Cha Antonio Spadaro, SJ, trên Civiltà Cattolica, ngày 24 tháng 9 năm 2024, đã phổ biến nội dung các cuộc đàm luận giữa Đức Phanxicô và các tu sĩ Dòng Tên tại Indonesia, Đông Timor và Singapore. Sau đây là nguyên văn bài tường thuật của ngài:



Cuộc gặp gỡ tại Jakarta, Indonesia

Sau khi gặp Tổng thống Indonesia và chào các nhà chức trách và đoàn ngoại giao, vào khoảng 11:30 sáng ngày 4 tháng 9 năm 2024, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trở lại Tòa Sứ thần tại Jakarta, nơi ngài thấy khoảng 200 tu sĩ Dòng Tên đang đợi ngài cùng với bề trên của họ, Cha Benedictus Hari Juliawan. Họ đại diện cho hai phần ba số tu sĩ trong tỉnh. Đức Giáo Hoàng bước vào phòng họp hình chữ T, chào hỏi và mỉm cười. Bình luận đầu tiên của ngài là: “Có rất nhiều người trẻ ở đây!” Thật vậy, một phần ba trong số những người có mặt là các tu sĩ Dòng Tên trẻ đang học triết học và thần học hoặc đang trong giai đoạn đào tạo được gọi là “magisterium” hoặc “regency”, được hoàn thành giữa giai đoạn học triết học và thần học và thường dành cho công việc tông đồ. Đức Phanxicô ngay lập tức yêu cầu đặt câu hỏi để tận dụng thời gian của họ:

“Ai muốn hỏi câu hỏi, hãy giơ tay lên!”

Cuộc đối thoại diễn ra bằng tiếng Indonesia, có phiên dịch sang tiếng Ý.

Thưa Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Cảm ơn Đức Giáo Hoàng đã đến Indonesia và có cuộc gặp gỡ này với chúng con. Con là một sinh viên đang học thần học. con có một câu hỏi. Chúng ta giải quyết ra sao những vấn đề quan trọng nhất trong Giáo hội ngày nay? Và đặc biệt, chúng ta giúp đỡ ra sao những người bị thiệt thòi và bị loại trừ nhất?

Tôi muốn các tu sĩ Dòng Tên gây ồn ào. Hãy đọc Công vụ Tông đồ để xem họ đã làm gì vào thời kỳ đầu của Kitô giáo! Chúa Thánh Thần dẫn đến “sự náo động”, chứ không phải để mọi thứ đứng yên. Nói tóm lại, đây là cách giải quyết các vấn đề quan trọng. Hãy nhớ rằng các tu sĩ Dòng Tên phải ở những nơi khó khăn nhất, nơi mà chúng ta khó hành động nhất. Đó là cách chúng ta “vượt lên trên và vượt ra ngoài” vì vinh quang lớn hơn của Chúa. Để tạo ra tiếng ồn tốt dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta phải cầu nguyện, cầu nguyện rất nhiều. Tôi luôn nhớ đến di sản của Cha Arrupe, khi ngài yêu cầu các tu sĩ Dòng Tên không được từ bỏ cầu nguyện. Cha Arrupe muốn các tu sĩ Dòng Tên làm việc với những người tị nạn – một sứ vụ khó khăn ở biên giới – và ngài đã bày tỏ điều này bằng cách trước hết và quan trọng nhất yêu cầu họ một điều: cầu nguyện, cầu nguyện nhiều hơn nữa. Bài phát biểu cuối cùng của ngài, được ngài đưa ra tại Bangkok, là di chúc của ngài gửi đến các tu sĩ Dòng Tên. Ngài nói rằng chỉ trong lời cầu nguyện, chúng ta mới tìm thấy sức mạnh và nguồn cảm hứng để giải quyết bất công xã hội. Hãy nhìn vào cuộc sống của Phanxicô Xavier, Matteo Ricci và rất nhiều tu sĩ Dòng Tên khác; họ có thể tiến về phía trước nhờ tinh thần cầu nguyện của họ.

Con có một yêu cầu: Đức Thánh Cha nói về đối thoại liên tôn và tầm quan trọng của sự hòa hợp giữa các tôn giáo. Các tu sĩ Dòng Tên sống ở Pakistan đang giải quyết với những người là nạn nhân của sự đàn áp. Lời khuyên của Đức Thánh Cha là gì?

Tôi nghĩ rằng con đường của Ki-tô hữu luôn là con đường “tử đạo”, tức là làm chứng. Người ta cần phải làm chứng với sự khôn ngoan và lòng dũng cảm. Đây là hai yếu tố đi đôi với nhau, và mỗi người phải tự tìm ra con đường của riêng mình. Nói về Pakistan, tôi nhớ đến Asia Bibi, người đã bị bỏ tù gần 10 năm. Tôi đã gặp con gái bà, người đã bí mật đưa Mình Thánh cho bà. Bà đã làm chứng can đảm trong nhiều năm. Tiến lên với sự khôn ngoan can đảm! Sự khôn ngoan luôn mạo hiểm khi nó can đảm. Thay vào đó, sự khôn ngoan hèn nhát có một trái tim nhỏ bé.

Thưa Cha, con tự hỏi làm sao cha có thể cầu nguyện giữa những ngày bận rộn của mình?

Tôi cần điều đó, anh em biết đó. Tôi thực sự cần nó! Tôi dậy sớm, vì tôi đã già rồi. Sau khi nghỉ ngơi, một điều tốt cho tôi, tôi dậy vào khoảng 4 giờ, rồi đến 5 giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện: Tôi đọc kinh nhật tụng và nói chuyện với Chúa. Nếu lời cầu nguyện hơi, chúng ta hãy nói là, hơi "nhàm chán", thì tôi lần chuỗi mân côi. Sau đó, tôi đến Tông Dinh để tiếp kiến. Sau đó, tôi ăn trưa và nghỉ ngơi một lúc. Đôi khi trước Chúa, tôi cầu nguyện âm thầm. Tôi cầu nguyện, tất nhiên là tôi cử hành Thánh Thể. Vào buổi tối, tôi cầu nguyện thêm một chút. Đọc sách thiêng liêng là điều rất quan trọng đối với lời cầu nguyện của một người: chúng ta phải phát triển đời sống thiêng liêng của mình bằng những bài đọc hay. Tôi cầu nguyện như thế này, đơn giản thôi. Đơn giản lắm, con biết đấy. Đôi khi tôi ngủ quên khi cầu nguyện. Và điều này, khi xảy ra, không thành vấn đề. Đối với tôi, đó là dấu hiệu cho thấy tôi đang ở bên Chúa! Tôi nghỉ ngơi bằng cách cầu nguyện. Đừng bao giờ ngừng cầu nguyện!

Thưa Đức Thánh Cha, con làm việc trong quá trình đào tạo. Con muốn biết những gợi ý của Đức Thánh Cha về việc đào tạo sinh viên trong một cộng đồng quốc tế. Làm thế nào để thúc đẩy tính liên văn hóa, tôn trọng bối cảnh đa văn hóa của những người đang trong quá trình đào tạo?

Này, tôi sẽ kể cho anh em nghe về "trò diễu" mà Chúa Thánh Thần chơi với anh em. Ngài làm gì? Như tôi đã nói trước đây, sau khi Chúa Kitô phục sinh, điều đầu tiên Chúa Thánh Thần làm là tạo ra một "sự lộn xộn". Anh em phải đọc kỹ Công vụ Tông đồ, tôi nhắc lại. Chúa Thánh Thần "sáng tạo", và theo cách này, Người đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc đời. Công vụ Tông đồ nói với chúng ta điều gì? Rằng có những người từ mọi quốc gia ở Giêrusalem: có người Parthia, người Medes và người Elamites. Họ hết thẩy khác nhau. Và họ hết thẩy nói ngôn ngữ riêng của họ. Đây là ân sủng của Chúa Thánh Thần: họ tạo ra một “sự ồn ào”, họ nói ngôn ngữ của riêng mình và tất cả đều hiểu nhau. Điều này phù hợp với các tu sĩ Dòng Tên: trở thành công cụ của Chúa Thánh Thần là tạo ra tất cả những tiếng ồn ào này.

Đây là sự hội nhập văn hóa. Các tu sĩ Dòng Tên phải có khả năng hội nhập văn hóa, như rất nhiều nhà truyền giáo đã làm ở các châu lục khác nhau. Điều này ngụ ý rằng các tu sĩ Dòng Tên rao giảng bằng ngôn ngữ phù hợp và theo hình thức phù hợp, tùy theo địa điểm và thời gian. Hai trụ cột là hội nhập văn hóa Tin Mừng và truyền bá văn hóa. Đây cũng là lý do tại sao tất cả các tu sĩ Dòng Tên đều khác nhau, và điều đó là tốt. Không có mô hình duy nhất. Ơn gọi của chúng ta là để Chúa giúp chúng ta rao giảng Tin Mừng với tất cả sự phong phú mà Người đã ban cho chúng ta.

