1. Đức Giáo Hoàng Phanxicô và '60 Phút': 4 điều phủ nhận rõ ràng và 1 điều khẳng định rõ ràng
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Ngài vừa có một bài phân tích đăng trên tờ National Catholic Register nhan đề “Pope Francis and ‘60 Minutes’: 4 Clear Noes and 1 Clear Yes”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Phanxicô và '60 Phút': 4 điều phủ nhận rõ ràng và 1 điều khẳng định rõ ràng”.
Cuộc phỏng vấn mà Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Norah O'Donnell của kênh CBS trong 60 Minutes, được ghi hình vào tháng Tư và phát sóng trong tuần này, rất đáng chú ý với bốn chữ “Không” rõ ràng, một hàm ý “Không” và một chữ “Có” rõ ràng.
Những lời phủ nhận rõ ràng liên quan đến: chức thánh dành cho phụ nữ - bao gồm cả phó tế, mang thai hộ, chúc phúc cho các cặp đồng giới, và sự thoái vị của giáo hoàng.
Một lời hàm ý Không liên quan đến tính đồng nghị. Một lời hàm ý Có là về việc chào đón những người di cư, mặc dù có những khác biệt quan trọng.
Bất kỳ cuộc phỏng vấn nào với Giáo hoàng đều phải được diễn giải cẩn thận, vì ngài thích phong cách lỏng lẻo và thân mật hơn, một phong cách có tiếng vang rộng rãi và đồng cảm.
Điều quan trọng là phải nắm bắt được ý của Đức Thánh Cha, thay vì chỉ chú ý đến những gì ngài nói. Chẳng hạn, khi ca ngợi phụ nữ trong cuộc phỏng vấn này, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng “những người không bao giờ bỏ rơi Chúa Giêsu chính là phụ nữ. Tất cả đàn ông đều bỏ trốn.” Nhiều phụ nữ cũng bỏ trốn. Và không phải “tất cả” những người đàn ông đều bỏ trốn. Thánh Gioan và Thánh Giuse Arimathea thì không.
Cần lưu ý điều đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một số câu trả lời trực tiếp và rõ ràng.
Tiếng Không đầu tiên là về chức Phó tế nữ
Khi được hỏi liệu phụ nữ có thể được phong chức phó tế hay không, Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời đơn giản: “Không”.
Câu trả lời cộc lốc khiến O'Donnell sửng sốt nên cô nhấn mạnh. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rõ điều đó; các phó tế nhận chức thánh, và chức thánh chỉ dành cho nam giới mà thôi. Kết thúc câu chuyện.
Cuộc phỏng vấn của CBS được phát sóng vào Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Cách đây đúng ba mươi năm, Thánh Gioan Phaolô đã ban hành Sắc lệnh, ấn định vào Lễ Hiện Xuống năm 1994. Ngài tuyên bố rằng Giáo hội “không có thẩm quyền nào để truyền chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được tất cả các thành phần của Giáo hội tuân giữ một cách trung thành và chung cuộc.”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhắc lại rằng vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ đã khép lại. Nhưng vẫn có những tiếng nói cho rằng các phó tế thì khác; một phó tế được thụ phong để phục vụ, nhưng không có quyền linh mục. Một giáo dân có thể làm mọi việc mà một phó tế làm nếu được phép đặc biệt. Vì vậy, nếu các phó tế không phải là linh mục, thì có lẽ các chức thánh có thể được phân chia bằng cách nào đó; phụ nữ đủ điều kiện lãnh chức phó tế, nhưng không được làm linh mục hoặc giám mục.
Đó luôn là một lập luận khó khăn, như thể bí tích có thể bị chia rẽ chống lại chính nó, nhưng không thể bác bỏ ngay lập tức. Ví dụ, ở một số Giáo Hội Công Giáo Đông phương, những người đàn ông đã lập gia đình có đủ điều kiện để được thụ phong linh mục, nhưng không được làm giám mục. Liệu điều gì đó tương tự có thể áp dụng cho phụ nữ?
Đức Thánh Cha Phanxicô không những tỏ ra thông cảm mà lại còn khoan dung. Ngài đã thành lập hai ủy ban nghiên cứu về vấn đề này và nó đã được thảo luận trong Thượng Hội Đồng về tính đồng nghị của một Giáo hội đồng nghị.
Bây giờ ngài đã nói rõ ràng “Không”.
