Hàng năm, vào Mùa Vọng và Mùa Chay, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng có bài giảng tĩnh tâm trước Giáo triều Rôma.

Lúc 9h sáng Thứ Sáu, 23 Tháng Hai, 2024, ngài đã có bài giảng Mùa Chay đầu tiên cho Giáo triều Rôma.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Mở đầu các bài giảng Mùa Chay này, chúng ta lại bắt đầu với cuộc đối thoại nổi tiếng giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ở Xêdarê Philípphê.

Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:13-16).

Trong tất cả những lời đối thoại, vào lúc này, chúng ta chỉ quan tâm duy nhất đến câu hỏi thứ hai của Chúa Giêsu: “Các con nói Thầy là ai?” Tuy nhiên, chúng ta sẽ không hiểu câu hỏi đó theo nghĩa mà nó thường được hiểu; nghĩa là, như thể Chúa Giêsu quan tâm đến việc biết Giáo hội nghĩ gì về Người, hoặc những nghiên cứu thần học của chúng ta đã dạy chúng ta điều gì về Người. KHÔNG! Chúng ta coi câu hỏi đó như mọi lời phát ra từ miệng Chúa Giêsu, nghĩa là, như một lời được ngỏ với những người nghe nó, với tư cách một cá nhân, cá vị.

Để thực hiện bài kiểm tra này, chúng ta sẽ nhờ Thánh Gioan Thánh Sử giúp đỡ. Trong Tin Mừng của ngài, chúng ta tìm thấy một loạt những lời tuyên bố nổi tiếng của Chúa Giêsu, “Ego eimi” hay “Ta là”, trong đó Chúa Giêsu mạc khải những gì Ngài nghĩ về chính mình, Ngài nói Ngài là ai: “Ta là bánh của sự sống,” “Ta là ánh sáng của thế gian,” v.v. Chúng ta sẽ xem xét năm trong số những sự bộc lộ bản thân này và mỗi lần chúng ta sẽ tự hỏi liệu Ngài có thực sự dành cho chúng ta những gì Ngài nói hay không và làm thế nào để khiến Ngài ngày càng trở nên như vậy.

Đó là khoảnh khắc được sống với một khuynh hướng đặc biệt. Không phải với đôi mắt hướng ngoại về những vấn đề của thế giới và của chính Giáo hội, như người ta buộc phải làm trong những bối cảnh khác, nhưng với cái nhìn nội tâm. Một khoảnh khắc thân mật và tách biệt, và do đó, phải chăng mọi thứ đều được coi là ích kỷ? Không, trái lại là đàng khác! Đó là rao giảng Tin Mừng cho chính chúng ta để rồi chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng, đổ đầy Chúa Giêsu trong chúng ta để rồi chúng ta có thể nói về Tin Mừng “vì tình yêu tràn đầy”, như Hiến pháp nguyên thủy của Dòng tu của tôi đã khuyến cáo các nhà giảng thuyết, vì một xác tín sâu xa, chứ không chỉ là cớ để rút lui khỏi một sứ vụ.

* * *

Chúng ta hãy bắt đầu với câu đầu tiên trong số những câu nói “Ta Là” của Chúa Giêsu mà chúng ta gặp trong chương sáu của Phúc Âm thứ tư: “Ta là bánh hằng sống”. Trước tiên chúng ta hãy nghe phần bài hát mà chúng ta quan tâm trực tiếp nhất:

Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6:30-35).

Một chút vắn tắt về ngữ cảnh. Trước đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để nuôi năm ngàn người. Sau đó, Ngài biến mất để thoát khỏi sự nhiệt tình của những người muốn phong Ngài làm vua. Đám đông tìm kiếm và tìm thấy Ngài ở bên kia hồ.

Đến đây bắt đầu bài diễn văn dài mà Chúa Giêsu cố gắng giải thích “dấu chỉ bánh”. Ngài muốn nói rõ rằng có một loại bánh khác cần được tìm kiếm, mà nguyên liệu thực sự là một “dấu chỉ”. Đó là thủ tục tương tự được áp dụng với người phụ nữ Samaritanô trong Chương IV Phúc Âm. Ở đó, Chúa Giêsu muốn dẫn người phụ nữ khám phá ra một loại nước khác, ngoài thứ nước thể lý mà chỉ làm cơn khát trong một thời gian ngắn; ở đây Ngài muốn dẫn dắt đám đông đi tìm một chiếc bánh khác, khác với chiếc bánh vật chất chỉ đủ no trong một ngày. Với người phụ nữ Samari đang xin thứ nước huyền nhiệm đó và chờ đợi Đấng Messia đến để lấy nó, Chúa Giêsu trả lời: “Chính Thầy đang nói với chị đây” (Ga 4:26). Đối với đám đông đang đặt câu hỏi tương tự về bánh, Người trả lời: “Ta là bánh sự sống!”

