Đức cha Paul Marcel PIQUET LỢI (1888–1966)
Mục tử nhiệt thành, khó nghèo và nhân hậu
Gia thế và dấu ấn thời gian
Đức cha Paul Raymond Marie Marcel PIQUET LỢI sinh ngày 27-08-1888 tại Notre Dame des Champs, Paris, nước Pháp. Ngài là người con thứ 7 trong gia đình Công giáo đạo đức có 8 người con. Chúa ân ban cho song thân ngài 2 ơn gọi làm linh mục. Thân mẫu qua đời lúc ngài mới sáu tuổi. Sớm mất mẹ, cậu Marcel đặt trọn tình yêu và lòng tín thác vào Người Mẹ trên Trời là Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm.
Năm 1898, Marcel Piquet nhập học tại Tiểu chủng viện Notre Dame des Champs. Và ngày 15-09-1908, ngài gia nhập Đại chủng viện Thừa Sai Bièvres. Thầy Marcel xác quyết ơn gọi truyền giáo của mình trong thỉnh nguyện thư gởi cha Giám đốc Đại chủng ciện Thừa sai Bièvres khi sắp mãn lớp Terminal (tương đương lớp 12) như sau: « Con không có những tài năng lớn lao, cũng không có những nhân đức cao cả. Nhưng con biết rằng Chúa Nhân Lành gọi con trong Ơn gọi Truyền giáo. Hành trang đức hạnh con mang theo không có những phẩm tính cao quí, nhưng những gì con có, con hiến dâng tất cả. Đó là thiện chí của con. Ước muốn quyết liệt của con là sau này trở nên một công cụ hữu dụng trong tay các Bề Trên.”
29-09-1912: Thầy Marcel lãnh chức linh mục và ngày 27-11 lên đường truyền giáo cho địa phận Đông Đàng Trong (Qui Nhơn), Việt Nam.
29-12-1912: Đặt chân lên miền truyền giáo Qui Nhơn và nhận tên Việt là Lợi.
1913 – 1915: Cha Phó Xứ Đồng Quả.
1915: Nhập ngũ với nghiệp vụ y tá nhưng sớm giải ngũ vì lý do sức khoẻ
09/1916: Giám đốc kiêm giáo sư Triết Đại chủng viện Đại An, Qui Nhơn.
1924 – 1927: Cha sở Dinh Thủy, Ninh Thuận.
1928 – 1943: Cha sở Hộ Diêm, Ninh Thuận.
1941 – 1943: Bề trên Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn.
11-11-1943: Được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Qui Nhơn.
18-01-1944: Được tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Qui Nhơn, do Đức Cha Drapier, Khâm Sứ Toà Thánh
05-07-1957: Tòa Thánh thành lập Giáo Phận Tông Tòa Nha Trang và đặt Đức Cha Marcel Piquet Lợi làm Giám mục tiên khởi
24-11-1960: Toà Thánh thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Giáo Phận Nha Trang được nâng lên thành Giáo phận Chính toà
23-06-1961: Nhậm chức Giám Mục Chính Tòa Giáo Phận Nha Trang với phương châm: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến) và huy hiệu Chiên Con cầm cờ chiến thắng
11-07-1966: Qua đời tại Sài Gòn. Linh cữu Ngài được quàn tại Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn 3 ngày cho cộng đoàn dân Chúa kính viếng
18-07-1966: Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đalat chủ sự Thánh lễ an táng tại Nhà Thờ Chính Toà Nha Trang.
Mục tử nhiệt thành dựng xây ‘Nhà Chúa’
Khi còn là mục tử trên cánh đồng truyền giáo Ninh Thuận, Cha thừa sai trẻ Marcel Piquet, thường được gọi là Cố Lợi, luôn nhiệt thành, năng nổ dựng xây cơ sở tinh thần và vật chất cho giáo xứ để giúp giáo dân sống đức tin năng động và phong phú hơn.
Là cha sở Hộ Diêm, Cố Lợi xây dựng ngôi Thánh đường Hộ Diêm khang trang lộng lẫy theo kiến trúc gôtic và xúc tiến việc khẩn hoang, xây cất Nhà Chúa cho các họ đạo lân cận như: Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Phước An. Ngài thành lập “Hội con Đức Mẹ” và Hội này sau đó nhân rộng trong nhiều giáo xứ khác của giáo phận.