Mặc dù không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng nó đã gây thất vọng cay đắng cho những người cho rằng Đức Thánh Cha đang thể hiện sự cởi mở chân thành khi cho phép một cuộc thảo luận mà kết quả đã được ngài quyết định.
Điều không thứ hai: Mang thai hộ
Trả lời câu hỏi về việc mang thai hộ, Đức Thánh Cha Phanxicô nói “theo nghĩa chặt chẽ nhất của thuật ngữ này, Không, nó không được phép. Đôi khi việc mang thai hộ đã trở thành một công việc kinh doanh và điều đó rất tệ. Nó rất tệ.”
Đầu năm nay, ngài gọi việc mang thai hộ là “đáng khinh” và đề xuất một nỗ lực quốc tế nhằm cấm việc này.
Trong cuộc phỏng vấn này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã áp dụng một đường lối tương tự như cách ngài đã sử dụng đối với các nữ phó tế. Ngài nói theo cách tỏ ra thông cảm với việc xem xét việc mang thai hộ, trong khi ngài không có ý định chấp nhận bất kỳ sự thay đổi nào trong giáo huấn về vấn đề đó.
“Tôi muốn nói rằng trong mỗi trường hợp, tình huống cần được xem xét cẩn thận và rõ ràng, tham khảo ý kiến về mặt y tế và sau đó là về mặt đạo đức,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói. “Tôi nghĩ có một quy luật chung trong những trường hợp này, nhưng phải đi sâu vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá tình hình, miễn là không vi phạm nguyên tắc đạo đức. Nhưng bạn đúng. Tôi muốn nói với bạn rằng tôi thực sự thích cách diễn đạt của bạn khi bạn nói với tôi, 'Trong một số trường hợp, đó là cơ hội duy nhất.' Nó cho thấy rằng bạn cảm nhận những điều này rất sâu sắc. Cảm ơn.”
Có một chút khoa trương ở đây. Nếu có một chuẩn mực đạo đức phổ quát cấm việc mang thai hộ - như Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh - thì câu trả lời sẽ giống nhau trong mọi trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, mọi quyết định đạo đức đều được đưa ra trong một trường hợp cụ thể, vì vậy mỗi trường hợp đều cần phải được “xem xét cẩn thận và rõ ràng”.
Mọi quyết định mang tính đạo đức đều cần được cân nhắc kỹ lưỡng và rõ ràng. Nhưng việc xem xét như vậy sẽ không dẫn đến việc mang thai hộ được chấp nhận về mặt đạo đức, cũng như nhiều năm xem xét các nữ phó tế đã không dẫn đến sự đổi mới không được phép đó.
Tiếng Không thứ ba liên quan đến Phước lành cho các cặp đồng giới
O'Donnell đề cập đến sáng kiến quan trọng nhất của Vatican trong năm qua.
Cô ấy nói: “Năm ngoái Đức Thánh Cha đã quyết định cho phép các linh mục Công Giáo ban phước cho các cặp đồng giới. “Đó là một sự thay đổi lớn. Tại sao?”
Mặc dù tài liệu được đề cập có chứa một phần có tựa đề “Phúc lành cho các cặp vợ chồng trong hoàn cảnh bất thường và các cặp đồng tính”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra cái Không thứ ba.
“Không, điều tôi cho phép không phải là chúc lành cho sự kết hợp,” Đức Thánh Cha nói. “Điều đó không thể được thực hiện vì đó không phải là bí tích. Tôi không thể. Chúa đã làm như vậy. Nhưng để ban phước cho mỗi người, Vâng. Phước lành dành cho tất cả mọi người. Cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, việc chúc lành cho một sự kết hợp kiểu đồng tính luyến ái là đi ngược lại luật tự nhiên, đi ngược lại luật của Giáo hội.”
O'Donnell có thể được bào chữa khi nghĩ đến những hướng dẫn về cách chúc phúc cho “các cặp cùng giới tính” cũng như cách chúc phúc cho các cặp dị tính và sự kết hợp của họ. Nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng không phải như vậy.
Tiếng không thứ tư liên quan đến sự Thoái vị
Khi được hỏi về khả năng thoái vị, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng “điều đó chưa bao giờ xảy ra với ngài”. Trước khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI qua đời, Đức Phanxicô thường ca ngợi lòng dũng cảm và khiêm nhường của người tiền nhiệm khi từ chức. Nhưng ngay sau khi Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 qua đời, ngài đã nói rõ rằng ngài coi chức vụ của Phêrô là ad vitam, nghĩa là suốt đời.
