1. Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, với nghi thức “rửa chân”, tại nhà tù nữ Rebibbia ở Roma

Lúc 4 giờ chiều, thứ Năm Tuần thánh, ngày 28 tháng Ba tới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến nhà tù nữ Rebibbia ở Roma, để cử hành thánh lễ kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể và chức linh mục, rồi gặp gỡ các nữ tù nhân và nhân viên nhà tù này.

Năm ngoái, Đức Thánh Cha đã chủ sự Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, với nghi thức “rửa chân”, tại Trung tâm giam giữ các tội hình sự dành cho Trẻ vị thành niên Casal del Marmo, ngoại ô thủ đô Ý, nơi ngài đã chủ sự buổi cử hành tương tự vào năm 2013.

Kể từ đầu triều đại giáo hoàng, Đức Phanxicô đã chọn cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly, khai mạc Tam Nhật Thánh Phục Sinh, ở những nơi mang tính biểu tượng, liên quan đến đau khổ của con người, chẳng hạn như nhà tù, trung tâm tị nạn hoặc cơ sở y tế.

Thánh lễ Tiệc Ly ngày 6 tháng 4 năm ngoái đã diễn ra một cách riêng tư tại trung tâm giam giữ trẻ vị thành niên đã đón tiếp Đức Giáo Hoàng vào năm 2013, hai tuần sau cuộc bầu cử giáo hoàng.

Lần đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gây ngạc nhiên khi rửa chân cho 10 thanh niên và hai phụ nữ trẻ thuộc các quốc tịch khác nhau và các niềm tin tôn giáo khác nhau.

Trước đại dịch, Đức Phanxicô luôn cử hành Thứ Năm Tuần Thánh bên ngoài Vatican: qua năm lần cử hành thánh lễ Tiệc Ly trong tù – 2019, 2018, 2017, 2015 và 2013, ngài đã rửa chân cho những người thuộc nhiều quốc tịch và niềm tin tôn giáo khác nhau. Ngài cũng đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly tại một trung tâm tiếp nhận người tị nạn, năm 2016; và tại một trung tâm phục hồi chức năng cho người khuyết tật và người già, vào năm 2014.

Covid-19 buộc giáo hoàng cử hành thánh lễ tại Đền Thờ Thánh Phêrô vào năm 2020, vinh danh các linh mục đã qua đời vì dịch bệnh; vào năm 2021, Đức Giáo Hoàng đã cử hành Thánh lễ Tiệc ly với Hồng Y Angelo Becciu, cộng tác viên cũ của ngài, người vào năm 2020 đã từ chức khỏi Bộ Phong thánh và từ bỏ các quyền gắn liền với chức vụ Hồng Y.

Ngay trong năm 2022, Đức Phanxicô đã tiếp tục truyền thống và đến nhà tù Civitavecchia, ngoại ô Rôma.

2. Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm thẩm phán đã nghỉ hưu để điều tra cáo buộc lạm dụng tình dục đối với Đức Hồng Y người Canada

Tổng giáo phận Quebec ở Canada thông báo rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một thẩm phán đã nghỉ hưu để lãnh đạo một cuộc điều tra về các cáo buộc lạm dụng tình dục đối với Đức Hồng Y Gerald Lacroix, là những cáo buộc mà Đức Hồng Y “dứt khoát” phủ nhận.

Trong một tuyên bố ngày 4 tháng 3, Tổng Giáo phận Quebec cho biết họ đã được thông báo “vào ngày 8 tháng 2 năm ngoái rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy nhiệm cho André Denis, cựu thẩm phán Tòa án Tối cao Quebec, tiến hành một cuộc điều tra” về các cáo buộc chống lại Lacroix.

Đức Hồng Y Lacroix bị buộc tội gì?

Đức Hồng Y Lacroix, tổng giám mục Quebec và là thành viên Hội đồng Hồng Y cố vấn cho Đức Thánh Cha Phanxicô, đã bị buộc tội trong vụ kiện tổng giáo phận của ngài lạm dụng một cô gái 17 tuổi gần bốn thập kỷ trước. Đức Hồng Y trước đây đã phủ nhận cáo buộc.