Điều này cũng áp dụng cho các điều kiện, tính khí và tính cách cá nhân, ví dụ như tuổi tác. Một thanh niên không thể tự làm mình già đi, cũng như một ông già không thể tự làm mình trẻ lại, vì điều đó thật nực cười. Mọi người đều được kêu gọi rao giảng Tin Mừng theo độ tuổi, kinh nghiệm và văn hóa của riêng mình. Tôi muốn nói thêm điều này: đó là lý do tại sao sự phân định lại quan trọng đến vậy. Người ta phải có khả năng phân định để hội nhập văn hóa: tìm kiếm và tìm thấy Chúa ở nơi Người hiện diện, đã hiện diện trong các nền văn hóa. Việc thực hành sự phân định là động lực. Nó giúp chúng ta không bao giờ có thể ẩn sau câu nói “luôn luôn được thực hiện theo cách này”, tiếp tục như chúng ta vẫn thường làm. Điều này không tốt; chúng ta cần phải phân định mọi lúc, và sự phân định dẫn đến việc tiến lên phía trước.

Điều quan trọng là không phân định một mình, mà còn phải đối thoại với cấp trên. Nếu anh em nhận được một sứ mệnh nhàm chán hoặc một sứ mệnh mà anh em cảm thấy không phải của mình, hãy phân định. Sự phân định tốt không phải lúc nào cũng có thể thực hiện một mình: nó cần có bạn đồng hành. Tôi đang nói với cả những người trẻ đang trong quá trình đào tạo và những tu sĩ Dòng Tên đã được đào tạo, và thậm chí có thể là cả những người lớn tuổi. Tuy nhiên, hãy cẩn thận; những bức biếm họa về sự phân định luôn rình rập! Tôi luôn nhớ trường hợp của một tu sĩ Dòng Tên đang trong quá trình đào tạo. Mẹ của anh bị ung thư, và anh đã yêu cầu giám tỉnh của mình chuyển đến một thành phố khác để ở gần mẹ. Sau đó, anh đến nhà nguyện để cầu nguyện. Anh ở đó cho đến rất muộn. Khi trở về, anh thấy một lá thư từ tỉnh dòng. Anh thấy rằng lá thư được viết vào ngày hôm sau. Bề trên đã quyết định rằng anh nên ở lại nơi anh đang ở và viết thư cho anh rằng ngài đã đưa ra quyết định này sau khi suy gẫm và cầu nguyện. Nhưng điều này không đúng! Ngài đã đưa lá thư có ghi ngày hôm sau cho thừa tác viên [1] để chuyển vào sáng hôm sau, nhưng vì đã muộn nên thừa tác viên đã chuyển nó vào đêm hôm đó. Đây là sự giả hình! Anh em, những người sẽ trở thành bề trên vào ngày mai, hãy lắng nghe! Đừng làm hư sự phân định! Anh em phải lắng nghe Chúa Thánh Thần. Đây là một vấn đề nghiêm trọng. Sự thật phải luôn được nói trực tiếp. Anh em có hiểu không?

Một tu sĩ Dòng Tên mà Đức Thánh Cha rất yêu mến là một trong những người bạn đồng hành đầu tiên của Thánh Inhaxiô, Peter Faber. Với con, có vẻ như Đức Thánh Cha nhắc đến Faber nhiều hơn cả bản thân I-nha-xi-ô. Vì vậy, con đã đi sâu vào nhân cách của ngài và nhận ra ngài có khả năng lắng nghe và dựa vào Chúa Thánh Thần rất nhiều. Đó có phải là lý do tại sao Đức Thánh Cha yêu mến ngài nhiều như vậy không?

Vâng, đúng vậy. Tôi đã đọc Faber Memoriale nhiều lần và đã xuất bản một phiên bản khi tôi còn là Giám tỉnh. Có một số câu chuyện trong nhật ký của ngài phản ảnh sự khôn ngoan sâu sắc của trái tim. Và ngài đã chết "trên đường đi". Tuy nhiên, ngài vẫn là một "có phúc". Khi tôi trở thành giáo hoàng, tôi đã phong thánh cho ngài. Có những nghiên cứu rất cảm động về cuộc đời của ngài mà anh em có thể đọc. Tôi muốn gọi ngài là "sự chăm sóc mục vụ bằng trái tim", một phẩm chất mà chúng ta rất cần ngày nay.

Chúng con là những sinh viên trẻ, và đôi khi chúng con tham gia vào các phong trào phản đối. Con đồng hành cùng gia đình của các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền trong quá khứ. Con để lại cho Đức Thánh Cha một lá thư do bà Maria Katarina Sumarsih viết, bà là mẹ của một trong những nạn nhân của thảm kịch Semanggi năm 1998, khi những người dân thường biểu tình bị giết. Bà là một trong những người khởi xướng Kamisan, lấy cảm hứng từ các bà mẹ của Plaza de Mayo ở Argentina. Nhóm này kêu gọi chính phủ tiết lộ những vi phạm nhân quyền trong quá khứ và mang lại công lý cho các nạn nhân và gia đình của họ. Đức Thánh Cha có thể cho chúng con lời khuyên nào?

Anh em có biết rằng chủ tịch của phong trào Plaza de Majo đã đến gặp tôi không? Tôi đã rất xúc động và việc nói chuyện với bà ấy đã giúp ích rất nhiều cho tôi. Bà ấy đã truyền cho tôi niềm đam mê để lên tiếng cho những người không có tiếng nói. Đây là nhiệm vụ của chúng ta: lên tiếng cho những người không có tiếng nói. Hãy nhớ rằng: đây là nhiệm vụ của chúng ta. Tình hình dưới chế độ độc tài của Argentina rất khó khăn, và những người phụ nữ này, những người mẹ này, đã đấu tranh cho công lý. Hãy luôn thúc đẩy lý tưởng công lý!

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc bức thư và thấy tên của Marta Taty Almeida và nói thêm:

Đúng vậy, Marta Taty Almeida! Bà ấy đã đến gặp tôi trước khi chết!

Con đến từ Myanmar. Chúng con đã trải qua một tình huống khó khăn trong ba năm. Đức Thánh Cha khuyên chúng con nên làm gì? Chúng con đã mất mạng, gia đình, ước mơ và tương lai. Làm thế nào để chúng con không mất hy vọng?

Tình hình ở Myanmar rất khó khăn. Anh em biết rằng người Rohingya rất gần gũi với trái tim tôi. Tôi đã đến Myanmar và nói chuyện ở đó với bà Aung San Suu Kyi, người đã là thủ tướng và hiện đang ở trong tù. Sau đó, tôi đã đến thăm Bangladesh, và ở đó tôi đã gặp những người Rohingya bị trục xuất. Hãy xem, không có câu trả lời chung cho câu hỏi của anh em. Có những người trẻ tuổi tốt đang chiến đấu vì quê hương của họ. Ở Myanmar ngày nay, anh em không thể im lặng; anh em phải làm gì đó! Tương lai của đất nước anh em phải là hòa bình, dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền của tất cả mọi người, tôn trọng một trật tự dân chủ cho phép mỗi người đóng góp vào lợi ích chung. Tôi đã kêu gọi trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và đón con trai bà tại Rome. Tôi đã đề nghị Vatican là nơi ẩn náu cho bà. Ngay bây giờ, người phụ nữ này là một biểu tượng và các biểu tượng chính trị cần được bảo vệ. Anh em có nhớ nữ tu quỳ gối với hai tay giơ lên trước quân đội không? Hình ảnh của bà đã lan truyền khắp thế giới. Tôi cầu nguyện để những người trẻ tuổi sẽ dũng cảm như vậy. Giáo hội ở đất nước anh em rất dũng cảm.

Con là một giám tỉnh và con muốn cảm ơn Đức Thánh Cha vì những gì Đức Thánh Cha đã nói với chúng con và vì sự khôn ngoan của Đức Thánh Cha. Con không hỏi một câu hỏi, nhưng con muốn giới thiệu với Đức Thánh Cha một hoạt động mà chúng con thực hiện ở đây, một phần của Mạng lưới cầu nguyện hoàn cầu của Đức Giáo Hoàng. Chúng con sẽ giới thiệu cho Đức Thánh Cha "Utusan", một tạp chí nổi tiếng ở Indonesia. Hợp tác với "Rohani", một tạp chí dành cho những người theo đạo, tạp chí này đã mời độc giả viết thư cho Đức Thánh Cha. Nhiều người đã làm như vậy, bao gồm một số người theo đạo Hồi. Những lá thư sau đó đã được công bố trên "Utusan" và "Rohani", và cũng được xuất bản trong một cuốn sách có tựa đề "Những lời thì thầm hy vọng: Những lá thư từ trái tim chúng ta gửi đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô". Ngoài ra còn có một món quà từ chúng con, một chiếc khăn choàng do tù nhân làm theo họa tiết batik, một kỹ thuật trang trí của Indonesia. Đây là món quà tượng trưng cho sự ăn năn của họ.