Ngài không chỉ chăm lo đời sống đức tin của các giáo hữu mà quan tâm cải thiện vấn đề dân sinh, tiếp tục công trình của các vị tiền nhiệm như: khai hoang lập ấp, dẫn thủy nhập điền, nâng cao mức sống người nghèo từ mấy trăm mẫu ruộng và rẫy nương thuốc lá… Hầu hết những người đến làm ăn trên vùng đất mới này lần lượt gia nhập cộng đồng dân Chúa, tạo nên những xóm đạo gần như toàn tòng (Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Tầm Chưởng).
Khi làm Giám mục Tông toà Giáo Phận Qui Nhơn, trong thời buổi nhiễu nhương, chiến tranh ly loạn, ngài vẫn nhiệt tâm len lỏi thăm viếng mục vụ khắp nơi trong giáo phận. Khi chủng viện Làng Sông – Qui Nhơn không hoạt động được, ngài thành lập tạm thời Chủng viện Tấn Tài (1946-1952), rồi sau đó là Chủng viện Nha Trang tại địa điểm 22 Duy Tân, Nha Trang (1952 -1958) nay là Tòa Giám Mục cho chủng sinh của Nha Trang.
Với lòng yêu mến và tôn sùng đặc biệt Đức Maria, cùng với đặc sủng truyền giáo của mình, chín năm trong cương vị chủ chăn tiên khởi của Giáo phận Nha Trang, Đức Cha Marcel Piquet đã tạo lập được những cơ sở nền tảng cho sự phát triển Giáo phận còn non trẻ. Ngài di chuyển trụ sở Dòng Thánh Giuse về Nha Trang (1954), chọn Đức Maria Vô Nhiễm làm quan thầy Giáo phận, rồi năm 1958, thành lập Tiểu chủng viện Sao Biển (Bổn mạng là Sinh nhật Đức Mẹ) và thành lập Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (bổn mạng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ). Đức Cha cũng tạo thuận lợi cho Dòng Chúa Cứu Thế hiện diện trên địa bàn giáo phận (1959), xây dựng Đan viện Cát Minh và mời các đan sĩ về Nha Trang (1960) làm hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo.
Mục tử khó nghèo và nhân hậu
Thời Tiểu chủng viện cũng như Đại Chủng Viện, Ban Giám đốc vẫn nhận xét Thầy Marcel Piquet là một con người khổ chế, sốt sắng, đức hạnh, thông minh, trung thành với bổn phận và nhiệt thành trong mọi phương diện. Trong đời sống linh mục và giám mục thừa sai, ngài đã nên tấm gương sáng cho các linh mục bản xứ về đời sống khó nghèo, khổ chế, lòng khiêm nhường và xả thân quên mình vì đàn chiên.
Giáo dân vùng Ninh Thuận vẫn quen thấy cố sở của họ trên cỗ xe ngựa, thường xuyên thăm viếng bệnh nhân và giáo dân, đều đặn nạo vét kênh mương dẫn nước từ đập về, xắn tay áo hốt lúa khi trời đổ mưa.
Noi gương lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, Thầy chí thánh, ngài luôn sẵn sàng hy sinh, quảng đại phục vụ mọi người bất luận ngày đêm. Khi trong làng có bệnh nhân cấp cứu hay sản phụ sắp sinh nở, ngài mau mắn dùng chiếc xe “cà tàng” Citroen 5 ngựa di chuyển họ đến bệnh viện Phan Rang, khiêng bệnh nhân vào phòng cấp cứu.
Ngài là vị mục tử luôn rộng lượng bao dung với mọi người, nhưng lại khổ chế với chính mình. Ngài luôn rộng rãi đóng góp của cải cho những nhu cầu truyền giáo. Việc đi lại cho công tác mục vụ thật khó khăn trong thời chiến tranh, ngài không bận tâm, vì ngài luôn bằng lòng với cái tối thiểu cần thiết. Đời sống hàng ngày của ngài thì rất bình dị, đạm bạc, đơn sơ.
Khi làm giám mục Nha Trang, người ta vẫn còn thấy ngài trong chiếc áo chùng đen bạc màu, đầu đội nón cối, chân mang dép cao su, đi xe đạp cọc cạch lên Bình Cang (cách Tòa Giám Mục chừng 7 cây số) để thăm viếng con cái ở tu viện Bình Cang.
***
Đức cha Marcel Piquet Lợi đã gắn bó cuộc đời và sứ mạng mục tử của mình với giáo phận Nha Trang cho đến lúc tàn hơi, và gởi lại thân xác giữa miền truyền giáo thân yêu. Mộ phần của ngài toạ lạc bên sườn đồi của Nhà thờ Chính toà Nha Trang, nơi các tín hữu vẫn kính viếng, nguyện cầu; và hằng năm, các chủ chăn kế nhiệm cùng đàn chiên Giáo phận cử hành Thánh lễ giỗ cầu nguyện, tri ân ngài.
