâu của Đức Trinh Nữ.”
Đức Ma-ri-a là tín hữu tuyệt hảo, khác với ông Da-ca-ri-a cứng lòng, cha của vị Tẩy giả. Việc mang thai Hài nhi là do tác động của Thánh Thần, bởi đó vượt qua các quy luật sinh lý đơn giản của máu thịt và phải được hiểu cùng đón nhận trong đức tin, kể cả từ phía Đức Ma-ri-a. Quả thế, đối với Lu-ca, Mẹ sẻ trở thành biểu tượng của đức tin vì “hằng ghi nhớ mọi sự ấy và suy đi nghĩ lại trong long.” Đức Ma-ri-a kết hợp nơi mình hai mối phúc mà thoạt nhìn có vẻ tách biệt nhau, hai mối phúc mà một ngày kia sẽ lại vang dội trong đời Đức Giê-su. Lúc ấy, một phụ nữ trong đám đông đã kêu lên : “Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Và Đức Giê-su đã đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Trong Đức Ma-ri-a, cả hai mối phúc này đan vào nhau vì Mẹ sinh Đức Ki-tô cách thể lý, sau khi mang trong dạ, nhưng cũng đón nhận Người trong đức tin như là sự hiện diện của Thiên Chúa và là Lời thiện hảo của Thiên Chúa.
Đức tin vào những chuyện phi thường vừa xảy ra (Mẹ mang thai cách mầu nhiệm, bà chị họ mang thai cách lạ lùng) khiến một niềm vui to lớn ngập tràn Mẹ, thúc đẩy Mẹ, niềm vui được tin, niềm vui được đi vào thời cứu độ và được làm người khai mở thời này : “Tôi là nữ tỳ của Chúa”.
Như đã bừng sáng niềm vui được chúc phúc, cuộc Thăm viếng cũng bừng sáng niềm vui được tin. Bà Ê-li-sa-bét tới tấp thốt lên những tiếng hân hoan vui mừng như đã thấy. Rồi Đức Ma-ri-a sẽ dùng kinh Magnificat (Linh hồn tôi tán dương Đức Chúa), bài ca hân hoan của mình để đáp lại.
Niềm vui rất đặc biệt ấy của đức tin, Lu-ca cho thấy bắt nguồn từ đâu : Thần Khí. Thần Khí đã đến trên Đức Ma-ri-a, ngập tràn bà Ê-li-sa-bét, và vào dịp Hiện xuống, sẽ đổ đầy các Tông đồ. Người ngập tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố Đức Giê-su là Chúa, nghĩa là Đấng Mê-si-a. Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Mê-si-a mà chẳng người Do-thái nào và cả Cựu Ước có thể tưởng tượng : Con Thiên Chúa, được Người ban tặng cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tùy thuộc sức mạnh của xác tín này. Chúng ta sa lầy trong nhiều chuyện phụ thuộc, chúng ta tranh luận giữa Ki-tô hữu với nhau vì những chi tiết thay vì cảm nghiệm tới cùng và lan truyền điều chủ yếu, mạc khải kỳ diệu : Hài nhi sắp sinh bởi Đức Ma-ri-a là Con Thiên Chúa. Một bài ca khác sẽ bật lên sau bài Magnificat : đó là bài Benedictus : “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68).
Thiên Chúa thân hành viếng thăm chúng ta ! Có lắm điều phải tin : cuộc Phục sinh của Đức Giê-su, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể, việc tha thứ tội lỗi, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và sự chết… Nhưng chúng ta sẽ tin dễ dàng và vững chắc vào tất cả những điều đó nếu bám rễ trong điều khó tin nhất : tin Thiên Chúa đã đến trên con đường chúng ta : “Chúng tôi đã thấy các bước chân của Thiên Chúa bắt gặp các bước chân của loài người.”
Để Người bắt chuyện với chúng ta, phải có Đức Ma-ri-a đã. Không gì có thể khiến chúng ta sùng kính Mẹ hơn là thấy Mẹ hạnh phúc vì được tin và được ban tặng Hài nhi, một hạnh phúc lớn tới độ đã khiến bao niềm vui bùng vỡ. Quả vậy, nói về Đức Ma-ri-a, Công đồng Va-ti-can II đã có thành ngữ tuyệt vời này : “Mẹ đã đem Sự sống đến cho thế gian” (Hc Giáo Hội 53). Chính cái đó đã khiến đứa con của bà Ê-li-sa-bét nhảy mừng, và chính đó cũng khiến chúng ta nhảy mừng trước Đức Ma-ri-a : Mẹ là sự Viếng thăm của Thiên Chúa, Mẹ đem đến cho chúng ta Sự sống, vốn đã trở nên cho chúng ta sự sống của một con người.
Nếu việc tin vào điều đó khiến chúng ta hân hoan, thì chớ che khuất nỗi hân hoan này. Chớ gì trong những lần thăm viếng, khi mà sự tiếp xúc có thể thực hiện với một mức độ sâu xa nào đó, ai đó sẽ nhảy mừng khi nghe chúng ta, hay có lẽ chỉ khi nhìn chúng ta : “Lúc bạn giã từ ai sau một lần thăm viếng, làm sao để lại một cái gì đó của Thiên Chúa trong lòng họ” (Mẹ Têrêxa). Một cái gì đó của Thiên Chúa vì chúng ta thực sự sống theo tinh thần của Người chứ không phải tinh thần thế gian.
39Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. 42Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
CHÂN DUNG ĐỨC MA-RI-A
Dịp lễ Giáng sinh, một nữ sinh nội trú xin mẹ cô một chiếc gương lớn và đẹp. Bà mẹ gởi đến cho cô một bức ảnh tuyệt xinh của Đức Trinh Nữ. Bức ảnh được đóng khung kỹ càng và có ghi dòng chữ như sau : “Đây sẽ là tấm gương soi của con mỗi ngày !” Món quà này gây ấn tượng mạnh lên thiếu nữ. Và từ đó, cứ mỗi buổi tối, cô quỳ xuống trước bức ảnh Đức Mẹ và hỏi : “Má ơi, hôm nay con có làm vui lòng Má không? Con đã noi gương Má ở điểm nào?”
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, cũng ở ngưỡng của ngày Giáng sinh, phác họa cho chúng ta chân dung của Đức Ma-ri-a cũng để chúng ta soi vào. Khuôn mặt của Thân Mẫu Chúa hiện lên trên nền của một ngôi làng vô danh thuộc “miền núi Giu-đa”, được truyền thống Ki-tô giáo đồng hóa với làng Ain Karim (suối nước của vườn nho), cách Giê-ru-sa-lem vài kilômét. Và người vẽ khuôn mặt đó chính là bà Ê-li-sa-bét. Qua những lời ca của bà, đã hiện lên chân dung có thể nói chính xác và sống động nhất về Mẹ. Chúng ta sẽ dừng lại trên những lời này. Rồi cũng tại đây, chúng ta sẽ thấy tâm hồn Mẹ qua bài ca tuyệt diệu của Mẹ, bài ca ngợi khen vị Thiên Chúa của những kẻ nghèo khó, rốt cùng, hèn mọn, bị áp bức.