Theo hãng tin AFP, cáo buộc chống lại vị Hồng Y 66 tuổi người Canada là một phần của vụ kiện tập thể. Theo luật sư của cô, Alain Arsenault, người đang khởi tố vụ án bắt đầu vào năm 2022, chống lại Tổng giáo phận Quebec, lời buộc tội bắt đầu từ năm 1987 và 1988, khi nạn nhân được cho là 17 tuổi.

Cuộc điều tra sẽ tiến hành như thế nào?

Theo tuyên bố ngày 4 tháng 3 của Tổng Giáo phận Quebec, cuộc điều tra của Denis phải được thực hiện “theo các điều khoản của tự sắc Vos Estis Lux Mundi ('Anh em là Ánh sáng của Thế gian')” đối với các cáo buộc liên quan đến một giám mục, một tổng giám mục, hoặc một Hồng Y.

Tài liệu của Đức Thánh Cha Phanxicô công bố vào tháng 5 năm 2019 đã thiết lập các thủ tục mới để ngăn chặn và báo cáo các trường hợp lạm dụng tình dục trong Giáo Hội Công Giáo.

Tuyên bố lưu ý: “Giáo phận sẽ đề nghị hợp tác đầy đủ với ông Denis theo yêu cầu của ông nhưng sẽ không can thiệp vào tiến trình điều tra hoặc vào kết luận của nó,” tuyên bố lưu ý và nói thêm rằng “chúng tôi sẽ không đưa ra bất kỳ bình luận nào thêm về quá trình đang diễn ra mà không có sự can thiệp từ phía chúng tôi.”

Theo Radio-Canada Ici Québec, thẩm phán đã viết một lá thư ngày 19 tháng 2 cho các bên liên quan nói rằng ông sẽ tiến hành “một cuộc điều tra sơ bộ trong đó chúng tôi sẽ quyết định không phải về tội hay vô tội của người liên quan mà là liệu sự thật của trường hợp có hợp lý hay không.”

Đài này đưa tin rằng thẩm phán muốn “gặp riêng” người khiếu nại, nhưng cô ấy từ chối, một quyết định mà Denis cho biết anh ta sẽ tôn trọng khi tiếp tục cuộc điều tra.

“Tôi dự định thực hiện công việc của mình với sự tôn trọng đối với những người có liên quan đồng thời bảo đảm tính bảo mật của bất kỳ nhận xét nào có thể được báo cáo cho tôi. Đó là lý do tại sao tôi không muốn đưa ra bất kỳ bình luận nào nữa,” thẩm phán đã nghỉ hưu nói trong một email gửi tới Canadian Broadcasting Corporation.

Arsenault, luật sư dẫn đầu vụ kiện tập thể do hơn 140 người đệ trình chống lại Tổng Giáo phận Quebec, bao gồm cả người phụ nữ cáo buộc Đức Hồng Y Lacroix, nói rằng ông không coi trọng bất kỳ giá trị nào trong cuộc điều tra do Giáo hội công bố.

Phản ứng của Đức Hồng Y Lacroix trước cáo buộc lạm dụng tình dục

“Tôi kiên quyết phủ nhận những cáo buộc được đưa ra công khai. Theo hiểu biết của tôi, chưa bao giờ tôi thực hiện bất kỳ hành động không phù hợp nào đối với bất kỳ ai, dù là trẻ vị thành niên hay người lớn. Tâm hồn và lương tâm của tôi bình yên trước những cáo buộc này, những cáo buộc mà tôi bác bỏ”, Đức Cha Lacroix nói trong một video ngày 30 Tháng Giêng được đăng trên trang web của tổng giáo phận.

