Ngày 28 tháng 10, Văn phòng Tổng thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã cho công bố bản Tường trình Tổng hợp của Kỳ họp đầu tiên từ ngày 4 tới ngày 29 tháng 10 của Thượng Hội Đồng về tính Đồng nghị bằng tiếng Ý. Mãi tới ngày 31 tháng 10, bản tiếng Anh mới được Văn phòng này công bố. Chúng tôi dựa vào bản tiếng Anh này để chuyển ngữ sang tiếng Việt:



PHIÊN HỌP TOÀN THỂ THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
Phiên đầu tiên (4-29 tháng 10 năm 2023)

Tường trình tổng hợp

MỘT GIÁO HỘI ĐỒNG NGHỊ TRONG SỨ MỆNH
Ngày 28 tháng 10 năm 2023

DẪN NHẬP

Anh chị em thân mến,

“Tất cả chúng ta đều đã được rửa bởi một Thánh Thần để trở nên một thân thể” (1 Cr 12:13). Đó là kinh nghiệm đầy niềm vui và lòng biết ơn mà chúng tôi đã có được trong Phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng, được tổ chức từ ngày 4 đến ngày 28 tháng 10 năm 2023, với chủ đề “Vì một Giáo hội có tính Thượng hội đồng. Hiệp thông, tham gia, sứ mệnh”. Nhờ ân sủng chung của Bí tích Rửa tội, chúng tôi có thể sống cùng nhau bằng một trái tim và một tâm hồn, bất chấp sự đa dạng về nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hóa của chúng tôi. Giống như một ca đoàn, chúng tôi cố gắng hát bằng nhiều giọng khác nhau và trong sự hiệp nhất của các tâm hồn. Chúa Thánh Thần đã cho phép chúng tôi cảm nghiệm được sự hòa hợp mà chỉ có Người mới có thể tạo ra: đó là một hồng ân và một chứng từ trong một thế giới tan nát và chia rẽ.

Cuộc họp của chúng tôi diễn ra trong khi các cuộc chiến tranh cũ và mới đang hoành hành trên thế giới, với những hậu quả bi đát ảnh hưởng tới vô số nạn nhân. Tiếng kêu của người nghèo, của những người bị buộc phải di cư, của những người phải chịu đựng bạo lực hoặc phải gánh chịu những hậu quả tàn khốc của biến đổi khí hậu đã vang vọng giữa chúng tôi, không những qua các phương tiện truyền thông, mà còn từ tiếng nói của nhiều người, đích thân can dự các biến cố bi thảm này hoặc qua gia đình họ, hoặc qua dân tộc của họ. Chúng tôi luôn mang theo mọi người trong trái tim và trong lời cầu nguyện, tự hỏi làm thế nào các Giáo hội của chúng tôi có thể thúc đẩy những con đường hòa giải, hy vọng, công lý và hòa bình.

Cuộc gặp gỡ của chúng tôi diễn ra ở Rôma, tụ tập quanh người kế vị Thánh Phêrô, người đã củng cố đức tin của chúng tôi và thúc đẩy chúng tôi mạnh dạn thực hiện sứ mệnh. Thật là một ân sủng khi bắt đầu cuộc hành trình những ngày này bằng một buổi canh thức đại kết, trong đó chúng tôi thấy các nhà lãnh đạo và đại diện của các hệ phái Kitô giáo khác cùng cầu nguyện với Đức Giáo Hoàng tại mộ Thánh Phêrô: sự hiệp nhất âm thầm lên men trong Giáo Hội Thánh của Thiên Chúa; chúng tôi thấy nó bằng đôi mắt của mình và tràn đầy niềm vui khi chúng tôi làm chứng cho nó. «Thật đẹp đẽ và ngọt ngào biết bao khi anh em được sống bên nhau!» (Tv 133:1).

Theo ý muốn của Đức Thánh Cha, Phiên họp đã chứng kiến các thành viên khác của dân Chúa tụ họp với nhau và xung quanh các Giám mục. Các Giám Mục, hợp nhất giữa họ và với Giám Mục Rôma làm cho Giáo Hội hiển hiện như một hiệp thông các Giáo Hội. Các giáo dân nam nữ, tu sĩ nam nữ, phó tế và linh mục, cùng với các Giám mục, là những chứng nhân của một tiến trình có ý hướng bao gồm toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội. Sự hiện diện của họ nhắc nhở chúng ta rằng Phiên họp không phải là một biến cố biệt lập, mà là một phần không thể thiếu và là bước cần thiết của tiến trình đồng nghị. Trong vô số các can thiệp và nhiều quan điểm, đã vang lên kinh nghiệm của một Giáo hội đang học hỏi phong cách đồng nghị và tìm kiếm những hình thức phù hợp nhất để đạt được nó.

Đã hơn hai năm kể từ khi chúng ta bắt đầu hành trình dẫn đến Phiên họp này. Sau khi khai mạc diễn trình Thượng Hội đồng vào ngày 9 tháng 10 năm 2021, tất cả các Giáo hội, mặc dù ở các nhịp độ khác nhau, đã tham gia vào một diễn trình lắng nghe bao gồm các giai đoạn cấp giáo phận, quốc gia và lục địa, kết quả của những diễn trình đó đã được đưa vào các tài liệu tương ứng. Kỳ họp này đã mở ra giai đoạn trong đó toàn thể Giáo hội nhận được hoa trái của cuộc tham vấn này để phân định, trong cầu nguyện và đối thoại, những con đường mà Chúa Thánh Thần yêu cầu chúng ta đi theo. Giai đoạn này sẽ kéo dài đến tháng 10 năm 2024, khi kỳ họp thứ hai của Phiên họp sẽ hoàn thành công việc của mình và đệ trình nó lên Đức Thánh Cha.