1. Hạnh phúc vì được chúc lành
Những lời của Ê-li-sa-bét nói cho đúng chẳng phải là một bài ca, tuy nhiên vẫn chứa đựng một đoạn thánh thi xây dựng trên một lời chúc tụng và một mối phúc : “Em được chúc tụng hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng đáng chúc tụng… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em !” Đây là một thánh thi mini, rất mạnh mẽ sống động; đàng khác, nó còn mang tính “tiên tri.” Lu-ca đã nhấn mạnh rằng khi thốt lên nó, Ê-li-sa-bét “được đầy Thánh Thần”, Đấng từng tác động các ngôn sứ trong lời loan báo của họ.
Bài ca khai mở với lời “chúc tụng” mà sau đó đã được đưa vào kinh Kính Mừng. Lấy lại một kiểu nói dùng trong Cựu Ước cho những phụ nữ vĩ đại như Đê-bô-ra và Giu-đi-tha, Ê-li-sa-bét biểu dương chức làm mẹ thần linh của Ma-ri-a như dấu chỉ cao nhất của việc Thiên Chúa “chúc lành”, nghĩa là hiện diện và hành động giữa chúng ta cũng như bên trong lịch sử chúng ta. Đối với Thánh Kinh, phúc lành được bày tỏ đặc biệt trong sự sống và sức sinh sản; nơi Đức Ma-ri-a đã xuất hiện Sự sống tuyệt hảo xóa bỏ sự cằn cỗi và chết chóc. Mẹ quả là một phúc lành của trời cao !
Bài ca của Ê-li-sa-bét tiếp tục với một chuyển động thứ hai, cũng là chúc tụng, nhưng dưới dạng câu hỏi, một câu hỏi long trọng, có lối ám chỉ rất mãnh liệt đối với người hiểu biết Cựu Ước : “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Tư tưởng này gợi nhớ một đoạn Kinh Thánh thời danh liên quan đến việc chuyển hòm bia Giao ước về Giê-ru-sa-lem, thủ đô mới của Đa-vít : “Hòm bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Vậy việc Đức Ma-ri-a viếng thăm được trình bày như hòm bia mới của Đức Chúa đến. Và như hòm bia ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm đã mang lại phúc lành cho nhà ông (x. 2Sm 6,11-12), Đức Ma-ri-a cũng là phúc lành mang đến cho ngôi nhà nhân loại và cho ai đón nhận Mẹ vào nhà mình.
Tước hiệu Đức Ma-ri-a nhận từ Ê-li-sa-bét –“Thân Mẫu Chúa”– rõ ràng là tước hiệu cao nhất và đúng nhất, như sẽ được tuyên bố trong Công đồng Ê-phê-xô năm 431. Ngày 22 tháng 6 năm ấy, Công đồng xác định Đức Giê-su có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là ngôi vị Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a là mẹ thật của Đức Giêsu nên cũng là Mẹ Thiên Chúa thật. Đấy là phản ứng của đức tin chân thực trước việc Nestôriô, giáo chủ Constantinopolis, trước đó chủ trương rằng : "Đức Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Bà Maria chỉ là mẹ ngôi vị con người của Đức Giêsu, do đấy chẳng phải là Mẹ Thiên Chúa." Còn Thánh Ambrôsiô (340-397) trước đó nữa thì dạy : “Đức Ma-ri-a không phải là Thiên Chúa trong đền thờ nhưng là đền thờ của Thiên Chúa.” Chính vì thế truyền thống Ki-tô giáo cũng sẽ biểu dương Mẹ như là “Sion mới” và “Hòm bia Giao ước mới” (“Đức bà như hòm bia Thiên Chúa vậy” Kinh cầu Đức Bà).
2. Hạnh phúc vì được tin Chúa
Cuối cùng, bài ca của bà Ê-li-sa-bét nói lên một “mối phúc”, mối phúc đầu tiên của Tin Mừng : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em !” Đây là tiếng kêu sẽ trở thành dây dẫn (sợi chỉ đỏ) của cả một thông điệp về Đức Ma-ri-a của Đức Gio-an-Phao-lô II : Mẹ Đấng Cứu Thế. Quả thế, trong thông điệp này, Thánh Giáo hoàng từng viết : “Trong câu Em thật có phúc vì đã tin được bà Ê-li-sa-bét thốt lên, chúng ta gần như có thể tìm thấy một chìa khóa mở cho chúng ta thấy thực tại thâm sâu của Đức Trinh Nữ.”
Đức Ma-ri-a là tín hữu tuyệt hảo, khác với ông Da-ca-ri-a cứng lòng, cha của vị Tẩy giả. Việc mang thai Hài nhi là do tác động của Thánh Thần, bởi đó vượt qua các quy luật sinh lý đơn giản của máu thịt và phải được hiểu cùng đón nhận trong đức tin, kể cả từ phía Đức Ma-ri-a. Quả thế, đối với Lu-ca, Mẹ sẻ trở thành biểu tượng của đức tin vì “hằng ghi nhớ mọi sự ấy và suy đi nghĩ lại trong long.” Đức Ma-ri-a kết hợp nơi mình hai mối phúc mà thoạt nhìn có vẻ tách biệt nhau, hai mối phúc mà một ngày kia sẽ lại vang dội trong đời Đức Giê-su. Lúc ấy, một phụ nữ trong đám đông đã kêu lên : “Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Và Đức Giê-su đã đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Trong Đức Ma-ri-a, cả hai mối phúc này đan vào nhau vì Mẹ sinh Đức Ki-tô cách thể lý, sau khi mang trong dạ, nhưng cũng đón nhận Người trong đức tin như là sự hiện diện của Thiên Chúa và là Lời thiện hảo của Thiên Chúa.
Đức tin vào những chuyện phi thường vừa xảy ra (Mẹ mang thai cách mầu nhiệm, bà chị họ mang thai cách lạ lùng) khiến một niềm vui to lớn ngập tràn Mẹ, thúc đẩy Mẹ, niềm vui được tin, niềm vui được đi vào thời cứu độ và được làm người khai mở thời này : “Tôi là nữ tỳ của Chúa”.
Như đã bừng sáng niềm vui được chúc phúc, cuộc Thăm viếng cũng bừng sáng niềm vui được tin. Bà Ê-li-sa-bét tới tấp thốt lên những tiếng hân hoan vui mừng như đã thấy. Rồi Đức Ma-ri-a sẽ dùng kinh Magnificat (Linh hồn tôi tán dương Đức Chúa), bài ca hân hoan của mình để đáp lại.
Niềm vui rất đặc biệt ấy của đức tin, Lu-ca cho thấy bắt nguồn từ đâu : Thần Khí. Thần Khí đã đến trên Đức Ma-ri-a, ngập tràn bà Ê-li-sa-bét, và vào dịp Hiện xuống, sẽ đổ đầy các Tông đồ. Người ngập tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố Đức Giê-su là Chúa, nghĩa là Đấng Mê-si-a. Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Mê-si-a mà chẳng người Do-thái nào và cả Cựu Ước có thể tưởng tượng : Con Thiên Chúa, được Người ban tặng cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tùy thuộc sức mạnh của xác tín này. Chúng ta sa lầy trong nhiều chuyện phụ thuộc, chúng ta tranh luận giữa Ki-tô hữu với nhau vì những chi tiết thay vì cảm nghiệm tới cùng và lan truyền điều chủ yếu, mạc khải kỳ diệu : Hài nhi sắp sinh bởi Đức Ma-ri-a là Con Thiên Chúa. Một bài ca khác sẽ bật lên sau bài Magnificat : đó là bài Benedictus : “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68).
