Dù hiện chỉ có khoảng 1 phần trăm tín hữu Công Giáo tỏ bầy ý kiến trực tiếp, chứ không hẳn qua các bản tổng hợp giáo phận, về cách Giáo Hội phải cùng tiến hành ra sao ba chủ đề hiệp thông, tham dự, sứ mệnh, nhưng Văn phòng Thượng Hội Đồng về tính thượng hội đồng đã muốn lái toàn Giáo Hội đi theo hướng rõ ràng có tính ý thức hệ ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ và những người sinh hoạt đồng tính luyến ái.



Ít nhất đó cũng là nhận định của CNA khi bình luận về một biến cố thoạt nhìn vô tội mà thực tế tỏ lộ một ý hướng tệ hại, coi thường 99 phần trăm những người còn lại của Giáo Hội, khối người tạm gọi là đa số trầm lặng nhưng chắc chắn phải gánh những gánh thật năng nề nếu cái xu hướng ý thức hệ kia được Giáo Hội coi là chính thức.

Trong bài báo “Synod Organizers Are Making Their Crisis of Credibility Worse” (Các nhà tổ chức Thượng Hội Đồng đang khiến cho khả tín tính của họ thêm tệ hại), Jonathan Liedl nhận định rằng khi chuyển sang giai đoạn lục địa, tiến trình kéo dài nhiều năm của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đối đầu với một cuộc khủng hoảng oái oăm về độ khả tín: Làm thế nào nó có thể được coi như một mô tả chính xác kinh nghiệm của người Công Giáo về cách Giáo hội lắng nghe, khi bản thân Thượng hội đồng phần lớn đã không chịu lắng nghe một số lượng đáng kể tiếng nói của người Công Giáo?

Ít nhất là ở phương Tây, mức độ tham gia trong giai đoạn cấp giáo phận của Thượng Hội đồng rất thấp. Bản tổng hợp của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về các báo cáo của giáo phận cho thấy trong số 66.8 triệu dân Công Giáo Hoa Kỳ, chỉ có 700,000 người - chỉ hơn 1% tổng số người Công Giáo Hoa Kỳ một chút - tham gia. Các báo cáo từ một số quốc gia châu Âu cũng cho thấy sự tham gia nhỏ nhoi; ở các nước như Pháp, Lục Xâm Bảo, Bỉ, Anh và xứ Wales chỉ có 1% hoặc ít hơn những người Công Giáo được rửa tội tham gia diễn trình tham khảo.

Mức độ tham gia thấp đặc biệt đáng quan tâm nếu xét đến việc một trong ba chủ đề đã nêu của Thượng hội đồng về tính đồng nghị là “sự tham gia”, vốn đòi hỏi sự tham gia của “toàn thể cộng đồng”. Chính Đức Thánh Cha Phanxicô trước đây đã nói rằng Thượng Hội đồng phải “không để ai ở lại phía sau hoặc bị loại trừ,” thậm chí gợi ý rằng quá trình này phải “vượt trên 3% hoặc 4% những người gần gũi nhất với chúng ta.”

Trong khi Austen Ivereigh, một người viết tiểu sử của Đức Giáo Hoàng, thuộc một nhóm được chọn để tổng hợp các báo cáo của tất cả các hội đồng giám mục thành một tài liệu, đã tuyên bố rằng 8% -10% người Công Giáo tham dự Thánh lễ đã tham gia vào giai đoạn cấp giáo phận của Thượng hội đồng, điều đó vẫn cho thấy 90% -92% hoặc chín trong số 10 người Công Giáo tham dự Thánh lễ, vẫn chưa tham gia. Hơn nữa, những người Công Giáo ở những nơi như Ái Nhĩ Lan, Bồ Đào Nha và Bỉ đã phàn nàn rằng các báo cáo của Thượng hội đồng ở các quốc gia liên hệ của họ không đại diện cho quan điểm của người Công Giáo, một phần vì chúng làm nổi bật các thực hành không chính thống như chúc lành cho các cuộc kết hợp đồng tính và cố gắng phong chức cho phụ nữ như những cách để làm cho Giáo hội được chào đón nhiều hơn. Một cách đầy oái oăm, nếu các nhà tổ chức Thượng Hội đồng bám vào một trình thuật cho rằng Thượng Hội đồng đại diện một cách xác thực cho “cảm thức tín hữu” bất chấp những thiếu sót của diễn trình, thì toàn bộ sự việc có thể được những người Công Giáo không thấy tiếng nói của họ được phản ảnh trong những phát hiện của nó tri nhận như một điển hình khác của việc các viên chức Giáo hội không chịu lắng nghe – một điều vốn được người ta coi là mục tiêu để vượt qua của Thượng Hội Đồng.

