Tin, động tác phát tự con tim: điều này thật ra có nghĩa gì?
(bài 6)
Chương I
Phần I
(tiếp theo)
Suy tư có sự đồng thuận
Đồng thuận giữa nhận thức và sự thể không hẳn là nhận thức:
Ở đây, tôi muốn diễn rộng thêm đôi chút chung quanh chủ đề về tư-duy thuộc loại “suy tư với” và “suy-tư có sự đồng thuận”. Nhưng, tưởng cũng nên tháo gỡ một vài uẩn-khúc về ngôn ngữ, trước đã.
Tư-duy, là nỗ-lực đến với nhận-thức, còn gọi là “hiểu biết”. Thế nên, ta bắt đầu bằng từ-vựng “biểu biết”, trước nhất. Trong những lần chuyện trò/than-vãn, ta nghe người đối-đáp thường hay nói: “Biết mà, hết xẩy!” hoặc: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!” Nói thì nói thế, chứ những người nói câu đó, lại không thể biết là mình “hiểu biết” những gì, hoặc “hiểu biết” sự việc được bao nhiêu, hoặc “biết” rõ tại sao lại như thế, mà chỉ muốn bảo: “Vẫn biết là như thế, nhưng sao tôi vẫn thấy nó thế nào ấy!...”
Tác giả Timothy Radcliffe, o.p. có kể lại câu chuyện: lần đó ông ghé cộng-đoàn Dòng Đa Minh của mình ở Oxford, nước Anh. Hôm ông cử hành Tiệc Thánh Thể và trao Mình Chúa cho anh em trọng tuổi ở trong Dòng, thì: khi nâng Mình Thánh Chúa lên và trao cho người anh em ấy và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô!”, thì: người anh em này liền đáp lại: “Biết mà cha! Tôi vẫn làm thế mỗi ngày mà!”
Về nhận thức/hiểu biết, lại cũng có nhiều thứ. Có thứ, ai cũng hiểu và cũng biết, thật rất rõ. Chẳng hạn như, khi ta nói: “Chúng ta đang nắm vững sự thật. Và sự thật, tự nó, rõ rành rành!” Còn thứ khác, ta lại không nắm rõ nó ra như thế nào. Kịp khi ấy, ta chỉ biết mỗi trợn tròn đôi mắt, rồi thở dài thườn thượt một vài giây, những mong chẳng ai đẩy ta đi xa hơn nữa, với những thắc mắc đại loại như thế. Vậy nên, có thể nói: Có nhiều cấp độ về tính nền tảng kiên cố, an toàn cũng như bất-toàn trong “hiểu biết”.
Nhiều lúc hoặc cũng nhiều lần, ta lại đã tuyên bố rằng mình cũng “biết” một số sự việc, và có bằng chứng để “tin” là như thế. Để rồi, ta đảo mắt nhìn quanh xem có ai đồng-thuận hoặc chống-đối lời tuyên bố của ta không. Và rồi, cứ thế “có bé xé to”; sau đó, dĩ nhiên có nhiều lúc ta kết thúc lời tuyên bố của mình bằng từ-vựng nào đó, như thể bảo: mình “hiểu biết” sự việc cũng rành rọt lắm lắm. Xem như thế, tức là: ta cũng đã biết, dù mức độ hiểu biết của ta không hẳn là hoàn chỉnh.
Thông thường, nhiều khi ta cũng rất “biết” mà chẳng cần tiếp cận nhận-thức bằng nỗ lực nào do chính ta đạt được, hoặc không cần có sự tiếp tay của bất cứ ai.
Nhiều trường hợp cho thấy: khi ta “tin” vào người nào, lại đặt hết tin tưởng vào sự “hiểu” và “biết” của người ấy, cụ thể như: khi ta cho ai mượn tiền chẳng hạn, thì ta hoàn toàn tin tưởng người ấy. Bên tiếng Anh có từ-vựng rút từ tiếng “Phạn” để chỉ về sự mua bán/đổi chác các hiện kim.
Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây để nói thêm, rằng: có điều lý thú là: nguồn gốc tiếng “Phạn” ấy lại cũng thấy ở tiếng La-tinh qua cụm từ “Credo” mà tiếng Anh dịch là “Creed” (tức: “Tin kính”) và “credit” (tạm dịch là: tin tưởng), cả hai đều xuất phát từ một nguồn gốc tiếng Phạn.
Xem như thế, ta có thể “tin” vào sự thật-thà của người khác -ở đây là người mượn tiền- và/hoặc: tin vào sự trung-tín của “người khác” đó. Đi xa hơn, ta có thể lắng tai nghe “người khác” bảo ban và rồi, tự đưa ra những gì “người khác” ấy đem đến cho ta. Thế đó, là động-tác trung tín, cống hiến, sủng mộ và đồng tâm/quyết chí với “người khác”. Và điều này, đem đến cho ta ý nghĩa về những gì mà “người khác” nói với ta, là rất đúng. Và, ta “tin”.