Tuy nhiên, sau khi tham khảo ý kiến của những người cộng tác thân cận nhất, Đức Tổng Giám Mục cho biết: “Tôi đã quyết định tạm thời rút lui khỏi các hoạt động trong giáo phận của mình. Đây không phải là sự từ chức mà là sự rút lui tạm thời để cho phép chúng tôi đánh giá tốt hơn các bước tiếp theo cần thực hiện và xem xét các quyết định sẽ đưa ra.”

“Hãy nói rõ điều này: Giáo phận của chúng ta vẫn kiên quyết cam kết bảo đảm rằng các nạn nhân bị lạm dụng nhận được sự bồi thường tài chính bên cạnh các phương tiện khác mà họ có để đạt được sự chữa lành. Đối với tôi, đối với chúng tôi, đây là điều cơ bản”, ngài nói thêm.

Sau đó, Đức Tổng Giám Mục Quebec khuyến khích cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân lạm dụng tình dục trong Giáo hội và cho mọi người “hãy cảnh giác và bảo đảm rằng không có tình trạng lạm dụng nào xảy ra nữa”.

3. Thông điệp của Đức Phanxicô gửi các người tham gia hội thảo hữu thể học xã hội và luật tự nhiên của Thánh Tôma

Nhân dịp kỷ niệm 750 năm ngày qua đời năm nay và 800 năm ngày sinh vào năm tới của Thánh Tôma Aquinô, Giáo hoàng Hàn lâm viện Các Khoa học Xã hội đã tổ chức một buổi tập huấn về chủ đề “hữu thể học xã hội và luật tự nhiên của Thánh Tôma” trong hai ngày 7 và 8 tháng 3. Nhân dịp này, Đức Phanxicô đã gửi các tham dự viên thông điệp sau đây. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Cẩm Yến.

Tôi rất vui khi biết rằng Giáo hoàng Hàn lâm viện Các Khoa học Xã hội đã chọn tổ chức lễ kỷ niệm 750 năm ngày qua đời của Thánh Tôma Aquinô bằng cách tài trợ một cuộc Hội thảo về chủ đề “hữu thể học xã hội và luật tự nhiên trong viễn ảnh những hiểu biết sâu sắc cho và từ Khoa học xã hội của Thánh Tôma”. Tôi bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với tất cả những người tham gia vào cuộc họp mặt quan trọng này và tôi cầu nguyện những lời cầu nguyện tốt đẹp nhất để cuộc thảo luận của anh chị em đạt được kết quả tốt đẹp.

Chắc chắn Thánh Tôma không trau dồi các khoa học xã hội như chúng ta biết ngày nay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nghiêm ngặt của ngài về những hàm ý triết học và thần học của dữ kiện Kinh Thánh cho rằng con người được tạo dựng theo “hình ảnh Thiên Chúa” (St 1:27), vốn được phát biểu trong nhiều tác phẩm khác nhau của ngài, có thể nói là đã giúp dọn đường cho sự phát triển của các ngành khoa học hiện đại này. Tác phẩm của Thánh Tôma thể hiện cả sự cam kết của ngài trong việc hiểu lời mặc khải của Thiên Chúa trong mọi chiều kích của nó, đồng thời, sự cởi mở đáng chú ý của ngài đối với mọi chân lý mà lý trí con người có thể tiếp cận được. Vị Tiến sĩ Thiên thần đã xác tín sâu sắc rằng vì Thiên Chúa là sự thật và là ánh sáng soi sáng mọi hiểu biết, nên không thể có sự mâu thuẫn cuối cùng giữa sự thật được mặc khải và những sự thật được lý trí khám phá. Trọng tâm của sự hiểu biết của ngài về mối quan hệ giữa đức tin và lý trí là niềm xác tín của ngài về quyền năng ân sủng của Thiên Chúa để chữa lành bản chất con người bị suy yếu bởi tội lỗi và nâng cao tâm trí thông qua việc tham gia vào sự hiểu biết và tình yêu của chính Thiên Chúa, và qua đó giúp chúng ta hiểu được và sắp xếp một cách đúng đắn cuộc sống của chúng ta với tư cách cá nhân và trong xã hội.