Toàn bộ cuộc hành trình, bắt nguồn trong Truyền thống của Giáo hội, đang diễn ra dưới ánh sáng của huấn quyền Công đồng. Thật vậy, Công đồng Vatican II giống như một hạt giống được gieo trên cánh đồng của thế giới và của Giáo hội. Cuộc sống hằng ngày của các tín hữu, kinh nghiệm của các Giáo hội trong mọi dân tộc và mọi nền văn hóa, những chứng từ đa dạng về sự thánh thiện, suy tư của các nhà thần học là mảnh đất để nó nảy mầm và phát triển. Thượng Hội đồng 2021-2024 tiếp tục phát huy năng lực của hạt giống đó và phát triển tiềm năng của nó. Con đường đồng nghị trên thực tế là thực hiện những gì Công đồng đã dạy về Giáo hội như một Mầu nhiệm và Dân Thiên Chúa, được mời gọi nên thánh. Nó trân qúi sự đóng góp của tất cả những người đã được rửa tội, trong những ơn gọi khác nhau của họ, vào việc hiểu biết và thực hành Tin Mừng tốt hơn. Theo nghĩa này, nó tạo thành một hành vi đích thực tiếp nhận Công đồng hơn nữa, kéo dài nguồn cảm hứng của Công đồng và khởi động lại sức mạnh tiên tri của Công đồng cho thế giới ngày nay.

Sau một tháng làm việc, giờ đây Chúa kêu gọi chúng tôi quay trở lại Giáo hội của mình để chuyển giao thành quả công việc của chúng tôi cho tất cả anh chị em và cùng nhau tiếp tục cuộc hành trình. Ở Rôma này chỉ có một vài người trong chúng tôi, nhưng ý nghĩa của con đường đồng nghị được Đức Thánh Cha công bố là có sự tham gia của tất cả những người đã được rửa tội. Chúng tôi nhiệt thành mong muốn điều này xảy ra và muốn làm việc chăm chỉ để biến nó thành hiện thực. Trong Tường trình Tổng hợp này, chúng tôi đã thu thập những yếu tố chính xuất hiện trong cuộc đối thoại, cầu nguyện và thảo luận đặc trưng trong những ngày này. Những câu chuyện bản thân của chúng tôi sẽ làm phong phú thêm bản tóm lược này bằng giọng điệu của trải nghiệm sống, điều mà không tài liệu nào có thể truyền tải được. Do đó, chúng tôi sẽ có thể làm chứng cho các anh chị em những giây phút thinh lặng, lắng nghe, chia sẻ và cầu nguyện. Chúng tôi cũng xin chia sẻ việc không dễ lắng nghe những ý kiến khác nhau mà không chiều theo cơn cám dỗ phản công ngay các quan điểm đã phát biểu; hay cống hiến sự đóng góp của mình như một món quà cho người khác chứ không phải như một điều tuyệt đối hay chắc chắn. Tuy nhiên, ân sủng của Chúa đã khiến chúng tôi làm được điều đó, bất chấp những hạn chế của chúng tôi, và đây là một kinh nghiệm thực sự về tính đồng nghị đối với chúng tôi. Bằng cách thực hành nó, chúng tôi hiểu nó rõ hơn và hiểu được giá trị của nó.

Thực vậy, chúng tôi đã hiểu rằng việc cùng nhau bước đi như những người đã được rửa tội, trong sự đa dạng của các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ, là điều quan trọng không những đối với cộng đồng của chúng ta mà còn đối với thế giới. Tình liên đới Tin Mừng giống như một ngọn đèn, không được đặt dưới thùng nhưng trên chân đèn để nó soi sáng cả nhà (xem Mt 5:15). Thế giới ngày nay cần chứng tá này hơn bao giờ hết. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không thể trốn tránh nhiệm vụ thể hiện và truyền tải tình yêu và sự dịu dàng của Thiên Chúa cho nhân loại bị tổn thương.

Công việc của Kỳ họp này diễn ra theo con đường được đưa ra bởi Tài liệu làm việc, mời gọi chúng tôi suy gẫm về những dấu hiệu đặc trưng của một Giáo hội đồng nghị và về động lực của sự hiệp thông, sứ mệnh và sự tham gia trong đó. Việc so sánh các câu hỏi được đề nghị đã khẳng định chất lượng của sơ đồ hoàn cầu của hướng tìm tòi. Chúng tôi đã có thể đi sâu vào giá trị của các vấn đề, xác định các chủ đề cần phân tích sâu xa và đưa ra những đề nghị cốt lõi đầu tiên. Dựa trên những tiến bộ đã đạt được, bản Tường trình Tổng hợp không nhắc lại hoặc nói lại tất cả nội dung của Tài liệu làm việc, nhưng mang lại đà thúc đẩy mới cho những câu hỏi và chủ đề được chúng tôi coi là ưu tiên. Nó không hề là một tài liệu cuối cùng, mà là một công cụ phục vụ việc phân định vẫn còn cần phải tiếp tục.