Thiên Chúa thân hành viếng thăm chúng ta ! Có lắm điều phải tin : cuộc Phục sinh của Đức Giê-su, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể, việc tha thứ tội lỗi, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và sự chết… Nhưng chúng ta sẽ tin dễ dàng và vững chắc vào tất cả những điều đó nếu bám rễ trong điều khó tin nhất : tin Thiên Chúa đã đến trên con đường chúng ta : “Chúng tôi đã thấy các bước chân của Thiên Chúa bắt gặp các bước chân của loài người.”
Để Người bắt chuyện với chúng ta, phải có Đức Ma-ri-a đã. Không gì có thể khiến chúng ta sùng kính Mẹ hơn là thấy Mẹ hạnh phúc vì được tin và được ban tặng Hài nhi, một hạnh phúc lớn tới độ đã khiến bao niềm vui bùng vỡ. Quả vậy, nói về Đức Ma-ri-a, Công đồng Va-ti-can II đã có thành ngữ tuyệt vời này : “Mẹ đã đem Sự sống đến cho thế gian” (Hc Giáo Hội 53). Chính cái đó đã khiến đứa con của bà Ê-li-sa-bét nhảy mừng, và chính đó cũng khiến chúng ta nhảy mừng trước Đức Ma-ri-a : Mẹ là sự Viếng thăm của Thiên Chúa, Mẹ đem đến cho chúng ta Sự sống, vốn đã trở nên cho chúng ta sự sống của một con người.
Nếu việc tin vào điều đó khiến chúng ta hân hoan, thì chớ che khuất nỗi hân hoan này. Chớ gì trong những lần thăm viếng, khi mà sự tiếp xúc có thể thực hiện với một mức độ sâu xa nào đó, ai đó sẽ nhảy mừng khi nghe chúng ta, hay có lẽ chỉ khi nhìn chúng ta : “Lúc bạn giã từ ai sau một lần thăm viếng, làm sao để lại một cái gì đó của Thiên Chúa trong lòng họ” (Mẹ Têrêxa). Một cái gì đó của Thiên Chúa vì chúng ta thực sự sống theo tinh thần của Người chứ không phải tinh thần thế gian.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb..
02:11 17/12/2024
42. Cầu nguyện là tâm hồn con người ta bay đến trước tòa Thiên Chúa.
(Thánh John Damascene)bbLm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức ")
-------------
http://www.vietcatholic.com
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb..
02:20 17/12/2024
16. LỆCH THÌ KHÔNG TỐT LÀNH
Tiếng địa phương của người nước Ngô và nước Sở gọi người chết là “không ở nhà”.
Có một người ở giữa nước Ngô và nước Sở lần đầu tiên đi lên kinh thành để thăm một nhà giàu có phú quý, người gác cổng nói:
- “Lão gia không ở nhà”
Người ấy nói:
- “Ái dà, nói như thế thì không tốt lành, chi bằng nói là “đi khỏi” dễ nghe hơn không.
Người gác cổng trả lời:
- “Lão gia của tôi không sợ chết, không sợ đi khỏi”.
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 16:bb
Mỗi địa phương có một vài câu nói, hay một vài thói quen tập tục mà các địa phương khác không có, cho nên nếu không tinh ý và tế nhị thì sẽ dễ gây ra hiểu lầm đáng tiếc.
Thói quen của cá nhân cũng như thế, không thể đem thói quen của mình để “quảng bá” nơi công cộng, nhất là khi thói quen ấy nó “không giống ai”; càng không nên đem cái “tục lệ” của cá nhân mình để phê phán thói quen tập quán của người khác, bởi vì như thế thì chúng ta không thấy hết được giá trị tập tục của người khác cũng như của mình vậy.
Có những lời nói theo thói quen không phù hợp với người tu hành, nhất là các linh mục và các nam tu sĩ: thói quen chửi thề khi nói chuyện, dù không cố ý; thói quen nói tục “đệm” theo câu đối thoại, dù không cố ý, nhưng nó vẫn cứ tác động đến những người chung quanh, bởi vì dù là người Ki-tô hữu hoặc không phải là người Ki-tô hữu thì người ta vẫn cứ biết rằng linh mục và các tu sĩ không thể nói tục chửi thề...
Cái gì mà lệch nghiêng thì đều không đẹp, không tốt lành, chửi thề nói tục dù là không cố ý vẫn cứ là không hay không tốt, nhất là những người đã dâng mình làm tôi Chúa cũng như những người Ki-tô hữu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.com
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tiếng địa phương của người nước Ngô và nước Sở gọi người chết là “không ở nhà”.
Có một người ở giữa nước Ngô và nước Sở lần đầu tiên đi lên kinh thành để thăm một nhà giàu có phú quý, người gác cổng nói:
- “Lão gia không ở nhà”
Người ấy nói:
- “Ái dà, nói như thế thì không tốt lành, chi bằng nói là “đi khỏi” dễ nghe hơn không.
Người gác cổng trả lời:
- “Lão gia của tôi không sợ chết, không sợ đi khỏi”.
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 16:bb
Mỗi địa phương có một vài câu nói, hay một vài thói quen tập tục mà các địa phương khác không có, cho nên nếu không tinh ý và tế nhị thì sẽ dễ gây ra hiểu lầm đáng tiếc.
Thói quen của cá nhân cũng như thế, không thể đem thói quen của mình để “quảng bá” nơi công cộng, nhất là khi thói quen ấy nó “không giống ai”; càng không nên đem cái “tục lệ” của cá nhân mình để phê phán thói quen tập quán của người khác, bởi vì như thế thì chúng ta không thấy hết được giá trị tập tục của người khác cũng như của mình vậy.
Có những lời nói theo thói quen không phù hợp với người tu hành, nhất là các linh mục và các nam tu sĩ: thói quen chửi thề khi nói chuyện, dù không cố ý; thói quen nói tục “đệm” theo câu đối thoại, dù không cố ý, nhưng nó vẫn cứ tác động đến những người chung quanh, bởi vì dù là người Ki-tô hữu hoặc không phải là người Ki-tô hữu thì người ta vẫn cứ biết rằng linh mục và các tu sĩ không thể nói tục chửi thề...
Cái gì mà lệch nghiêng thì đều không đẹp, không tốt lành, chửi thề nói tục dù là không cố ý vẫn cứ là không hay không tốt, nhất là những người đã dâng mình làm tôi Chúa cũng như những người Ki-tô hữu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.com
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Con tim ngay lành
Lm Minh Anh
15:32 17/12/2024
CON TIM NGAY LÀNH
“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.
“Khủng hoảng bạn gặp có thể gọi là ‘tai ương’ - do tình cờ hay do người khác - thường mang lại cơ hội lớn hơn! Chúng có thể thúc đẩy sự trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, tạo cảm giác tòng thuộc vào Chúa. Và nhất là, chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, trước tiên, bạn phải có một con tim ngay lành!” - Kin Hubbard.
Kính thưa Anh Chị em,
Nhận định trên xem ra được áp dụng triệt để nơi Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một ‘tiểu tiết ít ai chú ý’ nhưng rất thú vị là, thiên thần chỉ hiện ra với Giuse sau khi ông quyết định làm một điều lành! Chúa chỉ tiết lộ nhiều hơn kế hoạch của Ngài cho bất cứ ai, miễn là người ấy biết phản ứng trước cơn khủng hoảng bằng một 'con tim ngay lành!'.