Hãy chào các tù nhân thay cho tôi; xin chào họ! Khi tôi còn là tổng giám mục Buenos Aires, vào Thứ Năm Tuần Thánh, tôi không rửa chân trong nhà thờ lớn mà là trong nhà tù. Và ở đó, tôi đã học được cách luôn cầu nguyện khi vào tù, "Lạy Chúa, tại sao lại là họ mà không phải là con?" Sẽ rất tốt nếu chúng ta cầu nguyện như thế khi gặp những người đã thất bại, đã sa ngã, “Tại sao lại là anh ấy chứ không phải tôi?”

Cuối cùng, vị giám tỉnh trao cho Đức Giáo Hoàng một tác phẩm điêu khắc bằng gỗ có biểu tượng IHS của Dòng Tên [2], nói rằng, “Với những món quà này, chúng con hy vọng Đức Thánh Cha sẽ luôn nhớ đến chúng con, những tu sĩ Dòng Tên của Indonesia.” Đức Giáo Hoàng đáp lại bằng một nụ cười:

Quá nhiều quà tặng! Cảm ơn anh em vì tất cả. Hãy cầu nguyện cho tôi và cho Dòng được can đảm… Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ bằng một Kinh Kính Mừng, mỗi người bằng ngôn ngữ của mình.

Cuối buổi họp, Đức Phanxicô đã quyết định chào thăm tất cả các tu sĩ Dòng Tên có mặt, từng người một, tặng một tràng hạt để làm quà.

* * *

Cuộc gặp gỡ tại Dili, Đông Timor

Sau khi gặp các giám mục, linh mục và người tận hiến tại Nhà thờ chính tòa Dili, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp 42 tu sĩ Dòng Tên từ đất nước này vào khoảng 11 giờ sáng ngày 10 tháng 9. Sau lời chào, bề trên khu vực, Erik Jon Gerilla, đã gửi lời chào ngắn đến Đức Giáo Hoàng và giới thiệu nhóm, được sắp xếp theo hình móng ngựa: “Thay mặt cho tất cả những người hiện diện, cho phép con bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đức Thánh Cha, vì đã ân cần tiếp đón chúng con hôm nay, các thành viên của Khu vực Dòng Tên Độc lập Timor. Cùng với chúng con có những sinh viên đang được đào tạo ở nước ngoài, và chúng con cũng có một linh mục ở Rome. Chúng con tham gia vào mục vụ giáo dục, mục vụ linh đạo, mục vụ xã hội, công tác mục vụ và đào tạo. Con đặc biệt muốn giới thiệu Cha João Felgueiras, nhà truyền giáo phục vụ lâu nhất từ Bồ Đào Nha, hiện đã 103 tuổi. Cá nhân ngài đã biết những nhà truyền giáo Dòng Tên đầu tiên và kết nối lịch sử ngày xưa với hiện tại. Năm nay đánh dấu một ngày lịch sử đối với chúng con, những tu sĩ Dòng Tên ở Timor, khi chúng con kỷ niệm 125 năm ngày truyền giáo đầu tiên của Dòng Tên. Mặc dù chúng con đã bị trục xuất khỏi Timor vào năm 1910, nhưng chúng con đã trở lại nhiều năm sau đó. Thưa Đức Thánh Cha, chiếc ghế mà Đức Thánh Cha đang ngồi được làm từ gỗ của nhà thờ cũ, do các tu sĩ Dòng Tên xây dựng vào năm 1905.”

Cha thật cần cù! Hãy hỏi tôi những câu hỏi ngay bây giờ…

Cuộc đối thoại tiếp tục bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha.

Thưa Đức Thánh Cha kính yêu, xin Chào ĐTC buổi sáng. Trước hết, cảm ơn Đức Thánh Cha rất nhiều vì đã ở đây với chúng con. Con là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu I-nha-xi-ô và là điều phối viên quốc gia của Mạng lưới Cầu nguyện hoàn cầu của Đức Giáo Hoàng. Với niềm vui, con muốn đặt ra một câu hỏi cho Đức Thánh Cha: với phương châm của chuyến thăm Đông Timor, “để đức tin của bạn trở thành văn hóa của bạn”, Đức Thánh Cha hy vọng gì cho người Công Giáo và Giáo Hội Công Giáo ở Đông Timor, đất nước mà phần lớn người Công Giáo ở lục địa Châu Á sinh sống? Cuộc gặp gỡ giữa đức tin và văn hóa này đang ở giai đoạn nào, trong thời đại thực sự đầy thách thức này, trong bối cảnh cuộc sống của Giáo hội Timor? Xin chân thành cảm ơn Đức Thánh Cha.

Một điều phải rõ ràng trong việc rao giảng Tin Mừng: truyền bá văn hóa, nhưng cũng phải hội nhập văn hóa Tin Mừng. Đức tin phải được hội nhập văn hóa. Một đức tin không tạo ra văn hóa là một đức tin cải đạo. Chúng ta không được quên điều Đức Benedict XVI đã nói: Tin Mừng không được truyền bá bằng cách cải đạo, mà bằng cách hội nhập văn hóa. Truyền bá văn hóa và hội nhập văn hóa của đức tin phải song hành, và chúng ta phải chú ý đến điều này. Luôn nhớ phong cách truyền giáo của chúng ta tại Trung Quốc!

Thưa Đức Thánh Cha, trước những thách thức hoàn cầu mà Giáo hội đang phải đối diện, những lĩnh vực chính mà các tu sĩ Dòng Tên ở Đông Timor nên ưu tiên trong sứ mệnh tông đồ của mình là gì?

Thách thức của Giáo hội luôn là không xa rời dân Chúa. Chúng ta cần tránh xa các hệ tư tưởng của Giáo hội. Đây là thách thức mà tôi để lại cho anh em: đừng quay lưng lại với những người là tài sản quý giá nhất.

Con đã được thụ phong linh mục cách đây ba năm và con cảm ơn Chúa vì lời kêu gọi trở thành một tu sĩ Dòng Tên. Hiện tại, con đang phục vụ với tư cách là thủ quỹ của Dòng Tên tại Timor. Con tự hào được tham gia vào Văn Phòng Bác ái, đơn vị chuẩn bị cho chuyến thăm của Đức Thánh Cha. Đó là một nguồn cảm hứng lớn và con đã học được một bài học. Con muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình vì cơ hội quý giá và đặc ân này. Con có một câu hỏi về mối quan hệ giữa Giáo hội và Dòng Tên: theo Đức Thánh Cha, mối quan hệ của Dòng với Giáo hội hoàn vũ là gì?

Đây luôn là mối quan hệ trong chiến tranh! [Đức Giáo Hoàng nói điều này với một nụ cười]. Tôi vào tập viện năm 1958, vì vậy tôi đã trải qua tất cả những thay đổi của công đồng. Tôi đã tham gia vào cuộc bầu cử Cha Kolvenbach, nơi đã có một nhóm tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha cáo buộc Dòng phản bội Giáo hội. Vào thời điểm khủng hoảng đó trong Dòng Tên, điều rất quan trọng là phải có một Cha Tổng quyền có sức lôi cuốn. Và ở đó, tôi đã thấy những căng thẳng trong Giáo hội diễn ra. Bài phát biểu mà Thánh Phaolô VI đã đưa ra tại Tổng hội XXXII là một tác phẩm nghệ thuật. Nó nói rõ ràng những gì Giáo hội muốn từ Dòng. Tôi yêu cầu anh em đọc bài phát biểu đó: đó là một kiệt tác. Khi tôi trở thành giáo hoàng, tôi đã hỏi xem có bản thảo nào của bài phát biểu không; vì vậy, thủ thư đã đến Văn Khố Bí mật và mang chúng đến cho tôi. Ngài đã tự tay viết nó; đó là lý do tại sao tôi nói rằng nó là tự phát. Tôi đã thấy bản thảo được viết bằng chính tay ngài. Hãy đọc nó, đó là một bài phát biểu mạnh mẽ. Điều này phác thảo mối quan hệ với Giáo hội, một mối quan hệ tự do.

Sau đó, có những khoảnh khắc được diễn giải là xung đột, chẳng hạn như khi Thánh Gioan Phaolô II đến thăm Cha Arrupe, người đã bị bệnh. Cha Dezza được bổ nhiệm tạm thời lãnh đạo Dòng vào thời điểm đó. Một số người chỉ ra việc ngài là một người bảo thủ sẽ có tác động tiêu cực. Nhưng thay vào đó, ngài là người tuyệt vời. Ngài đã giúp chúng ta hiểu cách điều hành Dòng trong cơn bão. Ở đây, anh em phải điều khiển nhiều cơn bão. Hãy học hỏi từ truyền thống này trong thời kỳ khó khăn của Dòng!