Tường trình Tổng hợp được cấu trúc thành ba phần. Phần đầu tiên phác thảo “Bộ mặt của Giáo hội đồng nghị”, trình bày việc thực hành và cái hiểu tính đồng nghị và các nguyên tắc nền tảng của nó. Ở đây, nó được trình bầy trước hết như một trải nghiệm tâm linh phát sinh từ việc chiêm ngưỡng Ba Ngôi và triển khai bằng cách khớp nối tính hiệp nhất và tính đa dạng trong Giáo hội. Phần thứ hai, có tựa đề “Tất cả các môn đệ, tất cả các nhà truyền giáo”, đề cập đến tất cả những người can dự vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội cũng như các mối quan hệ của họ với nhau. Trong phần này, tính đồng nghị chủ yếu được trình bầy như một cuộc hành trình chung của dân Chúa và như một cuộc đối thoại hữu hiệu giữa các đặc sủng và thừa tác vụ nhằm phục vụ sự xuất hiện của Vương quốc. Phần thứ ba mang tên “dệt các mối dây liên kết, xây dựng cộng đồng”. Ở đây tính đồng nghị được trình bầy chủ yếu như một tập hợp các tiến trình và một mạng lưới các tổ chức cho phép trao đổi giữa các Giáo hội và đối thoại với thế giới.

Trong mỗi ba phần này, mỗi chương cá thể tập hợp những điểm hội tụ, những vấn đề cần giải quyết và những đề nghị nảy sinh từ cuộc đối thoại. Những điểm hội tụ xác định những điểm chuyên biệt hướng dẫn sự suy tư: chúng giống như một tấm bản đồ giúp chúng ta định hướng trên đường đi. Các vấn đề để xem xét tập hợp những điểm mà chúng tôi nhận ra cần phải tiếp tục nghiên cứu thần học, mục vụ và giáo luật: chúng giống như những ngã tư mà chúng ta cần phải dừng lại, để hiểu rõ hơn về hướng đi cần phải theo. Còn các đề nghị chỉ ra những con đường khả thi có thể đi theo: một số được đề nghị, một số khác được khuyến nghị, một số khác đòi sức mạnh và quyết tâm.

Trong những tháng tới, các Hội đồng Giám mục và Cơ cấu phẩm trật của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, đóng vai trò là mối liên kết giữa các Giáo hội địa phương và Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng hội đồng, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển suy tư. Bắt đầu từ những điểm hội tụ đã đạt được, họ được kêu gọi tập trung vào những vấn đề và đề nghị phù hợp và cấp bách nhất, khuyến khích việc nghiên cứu thần học và mục vụ của họ cũng như chỉ ra những hệ luận về giáo luật.

Chúng tôi mang trong lòng ước muốn, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, rằng bầu khí lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành mà chúng tôi đã trải qua trong những ngày làm việc chung ở Rôma sẽ lan tỏa trong cộng đồng của chúng ta và trên toàn thế giới, nhằm phục vụ sự phát triển của hạt giống tốt của Nước Thiên Chúa.

PHẦN I – KHUÔN MẶT CỦA GIÁO HỘI ĐỒNG NGHỊ

1. Tính đồng nghị: kinh nghiệm và cách hiểu

Các điểm hội tụ

a) Chúng tôi đã chấp nhận lời mời nhìn nhận chiều kích đồng nghị của Giáo hội với một ý thức mới. Các thực hành đồng nghị đã được chứng thực trong Tân Ước và trong Giáo hội sơ khai. Sau đó, chúng mang những hình thức lịch sử đặc thù trong các Giáo hội và truyền thống Kitô giáo khác nhau. Công đồng Vatican II đã “cập nhật” chúng và Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích Giáo hội canh tân chúng một lần nữa. Thượng Hội đồng 2021-2024 cũng tự lồng mình vào tiến trình này. Qua đó, Dân Thánh của Thiên Chúa đã khám phá ra rằng cách thức ở thinh lặng, cầu nguyện, lắng nghe và nói năng đồng nghị, bắt nguồn từ Lời Chúa và đan xen với những khoảnh khắc gặp gỡ trong niềm vui, và đôi khi cả trong mệt mỏi, dẫn đến một ý thức sâu sắc hơn rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em trong Chúa Kitô. Một thành quả vô giá là việc gia tăng nhận thức về căn tính của chúng ta như Dân trung thành của Thiên Chúa, giữa lòng Dân này mỗi người là người mang một phẩm giá bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội và được mời gọi đồng trách nhiệm một cách dị biệt hóa đối với sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng chung.

b) Quá trình này đã đổi mới kinh nghiệm của chúng ta và mong muốn của chúng ta về một Giáo hội như là nhà và gia đình của Thiên Chúa, một Giáo Hộigần gũi hơn với cuộc sống của Dân mình, ít quan liêu hơn và mang tính tương quan hơn. Các thuật ngữ “đồng nghị” và “tính đồng nghị” đã được liên kết với kinh nghiệm và ước vọng này, cung ứng cho chúng ta một sự hiểu biết đầu tiên, nay cần được giải thích rõ ràng hơn. Đó là Giáo hội mà người trẻ đã tuyên bố họ mong muốn vào năm 2018, nhân dịp Thượng Hội đồng về Tuổi Trẻ.

