Có người cho rằng, Cha Yves Congar góp phần soạn thảo hầu hết các văn kiện của Vatican. Điều này có vẻ hơi quá đáng, nhưng quả thực, phần đóng góp của cha hết sức lớn lao.
Được Đức Gioan XXIII đích thân cử làm chuyên viên cho Ủy Ban Chuẩn Bị, cha Yves Congar bắt tay làm việc cho Vatican II ngay từ những ngày đầu cho tới tận những ngày cuối cùng của Công Đồng. Thoạt đầu, phần vì e dè với quá khứ (bị nghi ngờ), phần vì bầu khí làm việc lúc đầu không mấy hứng khởi, thái độ của cha đối với Vatican II không mấy tích cực. Cha vẫn nghĩ chưa nên triệu tập công đồng vào lúc ấy, phải đợi thêm ít nhất 20 năm nữa. Vì tới lúc đó, Giáo Hội mới có một hàng giám mục được đào tạo với các ý tưởng bắt nguồn từ Thánh Kinh và Thánh Truyền, có cái nhìn thực tiễn về mục vụ và truyền giáo. Vả lại, căn cứ vào cuốn Nhật Ký về Công Đồng của cha “nguy cơ lớn lao là Công Đồng sẽ tự chứng tỏ nó bị tiền chế tại Rôma hay dưới sự điều khiển của Rôma”. Các nghiên cứu về Giáo Hội học của cha chứng minh rằng trong suốt 15 thế kỷ qua, Rôma luôn cố gắng chiếm độc quyền mọi đường điều khiển và kiểm soát trong Giáo Hội.
Cha cũng sợ rằng Vatican II sẽ chỉ là một trong những công đồng “hàm thụ” (by correspondence) nghĩa là Giáo Triều gửi đi các bản văn soạn sẵn và yêu cầu các giám mục phúc đáp bằng thư; các ngài chỉ được họp nhau trong một thời gian ngắn để chấp thuận bản văn mà các ngài đóng góp rất ít. Đối với cha Congar, đó không phải là công đồng. Phải có một “hàng giám mục họp nhau”, một “cuộc hội họp có hiệu quả của các giám mục được tự do thảo luận và đưa ra quyết định” mới là công đồng chân chính. Chứ các giám mục “phân tán chỉ có thể nói lên các phản ứng cô lập, vô kế hoạch; những phản ứng này sẽ bị một ủy ban tại Rôma tiếp nhận rồi tha hồ đem ra mổ xẻ thay đổi".
Bởi thế, dù đã giúp hai vị giám mục Pháp trả lời thư yêu cầu cung cấp chủ đề thảo luận cho công đồng, Cha Congar khá thất vọng khi thấy vào năm 1960, có quyết định thiết lập 10 ủy ban chuẩn bị mà chủ tịch mỗi ủy ban đều là các vị đứng đầu các bộ tại Giáo Triều. Ngài mô tả việc này như “gọng kìm sắt” xiết cổ “Công Đầng hài nhi tí hon vừa mới sinh ra”.
Tuy nhiên, cha vẫn tham gia Ủy Ban Thần Học và cầu nguyện để “Thiên Chúa đừng để những người nói láo hay những người tìm kiếm quyền lực không tặc Công Đồng”. Cha diễn tả giai đoạn này như sau: các chuyên viên ít được trao việc để làm và các phúc trình của họ ít được chú ý. Hoạ hiếm lắm, họ mới được mời tham dự các tiểu ban là nơi công việc thực sự diễn ra và họ không được phép lên tiếng phát biểu hay bênh vực các quan điểm của mình. Họ chỉ có thể đóng góp rất ít qua các “tẩy xóa, thêm bớt hay thay đổi” mà thôi.
Ngài có can thiệp vào vấn đề Thánh Truyền, chống lại cả ý niệm hai nguồn lẫn việc gán công duy trì Thánh Truyền cho một mình Huấn Quyền. Nên nhớ, cuốn Thánh Truyền và Các Truyền Thống (Tradition et les traditions) của ngài xuất bản năm 1960, còn cuốn Thánh Truyền và đời sống Giáo Hội (La Tradition et la vie de L’Église) xuất bản năm 1963. Các can thiệp này không khá gì hơn các tờ trình của ngài về giám mục hay đại kết.
Ngài đặc biệt lưu tâm tới đại kết vì đó là trách nhiệm của Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo, vốn được coi là dấu hy vọng của Vatican II. Nhưng oái oăm thay, sơ đồ về nó đã được soạn thảo không có sự tham khảo với Văn Phòng này. Tháng Bẩy, 1961, cha Congar đích thân viết thư cho Đức Gioan XXIII để bày tỏ nỗi “xao xuyến và đau đớn” về hiện tượng Ủy Ban Thần Học hoàn toàn làm ngơ Văn Phòng Hợp Nhất.
Nói chung các bản sơ đồ, được soạn thảo và bênh vực ở Rôma, “Có tính hết sức kinh viện”; “Thánh Kinh hầu như không bao giờ được trích dẫn ngoại trừ để làm kiểng”. Tín lý bị coi như một mớ mệnh đề, mà về phương diện thực tiễn, không liên hệ gì với các vấn đề mục vụ hay đại kết. Các thông điệp của các Đức Giáo Hoàng được ưa chuộng hơn Thánh Kinh. Các nhà thần học đặt căn cứ ở Rôma không hề tôn trọng Thánh Truyền. Họ chỉ thấy các tuyên bố của các Đức Giáo Hoàng mà thôi”.
Cha Congar cương quyết chống lại chiều hướng trên: “Cuộc chiến vĩ đại sẽ tiếp tục được tiến hành. Sự thật sẽ thắng thế”. Và rất may, trước khi Công Đồng khai mạc vào tháng Mười năm 1962, đã có những dấu chỉ tích cực: Trong nhiều Ủy Ban, người ta bắt đầu thấy có sự dị biệt ý kiến giữa các giám mục thuộc các giáo phận ngoài Rôma và các giám mục thuộc các Thánh Bộ của Giáo Triều. Các giám mục bắt đầu gặp gỡ nhau và nói chuyện với nhau. Tháng Ba năm 1962, khi trở lại Rôma, Cha Congar thấy “một bầu không khí rất khác với bầu không khí cách nay một năm”. Các chuyên viên bắt đầu được lên tiếng; các cuộc thảo luận được tự do và mang lại nhiều kết quả hơn. Ngài ghi lại các cảm nhận sau đây: một khi các giám mục lũ lượt kéo tới Vatican và bắt đầu nói chuyện với nhau “Giáo Hội được đặt vào một tình trạng đối thoại, ít nhất cũng trong nội bộ... cảm thấy sống động nhờ sự kiện tiếp xúc một cách sinh động với người khác và với môi trường biết dấn thân vào cuộc thảo luận tự do, mang dấu ấn nghi vấn”.
