Chiều kích cánh chung của lời Thiên Chúa
Trong tất cả các điều trên, Giáo Hội phát biểu rõ ý thức của mình rằng với Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội đứng trước lời dứt khoát của Thiên Chúa: Người là “trước hết và sau hết” (Kh 1:17). Người đã ban cho sáng thế và lịch sử ý nghĩa dứt khoát của chúng; và do đó, ta được mời gọi sống trong thời gian và trong sáng thế của Thiên Chúa theo nhịp điệu cánh chung của lời; “Do đó giáo qui Kitô Giáo, vì là giao ước mới và dứt khoát, sẽ không bao giờ qua đi; và trước cuộc xuất hiện vinh quang của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sẽ không có một mạc khải công khai mới nào khác” (xem 1 Tm 6:14 và Tt 2:13) (41). Thực vậy, như các Nghị Phụ từng ghi nhận tại Thượng Hội Đồng, “sự độc đáo của Kitô Giáo được biểu lộ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô, vốn là đỉnh cao của mạc khải, là sự viên mãn của các lời Chúa hứa và là Đấng Trung Gian của cuộc gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Người, Đấng ‘mạc khải Thiên Chúa’ (Ga 1:18), chính là lời duy nhất và dứt khoát được ban cho nhân loại” (42). Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả chân lý ấy một cách tuyệt vời: “Vì Người đã ban cho ta Con của Người, lời duy nhất của Người, nên Người đã một lần nói hết mọi sự trong một lời duy nhất này, và Người không còn gì khác để nói nữa… vì những gì Người nói trước đây từng phần cho các tiên tri, thì nay Người nói một lần tất cả bằng cách ban cho ta cái Tất Cả ấy là chính Con của Người. Bất cứ ai tra vấn Chúa hay muốn được thị kiến hay mạc khải nào đó nữa đều có tội không những vì hành xử điên rồ mà còn vì đã xúc phạm đến Người, không chịu chăm nhìn một mình Chúa Kitô, mà lại sống với lòng thèm thuồng muốn điều mới lạ” (43).
Thành thử, Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới nhu cầu “giúp đỡ các tín hữu phân biệt được lời Chúa với các mạc khải tư” (44) là các mạc khải có vai trò “không phải là ‘hoàn tất’ mạc khải dứt khoát của Chúa Kitô, mà là giúp người ta sống mạc khải ấy cách đầy đủ hơn trong một giai đoạn nào đó của lịch sử” (45). Giá trị của các mạc khải tư, xét theo yếu tính, khác với giá trị của mạc khải công có tính duy nhất: mạc khải duy nhất này đòi có đức tin; trong mạc khải này, chính Thiên Chúa nói với ta qua ngôn ngữ con người và nhờ sự trung gian của cộng đồng sống động là Giáo Hội. Tiêu chuẩn để phán đoán sự thật của mạc khải tư là hướng nhắm của nó về chính Chúa Kitô. Nếu mạc khải tư làm ta quay mặt khỏi Người, thì chắc chắn nó không phát sinh từ Chúa Thánh Thần, Đấng luôn dẫn ta đi vào Tin Mừng sâu hơn, chứ không ra xa khỏi nó. Mạc khải tư là một trợ giúp cho đức tin. Tính khả tín của nó chỉ có khi nó tái qui chiếu vào mạc khải công duy nhất. Việc Giáo Hội phê chuẩn một mạc khải tư chủ yếu có nghĩa: sứ điệp của nó không chứa một điều gì đi ngược lại đức tin và luân lý; người ta được phép công khai hóa nó và các tín hữu được phép gắn bó với nó một cách khôn ngoan. Một mạc khải tư có thể giới thiệu những nhấn mạnh mới, tạo ra các hình thức đạo đức mới, hay thâm hậu hóa các hình thức cũ. Nó có thể có một đặc điểm tiên tri nào đó (xem 1 Tx 5:19-21) và có thể là một trợ giúp có giá trị giúp ta hiểu và sống Tin Mừng tốt hơn trong một giai đoạn nào đó; do đó, không nên xử lý với nó một cách coi thường. Nó là một trợ giúp được đề nghị ra, chứ không có tính bắt buộc. Dù sao, nó nên được coi như vấn đề nuôi dưỡng đức tin, đức cậy, đức mến vốn là con đường thường hằng của cứu rỗi dành cho mọi người (46).
Lời Chúa và Chúa Thánh Thần
Sau khi suy niệm về lời sau cùng và dứt khoát của Thiên Chúa phán với thế giới, giờ đây ta cần nhắc tới sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong tương quan với lời Thiên Chúa. Thực vậy, nếu không có hoạt động của Đấng Bào Chữa (Paraclete), sẽ không có sự hiểu biết chân chính về mạc khải Kitô Giáo. Sở dĩ như thế vì việc Thiên Chúa tự thông đạt chính mình luôn bao gồm mối liên hệ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Hai Ngôi mà Thánh Irênê Thành Lyon gọi là “hai cánh tay của Chúa Cha” (47). Chính Thánh Kinh cũng nói tới sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Người được chịu thai trong lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (xem Mt 1:18; Lc 1:35); lúc khởi đầu sứ vụ công khai của mình, bên bờ sông Giođăng, Người thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên đầu Người dưới hình chim bồ câu (xem Mt 3:16); trong cùng một Thần Khí này, Chúa Giêsu đã hành động, nói năng và hân hoan (xem Lc 10:21); cũng trong Chúa Thánh Thần, Người tự hiến mình (xem Dt 9:14). Theo trình thuật của Thánh Gioan, khi sứ vụ của Người sắp kết thúc, Chúa Giêsu đã minh nhiên liên kết việc Người tự hiến mạng sống mình với việc phái Chúa Thánh Thần xuống trên những kẻ thuộc về Người (Xem Ga 16:7). Chúa Giêsu phục sinh, vẫn mang trong thân xác các dấu vết khổ nạn, đã tuôn đổ Chúa Thánh Thần (xem Ga 20:22), giúp các môn đệ trở thành những người chia sẻ sứ mệnh riêng của mình (xem Ga 20:21). Chúa Thánh Thần có sứ mệnh dạy các môn đệ mọi sự và làm cho các ngài nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu từng nói (xem Ga 14:26), vì Chúa Thánh Thần, Thần Khí Sự Thật (xem Ga 20:21) sẽ dẫn các môn đệ vào mọi chân lý (xem Ga 16:13). Sau cùng, trong Tông Đồ Công Vụ, ta đọc thấy: Chúa Thánh Thần hiện xuống trên nhóm Mười Hai, lúc ấy, đang tụ họp cầu nguyện với Đức Mẹ vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem 2:1-4) và thúc đẩy họ tiếp nhận sứ mệnh công bố Tin Mừng cho mọi dân tộc (48).