Xem như thế, rõ ràng là có một thứ hấp-lực và lời gọi mời từ “người khác” ấy, đối với ta. Những chuyện như thế, khiến ta có cảm giác: đó là những chuyện mật thiết, rất “ở nhà”, lại cũng quen. Hệt như, chuyện người nhà từng nói với ta. Và, ta thấy thích thú một điều, là: người đó nói thật với ta.
Thật ra, ta tự mình đi tìm “nhận thức/hiểu biết” và từ đó ta còn “biết” nhiều hơn nữa, nhờ mình “tin” vào nhận-thức/hiểu biết của ai đó. Ở đây, cũng có một chút ý-nghĩa của sự thật ở nơi ta, và ta càng đi xa hơn nữa với mớ kiến thức về sự khiêm tốn cũng như sự việc khiến ta quyết chí để “người khác” lôi kéo mình về với họ, và sự việc là do họ làm thế. Và, hiểu biết của ta bao giờ cũng bị bó chặt vào những gì mình không biết hoặc chưa biết hết. Ta thường xuyên gặp gỡ những người mà thật ra ta không quen hoặc không biết, và chính họ cũng chẳng biết điều gì, do họ quá “sở đắc” các hiểu biết của họ. Kiếm tìm một hiểu biết, thường là hoặc phải là: sự tìm kiếm rất khiêm nhu, từ tốn.
Khi ta hoặc “người khác” biết ăn/biết nói, thường có nhiều cách để ta quyết làm cho bằng được những việc như thế. Việc như thế, không phải lúc nào cũng giống như sách giáo-khoa chuyên giải-mã mọi thứ, và mọi sự. Trong đó, vẫn ẩn chứa nhiều biểu tượng, ẩn-dụ và có khi còn có cả thi-ca cũng như lời “nói bóng nói gió”, ám chỉ nữa. Và như thế, lại có sự “đoán già đoán non”, đến độ ta chỉ hiểu có phân nửa sự thật mà thôi. Toàn bộ sự thật của ta –nếu gọi được như thế- vẫn kết-hợp-làm-một với thứ gì đó tuy mù mờ nhưng cũng khá chắc; và, cả những thứ/những sự lẫn lộn, nhào quyện vào nhau cách sao đó ta thật không rõ. Bởi thế nên, ta cần giải-quyết tính-cách rõ ràng/chắc nịch ở bên trong tâm-trí ta; và thông thường, cũng cần có sự tiếp tay của người khác nữa.
Có thể là, ta vẫn đi đến xác-tín rồi bảo rằng: sự thật bao giờ cũng cao cả hơn bất cứ ai và/hoặc tất cả mọi người trong ta. Sự thật ở trong ta, nhưng không phải để trao ban cho riêng mình ta. Ta không tạo ra được sự thật. Cũng không sở hữu sự thật. Mà, chính nó “sở đắc” ta. Và, theo nghĩa này, sự thật khiến ta bớt tập-trung vào chính mình. Nó làm rã rượi và kém đi cơ cấu có trải nghiệm về tánh vị-kỷ của ta, rồi hội tụ ta và mọi người lại với nhau. Nó kéo ta vào với sự thể khả dĩ vượt quá kinh nghiệm từng trải về xa cách/tách-biệt có thể xảy đến.
Cũng nên nhớ: ở đây, tôi chưa nói đến điểm dị-biệt của niềm tin, một chút nào. Có thể nói, phần lớn hoặc tất cả những gì ta đề cập ở trên về tư-duy nghiêm-chỉnh và có tính triết-lý thực. Có lẽ, tôi cũng sẽ làm như thế. Bởi, lâu nay tôi vẫn đeo đuổi tìm kiếm những gì bị quên lãng/bỏ sót trong quá khứ; nay, tôi lại sẽ xem xét sự việc mình chưa đạt được sự thật ở đâu hết.
Thế đó, là tư-duy. Tiếng La-tinh cổ, gọi đó là “ngẫm nghĩ”. Từ-vựng này, hàm-ngụ một nỗ-lực cho ta thấy điểm tới vẫn chưa đạt. Bởi, đó không chỉ là “hiểu biết” thôi, mà là phấn đấu hết sức lực để tạo hiểu biết. Và, ta cũng chưa đạt điểm-tới đó. “Ngẫm nghĩ”, chuyên chở một ý nghĩ về những chuyện như thế và cứ thế xảy đến về sau. Cũng tựa hồ như bé em bập-bẹ mãi câu “tại sao thế này?” “tại sao thế kia?”, rất nhiều lần. Hỏi như bé, cả vào khi bé biết mình không có được câu trả lời thoả đáng, khi ngôn-ngữ và từ-vựng đà hết chữ. Chính đó, là lúc tư-duy khởi sự như từng khởi từ đó, trong kinh ngạc. Khả năng không thể nói ra, là địa hạt của “tư-duy”. Khi có người hỏi: “Bạn đang suy tư về những gì thế?” Lúc đó, ta sẽ yêu cầu người hỏi bỏ liên-tự “về” kia đi. Bởi tôi đây, chỉ mới tư-duy có một chút nhưng chắc chắn không phải: “về” bất cứ thứ gì tư riêng, đặc biệt. Đôi khi, ta cũng ngồi xuống mà tư-duy, suy cho kỹ hoặc chỉ ngồi xuống, thế thôi. Như thế, không phải là nghĩ hoặc suy “về” cái gì đúng hoặc “về” cái gì sai, hết. Cũng không phải “về” bằng chứng hoặc chẳng có bằng chứng, nào hết. Cũng không phải, “về” sự thể đặc biệt nào chỉ xâm nhập vào sự thể và cung cách có được tư-duy, thôi.