Chúng ta tự hỏi: chúng ta ăn bánh sự sống này như thế nào và ở đâu? Câu trả lời của các Giáo phụ là: ở hai “nơi” hoặc hai cách: đó là trong bí tích và trong Lời Chúa, nghĩa là trong Bí tích Thánh Thể và Kinh thánh. Đúng là có những điểm nhấn khác nhau. Một số người, như Origen và Ambrose người Latinh, nhấn mạnh nhiều hơn đến Lời Chúa. Thánh Ambrose viết: “Chiếc bánh mà Chúa Giêsu bẻ ra” khi bình luận về việc hóa bánh ra nhiều, “có ý nghĩa huyền nhiệm là lời Chúa sẽ gia tăng khi được phân phát. Ngài đã ban cho chúng ta lời Ngài như những ổ bánh nhân lên trong miệng khi chúng ta nếm thử.” Những người khác, chẳng hạn như thánh Cyrilô thành Alexandria, nhấn mạnh đến việc giải thích Thánh Thể. Tuy nhiên, không ai trong số họ có ý định nói về một cách để loại trừ cách kia. Chúng ta nói về Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể như “hai chiếc bàn” được Chúa Kitô dọn ra. Trong cuốn Noi Gương Chúa Kitô, chúng ta đọc thấy:

Tôi cảm thấy trong cuộc sống này có hai thứ đặc biệt cần thiết cho tôi mà không có nó sự khốn khổ sẽ không thể chịu nổi. Bị giam cầm ở đây trong nhà tù thể xác này, tôi thú nhận rằng tôi cần hai thứ đó, thức ăn và ánh sáng. Vì thế, Chúa đã ban cho con trong sự yếu đuối của con Thánh Thể Chúa để bồi dưỡng tâm hồn và thể xác con, và Chúa đã đặt lời Chúa làm ánh sáng dẫn đường cho đôi chân con. Không có hai điều đó, con không thể sống ổn thỏa, vì lời Chúa là ánh sáng tâm hồn con và Bí tích của Chúa là Bánh Sự Sống. Đây cũng có thể được gọi là hai cái bàn, một cái ở đây, một cái ở kia, trong kho báu của Giáo hội thánh thiện.

Việc đơn phương khẳng định một trong hai cách ăn bánh sự sống này để loại trừ cách kia là kết quả của sự chia rẽ tai hại xảy ra trong Kitô giáo phương Tây. Về phía Công Giáo, việc giải thích Thánh Thể cuối cùng đã trở nên vượt trội đến mức khiến chương thứ sáu của Thánh Gioan gần như tương đương với câu chuyện về việc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Phản ứng lại, Luther đã tuyên bố ngược lại, cho rằng bánh sự sống là lời Chúa; nó được phân phát qua việc rao giảng và được ăn nhờ đức tin.

Bầu khí đại kết đã được thiết lập giữa các tín hữu tin vào Chúa Kitô cho phép chúng ta sắp xếp lại sự tổng hợp truyền thống hiện diện nơi các Giáo Phụ. Không còn nghi ngờ gì nữa, bánh sự sống đến với chúng ta qua Lời Chúa và đặc biệt là lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Câu trả lời của Người đối với ma quỷ cám dỗ cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). Nhưng làm sao chúng ta lại không thấy trong bài diễn văn của Chúa Giêsu tại hội đường Capernaum cũng ám chỉ đến Bí tích Thánh Thể? Toàn bộ bối cảnh gợi lên một bữa tiệc: chúng ta nói về đồ ăn và đồ uống, việc ăn và uống, thân xác và máu Người. Câu nói: “Ai không ăn thịt và uống máu Ta…” gợi nhớ quá rõ những lời thiết lập bí tích Thánh Thể (“Hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Ta” và “Hãy cầm lấy mà uống: đây là máu Ta”) đến mức không còn có thể phủ nhận mọi mối quan hệ giữa chúng.