Như thế, lời Chúa được phát biểu bằng lời con người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Sứ mệnh của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần không thể tách biệt được và đã tạo ra một nhiệm cục cứu rỗi duy nhất. Cũng một Chúa Thánh Thần từng hành động trong việc nhập thể của Ngôi Lời trong lòng Trinh Nữ Maria cũng là Thần Khí dẫn Chúa Giêsu trong suốt sứ vụ và được hứa ban cho các môn đệ của Người. Cũng một Chúa Thánh Thần từng nói qua các tiên tri đang nâng đỡ và linh hứng cho Giáo Hội trong nhiệm vụ công bố lời Chúa; sau cùng, cũng chính Thần Khí này linh hứng cho các tác giả Sách Thánh.
Ý thức được chiều kích thần khí này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã làm nổi bật tầm quan trọng của hoạt động Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu liên quan tới Sách Thánh (49): không có hành động hữu hiệu của “Thánh Thần Chân lý” (Ga 14:16), ta không thể hiểu được lời Chúa. Như Thánh Irênê từng nói: “Những ai không chia sẻ Chúa Thánh Thần sẽ không hút được thực phẩm nuôi sống từ lòng mẹ [Giáo Hội]; họ sẽ không tiếp nhận được gì từ nguồn suối trong lành nhất từ thân thể Chúa Kitô trào ra” (50). Như lời Chúa đã đến với ta từ thân thể Chúa Kitô, từ thân xác Thánh Thể của Người và từ thân thể Sách Thánh, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần thế nào, thì nó cũng chỉ có thể được tiếp nhận và hiểu biết thực sự nhờ cùng một Chúa Thánh Thần như thế.
Các tác giả vĩ đại trong truyền thống Kitô Giáo đều đồng loạt nói về vị trí của Chúa Thánh Thần trong tương quan của tín hữu với Sách Thánh. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Sách Thánh “cần sự mạc khải của Chúa Thánh Thần, để nhờ khám phá ra ý nghĩa đích thực của sự việc trong đó, ta có thể gặt hái được các lợi ích dồi dào” (51). Thánh Giêrôm cũng xác tín rằng “chúng ta không thể hiểu được Sách Thánh nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng nó” (52). Thánh Grêgôriô Cả nhấn mạnh một cách đẹp đẽ công trình của Chúa Thánh Thần trong việc soạn thảo và giải thích Sách Thánh: “Chính Người đã sáng tạo ra ngôn từ của Sách Thánh, chính Người mạc khải ý nghĩa của chúng” (53). Richard của (đan viện) Saint Victor nhấn mạnh rằng ta cần “đôi mắt bồ câu”, nghĩa là đôi mắt được Chúa Thánh Thần soi dẫn và dạy bảo, để có thể hiểu được bản văn Sách Thánh (54).
Cả ở đây nữa, tôi cũng muốn nhấn mạnh tới chứng tá hết sức có ý nghĩa đối với mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và Sách Thánh mà ta thấy trong các bản văn phụng vụ, trong đó, lời Chúa được công bố, được nghe và được giải thích cho tín hữu. Ta thấy một chứng tá cho việc ấy trong các kinh nguyện cổ xưa, những kinh nguyện, dưới hình thức kinh epiclesis, tức kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần trước khi công bố các bài đọc: “Lạy Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng con… chúng con khẩn cầu Chúa cho dân này: xin Chúa sai Chúa Thánh Thần xuống trên họ; Xin Chúa Giêsu đến viếng thăm họ, nói với tâm trí mọi người, định hướng lòng họ về đức tin và dẫn đưa linh hồn chúng con về với Chúa, lạy Chúa mọi xót thương” (55). Điều ấy cho thấy rõ ta không thể hiểu được ý nghĩa lời Chúa ngoại trừ mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần hành động trong Giáo Hội và trong tâm hồn tín hữu.
Thánh Truyền và Thánh Kinh
Khi tái khẳng định mối liên kết sâu xa giữa Chúa Thánh Thần và lời Chúa, ta cũng đặt căn bản cho việc hiểu tầm quan trọng và giá trị quyết định của Thánh Truyền sống động và của Sách Thánh trong Giáo Hội. Thực vậy, vì Thiên Chúa “yêu thương thế giới đến độ ban Con Một của Người cho họ” (Ga 3:16), nên lời Chúa, lên tiếng trong thời gian, đã được ban cho và “được ủy thác” cho Giáo Hội một cách dứt khoát, để việc công bố ơn cứu độ có thể được thông truyền một cách hữu hiệu ở mọi thời và mọi nơi. Như Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã nhắc nhở, chính Chúa Giêsu Kitô “đã truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng, một Tin Mừng vốn được các tiên tri loan báo trước, được nên trọn trong chính con người của Người và được chính môi miệng Người công bố, cho mọi người như nguồn mọi sự thật và lề luật cứu rỗi, vốn thông truyền ơn phúc của Chúa cho họ. Lệnh truyền đó đã được thi hành một cách trung thành; nó được thực thi bởi các Tông Đồ, những người đã truyền lại bằng lời rao giảng, bằng gương sáng, bằng các huấn lệnh, mà chính các ngài đã tiếp nhận, hoặc từ chính môi miệng Chúa Kitô, từ lối sống và công việc Người làm, hay từ việc các ngài nhận ra nó nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần; nó được thực thi bởi các Tông Đồ và nhiều người khác có quan hệ với các ngài, những người nhờ được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nhất quyết viết sứ điệp cứu độ thành văn” (56).