c) Chính cách thức trong đó diễn ra Phiên họp tại Hội trường Phaolô VI, bắt đầu từ việc sắp xếp mọi người ngồi thành từng nhóm nhỏ quanh những chiếc bàn tròn, có thể so sánh với hình ảnh tiệc cưới trong Kinh thánh (Kh 19:9), nó mang tính biểu tượng của một Giáo hội đồng nghị và hình ảnh của Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và đỉnh cao của tính đồng nghị, với Lời Chúa ở trung tâm. Trong một Giáo Hội biết sống cách đồng nghị, các nền văn hóa, ngôn ngữ, nghi thức, lối suy nghĩ và thực tại khác nhau có thể dấn thân với nhau và một cách hữu hiệu trong cuộc tìm kiếm chân thành sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

d) Ở giữa chúng tôi, có sự hiện diện của các anh chị em đến từ các dân tộc nạn nhân của chiến tranh, tử đạo, bách hại và đói khát. Hoàn cảnh của nhân dân họ, những người thường không thể tham gia vào tiến trình Thượng Hội đồng, vẫn đã đi vào những trao đổi và cầu nguyện của chúng tôi, nuôi dưỡng ý thức hiệp thông của chúng tôi với họ và quyết tâm của chúng tôi trở thành những người kiến tạo hòa bình.

e) Phiên Họp thường xuyên nói đến niềm hy vọng, sự chữa lành, sự hòa giải và việc khôi phục lòng tin cậy giữa vô số hồng ân mà Chúa Thánh Thần đã tuôn đổ trên Giáo hội trong diễn trình thượng hội đồng này. Sự cởi mở lắng nghe và đồng hành với mọi người, kể cả những người bị lạm dụng và bị tổn thương trong Giáo hội, đã khiến nhiều người từ lâu cảm thấy vô hình trở nên hữu hình. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài hướng tới sự hòa giải và công lý, bao gồm việc giải quyết các điều kiện cơ cấu từng cho phép xảy ra những hành vi lạm dụng như vậy và thực hiện những cử chỉ sám hối cụ thể.

f) Chúng ta biết rằng “tính đồng nghị” là một thuật ngữ xa lạ đối với nhiều thành viên dân Chúa, điều này gây ra sự nhầm lẫn và lo lắng ở một số người. Trong số những nỗi sợ hãi đã được phát biểu, có nỗi sợ giáo huấn của Giáo hội sẽ bị thay đổi, khiến chúng ta xa rời đức tin tông truyền của cha ông chúng ta và phản bội những kỳ vọng của những người, cả ngày nay nữa, vẫn đói khát Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi xác tín rằng tính đồng nghị là biểu thức của Truyền thống năng động và sống động.

g) Không bác bỏ tầm quan trọng của nền dân chủ đại nghị, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đáp lại mối lo ngại của một số người cho rằng Thượng hội đồng có thể trở thành một cơ quan nghị bàn đa số, mất đi đặc tính giáo hội và thiêng liêng của nó, gây nguy hiểm cho bản chất phẩm trật của Giáo hội. Rõ ràng một số người sợ bị buộc phải thay đổi; những người khác sợ rằng sẽ không có gì thay đổi và sẽ có quá ít can đảm để bước theo nhịp điệu của Truyền thống sống động. Một số bối rối và chống đối cũng đôi khi che giấu nỗi sợ mất quyền lực và những đặc quyền có được từ đó. Trong mọi trường hợp, trong mọi bối cảnh văn hóa, các thuật ngữ “đồng nghị” và tính đồng nghị ám chỉ một cách thức trở thành Giáo hội biết khớp nối hiệp thông, sứ mệnh và tham gia. Một thí dụ về điều này là Hội nghị Giáo hội Amazon (CEAMA), thành quả của tiến trình đồng nghị truyền giáo của khu vực đó.

h) Theo nghĩa rộng nhất, có thể hiểu tính đồng nghị như việc các Kitô hữu bước đi trong hiệp thông với Chúa Kitô hướng tới Vương quốc, cùng với toàn thể nhân loại. Hướng đi của nó là hướng đến sứ mệnh, và việc thực hành nó bao gồm việc tụ họp nhau trong phiên họp ở các bình diện khác nhau của đời sống Giáo hội. Nó bao gồm việc lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, phân định cộng đồng, tạo ra sự đồng thuận như một biểu thức làm cho Chúa Kitô hiện diện trong Chúa Thánh Thần, mỗi người lấy quyết định phù hợp với các trách nhiệm của mình.

i) Qua kinh nghiệm và các cuộc gặp gỡ, chúng tôi đã cùng nhau lớn lên trong ý thức trên. Tóm lại, ngay từ những ngày đầu tiên, Phiên Họp đã thấy mình được định hình bởi hai xác tín: thứ nhất là kinh nghiệm mà chúng ta chia sẻ trong những năm gần đây quả mang tính Kitô giáo chân chính và nên được chào đón với tất cả sự phong phú và sâu sắc của nó; thứ hai là các thuật ngữ “đồng nghị” và “tính đồng nghị” cần được làm sáng tỏ chính xác hơn về mức độ ý nghĩa của chúng trong các nền văn hóa khác nhau. Đã có sự đồng ý đáng kể về sự kiện: với những giải thích rõ ràng cần thiết, quan điểm đồng nghị đại diện cho tương lai của Giáo hội.