Ở đây, tôi muốn nói thêm đôi điều để khẳng định rằng: phần lớn những gì là tư-duy đích-thực lại là “suy-tư với”. Tôi có thể “suy-tư cùng” với ai đó, tức: cùng đồng hành trong suy tư, tức: suy tư “với” người nào đó, thế thôi. Cũng như thể, tôi đang suy-tư với anh, với chị...với mọi người đang ở đây như tôi từng tư-duy khi trước, chỉ mỗi thế. Đó là sự việc tương đối rất hiệp thông, có quan hệ mật thiết. Riêng tôi, ít lâu nay tôi quen biết linh mục nọ, một hôm có người hỏi là: cụ có tin Chúa không? Thì, cụ trả lời trong tích tắc, ngay rằng: Vâng. Tôi thật tình tin tưởng rằng tôi đang tin vào Ngài...
Nay, tôi lại giả thuyết có tầm kích ‘trí-tuệ’ về chuyện đó. Chuyện đó, lại là tầm kích “cảm xúc” về những việc như thế đó. Nhưng, tôi vẫn cảm thấy nó như cứ quyện vào nhau. Và có thể, quý vị cũng có cảm giác tương tự như thế. Và cụm từ “cảm giác” đây, bao gộp cả hai tầm kích mà ta vừa nói đến. Tôi, thì tôi nghĩ rằng: cảm giác là những cảm xúc có giác quan giống như thi-ca. Và sự thể: hai tầm kích này cứ quyện vào nhau đến độ ngày nay đôi lúc người ta bảo: nó mang tính-chất rất “quan hệ” của niềm tin, tức: có tầm mức quan trọng để ta tập trung nhấn mạnh vào đó, bao lâu mà khiá cạnh trí-tuệ được gộp vào với khiá cạnh của “cảm xúc”, thế thôi.
Xin cho tôi được tiếp tục bàn thêm một chút nữa về cụm từ “ý-nghĩa”. Đôi khi ta có thể ở trong loại-hình quan-hệ nào đó với ai khiến cho ta, tự thân, dám đồng thuận với câu hỏi như thể hỏi rằng: người khác ấy là ai; nhưng lại muốn hỏi: họ có nói cho ta biết về những gì, và có bảo là: ta không biết và sẽ không thể “hiểu biết” bằng cách nào khác. Xem thế thì, tư-duy là “suy-tư với” người nào, để rồi ta có thể diễn rộng cụm-từ “suy-tư với” qua cụm từ “suy-tư có sự đồng-thuận”. Sự hiện diện của ai đó mà mình từng “tin tưởng” sẽ thay đổi lối suy-tư thông thường của mình vào với “suy-tư có sự đồng-thuận”. Dĩ nhiên, quý vị sẽ ngạc nhiên hoặc có lẽ sẽ phản đối đường lối này, nhưng thánh Augustinô từng mô tả “niềm tin” bằng cụm từ mà tiếng La-tinh thường vẫn gọi, là: “Cum assensu cogitate” (tức: tư-duy có sự đồng-thuận). Và thánh Tôma Akinô cũng không ngại ngần gì mà không mượn câu nói đó của thánh Augustinô để tùy nghi.
Cũng nên chiêm-niệm thêm nguồn tư-tưởng mà thánh Tôma Akinô từng viết trong bộ sách có tên là “Summa Theologica” (tức: “Tổng Kết Tư Tưởng Thần Học”) ở chương 2a-2ae, câu 1-2 về “niềm tin”. Thánh Tôma cũng từng chọn lập-trường của thánh Augustinô để chống lại Denys và như thế, là đồng-thuận với trường phái phương Tây, với truyền thống La-tinh hơn truyền-thống phương Đông Hy Lạp. Cùng với quan-điểm/lập trường của thánh Augustinô, thánh Tôma Akinô chấp-nhận tiến-trình tâm-lý như đã đề-cập trong cuốn “Những Lời Xưng Thú” của thánh Augustinô) quyết đi vào với khoảnh-khắc có ý-thức về “niềm tin”, và đứng vững ở đó mãi. “Tư-duy có sự đồng-thuận” bao gồm những sự việc như thế. Còn truyền-thống Đông Phương, đúng ra là một huyền-bí có sẵn, khiến tiến-trình này được vinh-thăng.