Trước việc Maria có thai - điều quá bất thường đối với một phụ nữ được biết là không thể chê trách - Giuse nghĩ suy, cầu nguyện và phân định. Về mặt pháp lý, Giuse có thể công khai ‘chuyện tình buồn’ của mình như một phương thức giải quyết; nhưng ông đã không làm vậy; trái lại, sẵn sàng để toàn bộ sự việc tự nó giải trình, vì xem ra nó đã được lặng lẽ giao cho Chúa. Và đặc biệt, như thể Giuse để cho Maria được ưu tiên hơn trong mối ngờ vực này! Nghĩ điều lành cho người khác luôn luôn là một nhân đức tuyệt vời! Nó phản ánh lòng trắc ẩn của một ‘con tim ngay lành’. Bao tình bạn kết thúc, bao cuộc chiến bùng nổ, chỉ vì điều tồi tệ đã xảy ra là “do người khác, không phải do tôi!”.
Với Giuse, Thiên Chúa như muốn nói rằng, “Trước một nan đề, con sẽ bắt đầu hiểu Ta hơn một khi con từ tâm nghĩ điều tích cực cho người khác!”. Quả thế, thiên thần Chúa đã đến mặc khải cho Giuse nhiều điều lạ lùng khác ẩn chứa sau cơn khủng hoảng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu!”. Ôi, Giêsu ấy là “Chồi non chính trực” Giêrêmia tiên báo - bài đọc một; “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Với những gì thiên thần dạy, Giuse đã thực hiện trọn vẹn; ông tiếp nhận bạn mình! Và điều quan trọng là thời gian sau đó, Giuse đã “ôm lấy Chúa Hài Đồng đến cùng”. Có thể nói, chỉ vì một giấc mơ! Nhưng tại sao chỉ dựa vào tính xác thực của một giấc mơ? Câu trả lời khá đơn giản. Dù chỉ là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ gói trọn - trong đó - một đức tin và một niềm tín thác. Ngoài những gì lý trí cho biết Chúa đã nói với mình, Giuse còn đáp lại Ngài bằng một đức tin quảng đại và một ‘con tim ngay lành’ hào phóng.
Anh Chị em,
“Bạn phải có một ‘con tim ngay lành!’”. Với trái tim nhân ái nghĩ điều tích cực cho người khác, ‘tai ương’ của Giuse đã mang lại cho ngài một “cơ hội lớn hơn!”. Mùa Vọng, mùa để trái tim được đào tạo và chữa lành hầu bạn và tôi có thể trở nên chính trực, tòng thuộc tuyệt đối vào Chúa; từ đó, có khả năng vượt qua các cuộc khủng hoảng, tai ương. Và kìa, như Giuse, Chúa cũng đang chuẩn bị cho chúng ta một sứ vụ đáng kinh ngạc!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất “những cơ hội lớn hơn” khi không vượt qua khốn khó. Và như thế, con không thể trải nghiệm những gì bất ngờ Chúa đang chuẩn bị!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.
“Khủng hoảng bạn gặp có thể gọi là ‘tai ương’ - do tình cờ hay do người khác - thường mang lại cơ hội lớn hơn! Chúng có thể thúc đẩy sự trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, tạo cảm giác tòng thuộc vào Chúa. Và nhất là, chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, trước tiên, bạn phải có một con tim ngay lành!” - Kin Hubbard.
Kính thưa Anh Chị em,
Nhận định trên xem ra được áp dụng triệt để nơi Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một ‘tiểu tiết ít ai chú ý’ nhưng rất thú vị là, thiên thần chỉ hiện ra với Giuse sau khi ông quyết định làm một điều lành! Chúa chỉ tiết lộ nhiều hơn kế hoạch của Ngài cho bất cứ ai, miễn là người ấy biết phản ứng trước cơn khủng hoảng bằng một 'con tim ngay lành!'.
Trước việc Maria có thai - điều quá bất thường đối với một phụ nữ được biết là không thể chê trách - Giuse nghĩ suy, cầu nguyện và phân định. Về mặt pháp lý, Giuse có thể công khai ‘chuyện tình buồn’ của mình như một phương thức giải quyết; nhưng ông đã không làm vậy; trái lại, sẵn sàng để toàn bộ sự việc tự nó giải trình, vì xem ra nó đã được lặng lẽ giao cho Chúa. Và đặc biệt, như thể Giuse để cho Maria được ưu tiên hơn trong mối ngờ vực này! Nghĩ điều lành cho người khác luôn luôn là một nhân đức tuyệt vời! Nó phản ánh lòng trắc ẩn của một ‘con tim ngay lành’. Bao tình bạn kết thúc, bao cuộc chiến bùng nổ, chỉ vì điều tồi tệ đã xảy ra là “do người khác, không phải do tôi!”.
Với Giuse, Thiên Chúa như muốn nói rằng, “Trước một nan đề, con sẽ bắt đầu hiểu Ta hơn một khi con từ tâm nghĩ điều tích cực cho người khác!”. Quả thế, thiên thần Chúa đã đến mặc khải cho Giuse nhiều điều lạ lùng khác ẩn chứa sau cơn khủng hoảng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu!”. Ôi, Giêsu ấy là “Chồi non chính trực” Giêrêmia tiên báo - bài đọc một; “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Với những gì thiên thần dạy, Giuse đã thực hiện trọn vẹn; ông tiếp nhận bạn mình! Và điều quan trọng là thời gian sau đó, Giuse đã “ôm lấy Chúa Hài Đồng đến cùng”. Có thể nói, chỉ vì một giấc mơ! Nhưng tại sao chỉ dựa vào tính xác thực của một giấc mơ? Câu trả lời khá đơn giản. Dù chỉ là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ gói trọn - trong đó - một đức tin và một niềm tín thác. Ngoài những gì lý trí cho biết Chúa đã nói với mình, Giuse còn đáp lại Ngài bằng một đức tin quảng đại và một ‘con tim ngay lành’ hào phóng.
Anh Chị em,
“Bạn phải có một ‘con tim ngay lành!’”. Với trái tim nhân ái nghĩ điều tích cực cho người khác, ‘tai ương’ của Giuse đã mang lại cho ngài một “cơ hội lớn hơn!”. Mùa Vọng, mùa để trái tim được đào tạo và chữa lành hầu bạn và tôi có thể trở nên chính trực, tòng thuộc tuyệt đối vào Chúa; từ đó, có khả năng vượt qua các cuộc khủng hoảng, tai ương. Và kìa, như Giuse, Chúa cũng đang chuẩn bị cho chúng ta một sứ vụ đáng kinh ngạc!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất “những cơ hội lớn hơn” khi không vượt qua khốn khó. Và như thế, con không thể trải nghiệm những gì bất ngờ Chúa đang chuẩn bị!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiết lộ âm mưu ám sát bất thành, nói về sự hài hước trong cuốn sách mới
Vũ Văn An
13:38 17/12/2024
Carol Glatz của Our Sunday Visitor, ngày 17 tháng 12 năm 2024, tường trình rằng: Vào sinh nhật lần thứ 88 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hai tờ báo lớn ở cả hai bờ Đại Tây Dương đã xuất bản hai đoạn trích khác nhau từ cuốn sách mới của ngài về hy vọng.