Dường như lúc các giám mục khắp thế giới tựu về Rôma cũng là lúc Giáo Hội tìm lại được cán cân quân bình về quyền lực với Giáo Triều. Trong khóa thứ nhất, Đức Gioan XXIII cho phép các giám mục được quyền bác bỏ các bản văn chuẩn bị đã được soạn sẵn và bầu ra các ủy ban riêng để soạn thảo các bản văn mới. Rõ ràng ngài muốn có một công đồng theo nghĩa công đồng đích thực, chứ không có ý định thống trị nó và cũng không để Giáo Triều làm như vậy.
Các đóng góp cụ thể của Cha Congar
Theo linh mục Hilary Martin, Dòng Đa Minh, giáo sư thần học và là người từng tham dự Hội Nghị tháng Sáu, năm 2012, tổ chức tại Sydney để chào mừng bản dịch tiếng Anh cuốn Nhật Ký Công Đồng của Cha Congar do Australian Theological Forum (ATF) xuất bản, vai trò của các thần học gia và chuyên viên tại Công Đồng, tuy rất quan trọng, quan trọng đến nỗi có người coi nó gần như một thứ huấn quyến thứ hai, nhưng vẫn chỉ là một vai trò vô danh. Công trình của công đồng vẫn là công trình của Đức Giáo Hoàng và các giám mục hợp nhất với ngài.
Thành thử nếu không dựa vào những phúc trình khác, khó có thể biết phần đóng góp của các chuyên viên nói chung ra sao. Rất may, Cha Congar đã đích thân ghi chép cẩn thận các đóng góp của ngài cũng như của các chuyên viên đồng nghiệp, nên ta hiểu được phần nào phạm vi các đóng góp này.
Như ta đã biết, Vatican II ban hành tổng cộng 16 văn kiện, được các giám mục chấp thuận và được Đức Giáo Hoàng ký ban hành. Cha Hilary cho hay: Cha Congar góp tay vào hầu hết các văn kiện này, qua việc can thiệp ở nhiều giai đoạn tranh luận khác nhau, tham dự các phiên họp bất tận tại các tiểu ban và ủy ban, nghĩ ra các chiến thuật để bản văn được đem ra trình bày, sửa đổi, tái duyệt, soạn các bản văn sau cùng.
Sở dĩ Cha Congar có thể đóng góp nhiều như thế, vì quan tâm thần học của cha hết sức bao quát. Nó gồm mọi khía cạnh như đại kết, đối thoại liên tôn, phẩm giá và tự do của con người nhân bản, mục tiêu cuối cùng và mục đích tối hậu của đời người trong xã hội kỹ nghệ và thương mãi hóa; và sau cùng là cuộc đối thoại của Giáo Hội với thế giới hiện đại. Nhật ký của cha, vì thế, đặc biệt nhắc tới sự đóng góp đối với các bản văn Lumen Gentium, Ad Gentes, Presbyterorum Ordinis, Dignitatis Humanae, và cả Gaudium et Spes nữa.
Chính cha thổ lộ vào năm 1975: “Tôi hết sức dấn thân vào việc chuẩn bị phần lớn các bản văn lớn của Công Đồng: Lumen Gentium, nhất là chương hai; Gaudium et Spes; Dei Verbum, tức bản văn về mạc khải; đại kết; tự do tôn giáo; Tuyên Ngôn về các tôn giáo ngoài Kitô Giáo; Truyền Giáo. Tôi cũng làm việc nhiều với ủy ban về giáo sĩ là ủy ban soạn thảo bản văn Presbyterorum ordinis. Các nghị phụ xem ra như quên khuấy các linh mục. Người ta vốn đã có một bản văn, khá tầm thường, một thứ thông điệp, soạn vội vàng trong thời kỳ cuối của công đồng. Tôi phản đối: các linh mục đâu cần cái thứ khuyên bảo ấy, mà cần người ta bảo cho họ hay họ là ai, sứ mệnh của họ là gì trong thế giới ngày nay. Chính vì thế Đức Cha Marty mời tôi phụ trách việc chi tiết hóa một bản văn mới”.
Sợi chỉ xuyên suốt các đóng góp trên có thể nói là nền Tân Thần Học (Nouvelle Théologie), một nền thần học lấy hứng từ nguyên tắc về nguồn (resourcement) nổi tiếng của Cha Congar. Nền thần học này nhằm nói lên các niềm tin và giá trị truyền thống một cách dễ hiểu và lôi cuốn đối với con người thời đại. Cha Congar đã rất thận trọng lồng nền thần học ấy vào một số lớn văn kiện của Công Đồng, nhất là những văn kiện được tranh luận gay cấn như Hiến Chế về Phụng Vụ với lời kêu gọi dùng tiếng địa phương và sự tham dự của cộng đoàn; Sắc Lệnh về Đại Kết với hoài mong tái hợp nhất, tái hội nhập các Giáo Hội; Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo với việc nhấn mạnh tới tự do nhân bản (thoát khỏi mọi hình thức áp chế vì áp chế là kẻ thù của nhân phẩm), và việc cố gắng giải quyết vấn đề bằng đối thoại chứ không phải bằng thẩm quyền chuyên chế; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội thúc đẩy ta nhìn ra ngoài Âu Châu tới Thế Giới Thứ Ba; Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân với ý thức của nó về nhu cầu phải tìm ra sự cân bằng giữa giáo dân và giáo sĩ trong Giáo Hội; và Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, một hiến chế nhằm đưa Giáo Hội tới chỗ đối thoại với thế giới, một thế giới đang bị khốn khổ vì sợ hãi và chiến tranh, đói kém và nghèo nàn trong một nền kinh tế dư thừa, một thế giới khao khát cảm nghiệm tính dục mà không chịu bất cứ hậu quả nào...
Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một vài đóng góp đặc biệt của cha Congar trong ba văn kiện Ad Gentes, Presbyterorum Ordinis và Gaudium et Spes
1. Ad Gentes, tức Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo Của Giáo Hội, là một trong các bản văn được hoàn tất sau cùng trước khi Công Đồng kết thúc vào tháng Mười Hai, năm 1965. Cha Congar giúp hoàn thành bản văn cuối cùng của nó vào ngày 19 tháng Mười. Như mọi người đều biết, việc truyền giáo trước đây được hiểu là mang đức tin tới các vùng rộng lớn của Á Châu, Phi Châu và Đại Dương Châu; việc này phần lớn do các nhà truyền giáo Âu Châu và Bắc Mỹ đảm nhiệm với nhiều nguồn tài chánh vĩ đại và cả trợ giúp lớn lao của các chính phủ ờ hai vùng này. Lúc ấy, người ta còn sử dụng thuật ngữ truyền giáo ngoại quốc để chỉ loại hoạt động này, ngầm cho thấy truyền giáo là truyền giáo cho người ngoại quốc, những người có nền văn hóa không phải của Tây Phương, không phải của Âu Châu. Nhưng tới cuối Thế Chiến Hai, khi các thế lực thống trị của Tây Phương tại Á Phi bắt buộc phải nhường bước cho các phong trào độc lập và tự quyết quốc gia, thì ai cũng hiểu rõ đây là thời chuyển tiếp đối với việc truyền giáo. Có những người tiên đoán rằng Kitô Giáo sẽ phải rút lui và các lãnh địa (enclaves) Kitô Giáo sẽ sụp đổ khi không còn các cơ chế thực dân cũ nâng đỡ nữa. Lời tiên đoán này đã không xẩy ra và nguyên sự kiện này cũng đủ cho thấy đây là dấu hiệu chứng tỏ Kitô Giáo bắt rễ sâu hơn các quan sát viên bên ngoài nhận xét. Tuy nhiên, việc sinh tồn này không hề có nghĩa ta có thể tiếp diễn như trước việc truyền giáo vốn bị các qui phạm văn hóa lấy Âu Châu làm gốc thống trị. Cuộc khủng hoảng không hệ ở việc truyền giáo mà hệ ở cách thực hiện việc truyền giáo này, nên Ad Gentes không thấy cần phải xin lỗi sự kiện Giáo Hội vẫn và nên đi truyền giáo và đi vào mọi nền văn hóa. Việc này đúng vì truyền giáo lấy hứng từ tình yêu Thiên Chúa, Đấng vốn mong ước mọi người hội tụ lại với nhau để chia sẻ Sự Sống Thiên Chúa, nghĩa là được cứu rỗi. Chúa Kitô Nhập Thể là trung gian duy nhất chân thực giữa Thiên Chúa và nhân loại và do đó, cần làm cho mọi người khắp nơi trên thế giới biết danh Người và việc làm của Người. Điều này quan trọng vì các thành viên của mọi nòi giống rải rác của nhân loại cần được chữa lành và học biết rằng số phận của toàn bộ nhân loại không phải là thịnh vượng trần thế mà là sự sống đời đời trong kết hợp với Thiên Chúa. Để thực hiện điều này, Chúa Kitô đã lập nên Giáo Hội, tức dân Thiên Chúa, với một sự lãnh đạo đặt dưới quyền hướng dẫn liên tục của Đức Giáo Hoàng và những vị kế nhiệm. Tuy Giáo Hội có sứ mệnh phải vươn tới toàn thể nhân loại, nhưng Ad Gentes truyền dạy một cách rất mới lạ rằng ta không bắt tay với mọi người cùng một cách như nhau.
Cha Congar nhấn mạnh rằng các phương tiện hữu hiệu và các đường lối hành động thích đáng cần được thích ứng với các hoàn cảnh khác nhau tùy theo thời gian. Cấy trồng Tin Mừng không có nghĩa là cùng một lúc, ta cũng phải cấy trồng một nền văn hóa xa lạ. Chính nhờ Phép Rửa, ta được sáp nhập vào Chúa Kitô và Giáo Hội, chứ không nhờ việc hội nhập văn hóa vào các qui phạm Tây Phương. Các chi thể của Giáo Hội nên vui hưởng các phong tục, ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của dân tộc mình. Hơn nữa, khi Tin Mừng xuất hiện, ta không được để bất cứ những gì tốt đẹp trong các nền văn hóa đặc thù mất đi, đúng hơn phải nâng chúng lên, thanh tẩy chúng và đem chúng lên một trình độ cao hơn, hoàn hảo hơn (9). Không ai có thể tự giải thoát khỏi tội lỗi bằng sức riêng của mình và do đó, Tin Mừng cần được rao giảng, nhưng ngay lịch sử trần thế của Tin Mừng cũng từng là chất men dẫn tới tự do, hợp nhất, tình huynh đệ và hoà bình. Các nguyên tắc trình bày trong Ad Gentes chắc chắn sẽ biến đổi tác phong truyền giáo, nhưng điều này không hàm nghĩa ta phải giảm thiểu cố gắng truyền giáo. Ad Gentes cho thấy: nay là lúc toàn thể Giáo Hội phải được nhận diện như là truyền giáo, mọi người, trong đó có giáo dân chứ không phải chỉ có các giáo sĩ, phải cấp thiết rao giảng Tin Mừng. Nhưng ngược với phương thức truyền giáo cũ, một phương thức đặt nặng việc truyền thụ các giáo huấn của Giáo Hội, việc truyền giáo ngày nay có thể được đảm nhiệm bởi các cộng đồng Kitô hữu mới được thành lập; những cộng đồng này được khuyến khích chia sẻ viễn kiến văn hóa đặc thù của họ về Tin Mừng cho các cộng đồng lâu đời tại Âu Châu.
2. Presbyterorum Ordinis: Cha Congar dành khá nhiều thời gian cho việc soạn thảo văn kiện Presbyterorum Ordinis, tức Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục. Sắc lệnh này vốn được coi là đứa con mồ côi của Vatican II. Vì sau khi bàn nhiều tới thừa tác vụ giám mục và vị trí của giáo dân trong Giáo Hội, hầu như Vatican II không còn thì giờ nào chú tâm sâu sắc tới vai trò của các linh mục trong thế giới đang biến đổi này. Dù các linh mục giáo phận có nhiệm vụ tiếp xúc gần gũi với giám mục của họ, đứng hàng tiền tuyến, có thể nói như vậy, trong việc giải thích và truyền giảng các thay đổi trong thực hành và trong thần học của Giáo Hội cho giáo dân và nhiều người khác nữa, ấy thế mà các thay đổi không thể tránh được trong đời sống và trong thừa tác vụ của họ lại không được lưu tâm bao nhiêu trong giai đoạn đầu của Công Đồng. Chính vì vậy, các dự thảo ban đầu về chức linh mục đã bị các Nghị Phụ bác bỏ.
Trong mấy tháng cuối cùng của khóa bốn, Cha Congar và Cha Lecuyer đã tranh thủ thời gian lên khuôn và soạn thảo bản văn cuối cùng cho sơ đồ này, một sơ đồ có thể nói là đã trình bày được một viễn kiến tổng hợp về vai trò của linh mục. Trong đó, có những điểm tiêu chuẩn về độc thân, tầm quan trọng của cầu nguyện và đọc sách nguyện cho nhu cầu của cả thế giới. Cử hành Thánh Lễ là vai trò quan trọng nhất của linh mục. Định chế xưa về nhập tịch (incardination) và xuất tịch (exclaustration) một giáo phận, nhằm cột một linh mục vào giáo phận của ngài, vẫn được duy trì nguyên vẹn, nhưng các qui định về chúng có thể được thay đổi vì nhu cầu mục vụ. Nhưng Presbyterorum Ordinis cũng nhắc các linh mục nhớ rằng thừa tác vụ của các ngài hướng về mọi người chứ không chỉ quanh quẩn với những người cùng máu mủ, dòng giống hay thời đại vì các ngài chia sẻ thừa tác vụ của Chúa Kitô, Đấng sống vì mọi con người. Dù có nhiệm vụ làm việc tại địa phương dưới quyền điều động của giám mục giáo phận đặc thù, các ngài vẫn chia sẻ ưu tư của mọi Giáo Hội. Các ngài cũng có nhiệm vụ lôi cuốn người khác vào đời sống linh mục.
3. Gaudium et Spes. Thực ra, Cha Congar không hoàn toàn hài lòng với bản văn Presbyterorum Ordinis. Ngài muốn nói nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, thời gian không còn bao nhiêu, trong khi hiến chế Gaudium et Spes cần phải hoàn thành trước khi Vatican II bế mạc.