Một hàm ý không liên quan đến Tính đồng nghị
Mặc dù tính đồng nghị không được thảo luận trong cuộc phỏng vấn, nhưng câu trả lời của Đức Thánh Cha về các nữ phó tế ngụ ý nói “Không” nhất định đối với tính đồng nghị. Phiên họp tháng 10 đã bỏ phiếu ủng hộ việc thảo luận thêm về vấn đề này, và cách đây vài tháng, chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô thậm chí còn thành lập một nhóm để nghiên cứu vấn đề này một lần nữa. Nhưng việc tham vấn thượng hội đồng sẽ không thành vấn đề.
Phyllis Zagano, một người ủng hộ chức phó tế nữ lâu năm và là thành viên của ủy ban nghiên cứu đầu tiên của Vatican về chủ đề này dưới thời Đức Phanxicô, nói với tạp chí America: “Chắc chắn Đức Thánh Cha Phanxicô không có ý định dừng nghiên cứu trong nhiều thập niên và bỏ qua chủ đề Thánh Thần dẫn dắt sự phân định, là điều mà ngài rất muốn nhấn mạnh như là phương thức hoạt động của Giáo Hội Công Giáo.”
Chắc chắn ngài đã làm như thế. Theo cách tương tự, Đức Thánh Cha Phanxicô chắc chắn đã phớt lờ Thượng Hội Đồng đồng nghị khi ngài cho phép điều mà mọi người cho là phước lành cho các cặp đồng giới. Tính đồng nghị bắt đầu và kết thúc chính xác ở nơi Đức Thánh Cha xác định, đó là tiếng nói “Không” đối với những tầm nhìn về tính đồng nghị vốn tưởng tượng ra một tính đồng nghị nhiều hơn.
Tiếng Có với người di cư… Nhưng không phải tuyệt đối
“Người di cư đôi khi phải chịu đựng rất nhiều. Họ phải chịu đựng rất nhiều”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi trả lời các câu hỏi về biên giới Texas. “Đó là sự điên rồ. Điên rồ tuyệt đối. Đóng cửa biên giới và để họ ở đó, đó là sự điên rồ. Người di cư phải được tiếp nhận. Sau đó bạn sẽ biết bạn sẽ đối phó với người ấy như thế nào. Có lẽ bạn phải gửi người ấy trở lại, tôi không biết, nhưng mỗi trường hợp phải được xem xét trong tình nhân đạo.”
Đức Thánh Cha Phanxicô cho phép mình được hiểu là người ủng hộ việc nhập cư không giới hạn và biên giới rộng mở cho người di cư. Nhưng không phải như thế. Thỉnh thoảng, ngài đưa ra những lời cảnh báo quan trọng: “Có lẽ bạn phải gửi người ấy trở lại.”
Câu trả lời rộng rãi nhất của Đức Thánh Cha được đưa ra trong cuộc họp báo trên không của ngài khi trở về từ Thụy Điển vào năm 2016.
“Về lý thuyết, trái tim không được khép kín với người tị nạn, nhưng những người cai trị cần phải thận trọng. Họ phải rất cởi mở trong việc tiếp nhận những người tị nạn, nhưng họ cũng phải tính toán cách giải quyết tốt nhất cho họ, bởi vì những người tị nạn không chỉ phải được chấp nhận mà còn phải được hòa nhập. Do đó, nếu một quốc gia có khả năng hòa nhập hai mươi người, họ nên làm điều này. Một quốc gia khác có năng lực lớn hơn nên làm nhiều hơn. Nhưng luôn có tấm lòng rộng mở…
Một cái giá chính trị có thể phải trả cho một phán đoán thiếu thận trọng, vì chấp nhận nhiều hơn những gì có thể tích hợp được. Điều nguy hiểm là gì khi những người tị nạn hoặc di cư - và điều này áp dụng cho tất cả mọi người - không được hòa nhập? Họ trở thành một khu ổ chuột. Một nền văn hóa không phát triển trong mối quan hệ với nền văn hóa khác thì điều này thật nguy hiểm”.
Đức Thánh Cha thường xuyên cảnh báo việc nhập cư vượt quá khả năng hội nhập. Ngài đã nói điều đó trước đây và nhận xét “có thể gửi người ấy trở lại” phù hợp với những tuyên bố đó.