Đông Timor là một quốc gia Công Giáo. Có nguy cơ giáo sĩ trị. Đức Thánh Cha nghĩ gì về điều đó?

Anh em đã chỉ vào điểm nhạy cảm: giáo sĩ trị, hiện diện ở khắp mọi nơi. Ví dụ, có một nền văn hóa giáo sĩ trị mạnh mẽ ở Vatican, mà chúng ta đang cố gắng thay đổi dần dần. Giáo sĩ trị là một trong những phương tiện tinh vi nhất mà ma quỷ sử dụng. Trong những trang cuối của cuốn sách Suy gẫm về Giáo hội, Cha de Lubac nói về "tính thế gian thiêng liêng". Ngài nói rằng đó là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với Giáo hội, thậm chí còn tồi tệ hơn thời kỳ các giáo hoàng có vợ lẽ. Chủ nghĩa giáo sĩ là hình thức thế tục cao nhất trong hàng giáo sĩ. Văn hóa giáo sĩ trị là văn hóa thế tục. Đó là lý do tại sao Thánh I-nha-xi-ô nhấn mạnh rất nhiều vào việc xem xét thế tục, tinh thần thế gian, bởi vì tội lỗi của chúng ta, đặc biệt là đối với những người ở biên giới, sẽ ở đó, trong những lĩnh vực này; trong tính thế gian trí thức, trong tính thế gian chính trị…

Tôi rất được giúp đỡ bởi tấm gương của thánh Peter Faber, người mà tôi rất yêu quý. Nhân tiện, họ đã "liệt kê" ngài là "người có phước", một trong những người vĩ đại nhất mà Dòng từng có. Được bầu làm Giáo hoàng, tôi đã phong ngài làm hiển thánh. Một người vĩ đại. Faber là một linh mục không phải giáo sĩ, đi từ nơi này đến nơi khác để phục vụ Chúa. Theo tôi, đối với anh em, đối với chúng ta, những linh mục, tính thế gian thiêng liêng này là căn bệnh khó vượt qua nhất.

Tôi đã tập hợp một cuốn sách về những chủ đề thỉnh thoảng tôi viết khi tôi còn là tổng giám mục. Trong số những điều khác, có một lá thư tôi đã viết về chủ nghĩa giáo sĩ và tính thế gian. Thánh I-nha-xi-ô khiến chúng ta cầu xin ân sủng không có tinh thần thế gian. Nếu anh em có thời gian, hãy đọc nó; nó nằm trong một cuốn sách nhỏ có tên: Santos no mundanos [các thánh không có tinh thần thế gian].[3] Chủ nghĩa giáo sĩ trị là căn bệnh tồi tệ nhất. Vì vậy, anh em nói, "Có chủ nghĩa giáo sĩ ở đây", vì vậy chúng ta phải có trách nhiệm và dạy các linh mục trẻ một cách khác để sống thừa tá vụ của họ. Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một nền văn hóa phá hủy Giáo hội. Do đó, cần phải chống lại nó. Cách để chống lại nó là trở thành mục tử của mọi người. Nhưng anh em có thể nói với tôi, "Con làm việc trong trường đại học, giữa những người trí thức." Vâng, những người trí thức mà anh em có ở đó tại trường đại học là những con người. Hãy là người chăn dắt mọi người của anh em! Một điều cuối cùng để tránh chủ nghĩa giáo sĩ trị. Tôi mượn lời của Thánh Phaolô nói với Ti-ô-tê, "Hãy nhớ đến mẹ và bà của bạn." Khi anh em trở nên tự phụ, hãy nghĩ đến mẹ và bà của anh em! Đức tin mà họ trao cho anh em không phải là chủ nghĩa giáo sĩ trị, đó là một điều khác thế…

Thưa Đức Thánh Cha, trong 11 năm làm giáo hoàng đầu tiên của Dòng Tên, đâu là những quyết định quan trọng nhất và những thách thức khó khăn nhất đối với Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu?

Những gì anh em có thể gọi là chương trình cho triều giáo hoàng của tôi nằm trong Evangelii Gaudium [niềm vui Tin Mừng]. Anh em có thể tìm thấy nó ở đó. Tôi muốn nhắc anh em một điều về việc thuyết giảng. Đối với tôi, điều rất quan trọng là tìm những nhà thuyết giảng gần gũi với người ta và với Thiên Chúa. Tôi thích những linh mục thuyết giảng trong 8 phút và nói được mọi điều. Và sau đó là lòng thương xót: luôn tha thứ! Nếu ai đó xin tha thứ, anh em hãy tha thứ. Tôi thú nhận rằng trong 53 năm làm linh mục, tôi chưa bao giờ từ chối một việc giải tội. Ngay cả khi nó không đầy đủ. Tôi nghe một Hồng Y nói rằng khi ngài ở trong phòng giải tội và người ta bắt đầu kể cho ngài nghe những tội lỗi nặng nề nhất trong khi lắp bắp vì xấu hổ, ngài luôn nói, "Cứ tiếp tục đi, cứ tiếp tục đi, tôi đã hiểu cả rồi", ngay cả khi ngài chưa hiểu gì cả. Thiên Chúa hiểu mọi sự. Làm ơn, chúng ta đừng biến phòng giải tội thành phòng tư vấn tâm thần; chúng ta đừng biến nó thành tòa án. Nếu có một câu hỏi cần được hỏi, và tôi hy vọng là có ít câu hỏi, thì câu hỏi đó sẽ được hỏi và sau đó việc giải tội sẽ được ban cấp. Một cha giải tội ở Buenos Aires, một tu sĩ dòng Capuchin mà tôi đã phong làm Hồng Y và hiện đã 96 tuổi, giải tội suốt ngày. Có lần ngài đến gặp tôi và nói, “Con có một sự do dự, vì con luôn tha thứ, con tha thứ mọi sự.” “Và cha làm gì khi cha có sự do dự này?”, tôi hỏi ngài. “Con đến với Chúa và nói với Người, ‘Tỉnh táo lại đi! Vì Chúa đã nêu gương xấu cho con!’”

Đức Thánh Cha có lời khuyên cụ thể nào cho công việc của chúng con ở Đông Timor liên quan đến công lý xã hội không?

Công lý xã hội phải tính đến ba ngôn ngữ của con người: ngôn ngữ của lý trí, ngôn ngữ của trái tim và ngôn ngữ của đôi tay. Là một trí thức tách biệt khỏi thực tại thì không có ích gì trong việc đấu tranh cho công lý xã hội; trái tim không có trí hiểu thì cũng chẳng có ích gì; và ngôn ngữ của đôi tay không có trái tim và trí hiểu thì cũng chẳng có ích gì.

Cách Cha Arrupe nói với các tu sĩ Dòng Tên Mỹ Latinh về mối nguy hiểm của hệ tư tưởng pha trộn với công lý xã hội là rất quan trọng. Cha Arrupe đã gửi cho chúng ta một lá thư mục vụ rất phong phú về công lý xã hội. Và Thánh Gioan Phaolô II cũng đã gửi cho chúng ta một lá thư khác.

Đây là đặc điểm của Dòng Tên. Ví dụ, khi họ tiếp cận các cộng đồng bản địa, họ bắt đầu bằng công việc, văn hóa và âm nhạc. Họ cũng giúp đỡ những nô lệ da đen trốn thoát khỏi chế độ nô lệ trong các "Khu giảm thiểu" [Reductions] được gọi là quilombos. Nói cách khác, Dòng Tên cũng giúp đỡ những người bị coi là tội phạm xã hội theo quan điểm hẹp hòi của thời đó vì đã trốn khỏi chế độ nô lệ. Lịch sử của Dòng đầy rẫy những ví dụ về công lý xã hội. Không ai trong số những người đàn ông vĩ đại này là "người cộng sản". Không, họ là những người Dòng Tên, và họ đã tiếp nhận chiều kích xã hội của Tin Mừng.

Vào ngày phán xét, không ai trong chúng ta sẽ bị hỏi, "Ngươi đã cư xử thế nào? Ngươi có đi lễ mỗi Chúa Nhật không? Ngươi có tham dự các cuộc họp không? Ngươi có vâng lời giám tỉnh không?" Tất nhiên, tôi không bảo anh em là không vâng lời, nhưng Chúa sẽ không hỏi chúng ta điều này. Thay vào đó, Người sẽ hỏi chúng ta, "Ta đói, ngươi có cho Ta ăn không? Ta khát, ngươi có cho Ta uống không? Ta ở trong tù, ngươi có thăm viếng Ta không? Ta là một kẻ chạy trốn, ngươi có giúp Ta không?” Đó là điều chúng ta sẽ bị phán xét. Và đây là điều Chúa phán. Vì vậy, công lý xã hội là một phần thiết yếu và không thể thiếu của Tin Mừng.