Vào năm 1963, Gaudium et Spes được gọi là Sơ Đồ XVII. Người ta vốn coi Sơ Đồ này như để đáp ứng lời kêu gọi của Đức Hồng Y Suenens muốn có cuộc cải tổ Giáo Hội cả trong lẫn ngoài. Nó bao gồm nhiều chủ đề thuộc nhiều phạm vi khác nhau a) trật tự luân lý; b) trật tự xã hội; c) cộng đồng các dân tộc; d) tông đồ giáo dân. Thành thử điều hợp lý là ủy thác Sơ Đồ này cho một ủy ban hỗn hợp gồm Ủy Ban Tín Lý và Ủy Ban Tông Đồ Giáo Dân. Có điều uỷ ban hỗn hợp này ít khi họp bàn, thành thử Sơ Đồ xem ra như dậm chân tại chỗ khá lâu. Người muốn thêm điều này (như kiểm soát sinh sản hay hòa bình), người muốn bớt điều kia. Tuy nhiên, sự ra đời của Thông Điệp Pacem in Terris của Đức Gioan XXIII ngày 11 tháng Tư, 1963, đã là một thúc đẩy lớn đối với Sơ Đồ XVII. Trong suốt tháng Tư và tháng Năm, tại Malines, Bỉ, rất nhiều phiên họp đã được tổ chức để lên khung lại cho Sơ Đồ.
Và sau cùng, người ta nghĩ Sơ Đồ trên có thể mang ra trình cho ủy ban hỗn hợp. Tuy nhiên, một số người như Karl Rahner lại không nghĩ thế. Họ cho rằng bản văn thiếu nhiều điều chủ yếu. Chính vì thế, Cha Congar được thỉnh ý, đặc biệt về Lời Dẫn Nhập (proemium) và chương 1. Bản văn vì thế đã được sửa đổi, ít còn giống với bản văn nguyên thủy. Đến cuối Chín năm đó, thì bản văn được đúc kết, nhưng rồi, vì một số người qua đời và vì có những chỗ bất đồng giữa các thần học gia Đức Pháp và Bỉ, nên nó lại bị để nằm một chỗ.
Trong khi ấy, một nhóm tại Zurich, nặng về ưu tư xã hội, đã họp nhau để hoàn tất Sơ Đồ và trình bày bản văn vào tháng Hai năm 1964. Chính tại đây, lời mở đầu nổi danh “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” đã được cho vào bản văn.
Tuy nhiên, phiên họp ngày 3 tháng Tư, 1964 của ủy ban hỗn hợp để xem sét bản văn đã không đem lại kết quả gì, khiến Cha Congar hết sức thất vọng. Ủy Ban họp lại vào ngày 5 tháng Sáu và ngày 26 tháng Sáu, Sơ Đồ được đổi tên từ XVII thành XIII. Cuối tháng Tám, người ta lại chú ý tới Sơ Đồ vì một lý do khác: ccàng ngày càng có ý nghĩ cho rằng quả là một gương mù lớn nếu Giáo Hội không nói gì tới mối liên hệ của mình với thế giới ngày nay ngoài việc nêu ra một vài lời tổng quát có tính lịch sự xã giao. Chính Đức tân giáo hoàng Phaolô VI cũng nghĩ như thế. Cha Congar lại được mời để duyệt lại bàn văn ủa Sơ Đồ XIII. Cả lần duyệt xét này cũng không làm Cha Congar hoàn toàn hài lòng. Ngài cảm thấy Sơ Đồ như thiếu hẳn một hướng đi tổng quát. Theo ngài, nó phải có tính Kitô học và thánh kinh học nhiều hơn. Vả lại một số ý tưởng của nó có hơi mị dân và ngây thơ về kinh tế. Hơn nữa, Sơ Đồ nặng về công thức, về chương trình, mà thiếu một nền linh đạo làm nền. Nó cũng quá dài nữa.
Trong suốt diễn biến của Sơ Đồ XVII/XIII, đã có cuộc tranh luận về việc phải đặt nặng giá trị thần học nào cho bản văn sau cùng. Nhiều người muốn bản văn ở bình diện một bài giảng (sermon) của các giám mục dành cho thế giới hiện đại, chứ không hẳn một tuyên bố có tính trói buộc của Giáo Hội. Sau nhiều cuộc tranh luận thật lâu, hình thức Hiến Chế Mục Vụ mới được coi là ý định tối hậu của các nghị phụ. Tuy nhiên, phần đầu của bản văn vẫn có tính tín lý, phần hai mới có tính mục vụ. Chiều hướng này phản ảnh chủ trương xưa nay của Cha Congar: mọi nền thần học phải có tính mục vụ, tác động lên đời sống người ta bất luận là Công Giáo, là người có tin ngưỡng hay không.
Trong khi chờ đợi Sơ Đồ XIII được hoàn tất, Cha Congar giúp soạn thảo một số văn kiện khác, trong đó có văn kiện về linh mục, Lời Dẫn Nhập của Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo (công trình của Cha John Courtney Murray, nay được chuyển cho Cha Congar). Sơ Đồ XIII nằm chờ sự nhất trí của các giám mục Pháp và Đức. Ngày 11 tháng Mười, Đức HY Felici cho Cha Congar hay bản văn của Sơ Đồ XIII phải được đệ trình cho Ủy Ban Hỗn Hợp hạn chót là ngày 10 tháng Mười Một. Sau khi Ủy Ban Hỗn Hợp duyệt xét, việc soạn thảo bản văn cuối cùng vẫn không đơn giản vì phải tích nhập rất nhiều modi của các giám mục mà không làm mất hướng đi chính của nó. Phần lớn các modi này liên quan đến vấn đề kiểm soát sinh sản và bom đạn. Sơ Đồ được đem ra đầu phiếu ở Công Đồng và trở thành cố định vào ngày chót tức ngày 7 tháng Mười Hai, 1965 và được công bố dưới tên là Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày nay, mà thói quen hay gọi là Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng). Thực ra, toàn bộ 16 văn kiện của Vatican II đều nhằm để nói với thế giới hiện đại, nhưng Gaudium et Spes quả nói với nó một cách trực diện và tha thiết nhất.
Có người nhận định rằng Cha Congar là chuyên viên người Pháp đóng góp nhiều nhất vào công trình soạn thảo các bản văn cho Vatican II. Và khác với nhiều người, Cha nhìn nhận có cuộc khủng hoảng tiếp theo Công Đồng này, nhưng Cha cho rằng Công Đồng không sản sinh ra cuộc khủng hoảng ấy. Cuộc khủng hoảng này tùy thuộc các nguyên cớ diễn ra sau Vatican II, được Vatican II tiên đoán hơn là kích thích. Trong khi ấy cha nhấn mạnh tới các thành quả tích cực của nó: mang sinh khí lại cho các Giáo Hội địa phương, triển khai các đặc sủng và thừa tác vụ, làm chín mùi dần các cố gắng đại kết, dấn thân khắp nơi vì con người. Và cha trích dẫn châm ngôn của người Trung Hoa: một cây đổ, người ta nghe thấy tiếng động, một cánh rừng mọc, không ai nghe thấy chi.