Nếu trong khoa chú giải Kinh Thánh và thần học, chúng ta chứng kiến một sự phân cực và đôi khi là một sự tương phản giữa bánh Lời Chúa và bánh Thánh Thể, thì trong phụng vụ, sự tổng hợp của chúng luôn được trải nghiệm một cách hòa bình. Kể từ thời xa xưa nhất, chẳng hạn như Thánh Justinô Tử đạo, Thánh lễ bao gồm hai thời điểm: phụng vụ Lời Chúa, với các bài đọc lấy từ Cựu Ước và “hồi ký của các tông đồ”, và phụng vụ Thánh Thể với thánh hiến và rước lễ.

Hôm nay, như tôi đã nói, chúng ta có thể quay trở lại với sự tổng hợp nguyên thủy giữa Lời Chúa và Bí tích. Quả thực, chúng ta phải tiến một bước theo hướng này. Nó không chỉ bao gồm việc ăn thịt và uống máu Chúa Kitô trong Lời Chúa và bí tích Thánh Thể, mà còn ở việc thấy nó được thực hiện trong mọi khoảnh khắc và mọi khía cạnh của đời sống ân sủng của chúng ta. Khi Thánh Phaolô viết: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” (Pl 1:21), ngài không nghĩ đến một thời điểm nhất định nào cả. Đối với ngài, Chúa Kitô thực sự, trong mọi cách hiện diện của Người, là bánh sự sống; chúng ta “ăn” Người bằng đức tin, đức cậy và đức ái, trong lời cầu nguyện và trong mọi sự. Con người được tạo dựng để có được niềm vui và không thể sống mà không có niềm vui hoặc không có niềm hy vọng về nó. Niềm vui là bánh của trái tim. Và Thánh Tông Đồ tìm kiếm niềm vui đích thực – và khuyến khích những người theo ngài tìm kiếm nó – trong Chúa Kitô: “Gaudete in Domino semper, iterum dico, gaudete”: “Hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nói lại lần nữa: hãy vui mừng!” (Philíp 4:4).

Chúa Giêsu là bánh sự sống đời đời không chỉ vì những gì Ngài ban mà còn – và trước hết – vì con người của Ngài. Lời Chúa và Bí tích là phương tiện; sống nơi Người và trong Người là mục đích: “Như Chúa Cha là Đấng có sự sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì ai ăn Thầy cũng sẽ sống nhờ Thầy như vậy” (Ga 6:57). Trong bài thánh ca Adoro te devote đã khơi dậy lòng đạo đức và tôn thờ Thánh Thể của người Công Giáo trong nhiều thế kỷ, có một câu diễn giải những lời này của Chúa Giêsu. Trong bản gốc mà nhiều người trong chúng ta chắc chắn còn nhớ, nó nghe như thế này:

O memoriále mortis Dómini,

Panis vivus vitam praestans hómini,

praesta meae menti de te vívere,

et te illi semper dulce sápere.

Nghĩa là,

Ôi hồi ức Đấng Cứu Thế của tôi hấp hối,

Bánh Hằng Sống, ban sự sống cho con người;

tạo nên linh hồn tôi, sự sống nhờ Ngài cung cấp,

nếm vị ngọt ngào của Ngài, trên trái đất như có thể.

* * *

Do đó, toàn bộ lời nói của Chúa Giêsu có xu hướng làm sáng tỏ sự sống mà Ngài ban: không phải sự sống xác thịt, mà là sự sống trong Thánh Thần, sự sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, không phải theo hướng này mà tôi muốn tiếp tục suy tư trong vài phút còn lại. Đối với Tin Mừng, luôn có hai hoạt động phải được thực hiện, tôn trọng nghiêm ngặt thứ tự của chúng: trước tiên là chiếm hữu, sau đó là bắt chước. Cho đến nay, chúng ta đã chiếm hữu được bánh sự sống nhờ đức tin và chúng ta làm như vậy mỗi khi rước lễ. Bây giờ vấn đề là xem làm thế nào để áp dụng chúng vào thực tiễn trong cuộc sống của chúng ta.

