Sáng Chúa Nhật 10 tháng Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo. Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng là ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 37 được cử hành ở cấp giáo phận.

Trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, và thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa sau đó.

Các cành lá dừa các bạn trẻ cầm trong cuộc rước lá do các Cộng đoàn Con đường Tân dự tòng trao tặng; còn các cây và cành ô liu trang trí bàn thờ và Quảng trường thánh Phêrô do miền Puglie nam Italia tặng. Sau cùng 2 ngàn cành lá dừa màu vàng được kết bện rất nghệ thuật, do các chính quyền ở thành phố San Remo và Bordighera và một số tổ chức khác ở miền Liguria trao tặng theo một truyền thống có từ thế kỷ 16. Các cành lá này được Đức Thánh Cha, các Hồng Y, Giám Mục, kinh sĩ đoàn Đền thờ Thánh Phêrô và đoàn giúp lễ và một số người khác cầm trong tay.

Đồng tế với Đức Thánh Cha và tham dự cuộc rước lá có 30 Hồng Y và 50 Giám Mục. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa thánh, còn có ca đoàn và ban nhạc của giáo phận Roma và ca đoàn Mẹ Giáo Hội.

Trong bài giảng, sau bài Thương Khó, Đức Thánh Cha nói:

Trên đồi Canvê, hai lối suy nghĩ đã va chạm với nhau. Trong Phúc Âm, những lời của Chúa Giêsu bị đóng đinh trái ngược hẳn với những lời của những kẻ đã đóng đinh Người. Những kẻ chế nhạo Ngài tiếp tục nói: “Hãy tự cứu mình đi”. Các thủ lãnh trong dân nói: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23:35). Những người lính cũng nói như vậy: “Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình” (câu 37). Cuối cùng, một trong những tên tội phạm, lặp lại lời của họ, khi nói với Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”(câu 39). Hãy tự cứu lấy mình. Hãy chăm sóc bản thân. Hãy nghĩ về bản thân, đừng nghĩ đến người khác, hãy lo cho hạnh phúc của chính mình, thành công của chính mình, lợi ích của chính mình: tài sản của mình, quyền lực của mình, hình ảnh của mình. Hãy tự cứu lấy mình. Đây là điệp khúc liên tục của thế giới đã đóng đinh Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều đó.

Chống lại lối suy nghĩ tự cho mình là trung tâm này là cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Câu thần chú “hãy tự cứu mình” va chạm với những lời của Đấng Cứu Rỗi đã hiến dâng chính mình. Những kẻ thù nghịch Ngài nói ba lần, Chúa Giêsu cũng nói ba lần trong bài Tin Mừng hôm nay (xem câu 34,43, và 46). Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không đòi hỏi bất cứ điều gì cho mình; thực thế, Ngài thậm chí không hề bênh vực hay biện minh cho mình. Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha và tỏ lòng thương xót với người trộm lành. Đặc biệt, một trong những lời nói của Ngài đã đánh dấu sự khác biệt đối với câu thần chú “hãy tự cứu lấy mình”. Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ” (câu 34).

Chúng ta hãy suy ngẫm về những lời của Chúa. Chúa Giêsu nói những lời ấy khi nào? Thưa: Vào một thời điểm rất cụ thể: trong khi Ngài bị đóng đinh, khi Ngài cảm thấy những chiếc đinh xuyên qua cổ tay và bàn chân của mình. Chúng ta hãy thử tưởng tượng nỗi đau tột cùng mà Ngài phải chịu. Vào lúc đó, giữa cơn đau đớn thể xác kinh hoàng nhất trong cuộc Khổ nạn, Chúa Kitô đã cầu xin sự tha thứ cho những người đã đâm xuyên qua Người. Những lúc như vậy, chúng ta sẽ hét lên và trút ra mọi giận dữ và đau khổ của mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: Lạy Cha, xin tha thứ cho họ.

Không giống như các vị tử đạo khác mà Kinh thánh nói đến (xem 2 Mac 7: 18-19), Chúa Giêsu không nhân danh Thiên Chúa mà quở trách những kẻ hành hình hay đe dọa hình phạt cho họ; trái lại, Chúa Giêsu cầu nguyện cho những kẻ bất lương. Bị trói chặt vào sự sỉ nhục, thái độ tự hiến của Ngài trở thành thái độ của sự tha thứ.