Các vấn đề để xem xét

j) Xây dựng trên công việc suy tư đã được thực hiện, cần phải làm rõ ý nghĩa của tính đồng nghị ở các bình diện khác nhau, trong các thuật ngữ mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giúp tránh được nguy cơ nghe có vẻ quá mơ hồ hoặc chung chung, hoặc có vẻ như chỉ là mốt hay thời trang nhất thời. Nó giúp chúng tôi cung ứng một cái hiểu rộng rãi về việc cùng nhau bước đi cần được thâm hậu hóa và soi sáng hơn nữa về phương diện thần học. Tương tự như thế, điều cần là làm rõ mối liên hệ giữa tính đồng nghị và hiệp thông, và giữa tính đồng nghị và tính hợp đoàn.

k) Đã xuất hiện mong muốn thăng tiến cái hiểu và việc đánh giá các khác biệt trong thực hành và cách hiểu tính đồng nghị giữa các truyền thống Kitô giáo Đông phương và truyền thống Latinh, kể cả tiến trình đồng nghị đang diễn ra, bằng cách khuyến khích các cuộc gặp gỡ giữa họ.

l) Đặc biệt, nên xem xét để suy tư sâu xa hơn nhiều cách diễn đạt về đời sống đồng nghị trong các bối cảnh văn hóa trong đó mọi người quen việc bước đi cùng nhau như một cộng đồng và trong đó chủ nghĩa cá nhân chưa bén rễ. Theo hướng này, thực hành đồng nghị đóng một phần quan trọng trong phản ứng mang tính tiên tri của Giáo hội đối với chủ nghĩa cá nhân vốn hướng vào chính mình, đối với chủ nghĩa dân túy gây chia rẽ và đối với một hoàn cầu hóa đồng nhất và san bằng. Mặc dù không giải quyết được những vấn đề này, nhưng phải cung cấp một cách hiện hữu và hành động thay thế đầy hy vọng, tích hợp nhiều quan điểm và cần được khám phá và soi sáng thêm.

Các đề nghị

m) Sự phong phú và sâu sắc của kinh nghiệm sống dẫn đến việc chỉ ra giá trị của việc mở rộng việc tham gia, và vượt qua những trở ngại đối với việc tham gia từng xuất hiện cho đến nay, cũng như cảm giác ngờ vực và lo sợ mà một số người vốn có.

n) Chúng ta cần phát triển những cách thức để các phó tế, linh mục và giám mục tham gia tích cực hơn vào tiến trình Thượng Hội đồng trong năm tới. Một Giáo hội đồng nghị không thể hoạt động nếu không có tiếng nói, kinh nghiệm và sự đóng góp của các ngài. Chúng ta cần hiểu rõ hơn lý do tại sao một số người lại cảm thấy cần phải đối kháng tính đồng nghị.

o) Nền văn hóa đồng nghị cần trở thành liên thế hệ nhiều hơn, với những không gian giúp người trẻ lên tiếng một cách thoải mái cho chính họ, bên trong gia đình họ, với bạn bè đồng trang lứa và các mục tử của họ, kể cả thông qua các kênh kỹ thuật số.

p) Đã có đề nghị cổ vũ, trong một diễn đàn thích hợp, công việc thần học nghiên cứu sâu xa về thuật ngữ và khái niệm về ý niệm và thực hành tính đồng nghị trước Phiên họp thứ hai của Phiên Họp, tận dụng di sản phong phú của các nghiên cứu sau Công đồng Vatican II và đặc biệt là các tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc tế về Tính đồng nghị trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội (2018) (xem https://vietcatholic.net/News/Home/Article/247935) và Cảm thức đức tin trong đời sống Giáo hội (2014) (xem https://vietcatholic.net/News/Home/Article/126908).

q) Các hệ luận giáo luật của tính đồng nghị đòi hỏi một việc làm sáng tỏ tương tự. Cả về vấn đề này, việc thành lập một ủy ban liên lục địa đặc biệt gồm các nhà thần học và giáo luật đã được đề nghị, nhằm Kỳ họp thứ hai của Phiên Họp.

r) Sau cùng, vào lúc này cần một việc sửa đổi sâu rộng hơn Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật của các Giáo hội Đông phương. Do đó, một nghiên cứu sơ bộ được đề nghị.

2. Được Chúa Ba Ngôi tập hợp và sai đi

Các điểm hội tụ

a) Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, Giáo hội là “một dân tộc được quy tụ lại với nhau nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Lumen Gentium 4). Chúa Cha, qua việc sai Chúa Con và ban Chúa Thánh Thần, lôi cuốn chúng ta vào tính năng động của hiệp thông và truyền giáo khiến chúng ta chuyển từ cái “tôi” sang cái “chúng tôi” và đặt chúng ta vào việc phục vụ thế giới. Tính đồng nghị chuyển dịch tính năng động Ba Ngôi qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại thành các thái độ thiêng liêng và các tiến trình giáo hội. Để điều này xảy ra, tất cả những người đã được rửa tội phải dấn thân thực thi ơn gọi, đặc sủng, thừa tác vụ của mình một cách hỗ tương. Chỉ bằng cách này, Giáo hội mới có thể thực sự có một cuộc “đàm luận” trong chính mình và với thế giới (xem Ecclesiam suam 67), bước đi bên cạnh mọi hữu thể nhân bản theo phong cách của Chúa Giêsu.

b) Từ nguồn gốc của nó, con đường đồng nghị của Giáo hội được điều hướng tới Vương quốc, một Vương quốc sẽ được viên mãn trọn vẹn khi Thiên Chúa là tất cả trong tất cả. Chứng tá của tình huynh đệ Giáo Hội và sự nhiệt thành truyền giáo để phục vụ những người hèn mọn nhất sẽ không bao giờ sánh được với Mầu Nhiệm mà chúng là dấu chỉ và dụng cụ. Giáo hội không suy nghĩ về cấu hình đồng nghị của riêng mình để đặt mình vào trung tâm của việc loan báo, nhưng để thực hiện một cách tốt nhất việc phục vụ sự xuất hiện của Vương quốc bất chấp sự không hoàn hảo về mặt cấu thành.