Để làm điều này, chúng ta tự hỏi mình một câu hỏi đơn giản: Chúa Giêsu đã trở thành bánh sự sống cho chúng ta như thế nào? Chính Người đã cho chúng ta câu trả lời chính xác trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12:24). Chúng ta biết rõ hình ảnh rơi xuống đất và mục nát ám chỉ điều gì. Toàn bộ lịch sử của Cuộc Khổ Nạn được chứa đựng trong đó. Chúng ta phải cố gắng xem những hình ảnh đó có ý nghĩa gì với chúng ta. Thật vậy, với hình ảnh trên hạt lúa mì, Chúa Giêsu không chỉ nói lên số phận cá nhân của Người mà còn là số phận của mỗi người môn đệ đích thực của Người.

Người ta không thể nghe những lời của Đức Giám Mục Ignaxiô thành Antiôkia ngỏ với Giáo hội Rôma mà không xúc động và không ngạc nhiên khi thấy những gì ân sủng của Chúa Kitô có thể làm được cho loài người:

Tôi đang liên lạc với tất cả các nhà thờ và yêu cầu họ nhận ra rằng tôi đang tự nguyện chết vì Chúa - nếu đúng như vậy, anh chị em đừng can thiệp. Tôi cầu xin anh chị em, đừng làm cho tôi một lòng tốt trái mùa. Hãy để tôi làm thức ăn cho dã thú - đó là cách tôi có thể đến được với Chúa. Tôi là lúa mì của Thiên Chúa và tôi đang bị thú rừng nghiền nát để làm bánh tinh khiết cho Chúa Kitô.

Trước răng của thú dữ, Đức Giám Mục Ignaxiô đã trải nghiệm những chiếc răng khác khiến ngài phải chịu đựng, không phải răng của thú rừng mà là của con người: “Từ Syria đến Rôma,” ngài viết, “Tôi chiến đấu với thú dữ, trên đất liền và trên biển, ngày đêm bị trói vào mười con báo, số ít binh lính được lợi từ tôi trở nên tồi tệ hơn.” Điều này cũng có điều muốn nói với chúng ta. Mỗi người chúng ta, trong môi trường của mình, đều có những chiếc răng của thú dữ đang nghiền nát chúng ta. Thánh Augustinô nói rằng con người chúng ta là “những chiếc bình bằng đất làm tổn thương nhau”: lutea vasa quae faciunt invicem angustias. Chúng ta phải học cách biến tình huống này thành một phương tiện thánh hóa chứ không phải làm lòng chai dạ đá với những hận thù và phàn nàn!

Một câu châm ngôn thường được lặp đi lặp lại trong các cộng đồng tôn giáo của chúng ta là vita communis mortificatio maxima: “Sống trong cộng đoàn là hình thức khổ chế lớn nhất”. Không những vĩ đại nhất mà còn hữu ích nhất, có công hơn nhiều việc hành xác tự chọn khác. Câu châm ngôn này không chỉ áp dụng cho những người sống trong các cộng đồng tôn giáo mà còn cho mọi cuộc sống chung của con người. Theo tôi, nơi mà nó đạt được một cách đòi hỏi khắt khe nhất là hôn nhân, và chúng ta phải tràn đầy ngưỡng mộ khi đối mặt với một cuộc hôn nhân được trung thành tiến hành cho đến chết. Dành cả cuộc đời, ngày đêm để đối phó với ý chí, phong cách, sự nhạy cảm và tính cách của người khác, đặc biệt là trong một xã hội như chúng ta, là một điều gì đó tuyệt vời và nếu được thực hiện với tinh thần đức tin thì nó đã được coi là “Đức anh hùng”.

Tuy nhiên, chúng ta thấy mình ở đây trong bối cảnh Giáo triều không phải là một cộng đồng tôn giáo hay hôn nhân, mà là một cộng đồng phục vụ và làm việc trong Giáo hội. Có rất nhiều cơ hội không thể lãng phí nếu chúng ta cũng muốn được nghiền nát để trở thành bột của Chúa, và mọi người phải nhận ra và thánh hóa những gì được dâng cho mình tại nơi phục vụ mình. Tôi sẽ chỉ kể tên một hoặc hai điều mà tôi nghĩ là có giá trị đối với tất cả mọi người.