Thật đáng mừng khi thấy mong muốn công lý xã hội này trong suốt chiều dài lịch sử đã đơm hoa kết trái, tùy thuộc vào thời đại, con người và địa điểm, như Thánh I-nha-xi-ô đã nói. Khi Thánh I-nha-xi-ô yêu cầu chúng ta sáng tạo, ngài bảo chúng ta: hãy nhìn vào địa điểm, thời đại và con người. Các quy tắc và Hiến pháp rất quan trọng, nhưng hãy luôn xem xét địa điểm, thời đại và con người. Đó là một thách thức đối với sự sáng tạo và công lý xã hội. Đây là cách công lý xã hội nên được thiết lập, không phải bằng các lý thuyết xã hội. Tin Mừng có tiếng nói riêng của nó.

Bằng cách nào chúng ta có thể lôi kéo giáo dân vào sứ mệnh của chúng ta, theo lời kêu gọi của nó tiến tới một Giáo hội bao gồm và có sự tham gia hơn?

Đối với sứ mệnh hội nhập văn hóa của nó, Dòng cần giáo dân, và tôi thích những gì Dòng đang làm với họ ở nhiều nơi khác nhau. Vài tháng trước, viện trưởng của một trường đại học Dòng Tên đã đến gặp tôi. Trường đại học có một đội ngũ giáo sư giáo dân, rõ ràng là cả nam lẫn nữ. Tôi hỏi bà, “Còn các tu sĩ Dòng Tên làm gì?” Bà trả lời, “Những gì họ phải làm: đồng hành mục vụ và đặt ra các tiêu chuẩn cho chúng con.” Khi biết rằng giáo dân có thể đảm nhiệm một vai trò nào đó, tu sĩ Dòng Tên sẽ để họ đảm nhiệm. Tôi nhấn mạnh rất nhiều về tầm quan trọng của việc để lại không gian cho giáo dân, có lẽ vì tôi đã quen làm như vậy. Khi tôi còn là giám tỉnh, chúng tôi có ba trường đại học Công Giáo, hai trong số đó nợ rất nhiều. Với một trong số đó, Universidad del Salvador ở Buenos Aires, chúng tôi đã bắt đầu quá trình bàn giao cho giáo dân, những người đã điều hành trường trong 25 năm nay và mọi sự diễn tiến rất tốt, thậm chí còn tốt hơn trước. Các tu sĩ Dòng Tên giúp đỡ công tác mục vụ. Trường đại học khác ở Salta, do các tu sĩ Dòng Tên Wisconsin điều hành, đã được tổng giáo phận tiếp quản và hoạt động rất tốt. Chỉ còn lại một trường, nơi hầu hết các vị trí hàng đầu đều do giáo dân nắm giữ, và các tu sĩ Dòng Tên làm công tác mục vụ. Đây là trường đại học do Dòng Tên thành lập. Tôi đã phải thực hiện ba thay đổi sau: giao một cho giáo dân, một cho tổng giám mục và giữ lại một để có thể quản lý tốt. Đây là kinh nghiệm của tôi. Đừng quên rằng điều quan trọng là chăm sóc mục vụ, cả chăm sóc mục vụ trí thức, là điều cơ bản, và chăm sóc mục vụ liên quan đến việc gần gũi với những người trẻ tuổi. Ví dụ, tôi có mối quan hệ (với những người) đang học tại một trường đại học ở Washington, tức là Georgetown. Các tu sĩ Dòng Tên đã tổ chức một hệ thống tốt và sinh viên có sự đào tạo thiêng liêng, trí thức và cộng đồng tốt. Đối với câu hỏi "Trường đại học ngày nay có phải là một việc tông đồ xã hội không?", câu trả lời của tôi là "Tất nhiên!" Tất nhiên là để chuẩn bị cho các nhà lãnh đạo đại học tiếp theo.

Cảm ơn Đức Thánh Cha đã là mục tử của Giáo hội với phong cách biết cách thể hiện sức mạnh của Tin Mừng Chúa Giêsu trong việc đối đầu với chủ nghĩa duy vật và thế tục hóa. Đức Thánh Cha đã phát triển chương trình cai quản của mình như thế nào? Các tu sĩ Dòng Tên chúng con muốn nhận được lời khuyên của Đức Thánh Cha để đối diện với các thách thức trong ơn gọi của mình. Đức Thánh Cha khuyên chúng con nên làm gì?

Tôi được bầu làm giáo hoàng mà không hề tưởng tượng rằng mình có thể làm được. Nhưng sau khi được bầu, tôi đã nghĩ về chương trình mà mình nên tuân theo. Những gì các Hồng Y đã nói trong các cuộc họp trước Mật nghị là những gì tôi cảm thấy mình phải cải thiện và biến nó thành một chương trình. Bởi vì khi một người chỉ làm một việc gì đó bằng nguồn lực của riêng mình, thì nó không có kết quả, không có ích. Mỗi người chúng ta phải thực hiện những gì mình được giao phó, nhưng phải có sự độc đáo về địa điểm, thời gian và con người. Tất nhiên, tôi đến từ Mỹ Latinh và, ví dụ, một người Đức có thể không hiểu tôi ngay, vì họ và tôi có nền văn hóa khác nhau. Tiêu chuẩn luôn là: đảm nhận sứ mệnh vì nó đã được giao cho anh em. Khi anh em được bầu làm giáo hoàng, anh em sẽ được hỏi liệu anh em có chấp nhận vai trò đó hay không. Nhưng một khi anh em đã chấp nhận, anh em không có lựa chọn nào khác: hoặc là anh em tiếp tục với các tiêu chuẩn trừu tượng, bản thân của mình, hoặc là anh em tiếp tục với những gì Giáo hội yêu cầu anh em. Đó là cách tôi xây dựng chương trình của mình.

Câu chuyện về Đức Clê-men-tê XIV hiện lên trong tâm trí. Tôi rất tiếc cho cuộc đời của ngài. Nhờ những thủ đoạn của chế độ quân chủ Tây Ban Nha, ngài được bầu làm giáo hoàng. Ngài là người tốt, nhưng ngây thơ. Ngài có một thư ký tên là Bontempi, một kẻ phản diện. Với sự đồng lõa của đại sứ Tây Ban Nha, ngài đã giải tán Dòng Tên. Ganganelli là một giáo hoàng yếu kém trong việc cai trị, bị một tên vô lại xảo quyệt làm thư ký. Một tu sĩ Dòng Tên phải mạnh mẽ trong những gì mình làm, mạnh mẽ ngay cả trong sự vâng lời, và không được để bất cứ ai quản trị mình. Ông lắng nghe lời khuyên, đúng vậy, nhưng cuối cùng ông quyết định một cách sáng suốt. Khi Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê XIV qua đời, Bontempi, một tu sĩ Dòng kín, đã trốn trong đại sứ quán Tây Ban Nha. Khi cơn bão đi qua, ông đã trình diện với Bề trên Tổng quyền của mình ba sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng: một sắc lệnh cho phép ông quản lý tiền bạc, một sắc lệnh khác cho phép ông sống bên ngoài tu viện, và sắc lệnh thứ ba, nếu tôi nhớ không nhầm, cho phép ông đi bất cứ đâu. Bề trên của ông, một người của Chúa, đã nói với ông, "Ông bỏ lỡ sắc lệnh thứ tư!" "Mà sắc lệnh nào?" Bontempi hỏi, lưu ý, "Chỉ có ba!" "Một đảm bảo sự cứu rỗi cho linh hồn bạn," câu trả lời vang lên. Tôi khuyên anh em đọc giải trình của Mục Tử về việc dẹp bỏ Dòng. [4] Ông kể rất hay trong Lịch sử các Giáo hoàng của mình. Mọi tu sĩ Dòng Tên nên biết những câu chuyện trong đó Dòng bị đe dọa triệt hạ.[5]

Vào cuối buổi họp, các tu sĩ dòng Tên có mặt đã tặng Đức Giáo Hoàng một số món quà, sau đó là hai gói nhựa trong suốt bên trong đựng những tấm thiệp có lời cầu nguyện mà nhiều người đã ủy thác cho Đức Phanxicô. Ngài đã nhận chúng, đặt tay lên các ý nguyện và ban phước cho chúng. Buổi họp kết thúc bằng việc đọc chung Kinh Kính Mừng và chụp ảnh theo thông lệ. Khi chào từng tu sĩ dòng Tên riêng lẻ, ngài tặng họ một tràng hạt.