Tư-duy tiến-triển, là tư-duy xuyên suốt cùng người khác. Và, tư-duy hoà-đồng, lại có nghĩa: cùng nhau bàn bạc để suy-tư. Đó là trào-lưu trí-tuệ đã thảo luận thật kỹ nhưng chưa đạt tầm nhìn trong-sáng về sự thật. Tư-duy mà lại thiếu tính kiên định vào phút cuối và thiếu cả sự đồng-thuận trong-suốt có khả-năng duy-trì quyết-tâm chọn lựa (như trí tuệ vẫn ngờ), hoặc nghiêng phía này thay vì phía khác (như nó từng ngờ), hoặc nghiêng về một phía có động-cơ nghiêm-trọng, nhưng lại cứ sợ phía bên kia nói đúng hơn (tức có chủ trương rạch ròi). “Tin”, là sự thể đạt được từ quá trình biện-luận như thế, nhưng mạnh mẽ hơn, bởi nó đòi nghiêng về một phía, mà lại không có được tầm nhìn trong sáng, về lâu về dài.
Thánh Tôma Akinô xem ra cũng không ngại ngần chuyện song-hành bằng kiểu-cách tham-gia cấp độ “tin-tưởng” ở mức thấp, để có thể sẻ san đôi điều với cấp độ ở trên cao; và, những gì ở cấp độ trên cao ấy, lại san sẻ đôi chút với cấp độ cao hơn nữa. Xem thế thì, “tin” là quà tặng luôn chảy từ Đức Giêsu xuống với môn đệ, rồi xuống với các lãnh đạo của Hội thánh để rồi cứ thế tuôn đổ xuống trên ta. Từ đó, ta đi vào và cùng với ngành sư-phạm của mình để rồi, từng chút và từng chút, việc đó khiến ta học cách “tin tưởng” mỗi ngày nhiều hơn. Tôi thiểt nghĩ, thánh Augustinô đã tạo nguồn-cội cho thánh Tôma AKinô tham-khảo chuyện này. Một lần nữa, ta cũng nên xem thêm cuốn “Những Lời Xưng Thú” của thánh-nhân, để thấy rõ hơn.
Có thể, có người lại sẽ hỏi về sự việc như thế. Hỏi, là hỏi rằng: phải chăng trong tiến-trình tổng-thể mọi sự-việc, ta có khám phá ra được ý-nghĩa của lập trường tư riêng tuy không độc nhất nhưng có sự hiện-diện tích-cực của cái tôi ôm choàng tất cả không? Cái “tôi” đây, có phú-ban hữu-thể nhỏ là tôi đây với đảm bảo là tất cả mọi sự sẽ tiến triển bên trong cái “Tôi” được thăng-hoá cách tích cực trên cái tôi nhỏ bé này không? Xác tín sự thể này, có là cơ sở cho niềm tin đích-thực, không? “Tin” có đi vào động-tác phát tự con tim không? Có là kết quả của sự-thể rất vô-biên là mẹ đẻ đã sản-sinh ra trẻ bé là kẻ tin không? Chắc chắn, đây là tiến trình xảy ra bên trong nội-tâm ta. Thế nên, có người lại những hỏi: thế đó có là tiến trình xuất ra bên ngoài, nhờ đó ta dám bảo: tiến-trình này còn diễn tiến cả trong Chúa nữa, đúng thế không?
Nếu đúng là như thế, thì tôi cũng ngờ rằng: giả như “niềm tin” sẽ mãi mang tính chất tâm-lý thể-hiện qua tư-duy đơn độc, hoặc nó có là kết cuộc “từng chút lại từng chút” của tiến trình/luận-cứ tâm-tư trên cấp độ của chính nó...
Ở ngoài đời, ta chỉ biết có chút ít hoặc chẳng “hiểu biết” Thứ Gì khác biệt hết, thì làm sao ta lại nói là mình vẫn đang “tin” được?
Ở đây, tôi chỉ gợi hứng để ta đi vào với những gì mình nhắm hướng mà đi đến trong diễn trình này. Tôi đang bước ra khỏi, ít là mẫu-mã của niềm tin “có ý thức”, tựa như mẫu-mã vẫn chủ-đạo niềm tin, bấy lâu nay. Bằng cung cách đề nghị như thế, tôi lại đã nhận ra rằng: mình đang đi vào chiều hướng thoát ra khỏi nền thần-học cổ-điển lẫn ngành giáo-dục tâm-lý về niềm tin, cũng rất mới.
Nhưng trong khoảnh khắc hiện tại, ta vẫn còn nhiều điều để nói về “niềm tin” đang đi tới do bởi những cam kết có ý-thức.
Thật vậy. Nếu lấy ví dụ bảo rằng: sự đồng-thuận có ý-thức về mẫu-mã chứng-thực cách tư-riêng khả dĩ đã được sử dụng để giới thiệu cho mọi người về chiều-kích khá phong-phú của niềm tin. Tỉ như, ta cứ coi niềm tin như hoạt-động giúp ta chọn mục đích sống trong đời, hoặc đặc biệt hơn, nó lại trình bày niềm tin như sự lựa chọn niềm vui để được vui hơn thế nữa, trong cuộc đời. Có thể, đó cũng là lý do tại sao một số người lại thấy được tính-chất tương-hợp trong việc mặc lấy niềm tin tương tự như việc dấn thân vào với hôn-nhân. (Tuy nhiên, cũng xin mở ngoặc ở đây, để hỏi: thế còn, với những người không tin vào thứ gì hết hoặc chẳng tin một ai thì sao?)...
