1. Xung đột công khai hiếm hoi tại Vatican về việc hoàn tục một linh mục người Á Căn Đình

Trong một phán quyết rất bất thường, vào tháng 9, Vatican đã hủy bỏ lệnh hoàn tục đối với một linh mục người Á Căn Đình bị kết tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.

Nhưng vào ngày 7 tháng 10, Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố rằng tuyên bố trước đó vào tháng 9 là vô hiệu và lệnh hoàn tục đối với linh mục này vẫn có hiệu lực.

Tranh chấp công khai hiếm hoi giữa các bộ của Vatican khiến Bộ Giáo Lý Đức Tin xung đột với Phủ Quốc vụ khanh. Đức Tổng Giám Mục John Joseph Kennedy, thư ký của Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã đưa ra lời nhắc nhở rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin của ngài chịu trách nhiệm về các vụ kỷ luật liên quan đến các linh mục bị cáo buộc lạm dụng, và Phủ Quốc vụ khanh không tham gia vào quá trình đó.

Bộ Giáo Lý Đức Tin—và đặc biệt là bộ phận kỷ luật do Đức Tổng Giám Mục Kennedy đứng đầu—là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ lạm dụng tình dục. Nhưng với tư cách là sostituto hay Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh—thực tế là chánh văn phòng của Đức Giáo Hoàng—Đức Tổng Giám Mục Pena Parra có ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy, khi giáo phận Rio Cuarto của Á Căn Đình nhận được thông điệp từ Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh hủy bỏ lệnh hoàn tục, các nhà chức trách Giáo Hội ở đó rõ ràng cho rằng đó là thẩm quyền.

Một tòa án ở Cordoba, Á Căn Đình, đã khuyến nghị trục xuất Cha Ariel Principi khỏi chức linh mục; hình phạt đã được một tòa án khác ở Buenos Aires xác nhận. Nhưng Đức Tổng Giám Mục Peña Parra—trích dẫn kết quả thông tin thu được trong một “thủ tục đặc biệt”, mà không có lời giải thích nào thêm—đã phán quyết rằng Cha Principi sẽ vẫn là một linh mục, mặc dù có chức thánh bị hạn chế nghiêm ngặt. Các quan chức Á Căn Đình có thể đã kết luận rằng “thủ tục đặc biệt” đòi hỏi sự can thiệp cá nhân của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người duy nhất có thẩm quyền bác bỏ phán quyết của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Trong quá khứ, Đức Giáo Hoàng đã có hành động để giảm nhẹ hình phạt kỷ luật đối với những kẻ bị cáo buộc lạm dụng.

Tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục Pena Parra cho biết Cha Principi sẽ không được phép tiếp xúc với trẻ vị thành niên, làm việc với phong trào canh tân đặc sủng hoặc thực hiện mục vụ thông thường; ngài chỉ được phép cử hành Thánh lễ một cách riêng tư.

Đức Tổng Giám Mục Kennedy, phản bác lại tuyên bố đó, cho biết “Ông Principi” đã bị hoàn tục, trục xuất khỏi hàng giáo sĩ. Ngài cho biết không có kháng cáo nào về bản án đó đang được xem xét.


Source:Catholic World News

2. Thờ ơ là vô trách nhiệm

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Indifference Is Irresponsible”, nghĩa là “Thờ ơ là vô trách nhiệm”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Tôi có thể hiểu được tại sao nhiều người Mỹ có vẻ chán nản về các vấn đề thế giới. Mọi thứ thực sự là một mớ hỗn độn.

Tuy nhiên, điều tôi không thể hiểu được là cử tri xem ra đang thờ ơ đối với tình trạng hỗn loạn toàn cầu: sự thờ ơ thể hiện ở thất bại của quốc gia chúng ta trong việc yêu cầu những nhà lãnh đạo tương lai của chúng ta giải quyết tình trạng hỗn loạn mới của thế giới một cách nghiêm chỉnh, thay vì thốt ra những câu nói sáo rỗng và những khẩu hiệu mỉa mai (“chiến tranh bất tận”, “chủ nghĩa phiêu lưu”, “cảnh sát toàn cầu”, v.v.). Điều này là vô trách nhiệm về mặt chính trị và, tôi có thể nói, là vô trách nhiệm cả về mặt đạo đức. Lời răn của Chúa trong Luca 12:48 - “Ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều” - chủ yếu được nói với chúng ta như những cá nhân. Nhưng không thể xem là kéo dài văn bản Kinh thánh một cách quá đáng, khi gợi ý rằng điều đó cũng áp dụng cho quốc gia giàu có nhất, hùng mạnh nhất trên hành tinh.