Như Stephen White, giám đốc của Dự án Công Giáo đã nói, “Những nỗ lực tuyệt vọng để tô vẽ [Thượng hội đồng] như đại diện cho ‘sensus fidelium’ [cảm thức tín hữu], thành thực mà nói, là một điều xúc phạm.” White, người đã tổ chức các buổi hội họp về Thượng hội đồng tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, nói thêm rằng “thật khó để tránh ấn tượng, ít nhất ở phương Tây, cho rằng nhiều nỗ lực [đã] được dành vào việc rao bán và thêu dệt nó như một chiến thắng hơn là dành vào việc lập kế hoạch ngay từ đầu. " Với tất cả những điều này, người ta hẳn nghĩ rằng những người điều hành Thượng hội đồng chỉ đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ uy tín của diễn trình - hoặc ít nhất là không làm hỏng nó thêm nữa.

Chẳng hạn, những người tổ chức Thượng hội đồng không nên sử dụng ngôn ngữ khoa trương trong việc định nghĩa Thượng hội đồng là gì và nó có thể đạt được những gì, và thay vào đó nên điều chỉnh lại các kỳ vọng: Thượng hội đồng là một diễn trình tham vấn không hoàn hảo, nó chỉ cung cấp cho các nhà lãnh đạo Giáo hội một cửa sổ không đầy đủ, nhưng vẫn có giá trị về việc một số người liên quan đến Giáo hội ra sao, giá trị đích thực của việc này có thể hơn thế nữa trong diễn trình tập hợp mọi người lại với nhau để lắng nghe và thảo luận hơn là ở tính chính xác tổng thể của những điều nó phát hiện.

Nói tóm lại, người ta sẽ nghĩ rằng những người tổ chức Thượng Hội đồng có thể ưu tiên hóa việc tránh những “bãi mìn” hiển nhiên vốn củng cố tri nhận cho rằng toàn bộ diễn trình, và những từ ngữ thần học mơ hồ mới sáng chế đi kèm với nó, đang được sử dụng như một cái cớ để thúc đẩy một nghị trình ý thức hệ.

Nhưng bất chấp vị trí bấp bênh mà Thượng hội đồng về tính đồng nghị đang lâm vào, những người quảng bá nó dường như không có khuynh hướng thực hiện một cách tiếp cận có tính chừng mực và hạn chế hơn.

Đầu tuần này, Thượng Hội đồng Giám mục đã chia sẻ các tác phẩm nghệ thuật gây tranh cãi được đệ trình như những “ghi chú trực quan” từ một phiên họp Thượng Hội đồng địa phương trên các trương mục truyền thông xã hội chính thức của họ. Hình ảnh đáng báo động nhất là hình ảnh một phụ nữ mặc lễ phục vốn dành riêng cho các linh mục; một cá nhân mặc áo thung “Pride” [hãnh diện] mầu cầu vồng cũng được đưa vào hình ảnh. Một hình ảnh khác có chủ đề “loại trừ để hòa nhập”, dường như ngụ ý biến “phụng vụ” thành “cộng đồng”, “thánh kinh” thành “lòng hiếu khách triệt để” và “bản sắc Công Giáo” thành “Bản sắc LGBTQ +”.

Phản ứng tập thể trên các phương tiện truyền thông xã hội đối với những đăng tải này có thể đoán được là rất quan trọng. Đăng tải trên Facebook của Thượng hội đồng hình ảnh nữ linh mục, đã nhận được 780 phản ứng cho đến nay: 550 “tức giận”, 100 “buồn” và hơn 50 người khác cảm thấy buồn cười. Tại sao văn phòng Thượng Hội Đồng thấy cần phải chọn tác phẩm nghệ thuật này và quảng bá nó qua các kênh chính thức? Chính “mục tiêu riêng” của các nhà tổ chức Thượng hội đồng sẽ chỉ củng cố thêm mối nghi ngờ của nhiều người cho rằng diễn trình này đang được thúc đẩy bởi những người có mục tiêu ý thức hệ.

Nhưng biến cố mới nhất này là một phần của một mô hình lớn hơn nhiều của các nhà tổ chức dường như khiến cho những người Công Giáo đang lưng chừng về Thượng hội đồng thậm chí còn có thêm lý do để lo ngại hơn nữa.

Hãy xem xét trường hợp của Đức Hồng Y Jean-Claude Hollerich, vị tổng tường trình viên của Thượng Hội Đồng, người đã tuyên bố công khai vào tháng Hai rằng giáo huấn của Giáo Hội về đồng tính luyến ái là “sai lầm” mà không có bất cứ hình thức đích thân nào nhằm rút lại hay sửa chữa từ Vatican trong hơn nửa năm. Mãi cho đến tháng 8, khi một phóng viên hỏi ngài về những bình luận này và liệu chúng có ngụ ý không có khả thể lãnh đạo Thượng hội đồng một cách khách quan hay không, vị Hồng Y của Lục Xâm Bảo mới tuyên bố rằng ngài tôn trọng tín lý của Giáo hội và không cố gắng thúc đẩy một chương trình nghị sự nào. Rút lui muộn còn hơn không rút lui, nhưng trong lúc này, có bao nhiêu người Công Giáo mất niềm tin vào tiến trình của Thượng Hội đồng do những bình luận gây tranh cãi không được sửa chữa của ngài?