Các khoa học xã hội đương thời tiếp cận các vấn đề của con người và theo đuổi sự phát triển của con người thông qua nhiều đường lối và phương pháp khác nhau phải đặt nền tảng trên thực tại và phẩm giá không thể giản lược của con người. Thánh Tôma đã có thể rút ra một di sản triết học phong phú mà ngài giải thích qua lăng kính Tin Mừng để khẳng định rằng con người, là “điều hoàn hảo nhất trong mọi tạo vật” (ST I, q. 29, a. 3), là trụ cột của trật tự xã hội. Được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, các cá nhân, thông qua các mối quan hệ bản thân và liên bản vị, được dự định sống, tăng trưởng và phát triển trong cộng đồng. Vì lý do này, “điều tự nhiên là con người phải sống trong xã hội với nhiều người khác để có thể, bằng lao động của đôi tay và thân thể mình, được soi sáng bởi ánh sáng trí tuệ và sức mạnh ý chí của mình, kiếm được những thiện ích vật chất và tinh thần” cho phúc lợi và cuộc sống tốt đẹp của họ, vì hạnh phúc của họ” (De regno, B.I.c. 1).

Dựa trên những nguyên tắc đã được Aristốt thiết lập, Thánh Tôma cho rằng thiện ích tinh thần có trước thiện ích vật chất và thiện ích chung của xã hội có trước thiện ích của các cá nhân, vì con người về bản chất là một “động vật chính trị”. Sự tiếp xúc của ngài với các tác phẩm đạo đức và chính trị của các nhà tư tưởng cổ điển vĩ đại được thể hiện rõ qua các bài bình luận của ngài, và được phản ảnh đặc biệt trong các câu hỏi mà ngài dành cho công lý, đặc biệt là trong Chuyên luận về Luật nổi tiếng của ngài (ST I-II, qq. 90-108).

Trong khi ảnh hưởng của ngài trong việc định hình tư duy đạo đức và pháp lý của thời hiện đại là không thể nghi ngờ, thì việc khôi phục quan điểm triết học và thần học đã hình thành nên tác phẩm của ngài có thể tỏ ra khá hứa hẹn cho sự suy tư có kỷ luật của chúng ta về các vấn đề xã hội cấp bách của thời đại chúng ta.

Thánh Tôma đề cao phẩm giá và sự thống nhất vốn có của con người, con người vừa thuộc về thế giới vật chất nhờ thể xác, vừa thuộc về thế giới tâm linh nhờ linh hồn hữu lý. Một tạo vật có khả năng phân biệt đúng và sai theo nguyên tắc không mâu thuẫn nhưng cũng có khả năng phân định thiện và ác. Khả năng bẩm sinh này để phân định và ra lệnh hoặc giải quyết các hành vi để đạt được mục đích cuối cùng thông qua tình yêu, theo truyền thống được gọi là “luật tự nhiên”, như Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nêu rõ, trích lời Thánh Tôma, “không gì khác hơn ánh sáng của sự hiểu biết được Thiên Chúa đặt trong chúng ta; nhờ đó chúng ta biết mình phải làm gì và phải tránh gì. Thiên Chúa đã ban ánh sáng hay quy luật này khi tạo dựng” (Số 1955).

Ngày nay, điều cần thiết là phải phục hồi sự đánh giá cao “khuynh hướng tự nhiên tìm kiếm sự thật về Thiên Chúa và sống trong xã hội” (ST I-II, q. 94, a. 2) để định hình tư tưởng và chính sách xã hội theo những cách nuôi dưỡng hơn là cản trở sự phát triển nhân bản đích thực của các cá nhân và các dân tộc. Vì lý do này, các vị Tiền nhiệm của tôi và tôi đã liên tục tái khẳng định sự liên quan của luật tự nhiên trong các cuộc thảo luận liên quan đến những thách thức đạo đức và chính trị của thời đại chúng ta. Theo lời của Đức Bênêđíctô XVI, “luật luân lý phổ quát cung cấp một nền tảng vững chắc cho mọi cuộc đối thoại về văn hóa, tôn giáo và chính trị, và nó bảo đảm rằng tính đa nguyên nhiều mặt của sự đa dạng văn hóa không tách rời khỏi cuộc tìm kiếm chung về sự thật, sự tốt lành và Thiên Chúa” (Caritas in Veritate, 59).