c) Việc canh tân cộng đồng Kitô giáo chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhìn nhận tính ưu việt của ân sủng. Nếu thiếu chiều sâu tâm linh, tính đồng nghị chỉ là chuyện phấn son hời hợt. Tuy nhiên, điều chúng ta được kêu gọi làm không những là chuyển dịch một kinh nghiệm tâm linh đã đạt được ở nơi khác thành các tiến trình cộng đồng, mà còn trải nghiệm được một cách sâu sắc hơn các mối liên hệ hỗ tương là nơi chốn và hình thức của một cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa ra sao. Theo nghĩa này, quan điểm đồng nghị, trong khi dựa trên di sản tinh thần phong phú của Truyền thống, góp phần đổi mới các hình thức của nó: một lời cầu nguyện mở ra cho sự tham gia, một sự phân định chung sống động, một năng lực truyền giáo nảy sinh từ việc chia sẻ và tỏa sáng như việc phục vụ.

d) Cuộc đàm luận trong Chúa Thánh Thần là một công cụ, mặc dù có những hạn chế, nhưng rất hữu ích trong việc giúp lắng nghe một cách chân chính để biện phân được những gì Chúa Thánh Thần đang nói với các Giáo hội. Việc thực hành nó khơi dậy niềm vui, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn và được trải nghiệm như một con đường đổi mới biến đổi các cá nhân, các nhóm và Giáo hội. Chữ “đàm luận” diễn tả một điều gì đó hơn cả một cuộc đối thoại đơn giản: nó đan xen một cách hài hòa giữa suy nghĩ và cảm xúc và tạo ra một thế giới sống chung. Vì lý do này, chúng ta có thể nói rằng sự hoán cải là việc đánh cuộc của đàm luận. Đây là một thực tại nhân học được tìm thấy nơi nhiều dân tộc và nền văn hóa khác nhau, vốn tụ họp nhau trong tình liên đới để thảo luận và quyết định những vấn đề sống còn cho cộng đồng. Ân sủng làm cho trải nghiệm nhân bản này trổ sinh hoa trái: đàm luận “trong Chúa Thánh Thần” có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ dưới ánh sáng đức tin và việc tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa, trong một bầu không khí Tin Mừng đích thực trong đó Chúa Thánh Thần có thể làm cho tiếng nói của Người được lắng nghe không thể bị nhầm lẫn.

e) Vì tính đồng nghị được điều hướng tới sứ mệnh, nên các cộng đồng Kitô giáo cần phải chia sẻ tình liên đới với những người nam nữ thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa khác, một mặt tránh nguy cơ tự quy chiếu và tự bảo vệ mình, mặt khác nguy cơ về việc mất danh tính. Luận lý học của đối thoại, được phát biểu trong việc học hỏi lẫn nhau và cùng nhau bước đi phải là đặc điểm của việc loan báo Tin Mừng và phục vụ người nghèo, chăm sóc ngôi nhà chung và nghiên cứu thần học.

Các vấn đề để xem xét

f) Để thực sự lắng nghe ý muốn của Chúa Cha, cần phải đào sâu các tiêu chuẩn phân định của Giáo Hội trong viễn ảnh thần học, để việc quy chiếu tới tự do và tính mới mẻ của Chúa Thánh Thần được phối hợp một cách thích đáng với biến cố Chúa Giêsu Kitô vốn xảy ra “một lần là đủ” (Dt 10:10). Điều này trước hết hàm nghĩa phải xác định rõ mối liên hệ giữa việc lắng nghe Lời Chúa được chứng thực trong Kinh thánh, việc chấp nhận Truyền thống và giáo huấn của Giáo hội và việc đọc các dấu chỉ thời đại một cách tiên tri.

g) Để đạt được mục đích này, điều cần thiết là phải cổ vũ các viễn kiến nhân học và linh đạo có khả năng tích hợp chứ không đặt cạnh nhau các chiều kích trí thức và cảm xúc của trải nghiệm đức tin, vượt qua mọi chủ nghĩa giản lược và bất cứ thuyết nhị nguyên nào giữa lý trí và tình cảm.

h) Điều quan trọng là phải làm rõ làm thế nào cuộc đàm luận trong Chúa Thánh Thần có thể tích hợp những đóng góp của tư tưởng thần học và các khoa học nhân văn và xã hội, cũng như dưới ánh sáng các mô hình phân định khác của Giáo hội được thực hiện theo trình tự “xem, phán đoán, hành động”, hoặc các bước “nhận biết, giải thích, lựa chọn”.

i) Cần phát triển sự đóng góp mà phương thức lectio divina và các truyền thống linh đạo khác nhau, xưa cũng như gần đây, có thể cống hiến cho việc thực hành biện phân. Thực thế, điều thích hợp là đề cao tính đa dạng của các hình thức và phong cách, các phương pháp và tiêu chuẩn mà Chúa Thánh Thần đã gợi ý qua nhiều thế kỷ và vốn là một phần di sản tinh thần của Giáo hội.