Xin Chúa nhân lành ân thưởng cho người tôi tớ tín trung của Chúa sau một đời thừa sai kiên vững, hăng say theo sát dấu chân Vị Mục tử nhân lành là Đức Kitô chí thánh.
Mục tử nhiệt thành, khó nghèo và nhân hậu
Gia thế và dấu ấn thời gian
Năm 1898, Marcel Piquet nhập học tại Tiểu chủng viện Notre Dame des Champs. Và ngày 15-09-1908, ngài gia nhập Đại chủng viện Thừa Sai Bièvres. Thầy Marcel xác quyết ơn gọi truyền giáo của mình trong thỉnh nguyện thư gởi cha Giám đốc Đại chủng ciện Thừa sai Bièvres khi sắp mãn lớp Terminal (tương đương lớp 12) như sau: « Con không có những tài năng lớn lao, cũng không có những nhân đức cao cả. Nhưng con biết rằng Chúa Nhân Lành gọi con trong Ơn gọi Truyền giáo. Hành trang đức hạnh con mang theo không có những phẩm tính cao quí, nhưng những gì con có, con hiến dâng tất cả. Đó là thiện chí của con. Ước muốn quyết liệt của con là sau này trở nên một công cụ hữu dụng trong tay các Bề Trên.”
29-09-1912: Thầy Marcel lãnh chức linh mục và ngày 27-11 lên đường truyền giáo cho địa phận Đông Đàng Trong (Qui Nhơn), Việt Nam.
29-12-1912: Đặt chân lên miền truyền giáo Qui Nhơn và nhận tên Việt là Lợi.
1913 – 1915: Cha Phó Xứ Đồng Quả.
1915: Nhập ngũ với nghiệp vụ y tá nhưng sớm giải ngũ vì lý do sức khoẻ
09/1916: Giám đốc kiêm giáo sư Triết Đại chủng viện Đại An, Qui Nhơn.
1924 – 1927: Cha sở Dinh Thủy, Ninh Thuận.
1928 – 1943: Cha sở Hộ Diêm, Ninh Thuận.
1941 – 1943: Bề trên Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn.
11-11-1943: Được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Qui Nhơn.
18-01-1944: Được tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Qui Nhơn, do Đức Cha Drapier, Khâm Sứ Toà Thánh
05-07-1957: Tòa Thánh thành lập Giáo Phận Tông Tòa Nha Trang và đặt Đức Cha Marcel Piquet Lợi làm Giám mục tiên khởi
24-11-1960: Toà Thánh thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Giáo Phận Nha Trang được nâng lên thành Giáo phận Chính toà
23-06-1961: Nhậm chức Giám Mục Chính Tòa Giáo Phận Nha Trang với phương châm: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến) và huy hiệu Chiên Con cầm cờ chiến thắng
11-07-1966: Qua đời tại Sài Gòn. Linh cữu Ngài được quàn tại Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn 3 ngày cho cộng đoàn dân Chúa kính viếng
18-07-1966: Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đalat chủ sự Thánh lễ an táng tại Nhà Thờ Chính Toà Nha Trang.
Mục tử nhiệt thành dựng xây ‘Nhà Chúa’
Khi còn là mục tử trên cánh đồng truyền giáo Ninh Thuận, Cha thừa sai trẻ Marcel Piquet, thường được gọi là Cố Lợi, luôn nhiệt thành, năng nổ dựng xây cơ sở tinh thần và vật chất cho giáo xứ để giúp giáo dân sống đức tin năng động và phong phú hơn.
Là cha sở Hộ Diêm, Cố Lợi xây dựng ngôi Thánh đường Hộ Diêm khang trang lộng lẫy theo kiến trúc gôtic và xúc tiến việc khẩn hoang, xây cất Nhà Chúa cho các họ đạo lân cận như: Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Phước An. Ngài thành lập “Hội con Đức Mẹ” và Hội này sau đó nhân rộng trong nhiều giáo xứ khác của giáo phận.
Ngài không chỉ chăm lo đời sống đức tin của các giáo hữu mà quan tâm cải thiện vấn đề dân sinh, tiếp tục công trình của các vị tiền nhiệm như: khai hoang lập ấp, dẫn thủy nhập điền, nâng cao mức sống người nghèo từ mấy trăm mẫu ruộng và rẫy nương thuốc lá… Hầu hết những người đến làm ăn trên vùng đất mới này lần lượt gia nhập cộng đồng dân Chúa, tạo nên những xóm đạo gần như toàn tòng (Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Tầm Chưởng).