Anh chị em thân mến, Chúa cũng làm điều tương tự với chúng ta. Khi chúng ta gây ra đau khổ cho Chúa bằng hành động của mình, Thiên Chúa đau khổ chỉ có một mong muốn duy nhất là tha thứ cho chúng ta. Để đánh giá cao điều này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa bị đóng đinh. Chính từ những vết thương đau đớn của Người, từ những dòng máu gây ra bởi những chiếc đinh của tội lỗi chúng ta mà sự tha thứ tuôn ra. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập tự giá và nhận ra rằng những lời lớn hơn chưa từng được nói ra: Lạy Cha, xin hãy tha thứ cho họ. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập tự giá và nhận ra rằng chúng ta chưa bao giờ được nhìn bằng một ánh mắt dịu dàng và nhân ái hơn. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập tự giá và hiểu rằng chúng ta chưa bao giờ nhận được một vòng tay yêu thương hơn thế. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa chịu đóng đinh và nói: “Cảm tạ Chúa Giêsu: Chúa yêu con và luôn tha thứ cho con, ngay cả những lúc con cảm thấy khó yêu và khó tha thứ cho chính mình”.

Ở đó, khi đang bị đóng đinh trên cây thập tự giá, vào đỉnh điểm của nỗi đau, chính Chúa Giêsu đã tuân theo điều răn khắt khe nhất của Ngài: đó là yêu mến kẻ thù của mình. Chúng ta hãy nghĩ về một người nào đó, trong cuộc sống của chúng ta, đã làm chúng ta bị thương, bị xúc phạm hoặc làm chúng ta thất vọng; người đã khiến chúng ta tức giận, người không hiểu chúng ta hoặc người đã gây gương mù. Chúng ta thường dành biết bao thời gian nhìn lại những người đã từng gây đau khổ cho chúng ta! Chúng ta thường quay lại quá khứ và liếm những vết thương mà người khác, hay chính cuộc đời và lịch sử đã gây ra cho chúng ta. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng dừng ở lại đó, nhưng hãy phản ứng, phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự dữ và đau khổ. Hãy phản ứng lại những cái đinh trong cuộc sống của chúng ta bằng tình yêu, hãy phản ứng lại sự thù hận với vòng tay của sự tha thứ. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta đi theo Thầy hay chạy theo ý mình muốn đánh trả của mình? Đây là một câu hỏi mà chúng ta phải tự hỏi mình. Chúng ta có theo Thầy hay không?

Nếu chúng ta muốn kiểm tra xem chúng ta có thực sự thuộc về Chúa Kitô hay không, chúng ta hãy xem cách chúng ta cư xử với những người đã làm tổn thương chúng ta. Chúa yêu cầu chúng ta đáp lại không phải như chúng ta cảm thấy, hoặc như mọi người khác làm, nhưng theo cách Ngài hành động đối với chúng ta. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta thoát ra khỏi suy nghĩ rằng: “Tôi sẽ yêu bạn nếu bạn yêu tôi; Tôi sẽ là huynh đệ của bạn nếu bạn là huynh đệ của tôi; Nếu anh giúp tôi thì tôi sẽ giúp anh “. Đúng hơn, chúng ta phải bày tỏ lòng trắc ẩn và lòng thương xót đối với mọi người, vì Thiên Chúa nhìn thấy trong mỗi người con trai hay con gái của Ngài. Ngài không phân loại chúng ta thành tốt và xấu, bạn và thù. Chúng ta là những người làm điều này, và chúng ta làm cho Chúa đau khổ. Đối với Chúa, tất cả chúng ta đều là những đứa con thân yêu của Người, những đứa con mà Chúa mong muốn được ôm ấp và tha thứ. Cũng giống như trong dụ ngôn về tiệc cưới, khi cha của chú rể sai người hầu của mình ra đường và nói: “Mời tất cả mọi người: da trắng, da đen, tốt và xấu, tất cả mọi người, khỏe mạnh, bệnh tật, tất cả mọi người…” (x Mt 22: 9-10). Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho tất cả mọi người; mọi người đều có đặc quyền như nhau: đó là được yêu thương và tha thứ.