Tờ New York Times đã đăng những lời của Đức Giáo Hoàng về tầm quan trọng của sự hài hước dưới dạng "tiểu luận khách mời" trong mục ý kiến của mình, trong khi tờ Corriere della Sera của Ý đưa tin về chuyến đi Iraq vào tháng 3 năm 2021 của Đức Giáo Hoàng, tiết lộ rằng hai kẻ đánh bom liều chết đã lên kế hoạch tấn công ngài, nhưng đã bị cảnh sát chặn lại và tiêu diệt.
“Tôi đã được cảnh báo ngay khi chúng tôi hạ cánh xuống Baghdad vào ngày hôm trước. Cảnh sát đã cảnh báo cảnh sát Vatican về một báo cáo đến từ tình báo Anh: một phụ nữ mang theo thuốc nổ — một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi — đang trên đường đến Mosul để tự kích nổ trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng. Và một chiếc xe tải cũng đã rời đi với tốc độ tối đa với cùng mục đích", ngài nói trong cuốn sách mới.
"Khi tôi hỏi cảnh sát vào ngày hôm sau về những gì đã biết về hai kẻ đánh bom, viên chỉ huy trả lời ngắn gọn, 'Chúng đã biến mất.' Cảnh sát Iraq đã chặn chúng lại và kích nổ bom. Điều đó cũng khiến tôi bị sốc sâu xa. Đây cũng là trái cây độc của chiến tranh", ngài viết.
CHUYẾN THĂM CỦA Đức Giáo Hoàng IRAQ
Các trích đoạn được xuất bản vào ngày 17 tháng 12 là từ cuốn sách "Hope: The Autobiography", được viết cùng với nhà báo Carlo Musso. Cuốn sách dự kiến phát hành hoàn cầu tại 80 quốc gia vào ngày 14 tháng 1.
Phạm vi đưa tin của tờ New York Times là lần thứ hai tờ báo này đăng tải những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô dưới dạng "tiểu luận khách mời". Vào tháng 11 năm 2020, tờ báo đã đăng bài "A Crisis Reveals What Is in Our Hearts", được chuyển thể từ cuốn sách mới của ngài khi đó là "Let Us Dream: The Path to a Better Future", được viết cùng Austen Ivereigh.
Tiểu luận của Đức Giáo Hoàng đưa ra sự suy tư về tính hài hước, nỗi buồn
Tiểu luận ngày 17 tháng 12 có tựa đề "There Is Faith in Humor" đã đưa ra một suy tư nhẹ nhàng về nhu cầu "tránh đắm chìm trong nỗi buồn bằng mọi giá, không để nó làm cay đắng trái tim".
"Cuộc sống chắc chắn có những nỗi buồn, đó là một phần của mọi con đường hy vọng và mọi con đường hướng tới sự hoán cải", ngài viết. Nhưng những người có đức tin phải tránh sự cám dỗ để nỗi buồn biến thành cay đắng.
“Sự mỉa mai là một liều thuốc, không chỉ giúp nâng đỡ và làm tươi sáng người khác, mà còn cả chính chúng ta, bởi vì sự tự chế giễu là một công cụ mạnh mẽ để vượt qua sự cám dỗ của chủ nghĩa tự luyến”, ngài viết trong tiểu luận, một tiểu luận đầy rẫy những câu chuyện cười hài hước liên quan đến Đức Giáo Hoàng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể lại một trong số những câu chuyện đó: Ngài đang lái xe limousine trên đường phố New York sau khi thuyết phục tài xế cho ngài lái thử. Khi cảnh sát chặn ngài lại, viên cảnh sát đã bị sốc và gọi điện cho ông xếp của mình về việc phải làm gì vì “Tôi đã dừng một chiếc xe vì chạy quá tốc độ, nhưng có một anh chàng thực sự quan trọng trong đó”.
Sau một hồi qua lại dài dòng giữa ông xếp và viên cảnh sát về việc ai có thể quan trọng đến vậy, câu chuyện cười kết thúc, “Này xếp, tôi không biết chính xác anh ta là ai, tất cả những gì tôi có thể nói với ông là chính giáo hoàng đang lái xe cho anh ta!”
“Tin mừng thúc giục chúng ta trở nên giống trẻ nhỏ để được cứu rỗi, nhắc nhở chúng ta lấy lại khả năng mỉm cười của mình”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết, “không gì làm tôi vui bằng việc gặp gỡ trẻ em”, những người “thường là người cố vấn của tôi”.
Khóc nghiêm túc và cười say sưa
Ngài ca ngợi những người cao tuổi biết cách “ban phước cho cuộc sống, gạt bỏ mọi sự oán giận” và có “món quà của tiếng cười và nước mắt, giống như trẻ nhỏ”.
Những người thấy khó “khóc nghiêm túc hoặc cười say sưa” đang trên đà đi xuống để trở nên “vô cảm” và không thể làm bất cứ điều gì tốt cho bản thân, xã hội hoặc giáo hội, ngài viết.
“Những ai từ bỏ nhân tính của mình là từ bỏ tất cả”, ngài viết.
Nhà xuất bản người Ý của cuốn sách, Mondadori, cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu thực hiện cuốn sách vào năm 2019 với sự hiểu biết rằng nó sẽ chỉ được xuất bản sau khi ngài qua đời, nhưng Năm Thánh 2025 và sự tập trung vào hy vọng đã khiến ngài cho phép phát hành sớm.
“Với vô số tiết lộ và những câu chuyện chưa từng được công bố, cảm động và rất nhân bản, sâu sắc và kịch tính, nhưng cũng có khả năng hài hước thực sự, hồi ký của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu vào những năm đầu của thế kỷ 20 với câu chuyện về nguồn gốc Ý của ngài và cuộc phiêu lưu di cư của tổ tiên ngài đến Mỹ Latinh, tiếp tục đến thời thơ ấu, tuổi thiếu niên, sự lựa chọn ơn gọi, cuộc sống trưởng thành, bao gồm toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài cho đến ngày nay”, một thông cáo báo chí từ Viking, nơi sẽ xuất bản “Hope” tại Vương quốc Anh cho biết. Random House sẽ xuất bản nó tại Hoa Kỳ và Penguin Random House Canada sẽ xuất bản nó ở Canada.
Các Thượng phụ Đất Thánh kêu gọi ngừng bắn vào dịp Giáng sinh trên khắp Trung Đông
Vũ Văn An
14:02 17/12/2024
Elise Ann Allen của Crux ngày 17 tháng 12 năm 2024, tường trình rằng Trong thông điệp Giáng sinh năm nay, các nhà lãnh đạo giáo hội và thượng phụ Giêrusalem đã bày tỏ lòng biết ơn về lệnh ngừng bắn gần đây giữa Israel và Lebanon và kêu gọi mở rộng lệnh ngừng bắn trên khắp khu vực.
Trong thông điệp Giáng sinh năm 2024 của họ, được công bố vào ngày 13 tháng 12, các thượng phụ và người đứng đầu các giáo hội ở Giêrusalem đã cảm ơn Thiên Chúa "vì lệnh ngừng bắn gần đây giữa hai bên tham chiến trong khu vực của chúng tôi và chúng tôi kêu gọi mở rộng lệnh ngừng bắn sang Gaza và nhiều nơi khác, chấm dứt các cuộc chiến đã tàn phá khu vực của chúng tôi trên thế giới".
Vào ngày 27 tháng 11, Israel và Lebanon đã ký một thỏa thuận ngừng bắn cùng với một số quốc gia trung gian khác, bao gồm cả Hoa Kỳ, sau khi xung đột giữa lực lượng Israel và Hezbollah nổ ra vào tháng 10 trong bối cảnh căng thẳng gia tăng về cuộc chiến ở Gaza.