Phần lớn những gì Đức Thánh Cha Phanxicô nói với O'Donnell không phải là mới, nhưng cuộc phỏng vấn vẫn có giá trị đưa tin. Trong khi có những lời lẽ gay gắt thông thường khi Đức Thánh Cha gọi những người bảo thủ là “tự sát” trong cuộc phỏng vấn này - thì những người ủng hộ các nữ phó tế và đồng nghị đã được nghe một tiếng “Không” kiên quyết.
Source:National Catholic Register
2. Cuộc đời của một Linh mục mù, cha José Humberto
Cha José Humberto Negrete Lezo chia sẻ với trang Aleteia những kinh nghiệm của cha, một linh mục mù, về việc mất thị lực đã ảnh hưởng đến cuộc đời và mục vụ của cha như thế nào.
Trong năm giác quan, thị giác nói chung được con người đánh giá cao nhất vì nó cho phép chúng ta thưởng thức vẻ đẹp của công cuộc sáng tạo của Chúa và các công trình do con người làm nên.
Bảy năm không thấy mặt trời
Cha Humberto, người gốc Irapuato, bang Guanajuato, Mexico, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1968. Ngài thụ phong linh mục ngày 27 tháng 7 năm 1996. Cách đây vài năm, ngài mắc chứng bệnh tiểu đường. Do biến chứng, tình trạng cơn bệnh trở nên tồi tệ hơn, đến mức làm hư võng mạc và khiến ngài mất thị lực hoàn toàn. Cha nói: “Tôi đã mất thị lực trong 9 năm và trong 7 năm qua, tôi không còn nhìn thấy gì nữa.
Tuy nhiên, kinh nghiệm sống đã khiến cha tập trung nhiều hơn vào khía cạnh tinh thần. “Cái mù, nó khiến tôi nhạy cảm hơn với những người đau khổ, những người bệnh tật, những người đến với tôi để được lắng nghe họ tâm sự, những người xin tôi dành một chút thời gian cho họ. Thời gian của tôi là dành cho họ,” cha nói, bởi vì trong giới hạn của tôi, tôi đang tiến về phía trước.
Một sự mất mát đầy khó khăn
Vị linh mục thú nhận rằng lúc đầu việc mất thị lực là điều rất khó khăn đối với ngài. Cha giận dữ và không muốn chấp nhận theo ý Chúa. “Thời gian đã giúp tôi bình lặng lại, trấn an tôi, từng ngày từng phút”. Cha chia sẻ rằng cha đã vượt qua được cái thái độ bất chấp của con người trước đau khổ! Thật vậy chúng ta không thể thoát ra được nếu chúng ta không tìm ra ý nghĩa thiêng liêng của nó”.
Cha cho hay theo quan điểm con người, cuộc sống của cha ấy đã mất đi ý nghĩa “bởi vì cha đã trở nên cô đơn cô thế. Đôi khi cha cảm thấy bị các anh em linh mục của mình phân biệt đối xử, nhưng nhìn từ một góc độ thần học, thiêng liêng thì đây là một điều có lợi”, cha ấy nói với niềm tin vững vàng: “Tôi đã giành được nhiều linh hồn cho Chúa mà không cần thị giác.”
Cha José cử hành thánh lễ như thế nào?
Mặc dù bị khiếm thị, cha vẫn phụ trách một giáo xứ và không bị cản trở về việc cử hành Thánh lễ. Cha có một người phụ tá đứng cạnh trong Thánh lễ để đọc Sách cho cha, và cha lặp lại... Ngoài ra, nhóm phụng vụ còn đọc Tin Mừng và cha giảng lễ. Dù có những thừa tác viên giúp đỡ cha, cha vẫn cho rước lễ. Cha mỉm cười chia sẻ: “Khuyết tật của tôi là thị giác, chứ không phải vận động,”
Trước nỗi đau, giọt lệ xót thương và mừng vui
Cha Umberto hiểu rằng nhiều người cũng trải qua nỗi đau giống cha, từ việc “quan sát màu sắc, con người, cuộc sống hàng ngày và đột nhiên không cón nhìn thấy gì cả,” cha giải thích. Ngài hy vọng rằng họ sẽ được khích lệ khi có được một linh mục chia sẻ và hiểu được những trải nghiệm của họ.