Công Đồng Vatican II cũng tuyên bố rằng Thánh Truyền có nguồn gốc tông đồ này là một thực tại sống động và đầy năng động: nó “thực hiện nhiều tiến bộ trong Giáo Hội, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần”; nhưng không theo nghĩa thay đổi sự thật có trong nó, một sự thật trường cửu. Đúng hơn, “đó là việc gia tăng sự hiểu biết thông sáng đối với các thực tại và ngôn từ được chuyển giao”, chờ chiêm niệm và học hỏi, với sự hiểu biết có được từ một kinh nghiệm linh đạo sâu sắc hơn và từ “lời rao giảng của những người, nhờ kế nhiệm chức giám mục, đã lãnh nhận được đặc sủng chân lý chắc chắn” (57).
Truyền Thống sống động là điều chủ yếu giúp Giáo Hội tăng trưởng qua thời gian trong việc hiểu chân lý mạc khải của Thánh Kinh; thực vậy, “nhờ cùng một truyền thống này, trọn bộ qui điển các Sách Thánh đã được Giáo Hội biết đến và chính Thánh Kinh cũng được hiểu cách thấu đáo hơn và không ngừng trở thành hữu hiệu trong Giáo Hội” (58). Cuối cùng, chính Truyền Thống sống động của Giáo Hội đã giúp chúng ta hiểu một cách thoả đáng Thánh Kinh chính là lời của Thiên Chúa. Mặc dù lời Thiên Chúa đi trước và vượt quá Sách Thánh, nhưng Sách Thánh này, vì được Thiên Chúa linh hứng, quả chứa đựng lời Thiên Chúa (xem 2 Tm 3:16) “một cách hết sức độc đáo” (59).
Như thế, ta thấy rõ quan trọng biết bao việc Dân Chúa được giảng dạy và huấn luyện để tiếp cận với các Sách Thánh trong liên hệ với Truyền Thống sống động của Giáo Hội và nhận ra trong các sách ấy chính lời của Thiên Chúa. Cổ vũ cách tiếp cận như thế nơi tín hữu là điều rất quan trọng xét theo quan điểm đời sống thiêng liêng. Ở đây, tưởng rất hữu ích khi nhắc lại sự loại suy mà các Giáo Phụ vốn đưa ra giữa lời Chúa đã thành xác phàm và lời đã thành “sách” (60). Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” tiếp nhận truyền thống cổ kính này, một truyền thống, như thánh Ambrôsiô (61), vốn cho rằng: “Thân thể Chúa Con chính là Sách Thánh ta đã tiếp nhận” và sau đó tuyên bố rằng “Lời Chúa, phát biểu bằng ngôn ngữ con người, giống ngôn ngữ con người mọi cách, y hệt như lời của Chúa Cha muôn thuở, khi mặc lấy thân xác yếu đuối của con người nhân bản, đã trở nên giống như họ” (62). Hiểu cách đó, Sách Thánh xuất hiện với ta như một thực tại đơn nhất, dù dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Thực vậy, “Qua mọi lời của Sách Thánh, Thiên Chúa chỉ nói một lời duy nhất, do chính Người phán ra, trong đó, Người tự phát biểu về mình một cách trọn vẹn (xem Dt 1:1-3)” (63). Thánh Augustinô đã minh xác về điều này như sau: “Hãy nhớ rằng Thiên Chúa chỉ nói một lời; lời ấy đã diễn biến trong toàn bộ Thánh Kinh, và lời duy nhất đó đã vang dội trên môi miệng mọi tác giả thánh” (64).
Nói tóm lại, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng dẫn của huấn quyền, Giáo Hội đã chuyển giao cho mọi thế hệ tất cả những điều đã được mạc khải trong Chúa Kitô. Giáo Hội sống trong sự chắc chắn rằng Chúa của mình, Đấng đã nói trong quá khứ, ngày nay vẫn tiếp tục thông đạt lời Người trong Truyền Thống sống động của mình và trong Sách Thánh. Thực vậy, lời Chúa được ban cho ta trong Sách Thánh như chứng tá linh hứng của mạc khải; cùng với Truyền Thống sống động của Giáo Hội, nó cấu thành qui luật tối cao của đức tin (65).
Sách Thánh, sự linh hứng và sự thật
Một ý niệm chủ chốt để hiểu bản văn thánh như chính lời Chúa trong ngôn ngữ con người chắc chắn là ý niệm linh hứng. Ở đây nữa, ta cũng có thể gợi ra một loại suy: như lời Thiên Chúa đã trở thành xác phàm bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong lòng Trinh Nữ Maria thế nào, thì Sách Thánh cũng sinh ra từ lòng Giáo Hội nhờ quyền năng của cùng một Chúa Thánh Thần như vậy. Sách Thánh là “lời Chúa được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần” (66). Do cách này, người ta nhận ra tầm quan trọng trọn vẹn của tác giả nhân bản, người đã viết ra bản văn linh hứng, và nhận ra chính Thiên Chúa mới là tác giả thật sự.
Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã quả quyết, chủ đề linh hứng rõ ràng có tính quyết định cho một lối tiếp cận thoả đáng đối với Sách Thánh và việc giải thích chúng cách đúng đắn (67), một việc phải được thực hiện trong cùng một Chúa Thánh Thần mà trong Người các bản văn thánh kia đã được viết ra (68).
Bất cứ khi nào ý thức về sự linh hứng kia yếu đi, ta sẽ liều mình đọc Sách Thánh như một đồ hiếm họa có tính lịch sử, chứ không phải là công trình của Chúa Thánh Thần trong đó, ta nghe chính Chúa nói và nhận ra sự hiện diện của Người trong lịch sử.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng nhấn mạnh tới mối liên kết giữa chủ đề linh hứng và chủ đề sự thật của Sách Thánh (69). Một nghiên cứu sâu hơn về diễn trình linh hứng chắc chắn sẽ dẫn tới một hiểu biết lớn hơn về sự thật chứa đựng trong các Sách Thánh. Như giáo huấn của Công Đồng vốn nói về phương diện này, các sách linh hứng dạy ta sự thật: “Cho nên, vì mọi sự được các tác giả linh hứng, hay các nhà truớc tác thánh, quả quyết phải được coi như chính Chúa Thánh Thần quả quyết, nên ta phải nhìn nhận rằng các sách của bộ Thánh Kinh đã dạy một cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm sự thật mà Thiên Chúa, vì để cứu vớt ta, đã muốn thấy nó được giao phó cho Sách Thánh. Do đó, ‘mọi sách thánh đều được Thiên Chúa linh hứng và hữu ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy và huấn luyện về đàng chính trực, hầu người của Chúa nên thập toàn, được trang bị đầy đủ để làm việc lành” (2Tm 3:16-17, bản Hy Lạp) (70).
Chắc chắn, suy tư thần học luôn coi sự linh hứng và sự thật như hai ý niệm chủ chốt đối với khoa chú giải Thánh Kinh trong Giáo Hội. Tuy thế, người ta phải nhìn nhận nhu cầu ngày nay muốn học hỏi một cách trọn vẹn và thoả đáng hơn các thực tại này, ngõ hầu đáp ứng tốt hơn nhu cầu giải thích các bản văn thánh theo bản chất của chúng. Ở đây, tôi tha thiết hy vọng rằng việc tìm tòi trong phạm vi này sẽ có tiến bộ và đem lại thành quả cho cả ngành khoa học Thánh Kinh lẫn đời sống thiêng liêng của tín hữu.
Thiên Chúa Ngôi Cha, suối và nguồn của lời
Nhiệm cục mạc khải có khởi nguyên và nguồn gốc nơi Thiên Chúa Ngôi Cha. Qua lời Người “một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:6). Chính Người đã ban cho ta “ánh sáng để hiểu biết vinh quang Thiên Chúa nơi khuôn mặt Chúa Kitô” (2 Cor 4:6; xem Mt 16:17; Lc 9:29).
Nơi Chúa Con, “Lời thành xác phàm” (xem Ga 1:14), Đấng đến để thực hiện ý Đấng đã sai mình đến (xem Ga 4:34), Thiên Chúa, suối nguồn mọi mạc khải, đã tự tỏ mình ra như Chúa Cha và hoàn tất khoa sư phạm thần linh từng được chuyển tải qua lời các tiên tri và các công trình kỳ diệu thể hiện trong sáng thế và trong lịch sử của dân Người và của toàn thể nhân loại. Việc mạc khải của Thiên Chúa Ngôi Cha đạt tới đỉnh cao ở sự kiện Chúa Con ban Đấng Bào Chữa (xem Ga 14:16), tức Thánh Thần của Chúa Cha và Chúa Con, Đấng dẫn ta “vào mọi sự thật” (Ga 16:13).
Mọi lời Thiên Chúa hứa đều tìm thấy chữ “đúng” (yes) của chúng nơi Chúa Giêsu Kitô (xem 2 Cor 1:20). Như thế, mọi người chúng ta được ban cho khả năng lên đường về với Chúa Cha (xem Ga 14:6), ngõ hầu, kết cục, “Thiên Chúa là mọi sự cho mọi người” (1 Cor 15: 28).
Như thập giá Chúa Kitô Đã chứng tỏ, Thiên Chúa cũng nói trong sự im lặng của Người. Sự im lặng này, tức cảm nghiệm về khoảng cách với Chúa Cha toàn năng, là giai đoạn quyết định trong hành trình dương thế của Thiên Chúa Ngôi Con, của Ngôi Lời nhập thể. Bị treo trên cây thập giá, Người than vãn về sự đau khổ do sự im lặng kia tạo ra: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?” (Mc 15:34; Mt 27:46). Tiến tới vâng lời cho tới hơi thở cuối cùng, trong cõi âm u của sự chết, Chúa Giêsu đã kêu tới Chúa Cha. Nhưng rồi, Người phó mình cho Chúa Cha ở ngay thời khắc vượt qua này, từ cái chết vượt qua sự sống đời đời: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Cảm nghiệm trên của Chúa Giêsu phản ảnh hoàn cảnh của tất cả những ai, sau khi nghe và nhìn nhận lời Chúa, cũng phải giáp mặt với sự im lặng của Thiên Chúa. Đó vốn là cảm nghiệm của muôn vàn thánh nhân và nhà huyền nhiệm, và cả nay nữa nó vẫn là một phần trong cuộc hành trình của nhiều tín hữu. Sự im lặng của Thiên Chúa nối dài những lời trước đó của Người. Trong những giờ phút đen tối ấy, Người nói bằng mầu nhiệm im lặng của Người. Bởi thế, trong cái năng động của mạc khải Kitô Giáo, im lặng xuất hiện như một biểu thức quan trọng của lời Thiên Chúa.
Trong tất cả các điều trên, Giáo Hội phát biểu rõ ý thức của mình rằng với Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội đứng trước lời dứt khoát của Thiên Chúa: Người là “trước hết và sau hết” (Kh 1:17). Người đã ban cho sáng thế và lịch sử ý nghĩa dứt khoát của chúng; và do đó, ta được mời gọi sống trong thời gian và trong sáng thế của Thiên Chúa theo nhịp điệu cánh chung của lời; “Do đó giáo qui Kitô Giáo, vì là giao ước mới và dứt khoát, sẽ không bao giờ qua đi; và trước cuộc xuất hiện vinh quang của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sẽ không có một mạc khải công khai mới nào khác” (xem 1 Tm 6:14 và Tt 2:13) (41). Thực vậy, như các Nghị Phụ từng ghi nhận tại Thượng Hội Đồng, “sự độc đáo của Kitô Giáo được biểu lộ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô, vốn là đỉnh cao của mạc khải, là sự viên mãn của các lời Chúa hứa và là Đấng Trung Gian của cuộc gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Người, Đấng ‘mạc khải Thiên Chúa’ (Ga 1:18), chính là lời duy nhất và dứt khoát được ban cho nhân loại” (42). Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả chân lý ấy một cách tuyệt vời: “Vì Người đã ban cho ta Con của Người, lời duy nhất của Người, nên Người đã một lần nói hết mọi sự trong một lời duy nhất này, và Người không còn gì khác để nói nữa… vì những gì Người nói trước đây từng phần cho các tiên tri, thì nay Người nói một lần tất cả bằng cách ban cho ta cái Tất Cả ấy là chính Con của Người. Bất cứ ai tra vấn Chúa hay muốn được thị kiến hay mạc khải nào đó nữa đều có tội không những vì hành xử điên rồ mà còn vì đã xúc phạm đến Người, không chịu chăm nhìn một mình Chúa Kitô, mà lại sống với lòng thèm thuồng muốn điều mới lạ” (43).
Thành thử, Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới nhu cầu “giúp đỡ các tín hữu phân biệt được lời Chúa với các mạc khải tư” (44) là các mạc khải có vai trò “không phải là ‘hoàn tất’ mạc khải dứt khoát của Chúa Kitô, mà là giúp người ta sống mạc khải ấy cách đầy đủ hơn trong một giai đoạn nào đó của lịch sử” (45). Giá trị của các mạc khải tư, xét theo yếu tính, khác với giá trị của mạc khải công có tính duy nhất: mạc khải duy nhất này đòi có đức tin; trong mạc khải này, chính Thiên Chúa nói với ta qua ngôn ngữ con người và nhờ sự trung gian của cộng đồng sống động là Giáo Hội. Tiêu chuẩn để phán đoán sự thật của mạc khải tư là hướng nhắm của nó về chính Chúa Kitô. Nếu mạc khải tư làm ta quay mặt khỏi Người, thì chắc chắn nó không phát sinh từ Chúa Thánh Thần, Đấng luôn dẫn ta đi vào Tin Mừng sâu hơn, chứ không ra xa khỏi nó. Mạc khải tư là một trợ giúp cho đức tin. Tính khả tín của nó chỉ có khi nó tái qui chiếu vào mạc khải công duy nhất. Việc Giáo Hội phê chuẩn một mạc khải tư chủ yếu có nghĩa: sứ điệp của nó không chứa một điều gì đi ngược lại đức tin và luân lý; người ta được phép công khai hóa nó và các tín hữu được phép gắn bó với nó một cách khôn ngoan. Một mạc khải tư có thể giới thiệu những nhấn mạnh mới, tạo ra các hình thức đạo đức mới, hay thâm hậu hóa các hình thức cũ. Nó có thể có một đặc điểm tiên tri nào đó (xem 1 Tx 5:19-21) và có thể là một trợ giúp có giá trị giúp ta hiểu và sống Tin Mừng tốt hơn trong một giai đoạn nào đó; do đó, không nên xử lý với nó một cách coi thường. Nó là một trợ giúp được đề nghị ra, chứ không có tính bắt buộc. Dù sao, nó nên được coi như vấn đề nuôi dưỡng đức tin, đức cậy, đức mến vốn là con đường thường hằng của cứu rỗi dành cho mọi người (46).
Lời Chúa và Chúa Thánh Thần
Sau khi suy niệm về lời sau cùng và dứt khoát của Thiên Chúa phán với thế giới, giờ đây ta cần nhắc tới sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong tương quan với lời Thiên Chúa. Thực vậy, nếu không có hoạt động của Đấng Bào Chữa (Paraclete), sẽ không có sự hiểu biết chân chính về mạc khải Kitô Giáo. Sở dĩ như thế vì việc Thiên Chúa tự thông đạt chính mình luôn bao gồm mối liên hệ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Hai Ngôi mà Thánh Irênê Thành Lyon gọi là “hai cánh tay của Chúa Cha” (47). Chính Thánh Kinh cũng nói tới sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Người được chịu thai trong lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (xem Mt 1:18; Lc 1:35); lúc khởi đầu sứ vụ công khai của mình, bên bờ sông Giođăng, Người thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên đầu Người dưới hình chim bồ câu (xem Mt 3:16); trong cùng một Thần Khí này, Chúa Giêsu đã hành động, nói năng và hân hoan (xem Lc 10:21); cũng trong Chúa Thánh Thần, Người tự hiến mình (xem Dt 9:14). Theo trình thuật của Thánh Gioan, khi sứ vụ của Người sắp kết thúc, Chúa Giêsu đã minh nhiên liên kết việc Người tự hiến mạng sống mình với việc phái Chúa Thánh Thần xuống trên những kẻ thuộc về Người (Xem Ga 16:7). Chúa Giêsu phục sinh, vẫn mang trong thân xác các dấu vết khổ nạn, đã tuôn đổ Chúa Thánh Thần (xem Ga 20:22), giúp các môn đệ trở thành những người chia sẻ sứ mệnh riêng của mình (xem Ga 20:21). Chúa Thánh Thần có sứ mệnh dạy các môn đệ mọi sự và làm cho các ngài nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu từng nói (xem Ga 14:26), vì Chúa Thánh Thần, Thần Khí Sự Thật (xem Ga 20:21) sẽ dẫn các môn đệ vào mọi chân lý (xem Ga 16:13). Sau cùng, trong Tông Đồ Công Vụ, ta đọc thấy: Chúa Thánh Thần hiện xuống trên nhóm Mười Hai, lúc ấy, đang tụ họp cầu nguyện với Đức Mẹ vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem 2:1-4) và thúc đẩy họ tiếp nhận sứ mệnh công bố Tin Mừng cho mọi dân tộc (48).
