Viết trên First Things, Đức Tổng Giám Mục Charles J. Chaput nói rằng:



Những người khác đã viết rất hay về di sản của Joseph Ratzinger và nhiệm kỳ của ngài trong tư cách Giáo hoàng Bênêđictô XVI. Đối với tôi, hai chữ đi đôi với nhau này sẽ luôn nắm bắt được bản chất của con người: niềm tin và lý trí, hiện thực và hy vọng. Ngài hiểu rằng nếu không có kỷ luật của đức tin, lý trí sẽ biến thành một công cụ quyền lực; và nếu không có kỷ luật của lý trí, đức tin trở thành một tập hợp của những tâm tình đạo đức trống rỗng. Ngài cũng hiểu rằng lạc quan là một tâm trạng, không phải là một nhân đức. Lạc quan không phải là hy vọng. Các Kitô hữu cần một chủ nghĩa hiện thực lành mạnh và thường khó khăn về thế giới và bản chất con người, nhưng cũng cần một niềm tin tưởng tối hậu vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Đó là những suy nghĩ của tôi. Cảm xúc của tôi rối bời hơn, xen lẫn giữa đau buồn và e ngại. Tôi sẽ rất nhớ ảnh hưởng của Đức Bênêđictô trong Giáo hội, ảnh hưởng vẫn còn tồn tại ngay cả khi ngài nghỉ hưu. Sự hiện diện lặng lẽ của ngài đã cho tôi niềm tin rằng lời dạy của ngài vẫn còn sống trong thời kỳ hỗn loạn của chúng tôi. Sẽ dễ dàng hơn cho một số người phủ nhận hoặc phớt lờ những lời dạy đó khi Đức Bênêđictô đã ra đi. Vì vậy, tôi tiếc nuối niềm an ủi vì có sự hiện diện sống động của ngài trong Giáo hội.

Lần đầu tiên đích thân gặp ngài, tôi còn là một giám mục trẻ của Giáo phận Rapid City. Tôi đã tham gia tích cực vào các cuộc tranh luận của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ về các bản dịch phụng vụ. Tôi lo ngại rằng những bản dịch kém từ tiếng Latinh không những chỉ là những bản dịch kém mà còn là những nỗ lực gạt bỏ một số giáo lý khó hiểu của Giáo hội—chẳng hạn như sự đồng trinh vĩnh viễn của Đức Maria, với việc Thánh Giuse được gọi đơn giản là người phối ngẫu của ngài hơn là “chồng của trinh nữ”. Tôi đang ở Rôma để họp và xin được gặp Đức Hồng Y Ratzinger tại Bộ Giáo Lý Đức Tin. Tôi nhớ mình đã rất lo lắng khi đến nơi, nhưng ngài đã chào đón tôi với sự ấm áp và khiêm nhường, đồng thời cho tôi những lời khuyên bổ ích và sự khích lệ hết lòng để tôi hiểu rằng tất cả các giám mục đều là thầy dạy đức tin như nhau, chứ không chỉ các giám mục từ các giáo phận lớn. Ngài cũng đề nghị cung cấp sự hỗ trợ nhân viên của ngài để giải quyết các vấn đề khác nhau phát sinh vào thời điểm đó.

Nhiều năm sau, trong tư cách tổng giám mục, tôi đến Milan để nghe thông báo việc Philadelphia sẽ là địa điểm tiếp theo cho Đại hội Gia đình Thế giới. Tôi có đặc ân ngồi chung bàn với Đức Bênêđictô và một gia đình quân nhân đến từ Hoa Kỳ. Ngài rất duyên dáng. Ngài nói chuyện với mọi người và rất tử tế với các trẻ em. Tôi nghe nói ngài thích soda Fanta màu cam và thấy quả đúng như thế- một bình lớn chứa nó ở trên bàn. Giống như chia sẻ bữa ăn với một thành viên trong gia đình mình. Dù e lệ nhưng Đức Giáo Hoàng luôn rất tốt bụng và sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết để khiến người khác được thoải mái.

Tôi cũng nhớ đến chuyến viếng thăm ad limina của tôi trong tư cách tổng giám mục dưới triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô. Tôi đã gặp ngài cùng với bốn Giám Mục Phụ Tá của Philadelphia. Tôi đã yêu cầu các vị phụ tá chia sẻ nhiệm vụ trình bày tài liệu của chúng tôi, vì vậy mỗi người chúng tôi đã trình bày một phần báo cáo miệng. Đức Bênêđictô chăm chú lắng nghe cả năm người chúng tôi. Ngài không nói gì và không ghi chép gì. Sau khi tôi hoàn thành phần cuối cùng của báo cáo, Đức Giáo Hoàng đã trả lời bằng cách đưa ra một bản tóm tắt xuất sắc về từng phần trong số năm phần với lời bình luận và gợi ý của riêng ngài — tất cả đều từ trí nhớ, và mọi yếu tố trong câu trả lời của ngài đều sắc sảo và đúng mục tiêu mục vụ. Đó là một kinh nghiệm đáng kinh ngạc. Đức Bênêđictô đơn giản là người thông minh nhất mà tôi từng gặp—không chỉ trong sự hiểu biết mà còn trong cách diễn đạt của ngài, và rõ ràng là một ứng viên một ngày nào đó trở thành Tiến sĩ Hội thánh.

Tôi cũng nhớ khi Đức Thánh Cha Bênêđictô bổ nhiệm tôi làm một trong những “khách viếng thăm” Legion of Christ [đạo binh Chúa Kitô] sau khi vụ lạm dụng của người sáng lập nó bị công khai. Sáu giám mục từ khắp nơi trên thế giới đã được trao nhiệm vụ này, và khi kết thúc quá trình, chúng tôi đã tập hợp lại để gặp Đức Bênêđictô nhằm tóm tắt các báo cáo của chúng tôi và trả lời các câu hỏi. Ngài rất coi trọng các báo cáo của chúng tôi và sau đó tìm kiếm lời khuyên của chúng tôi về những gì nên làm đối với tương lai của Đạo Binh. Ngài đã không quyết định trước và hoàn toàn thân thiện trong cách tiếp cận của ngài. Việc ngài xử lý tình huống tồi tệ và đau đớn này đã minh họa cho mục vụ hợp tác giữa một giáo hoàng và các giám mục để phục vụ chân lý và phục vụ Giáo hội và các thành viên của Giáo hội.

Tiếng nói và chứng tá của Joseph Ratzinger sẽ rất được tiếc nhớ trong đời sống của Giáo hội—có lẽ đặc biệt vì phẩm chất hiện tại của đời sống trí thức của Giáo hội. Nhưng nếu ngài ở đây, ngài có thể nhắc chúng ta nhớ lại những lời ngài đã viết cách đây hơn nửa thế kỷ, những lời vẫn còn đúng ngày nay: “Đức tin trước hết không phải là một tòa nhà khổng lồ gồm nhiều sự kiện siêu nhiên... mà là sự thuận ý với Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng và niềm tín thác”. Trong cốt lõi, “đức tin không phải là một hệ thống kiến thức, mà là sự tín thác”. Và Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người.