Lạy Cha, hãy tha thứ cho họ vì họ không biết những gì họ làm. Theo Phúc âm, Chúa Giêsu “lặp đi lặp lại” điều này (xem câu 34). Chúa Giêsu đã không nói điều đó một lần rồi thôi khi đang bị đóng đinh vào thập tự giá; thay vào đó, Ngài đã dành tất cả thời gian của mình trên thập tự giá với những lời này trên môi và trong trái tim mình. Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ. Chúng ta cần hiểu điều này, không chỉ trong tâm trí, mà còn trong cả trái tim của chúng ta. Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ. Chúng ta là những người cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ. Nhưng Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ. Ngài không quan tâm đến chúng ta trong một thời gian và sau đó đổi ý, như chúng ta vẫn thường bị cám dỗ hành động như thế. Chúa Giêsu - như Tin Mừng Luca dạy chúng ta - đã đến thế gian để mang lại ơn tha tội cho chúng ta (x. Lc 1:77). Cuối cùng, Người đã ban cho chúng ta một mệnh lệnh rõ ràng: đó là hãy nhân danh Người mà công bố ơn tha tội cho mọi người (x. Lc 24:47). Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi với việc rao truyền sự tha thứ của Thiên Chúa: chúng ta là những linh mục, hãy ban phát ơn tha thứ; tất cả các Kitô hữu, tiếp nhận ơn tha thứ và làm chứng cho ơn tha thứ. Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi khi nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.

Lạy Cha, hãy tha thứ cho họ vì họ không biết những gì họ làm. Chúng ta hãy quan sát thêm một điều nữa. Chúa Giêsu không chỉ xin cho họ được tha thứ, mà còn đề cập đến lý do tại sao: vì họ không biết những gì họ làm. Làm sao lại có thể như thế được? Những kẻ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá đã tính toán trước việc giết Chúa, tổ chức bắt giữ và xét xử Ngài, và bây giờ họ đang đứng trên đồi Canvê để chứng kiến cái chết của Ngài. Tuy nhiên, Đức Kitô biện minh cho những kẻ bạo lực đó bằng cách nói rằng họ không biết. Đó là cách Chúa Giêsu hành động đối với chúng ta: Ngài tự cho mình là người biện hộ cho chúng ta. Ngài không đặt mình chống lại chúng ta, nhưng hành động vì chúng ta và chống lại tội lỗi của chúng ta. Những lời của Người khiến chúng ta suy nghĩ: vì họ không biết. Đó là sự thiếu hiểu biết của trái tim, mà tất cả chúng ta đều có trong tư cách là những người tội lỗi.

Khi dùng đến bạo lực, chúng ta cho thấy rằng chúng ta không còn biết gì về Thiên Chúa, ai là Cha của chúng ta, hoặc thậm chí về những người khác, là anh chị em của chúng ta. Chúng ta không biết tại sao chúng ta lại có mặt trên thế giới này và thậm chí kết thúc bằng những hành động tàn ác vô nghĩa. Chúng ta thấy điều này trong cuộc chiến điên cuồng, nơi Chúa Kitô bị đóng đinh một lần nữa. Chúa Kitô một lần nữa bị đóng đinh trên Thánh giá trong những người mẹ than khóc về cái chết oan uổng của những người chồng và con trai. Chúa Giêsu bị đóng đinh trong những người tị nạn chạy trốn khỏi bom đạn với những đứa trẻ trên tay. Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự giá cho những người già bị bỏ lại một mình rồi chết trong cô đơn; Chúa Giêsu bị đóng đinh nơi những người trẻ tuổi bị tước đoạt một tương lai; trong những người lính được gửi đến để giết anh chị em của họ. Chúa Kitô đang bị đóng đinh ở đó, ngày hôm nay.

Lạy Cha, hãy tha thứ cho họ vì họ không biết những gì họ làm. Nhiều người đã nghe những lời đặc biệt này, nhưng chỉ có một người đáp lại những lời đó. Anh ta là một tội phạm, bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu. Chúng ta có thể hình dung rằng lòng thương xót của Chúa Kitô đã khơi dậy trong anh một niềm hy vọng cuối cùng và khiến anh nói những lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con” (Lc 23,42). Như thể muốn nói: “Mọi người khác đã quên tôi, nhưng Chúa vẫn tiếp tục nghĩ về những người đã đóng đinh Chúa. Như thế, với Chúa, cũng còn một chỗ cho con”. Người trộm lành đã tin nhận Chúa khi cuộc đời của anh ta đang kết thúc, và theo cách này, cuộc sống của anh ta bắt đầu lại một lần nữa. Trong địa ngục của thế giới này, anh đã thấy thiên đường mở ra: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên nước thiên đàng” (câu 43). Đây là điều kỳ diệu về sự tha thứ của Thiên Chúa, điều đã biến lời thỉnh cầu cuối cùng của một người đàn ông bị kết án tử hình thành sự phong thánh đầu tiên trong lịch sử.