Khi làm Giám mục Tông toà Giáo Phận Qui Nhơn, trong thời buổi nhiễu nhương, chiến tranh ly loạn, ngài vẫn nhiệt tâm len lỏi thăm viếng mục vụ khắp nơi trong giáo phận. Khi chủng viện Làng Sông – Qui Nhơn không hoạt động được, ngài thành lập tạm thời Chủng viện Tấn Tài (1946-1952), rồi sau đó là Chủng viện Nha Trang tại địa điểm 22 Duy Tân, Nha Trang (1952 -1958) nay là Tòa Giám Mục cho chủng sinh của Nha Trang.
Với lòng yêu mến và tôn sùng đặc biệt Đức Maria, cùng với đặc sủng truyền giáo của mình, chín năm trong cương vị chủ chăn tiên khởi của Giáo phận Nha Trang, Đức Cha Marcel Piquet đã tạo lập được những cơ sở nền tảng cho sự phát triển Giáo phận còn non trẻ. Ngài di chuyển trụ sở Dòng Thánh Giuse về Nha Trang (1954), chọn Đức Maria Vô Nhiễm làm quan thầy Giáo phận, rồi năm 1958, thành lập Tiểu chủng viện Sao Biển (Bổn mạng là Sinh nhật Đức Mẹ) và thành lập Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (bổn mạng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ). Đức Cha cũng tạo thuận lợi cho Dòng Chúa Cứu Thế hiện diện trên địa bàn giáo phận (1959), xây dựng Đan viện Cát Minh và mời các đan sĩ về Nha Trang (1960) làm hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo.
Mục tử khó nghèo và nhân hậu
Thời Tiểu chủng viện cũng như Đại Chủng Viện, Ban Giám đốc vẫn nhận xét Thầy Marcel Piquet là một con người khổ chế, sốt sắng, đức hạnh, thông minh, trung thành với bổn phận và nhiệt thành trong mọi phương diện. Trong đời sống linh mục và giám mục thừa sai, ngài đã nên tấm gương sáng cho các linh mục bản xứ về đời sống khó nghèo, khổ chế, lòng khiêm nhường và xả thân quên mình vì đàn chiên.
Giáo dân vùng Ninh Thuận vẫn quen thấy cố sở của họ trên cỗ xe ngựa, thường xuyên thăm viếng bệnh nhân và giáo dân, đều đặn nạo vét kênh mương dẫn nước từ đập về, xắn tay áo hốt lúa khi trời đổ mưa.
Noi gương lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, Thầy chí thánh, ngài luôn sẵn sàng hy sinh, quảng đại phục vụ mọi người bất luận ngày đêm. Khi trong làng có bệnh nhân cấp cứu hay sản phụ sắp sinh nở, ngài mau mắn dùng chiếc xe “cà tàng” Citroen 5 ngựa di chuyển họ đến bệnh viện Phan Rang, khiêng bệnh nhân vào phòng cấp cứu.
Ngài là vị mục tử luôn rộng lượng bao dung với mọi người, nhưng lại khổ chế với chính mình. Ngài luôn rộng rãi đóng góp của cải cho những nhu cầu truyền giáo. Việc đi lại cho công tác mục vụ thật khó khăn trong thời chiến tranh, ngài không bận tâm, vì ngài luôn bằng lòng với cái tối thiểu cần thiết. Đời sống hàng ngày của ngài thì rất bình dị, đạm bạc, đơn sơ.
Khi làm giám mục Nha Trang, người ta vẫn còn thấy ngài trong chiếc áo chùng đen bạc màu, đầu đội nón cối, chân mang dép cao su, đi xe đạp cọc cạch lên Bình Cang (cách Tòa Giám Mục chừng 7 cây số) để thăm viếng con cái ở tu viện Bình Cang.
***
Đức cha Marcel Piquet Lợi đã gắn bó cuộc đời và sứ mạng mục tử của mình với giáo phận Nha Trang cho đến lúc tàn hơi, và gởi lại thân xác giữa miền truyền giáo thân yêu. Mộ phần của ngài toạ lạc bên sườn đồi của Nhà thờ Chính toà Nha Trang, nơi các tín hữu vẫn kính viếng, nguyện cầu; và hằng năm, các chủ chăn kế nhiệm cùng đàn chiên Giáo phận cử hành Thánh lễ giỗ cầu nguyện, tri ân ngài.
Xin Chúa nhân lành ân thưởng cho người tôi tớ tín trung của Chúa sau một đời thừa sai kiên vững, hăng say theo sát dấu chân Vị Mục tử nhân lành là Đức Kitô chí thánh.