Do đó, niềm tin của Thánh Tôma vào luật tự nhiên được viết trong trái tim con người có thể mang lại những hiểu biết mới mẻ và giá trị cho thế giới hoàn cầu hóa của chúng ta, bị thống trị bởi chủ nghĩa thực chứng pháp lý và thuyết ngụy biện, ngay cả khi nó tiếp tục tìm kiếm những nền tảng vững chắc cho một trật tự xã hội công bằng và nhân đạo. Thật vậy, theo chân Aristốt, Thánh Tôma nhận thức rõ sự phức tạp của việc áp dụng luật vào các hành động cụ thể, và do đó nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tính epikeia. Theo lời ngài, “các hành động của con người, liên quan đến luật pháp, bao gồm các yếu tố riêng lẻ tùy thể (contingent singulars) và các tùy thể này vô số trong tính đa dạng của chúng… nếu luật được áp dụng cho một số trường hợp nhất định, nó sẽ cản trở sự bình đẳng về công lý và gây tổn hại cho thiện ích chung, điều mà pháp luật quan tâm”. Do đó, “điều tốt là bỏ qua câu chữ của luật pháp để tuân theo những gì công lý và thiện ích chung đòi hỏi” (ST II-II, q. 120, a. 1).

Nếu Tiến sĩ Thiên thần căn cứ vào sự hiểu biết của mình về phẩm giá con người và các yêu cầu của một “hữu thể học xã hội” trong bản chất con người, và do đó, theo trật tự của tạo vật, với tư cách là một nhà tư tưởng Kitô giáo, ngài cũng nhất thiết phải nói thêm rằng bản chất con người của chúng ta, bị tổn thương bởi tội lỗi, được chữa lành và nâng cao nhờ ân sủng như hoa trái của ơn cứu chuộc được Chúa Kitô thực hiện. Khi bắt đầu nền Kitô học vĩ đại của mình, ở phần thứ ba của Tổng luận Thần học, trong liên tục tính với giáo huấn của Thánh Kinh và của các Giáo phụ, Thánh Tôma khẳng định rằng việc Nhập thể của Con Thiên Chúa mặc khải phẩm giá tối cao của bản chất con người. Niềm xác tín này đã được khẳng định một cách hùng hồn trong thời đại chúng ta qua giáo huấn của Công đồng Vatican II rằng “Chúa Kitô, Ađam mới, khi mặc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, mặc khải con người một cách đầy đủ về chính mình và làm sáng tỏ ơn gọi cao cả của họ” (Gaudium et Spes, 22). Sau đó, ân sủng trọn vẹn hiện diện trong nhân tính của Đấng Cứu Chuộc được thông truyền cho các chi thể trong Thân Mình của Người là Giáo Hội mà toàn thể nhân loại được mời gọi tham gia. Với tư cách là Đầu của Thân Thể đó, Chúa Kitô phân phát ân sủng của Người bằng nhiều cách khác nhau cho mỗi thành viên, tùy theo ân sủng và ơn gọi riêng biệt của họ.

Những hiểu biết sâu sắc của Thánh Tôma về việc tuôn đổ ân sủng cứu chuộc và những cách thức khác nhau mà ân sủng đó được truyền đạt để xây dựng Thân Thể có ý nghĩa phong phú cho sự hiểu biết về tính năng động của một trật tự xã hội lành mạnh đặt nền tảng trên sự hòa giải, liên đới, công bằng và hỗ tương quan tâm nhau. Theo nghĩa này, Đức Bênêđíctô XVI có thể khẳng định rằng, chính như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, con người nam nữ lần lượt trở thành đối tượng của đức ái, được kêu gọi phản ảnh lòng bác ái đó và dệt nên những mạng lưới bác ái (x. Caritas in Veritate, 5) trong việc phục vụ công lý và thiện ích chung.