Một cơ hội là chấp nhận bị mâu thuẫn, từ bỏ việc biện minh cho bản thân và luôn muốn mình đúng khi điều này không được tầm quan trọng của vấn đề yêu cầu. Đó là một cách khác để chịu đựng một người có phong cách, cách thức nói năng hoặc hành động khiến chúng ta lo lắng và làm như vậy mà bản thân không trở nên cáu kỉnh trong nội tâm, đúng hơn là nghĩ rằng có lẽ chúng ta cũng là một người như vậy đối với ai đó. Thánh Tông Đồ đã khuyên nhủ các tín hữu ở Côlôsê bằng những lời này:

Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. (Cl 3:12-13).

Điều khó “xé nát” nhất trong chúng ta không phải là xác thịt mà là tinh thần, tức là lòng tự ái và lòng kiêu hãnh, và những bài tập nhỏ này phục vụ mục đích đó một cách tuyệt vời.

Thật không may, ngày nay trong xã hội tồn tại những chiếc răng nghiến chặt không thương tiếc, còn tàn nhẫn hơn cả răng của con báo mà Thánh Ignaxiô tử đạo đã nói đến. Chúng là răng của các phương tiện truyền thông và cái gọi là mạng xã hội. Không phải khi họ chỉ ra những biến dạng của xã hội hay của Giáo hội (về điều này họ xứng đáng nhận được tất cả sự tôn trọng và quý trọng!), mà là khi họ tấn công ai đó vì thành kiến, đơn giản vì người đó không thuộc về phía họ. Với ác ý và với mục đích phá hoại, thay vì mang tính xây dựng. Thật đáng tiếc cho ai hôm nay lại phải vào cái máy xay thịt này, dù là giáo dân hay giáo sĩ!

Trong trường hợp này, việc khẳng định lý do của mình trên các diễn đàn thích hợp là hợp pháp và cần thiết, và nếu điều này không thể thực hiện được hoặc thấy rằng nó vô ích, thì tất cả những gì còn lại đối với một tín hữu là tham gia cùng Chúa Kitô bị đánh đòn, đội mão triều thiên gai, và bị khạc nhổ. Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc lời khuyên này gửi đến các Kitô hữu tiên khởi, lời khuyên này có thể giúp ích trong những trường hợp tương tự: “Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí.” (Dt 12:3).

Ít nhất thì đó là một điều khó khăn và đau đớn, đặc biệt nếu có liên quan đến gia đình ruột thịt hoặc tôn giáo của một người, nhưng ân sủng của Thiên Chúa có thể biến – và thường đã biến – tất cả những điều này thành cơ hội để thanh tẩy và thánh hóa. Đó là việc có niềm tin rằng, cuối cùng, như đã xảy ra với Chúa Giêsu, sự thật sẽ chiến thắng sự dối trá. Và chiến thắng có lẽ sẽ được thực hiện tốt hơn bằng sự im lặng hơn là bằng cách tự vệ hung hãn nhất.

* * *

Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của việc cho phép bản thân trở nên bình tĩnh không phải là mục đích khổ hạnh mà là mục đích thần bí; nó không phục vụ nhiều cho việc hành xác bản thân cho bằng nhằm tạo ra sự hiệp thông. Đây là một chân lý đã đồng hành với việc dạy giáo lý Thánh Thể ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Nó đã có mặt trong Didache (IX,4), một văn bản có từ thời các tông đồ. Thánh Augustinô khai triển chủ đề này một cách tuyệt vời trong một bài giảng của ngài cho dân chúng. Ngài so sánh tiến trình dẫn đến việc hình thành bánh là Mình Thánh Chúa Kitô, và tiến trình dẫn đến việc hình thành thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo hội. Ngài nói:

Hãy nhớ lại một chút lúa mì ngày xưa là gì, khi nó còn ở ngoài đồng: đất làm cho nó nảy mầm, mưa nuôi dưỡng nó; sau đó là công việc của con người mang nó đến sân đập lúa, đập nó, sàng lọc nó và đặt nó vào kho thóc; từ đây người ấy đem nó đi xay và nấu và cuối cùng nó trở thành bánh mì.