Tuy nhiên, các cuộc không kích đang diễn ra ở một số khu vực đã đặt ra câu hỏi về tính ổn định của lệnh ngừng bắn, vì cả hai bên đều cáo buộc nhau vi phạm nhiều lần và những người hòa giải cố gắng duy trì thỏa thuận mong manh này.
Trong khi đó, cuộc chiến đang diễn ra ở Gaza, bùng phát sau cuộc tấn công bất ngờ vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 của các chiến binh Hamas, đã khiến hơn 45,000 người Palestine thiệt mạng, theo các quan chức y tế.
Với số người chết tiếp tục tăng trong bối cảnh giao tranh vẫn tiếp diễn và cuộc khủng hoảng nhân đạo ngày càng trầm trọng, các bên trung gian như Qatar, Ai Cập và Hoa Kỳ đã tăng cường nỗ lực làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza.
Israel đã cam kết sẽ tiếp tục cuộc tấn công cho đến khi tất cả các con tin bị bắt cóc trong cuộc tấn công vào tháng 10 năm 2023, khiến 1,200 người thiệt mạng và hơn 250 người khác bị bắt cóc, được thả và Hamas hoàn toàn bị lật đổ khỏi quyền lực.
Các quan chức y tế Palestine cho biết số người chết ở Gaza hiện đã lên tới 45,028, phần lớn là dân thường và khoảng 106,962 người đã bị thương kể từ khi cuộc chiến bắt đầu vào mùa thu năm ngoái.
Tuy nhiên, các quan chức cho biết số thương vong thực tế có thể cao hơn, vì nhiều người có thể vẫn bị chôn vùi dưới đống đổ nát ở những khu vực mà lực lượng y tế vẫn chưa thể tiếp cận.
Trong thông điệp Giáng sinh của mình, các nhà lãnh đạo giáo hội Đất Thánh tập trung vào ánh sáng được mang đến cho thế giới thông qua sự ra đời của Chúa Giêsu, nói rằng Chúa Giêsu là "Ánh sáng đích thực chiếu rọi trong bóng tối".
Họ đã lên tiếng cam kết tiếp tục rao giảng thông điệp này cho người dân của họ “giữa những ngày đen tối của xung đột và bất ổn liên tục trong khu vực của chúng tôi”.
“Trong sự ra đời của Chúa Kitô, ánh sáng cứu rỗi của Chúa lần đầu tiên đến với thế giới, soi sáng cho tất cả những ai tiếp nhận Người, cả lúc đó và bây giờ, và ban cho họ ‘hết ân sủng này đến ân sủng khác’ để chiến thắng các thế lực đen tối của cái ác không ngừng âm mưu hủy diệt tạo vật của Chúa”, họ nói.
Họ nói rằng ánh sáng của Chúa Kitô này lần đầu tiên chiếu rọi trên tổ tiên tâm linh của họ, “những người đã tiếp nhận thông điệp cứu rỗi khi sống ‘trong vùng và bóng tối của sự chết.’”
“Chịu đựng nhiều gian khổ, họ tiếp tục truyền bá ánh sáng thánh thiện của sự phục sinh của Chúa Kitô, trở thành nhân chứng của Người tại Giêrusalem, khắp Đất Thánh và đến tận cùng trái đất”, họ nói.
Con đường ánh sáng và cứu chuộc này, các nhà lãnh đạo giáo hội cho biết, không phải là di tích của quá khứ, mà đúng hơn, nó "dẫn chúng ta quay lại thời đại của mình, khi chiến tranh vẫn hoành hành và hàng triệu người vô danh trong khu vực của chúng tôi và trên toàn cầu tiếp tục phải chịu đau khổ đau đớn".
"Bề ngoài, có vẻ như không có gì thay đổi. Nhưng bên trong, sự ra đời thánh thiện của Chúa Giêsu Ki-tô đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng tâm linh tiếp tục biến đổi vô số trái tim và khối óc hướng đến con đường công lý, lòng thương xót và hòa bình", họ cho biết.
Đối với những gia đình đã chọn ở lại Đất Thánh mặc dù chiến tranh đang diễn ra và đối với những người đã gia nhập cộng đồng mặc dù bạo lực, các nhà lãnh đạo giáo hội trong khu vực cho biết đối với họ, được ở đó là một vinh dự.
"Chúng tôi có đặc ân được tiếp tục làm chứng về ánh sáng thiêng liêng của Chúa Kitô tại chính những nơi Người sinh ra, phục vụ và hiến dâng chính mình vì chúng ta, chiến thắng từ nấm mồ để đến một cuộc sống phục sinh mới", họ cho biết.
Họ cho biết họ gửi thông điệp này bằng cách thờ phượng Chúa tại các địa điểm linh thiêng và chào đón những người hành hương, quá khứ và hiện tại, và bằng cách công bố Tin Mừng cho tất cả những người họ gặp, đồng thời thực hiện các công việc từ thiện và bác ái, và ủng hộ "tự do cho những người bị giam cầm và trả tự do cho các tù nhân".
Ngoài việc kêu gọi ngừng bắn khu vực vào dịp Giáng sinh, các nhà lãnh đạo giáo hội cũng yêu cầu "trả tự do cho tất cả các tù nhân và người bị giam cầm, trả lại những người vô gia cư và người di dời, điều trị cho người bệnh và người bị thương, cứu trợ những người đói khát, khôi phục lại các tài sản bị tịch thu hoặc đe dọa một cách bất công, và xây dựng lại tất cả các công trình dân sự công cộng và tư nhân đã bị hư hại hoặc phá hủy.”
Họ kêu gọi các Ki-tô hữu và tất cả những người có thiện chí, trong suốt mùa Giáng sinh và sau đó, hãy cùng họ cầu nguyện và làm việc “hướng tới sứ mệnh cao cả này, cả ở quê hương của Chúa Kitô và bất cứ nơi nào có xung đột và đấu tranh.”
“Vì khi cùng nhau làm như vậy, chúng ta thực sự sẽ tôn vinh Hoàng tử của Hòa bình, người đã sinh ra một cách khiêm nhường trong một chuồng ngựa ở Bêlem hơn hai thiên niên kỷ trước,” họ nói.
Lãnh đạo phe đối lập Ki-tô giáo Syria lên tiếng tự tin
Vũ Văn An
14:19 17/12/2024
John Burger của Aleteia, xuất bản ngày 17/12/24, viết rằng Một trong số nhiều người Syria ăn mừng sự sụp đổ của chế độ của cựu tổng thống Bashar al-Assad là người đứng đầu Tổ chức Dân chủ Assyria, Gabriel Moushe Gawrieh. Cùng lúc đó, Gawrieh, sống ở thành phố Qamishli, đông bắc, đang để mắt đến nhóm phiến quân đã chỉ huy cuộc tấn công cuối cùng chống lại Assad và buộc nhà độc tài phải chạy trốn đến Moscow vào đầu tháng này.
Nhiều người đã bày tỏ mối quan ngại về loại chính phủ nào sẽ thay thế Assad, vì nhóm phiến quân lãnh đạo sự sụp đổ của chính phủ bạo chúa vẫn được chính phủ Hoa Kỳ phân loại là một tổ chức khủng bố từng có liên hệ với al Qaeda.