(còn tiếp)
-----------------
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch
(bài 6)
Chương I
Phần I
(tiếp theo)
Suy tư có sự đồng thuận
Đồng thuận giữa nhận thức và sự thể không hẳn là nhận thức:
Ở đây, tôi muốn diễn rộng thêm đôi chút chung quanh chủ đề về tư-duy thuộc loại “suy tư với” và “suy-tư có sự đồng thuận”. Nhưng, tưởng cũng nên tháo gỡ một vài uẩn-khúc về ngôn ngữ, trước đã.
Tư-duy, là nỗ-lực đến với nhận-thức, còn gọi là “hiểu biết”. Thế nên, ta bắt đầu bằng từ-vựng “biểu biết”, trước nhất. Trong những lần chuyện trò/than-vãn, ta nghe người đối-đáp thường hay nói: “Biết mà, hết xẩy!” hoặc: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!” Nói thì nói thế, chứ những người nói câu đó, lại không thể biết là mình “hiểu biết” những gì, hoặc “hiểu biết” sự việc được bao nhiêu, hoặc “biết” rõ tại sao lại như thế, mà chỉ muốn bảo: “Vẫn biết là như thế, nhưng sao tôi vẫn thấy nó thế nào ấy!...”
Tác giả Timothy Radcliffe, o.p. có kể lại câu chuyện: lần đó ông ghé cộng-đoàn Dòng Đa Minh của mình ở Oxford, nước Anh. Hôm ông cử hành Tiệc Thánh Thể và trao Mình Chúa cho anh em trọng tuổi ở trong Dòng, thì: khi nâng Mình Thánh Chúa lên và trao cho người anh em ấy và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô!”, thì: người anh em này liền đáp lại: “Biết mà cha! Tôi vẫn làm thế mỗi ngày mà!”
Về nhận thức/hiểu biết, lại cũng có nhiều thứ. Có thứ, ai cũng hiểu và cũng biết, thật rất rõ. Chẳng hạn như, khi ta nói: “Chúng ta đang nắm vững sự thật. Và sự thật, tự nó, rõ rành rành!” Còn thứ khác, ta lại không nắm rõ nó ra như thế nào. Kịp khi ấy, ta chỉ biết mỗi trợn tròn đôi mắt, rồi thở dài thườn thượt một vài giây, những mong chẳng ai đẩy ta đi xa hơn nữa, với những thắc mắc đại loại như thế. Vậy nên, có thể nói: Có nhiều cấp độ về tính nền tảng kiên cố, an toàn cũng như bất-toàn trong “hiểu biết”.
Nhiều lúc hoặc cũng nhiều lần, ta lại đã tuyên bố rằng mình cũng “biết” một số sự việc, và có bằng chứng để “tin” là như thế. Để rồi, ta đảo mắt nhìn quanh xem có ai đồng-thuận hoặc chống-đối lời tuyên bố của ta không. Và rồi, cứ thế “có bé xé to”; sau đó, dĩ nhiên có nhiều lúc ta kết thúc lời tuyên bố của mình bằng từ-vựng nào đó, như thể bảo: mình “hiểu biết” sự việc cũng rành rọt lắm lắm. Xem như thế, tức là: ta cũng đã biết, dù mức độ hiểu biết của ta không hẳn là hoàn chỉnh.
Thông thường, nhiều khi ta cũng rất “biết” mà chẳng cần tiếp cận nhận-thức bằng nỗ lực nào do chính ta đạt được, hoặc không cần có sự tiếp tay của bất cứ ai.
Nhiều trường hợp cho thấy: khi ta “tin” vào người nào, lại đặt hết tin tưởng vào sự “hiểu” và “biết” của người ấy, cụ thể như: khi ta cho ai mượn tiền chẳng hạn, thì ta hoàn toàn tin tưởng người ấy. Bên tiếng Anh có từ-vựng rút từ tiếng “Phạn” để chỉ về sự mua bán/đổi chác các hiện kim.
Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây để nói thêm, rằng: có điều lý thú là: nguồn gốc tiếng “Phạn” ấy lại cũng thấy ở tiếng La-tinh qua cụm từ “Credo” mà tiếng Anh dịch là “Creed” (tức: “Tin kính”) và “credit” (tạm dịch là: tin tưởng), cả hai đều xuất phát từ một nguồn gốc tiếng Phạn.
Xem như thế, ta có thể “tin” vào sự thật-thà của người khác -ở đây là người mượn tiền- và/hoặc: tin vào sự trung-tín của “người khác” đó. Đi xa hơn, ta có thể lắng tai nghe “người khác” bảo ban và rồi, tự đưa ra những gì “người khác” ấy đem đến cho ta. Thế đó, là động-tác trung tín, cống hiến, sủng mộ và đồng tâm/quyết chí với “người khác”. Và điều này, đem đến cho ta ý nghĩa về những gì mà “người khác” nói với ta, là rất đúng. Và, ta “tin”.
Xem như thế, rõ ràng là có một thứ hấp-lực và lời gọi mời từ “người khác” ấy, đối với ta. Những chuyện như thế, khiến ta có cảm giác: đó là những chuyện mật thiết, rất “ở nhà”, lại cũng quen. Hệt như, chuyện người nhà từng nói với ta. Và, ta thấy thích thú một điều, là: người đó nói thật với ta.