Được Đức Gioan XXIII đích thân cử làm chuyên viên cho Ủy Ban Chuẩn Bị, cha Yves Congar bắt tay làm việc cho Vatican II ngay từ những ngày đầu cho tới tận những ngày cuối cùng của Công Đồng. Thoạt đầu, phần vì e dè với quá khứ (bị nghi ngờ), phần vì bầu khí làm việc lúc đầu không mấy hứng khởi, thái độ của cha đối với Vatican II không mấy tích cực. Cha vẫn nghĩ chưa nên triệu tập công đồng vào lúc ấy, phải đợi thêm ít nhất 20 năm nữa. Vì tới lúc đó, Giáo Hội mới có một hàng giám mục được đào tạo với các ý tưởng bắt nguồn từ Thánh Kinh và Thánh Truyền, có cái nhìn thực tiễn về mục vụ và truyền giáo. Vả lại, căn cứ vào cuốn Nhật Ký về Công Đồng của cha “nguy cơ lớn lao là Công Đồng sẽ tự chứng tỏ nó bị tiền chế tại Rôma hay dưới sự điều khiển của Rôma”. Các nghiên cứu về Giáo Hội học của cha chứng minh rằng trong suốt 15 thế kỷ qua, Rôma luôn cố gắng chiếm độc quyền mọi đường điều khiển và kiểm soát trong Giáo Hội.
Cha cũng sợ rằng Vatican II sẽ chỉ là một trong những công đồng “hàm thụ” (by correspondence) nghĩa là Giáo Triều gửi đi các bản văn soạn sẵn và yêu cầu các giám mục phúc đáp bằng thư; các ngài chỉ được họp nhau trong một thời gian ngắn để chấp thuận bản văn mà các ngài đóng góp rất ít. Đối với cha Congar, đó không phải là công đồng. Phải có một “hàng giám mục họp nhau”, một “cuộc hội họp có hiệu quả của các giám mục được tự do thảo luận và đưa ra quyết định” mới là công đồng chân chính. Chứ các giám mục “phân tán chỉ có thể nói lên các phản ứng cô lập, vô kế hoạch; những phản ứng này sẽ bị một ủy ban tại Rôma tiếp nhận rồi tha hồ đem ra mổ xẻ thay đổi".
Bởi thế, dù đã giúp hai vị giám mục Pháp trả lời thư yêu cầu cung cấp chủ đề thảo luận cho công đồng, Cha Congar khá thất vọng khi thấy vào năm 1960, có quyết định thiết lập 10 ủy ban chuẩn bị mà chủ tịch mỗi ủy ban đều là các vị đứng đầu các bộ tại Giáo Triều. Ngài mô tả việc này như “gọng kìm sắt” xiết cổ “Công Đầng hài nhi tí hon vừa mới sinh ra”.
Tuy nhiên, cha vẫn tham gia Ủy Ban Thần Học và cầu nguyện để “Thiên Chúa đừng để những người nói láo hay những người tìm kiếm quyền lực không tặc Công Đồng”. Cha diễn tả giai đoạn này như sau: các chuyên viên ít được trao việc để làm và các phúc trình của họ ít được chú ý. Hoạ hiếm lắm, họ mới được mời tham dự các tiểu ban là nơi công việc thực sự diễn ra và họ không được phép lên tiếng phát biểu hay bênh vực các quan điểm của mình. Họ chỉ có thể đóng góp rất ít qua các “tẩy xóa, thêm bớt hay thay đổi” mà thôi.
Ngài có can thiệp vào vấn đề Thánh Truyền, chống lại cả ý niệm hai nguồn lẫn việc gán công duy trì Thánh Truyền cho một mình Huấn Quyền. Nên nhớ, cuốn Thánh Truyền và Các Truyền Thống (Tradition et les traditions) của ngài xuất bản năm 1960, còn cuốn Thánh Truyền và đời sống Giáo Hội (La Tradition et la vie de L’Église) xuất bản năm 1963. Các can thiệp này không khá gì hơn các tờ trình của ngài về giám mục hay đại kết.
Ngài đặc biệt lưu tâm tới đại kết vì đó là trách nhiệm của Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo, vốn được coi là dấu hy vọng của Vatican II. Nhưng oái oăm thay, sơ đồ về nó đã được soạn thảo không có sự tham khảo với Văn Phòng này. Tháng Bẩy, 1961, cha Congar đích thân viết thư cho Đức Gioan XXIII để bày tỏ nỗi “xao xuyến và đau đớn” về hiện tượng Ủy Ban Thần Học hoàn toàn làm ngơ Văn Phòng Hợp Nhất.
Nói chung các bản sơ đồ, được soạn thảo và bênh vực ở Rôma, “Có tính hết sức kinh viện”; “Thánh Kinh hầu như không bao giờ được trích dẫn ngoại trừ để làm kiểng”. Tín lý bị coi như một mớ mệnh đề, mà về phương diện thực tiễn, không liên hệ gì với các vấn đề mục vụ hay đại kết. Các thông điệp của các Đức Giáo Hoàng được ưa chuộng hơn Thánh Kinh. Các nhà thần học đặt căn cứ ở Rôma không hề tôn trọng Thánh Truyền. Họ chỉ thấy các tuyên bố của các Đức Giáo Hoàng mà thôi”.
Cha Congar cương quyết chống lại chiều hướng trên: “Cuộc chiến vĩ đại sẽ tiếp tục được tiến hành. Sự thật sẽ thắng thế”. Và rất may, trước khi Công Đồng khai mạc vào tháng Mười năm 1962, đã có những dấu chỉ tích cực: Trong nhiều Ủy Ban, người ta bắt đầu thấy có sự dị biệt ý kiến giữa các giám mục thuộc các giáo phận ngoài Rôma và các giám mục thuộc các Thánh Bộ của Giáo Triều. Các giám mục bắt đầu gặp gỡ nhau và nói chuyện với nhau. Tháng Ba năm 1962, khi trở lại Rôma, Cha Congar thấy “một bầu không khí rất khác với bầu không khí cách nay một năm”. Các chuyên viên bắt đầu được lên tiếng; các cuộc thảo luận được tự do và mang lại nhiều kết quả hơn. Ngài ghi lại các cảm nhận sau đây: một khi các giám mục lũ lượt kéo tới Vatican và bắt đầu nói chuyện với nhau “Giáo Hội được đặt vào một tình trạng đối thoại, ít nhất cũng trong nội bộ... cảm thấy sống động nhờ sự kiện tiếp xúc một cách sinh động với người khác và với môi trường biết dấn thân vào cuộc thảo luận tự do, mang dấu ấn nghi vấn”.
Dường như lúc các giám mục khắp thế giới tựu về Rôma cũng là lúc Giáo Hội tìm lại được cán cân quân bình về quyền lực với Giáo Triều. Trong khóa thứ nhất, Đức Gioan XXIII cho phép các giám mục được quyền bác bỏ các bản văn chuẩn bị đã được soạn sẵn và bầu ra các ủy ban riêng để soạn thảo các bản văn mới. Rõ ràng ngài muốn có một công đồng theo nghĩa công đồng đích thực, chứ không có ý định thống trị nó và cũng không để Giáo Triều làm như vậy.