Các đề nghị

j) Cần phải thử nghiệm và thích ứng cuộc đàm luận trong Chúa Thánh Thần và các hình thức phân định khác trong đời sống của Giáo hội, bằng cách đánh giá cao sự phong phú của các truyền thống linh đạo khác nhau tùy theo nền văn hóa và bối cảnh. Những hình thức đồng hành thích hợp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành này, giúp nắm bắt được luận lý học của nó và vượt qua mọi đối kháng.

k) Mỗi Giáo hội địa phương tự trang bị cho mình những người phù hợp và được đào tạo để tạo điều kiện và đồng hành với các tiến trình phân định của Giáo hội.

l) Để làm sáng tỏ tính cụ thể của đời sống Giáo hội, điều quan trọng là việc thực hành biện phân cũng phải được thực hiện trong lĩnh vực mục vụ, theo cách thức thích nghi với bối cảnh. Điều này sẽ cho phép chúng ta nhận ra rõ hơn các đặc sủng hiện diện trong cộng đồng, giao phó một cách khôn ngoan các nhiệm vụ và mục vụ, hoạch định các con đường mục vụ dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, vượt ra ngoài việc lập kế hoạch hoạt động đơn giản.

3. Bước vào cộng đồng đức tin: Khai tâm Kitô giáo

Các điểm hội tụ

a) Khai tâm Kitô giáo là hành trình nhờ đó, qua thừa tác vụ của Giáo hội, Chúa dẫn chúng ta vào đức tin Phục Sinh và đưa chúng ta vào sự hiệp thông Ba Ngôi và Giáo hội. Hành trình này mang nhiều hình thức, tùy thuộc vào độ tuổi tại đó nó được thực hiện và các điểm nhấn khác nhau của truyền thống phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, việc lắng nghe Lời Chúa và việc hoán cải đời sống, việc cử hành phụng vụ và việc hòa nhập vào cộng đồng cũng như sứ mệnh của cộng đồng luôn đan xen với nhau. Chính vì lý do này mà con đường dự tòng, với những giai đoạn và chặng đường tiệm tiến, là mô hình cho mọi kinh nghiệm giáo hội cùng nhau bước đi.

b) Việc khai tâm giúp chúng ta tiếp xúc với nhiều ơn gọi và thừa tác vụ khác nhau trong Giáo hội. Tất cả những điều này nói lên khuôn mặt mẫu tử của một Giáo hội dạy con cái mình bước đi bằng cách bước đi với chúng. Giáo Hội lắng nghe chúng và khi trả lời những nghi ngờ và thắc mắc của chúng, Giáo Hội làm phong phú thêm sự mới lạ mà mỗi người mang trong mình, qua lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của họ. Trong việc thực hành hoạt động mục vụ này, cộng đồng Kitô giáo thường trải nghiệm hình thức đồng nghị đầu tiên, thường không hoàn toàn nhận thức được về nó.

c) Trước bất cứ sự phân biệt nào về các đặc sủng và thừa tác vụ, “tất cả chúng ta đều đã được rửa tội bởi một Chúa Thánh Thần để trở thành một thân thể” (1Cr 12:13). Vì lý do này, trong số tất cả những người đã được rửa tội có sự bình đẳng đích thực về phẩm giá và trách nhiệm chung đối với sứ mệnh, tùy theo ơn gọi của mỗi người. Nhờ sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, Đấng vốn “dạy mọi sự” (1 Ga 2:27), mọi tín hữu đều có một bản năng đối với chân lý của Tin Mừng, được gọi là sensus fidei [cảm thức đức tin]. Nó hệ ở một sự đồng bản nhiên nào đó với các thực tại thần linh và ở khả năng nắm bắt bằng trực giác những gì phù hợp với chân lý đức tin. Các diễn trình của Thượng Hội đồng thăng tiến hồng ân này và cho phép sự hiện hữu của việc đồng thuận này nơi các tín hữu (consensus fidelium) được xác nhận. Diễn trình này vốn cung ứng một tiêu chuẩn chắc chắn để xác định liệu một học thu-yết hoặc thực hành đặc thù có thuộc về đức tin tông đồ hay không.

d) Ân sủng Lễ Hiện Xuống trường tồn trong Giáo Hội qua Bí tích Thêm Sức. Nó làm phong phú các tín hữu bằng những ân sủng dồi dào của Chúa Thánh Thần. Nó mời gọi họ phát triển ơn gọi chuyên biệt của họ, bắt nguồn từ phẩm giá rửa tội chung của họ, để phục vụ sứ mệnh. Tầm quan trọng của nó phải được nhấn mạnh hơn và đặt trong mối tương quan với sự đa dạng của các đặc sủng và thừa tác vụ hình thành nên bộ mặt đồng nghị của Giáo hội.

e) Việc cử hành Bí tích Thánh Thể, đặc biệt là vào các Chúa nhật, là cách thức đầu tiên và nền tảng để Dân Thánh của Thiên Chúa tụ họp và gặp gỡ. Nơi nào việc này bất khả, cộng đoàn, dù mong muốn điều này, tụ tập quanh việc cử hành Lời Chúa. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cử hành mầu nhiệm ân sủng đã được ban cho chúng ta. Bằng cách mời gọi chúng ta tham dự vào Mình và Máu Người, Chúa làm cho chúng ta trở thành một thân thể giữa chúng ta và Người. Khởi đi từ việc Thánh Phaolô sử dụng thuật ngữ koinonia (xem 1Cr 10:16-17), truyền thống Kitô giáo trân quí thuật ngữ "hiệp thông” để đồng thời cho thấy sự tham gia trọn vẹn vào Bí tích Thánh Thể và bản chất của các mối liên hệ giữa các tín hữu và giữa các Giáo hội. Trong khi khai mở để chúng ta chiêm ngưỡng sự sống thần linh, những chiều sâu khôn dò của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thuật ngữ này cũng đề cập đến ‘tính hằng ngày’ của các mối liên hệ của chúng ta: trong những cử chỉ đơn giản nhất qua đó chúng ta thực sự mở cho nhau hơi thở của chính Chúa Thánh Thần. Vì lý do này, sự hiệp thông cử hành trong Bí tích Thánh Thể và phát sinh từ đó, sẽ cấu hình và định hướng các con đường của tính đồng nghị.