Thật ra, ta tự mình đi tìm “nhận thức/hiểu biết” và từ đó ta còn “biết” nhiều hơn nữa, nhờ mình “tin” vào nhận-thức/hiểu biết của ai đó. Ở đây, cũng có một chút ý-nghĩa của sự thật ở nơi ta, và ta càng đi xa hơn nữa với mớ kiến thức về sự khiêm tốn cũng như sự việc khiến ta quyết chí để “người khác” lôi kéo mình về với họ, và sự việc là do họ làm thế. Và, hiểu biết của ta bao giờ cũng bị bó chặt vào những gì mình không biết hoặc chưa biết hết. Ta thường xuyên gặp gỡ những người mà thật ra ta không quen hoặc không biết, và chính họ cũng chẳng biết điều gì, do họ quá “sở đắc” các hiểu biết của họ. Kiếm tìm một hiểu biết, thường là hoặc phải là: sự tìm kiếm rất khiêm nhu, từ tốn.
Khi ta hoặc “người khác” biết ăn/biết nói, thường có nhiều cách để ta quyết làm cho bằng được những việc như thế. Việc như thế, không phải lúc nào cũng giống như sách giáo-khoa chuyên giải-mã mọi thứ, và mọi sự. Trong đó, vẫn ẩn chứa nhiều biểu tượng, ẩn-dụ và có khi còn có cả thi-ca cũng như lời “nói bóng nói gió”, ám chỉ nữa. Và như thế, lại có sự “đoán già đoán non”, đến độ ta chỉ hiểu có phân nửa sự thật mà thôi. Toàn bộ sự thật của ta –nếu gọi được như thế- vẫn kết-hợp-làm-một với thứ gì đó tuy mù mờ nhưng cũng khá chắc; và, cả những thứ/những sự lẫn lộn, nhào quyện vào nhau cách sao đó ta thật không rõ. Bởi thế nên, ta cần giải-quyết tính-cách rõ ràng/chắc nịch ở bên trong tâm-trí ta; và thông thường, cũng cần có sự tiếp tay của người khác nữa.
Có thể là, ta vẫn đi đến xác-tín rồi bảo rằng: sự thật bao giờ cũng cao cả hơn bất cứ ai và/hoặc tất cả mọi người trong ta. Sự thật ở trong ta, nhưng không phải để trao ban cho riêng mình ta. Ta không tạo ra được sự thật. Cũng không sở hữu sự thật. Mà, chính nó “sở đắc” ta. Và, theo nghĩa này, sự thật khiến ta bớt tập-trung vào chính mình. Nó làm rã rượi và kém đi cơ cấu có trải nghiệm về tánh vị-kỷ của ta, rồi hội tụ ta và mọi người lại với nhau. Nó kéo ta vào với sự thể khả dĩ vượt quá kinh nghiệm từng trải về xa cách/tách-biệt có thể xảy đến.
Cũng nên nhớ: ở đây, tôi chưa nói đến điểm dị-biệt của niềm tin, một chút nào. Có thể nói, phần lớn hoặc tất cả những gì ta đề cập ở trên về tư-duy nghiêm-chỉnh và có tính triết-lý thực. Có lẽ, tôi cũng sẽ làm như thế. Bởi, lâu nay tôi vẫn đeo đuổi tìm kiếm những gì bị quên lãng/bỏ sót trong quá khứ; nay, tôi lại sẽ xem xét sự việc mình chưa đạt được sự thật ở đâu hết.
Thế đó, là tư-duy. Tiếng La-tinh cổ, gọi đó là “ngẫm nghĩ”. Từ-vựng này, hàm-ngụ một nỗ-lực cho ta thấy điểm tới vẫn chưa đạt. Bởi, đó không chỉ là “hiểu biết” thôi, mà là phấn đấu hết sức lực để tạo hiểu biết. Và, ta cũng chưa đạt điểm-tới đó. “Ngẫm nghĩ”, chuyên chở một ý nghĩ về những chuyện như thế và cứ thế xảy đến về sau. Cũng tựa hồ như bé em bập-bẹ mãi câu “tại sao thế này?” “tại sao thế kia?”, rất nhiều lần. Hỏi như bé, cả vào khi bé biết mình không có được câu trả lời thoả đáng, khi ngôn-ngữ và từ-vựng đà hết chữ. Chính đó, là lúc tư-duy khởi sự như từng khởi từ đó, trong kinh ngạc. Khả năng không thể nói ra, là địa hạt của “tư-duy”. Khi có người hỏi: “Bạn đang suy tư về những gì thế?” Lúc đó, ta sẽ yêu cầu người hỏi bỏ liên-tự “về” kia đi. Bởi tôi đây, chỉ mới tư-duy có một chút nhưng chắc chắn không phải: “về” bất cứ thứ gì tư riêng, đặc biệt. Đôi khi, ta cũng ngồi xuống mà tư-duy, suy cho kỹ hoặc chỉ ngồi xuống, thế thôi. Như thế, không phải là nghĩ hoặc suy “về” cái gì đúng hoặc “về” cái gì sai, hết. Cũng không phải “về” bằng chứng hoặc chẳng có bằng chứng, nào hết. Cũng không phải, “về” sự thể đặc biệt nào chỉ xâm nhập vào sự thể và cung cách có được tư-duy, thôi.