Bây giờ hãy nghĩ về chính mình: anh em đã không hiện hữu và đã được tạo dựng, anh em đã được đưa đến sân đập lúa của Chúa, anh em đã bị đánh đập… Khi anh em chịu phép rửa, anh em bắt đầu bị nghiền nát bởi việc ăn chay và trừ quỷ; rồi cuối cùng anh em đến với nước, anh em được nhào nặn và trở thành một; khi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đến, anh em đã được nấu chín và trở thành bánh của Chúa. Đây là những gì anh em nhận được. Vì vậy, như anh em thấy bánh được chuẩn bị là một, thì nguyện cho anh em cũng nên một, yêu thương nhau, cùng một đức tin, cùng một niềm hy vọng, và một lòng bác ái trọn vẹn.”

* * *

Tôi kết thúc bằng một tình tiết đã thực sự xảy ra, được thuật lại trong một cuốn sách vẫn còn trên thị trường có tựa đề “Cái giá phải trả” và tôi tin rằng tác giả của nó vẫn còn sống. Nó giúp ích, tốt hơn những bài diễn văn dài dòng, để nhận ra sức mạnh chứa đựng trong câu “Ta Là” trang trọng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng và đặc biệt là những gì tôi đã bình luận trong bài suy niệm đầu tiên này.

Cách đây vài thập kỷ, tại một quốc gia Trung Đông, có hai người lính – một người theo Kitô giáo và người kia không theo đạo – cùng nhau làm nhiệm vụ canh gác tại một kho vũ khí. Người Kitô Hữu thường lấy ra, thậm chí vào ban đêm, một cuốn sách nhỏ và đọc, thu hút sự tò mò và mỉa mai của người bạn đồng hành của mình. Một đêm nọ, người sau có một giấc mơ. Anh ta thấy mình đang đứng trước một con suối mà anh ta không thể vượt qua. Anh nhìn thấy một nhân vật được bao bọc trong ánh sáng và nói với anh: “Để vượt qua nó, bạn cần có bánh sự sống”. Có ấn tượng mạnh với giấc mơ, vào buổi sáng, không hiểu tại sao, anh lại yêu cầu, hay nói đúng hơn là ép người bạn đồng hành đưa cho mình cuốn sách bí ẩn. (Tất nhiên đó là sách Phúc Âm). Anh ta mở nó ra và rơi vào Phúc Âm của Thánh Gioan. Người bạn theo Kitô giáo của anh khuyên anh nên bắt đầu với Phúc Âm của Thánh Matthêu để dễ hiểu hơn. Nhưng anh ta, không biết tại sao, vẫn khăng khăng. Anh ta đọc mọi thứ một mạch cho đến khi đọc đến chương sáu. Nhưng tại thời điểm này, sẽ rất tốt nếu nghe trực tiếp câu chuyện của anh ta:

Đọc tới chương thứ sáu, tôi dừng lại, có ấn tượng bởi sức mạnh của một câu nói. Trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ mình là nạn nhân của một ảo giác, và tôi lại nhìn vào cuốn sách, đến lúc tôi dừng lại… Tôi vừa đọc được những dòng này: “…bánh sự sống.” Những lời tương tự tôi đã nghe cách đây vài giờ trong giấc mơ. Tôi chậm rãi đọc lại đoạn Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ta là bánh hằng sống, ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói nữa”. Ngay lúc đó, một điều gì đó phi thường được giải phóng trong tôi, giống như một sự bùng nổ của hơi ấm và hạnh phúc… Tôi có cảm giác như bị cuốn theo, được nâng lên bởi sức mạnh của một cảm giác mà tôi chưa từng trải qua, một niềm đam mê mãnh liệt, một tình yêu. không thể đo lường được đối với người đàn ông được gọi là Giêsu này”.

Những gì người này sau này phải chịu đựng vì đức tin của mình đã xác nhận tính xác thực của trải nghiệm của anh ta. Lời Chúa không phải lúc nào cũng hành động một cách bùng nổ như vậy, nhưng tôi xin nhắc lại, ví dụ này cho chúng ta thấy sức mạnh thần linh ẩn chứa trong câu “Ta là” trang trọng của Chúa Kitô mà với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hứa sẽ bình luận trong Mùa Chay này.

1. Noi Gương Chúa Kitô, IV, 11.

2. Thư gửi giáo đoàn Rôma, IV,1.

3.Augustinô, Sermo 229 (Denis 6 (PL 38, 1103)

4. Joseph Fadelle, Le prix à payer. Les Editions de l'Oeuvre, Paris 2010. Tiếng Việt. Cái giá phải trả, Ignaxiô Press, 2012.


Source:Cantalamessa