Dù chúng ta có thích hay không, các đồng minh của chúng ta trên khắp thế giới đều trông chờ vào sự lãnh đạo của chúng ta, cũng như những kẻ muốn làm hại chúng ta trông chờ nơi chúng ta những dấu chỉ của sự yếu đuối. Đúng vậy, có thể nói rằng nước Mỹ đã gánh chịu nhiều hơn phần chia sẻ hợp lý của mình về gánh nặng tài chính và con người trong vai trò lãnh đạo một thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Nhưng liệu thế giới có trở thành một nơi an toàn hơn cho tất cả mọi người, kể cả chúng ta, nếu ẩn dụ của thế kỷ 21 về vai trò toàn cầu của nước Mỹ là Đại thảm họa Afghanistan - trong đó chúng ta đã bỏ rơi đồng minh và bỏ mặc phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan cho lòng thương xót của Taliban cực kỳ ghét phụ nữ? Liệu thế giới có an toàn hơn nếu chúng ta từ bỏ Ukraine cho nước Nga của Putin và Đài Loan cho Trung Quốc của Tập Cận Bình, bằng chính sách cố ý hay bằng những hành động vô trách nhiệm? Một Iran có vũ khí hạt nhân có khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn không?

Có vẻ như rất khó có thể xảy ra.

Trong một khoảnh khắc hiếm hoi của sự nghiêm chỉnh lưỡng đảng, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Chiến lược Quốc phòng Quốc gia vào năm 2022, với tám thành viên là người Mỹ xuất sắc, giàu kinh nghiệm từ cả hai đảng. Báo cáo mới công bố của Ủy ban, nói một cách nhẹ nhàng, là đáng cảnh tỉnh—đối với bất kỳ công dân chu đáo nào. Điểm cốt lõi của tài liệu dài này có thể được tìm thấy trong đoạn đầu tiên của bản tóm tắt:

Những mối đe dọa mà Hoa Kỳ phải đối mặt là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất và thách thức nhất mà quốc gia này từng gặp phải kể từ năm 1945 và bao gồm cả khả năng xảy ra chiến tranh lớn trong tương lai gần. Lần cuối cùng Hoa Kỳ tham gia một cuộc xung đột toàn cầu là trong Thế chiến II, kết thúc cách đây gần 80 năm. Lần cuối cùng quốc gia này chuẩn bị cho một cuộc chiến như vậy là trong Chiến tranh Lạnh, kết thúc cách đây 35 năm. Ngày nay, chúng ta không chuẩn bị.

Báo cáo tiếp tục đưa ra những lời chỉ trích gay gắt đối với Bộ Quốc phòng (“Ủy ban nhận thấy rằng các hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát triển (R&D) và hệ thống mua sắm phức tạp, sự phụ thuộc vào thiết bị quân sự đã có từ nhiều thập niên và văn hóa tránh rủi ro của Bộ Quốc phòng... không phù hợp với môi trường chiến lược hiện nay”). Tôi không lo lắng về tình hình tại Ngũ Giác Đài, vì các vị tổng thống và Quốc hội sẵn sàng giải quyết các vấn đề ở đó. Điều khiến tôi lo lắng hơn cả là văn hóa thờ ơ về các vấn đề thế giới trong công chúng nói chung. Bởi vì nếu không có cam kết công khai bền vững về việc sử dụng sức mạnh cứng và mềm của Hoa Kỳ trong việc định hình một môi trường quốc tế an toàn, thì sẽ không có tổng thống và Quốc hội nào thực hiện hành động quyết đoán cần thiết để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác.

Trong cuốn sách đầu tiên trong bộ sử sáu tập của mình, The Second World War, Winston Churchill đã kể lại cuộc trò chuyện của ông với Tổng thống Franklin Roosevelt, ngay sau biến cố Trân Châu Cảng và lời tuyên chiến của Đức đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến đó một cách công khai. Roosevelt, người luôn chú ý đến quan hệ công chúng, đã tìm kiếm những gợi ý về việc nên gọi cuộc chiến này là gì và đã hỏi quan điểm của thủ tướng Anh. Churchill đã trả lời ngay lập tức, “Cuộc chiến không cần thiết”. Đó không phải là một biệt danh hấp dẫn mà người Mỹ (hoặc bất kỳ ai khác) có thể nhiệt tình ủng hộ. Tuy nhiên, điều đó là sự thật.

Việc Anh và Pháp từ chối tin vào lời Hitler, đặc biệt là về ý định địa chính trị của ông ta, đã góp phần gây ra Thế chiến II ở Âu Châu. Sự thờ ơ của công chúng và chính trị Hoa Kỳ đối với những gì đang diễn ra trên lục địa đó từ năm 1933 trở đi cũng vậy. Ngày nay, chúng ta có đang ở trong cùng một trạng thái phủ nhận, vô tư hay thờ ơ như thế không? Putin đã nói rõ rằng ông ta có ý định đảo ngược phán quyết của lịch sử trong Chiến tranh Lạnh, coi Ukraine chỉ là một món khai vị hay antipasto. Tập Cận Bình đã nói rõ rằng ông có ý định đáp trả những gì ông coi là “Thế kỷ nhục nhã” của Trung Quốc bằng cách biến nhà nước toàn trị của mình thành bá chủ thế giới. Các giáo sĩ Hồi giáo Iran coi trọng viễn cảnh về ngày tận thế của người Shiite, ngay cả khi những người theo chủ nghĩa thế tục trong Bộ Ngoại giao và các bộ ngoại giao khác coi họ là những kẻ viển vông thời trung cổ.