Nhưng Gawrieh rất tự tin. Ông coi nhóm Hayat Tahrir al Sham là người phản ứng với quan điểm của một bộ phận dân số Syria rất đa dạng đang được hưởng nhiều quyền tự do - bao gồm cả quyền tự do ngôn luận - lần đầu tiên sau hơn 50 năm.
"Chúng tôi đã có kinh nghiệm với Hayat Tahrir al Sham ở chính Idlib", Gawrieh nói với Aleteia. "Tôi không tin rằng Hayat Tahrir al Sham sẽ có thể cai trị đất nước theo cùng một cách như đã làm ở Idlib, nơi được coi là một cộng đồng rất bảo thủ, đặc biệt là khi ngay cả cộng đồng bảo thủ này ở Idlib cũng đã phản đối Hayat Tahrir al Sham trong hơn một năm.
"Tôi tin rằng Hayat Tahrir al Sham sẽ khó áp dụng cùng một phương pháp hoặc cách tiếp cận để kiểm soát toàn bộ đất nước, vì cộng đồng Syria là sự pha trộn rất đa dạng về quốc tịch, tôn giáo và những người có xuất thân khác nhau."
Chứng tỏ rất nhiều tôn trọng
Tại tỉnh Idlib, một khu vực phía tây bắc của Syria gần Aleppo, Hayat Tahrir al Sham cai trị bằng sự kết hợp giữa luật Hồi giáo cực đoan và sự khoan dung đối với các nhóm thiểu số. Gawrieh được khuyến khích rằng khi lực lượng của họ chiếm Aleppo, Hama, Homs và cuối cùng là Damascus trong tháng qua, Hayat Tahrir al Sham "vẫn cam kết bảo vệ tài sản và dân thường khỏi mọi hành vi vi phạm cụ thể... và thể hiện rất nhiều sự tôn trọng đối với các nhóm thiểu số, đặc biệt là cá Ki-tô hữu."
Gawrieh, một thành viên của Giáo hội Chính thống giáo Syria, đã tham gia vào phe đối lập Syria trong nhiều năm và đã bị bắt vào năm 2013, trong những ngày đầu của cuộc nội chiến Syria. Ông đã phải ngồi tù hai năm bảy tháng.
Ông nhìn lại những năm tháng của Assad, đặc biệt là 14 năm qua, như một "giai đoạn khó khăn đối với tất cả người Syria, bao gồm cả chúng tôi, vì nó bao gồm rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền cũng như tội ác chiến tranh".
Sự sụp đổ của chế độ Assad là "một bước tiến lớn hướng tới sự thống nhất của Syria cũng như hướng tới việc thành lập một chính phủ mới cho đất nước", ông cho biết trong một cuộc phỏng vấn do con gái ông, Simely, phiên dịch.
Quan tâm về tương lai
Tuy nhiên, niềm vui của ông trước sự sụp đổ của Assad bị ảnh hưởng bởi một số lo ngại về những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Ông thừa nhận rằng một trong những lo ngại đó là định hướng cực đoan của Hayat Tahrir al Sham. Nhưng ông nhận thấy rằng Hayat Tahrir al Sham đã phản ứng với dư luận.
"Người Syria có thể lên tiếng [bây giờ] và chỉ ra bất cứ hành vi sai trái nào", ông nói, chỉ ra rằng Hayat Tahrir al Sham đã giương cờ của mình bên cạnh cờ Syria tại Quốc hội một ngày nọ, nhưng họ "nhận được rất nhiều khiếu nại từ tất cả người Syria, trên khắp Syria và cả ở nước ngoài, vì vậy họ đã gỡ bỏ nó vào ngày hôm sau".
Một mối lo ngại khác là các cuộc đụng độ có thể nổ ra giữa các phe phái đối lập Syria khác nhau.
Nhưng ông được khuyến khích rằng nhiều quốc gia đang thúc giục người Syria thành lập một chính phủ bao trùm, phi giáo phái, bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số và phụ nữ.
“Tất cả các tổ chức chính trị và đảng phái ở Syria đều có rất nhiều việc phải làm để đóng góp, xây dựng một Syria mới,” Gawrieh nói. “Và chúng tôi sẽ không chấp nhận quay lại với sự áp bức trước đây.”
Khi ngài bước sang tuổi 88, 8 + 8 điều đáng lưu ý về Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Vũ Văn An
17:24 17/12/2024
Almudena Martínez-Bordiú của hãng tin ACI Prensa, đối tác Tây Ban Nha của hãng tin CNA, ngày 17 tháng 12 năm 2024, đặt câu hỏi: Bạn có biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng là một nhân viên bảo vệ hộp đêm, bộ phim yêu thích của ngài là "La Strada" của Federico Fellini và ngài không xem tivi không? Nhân dịp sinh nhật lần thứ 88 của ngài, những sự thật đáng lưu này và những sự thật đáng lưu ý khác về Đức Giáo Hoàng Phanxicô được nêu bật dưới đây.
1. Ngài đã khám phá ra ơn gọi của mình như thế nào?
Vào ngày lễ Thánh Mát-thêu Tông đồ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khám phá ra ơn gọi làm linh mục của mình sau khi đi xưng tội lúc ngài mới 16 tuổi. Sự việc xảy ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1953. Đó là Ngày sinh viên ở Argentina, trùng với ngày mùa xuân bắt đầu ở Nam bán cầu và được tổ chức bằng một bữa tiệc lớn.
“Trước khi đến dự tiệc, tôi đi ngang qua giáo xứ mà tôi vẫn tham dự và tôi thấy một linh mục mà tôi không quen và tôi cảm thấy cần phải đi xưng tội. Đối với tôi, đây là một trải nghiệm gặp gỡ: Tôi thấy Một Người đang đợi tôi.”
“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi không nhớ, tôi không biết tại sao vị linh mục đó lại ở đó, người mà tôi không quen, tại sao tôi lại cảm thấy muốn đi xưng tội, nhưng sự thật là Có Người đang đợi tôi. Người đã đợi tôi rất lâu. Sau khi xưng tội, tôi cảm thấy có điều gì đó đã thay đổi,” Đức Thánh Cha chia sẻ.
Ngài nói rằng sau lần xưng tội đó, ngài không còn là chính mình nữa: “Tôi đã nghe thấy một điều gì đó giống như một giọng nói, một tiếng gọi: Tôi tin rằng mình phải trở thành một linh mục.”
2. Món ăn yêu thích của ngài là gì?
Ngày 19 tháng 11 năm 2022 là một trong những dịp hiếm hoi mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô rời Vatican mà không có chương trình chính thức. Lý do là gì? Một cuộc đoàn tụ gia đình ở Asti, thành phố của Ý nơi người em họ Daniela di Tiglione của ngài đang sống, người đang kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của mình.
Vào dịp đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có thể thưởng thức món ăn yêu thích của mình: Bagna Cauda, một món ăn đặc trưng của vùng Piedmont được chế biến từ cá cơm, dầu và tỏi và được dùng làm nước sốt cho rau.
3. Niềm đam mê điệu tango
Trước khi được thụ phong linh mục, đặc biệt là khi còn trẻ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thích điệu tango, một trong những điệu nhảy mang tính biểu tượng nhất của Argentina. Ngài cũng thích diệu milonga, một điệu nhảy đặc trưng khác của quê hương ngài.
