1. Linh mục Công Giáo người Togo đang thi hành chức vụ tại Cameroon bị bắn chết, Tổng giáo phận Yaoundé chia buồn với gia quyến

Cha Christophe Badjogou Komla, một linh mục Công Giáo người Togo được thụ phong tại Giáo phận Công Giáo Yagoua của Cameroon, đã bị những tên tội phạm bắn chết vào đêm thứ Hai, ngày 7 tháng 10 tại Tổng giáo phận Công Giáo Yaoundé ở quốc gia Trung Phi này.

Vụ tấn công chết người được cho là xảy ra vào khoảng 7:30 tối, trước trụ sở của Dòng Truyền giáo Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ, gọi tắt là CICM tại Mvolyé, gần thủ đô Yaoundé của Cameroon.

Cha Komla, người từng là Linh mục Giáo xứ Thánh Phêrô và Phaolô Zouzoui thuộc Giáo phận Yagoua, được tường trình đã bị những kẻ tấn công bắn ba phát. Hai cá nhân đi xe máy đã cố giật túi của ngài và nổ súng khi ngài đến gần cổng CICM. Ngài đã lên lịch đi Ý.

Trong một tuyên bố được đưa ra vào thứ Ba, ngày 8 tháng 10, Đức Tổng Giám Mục Jean Mbarga, Giám mục địa phương của Tổng giáo phận Yaoundé, bày tỏ “nỗi buồn sâu sắc” sau sự ra đi của Cha Komla và cho biết ngài hiệp nhất với Đức Giám Mục Barthélemy Yaouda Hourgo và dân Chúa tại Giáo phận Yagoua.

“Trong thời khắc đau buồn này, Tổng giáo phận Yaoundé xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình Cha Christophe, bạn bè của ngài và các tín hữu của Giáo phận Yagoua,” Đức Tổng Giám Mục Mbarga cho biết.

Đức Tổng Giám Mục Công Giáo Cameroon mời gọi mọi người “cầu nguyện cho linh hồn ngài, để ngài được sớm hưởng kiến thánh nhan Chúa”.

“Chính quyền đã được thông báo và đang tích cực điều tra chi tiết về vụ giết người này”, Đức Giám Mục địa phương của Yaoundé cho biết, và nói thêm, “Tổng giáo phận Yaoundé lên án mạnh mẽ mọi hình thức tấn công bạo lực và giết người, đồng thời nhắc nhở công chúng rằng mọi mạng sống con người đều thiêng liêng và bất khả xâm phạm.


Source:ACIAfrica

2. Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Zelenskiy trao đổi quà tặng tượng trưng tại cuộc họp ở Vatican

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và Đức Thánh Cha Phanxicô đã trao đổi những món quà tượng trưng trong chuyến công du Âu Châu của tổng thống Ukraine vào tuần này.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Zelenskiy đã gặp riêng trong 35 phút tại Sala della Biblioteca. Sau các cuộc thảo luận và phần giới thiệu phái đoàn Ukraine, Đức Giáo Hoàng đã tặng Zelenskiy một tấm bảng đồng có hình bông hoa và dòng chữ “Hòa bình là một bông hoa mong manh”.

Đổi lại, Tổng thống Zelenskiy tặng Đức Thánh Cha Phanxicô một bức tranh sơn dầu có tựa đề “Cuộc thảm sát Bucha. Câu chuyện về Marichka”. Bucha, một vùng ngoại ô phía tây bắc Kyiv, đã bị lực lượng của Putin xâm lược ngay sau khi cuộc xâm lược Ukraine bắt đầu vào tháng 2 năm 2022. Các quan chức Ukraine cho biết quân đội Nga đã giết chết hàng trăm thường dân ở đó.

Sau đó vào thứ sáu, Tổng thống Zelenskiy đã có cuộc gặp gỡ với Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cùng với Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao Vatican phụ trách quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế.

“Các cuộc thảo luận tập trung vào tình hình chiến tranh và tình hình nhân đạo ở Ukraine, cũng như những cách thức chấm dứt chiến tranh, hướng tới hòa bình công bằng và ổn định ở đất nước này”, Vatican cho biết trong một tuyên bố sau cuộc gặp giữa Zelenskiy và Đức Giáo Hoàng.

Kể từ khi Nga bắt đầu cuộc chiến tranh với Ukraine, Đức Thánh Cha Phanxicô và Zelenskiy đã duy trì liên lạc liên tục thông qua một loạt các chuyến thăm, thư từ và cuộc gọi điện thoại. Đức Thánh Cha Phanxicô liên tục kêu gọi chấm dứt chiến tranh, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi tù nhân và ủng hộ giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột đang diễn ra ở Ukraine.

Vào tháng 3, Đức Giáo Hoàng đã khiến các nhà lãnh đạo Ukraine tức giận khi ông nói rằng Kyiv nên có lòng dũng cảm “cầm cờ trắng” khi đàm phán chấm dứt chiến tranh, là điều mà một số người Ukraine hiểu là họ nên đầu hàng.

Zelenskiy hiện đang thúc đẩy ngoại giao khắp Âu Châu, đưa ra một “kế hoạch chiến thắng” mà ông cho là được thiết kế để “tạo ra các điều kiện phù hợp cho một kết thúc công bằng cho cuộc chiến” với Nga. Đề xuất này được lên kế hoạch chia sẻ trong một hội nghị thượng đỉnh đã lên kế hoạch với Tổng thống Joe Biden, nhưng sự kiện này đã bị hủy do Bão Milton.

Hôm thứ năm, Zelenskiy đã gặp các nhà lãnh đạo chủ chốt của Âu Châu, bao gồm Thủ tướng Anh Keir Starmer tại Luân Đôn, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tại Paris và Thủ tướng Ý Giorgia Meloni tại Rôma.

Các quan chức Anh như Bộ trưởng Quốc phòng John Healey và Đô đốc Quân đội Tony Radakin đã tham dự cuộc họp với Starmer tại Luân Đôn. Starmer mô tả phiên họp này là cơ hội để “xem xét kế hoạch, để nói chi tiết hơn”.

[Newsweek: Pope Francis and Zelensky Exchange Symbolic Gifts at Vatican Meeting]

3. Đức Hồng Y Lopez Romero than phiền về Tuyên ngôn “Fiducia supplicans”

Trong cuộc họp báo hôm mùng 05 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng Y Cristóbal López Romero, người Tây Ban Nha, Giám mục Giáo phận Rabat, bên Maroc, đã tự hỏi: Tại sao Tuyên ngôn “Fiducia supplicans” của Bộ Giáo lý đức tin, cho phép chúc lành cho các cặp đồng phái, đã không tiến hành qua một tiến trình “đồng nghị” thảo luận và phân định trước khi công bố.

Đức Hồng Y nói: “Văn kiện này không xuất phát từ Thượng Hội đồng Giám mục, nhưng là từ Bộ Giáo lý đức tin, mà các giám mục chúng tôi không biết là sẽ được ban hành và cũng không được tham khảo ý kiến”.

Đức Hồng Y López cũng phê bình các giám mục Phi châu, Nam Sahara, đã từ khước văn kiện này. Ngài nói: “Hội đồng Giám mục chúng tôi đã ra một tuyên ngôn khác, vì chúng tôi không được tôn trọng trong tiến trình tham khảo ý kiến trên bình diện đại lục Phi châu. Đại lục Phi châu đã nói mà không lắng nghe chúng tôi mà chúng tôi ở Phi châu”.

Hội đồng Giám mục Bắc Phi, gọi tắt là CERNA, có lẽ chỉ có khoảng 50.000 tín hữu thuộc các nước như Algéri, Maroc, Tunisi, Libya và Tây Sahara, đa số là người gốc Âu châu, kể cả các giám mục và linh mục. Con số này đang suy giảm, trong khi đó Liên Hội đồng Giám mục Phi châu và Madagascar, gọi tắt là SECAM, đại diện cho khoảng 222 triệu tín hữu Công Giáo và con số này đang gia tăng mạnh. Các giám mục Phi châu đã từ khước chấp nhận Tuyên ngôn Fiducia supplicans: Đức Hồng Y Chủ tịch Ambongo, Tổng giám mục Kinshasa, thủ đô Congo Dân chủ, cũng thuộc Hội đồng Hồng Y Cố vấn của Đức Thánh Cha, hồi đó đã cấp tốc bay về Roma gặp Đức Thánh Cha để trình bày vấn đề, và Đức Thánh Cha đã chấp nhận sự khác biệt văn hóa và truyền thống của Phi châu.

4. Nhân dịp bổ nhiệm tân Hồng Y Iran, tìm hiểu Giáo Hội Công Giáo ở nước này

Xét về bất cứ khía cạnh nào, giám mục của thủ đô Iran là một lựa chọn từ vùng ngoại vi của Giáo hội. Iran không phải là trung tâm của Công Giáo. Trên thực tế, đây là một trong những quốc gia ít người theo Công Giáo nhất trên thế giới, với người Công Giáo chỉ chiếm chưa đến 1% dân số.

Giáo Hội Công Giáo ở Iran như thế nào?

Sau đây là 7 điều cần biết:

Thực tế có ba Giáo Hội Công Giáo hiện diện ở Iran.

Giáo hội lớn nhất là Giáo Hội Công Giáo Can-đê, cử hành phụng vụ bằng tiếng Aram.

Giáo Hội Công Giáo Armenia cũng hiện diện ở đất nước này. Cả Giáo Hội Công Giáo Armenia và Can-đê đều hiệp thông hoàn toàn với Tòa thánh.

Giáo hội Latinh ở Iran cực kỳ bé nhỏ. Hầu hết người Công Giáo Latinh ở nước này là người nước ngoài.

Theo số liệu thống kê của Vatican, chỉ có 5 linh mục trên toàn quốc vào năm 2020 và 9,000 người Công Giáo đã được rửa tội.

Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính có 21,000 người Công Giáo Rôma ở Iran vào năm 2022.

Con số chính xác về Giáo Hội Công Giáo ở Iran có thể khó xác định. Một lý do là tình hình bất ổn ở quốc gia này đã dẫn đến tình trạng di cư đáng kể, nghĩa là số lượng có thể thay đổi rất nhiều từ năm này sang năm khác.

Ngoài ra, việc cải đạo từ quốc giáo là Hồi giáo sang Kitô giáo là bất hợp pháp và những người gia nhập Giáo Hội Công Giáo thường làm như vậy một cách lặng lẽ để tránh sự chú ý và trừng phạt của chính phủ.

Iran luôn được coi là một trong những quốc gia tồi tệ nhất trên thế giới đối với các Kitô hữu. Các Kitô hữu ở Iran phải đối diện với sự bách hại nghiêm trọng.

Trong khi các Kitô hữu được chính phủ chính thức công nhận là một nhóm tôn giáo thiểu số và được phép thờ phượng, thì các nhà thờ của họ lại bị giám sát chặt chẽ và quyền của họ bị hạn chế rất nhiều. Việc làm xáo trộn Kinh thánh bằng tiếng Ba Tư địa phương là bất hợp pháp, cũng như bất cứ hình thức cải đạo nào.

Các nhóm nhân quyền cho biết chính phủ có tiền sử bắt giữ hoặc hành quyết những người theo đạo thiểu số và người biểu tình, buộc tội họ phạm các tội bao gồm báng bổ, “thù địch với Chúa”, tuyên truyền chống chế độ hoặc vi phạm quy định nghiêm ngặt về trang phục Hồi giáo của đất nước.

Năm 2021, Iran đã không gia hạn thị thực cho một nữ tu 75 tuổi đã sống ở đất nước này hàng thập niên, chăm sóc những người mắc bệnh phong và giáo dục trẻ mồ côi và người tị nạn.

Bà và người nữ tu 77 tuổi sống cùng bà là những nữ tu cuối cùng còn lại trong khu vực. Vatican News lưu ý rằng họ đã không thể thực hiện các thừa tác vụ của mình trong vài năm trước đó để tránh vi phạm luật nghiêm ngặt của đất nước chống lại việc cải đạo.

Tổng giáo phận Tehran–Isfahan (trước đây gọi là Tổng giáo phận Isfahan) đã dành nhiều thời gian trống tòa hơn là thời gian nó được một giám mục giám sát trong thế kỷ trước.

Giáo phận này đã bị trống tòa từ khi kết thúc Thế chiến thứ nhất năm 1918 cho đến khi Tổng giám mục Kevin Barden, O.P. được bổ nhiệm vào năm 1974. Barden đã bị trục xuất khỏi Iran trong cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1980. Sau hai năm, rõ ràng là ngài không có cơ hội trở về nước, và ngài đã từ chức.

Tòa giám mục này sau đó bị bỏ trống cho đến khi người kế nhiệm ngài, Tổng giám mục Ignazio Bedini, S.D.B., được bổ nhiệm vào năm 1989. Sau khi Bedini nghỉ hưu vào năm 2014, tổng giáo phận được điều hành bởi một giám quản tông tòa cho đến khi Mathieu được bổ nhiệm làm tổng giám mục vào năm 2021.

Trong khi Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iran vào năm 1980, Tòa thánh vẫn duy trì quan hệ ngoại giao đầy đủ với quốc gia này kể từ năm 1954.

Các nhà quan sát cho rằng Vatican có thể muốn sử dụng ảnh hưởng của mình để đóng vai trò là người hòa giải trong các cuộc xung đột với Iran và giúp bảo vệ các Kitô hữu ở Li Băng gần đó.

Các đại diện của Vatican tại Tehran bao gồm Tổng giám mục gây tranh cãi Annibale Bugnini, người đã giám sát việc cải cách Nghi lễ Rôma sau Công đồng Vatican II. Sau khi có tin đồn bất hòa với Đức Phao-lô VI, Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm ngài làm đại sứ tông tòa tại Iran vào năm 1976, một chức vụ mà Bugnini giữ cho đến khi ngài qua đời sáu năm sau đó.

Người Công Giáo Iran có thể là những người sùng đạo nhất trên thế giới.

Mặc dù số lượng người Công Giáo ở đất nước này khá thưa thớt, nhưng vẫn có sáu nhà thờ chính tòa khác nhau ở Iran.

Tỷ lệ nhà thờ chính tòa/tín hữu ấn tượng đó là do có ba Giáo Hội Công Giáo độc lập khác nhau hiện diện ở đất nước này. Có bốn giáo phận Công Giáo Can-đê, cũng như một giáo phận Công Giáo Armenia và một tổng giáo phận Công Giáo Latinh, mỗi giáo phận đều có nhà thờ chính tòa riêng.

4. Thờ ơ là vô trách nhiệm

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Indifference Is Irresponsible”, nghĩa là “Thờ ơ là vô trách nhiệm”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Tôi có thể hiểu được tại sao nhiều người Mỹ có vẻ chán nản về các vấn đề thế giới. Mọi thứ thực sự là một mớ hỗn độn.

Tuy nhiên, điều tôi không thể hiểu được là cử tri xem ra đang thờ ơ đối với tình trạng hỗn loạn toàn cầu: sự thờ ơ thể hiện ở thất bại của quốc gia chúng ta trong việc yêu cầu những nhà lãnh đạo tương lai của chúng ta giải quyết tình trạng hỗn loạn mới của thế giới một cách nghiêm chỉnh, thay vì thốt ra những câu nói sáo rỗng và những khẩu hiệu mỉa mai (“chiến tranh bất tận”, “chủ nghĩa phiêu lưu”, “cảnh sát toàn cầu”, v.v.). Điều này là vô trách nhiệm về mặt chính trị và, tôi có thể nói, là vô trách nhiệm cả về mặt đạo đức. Lời răn của Chúa trong Luca 12:48 - “Ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều” - chủ yếu được nói với chúng ta như những cá nhân. Nhưng không thể xem là kéo dài văn bản Kinh thánh một cách quá đáng, khi gợi ý rằng điều đó cũng áp dụng cho quốc gia giàu có nhất, hùng mạnh nhất trên hành tinh.

Dù chúng ta có thích hay không, các đồng minh của chúng ta trên khắp thế giới đều trông chờ vào sự lãnh đạo của chúng ta, cũng như những kẻ muốn làm hại chúng ta trông chờ nơi chúng ta những dấu chỉ của sự yếu đuối. Đúng vậy, có thể nói rằng nước Mỹ đã gánh chịu nhiều hơn phần chia sẻ hợp lý của mình về gánh nặng tài chính và con người trong vai trò lãnh đạo một thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Nhưng liệu thế giới có trở thành một nơi an toàn hơn cho tất cả mọi người, kể cả chúng ta, nếu ẩn dụ của thế kỷ 21 về vai trò toàn cầu của nước Mỹ là Đại thảm họa Afghanistan - trong đó chúng ta đã bỏ rơi đồng minh và bỏ mặc phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan cho lòng thương xót của Taliban cực kỳ ghét phụ nữ? Liệu thế giới có an toàn hơn nếu chúng ta từ bỏ Ukraine cho nước Nga của Putin và Đài Loan cho Trung Quốc của Tập Cận Bình, bằng chính sách cố ý hay bằng những hành động vô trách nhiệm? Một Iran có vũ khí hạt nhân có khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn không?

Có vẻ như rất khó có thể xảy ra.

Trong một khoảnh khắc hiếm hoi của sự nghiêm chỉnh lưỡng đảng, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Chiến lược Quốc phòng Quốc gia vào năm 2022, với tám thành viên là người Mỹ xuất sắc, giàu kinh nghiệm từ cả hai đảng. Báo cáo mới công bố của Ủy ban, nói một cách nhẹ nhàng, là đáng cảnh tỉnh—đối với bất kỳ công dân chu đáo nào. Điểm cốt lõi của tài liệu dài này có thể được tìm thấy trong đoạn đầu tiên của bản tóm tắt:

Những mối đe dọa mà Hoa Kỳ phải đối mặt là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất và thách thức nhất mà quốc gia này từng gặp phải kể từ năm 1945 và bao gồm cả khả năng xảy ra chiến tranh lớn trong tương lai gần. Lần cuối cùng Hoa Kỳ tham gia một cuộc xung đột toàn cầu là trong Thế chiến II, kết thúc cách đây gần 80 năm. Lần cuối cùng quốc gia này chuẩn bị cho một cuộc chiến như vậy là trong Chiến tranh Lạnh, kết thúc cách đây 35 năm. Ngày nay, chúng ta không chuẩn bị.

Báo cáo tiếp tục đưa ra những lời chỉ trích gay gắt đối với Bộ Quốc phòng (“Ủy ban nhận thấy rằng các hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát triển (R&D) và hệ thống mua sắm phức tạp, sự phụ thuộc vào thiết bị quân sự đã có từ nhiều thập niên và văn hóa tránh rủi ro của Bộ Quốc phòng... không phù hợp với môi trường chiến lược hiện nay”). Tôi không lo lắng về tình hình tại Ngũ Giác Đài, vì các vị tổng thống và Quốc hội sẵn sàng giải quyết các vấn đề ở đó. Điều khiến tôi lo lắng hơn cả là văn hóa thờ ơ về các vấn đề thế giới trong công chúng nói chung. Bởi vì nếu không có cam kết công khai bền vững về việc sử dụng sức mạnh cứng và mềm của Hoa Kỳ trong việc định hình một môi trường quốc tế an toàn, thì sẽ không có tổng thống và Quốc hội nào thực hiện hành động quyết đoán cần thiết để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác.

Trong cuốn sách đầu tiên trong bộ sử sáu tập của mình, The Second World War, Winston Churchill đã kể lại cuộc trò chuyện của ông với Tổng thống Franklin Roosevelt, ngay sau biến cố Trân Châu Cảng và lời tuyên chiến của Đức đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến đó một cách công khai. Roosevelt, người luôn chú ý đến quan hệ công chúng, đã tìm kiếm những gợi ý về việc nên gọi cuộc chiến này là gì và đã hỏi quan điểm của thủ tướng Anh. Churchill đã trả lời ngay lập tức, “Cuộc chiến không cần thiết”. Đó không phải là một biệt danh hấp dẫn mà người Mỹ (hoặc bất kỳ ai khác) có thể nhiệt tình ủng hộ. Tuy nhiên, điều đó là sự thật.

Việc Anh và Pháp từ chối tin vào lời Hitler, đặc biệt là về ý định địa chính trị của ông ta, đã góp phần gây ra Thế chiến II ở Âu Châu. Sự thờ ơ của công chúng và chính trị Hoa Kỳ đối với những gì đang diễn ra trên lục địa đó từ năm 1933 trở đi cũng vậy. Ngày nay, chúng ta có đang ở trong cùng một trạng thái phủ nhận, vô tư hay thờ ơ như thế không? Putin đã nói rõ rằng ông ta có ý định đảo ngược phán quyết của lịch sử trong Chiến tranh Lạnh, coi Ukraine chỉ là một món khai vị hay antipasto. Tập Cận Bình đã nói rõ rằng ông có ý định đáp trả những gì ông coi là “Thế kỷ nhục nhã” của Trung Quốc bằng cách biến nhà nước toàn trị của mình thành bá chủ thế giới. Các giáo sĩ Hồi giáo Iran coi trọng viễn cảnh về ngày tận thế của người Shiite, ngay cả khi những người theo chủ nghĩa thế tục trong Bộ Ngoại giao và các bộ ngoại giao khác coi họ là những kẻ viển vông thời trung cổ.

Việc phớt lờ những thực tế này là hành vi vô trách nhiệm nghiêm trọng về mặt đạo đức và chính trị, vì nó khiến một thảm họa, có sức tàn phá chưa từng có, có khả năng xảy ra cao hơn.