Việc phớt lờ những thực tế này là hành vi vô trách nhiệm nghiêm trọng về mặt đạo đức và chính trị, vì nó khiến một thảm họa, có sức tàn phá chưa từng có, có khả năng xảy ra cao hơn.


Source:First Things

3. Di sản của Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 vẫn tồn tại 66 năm sau khi ngài qua đời

Khoảng 80% người Do Thái ở Rôma đã sống sót sau cuộc diệt chủng Holocaust nhờ vào nỗ lực của Đức Giáo Hoàng—nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác dưới sự xâm lược của Đức Quốc xã. Vào kỷ niệm 66 năm ngày mất của ngài, Vatican News nhìn lại di sản của ngài.

Năm 1939, người kế vị thứ 260 của Thánh Phêrô đã được bầu. Ngài không chỉ phải đối mặt với những thách thức trong việc lãnh đạo Giáo hội mà còn phải đối mặt với nỗi kinh hoàng của Thế chiến thứ hai. Và phản ứng của ngài sẽ được ghi nhớ trong nhiều thập niên. Vị Giáo hoàng này là Đức Piô thứ 12.

Đức Giáo Hoàng Eugenio Pacelli sinh ra tại Rôma vào ngày 2 tháng 3 năm 1876. Năm 23 tuổi, ngài được thụ phong linh mục và bắt đầu công việc của mình trong sự nghiệp lâu dài tại Vatican. Cha Pacelli làm thư ký tại Phủ Quốc vụ khanh, sau đó là Sứ thần tại Đức, nơi ngài làm trung gian cho các thỏa thuận giữa Bavaria và Phổ.

Năm 1929, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã phong ngài làm Hồng Y. 10 năm sau, trong một mật nghị ngắn ngủi kéo dài một ngày, Đức Hồng Y Pacelli đã được bầu làm Giáo hoàng và chọn danh hiệu là Piô thứ 12.

Thế chiến II nổ ra sáu tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 bắt đầu triều giáo hoàng kéo dài 19 năm của mình. Ngài đã sử dụng nền tảng ngoại giao của mình để phản ứng với bạo lực và công bố thông điệp đầu tiên của mình, “Summi Pontificatus,” kêu gọi cầu nguyện để chấm dứt chiến tranh. Đây chỉ là khởi đầu cho sứ mệnh hòa bình của ngài trong chiến tranh thế giới.

Nhà sử học người Đức, Tiến sĩ Michael Hesemann, cho biết Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 “đã làm nhiều hơn để cứu người Do Thái và ngăn chặn các vụ giết người hơn bất kỳ chính trị gia hay nhà lãnh đạo tôn giáo nào cùng thời”. Từ năm 2009, Tiến sĩ Hesemann đã nghiên cứu văn khố Vatican và bác bỏ ý tưởng rằng Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 vẫn im lặng và không can dự. Thay vào đó, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 đã nói về cách đối xử với người Do Thái trong ba bài phát biểu trước công chúng. Năm 1939, ngài đã yêu cầu cấp 20.000 thị thực cho người Do Thái Đức để trốn thoát khỏi Đức Quốc xã nhưng ngài chỉ nhận được chưa đến 10.000 thị thực.

Trong suốt cuộc chiến kéo dài sáu năm, Đức Giáo Hoàng đã hoạt động bí mật để bảo vệ người Do Thái. Ngài hiểu rằng việc lên tiếng công khai chống lại Đức Quốc xã có thể dẫn đến bạo lực và đàn áp lớn hơn. “Mỗi lời chúng tôi nói với các nhà chức trách có trách nhiệm và mỗi tuyên bố công khai của chúng tôi, phải được cân nhắc và xem xét nghiêm chỉnh vì lợi ích của chính những người bị đàn áp để không vô tình khiến tình hình của họ trở nên khó khăn và không thể chịu đựng được hơn nữa.”

Là vị Giáo hoàng thứ hai sử dụng radio, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 đã có gần 200 bài phát biểu trên radio bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để lên tiếng phản đối bạo lực và thúc đẩy hòa bình. Ngoài ra, ngài còn viết một số văn bản, bao gồm 41 thông điệp.

Trong một buổi tiếp kiến đặc biệt tại Vatican vào ngày 29 tháng 11 năm 1945, 80 đại biểu từ các trại tập trung của Đức đã đích thân cảm ơn Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 về những lời nói và hành động của ngài trong thời kỳ Đức Quốc xã.

Năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở một kho lưu trữ các tài liệu liên quan đến Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 và mối quan hệ của ngài với người Do Thái trong Thế chiến II. Kết quả là, công trình của vị giáo hoàng “im lặng” này đã được phát hiện. 16 triệu trang kể lại giai đoạn khó khăn của lịch sử thế giới. Những tài liệu này tiết lộ rằng hơn 4.200 người Do Thái đã được ẩn náu trong các tu viện và nhà nguyện và 160 người ở Thành phố Vatican. Nhờ Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 và các thành viên khác của Giáo hội, 80% người Do Thái ở Rôma đã sống sót sau cuộc xâm lược của Đức Quốc xã—nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác.


Source:Vatican News