4. Ngài từng là vệ sĩ trong hộp đêm.
Giống như bất cứ thanh niên nào, Jorge Bergoglio đã làm nhiều công việc khác nhau để kiếm được đồng lương đầu tiên. Mặc dù công việc đầu tiên của ngài là lau sàn nhà của công ty sản xuất tất [vớ] nơi cha ngài làm việc, nhưng vào năm 2013, ngài đã thú nhận với một nhóm thanh niên rằng ngài cũng từng là vệ sĩ tại một hộp đêm. Nhờ kinh nghiệm đó, ngài bắt đầu "hướng dẫn những người vỡ mộng đến với Giáo hội".
5. Ngài bị mất một lá phổi.
Khi 21 tuổi, ngài đã phải cắt bỏ một lá phổi do nhiễm trùng, khiến ngài gặp một số khó khăn về hô hấp trong những năm gần đây.
6. Ngài chỉ từ chối tha thứ một lần.
Trong hơn một lần, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khuyến khích các linh mục tha thứ "mọi thứ" trong tòa giải tội và "không tra tấn" các tín hữu trong tòa giải tội.
Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình Ý vào tháng 1, ngài tuyên bố rằng trong hơn 50 năm làm linh mục, ngài chỉ từ chối tha thứ một lần, "vì sự giả tạo của con người".
7. Lời cầu nguyện ngài đọc mỗi ngày để giữ được sự hài hước của mình
Trong nhiều dịp, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ca ngợi khiếu hài hước và nhấn mạnh rằng nỗi buồn không phải là thiên hướng của Ki-tô hữu. Ngài thậm chí còn đi xa hơn khi nói rằng "dấu hiệu của một Ki-tô hữu" là niềm vui chứ không phải là người khó tính.
Để có được sự hài hước, ngài đọc một lời cầu nguyện của Thánh Thomas More mỗi ngày, một lời cầu nguyện mà ngài đã nhắc đến trong nhiều lần xuất hiện trước công chúng, gần đây nhất là với tổng thống Pháp, Emmanuel Macron.
"Lạy Chúa, xin ban cho con khiếu hài hước. Xin ban cho con ân sủng để hiểu được một câu chuyện cười, để khám phá ra một chút niềm vui trong cuộc sống và có thể chia sẻ nó với những người khác", Đức Thánh Cha cầu nguyện mỗi ngày.
8. Thánh Giuse, sự giúp đỡ của ngài trong những khó khăn
Có một hình ảnh của Thánh Giuse mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thích, cho thấy vị thánh "im lặng" đang nằm ngủ.
Trong chuyến tông du Philippines, Đức Giáo Hoàng đã gọi Thánh Giuse là “một người đàn ông mạnh mẽ của sự im lặng” và nói rằng ngài giữ bức tượng nhỏ này trên bàn làm việc của mình. “Ngay cả khi ngài ngủ, ngài vẫn chăm sóc Giáo hội”, ngài nói.
“Khi tôi gặp vấn đề, khó khăn, tôi viết một tờ giấy nhỏ và đặt dưới chân Thánh Giuse để ngài có thể mơ về nó. Nói cách khác, tôi nói với ngài: Hãy cầu nguyện cho vấn đề này!” Đức Thánh Cha thú nhận.
9. Đức Giáo Hoàng Phanxicô ngủ trưa.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường đi ngủ lúc 9 giờ tối và thức dậy vào khoảng 4 giờ sáng. Ngài ngủ khoảng sáu giờ một ngày, vì ngài thường đọc sách trong một giờ sau khi vào giường, cho đến 10 giờ tối.
“Sau đó tôi cần ngủ trưa. Tôi phải ngủ từ 40 phút đến một giờ. Tôi cởi giày và nằm xuống giường. Và tôi cũng ngủ rất sâu và thức dậy một mình. Vào những ngày tôi không ngủ trưa, tôi nhận ra điều đó,” ngài nói.
10. Đội bóng đá yêu thích của ngài là đội nào?
Mặc dù không còn sống ở Argentina, Đức Giáo Hoàng Phnaxicô vẫn tiếp tục ủng hộ đội San Lorenzo de Almagro của Buenos Aires. Ngài luôn cập nhật thông tin nhờ một Đội cận vệ Thụy Sĩ thông báo cho ngài về tin tức của đội mỗi tuần, vì Đức Giáo Hoàng không xem các trận đấu.
Trên thực tế, trong một buổi tiếp kiến tại Vatican vào tháng 9, một phái đoàn từ câu lạc bộ San Lorenzo đã xin Đức Thánh Cha ban phước để đặt tên sân vận động tiếp theo của câu lạc bộ theo tên ngài.
11. Ngày ngài được cứu sống
Ở tuổi 44, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bị hoại tử túi mật, một biến chứng nghiêm trọng xảy ra khi mô của cơ quan tiêu hóa này bị hoại tử do lưu lượng máu bị gián đoạn.
“Tôi cảm thấy như mình sắp chết”, Đức Thánh Cha nói, ám chỉ đến đêm năm 1980 khi ngài được phẫu thuật bởi Tiến sĩ Juan Carlos Parodi, một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Argentina đã cứu mạng cha Jorge Mario Bergoglio khi đó. Năm 2014, 34 năm sau, hai người đã có một cuộc gặp riêng tại Vatican.
12. Ngài muốn được chôn cất ở đâu?
Không giống như nhiều giáo hoàng khác trong suốt lịch sử của Giáo hội, những người có quan tài nằm trong các hầm mộ của Vatican trong các hang động dưới Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, Đức Thánh Cha tiết lộ rằng ngài đã chuẩn bị lăng mộ của mình tại Vương cung thánh đường Đức Bà Cả ở Rome do lòng sùng kính lớn lao mà ngài dành cho Đức Trinh Nữ Salus Populi Romani (đấng phù hộ người dân Rôma), người mà ngài đã làm một lời hứa.
Ngoài ra, vào tháng 12 năm 2022, Đức Giáo Hoàng đã trả lời phỏng vấn trong đó ngài tuyên bố rằng ngài đã ký đơn từ chức trong trường hợp sức khỏe không cho phép ngài tiếp tục thực hiện sứ vụ của mình.
13. Bộ phim yêu thích của ngài là bộ phim gì?
"La Strada" của Federico Fellini, người chiếm giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1957.
14. Ngài không xem tivi vì đã hứa với Đức Mẹ Núi Carmel.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết ngài đã không xem tivi kể từ ngày 15 tháng 7 năm 1990, khi ngài hứa với Đức Mẹ Núi Carmel rằng ngài sẽ không xem tivi nữa. Đức Thánh Cha đã đưa ra lời hứa này vì ngài "cảm thấy rằng Chúa đang yêu cầu tôi làm điều đó".
15. Ngài đã đi trị liệu ở tuổi 42.
Trong cuộc phỏng vấn về cuốn sách "Chính trị và Xã hội" của người Pháp Dominique Wolton, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể lại rằng, khi ngài còn là giám tỉnh của Dòng Tên ở Argentina, ngài đã đi trị liệu trong sáu tháng với một nhà tâm lý học người Do Thái. "Bà ấy rất tốt, rất chuyên nghiệp", Đức Thánh Cha nói.
16. Một vị giáo hoàng ‘ẩn danh’ trên đường phố Rôma
Vào năm 2013, năm ngài được bầu làm giám mục Rome, một nguồn tin từ Vatican đã thông báo với tờ Huffington Post rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ra ngoài vào ban đêm trong trang phục của một linh mục để bố thí và giúp đỡ người nghèo trên đường phố Rôma.