f) Từ Bí tích Thánh Thể, chúng ta học cách làm cho tính hiệp nhất và tính đa dạng nối khớp với nhau: tính hiệp nhất của Giáo hội và tính đa dạng của các cộng đồng Kitô hữu; tính hiệp nhất giữa mầu nhiệm bí tích và tính đa dạng của các truyền thống phụng vụ; tính hiệp nhất trong việc cử hành và tính đa dạng của ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ. Không gì cho thấy rõ hơn Bí tích Thánh Thể rằng sự hòa hợp được Chúa Thánh Thần tạo ra không phải là sự độc dạng và mọi hồng ân của Giáo Hội đều nhằm mục đích xây dựng chung.

Các vấn đề để xem xét

g) Bí tích Rửa tội không thể được hiểu một cách cô lập hoặc nằm ngoài luận lý của việc khai tâm Kitô giáo, càng không thể hiểu theo cách cá nhân chủ nghĩa. Do đó, cần phải thăm dò thêm sự đóng góp mà một viễn kiến hiệp nhất hơn về việc khai tâm Kitô giáo có thể mang lại cho cái hiểu về tính đồng nghị.

h) Việc thực thi trưởng thành cảm thức đức tin không những đòi hỏi phải lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà còn cả một cuộc đời sống trong tình môn đệ chân chính biết phát triển ơn thánh của Phép Rửa. Điều này giúp chúng ta phân biệt được hành động của Chúa Thánh Thần khỏi những hình thức của lối suy nghĩ hay điều kiện văn hóa đương thịnh, hoặc khỏi những vấn đề không phù hợp với Tin Mừng. Hiểu rõ việc thực thi cảm thức đức tin là điều cần được đào sâu bằng suy tư thần học thỏa đáng.

i) Suy tư về tính đồng nghị có thể cung ứng những cái nhìn thông suốt đổi mới để thấu hiểu Bí tích Thêm sức, qua đó ân sủng của Chúa Thánh Thần nói lên sự đa dạng của các ơn ban và đặc sủng trong sự hòa hợp của Lễ Hiện Xuống. Dưới ánh sáng của những kinh nghiệm khác nhau của Giáo Hội, cần phải nghiên cứu cách làm cho việc chuẩn bị và cử hành bí tích này hữu hiệu hơn, để thức tỉnh trong mọi tín hữu lời kêu gọi xây dựng cộng đồng, truyền giáo trên thế giới và làm chứng cho đức tin.

j) Từ quan điểm mục vụ thần học, điều quan trọng là phải tiếp tục nghiên cứu việc làm cách nào con đường dự tòng có thể cung ứng linh hứng cho các nẻo đường mục vụ khác, chẳng hạn như chuẩn bị hôn nhân, hoặc đồng hành trong việc lựa chọn dấn thân nghề nghiệp và xã hội, hoặc đào tạo cho thừa tác vụ thụ phong, trong đó toàn thể cộng đồng giáo hội phải tham gia.

Các đề nghị

k) Nếu Thánh Thể tạo hình cho tính đồng nghị, thì bước đầu tiên cần thực hiện là cử hành Thánh Lễ một cách xứng với ân phúc bằng một cảm thức tình bạn chân chính trong Chúa Kitô. Phụng vụ được cử hành cách chân chính là trường học đầu tiên và căn bản về tình môn đệ và tình huynh đệ. Trước bất cứ sáng kiến đào tạo nào của chúng ta, chúng ta phải để mình được hình thành bởi vẻ đẹp mạnh mẽ của phụng vụ và sự giản dị cao quý trong các cử chỉ của nó.

l) Bước thứ hai, được nhiều người cho biết, đề cập đến nhu cầu phải làm cho ngôn ngữ phụng vụ trở nên dễ tiếp cận hơn với các tín hữu và được hiện thân rõ hơn trong tính đa dạng của các nền văn hóa. Không nghi vấn về tính liên tục với truyền thống và nhu cầu đào tạo phụng vụ, chúng tôi kêu gọi phải suy gẫm về chủ đề này và quy trách nhiệm lớn hơn cho các Hội đồng Giám mục, theo đường lối của tự sắc Magnum Principium.

m) Bước thứ ba hệ ở cam kết mục vụ nhằm mở rộng mọi hình thức cầu nguyện cộng đồng, ngoài việc cử hành Thánh lễ. Những hình thức khác về lời cầu nguyện phụng vụ, cũng như các thực hành lòng đạo đức bình dân, trong đó, nét đặc sắc của nền văn hóa địa phương được phản ảnh, là những yếu tố có tầm quan trọng lớn trong việc khuyến khích sự tham gia của mọi tín hữu. Chúng dẫn nhập các tín hữu vào mầu nhiệm Kitô giáo và dẫn những người ít quen thuộc với Giáo Hội đến cuộc gặp gỡ với Chúa. Trong số các hình thức đạo đức bình dân, lòng sùng kính Đức Mẹ đặc biệt nổi bật vì khả năng hỗ trợ và nuôi dưỡng đức tin của nhiều người.

Còn tiếp