Cha ấy kết luận “đó là một tình huống rất khó khăn. Trải nghiệm nỗi đau của tha nhân. Có những giọt lệ khóc thương cho đôi mắt của cha, cho sự mất đi thị lực của cha, như thể cha đã mất đi một người bạn hay một người thân yêu. Nhưng sau đó hãy phó thác mình cho Chúa. Không có Chúa, người khuyết tật không thể tiến tới được”.
3. Cuộc khẩu chiến giữa Israel và Vatican về Gaza đang nóng lên
Một tiểu luận ngày 8 tháng 5 được đăng trên tờ Quan Sát Viên Rôma, tờ báo của Vatican, và trên trang Vatican News, được viết bởi Linh mục Dòng Tên David Neuhaus, người hiện đang là giáo sư tại Giáo hoàng Học viện Kinh thánh ở Giêrusalem và là thành viên của Ủy ban Công lý và Hòa bình cho các Bản quyền Công Giáo của Thánh địa.
Sinh ra ở Nam Phi trong một gia đình người Đức gốc Do Thái, Neuhaus chuyển đến Israel năm 15 tuổi và chuyển sang đạo Công Giáo ở tuổi 26. Cha là người gắn bó lâu năm trong các mối quan hệ Do Thái-Công Giáo, và từng là cha sở giáo xứ cho những người Công Giáo nói tiếng Do Thái ở Israel từ năm 2009 đến năm 2017.
Trong bài viết dài 2,500 chữ ngày 8 tháng 5 của mình, lập luận trọng tâm của Cha Neuhaus là chủ nghĩa bài Do Thái đã trở thành căn bệnh ung thư không chỉ đối với người Do Thái mà còn, theo một nghĩa nào đó, đối với người Palestine, ở chỗ chính di sản Holocaust đã tạo ra động lực hướng tới thành lập một nhà nước Do Thái ở Trung Đông và tạo tiền đề cho điều mà người Ả Rập gọi là Nakbah, hay “thảm họa”, đề cập đến việc buộc người Palestine phải di dời trong cuộc chiến năm 1948.
Dọc theo con đường đó, Cha Neuhaus lập luận rằng Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, nghĩa là động lực thành lập một nhà nước Do Thái, bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân Âu Châu thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đồng thời nhấn mạnh rằng việc chỉ trích Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái không nhất thiết tương đương với chủ nghĩa bài Do Thái. Ngài cũng lập luận rằng những người phản đối chủ nghĩa bài Do Thái và những người ủng hộ quyền của người Palestine nên là đồng minh trong việc tìm kiếm một xã hội ở Trung Đông “dựa trên công lý, hòa bình, tự do và bình đẳng”.
Sau tiểu luận ngày 8 tháng 5 đó, Đại sứ Israel tại Tòa thánh Raphael Schutz đã tiếp cận tờ Quan Sát Viên Rôma với yêu cầu gửi phản hồi để công bố. Tờ báo ban đầu đồng ý, nhưng sau đó đã hủy bỏ lời đề nghị vì vậy Schutz đã cung cấp nội dung trả lời của mình cho tờ báo Ý Il Messaggero, và sau đó là cho Crux.
Những phản bác chính của Schutz bao gồm những điều sau đây.
Ông nhấn mạnh, chủ nghĩa phục quốc Do Thái không liên quan gì đến chủ nghĩa thực dân: “Chủ nghĩa thực dân là khi một đế chế xâm lược một lãnh thổ xa xôi để khai thác tài nguyên của nó. Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái nói về một thiểu số bị đàn áp cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải có một nơi nào đó dưới ánh mặt trời để họ có thể tự do, độc lập và được bảo vệ khỏi bị đàn áp.”
Ông lập luận rằng Nakbah không phải là hậu quả của Holocaust, mà là “sự thiển cận và các chính sách hiếu chiến” của người Ả Rập, bao gồm cả việc bác bỏ kế hoạch phân chia năm 1947 của Liên Hiệp Quốc và khởi động cuộc chiến năm 1948. Nói rộng hơn, ông tuyên bố rằng Cha Neuhaus chỉ coi người Palestine như nạn nhân, miễn cho họ mọi trách nhiệm về hoàn cảnh của chính họ.