* * *

Buổi gặp gỡ ở Singapore

Vào ngày 11 tháng 9, Đức Phanxicô rời Dili đến Singapore. Sau chuyến bay kéo dài khoảng 4 giờ, hạ cánh vào khoảng 4 giờ chiều, ngài đã đến Trung tâm tĩnh tâm Thánh Phanxicô Xaviê, nơi ngài dự kiến sẽ gặp các tu sĩ dòng Tên lúc 6:15 chiều. Mặc dù lịch trình rất gấp, Đức Phanxicô vẫn đến dự cuộc họp sớm hơn khoảng nửa tiếng.

Chào mừng! Chào mừng! Tôi rất vui được gặp anh em. Chúng ta có một giờ tuyệt vời để ở bên nhau. Hãy bắt đầu đặt câu hỏi! Ai là người dũng cảm nhất? Hãy bước lên phía trước!

Thưa Đức Phanxicô, con sẽ giới thiệu nhóm, một tu sĩ Dòng Tên nói bằng tiếng Tây Ban Nha. Trước hết, chào mừng ĐTC đến Singapore, thành phố của những chú sư tử! Con là một tu sĩ Dòng Tên đến từ Mã Lai và con vừa được thụ phong linh mục… Hãy nói con là một bé thơ….

À, cha là người đầu tiên lên tiếng và tôi nghĩ cha là Cha Giám tỉnh! [Đức Giáo Hoàng cười nói].

Con muốn giới thiệu khu vực của chúng con. Chúng con có 25 tu sĩ Dòng Tên từ khu vực Mã Lai-Singapore, bao gồm cả cha giám tỉnh, người ở đây, bên cạnh con, và tên của ngài là Phanxicô giống như Đức Thánh Cha. Ngoài ra còn có một tu sĩ Dòng Tên đến từ Bangkok thuộc tỉnh Nam Phi và một người đến từ Đức. Trong khu vực này, chúng con có 40 thành viên. Độ tuổi trung bình là 56. Hai phần ba là người Mã Lai và một phần ba người Singapore. Ơn gọi rất ít, và chỉ có một người trong chúng con dưới 40 tuổi. Trung bình cứ hai năm lại có một tập sinh. Chúng con ít người, nhưng nhiệt thành trong việc phục vụ Chúa. Chúng con có hai giáo xứ rất sôi động và năng động: một ở Singapore, Thánh I-nha-xi-ô; và một ở Mã Lai, Thánh Phanxicô Xa-vi-ê. Cả hai đều được thành lập vào năm 1961. Chúng con có hai trung tâm linh đạo, một ở Mã Lai và một ở Singapore, và một trường cao đẳng ở Mã Lai. Chúng con rất vui khi được biết Đức Thánh Cha như một người anh em và người bạn trong Chúa. Cảm ơn Đức Thánh Cha đã dành thời gian cho chúng con!

Đức Giáo Hoàng quay sang nhóm, cười nói:

“Cha ấy biết cách bán sản phẩm! Hãy hỏi tôi những câu hỏi của cha ngay bây giờ!”

Cuộc đối thoại tiếp tục bằng tiếng Anh, với bản dịch tiếng Ý.

Thưa cha, sứ mệnh nào là quan trọng đối với chúng con, các tu sĩ Dòng Tên ở Châu Á?

Tôi thực sự không biết đường lối chung của Dòng khắp hoàn vũ là gì, nhưng chắc chắn Cha Arrupe rất kiên quyết về sứ mệnh ở Châu Á. Lời tạm biệt của ngài thực sự là ở Châu Á, khi ngài đến thăm trung tâm tị nạn ở Bangkok. Cha Arrupe lúc đó đã nói hai điều: làm việc với người tị nạn và đừng từ bỏ cầu nguyện. Một công việc quan trọng của Dòng tại Châu Á là các trung tâm xã hội và tông đồ trí thức và giáo dục. Đôi khi người ta nghĩ rằng Dòng Tên hiện đại phải rời khỏi các trường đại học. Nhưng xin đừng! Dòng đang trong quá trình đào tạo trái tim và khối óc của người ta. Điều này được thực hiện tốt với các trường học, và cũng được thực hiện bằng cách có các giáo sư giáo dân. Tôi tin rằng việc tông đồ giáo dục này là cần thiết ở khu vực Châu Á này, cùng với việc tông đồ xã hội. Người của anh chị có tạp chí nào ở Châu Á không? Các ấn phẩm của Dòng Tên cũng là một việc tông đồ quan trọng.

Tôi muốn nhấn mạnh một điều: công việc của chúng ta là hội nhập văn hóa đức tin và truyền bá văn hóa. Hãy để văn hóa được truyền bá, hãy để đức tin được hội nhập văn hóa: đây là một nhận thức sâu sắc tuyệt vời của những người Dòng Tên đầu tiên. Hãy nghĩ đến những người Dòng Tên Trung Quốc, những người đã hiểu điều này ngay lập tức! Sau đó, ở Rome, họ đã bị gây gương mù; họ sợ hãi. Điều tệ nhất đã xảy ra với các khu định cư gọi là Reductions ở Mỹ Latinh, vốn đã bị đóng cửa vì một cách suy nghĩ đến từ trên cao, từ thẩm quyền, nhưng đó không phải là tinh thần của Chúa Giêsu. Cuối cùng, điều gì đã xảy ra? Các tu sĩ Dòng Tên đã bị chặt đầu.

Con rất vui vì Đức Thánh Cha muốn lắng nghe chúng con, và chúng con thậm chí còn vui hơn khi được lắng nghe Đức Thánh Cha. Con được cử đến làm việc trong Mạng lưới cầu nguyện hoàn cầu của Đức Giáo Hoàng. Con làm việc với những người trẻ tuổi và họ đã sản xuất truyện tranh mà họ muốn Đức Thánh Cha xem. Công việc này được gọi là "Tông đồ cầu nguyện" theo truyền thống được thực hiện với những người lớn tuổi, và bây giờ thay vào đó, nó cũng liên hệ với những người trẻ tuổi. Những người trẻ tuổi này rất tận tâm; tuy nhiên, khi đến lúc ai đó nghĩ đến việc gia nhập Dòng chúng con, rất khó để họ đưa ra quyết định.

Và tại sao?

Họ ngưỡng mộ chúng con, nhưng khi đến lúc gia nhập với chúng con, họ lại chờ đợi, họ trì hoãn….

Ơn gọi là như vậy. Mỗi người chúng ta đều có sự phản kháng với ơn gọi. Chúng ta phải giúp những người trẻ tuổi không chỉ suy nghĩ, mà còn cảm nhận và làm việc. Ví dụ, tôi biết về các giáo phận thành thị mà ở một số giáo xứ của họ có một công tác mục vụ ban đêm được gọi là "đêm liên đới". Ở những giáo xứ đó, những người trẻ nhiệt tình giúp đỡ người nghèo, cho họ ăn. Sau đó, họ có thời gian trưởng thành về đức tin của riêng mình. Không phải tất cả họ đều đi lễ vào Chúa Nhật hoặc là tín hữu, nhưng họ tiếp cận và trưởng thành bằng cách cam kết. Vào thời của tôi, công cuộc truyền giáo được thực hiện thông qua các hội nghị. Tuy nhiên, ngày nay, anh em phải chấp nhận những người trẻ như họ vốn có. Anh em phải đặt ra những thách thức về mặt xã hội, giáo dục mà họ cảm thấy và đồng hành với họ trong đức tin với sự dạn dĩ và thận trọng.

Về tông đồ cầu nguyện: nó không lỗi thời, không! Nó liên quan rất nhiều đến việc tôn thờ Thánh Tâm. Trong tháng tới, tôi sẽ công bố một lá thư về lòng sùng kính Thánh Tâm. Đây là một sứ mệnh đúng nghĩa của Dòng Tên: lòng sùng kính Thánh Tâm; đó thực sự là việc của riêng chúng ta.

Con là mục tử của Nhà thờ Thánh I-nha-xi-ô. Đây là câu hỏi đầu tiên: khi Đức Thánh Cha được bầu, con đã trả lời phỏng vấn trên TV và nói rằng thật không thể tưởng tượng được khi một tu sĩ Dòng Tên trở thành giáo hoàng.

Đôi khi bạn mắc sai lầm [Đức Giáo Hoàng vừa cười vừa nói].

Câu hỏi của con là, đâu là cây thánh giá lớn nhất mà ĐTC phải mang khi là một tu sĩ Dòng Tên trở thành giáo hoàng?