Như thế, lời Chúa được phát biểu bằng lời con người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Sứ mệnh của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần không thể tách biệt được và đã tạo ra một nhiệm cục cứu rỗi duy nhất. Cũng một Chúa Thánh Thần từng hành động trong việc nhập thể của Ngôi Lời trong lòng Trinh Nữ Maria cũng là Thần Khí dẫn Chúa Giêsu trong suốt sứ vụ và được hứa ban cho các môn đệ của Người. Cũng một Chúa Thánh Thần từng nói qua các tiên tri đang nâng đỡ và linh hứng cho Giáo Hội trong nhiệm vụ công bố lời Chúa; sau cùng, cũng chính Thần Khí này linh hứng cho các tác giả Sách Thánh.
Ý thức được chiều kích thần khí này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã làm nổi bật tầm quan trọng của hoạt động Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu liên quan tới Sách Thánh (49): không có hành động hữu hiệu của “Thánh Thần Chân lý” (Ga 14:16), ta không thể hiểu được lời Chúa. Như Thánh Irênê từng nói: “Những ai không chia sẻ Chúa Thánh Thần sẽ không hút được thực phẩm nuôi sống từ lòng mẹ [Giáo Hội]; họ sẽ không tiếp nhận được gì từ nguồn suối trong lành nhất từ thân thể Chúa Kitô trào ra” (50). Như lời Chúa đã đến với ta từ thân thể Chúa Kitô, từ thân xác Thánh Thể của Người và từ thân thể Sách Thánh, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần thế nào, thì nó cũng chỉ có thể được tiếp nhận và hiểu biết thực sự nhờ cùng một Chúa Thánh Thần như thế.
Các tác giả vĩ đại trong truyền thống Kitô Giáo đều đồng loạt nói về vị trí của Chúa Thánh Thần trong tương quan của tín hữu với Sách Thánh. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Sách Thánh “cần sự mạc khải của Chúa Thánh Thần, để nhờ khám phá ra ý nghĩa đích thực của sự việc trong đó, ta có thể gặt hái được các lợi ích dồi dào” (51). Thánh Giêrôm cũng xác tín rằng “chúng ta không thể hiểu được Sách Thánh nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng nó” (52). Thánh Grêgôriô Cả nhấn mạnh một cách đẹp đẽ công trình của Chúa Thánh Thần trong việc soạn thảo và giải thích Sách Thánh: “Chính Người đã sáng tạo ra ngôn từ của Sách Thánh, chính Người mạc khải ý nghĩa của chúng” (53). Richard của (đan viện) Saint Victor nhấn mạnh rằng ta cần “đôi mắt bồ câu”, nghĩa là đôi mắt được Chúa Thánh Thần soi dẫn và dạy bảo, để có thể hiểu được bản văn Sách Thánh (54).
Cả ở đây nữa, tôi cũng muốn nhấn mạnh tới chứng tá hết sức có ý nghĩa đối với mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và Sách Thánh mà ta thấy trong các bản văn phụng vụ, trong đó, lời Chúa được công bố, được nghe và được giải thích cho tín hữu. Ta thấy một chứng tá cho việc ấy trong các kinh nguyện cổ xưa, những kinh nguyện, dưới hình thức kinh epiclesis, tức kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần trước khi công bố các bài đọc: “Lạy Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng con… chúng con khẩn cầu Chúa cho dân này: xin Chúa sai Chúa Thánh Thần xuống trên họ; Xin Chúa Giêsu đến viếng thăm họ, nói với tâm trí mọi người, định hướng lòng họ về đức tin và dẫn đưa linh hồn chúng con về với Chúa, lạy Chúa mọi xót thương” (55). Điều ấy cho thấy rõ ta không thể hiểu được ý nghĩa lời Chúa ngoại trừ mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần hành động trong Giáo Hội và trong tâm hồn tín hữu.
Thánh Truyền và Thánh Kinh
Khi tái khẳng định mối liên kết sâu xa giữa Chúa Thánh Thần và lời Chúa, ta cũng đặt căn bản cho việc hiểu tầm quan trọng và giá trị quyết định của Thánh Truyền sống động và của Sách Thánh trong Giáo Hội. Thực vậy, vì Thiên Chúa “yêu thương thế giới đến độ ban Con Một của Người cho họ” (Ga 3:16), nên lời Chúa, lên tiếng trong thời gian, đã được ban cho và “được ủy thác” cho Giáo Hội một cách dứt khoát, để việc công bố ơn cứu độ có thể được thông truyền một cách hữu hiệu ở mọi thời và mọi nơi. Như Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã nhắc nhở, chính Chúa Giêsu Kitô “đã truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng, một Tin Mừng vốn được các tiên tri loan báo trước, được nên trọn trong chính con người của Người và được chính môi miệng Người công bố, cho mọi người như nguồn mọi sự thật và lề luật cứu rỗi, vốn thông truyền ơn phúc của Chúa cho họ. Lệnh truyền đó đã được thi hành một cách trung thành; nó được thực thi bởi các Tông Đồ, những người đã truyền lại bằng lời rao giảng, bằng gương sáng, bằng các huấn lệnh, mà chính các ngài đã tiếp nhận, hoặc từ chính môi miệng Chúa Kitô, từ lối sống và công việc Người làm, hay từ việc các ngài nhận ra nó nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần; nó được thực thi bởi các Tông Đồ và nhiều người khác có quan hệ với các ngài, những người nhờ được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nhất quyết viết sứ điệp cứu độ thành văn” (56).