Căn bản nhất, Schutz cáo buộc Cha Neuhaus thực tế đã áp dụng một câu chuyện của người Palestine về cuộc xung đột ở Trung Đông - coi người Do Thái như một sự hiện diện của nước ngoài, thay vì là một dân tộc bản địa có yêu sách chính đáng đối với vùng đất mà họ chiếm giữ: “Từ đầu cuộc xung đột cho đến ngày nay,” Schutz viết, “người Palestine chưa bao giờ công nhận một cách chân chính sự kiện này là cuộc xung đột là giữa hai phong trào dân tộc tìm kiếm quyền tự quyết trên cùng một lãnh thổ.”
Cuối cùng, Schutz đổ lỗi cho Cha Neuhaus vì đã không đề cập đến các cuộc tấn công của Hamas ngày 7 tháng 10, nói rằng sự thiếu sót đó tố cáo “một kiểu mù quáng đặc biệt về đạo đức và thiếu liêm chính” và gián tiếp góp phần vào sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Do Thái bằng cách đặt câu hỏi về quyền hiện hữu của một nhà nước Do Thái.
Trong khi cuộc xung đột đó vẫn đang âm ỉ, Vatican đã tổ chức “Hội nghị Thế giới về Tình huynh đệ Nhân loại” vào ngày 10 tháng 5, quy tụ khoảng 30 người từng đoạt giải Nobel Hòa bình dưới sự bảo trợ của tổ chức Fratelli Tutti lấy cảm hứng từ thông điệp năm 2020 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Một trong những diễn giả là Tawakkol Karman, một nhà báo người Yemen đã đoạt giải năm 2011 nhờ đưa tin về Mùa xuân Ả Rập. Cô đã sử dụng diễn đàn Vatican để giải quyết vấn đề xung đột ở Gaza, cáo buộc Israel “thảm sát thanh lọc sắc tộc và diệt chủng”. Karman cũng đăng bản tóm tắt những gì cô nói tại biến cố ở Vatican, cả trước và sau, trên các trương mục mạng xã hội của mình.
Ngay sau đó, đại sứ quán Israel đã đưa ra tuyên bố bày tỏ “sốc và phẫn nộ”, gọi nhận xét của Karman là “một bài phát biểu tuyên truyền đầy dối trá”. Trong số các điểm khác, tuyên bố cho biết việc cáo buộc Israel thanh lọc sắc tộc khi hàng ngày nước này cho phép một lượng lớn viện trợ nhân đạo vào Dải Gaza là “theo kiểu Orwellian”.
Gợi ý rõ ràng là ai đó ở Vatican lẽ ra phải ngăn cản các diễn giả khai thác sự kiện này để ghi điểm chính trị, hoặc ít nhất sau đó nên tránh xa. Thực thế, không có sự làm rõ nào như vậy được đưa ra.
Mặc dù không ai nói thẳng điều đó, nhưng có vẻ hợp lý khi nghi ngờ rằng tranh cãi do vụ Karman gây ra có thể đã đóng một vai trò nào đó trong quyết định của tờ Quan Sát Viên Rôma không công bố phản hồi của Schutz đối với tiểu luận Neuhaus ngày 8 tháng 5.
Tình tiết đó vừa mới được trình bầy thì một bài báo khác của Cha Neuhaus được công bố bởi một hãng tin liên kết với Vatican, trong trường hợp này là tạp chí Văn Minh Công Giáo do Dòng Tên biên tập, được Phủ Quôc vụ khanh xem xét trước khi xuất bản.
Một lần nữa, đây là một bài phân tích dài và phức tạp, dài tới hơn 4,000 từ bằng tiếng Ý. Trong đó, Cha Neuhaus cố gắng tóm lược cuộc đối thoại giữa người Do Thái và Công Giáo trong bối cảnh cuộc chiến ở Gaza, liệt kê những bất đồng khác nhau đã nảy sinh.
Cha Neuhaus nói rằng, nói chung, ngày nay đang hiện hữu một “cuộc khủng hoảng” trong mối quan hệ giữa người Do Thái và Kitô giáo. Ngài xác định tâm điểm của cuộc khủng hoảng này là do người Do Thái khăng khăng đòi chủ quyền tôn giáo và tâm linh đối với vùng đất Israel, dựa trên Kinh thánh. Cha Neuhaus nói rằng trong khi người Công Giáo phải lắng nghe một cách chăm chú và tôn trọng những yêu sách đó, Giáo hội cũng không thể quên rằng có một dân tộc khác hiện diện trên cùng lãnh thổ và có những yêu cầu công lý chính đáng của riêng họ.