Thưa anh chị em, trong tuần này, chúng ta hãy tin chắc rằng Thiên Chúa có thể tha thứ mọi tội lỗi. Chúa Giêsu đã tha thứ cho tất cả mọi người. Ngài có thể bắc cầu mọi khoảng cách, và biến mọi tang tóc thành vũ điệu (xem Tv 30:12). Hãy xác tín rằng với Chúa Giêsu luôn có một chỗ cho tất cả mọi người. Điều đó với Chúa Kitô không bao giờ kết thúc. Điều đó với Chúa, không bao giờ là quá muộn. Với Chúa, chúng ta luôn có thể sống lại. Hãy can đảm! Chúng ta hãy hành trình hướng tới Lễ Phục sinh với sự tha thứ của Ngài. Vì Chúa Kitô không ngừng cầu bầu cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (xem Dt 7:25). Khi nhìn chằm chằm vào thế giới bạo lực và tan nát của chúng ta, Ngài không bao giờ mệt mỏi khi lặp lại: Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết những gì họ làm. Bây giờ chúng ta hãy làm như vậy, trong im lặng, trong trái tim của chúng ta, và lặp lại: Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết những gì họ làm.

Cuối buổi lễ, trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Trước khi kết thúc cử hành này, tôi muốn gửi lời chào đến tất cả anh chị em, đặc biệt là những người hành hương đến từ nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có rất nhiều người trẻ. Tôi cầu chúc một Tuần Thánh thánh thiện cho tất cả anh chị em hiện diện ở đây, và cả những người được kết nối thông qua các phương tiện truyền thông.

Tôi gần gũi những người dân thân yêu của Peru, những người đang trải qua thời điểm khó khăn của căng thẳng xã hội. Tôi đồng hành cùng anh chị em với lời cầu nguyện và tôi khuyến khích tất cả các bên tìm ra giải pháp hòa bình càng sớm càng tốt vì lợi ích của đất nước, đặc biệt là của những người nghèo nhất, hãy tôn trọng quyền của mọi người và của các tổ chức.

Trong giây lát, chúng ta sẽ hướng về Đức Mẹ với trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật. Chính Thiên Thần của Chúa đã nói với Mẹ Maria trong Lễ Truyền Tin: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể được”. Không có gì là không thể đối với Chúa. Chúa có thể ngăn chặn một cuộc chiến mà sự kết thúc của nó không có trong tầm mắt, một cuộc chiến hàng ngày đặt ra trước mắt chúng ta những cuộc tàn sát khủng khiếp và sự tàn ác dã man chống lại những thường dân không có khả năng tự vệ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều này.

Chúng ta đang ở trong những ngày trước Lễ Phục sinh. Chúng ta đang chuẩn bị để kỷ niệm chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô đối với tội lỗi và sự chết - trên tội lỗi và sự chết - không phải trên ai đó và chống lại người khác. Nhưng ngày nay, có một cuộc chiến. Bởi vì phải chăng có cái gì đó để giành được theo cách này, theo cách của thế giới? Đây là cách duy nhất để mất chứ không phải để giành được. Tại sao không cho phép Ngài chiến thắng? Chúa Kitô đã vác thập tự giá của Ngài để giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của sự dữ. Ngài chết để cuộc sống, tình yêu, hòa bình ngự trị.

Hãy bỏ vũ khí xuống! Hãy để cuộc đình chiến Phục sinh bắt đầu. Đừng cung cấp thêm vũ khí và tiếp tục chiến đấu - không! - một hiệp định đình chiến sẽ dẫn đến hòa bình, thông qua đàm phán thực sự thậm chí đòi hỏi phải hy sinh vì lợi ích của người dân. Thực tế, thắng lợi gì khi cắm cờ trên đống gạch vụn?

Không có gì là không thể đối với Chúa. Chúng ta giao phó điều này cho Ngài qua sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria.
Source:Holy See Press Office