Ở đây, tôi muốn nói thêm đôi điều để khẳng định rằng: phần lớn những gì là tư-duy đích-thực lại là “suy-tư với”. Tôi có thể “suy-tư cùng” với ai đó, tức: cùng đồng hành trong suy tư, tức: suy tư “với” người nào đó, thế thôi. Cũng như thể, tôi đang suy-tư với anh, với chị...với mọi người đang ở đây như tôi từng tư-duy khi trước, chỉ mỗi thế. Đó là sự việc tương đối rất hiệp thông, có quan hệ mật thiết. Riêng tôi, ít lâu nay tôi quen biết linh mục nọ, một hôm có người hỏi là: cụ có tin Chúa không? Thì, cụ trả lời trong tích tắc, ngay rằng: Vâng. Tôi thật tình tin tưởng rằng tôi đang tin vào Ngài...
Nay, tôi lại giả thuyết có tầm kích ‘trí-tuệ’ về chuyện đó. Chuyện đó, lại là tầm kích “cảm xúc” về những việc như thế đó. Nhưng, tôi vẫn cảm thấy nó như cứ quyện vào nhau. Và có thể, quý vị cũng có cảm giác tương tự như thế. Và cụm từ “cảm giác” đây, bao gộp cả hai tầm kích mà ta vừa nói đến. Tôi, thì tôi nghĩ rằng: cảm giác là những cảm xúc có giác quan giống như thi-ca. Và sự thể: hai tầm kích này cứ quyện vào nhau đến độ ngày nay đôi lúc người ta bảo: nó mang tính-chất rất “quan hệ” của niềm tin, tức: có tầm mức quan trọng để ta tập trung nhấn mạnh vào đó, bao lâu mà khiá cạnh trí-tuệ được gộp vào với khiá cạnh của “cảm xúc”, thế thôi.
Xin cho tôi được tiếp tục bàn thêm một chút nữa về cụm từ “ý-nghĩa”. Đôi khi ta có thể ở trong loại-hình quan-hệ nào đó với ai khiến cho ta, tự thân, dám đồng thuận với câu hỏi như thể hỏi rằng: người khác ấy là ai; nhưng lại muốn hỏi: họ có nói cho ta biết về những gì, và có bảo là: ta không biết và sẽ không thể “hiểu biết” bằng cách nào khác. Xem thế thì, tư-duy là “suy-tư với” người nào, để rồi ta có thể diễn rộng cụm-từ “suy-tư với” qua cụm từ “suy-tư có sự đồng-thuận”. Sự hiện diện của ai đó mà mình từng “tin tưởng” sẽ thay đổi lối suy-tư thông thường của mình vào với “suy-tư có sự đồng-thuận”. Dĩ nhiên, quý vị sẽ ngạc nhiên hoặc có lẽ sẽ phản đối đường lối này, nhưng thánh Augustinô từng mô tả “niềm tin” bằng cụm từ mà tiếng La-tinh thường vẫn gọi, là: “Cum assensu cogitate” (tức: tư-duy có sự đồng-thuận). Và thánh Tôma Akinô cũng không ngại ngần gì mà không mượn câu nói đó của thánh Augustinô để tùy nghi.
Cũng nên chiêm-niệm thêm nguồn tư-tưởng mà thánh Tôma Akinô từng viết trong bộ sách có tên là “Summa Theologica” (tức: “Tổng Kết Tư Tưởng Thần Học”) ở chương 2a-2ae, câu 1-2 về “niềm tin”. Thánh Tôma cũng từng chọn lập-trường của thánh Augustinô để chống lại Denys và như thế, là đồng-thuận với trường phái phương Tây, với truyền thống La-tinh hơn truyền-thống phương Đông Hy Lạp. Cùng với quan-điểm/lập trường của thánh Augustinô, thánh Tôma Akinô chấp-nhận tiến-trình tâm-lý như đã đề-cập trong cuốn “Những Lời Xưng Thú” của thánh Augustinô) quyết đi vào với khoảnh-khắc có ý-thức về “niềm tin”, và đứng vững ở đó mãi. “Tư-duy có sự đồng-thuận” bao gồm những sự việc như thế. Còn truyền-thống Đông Phương, đúng ra là một huyền-bí có sẵn, khiến tiến-trình này được vinh-thăng.