Chính động lực lớn hơn này của lòng bác ái được đón nhận và ban tặng đã làm nảy sinh giáo huấn xã hội của Giáo hội (x. ibid.), vốn tìm cách khám phá làm thế nào những thiện ích xã hội của việc cứu chuộc có thể trở nên hữu hình và hoạt động trong cuộc sống của con người nam nữ với tư cách là những hữu thể xã hội mà cá tính nhất định được đắm chìm trong một lịch sử, văn hóa và truyền thống lớn hơn. Ở đây, Thánh Tôma chỉ ra rằng, chúng ta coi trọng tâm của đời sống Kitô giáo như một hành vi thờ phượng của linh mục nhằm tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa thế giới của chúng ta. Trong quan điểm này, Vị Tiến Sĩ Thiên Thần kiên quyết đề cao tính ưu tiên của các việc làm bác ái. Theo lời ngài: “Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa bằng những hy sinh và lễ vật bên ngoài, không phải vì lợi ích riêng của Người, nhưng vì lợi ích của chúng ta và người lân cận. Vì Người không cần những hy lễ của chúng ta, nhưng mong muốn chúng ta dâng chúng cho Người, để khơi dậy lòng sùng mộ của chúng ta và mang lại lợi ích cho người lân cận. Do đó, lòng thương xót…là một hy lễ dễ được chấp nhận hơn đối với Người, vì mang lại hạnh phúc trực tiếp hơn cho người lân cận của chúng ta” (ST II-II, q. 30, a. 4, ad 1).

Các bạn thân mến, trong những năm triều Giáo Hoàng này của tôi, tôi đã tìm cách nêu cao cử chỉ rửa chân, theo gương Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, đã cởi áo choàng và rửa chân cho từng môn đệ. Việc rửa chân chắc chắn là một biểu tượng hùng hồn của các Mối Phúc Thật được Chúa công bố trong Bài Giảng Trên Núi và việc thể hiện cụ thể các Mối Phúc Thật trong các công việc của lòng thương xót. Với cử chỉ này, Chúa muốn để lại cho chúng ta “một gương mẫu để anh em có thể làm như Thầy đã làm” (Ga 13:15). Quả thực, như Thánh Tôma dạy, bằng một hành động phi thường như vậy, Chúa Kitô “đã thể hiện mọi công việc của lòng thương xót” (In Ioan. XIII). Chúa Giêsu biết rằng khi nói đến việc truyền cảm hứng cho hành động của con người thì những tấm gương quan trọng hơn những lời nói suông.

Trong những ngày này, khi các bạn tiếp cận di sản phong phú về tư tưởng tôn giáo, đạo đức và xã hội do Thánh Tôma Aquinô để lại cho chúng ta, tôi tin chắc rằng các bạn sẽ tìm thấy nguồn cảm hứng và sự soi sáng cho những đóng góp của chính các bạn cho các ngành khoa học xã hội khác nhau, với sự tôn trọng hoàn toàn đối với các phương pháp và mục tiêu phù hợp của chúng. Tôi lập lại những lời chúc tốt đẹp cho các cuộc thảo luận của các bạn và tôi cầu nguyện để mỗi người trong các bạn, trong công việc và cuộc sống của mình, sẽ tìm thấy sự viên mãn trong cam kết chung của chúng ta nhằm đóng góp cho một tương lai của tình huynh đệ, công lý và hòa bình cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại của chúng ta. Tôi chân thành kêu xin Chúa bạn Phước lành dồi dào của Người trên mỗi người trong các bạn và những người thân yêu của các bạn.

Từ Điện Vatican, ngày 7 tháng 3 năm 2024

Phanxicô