Làm giáo hoàng là một cây thánh giá giống như cây thánh giá của cha vậy. Tất cả anh em đều có cây thánh giá của riêng mình. Chúa đồng hành với anh em, an ủi anh em, ban cho anh em sức mạnh. Nhiều lần anh em phải cầu nguyện rất nhiều để có được ánh sáng cho các quyết định. Nhưng mọi người đều phải làm như vậy. Một điều rất đẹp là thấy Chúa nói với anh em qua người ta, nói với anh em qua những người có thể cầu nguyện tốt nhất, những người giản dị. Ngay cả cha xứ cũng có những cộng sự của mình, giáo hoàng cũng vậy. Và giáo hoàng phải lắng nghe rất nhiều. Sau đó, tôi cố gắng không đánh mất khiếu hài hước của mình. Điều này thực sự quan trọng. Khiếu hài hước là lành mạnh. Có thể tôi đang phóng đại, nhưng làm giáo hoàng không khó hơn hay khác biệt nhiều so với làm linh mục, nữ tu, giám mục. Nói tóm lại, điều đó có nghĩa là ở nơi Chúa đã đặt anh em, theo đuổi ơn gọi của anh em: không phải làt một việc đền tội.

Trong trường hợp của tôi, tôi đã đến mật nghị và làm các bài toán, và tôi nghĩ, "Giáo hoàng sẽ sớm được bầu và ngài sẽ không nhậm chức trong Tuần Thánh, khi đó sẽ là tuần tiếp theo." Đó là lý do tại sao tôi đặt vé khứ hồi vào thứ Bảy trước Chúa Nhật Lễ Lá, để tôi có thể đến giáo phận để cử hành. Tôi đã chuẩn bị sẵn các bài giảng cho Tuần Thánh. Do đó, tôi không mong đợi điều đó. Đó là cách bạn làm mọi việc; bạn tiến về phía trước, như Chúa muốn. Tôi đã đọc trong một cuốn sách của nhà báo Gerald O'Connell rằng khi tôi được bầu, một Hồng Y đã nói với một Hồng Y khác về tôi, "Đây sẽ là một thảm họa!" Chúa sẽ cho biết nếu tôi là một thảm họa!

Đức Thánh Cha bắt đầu nói về Cha Arrupe. Con đã làm việc hơn 25 năm với Dịch vụ tị nạn của Dòng Tên và hiện con đang làm việc ở phía bắc với những người tị nạn và cả với người Rohingya từ Myanmar. Con cũng đang làm việc cho Laudato Si' ở Mã Lai. Một thách thức lớn đối với con là mối liên hệ giữa đức tin và công lý. Con thấy nhiều tín hữu gắn bó với lòng sùng kính, nhưng khi đức tin được thể hiện trong công lý và sự quan tâm đến tạo vật, thì mọi người lại quay lưng. Con thấy khó nói về cách Tin Mừng nên được chuyển tải thành các việc làm, sự lựa chọn, cuộc sống hàng ngày, phục vụ nhân loại đau khổ và sáng thế. Đôi khi con cảm thấy nản lòng….

Một "vụ tai tiếng" lớn, có thể nói như vậy, trong Dòng là Sắc lệnh IV nổi tiếng của Tổng hội XXXII.[6] Tôi đã ở trong tổng hội đó. Đúng vậy, nó đã gây ra một vụ tai tiếng lớn trong một nhóm tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha đang cố gắng làm mất uy tín của Cha Arrupe vì đã phản bội sứ mệnh của Dòng. Tôi cũng nhớ rằng Cha Arrupe đã bị Văn phòng Quốc vụ khanh triệu hồi vì một số lo ngại về con đường mà Dòng đang đi. Và ngài luôn vâng lời. Đó là một thời điểm rất khó khăn. Tôi biết trực tiếp tình hình đó, bởi vì trong Tỉnh dòng Argentina, tôi có một tu sĩ Dòng Tên liên quan đến những người chống lại Tổng hội và Cha Arrupe. Họ là những nhóm rất hiếu chiến. Tôi đã gọi cho ngài. Ngài đã từng nói với tôi, “Ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi sẽ là khi tôi thấy Cha Arrupe bị treo cổ tại Quảng trường Thánh Phêrô.” Cha Arrupe đã chịu đựng điều này với lòng tha thứ và thương xót.

Khi Thánh Gioan Phaolô II bổ nhiệm Cha Paolo Dezza làm đại biểu giáo hoàng cho Dòng, người vẫn tại vị cho đến khi bầu ra Bề trên Tổng quyền mới, Cha Arrupe đã hôn tay ngài. Ngài là người của Chúa. Tôi đang làm mọi cách có thể để đưa ngài lên danh dự của các bàn thờ. Ngài thực sự là một người Dòng Tên mẫu mực: ngài không sợ hãi, ngài không bao giờ buôn chuyện về người khác, ngài làm việc cho sự hội nhập văn hóa của đức tin và truyền bá văn hóa. Một vài lần tôi đã lẻn ra nhà thờ Gesù để cầu nguyện, và tôi luôn đi ngang qua mộ của Cha Arrupe. Truyền bá văn hóa và hội nhập văn hóa của đức tin: đây là sứ mệnh cơ bản của Dòng.

Thưa Đức Thánh Cha, con là một linh mục giáo xứ ở Mã Lai. Con cảm thấy rằng chúng ta có nghĩa vụ phải cổ vũ bản sắc Dòng Tên của mình. Và điều này cũng dễ dàng đến với chúng con nhờ ĐTC, vì ĐTC công khai và thể hiện rõ ràng ý nghĩa của việc trở thành “người vì người khác”. Chúng con thu hút nhiều người trẻ, nhưng sau đó họ không tham gia Dòng, vì quá trình đào tạo rất dài và họ cảm thấy rằng chỉ những người rất thông minh mới có thể tham gia. Câu hỏi của con là, chúng ta thay đổi câu chuyện này cách nào? Chúng ta có nên tiếp tục duy trì các tiêu chuẩn cao và dành nhiều năm đào tạo hay có lẽ, chúng ta nên thay đổi?

Không bao giờ hạ thấp lý tưởng! Tất nhiên, anh em có thể sửa đổi cách chúng ta làm việc với những người trẻ tuổi, nhưng anh em không được hạ thấp lý tưởng. Những người trẻ tuổi luôn khao khát sự chân thực. Ví dụ, hôm nay, trước khi lên máy bay, tôi đã có một cuộc họp với những người trẻ tuổi từ Đông Timor. Tôi cảm thấy họ rất dũng cảm! Họ muốn cam kết và họ cần được đồng hành trong lý tưởng của mình. Sáng nay, tôi đã nói với những người trẻ tuổi rằng, “Hãy lên tiếng”. Điều thứ hai tôi nói là họ cần chăm sóc người già. Mối quan hệ trực tiếp giữa những người trẻ tuổi và người lớn tuổi này thực sự quan trọng đối với tôi. Làm việc với những người trẻ tuổi là điều phải được phát minh ra mỗi ngày. Nó đòi hỏi sự sáng tạo. Và đừng bao giờ nản lòng.

Một trong những kinh nghiệm con có được là các giám mục giáo phận không coi trọng ơn gọi tu trì. Họ coi chúng con như thể chúng con là thành viên của giáo sĩ giáo phận. Họ không có ý thức về đời sống tu trì như một đặc sủng được ban cho Giáo hội. Phải làm gì đây?

Tôi hiểu là cha nói đúng. Đây là vấn đề của toàn thể Giáo hội trên thế giới. Một vấn đề mà tôi liên hệ đến là việc phong chức giám mục cho một tu sĩ Dòng Tên. Chúng ta, những người Dòng Tên, phải nói "không". Nhưng nếu Đức Giáo Hoàng muốn, thì có lời khấn thứ tư và bạn phải nói "có". Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm của mình: Tôi đã nói "không" hai lần. Có lần tôi được yêu cầu làm giám mục tại khu vực có tàn tích của các phái bộ Dòng Tên cũ ở biên giới với Paraguay. Tôi trả lời rằng tôi muốn trở thành một linh mục chứ không phải là người bảo vệ tàn tích. Một lần khác, tôi ở Cordova, và Sứ thần đã gọi điện cho tôi và nói rằng ngài muốn nói chuyện với tôi. Tôi bị các bề trên cấm ra khỏi thành phố: đó là khoảng thời gian rất đau khổ đối với tôi. Vì vậy Sứ thần nói với tôi rằng ngài sẽ đến sân bay và gặp tôi ở đó. Ở đó, ngài nói với tôi: Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm cha làm giám mục, và đây là lá thư của Cha Tổng quyền cho phép điều đó. Vì vậy, mọi thứ đã được quyết định và giải quyết. Khi đó, Tổng quyền là Cha Kolvenbach, một người của Chúa. Chúng ta, những người Dòng Tên, phải tuân theo Giáo hội. Thánh I-nha-xi-ô đã viết ra các quy tắc để “suy nghĩ cùng Giáo hội”. Nếu Đức Giáo Hoàng cử cha đi truyền giáo, cha phải vâng lời. Nhưng liên quan đến chức giám mục, bước đầu tiên luôn là nói “không”.