Tư-duy tiến-triển, là tư-duy xuyên suốt cùng người khác. Và, tư-duy hoà-đồng, lại có nghĩa: cùng nhau bàn bạc để suy-tư. Đó là trào-lưu trí-tuệ đã thảo luận thật kỹ nhưng chưa đạt tầm nhìn trong-sáng về sự thật. Tư-duy mà lại thiếu tính kiên định vào phút cuối và thiếu cả sự đồng-thuận trong-suốt có khả-năng duy-trì quyết-tâm chọn lựa (như trí tuệ vẫn ngờ), hoặc nghiêng phía này thay vì phía khác (như nó từng ngờ), hoặc nghiêng về một phía có động-cơ nghiêm-trọng, nhưng lại cứ sợ phía bên kia nói đúng hơn (tức có chủ trương rạch ròi). “Tin”, là sự thể đạt được từ quá trình biện-luận như thế, nhưng mạnh mẽ hơn, bởi nó đòi nghiêng về một phía, mà lại không có được tầm nhìn trong sáng, về lâu về dài.
Thánh Tôma Akinô xem ra cũng không ngại ngần chuyện song-hành bằng kiểu-cách tham-gia cấp độ “tin-tưởng” ở mức thấp, để có thể sẻ san đôi điều với cấp độ ở trên cao; và, những gì ở cấp độ trên cao ấy, lại san sẻ đôi chút với cấp độ cao hơn nữa. Xem thế thì, “tin” là quà tặng luôn chảy từ Đức Giêsu xuống với môn đệ, rồi xuống với các lãnh đạo của Hội thánh để rồi cứ thế tuôn đổ xuống trên ta. Từ đó, ta đi vào và cùng với ngành sư-phạm của mình để rồi, từng chút và từng chút, việc đó khiến ta học cách “tin tưởng” mỗi ngày nhiều hơn. Tôi thiểt nghĩ, thánh Augustinô đã tạo nguồn-cội cho thánh Tôma AKinô tham-khảo chuyện này. Một lần nữa, ta cũng nên xem thêm cuốn “Những Lời Xưng Thú” của thánh-nhân, để thấy rõ hơn.
Có thể, có người lại sẽ hỏi về sự việc như thế. Hỏi, là hỏi rằng: phải chăng trong tiến-trình tổng-thể mọi sự-việc, ta có khám phá ra được ý-nghĩa của lập trường tư riêng tuy không độc nhất nhưng có sự hiện-diện tích-cực của cái tôi ôm choàng tất cả không? Cái “tôi” đây, có phú-ban hữu-thể nhỏ là tôi đây với đảm bảo là tất cả mọi sự sẽ tiến triển bên trong cái “Tôi” được thăng-hoá cách tích cực trên cái tôi nhỏ bé này không? Xác tín sự thể này, có là cơ sở cho niềm tin đích-thực, không? “Tin” có đi vào động-tác phát tự con tim không? Có là kết quả của sự-thể rất vô-biên là mẹ đẻ đã sản-sinh ra trẻ bé là kẻ tin không? Chắc chắn, đây là tiến trình xảy ra bên trong nội-tâm ta. Thế nên, có người lại những hỏi: thế đó có là tiến trình xuất ra bên ngoài, nhờ đó ta dám bảo: tiến-trình này còn diễn tiến cả trong Chúa nữa, đúng thế không?
Nếu đúng là như thế, thì tôi cũng ngờ rằng: giả như “niềm tin” sẽ mãi mang tính chất tâm-lý thể-hiện qua tư-duy đơn độc, hoặc nó có là kết cuộc “từng chút lại từng chút” của tiến trình/luận-cứ tâm-tư trên cấp độ của chính nó...
Ở ngoài đời, ta chỉ biết có chút ít hoặc chẳng “hiểu biết” Thứ Gì khác biệt hết, thì làm sao ta lại nói là mình vẫn đang “tin” được?
Ở đây, tôi chỉ gợi hứng để ta đi vào với những gì mình nhắm hướng mà đi đến trong diễn trình này. Tôi đang bước ra khỏi, ít là mẫu-mã của niềm tin “có ý thức”, tựa như mẫu-mã vẫn chủ-đạo niềm tin, bấy lâu nay. Bằng cung cách đề nghị như thế, tôi lại đã nhận ra rằng: mình đang đi vào chiều hướng thoát ra khỏi nền thần-học cổ-điển lẫn ngành giáo-dục tâm-lý về niềm tin, cũng rất mới.
Nhưng trong khoảnh khắc hiện tại, ta vẫn còn nhiều điều để nói về “niềm tin” đang đi tới do bởi những cam kết có ý-thức.
Thật vậy. Nếu lấy ví dụ bảo rằng: sự đồng-thuận có ý-thức về mẫu-mã chứng-thực cách tư-riêng khả dĩ đã được sử dụng để giới thiệu cho mọi người về chiều-kích khá phong-phú của niềm tin. Tỉ như, ta cứ coi niềm tin như hoạt-động giúp ta chọn mục đích sống trong đời, hoặc đặc biệt hơn, nó lại trình bày niềm tin như sự lựa chọn niềm vui để được vui hơn thế nữa, trong cuộc đời. Có thể, đó cũng là lý do tại sao một số người lại thấy được tính-chất tương-hợp trong việc mặc lấy niềm tin tương tự như việc dấn thân vào với hôn-nhân. (Tuy nhiên, cũng xin mở ngoặc ở đây, để hỏi: thế còn, với những người không tin vào thứ gì hết hoặc chẳng tin một ai thì sao?)...
(còn tiếp)
-----------------
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch