Larry Chapp nhận bằng Tiến sĩ Thần học tại Đại học Fordham năm 1994, chuyên ngành thần học về Hans Urs von Balthasar. Ông đã dành 20 năm giảng dạy thần học tại Đại học DeSales gần Allentown, Pennsylvania, trước khi nghỉ hưu sớm để cùng vợ là Carmina và người bạn, cũng là cựu học trò của ông, Linh mục John Gribowich, thành lập Nông trại Công nhân Công Giáo Dorothy Day gần Wilkes Barre, Pennsylvania. Ông là tác giả của nhiều bài báo và sách, đồng thời là người sáng lập và tác giả chính của blog Gaudiumetspes22.com.
Việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đang làm dấy lên cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo. Trong bối cảnh đó, ông vừa có bài viết nhan đề “Why Christ Won’t Let His Church Ordain Women”, nghĩa là “Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ”.
Tạp chí tin tức Công Giáo quốc tế The Tablet cho rằng việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đầu tiên trong Giáo hội Anh giáo là cơ hội chín muồi để Giáo Hội Công Giáo xem xét lại vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ.
Trong một bài viết ngắn chủ yếu gồm cuộc phỏng vấn với nhà thần học Dòng Tên người Ái Nhĩ Lan, Cha Gerry O'Hanlon, không giấu sự thất vọng của mình với tình trạng hiện tại của vấn đề này trong Công Giáo và thẳng thắn tuyên bố mong muốn của mình rằng Giáo hội “hãy ngừng vòng vo và tiến hành xem xét lại một cách công bằng và cởi mở giáo lý hiện hành”.
Rõ ràng từ những nhận xét của vị linh mục này, người ta có thể thấy rõ ngài cho rằng giáo huấn hiện tại của Giáo hội dựa trên những nền tảng thần học sai lầm. Điều này dẫn ngài đến kết luận rằng việc từ chối phong chức cho phụ nữ là một điều tai tiếng lớn đối với Giáo hội, cũng tệ hại như việc Giáo hội trước đây đã không lên tiếng phản kháng quyết liệt chế độ nô lệ.
Sau đó, ngài trích dẫn những kết luận thần học của Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 và ý kiến của nhà thần học nổi tiếng Karl Rahner về vấn đề này. Tóm lại, ngài nhấn mạnh việc Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 nhận thấy không có bằng chứng Kinh Thánh nào bảo đảm cho lập trường của Giáo hội về việc loại trừ phụ nữ khỏi chức thánh, lưu ý rằng nhà thần học Karl Rahner, vào cuối những năm 1970, đã lập luận rằng Giáo hội phải có trách nhiệm chứng minh điều này. “Gánh nặng này vẫn chưa được thực hiện”, Cha O'Hanlon nói.
Bản thân bài viết ngắn này không có gì nổi bật và chỉ là một trong số rất nhiều bài viết khác đã xuất hiện trong nhiều năm qua trên các cơ quan truyền thông Công Giáo phần lớn mang tính cấp tiến. Nhưng điều nó cho thấy là, trong suy nghĩ của nhiều người Công Giáo - thậm chí có thể là phần lớn người Công Giáo trong nền văn hóa phương Tây, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ, nếu chúng ta tin vào các số liệu được đưa ra từ các cuộc thăm dò.
Chúa Kitô không trao cho Giáo hội của Ngài thẩm quyền phong chức cho phụ nữ
Nhưng làm sao có thể như vậy được? Chẳng phải Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khép lại vấn đề này, với quyết định dứt khoát rằng Giáo Hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ sao? Thật vậy, vị Giáo Hoàng Ba Lan đã làm như vậy, như ngài đã tuyên bố trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994:
Để xóa tan mọi nghi ngờ liên quan đến một vấn đề vô cùng quan trọng, một vấn đề liên quan đến chính hiến chế thiêng liêng của Giáo hội, nhân danh chức vụ củng cố anh em của tôi (x. Lc 22:32), tôi tuyên bố rằng Giáo hội không có bất kỳ thẩm quyền nào để phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ một cách dứt khoát.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra phán quyết này dựa trên hai yếu tố chính. Thứ nhất, Giáo Hội phải noi gương Chúa, Đấng chỉ chọn nam giới làm tông đồ. Thứ hai, và phù hợp với điều này, truyền thống lâu đời của Giáo Hội là chỉ phong chức linh mục cho nam giới. Ngài lưu ý rằng quyết định này cũng đã được phê chuẩn trong các văn kiện giáo hoàng hiện đại.
Ngài cũng kiên quyết bác bỏ quan niệm cho rằng việc không phong chức cho phụ nữ ngụ ý rằng phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trong chương trình cứu độ. Ngài nhấn mạnh rằng Đức Trinh Nữ Maria, mặc dù không được Con mình chọn làm tông đồ hay linh mục, nhưng vẫn giữ một địa vị cao cả trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa:
Hơn nữa, việc Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, không nhận được sứ mạng riêng của các Tông Đồ cũng như chức tư tế thừa tác, cho thấy rõ ràng rằng việc không cho phụ nữ được thụ phong linh mục không thể có nghĩa là phụ nữ có phẩm giá thấp kém hơn, cũng không thể bị hiểu là kỳ thị họ. Đúng hơn, điều này phải được xem là sự tuân giữ trung thành một kế hoạch được gán cho sự khôn ngoan của Chúa Tể vũ trụ.
Tuy nhiên, chính những lập luận này lại bị những người ủng hộ việc phong chức linh mục cho phụ nữ bác bỏ vì cho là không đủ. Thực vậy, những điều ấy bị coi là sai sót nghiêm trọng đến mức dẫn đến ý tưởng rằng, như Cha O'Hanlon đã nói, khi bám vào chúng, Giáo hội chỉ đang “tránh né”.
Chúa Kitô ban cho Hội Thánh Ngài thẩm quyền giảng dạy
Để đáp lại, tôi xin đưa ra ba điểm. Thứ nhất, điều không được đề cập đến trong những lời bác bỏ như vậy chính những thiếu sót cơ bản về giáo hội học đã thúc đẩy chúng. Rõ ràng, thẩm quyền giáo huấn rất cao của Đức Gioan Phaolô II trong quyết định của ngài đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, nó bị gạt sang một bên như một giáo huấn sai lầm, và do đó không cần phải biện minh cho việc bất đồng quan điểm, bất kể thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng. Vấn đề về tính bất khả xâm phạm của Giáo hội dường như không liên quan đến họ, và tất cả các giáo huấn mà họ cho là không bất khả ngộ đều bị coi là có thể bị tranh luận thần học liên tục.
Thật vậy, và để không lạc đề quá xa, chắc chắn vấn đề phong chức cho phụ nữ chỉ là một trong nhiều vấn đề mà những người Công Giáo có khuynh hướng cấp tiến tin rằng nên được xem xét lại để có thể đảo ngược. Tôi có cần phải trích dẫn danh sách dài những chủ đề như vậy không? Và để minh họa cho điểm này, chúng ta thấy rằng tân Tổng Giám Mục Canterbury, Sarah Mullally, là người “ủng hộ quyền lựa chọn” phá thai và rất cấp tiến trong mọi vấn đề liên quan đến tình dục con người — đó là một sự thật mà Cha O'Hanlon cố tình lờ đi.
Tóm lại, có cả một gói giáo hội học đang được áp dụng ở đây, vượt ra ngoài vấn đề duy nhất về việc phong chức cho phụ nữ.
Những nhà phê bình như Cha O'Hanlon nhanh chóng cáo buộc rằng giáo huấn của Giáo hội dựa trên lý luận thần học hời hợt. Nhưng quan điểm của chính ngài lại thể hiện sự xem xét hời hợt và thiển cận về thẩm quyền giáo huấn. Trong số những người bác bỏ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bất kể địa vị thẩm quyền cao trọng của ngài, chúng ta thường thấy những sự phân biệt đơn giản giữa “một số ít” giáo huấn bất khả ngộ của Giáo hội và nhiều giáo huấn không bất khả ngộ, với những giáo huấn không bất khả ngộ bị coi là đề tài cho những lời chỉ trích không hồi kết.