Viễn kiến của Đức Thánh Cha về Giáo hội trong tương lai dưới góc độ công đồng là gì? Mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội trung ương là gì?

Thượng hội đồng mà chúng ta đang tiến hành là về tính đồng nghị đồng hành. Thượng hội đồng Giám mục ra đời từ một sáng kiến của Thánh Phaolô VI, bởi vì Giáo hội phương Tây đã mất đi chiều kích công đồng, trong khi Giáo hội phương Đông vẫn giữ được chiều kích này. Vào cuối Công đồng, Thánh Phaolô VI đã thành lập Văn Phòng Thượng Hội đồng Giám mục để tất cả các giám mục có thể có chiều kích đối thoại theo tinh thần đồng nghị. Năm 2001, tôi đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục. Tôi đã thu thập tài liệu và sắp xếp chúng. Thư ký của Thượng Hội đồng sẽ xem xét và yêu cầu loại bỏ mục này hoặc mục kia đã được các nhóm khác nhau chấp thuận bằng cách bỏ phiếu. Có những điều mà ngài cho là không phù hợp, và ngài sẽ nói với tôi, "Không, sẽ không bỏ phiếu về điều đó, không bỏ phiếu về điều này". Nói tóm lại, người ta không hiểu Thượng Hội đồng là gì.

Một vấn đề khác là có phải chỉ có giám mục hay cả linh mục, giáo dân hay phụ nữ cũng được bỏ phiếu. Trong Thượng Hội đồng này, đây là lần đầu tiên phụ nữ được bỏ phiếu. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa đã có sự phát triển để sống theo tinh thần đồng nghị này. Và đây là một ân sủng của Chúa, bởi vì tinh thần đồng nghị phải đạt được không chỉ ở bình diện Giáo hội hoàn vũ, mà còn ở các Giáo hội địa phương, trong các giáo xứ, trong các tổ chức giáo dục. Tính công đồng là giá trị của Giáo hội ở mọi bình diện. Đó là một hành trình rất tốt. Điều này liên quan đến một điều khác, khả năng phân định. Tính đồng nghị đồng hành là một ân sủng của Giáo hội. Đó không phải là dân chủ. Đó là một điều gì đó khác, và nó đòi hỏi sự phân định.

Thưa Cha, con có hai câu hỏi. Con là một giáo viên. Cha đã nói chúng ta phải mơ ước. Cha có giấc mơ gì cho chúng con ở Singapore? Sau đó, con muốn hỏi cha một câu hỏi khác, vì con không thể ngủ được đêm nay nếu không hỏi: khi nào Matteo Ricci sẽ được phong thánh?

Matteo Ricci là một nhân vật vĩ đại. Luôn có những vấn đề, nhưng án phong thánh đang tiến triển và tôi muốn nó tiến triển. Chúng ta phải cầu nguyện để có những điều kiện phù hợp cho việc phong thánh. Sau đó, tôi không biết giấc mơ của mình là gì! Tôi đang tiến bước. Ví dụ: được ở đây đối với tôi là một giấc mơ! Được lắng nghe Giáo hội ở đây để phục vụ Giáo hội tốt hơn, đây là một giấc mơ.

Nghĩ về Dòng, tôi mơ về sự đoàn kết, can đảm. Tôi thích sai lầm về phía lòng dũng cảm hơn là về phía an toàn. Nhưng người ta có thể nói, "Nếu chúng ta ở những nơi đấu tranh, trên biên giới, thì luôn có nguy cơ 'trượt'...." Và tôi trả lời, "Vậy thì trượt!" Những ai luôn sợ mắc lỗi không làm được gì trong cuộc sống. Hãy can đảm trong những tình huống khó khăn của công việc tông đồ! Can đảm, nhưng khiêm nhường với sự cởi mở hoàn toàn của lương tâm. Khi đó, cộng đồng, tỉnh dòng sẽ giúp bạn tiến về phía trước! Chúng ta có một ân sủng lớn trong việc xét mình. Người Dòng Tên nào giấu giếm mọi thứ với bề trên sẽ có kết cục tồi tệ.

"Nhưng tôi xấu hổ khi phải nói với bề trên về những lỗi lầm của mình", anh em có thể nói. Nhưng chúng ta, những bề trên cũng phạm lỗi; chúng ta là anh em. Bề trên cũng phải nói với bề trên của mình. Việc giải trình về lương tâm là một ân sủng lớn và cũng là một trách nhiệm lớn đối với bề trên. Người ta phải rất khiêm nhường để đồng hành với anh em trong cuộc sống của họ. Một số người nói rằng việc xét mình là trái với tự do. Không phải vậy. Bản tường trình về lương tâm là một viên ngọc quý: chúng ta thể hiện cuộc sống của mình như chúng vốn có trước Chúa, và bề trên, người nhận thức được những thiếu sót của chính mình, đồng hành cùng anh em. Đây là tình anh em của chúng ta.

Có lẽ lời lăng mạ xấu xí nhất mà chúng ta có thể nhận được là việc trở thành kẻ đạo đức giả. Anh em thậm chí có thể tìm thấy nó trong từ điển: "Jesuit" cũng có nghĩa là "kẻ đạo đức giả". Đó là một lời vu khống, bởi vì ơn gọi của chúng ta phải trái ngược với sự đạo đức giả. Trách nhiệm của lương tâm là một ân sủng của Hội. Hiểu không?

Bây giờ chúng con có hai điều dành cho Đức Thánh Cha: trước hết là một con rối của Thánh I-nha-xi-ô!

Anh em có biết rằng Thánh I-nha-xi-ô có khiếu hài hước không? Và ngài rất kiên nhẫn. Hãy nghĩ đến sự kiên nhẫn mà ngài phải có với Simão Rodrigues và tất cả những người khác….

Và rồi chúng con có hai gói lời cầu nguyện do các tín hữu trong giáo xứ Singapore viết. Chúng ở đây để Đức Thánh Cha chúc phúc cho chúng.

Đây là điều khiến tôi xúc động! Cảm ơn anh em! Anh em rao giảng về lời cầu nguyện!

Hai gói lời cầu nguyện đã được mang đến cho Đức Giáo Hoàng. Sau khi đặt tay lên chúng, ngài ban phép lành.

Cảm ơn vì những gì anh em đã làm. Tôi hứa rằng tôi sẽ cầu nguyện cho anh em có ơn gọi. Bây giờ chúng ta có thể cùng nhau cầu nguyện một kinh Kính Mừng và sau đó tôi sẽ ban phép lành cho anh em. Tôi sẽ tặng mỗi người một tràng hạt, đích thân chào anh em. Hãy cầu nguyện cho tôi! Cho, chứ không phải chống! Tôi kể cho anh em nghe điều này vì có lần, sau buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, tôi gặp một bà lão nhỏ bé có đôi mắt đẹp. Bà là một người phụ nữ khiêm nhường. Tôi đến gần bà, chào bà và nhìn vào đôi mắt đẹp của bà. Tôi hỏi bà, "Bà bao nhiêu tuổi?" Bà nói, "87." "Bà ăn gì để khỏe mạnh như vậy?" Và bà nói với tôi rằng bà làm món ravioli ngon. "Hãy cầu nguyện cho tôi!", tôi nói với bà. "Tôi làm như vậy mỗi ngày," bà trả lời. Và tôi hỏi bà, "Nhưng bà cầu nguyện cho hay chống lại?" Người phụ nữ nhìn tôi và chỉ vào Vatican và nói, "Họ cầu nguyện chống lại Đức Thánh Cha ở đó!"

____________________________

DOI: https://doi.org/10.32009/22072446.1024.9

[1]. Trong các cộng đồng Dòng Tên, "thừa tác viên" là phó bề trên.

[2]. IHS là chữ viết tắt của cụm từ Iesus Hominum Salvator [Giêsu Cứu Chúa của Nhân loại].

[3]. X. J. M. Bergoglio, Santi, non mondani. La grazia di Dio ci salva dalla corruzione interiore [Thánh nhân, không phải phàm nhân. Ân sủng của Thiên Chúa cứu chúng ta khỏi sa đọa nội bộ], Vatican City, Libreria Editrice Vaticana, 2023.

[4]. Ludwig von Pastor (1854-1928) là một nhà sử học và nhà ngoại giao người Đức, một người Áo nhập tịch. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là History of the Popes from the End of the Medieval Age [lịchh sử các vị giáo hoàng từ cuối thời trung cổ], được xuất bản thành 16 tập.

[5]. Cf. J. M. Bergoglio, Lettere della tribolazione [thư từ trong cảnh hoạn nạn], Milan, Àncora, 2019, 12.

[6]. Tựa đề của Sắc lệnh là “Sứ mệnh của chúng ta ngày nay: Phục vụ đức tin và thúc đẩy công lý.