Các đóng góp cụ thể của Cha Congar
Theo linh mục Hilary Martin, Dòng Đa Minh, giáo sư thần học và là người từng tham dự Hội Nghị tháng Sáu, năm 2012, tổ chức tại Sydney để chào mừng bản dịch tiếng Anh cuốn Nhật Ký Công Đồng của Cha Congar do Australian Theological Forum (ATF) xuất bản, vai trò của các thần học gia và chuyên viên tại Công Đồng, tuy rất quan trọng, quan trọng đến nỗi có người coi nó gần như một thứ huấn quyến thứ hai, nhưng vẫn chỉ là một vai trò vô danh. Công trình của công đồng vẫn là công trình của Đức Giáo Hoàng và các giám mục hợp nhất với ngài.
Thành thử nếu không dựa vào những phúc trình khác, khó có thể biết phần đóng góp của các chuyên viên nói chung ra sao. Rất may, Cha Congar đã đích thân ghi chép cẩn thận các đóng góp của ngài cũng như của các chuyên viên đồng nghiệp, nên ta hiểu được phần nào phạm vi các đóng góp này.
Như ta đã biết, Vatican II ban hành tổng cộng 16 văn kiện, được các giám mục chấp thuận và được Đức Giáo Hoàng ký ban hành. Cha Hilary cho hay: Cha Congar góp tay vào hầu hết các văn kiện này, qua việc can thiệp ở nhiều giai đoạn tranh luận khác nhau, tham dự các phiên họp bất tận tại các tiểu ban và ủy ban, nghĩ ra các chiến thuật để bản văn được đem ra trình bày, sửa đổi, tái duyệt, soạn các bản văn sau cùng.
Sở dĩ Cha Congar có thể đóng góp nhiều như thế, vì quan tâm thần học của cha hết sức bao quát. Nó gồm mọi khía cạnh như đại kết, đối thoại liên tôn, phẩm giá và tự do của con người nhân bản, mục tiêu cuối cùng và mục đích tối hậu của đời người trong xã hội kỹ nghệ và thương mãi hóa; và sau cùng là cuộc đối thoại của Giáo Hội với thế giới hiện đại. Nhật ký của cha, vì thế, đặc biệt nhắc tới sự đóng góp đối với các bản văn Lumen Gentium, Ad Gentes, Presbyterorum Ordinis, Dignitatis Humanae, và cả Gaudium et Spes nữa.
Chính cha thổ lộ vào năm 1975: “Tôi hết sức dấn thân vào việc chuẩn bị phần lớn các bản văn lớn của Công Đồng: Lumen Gentium, nhất là chương hai; Gaudium et Spes; Dei Verbum, tức bản văn về mạc khải; đại kết; tự do tôn giáo; Tuyên Ngôn về các tôn giáo ngoài Kitô Giáo; Truyền Giáo. Tôi cũng làm việc nhiều với ủy ban về giáo sĩ là ủy ban soạn thảo bản văn Presbyterorum ordinis. Các nghị phụ xem ra như quên khuấy các linh mục. Người ta vốn đã có một bản văn, khá tầm thường, một thứ thông điệp, soạn vội vàng trong thời kỳ cuối của công đồng. Tôi phản đối: các linh mục đâu cần cái thứ khuyên bảo ấy, mà cần người ta bảo cho họ hay họ là ai, sứ mệnh của họ là gì trong thế giới ngày nay. Chính vì thế Đức Cha Marty mời tôi phụ trách việc chi tiết hóa một bản văn mới”.
Sợi chỉ xuyên suốt các đóng góp trên có thể nói là nền Tân Thần Học (Nouvelle Théologie), một nền thần học lấy hứng từ nguyên tắc về nguồn (resourcement) nổi tiếng của Cha Congar. Nền thần học này nhằm nói lên các niềm tin và giá trị truyền thống một cách dễ hiểu và lôi cuốn đối với con người thời đại. Cha Congar đã rất thận trọng lồng nền thần học ấy vào một số lớn văn kiện của Công Đồng, nhất là những văn kiện được tranh luận gay cấn như Hiến Chế về Phụng Vụ với lời kêu gọi dùng tiếng địa phương và sự tham dự của cộng đoàn; Sắc Lệnh về Đại Kết với hoài mong tái hợp nhất, tái hội nhập các Giáo Hội; Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo với việc nhấn mạnh tới tự do nhân bản (thoát khỏi mọi hình thức áp chế vì áp chế là kẻ thù của nhân phẩm), và việc cố gắng giải quyết vấn đề bằng đối thoại chứ không phải bằng thẩm quyền chuyên chế; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội thúc đẩy ta nhìn ra ngoài Âu Châu tới Thế Giới Thứ Ba; Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân với ý thức của nó về nhu cầu phải tìm ra sự cân bằng giữa giáo dân và giáo sĩ trong Giáo Hội; và Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, một hiến chế nhằm đưa Giáo Hội tới chỗ đối thoại với thế giới, một thế giới đang bị khốn khổ vì sợ hãi và chiến tranh, đói kém và nghèo nàn trong một nền kinh tế dư thừa, một thế giới khao khát cảm nghiệm tính dục mà không chịu bất cứ hậu quả nào...
Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một vài đóng góp đặc biệt của cha Congar trong ba văn kiện Ad Gentes, Presbyterorum Ordinis và Gaudium et Spes
1. Ad Gentes, tức Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo Của Giáo Hội, là một trong các bản văn được hoàn tất sau cùng trước khi Công Đồng kết thúc vào tháng Mười Hai, năm 1965. Cha Congar giúp hoàn thành bản văn cuối cùng của nó vào ngày 19 tháng Mười. Như mọi người đều biết, việc truyền giáo trước đây được hiểu là mang đức tin tới các vùng rộng lớn của Á Châu, Phi Châu và Đại Dương Châu; việc này phần lớn do các nhà truyền giáo Âu Châu và Bắc Mỹ đảm nhiệm với nhiều nguồn tài chánh vĩ đại và cả trợ giúp lớn lao của các chính phủ ờ hai vùng này. Lúc ấy, người ta còn sử dụng thuật ngữ truyền giáo ngoại quốc để chỉ loại hoạt động này, ngầm cho thấy truyền giáo là truyền giáo cho người ngoại quốc, những người có nền văn hóa không phải của Tây Phương, không phải của Âu Châu. Nhưng tới cuối Thế Chiến Hai, khi các thế lực thống trị của Tây Phương tại Á Phi bắt buộc phải nhường bước cho các phong trào độc lập và tự quyết quốc gia, thì ai cũng hiểu rõ đây là thời chuyển tiếp đối với việc truyền giáo. Có những người tiên đoán rằng Kitô Giáo sẽ phải rút lui và các lãnh địa (enclaves) Kitô Giáo sẽ sụp đổ khi không còn các cơ chế thực dân cũ nâng đỡ nữa. Lời tiên đoán này đã không xẩy ra và nguyên sự kiện này cũng đủ cho thấy đây là dấu hiệu chứng tỏ Kitô Giáo bắt rễ sâu hơn các quan sát viên bên ngoài nhận xét. Tuy nhiên, việc sinh tồn này không hề có nghĩa ta có thể tiếp diễn như trước việc truyền giáo vốn bị các qui phạm văn hóa lấy Âu Châu làm gốc thống trị. Cuộc khủng hoảng không hệ ở việc truyền giáo mà hệ ở cách thực hiện việc truyền giáo này, nên Ad Gentes không thấy cần phải xin lỗi sự kiện Giáo Hội vẫn và nên đi truyền giáo và đi vào mọi nền văn hóa. Việc này đúng vì truyền giáo lấy hứng từ tình yêu Thiên Chúa, Đấng vốn mong ước mọi người hội tụ lại với nhau để chia sẻ Sự Sống Thiên Chúa, nghĩa là được cứu rỗi. Chúa Kitô Nhập Thể là trung gian duy nhất chân thực giữa Thiên Chúa và nhân loại và do đó, cần làm cho mọi người khắp nơi trên thế giới biết danh Người và việc làm của Người. Điều này quan trọng vì các thành viên của mọi nòi giống rải rác của nhân loại cần được chữa lành và học biết rằng số phận của toàn bộ nhân loại không phải là thịnh vượng trần thế mà là sự sống đời đời trong kết hợp với Thiên Chúa. Để thực hiện điều này, Chúa Kitô đã lập nên Giáo Hội, tức dân Thiên Chúa, với một sự lãnh đạo đặt dưới quyền hướng dẫn liên tục của Đức Giáo Hoàng và những vị kế nhiệm. Tuy Giáo Hội có sứ mệnh phải vươn tới toàn thể nhân loại, nhưng Ad Gentes truyền dạy một cách rất mới lạ rằng ta không bắt tay với mọi người cùng một cách như nhau.
Cha Congar nhấn mạnh rằng các phương tiện hữu hiệu và các đường lối hành động thích đáng cần được thích ứng với các hoàn cảnh khác nhau tùy theo thời gian. Cấy trồng Tin Mừng không có nghĩa là cùng một lúc, ta cũng phải cấy trồng một nền văn hóa xa lạ. Chính nhờ Phép Rửa, ta được sáp nhập vào Chúa Kitô và Giáo Hội, chứ không nhờ việc hội nhập văn hóa vào các qui phạm Tây Phương. Các chi thể của Giáo Hội nên vui hưởng các phong tục, ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của dân tộc mình. Hơn nữa, khi Tin Mừng xuất hiện, ta không được để bất cứ những gì tốt đẹp trong các nền văn hóa đặc thù mất đi, đúng hơn phải nâng chúng lên, thanh tẩy chúng và đem chúng lên một trình độ cao hơn, hoàn hảo hơn (9). Không ai có thể tự giải thoát khỏi tội lỗi bằng sức riêng của mình và do đó, Tin Mừng cần được rao giảng, nhưng ngay lịch sử trần thế của Tin Mừng cũng từng là chất men dẫn tới tự do, hợp nhất, tình huynh đệ và hoà bình. Các nguyên tắc trình bày trong Ad Gentes chắc chắn sẽ biến đổi tác phong truyền giáo, nhưng điều này không hàm nghĩa ta phải giảm thiểu cố gắng truyền giáo. Ad Gentes cho thấy: nay là lúc toàn thể Giáo Hội phải được nhận diện như là truyền giáo, mọi người, trong đó có giáo dân chứ không phải chỉ có các giáo sĩ, phải cấp thiết rao giảng Tin Mừng. Nhưng ngược với phương thức truyền giáo cũ, một phương thức đặt nặng việc truyền thụ các giáo huấn của Giáo Hội, việc truyền giáo ngày nay có thể được đảm nhiệm bởi các cộng đồng Kitô hữu mới được thành lập; những cộng đồng này được khuyến khích chia sẻ viễn kiến văn hóa đặc thù của họ về Tin Mừng cho các cộng đồng lâu đời tại Âu Châu.
2. Presbyterorum Ordinis: Cha Congar dành khá nhiều thời gian cho việc soạn thảo văn kiện Presbyterorum Ordinis, tức Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục. Sắc lệnh này vốn được coi là đứa con mồ côi của Vatican II. Vì sau khi bàn nhiều tới thừa tác vụ giám mục và vị trí của giáo dân trong Giáo Hội, hầu như Vatican II không còn thì giờ nào chú tâm sâu sắc tới vai trò của các linh mục trong thế giới đang biến đổi này. Dù các linh mục giáo phận có nhiệm vụ tiếp xúc gần gũi với giám mục của họ, đứng hàng tiền tuyến, có thể nói như vậy, trong việc giải thích và truyền giảng các thay đổi trong thực hành và trong thần học của Giáo Hội cho giáo dân và nhiều người khác nữa, ấy thế mà các thay đổi không thể tránh được trong đời sống và trong thừa tác vụ của họ lại không được lưu tâm bao nhiêu trong giai đoạn đầu của Công Đồng. Chính vì vậy, các dự thảo ban đầu về chức linh mục đã bị các Nghị Phụ bác bỏ.
Trong mấy tháng cuối cùng của khóa bốn, Cha Congar và Cha Lecuyer đã tranh thủ thời gian lên khuôn và soạn thảo bản văn cuối cùng cho sơ đồ này, một sơ đồ có thể nói là đã trình bày được một viễn kiến tổng hợp về vai trò của linh mục. Trong đó, có những điểm tiêu chuẩn về độc thân, tầm quan trọng của cầu nguyện và đọc sách nguyện cho nhu cầu của cả thế giới. Cử hành Thánh Lễ là vai trò quan trọng nhất của linh mục. Định chế xưa về nhập tịch (incardination) và xuất tịch (exclaustration) một giáo phận, nhằm cột một linh mục vào giáo phận của ngài, vẫn được duy trì nguyên vẹn, nhưng các qui định về chúng có thể được thay đổi vì nhu cầu mục vụ. Nhưng Presbyterorum Ordinis cũng nhắc các linh mục nhớ rằng thừa tác vụ của các ngài hướng về mọi người chứ không chỉ quanh quẩn với những người cùng máu mủ, dòng giống hay thời đại vì các ngài chia sẻ thừa tác vụ của Chúa Kitô, Đấng sống vì mọi con người. Dù có nhiệm vụ làm việc tại địa phương dưới quyền điều động của giám mục giáo phận đặc thù, các ngài vẫn chia sẻ ưu tư của mọi Giáo Hội. Các ngài cũng có nhiệm vụ lôi cuốn người khác vào đời sống linh mục.
3. Gaudium et Spes. Thực ra, Cha Congar không hoàn toàn hài lòng với bản văn Presbyterorum Ordinis. Ngài muốn nói nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, thời gian không còn bao nhiêu, trong khi hiến chế Gaudium et Spes cần phải hoàn thành trước khi Vatican II bế mạc.