Đáng buồn thay, điều mà giáo hội học này báo hiệu là một Giáo hội chẳng khác gì một câu lạc bộ tranh luận với những tranh cãi bất tận — hay một tòa án liên tục họp mà chẳng bao giờ đưa ra phán quyết về bất cứ điều gì. Nhưng chính vì vậy mà Chúa Kitô đã thành lập Giáo hội của Người trên thẩm quyền tông đồ, và cũng chính vì vậy mà chúng ta có một huấn quyền uy tín.
Chúa Kitô, chứ không phải Giáo Hội, đã thiết lập chức tư tế chỉ dành cho nam giới
Ngoài ra còn có vấn đề về chính những lập luận của Đức Giáo Hoàng, vốn không hề hời hợt như Cha O'Hanlon ngụ ý. Người ta chỉ đơn giản cho rằng việc Chúa Giêsu chỉ chọn người nam chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng điều này không đúng.
Bị bao quanh bởi các nền văn hóa ngoại giáo thường có các nữ tư tế, quyết định - trước tiên là của Do Thái giáo, và sau đó là của Chúa Kitô - giới hạn chức tư tế cho nam giới là kết quả của một thành kiến văn hóa và gia trưởng, hoặc là sản phẩm của một quyết định thần học dứt khoát có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Khi nào Chúa Giêsu đưa ra những quyết định trong Phúc Âm mà chúng ta có thể nói là những ví dụ rõ ràng cho thấy Ngài đã nhượng bộ trước định kiến văn hóa? Thật vậy, dường như điều ngược lại mới đúng, đặc biệt là liên quan đến địa vị của phụ nữ.
Do đó, quyết định chỉ chọn người nam của ngài - bất chấp sự hiện diện của rất nhiều phụ nữ quan trọng trong chức vụ của ngài - chính là lý do tại sao Giáo hội sơ khai coi tấm gương của ngài là biểu hiện của điều gì đó có ý nghĩa bí tích và ràng buộc.
Hơn nữa, không thể nói rằng Chúa Kitô đã đưa ra quyết định này hoàn toàn dựa trên sự thận trọng, chỉ vì Người biết những nguy hiểm mà phụ nữ sẽ phải đối mặt trong sứ mệnh truyền giáo. Như Thánh Phaolô đã chỉ rõ trong các thư của ngài, phụ nữ đã thực sự truyền giáo, và họ là một phần trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội ra thế giới.
Quyết định của Chúa Kitô phù hợp với bản chất con người của chúng ta
Cuối cùng, cần nhớ rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không ban hành quyết định này – là điều đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô tái khẳng định - trong một khoảng trống thần học. Chính sự phát triển thần học về thân xác của ngài là một sự giải thích sâu sắc về ý nghĩa bí tích sâu sắc của thân xác mang tính giới tính của chúng ta. Chúng ta không phải là những người theo thuyết Ngộ Đạo, và Giáo hội có một truyền thống thần học lâu đời, đặc biệt là trong việc thảo luận về hình ảnh cô dâu dành cho Giáo hội.
Địa vị nam giới của chính Chúa Giêsu mang ý nghĩa biểu tượng và bí tích mà những người ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ coi là không liên quan, nếu không muốn nói là đáng xấu hổ. Đối với họ, nam tính của Chúa Giêsu chỉ đơn thuần là một thực tại thứ cấp không có tác động gì — là phàm nhân thì rõ ràng ai trong chúng ta cũng có một giới tính — và do đó không liên quan gì đến vấn đề đang được bàn luận. Nhưng việc coi nam tính của Chúa Giêsu nhẹ đến mức vô nghĩa này lại là một ví dụ khác về thần học đơn giản và hời hợt mà họ cho là vượt trội hơn so với chính sự suy tư của Giáo hội về chủ đề này.
Tôi xin phép không đồng ý.
Source:National Catholic Register