Các quyết định có chủ đích khác theo hướng này bao gồm che đậy diễn trình Thượng Hội đồng bằng ngôn ngữ và nhãn hiệu phù hợp với biệt ngữ doanh nghiệp hơn là đức tin Công Giáo; nói về nó bằng ngôn ngữ khoa trương không cần thiết, giống như Sơ Nathalie Becquart, phó tổng thư ký Thượng Hội đồng đã làm khi bà khăng khăng quảng bá Thượng Hội đồng như là “sự kiện lịch sử quan trọng nhất kể từ Công đồng Vatican II”; quảng bá các nguồn lực từ các nhóm không chính thống như New Ways Ministry và Women’s Ordination Conference trên trang web chính thức của Thượng Hội Đồng; và nói tới các kết quả của Thượng Hội đồng, bao gồm cả việc chúc lành cho các mối liên hệ đồng tính và việc phong chức cho phụ nữ, trước khi tiến trình giáo phận bắt đầu.

Hơn nữa, khi bất cứ bước lỡ lầm nào làm xói mòn sự tự tin này được chỉ ra cho các nhân viên của Thượng Hội đồng, liền gặp xu hướng hạ thấp chúng và không chịu trách nhiệm. Thí dụ, khi phóng viên Edward Pentin của tạp chí Register hỏi Thierry Bonaventura, giám đốc truyền thông của Thượng hội đồng Giám mục, tại sao hình ảnh linh mục và người mặc áo thung Pride lại được các kênh truyền thông xã hội chính thức của Thượng hội đồng quảng bá và liệu nó có thể được hiểu là quảng bá Việc phong chức phụ nữ hoặc những thay đổi đối với giáo huấn của Giáo hội về quan hệ tình dục, Bonaventura đã đưa ra một câu trả lời mà không trả lời chút nào: “Tôi nghĩ bản văn trên đăng tải đã giải thích mục đích của đăng tải đó: không những bản văn viết mà còn cả tác phẩm nghệ thuật [đã được đưa vào các báo cáo của Thượng hội đồng]. ” Nhưng há Thượng hội đồng lại không thể cho thấy điều này mà không đăng một hình ảnh có vẻ như để cổ vũ cho chủ trương dị thống?

Nhìn từ quan điểm khách quan, những nỗ lực tập thể của những người cổ vũ Thượng Hội đồng rất tai hại về mặt xây dựng uy tín trong các tín hữu Công Giáo.

Tất nhiên, một số người Công Giáo luôn nghi ngờ Thượng hội đồng về Tính đồng nghị, vì họ chống lại bất cứ điều gì mới hoặc thậm chí là thù hận cá nhân đối với Đức Thánh Cha và các sáng kiến của ngài.

Nhưng phần lớn những người Công Giáo, mặc dù không chắc chắn về những gì mà Thượng hội đồng sẽ mang đến hoặc thậm chí nó sẽ đi đến đâu, ban đầu đã tiếp cận tiến trình một cách cởi mở và trong tư cách những người sẵn lòng tham gia - chỉ để những người quảng bá Thượng hội đồng không ngừng đem lại cho họ lý do để họ nghi ngờ tính đúng đắn của nó. Nếu tính đồng nghị thực sự giống như một cơ bắp mà Giáo hội đang được kêu gọi sử dụng nhưng không được sử dụng để thực thi, thì người ta tự hỏi tại sao những người chịu trách nhiệm tổ chức Thượng hội đồng lại khiến cho việc tham gia và tin tưởng trở nên khó khăn một cách không cần thiết bằng cách làm suy giảm uy tín của nó.

Một kết luận hợp lý là một số nhà tổ chức Thượng Hội đồng không đặc biệt quan tâm nếu một số lượng lớn người Công Giáo thực hành đạo không thấy diễn trình này đáng tin cậy và tin tưởng. Trái ngược với mong muốn của Đức Thánh Cha là có một diễn trình Thượng hội đồng không bị thúc đẩy bởi chương trình nghị sự mà là sự sẵn lòng chân thành lắng nghe, ý hướng của họ chỉ đơn giản là tạo ra một tài liệu Thượng hội đồng cuối cùng kêu gọi các kết quả ý thức hệ ưa thích của họ.

Từ quan điểm đó, việc hạn chế lòng tin và do đó, sự tham gia của những người Công Giáo dấn thân cho tính đồng nghị nhất quán với đức tin và đạo đức chính thức, có thể không phải là một sai sót, mà là một đặc điểm trong chiến lược của các nhà tổ chức Thượng Hội đồng.