Vào năm 1963, Gaudium et Spes được gọi là Sơ Đồ XVII. Người ta vốn coi Sơ Đồ này như để đáp ứng lời kêu gọi của Đức Hồng Y Suenens muốn có cuộc cải tổ Giáo Hội cả trong lẫn ngoài. Nó bao gồm nhiều chủ đề thuộc nhiều phạm vi khác nhau a) trật tự luân lý; b) trật tự xã hội; c) cộng đồng các dân tộc; d) tông đồ giáo dân. Thành thử điều hợp lý là ủy thác Sơ Đồ này cho một ủy ban hỗn hợp gồm Ủy Ban Tín Lý và Ủy Ban Tông Đồ Giáo Dân. Có điều uỷ ban hỗn hợp này ít khi họp bàn, thành thử Sơ Đồ xem ra như dậm chân tại chỗ khá lâu. Người muốn thêm điều này (như kiểm soát sinh sản hay hòa bình), người muốn bớt điều kia. Tuy nhiên, sự ra đời của Thông Điệp Pacem in Terris của Đức Gioan XXIII ngày 11 tháng Tư, 1963, đã là một thúc đẩy lớn đối với Sơ Đồ XVII. Trong suốt tháng Tư và tháng Năm, tại Malines, Bỉ, rất nhiều phiên họp đã được tổ chức để lên khung lại cho Sơ Đồ.
Và sau cùng, người ta nghĩ Sơ Đồ trên có thể mang ra trình cho ủy ban hỗn hợp. Tuy nhiên, một số người như Karl Rahner lại không nghĩ thế. Họ cho rằng bản văn thiếu nhiều điều chủ yếu. Chính vì thế, Cha Congar được thỉnh ý, đặc biệt về Lời Dẫn Nhập (proemium) và chương 1. Bản văn vì thế đã được sửa đổi, ít còn giống với bản văn nguyên thủy. Đến cuối Chín năm đó, thì bản văn được đúc kết, nhưng rồi, vì một số người qua đời và vì có những chỗ bất đồng giữa các thần học gia Đức Pháp và Bỉ, nên nó lại bị để nằm một chỗ.
Trong khi ấy, một nhóm tại Zurich, nặng về ưu tư xã hội, đã họp nhau để hoàn tất Sơ Đồ và trình bày bản văn vào tháng Hai năm 1964. Chính tại đây, lời mở đầu nổi danh “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” đã được cho vào bản văn.
Tuy nhiên, phiên họp ngày 3 tháng Tư, 1964 của ủy ban hỗn hợp để xem sét bản văn đã không đem lại kết quả gì, khiến Cha Congar hết sức thất vọng. Ủy Ban họp lại vào ngày 5 tháng Sáu và ngày 26 tháng Sáu, Sơ Đồ được đổi tên từ XVII thành XIII. Cuối tháng Tám, người ta lại chú ý tới Sơ Đồ vì một lý do khác: ccàng ngày càng có ý nghĩ cho rằng quả là một gương mù lớn nếu Giáo Hội không nói gì tới mối liên hệ của mình với thế giới ngày nay ngoài việc nêu ra một vài lời tổng quát có tính lịch sự xã giao. Chính Đức tân giáo hoàng Phaolô VI cũng nghĩ như thế. Cha Congar lại được mời để duyệt lại bàn văn ủa Sơ Đồ XIII. Cả lần duyệt xét này cũng không làm Cha Congar hoàn toàn hài lòng. Ngài cảm thấy Sơ Đồ như thiếu hẳn một hướng đi tổng quát. Theo ngài, nó phải có tính Kitô học và thánh kinh học nhiều hơn. Vả lại một số ý tưởng của nó có hơi mị dân và ngây thơ về kinh tế. Hơn nữa, Sơ Đồ nặng về công thức, về chương trình, mà thiếu một nền linh đạo làm nền. Nó cũng quá dài nữa.
Trong suốt diễn biến của Sơ Đồ XVII/XIII, đã có cuộc tranh luận về việc phải đặt nặng giá trị thần học nào cho bản văn sau cùng. Nhiều người muốn bản văn ở bình diện một bài giảng (sermon) của các giám mục dành cho thế giới hiện đại, chứ không hẳn một tuyên bố có tính trói buộc của Giáo Hội. Sau nhiều cuộc tranh luận thật lâu, hình thức Hiến Chế Mục Vụ mới được coi là ý định tối hậu của các nghị phụ. Tuy nhiên, phần đầu của bản văn vẫn có tính tín lý, phần hai mới có tính mục vụ. Chiều hướng này phản ảnh chủ trương xưa nay của Cha Congar: mọi nền thần học phải có tính mục vụ, tác động lên đời sống người ta bất luận là Công Giáo, là người có tin ngưỡng hay không.
Trong khi chờ đợi Sơ Đồ XIII được hoàn tất, Cha Congar giúp soạn thảo một số văn kiện khác, trong đó có văn kiện về linh mục, Lời Dẫn Nhập của Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo (công trình của Cha John Courtney Murray, nay được chuyển cho Cha Congar). Sơ Đồ XIII nằm chờ sự nhất trí của các giám mục Pháp và Đức. Ngày 11 tháng Mười, Đức HY Felici cho Cha Congar hay bản văn của Sơ Đồ XIII phải được đệ trình cho Ủy Ban Hỗn Hợp hạn chót là ngày 10 tháng Mười Một. Sau khi Ủy Ban Hỗn Hợp duyệt xét, việc soạn thảo bản văn cuối cùng vẫn không đơn giản vì phải tích nhập rất nhiều modi của các giám mục mà không làm mất hướng đi chính của nó. Phần lớn các modi này liên quan đến vấn đề kiểm soát sinh sản và bom đạn. Sơ Đồ được đem ra đầu phiếu ở Công Đồng và trở thành cố định vào ngày chót tức ngày 7 tháng Mười Hai, 1965 và được công bố dưới tên là Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày nay, mà thói quen hay gọi là Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng). Thực ra, toàn bộ 16 văn kiện của Vatican II đều nhằm để nói với thế giới hiện đại, nhưng Gaudium et Spes quả nói với nó một cách trực diện và tha thiết nhất.
Có người nhận định rằng Cha Congar là chuyên viên người Pháp đóng góp nhiều nhất vào công trình soạn thảo các bản văn cho Vatican II. Và khác với nhiều người, Cha nhìn nhận có cuộc khủng hoảng tiếp theo Công Đồng này, nhưng Cha cho rằng Công Đồng không sản sinh ra cuộc khủng hoảng ấy. Cuộc khủng hoảng này tùy thuộc các nguyên cớ diễn ra sau Vatican II, được Vatican II tiên đoán hơn là kích thích. Trong khi ấy cha nhấn mạnh tới các thành quả tích cực của nó: mang sinh khí lại cho các Giáo Hội địa phương, triển khai các đặc sủng và thừa tác vụ, làm chín mùi dần các cố gắng đại kết, dấn thân khắp nơi vì con người. Và cha trích dẫn châm ngôn của người Trung Hoa: một cây đổ, người ta nghe thấy tiếng động, một cánh rừng mọc, không ai nghe thấy chi.