Công Đồng Vatican II cũng tuyên bố rằng Thánh Truyền có nguồn gốc tông đồ này là một thực tại sống động và đầy năng động: nó “thực hiện nhiều tiến bộ trong Giáo Hội, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần”; nhưng không theo nghĩa thay đổi sự thật có trong nó, một sự thật trường cửu. Đúng hơn, “đó là việc gia tăng sự hiểu biết thông sáng đối với các thực tại và ngôn từ được chuyển giao”, chờ chiêm niệm và học hỏi, với sự hiểu biết có được từ một kinh nghiệm linh đạo sâu sắc hơn và từ “lời rao giảng của những người, nhờ kế nhiệm chức giám mục, đã lãnh nhận được đặc sủng chân lý chắc chắn” (57).
Truyền Thống sống động là điều chủ yếu giúp Giáo Hội tăng trưởng qua thời gian trong việc hiểu chân lý mạc khải của Thánh Kinh; thực vậy, “nhờ cùng một truyền thống này, trọn bộ qui điển các Sách Thánh đã được Giáo Hội biết đến và chính Thánh Kinh cũng được hiểu cách thấu đáo hơn và không ngừng trở thành hữu hiệu trong Giáo Hội” (58). Cuối cùng, chính Truyền Thống sống động của Giáo Hội đã giúp chúng ta hiểu một cách thoả đáng Thánh Kinh chính là lời của Thiên Chúa. Mặc dù lời Thiên Chúa đi trước và vượt quá Sách Thánh, nhưng Sách Thánh này, vì được Thiên Chúa linh hứng, quả chứa đựng lời Thiên Chúa (xem 2 Tm 3:16) “một cách hết sức độc đáo” (59).
Như thế, ta thấy rõ quan trọng biết bao việc Dân Chúa được giảng dạy và huấn luyện để tiếp cận với các Sách Thánh trong liên hệ với Truyền Thống sống động của Giáo Hội và nhận ra trong các sách ấy chính lời của Thiên Chúa. Cổ vũ cách tiếp cận như thế nơi tín hữu là điều rất quan trọng xét theo quan điểm đời sống thiêng liêng. Ở đây, tưởng rất hữu ích khi nhắc lại sự loại suy mà các Giáo Phụ vốn đưa ra giữa lời Chúa đã thành xác phàm và lời đã thành “sách” (60). Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” tiếp nhận truyền thống cổ kính này, một truyền thống, như thánh Ambrôsiô (61), vốn cho rằng: “Thân thể Chúa Con chính là Sách Thánh ta đã tiếp nhận” và sau đó tuyên bố rằng “Lời Chúa, phát biểu bằng ngôn ngữ con người, giống ngôn ngữ con người mọi cách, y hệt như lời của Chúa Cha muôn thuở, khi mặc lấy thân xác yếu đuối của con người nhân bản, đã trở nên giống như họ” (62). Hiểu cách đó, Sách Thánh xuất hiện với ta như một thực tại đơn nhất, dù dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Thực vậy, “Qua mọi lời của Sách Thánh, Thiên Chúa chỉ nói một lời duy nhất, do chính Người phán ra, trong đó, Người tự phát biểu về mình một cách trọn vẹn (xem Dt 1:1-3)” (63). Thánh Augustinô đã minh xác về điều này như sau: “Hãy nhớ rằng Thiên Chúa chỉ nói một lời; lời ấy đã diễn biến trong toàn bộ Thánh Kinh, và lời duy nhất đó đã vang dội trên môi miệng mọi tác giả thánh” (64).
Nói tóm lại, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng dẫn của huấn quyền, Giáo Hội đã chuyển giao cho mọi thế hệ tất cả những điều đã được mạc khải trong Chúa Kitô. Giáo Hội sống trong sự chắc chắn rằng Chúa của mình, Đấng đã nói trong quá khứ, ngày nay vẫn tiếp tục thông đạt lời Người trong Truyền Thống sống động của mình và trong Sách Thánh. Thực vậy, lời Chúa được ban cho ta trong Sách Thánh như chứng tá linh hứng của mạc khải; cùng với Truyền Thống sống động của Giáo Hội, nó cấu thành qui luật tối cao của đức tin (65).
Sách Thánh, sự linh hứng và sự thật
Một ý niệm chủ chốt để hiểu bản văn thánh như chính lời Chúa trong ngôn ngữ con người chắc chắn là ý niệm linh hứng. Ở đây nữa, ta cũng có thể gợi ra một loại suy: như lời Thiên Chúa đã trở thành xác phàm bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong lòng Trinh Nữ Maria thế nào, thì Sách Thánh cũng sinh ra từ lòng Giáo Hội nhờ quyền năng của cùng một Chúa Thánh Thần như vậy. Sách Thánh là “lời Chúa được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần” (66). Do cách này, người ta nhận ra tầm quan trọng trọn vẹn của tác giả nhân bản, người đã viết ra bản văn linh hứng, và nhận ra chính Thiên Chúa mới là tác giả thật sự.
Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã quả quyết, chủ đề linh hứng rõ ràng có tính quyết định cho một lối tiếp cận thoả đáng đối với Sách Thánh và việc giải thích chúng cách đúng đắn (67), một việc phải được thực hiện trong cùng một Chúa Thánh Thần mà trong Người các bản văn thánh kia đã được viết ra (68).
Bất cứ khi nào ý thức về sự linh hứng kia yếu đi, ta sẽ liều mình đọc Sách Thánh như một đồ hiếm họa có tính lịch sử, chứ không phải là công trình của Chúa Thánh Thần trong đó, ta nghe chính Chúa nói và nhận ra sự hiện diện của Người trong lịch sử.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng nhấn mạnh tới mối liên kết giữa chủ đề linh hứng và chủ đề sự thật của Sách Thánh (69). Một nghiên cứu sâu hơn về diễn trình linh hứng chắc chắn sẽ dẫn tới một hiểu biết lớn hơn về sự thật chứa đựng trong các Sách Thánh. Như giáo huấn của Công Đồng vốn nói về phương diện này, các sách linh hứng dạy ta sự thật: “Cho nên, vì mọi sự được các tác giả linh hứng, hay các nhà truớc tác thánh, quả quyết phải được coi như chính Chúa Thánh Thần quả quyết, nên ta phải nhìn nhận rằng các sách của bộ Thánh Kinh đã dạy một cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm sự thật mà Thiên Chúa, vì để cứu vớt ta, đã muốn thấy nó được giao phó cho Sách Thánh. Do đó, ‘mọi sách thánh đều được Thiên Chúa linh hứng và hữu ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy và huấn luyện về đàng chính trực, hầu người của Chúa nên thập toàn, được trang bị đầy đủ để làm việc lành” (2Tm 3:16-17, bản Hy Lạp) (70).
Chắc chắn, suy tư thần học luôn coi sự linh hứng và sự thật như hai ý niệm chủ chốt đối với khoa chú giải Thánh Kinh trong Giáo Hội. Tuy thế, người ta phải nhìn nhận nhu cầu ngày nay muốn học hỏi một cách trọn vẹn và thoả đáng hơn các thực tại này, ngõ hầu đáp ứng tốt hơn nhu cầu giải thích các bản văn thánh theo bản chất của chúng. Ở đây, tôi tha thiết hy vọng rằng việc tìm tòi trong phạm vi này sẽ có tiến bộ và đem lại thành quả cho cả ngành khoa học Thánh Kinh lẫn đời sống thiêng liêng của tín hữu.
Thiên Chúa Ngôi Cha, suối và nguồn của lời
Nhiệm cục mạc khải có khởi nguyên và nguồn gốc nơi Thiên Chúa Ngôi Cha. Qua lời Người “một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:6). Chính Người đã ban cho ta “ánh sáng để hiểu biết vinh quang Thiên Chúa nơi khuôn mặt Chúa Kitô” (2 Cor 4:6; xem Mt 16:17; Lc 9:29).
Nơi Chúa Con, “Lời thành xác phàm” (xem Ga 1:14), Đấng đến để thực hiện ý Đấng đã sai mình đến (xem Ga 4:34), Thiên Chúa, suối nguồn mọi mạc khải, đã tự tỏ mình ra như Chúa Cha và hoàn tất khoa sư phạm thần linh từng được chuyển tải qua lời các tiên tri và các công trình kỳ diệu thể hiện trong sáng thế và trong lịch sử của dân Người và của toàn thể nhân loại. Việc mạc khải của Thiên Chúa Ngôi Cha đạt tới đỉnh cao ở sự kiện Chúa Con ban Đấng Bào Chữa (xem Ga 14:16), tức Thánh Thần của Chúa Cha và Chúa Con, Đấng dẫn ta “vào mọi sự thật” (Ga 16:13).
Mọi lời Thiên Chúa hứa đều tìm thấy chữ “đúng” (yes) của chúng nơi Chúa Giêsu Kitô (xem 2 Cor 1:20). Như thế, mọi người chúng ta được ban cho khả năng lên đường về với Chúa Cha (xem Ga 14:6), ngõ hầu, kết cục, “Thiên Chúa là mọi sự cho mọi người” (1 Cor 15: 28).
Như thập giá Chúa Kitô Đã chứng tỏ, Thiên Chúa cũng nói trong sự im lặng của Người. Sự im lặng này, tức cảm nghiệm về khoảng cách với Chúa Cha toàn năng, là giai đoạn quyết định trong hành trình dương thế của Thiên Chúa Ngôi Con, của Ngôi Lời nhập thể. Bị treo trên cây thập giá, Người than vãn về sự đau khổ do sự im lặng kia tạo ra: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?” (Mc 15:34; Mt 27:46). Tiến tới vâng lời cho tới hơi thở cuối cùng, trong cõi âm u của sự chết, Chúa Giêsu đã kêu tới Chúa Cha. Nhưng rồi, Người phó mình cho Chúa Cha ở ngay thời khắc vượt qua này, từ cái chết vượt qua sự sống đời đời: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Cảm nghiệm trên của Chúa Giêsu phản ảnh hoàn cảnh của tất cả những ai, sau khi nghe và nhìn nhận lời Chúa, cũng phải giáp mặt với sự im lặng của Thiên Chúa. Đó vốn là cảm nghiệm của muôn vàn thánh nhân và nhà huyền nhiệm, và cả nay nữa nó vẫn là một phần trong cuộc hành trình của nhiều tín hữu. Sự im lặng của Thiên Chúa nối dài những lời trước đó của Người. Trong những giờ phút đen tối ấy, Người nói bằng mầu nhiệm im lặng của Người. Bởi thế, trong cái năng động của mạc khải Kitô Giáo, im lặng xuất hiện như một biểu thức quan trọng của lời Thiên Chúa.